S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tiếng Chim

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

07/08/2024

Đêm Giữa Ban Ngày (chương 40) trong đoạn viết về trại tù Phong Quang, nằm trong một lòng chảo sát biên giới Việt-Trung, có câu này: “Chỉ đêm đến mới nghe văng vẳng tiếng từ quy khắc khoải gọi nhau.”

  • “Từ Quy là giống gì vậy cà?” Tôi hỏi tác giả.
  • “Giời ạ! Cuốc đấy.” Vũ Thư Hiên cười thành tiếng. “Cũng có người gọi là Đỗ Quyên hay con chim quốc.” Ông vừa cười, vừa nhìn tôi với ánh mắt thân thiện và giễu cợt. “Là dân Việt, và tóc đã muối tiêu rồi mà chưa nghe tiếng nó bao giờ à?”
  • “Dạ, chưa!” Tôi ngượng nghịu đáp.

Mẩu đối thoại thượng dẫn tưởng chừng cứ như mới hôm qua (hay hôm kia gì đó) thôi hà. Ấy thế mà đã hơn hai chục năm rồi. Nay thì tóc tai chả còn chút tiêu nào ráo mà đã thành muối hết trơn hết trọi nhưng tôi vẫn chưa có dịp được nhìn thấy tận mắt, hoặc nghe tận tai tiếng kêu thương – “khắc khoải” – của loài từ quy một lần nào cả.

Buồn!

Nỗi buồn càng thấm thía khi tôi lại vừa biết thêm rằng cái viễn ảnh được tiếp cận với loài chim này (xem ra) mỗi lúc một xa, nếu chưa muốn nói là đã trở thành bất khả. Từ Việt Nam, nhà báo Thái Hạo có bài tường thuật (“Chim Quốc Không Còn Kêu Nữa”) vừa đọc được trên trang Tiếng Dân:

Đêm trong núi lạnh, ngồi nói chuyện với anh Hoàng Tuấn Công. Về những cánh rừng đã mất. Anh Công hỏi mình, ở đây giờ còn (chim) cuốc không. Mình nói còn, thi thoảng vẫn thấy chúng lủi nhanh qua những bờ bụi. Có nghe thấy tiếng chúng kêu không? Không.

– Ừ, cuốc giờ không còn kêu nữa.

Bỗng giật mình, đúng rồi, đã bao lâu mình không nghe tiếng cuốc dù vẫn thấy chúng đây đó nơi chân đồi đồng bãi… Chúng lủi đi và sống trong im lặng. Rừng đã hết, con người có mặt khắp nơi cùng súng và bẫy rập. Cuốc phải ngậm chặt miệng để giữ lấy sinh mạng, vì tiếng kêu là lời mời gọi tử thần. Đó là một bước “tiến hóa” oan nghiệt…

Chim cuốc còn đó mà tiếng cuốc đã chôn vào u tịch mang mang. Không có cái chết nào đáng sợ hơn thế, không sự hủy diệt nào thảm khốc hơn thế, khi một giống loài phải từ bỏ tiếng gọi đồng loại và tiếng gọi nhân tình của mình trong lau lách mù tăm.

Tình trạng “đáng sợ” và “thảm khốc” này không chỉ xẩy ra với riêng loài từ quy. Dân Việt cũng đang sống trong nín lặng, cũng đang “phải ngậm chặt miệng để giữ lấy sinh mạng” chả khác gì chim chóc. Với chế độ hiện hành thì tiếng nói của người dân, kể cả những tiếng kêu cứu hay kêu thương (thảm thiết) đều có thể bị suy diễn là “tuyên truyền chống nhà nước,” và đều phải chịu nhận những hình phạt  nặng nề.

Xin ghi lại đôi ba trường hợp:

Ngày 1 tháng 3 năm 2022, báo Thanh Niên đi tin: “Cơ quan An ninh điều tra Công an TP.HCM đã tiến hành bắt giam bị can Trần Văn Bang (61 tuổi, trú tại số 860/60X/27 Xô Viết Nghệ Tĩnh, P.25, Q.Bình Thạnh) để điều tra về hành vi tàng trữ, soạn thảo, đăng tải và tán phát trên mạng internet các bài viết có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn TP.”

Ngày 24/02/2022, VOA cho hay: “Một phiên tòa phúc thẩm ở Ninh Bình vừa y án ông Trần Quốc Khánh 6,5 năm tù và hai năm quản chế vì “tuyên truyền chống nhà nước”. Gia đình ông Khánh cho VOA biết rằng phiên tòa diễn ra mà không có mặt luật sư bào chữa, dù ông Khánh có yêu cầu luật sư.”

Ngày 19 tháng 02 năm 2022, báo Dân Trí, chạy tin: “Ông Nguyễn Hoài Nam (SN 1973, ngụ quận 12, TP.HCM, là nhà báo) vừa bị Viện KSND TP.HCM truy tố về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Điều 331 Bộ luật hình sự 2015 sau 10 tháng bị khởi tố, bắt tạm giam.

Trước đó không lâu, hôm 26 tháng 1 năm 2022, BBC ái ngại loan tin là hững thành viên của nhóm Báo Sạch cũng bị kết án bởi tội danh tương tự:

“TAND TP Cần Thơ tuyên giữ nguyên hình phạt 4 năm 6 tháng tù đối với bị cáo Trương Châu Hữu Danh về tội Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo khoản 2 Điều 331 Bộ luật Hình sự. Toà cũng tuyên y án 3 năm tù đối với bị cáo Đoàn Kiên Giang, Lê Thế Thắng; 2 năm tù đối với Nguyễn Phước Trung Bảo và Nguyễn Thanh Nhã về cùng tội danh.”

Tổ Chức Sáng Kiến Pháp Lý Việt Nam (cơ quan chủ quản của Luật Khoa Tạp Chí và The Vietnamese Magazine) đã lên tiếng “phải đối” việc “hình sự hóa các hoạt động của nhóm Báo Sạch” của nhà đương cuộc Hà Nội:

“Một người bị bịt miệng, một tờ báo hay một hãng truyền thông bị đóng cửa một cách tùy tiện là mối đe dọa chung cho toàn bộ xã hội. Với tư cách là một tổ chức phi lợi nhuận hoạt động trong lĩnh vực báo chí, chúng tôi phản đối các hành vi xâm phạm này và yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho các thành viên Báo Sạch, đồng thời đình chỉ tất cả các cáo buộc nhắm vào những công dân này.”

VOA cho biết:

Ông Hữu Danh được nhiều người biết đến với loạt bài viết trên Facebook về khối tài sản của Bí thư tỉnh uỷ Bình Dương, Trần Văn Nam, và hàng loạt video cùng các đăng tải trên mạng xã hội về nội dung phản ánh tiêu cựu, phản đối nhiều trạm thu phí BOT ở các tỉnh thành và TPHCM. Tuy nhiên, theo VnExpress, một số hành động của ông bị cho là vi phạm pháp luật. Nhưng công an chưa công bố hành vi cụ thể về việc “vi phạm pháp luật” của nhà báo này. Cơ quan điều tra cáo buộc nhà báo này đã “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,” một điều luật thường được chính quyền dùng để bắt các nhà báo và những người bất đồng chính kiến vì những đăng tải của họ.

Bản tin này cũng ghi nhận ý kiến của nhiều vị thức giả khác:

  • Bùi Thanh Hiếu: “Nhóm ‘Báo Sạch’ từng viết bài vạch rõ những sai phạm của nhà máy nước sông Đuống mà sau đó truyền thông chính thống đưa tin rằng công an đã vào cuộc điều tra nguyên nhân vụ việc.”
  • Lê Nguyễn Hương Trà: “Các thành viên của nhóm bao gồm các nhà báo và trang Báo sạch đã “gây nhiều tiếng vang, nhanh chóng đạt được lượng theo dõi khủng.”
  • Bùi Sơn: “Không rõ là họ vi phạm cái gì và cụ thể là vì sao họ bị bắt nhưng đây là các cựu nhà báo rất được lòng người đọc vì họ đã dũng cảm viết những bài báo đấu tranh cũng như vạch trần những sai phạm của các quan chức tham nhũng ở Việt Nam.”

Sự thực, ông Trần Văn Bang, Trần Quốc Khánh, Nguyễn Hoài Nam và Nhóm Báo Sạch chả “vi phạm cái gì và cụ thể” cả. Họ vào tù chỉ vì tin lời của ông Nguyễn Phú Trọng (“tham nhũng không có vùng cấm”) thôi, theo nhận xét của blogger Gió Bẩc.

Chế độ toàn trị hiện hành ở Việt Nam không chấp nhận chuyện bị “vạch trần” bất cứ tệ trạng nào, và sẵn sàng xử dụng mọi biện pháp thô bạo để “rọ mõm” thiên hạ. Hẳn nhiều người còn nhớ hình ảnh L.M Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng, Lê Mỹ Hạnh, Trần Thị Nga, Phạm Đoan Trang … bị hành hung đến độ thương tật chỉ vì tiếng nói bất đồng của họ.

Khi mà chim chóc đã nín bặt giữa một môi trường thiên nhiên đầy rẫy những cạm bẫy, và khi mà con người không còn dám lên tiếng vì sự đe dọa thường trực của một xã hội độc đoán/bất an thì tương lai đất nước sẽ ra sao là điều ai cũng có thể tiên đoán được.


 

Lê Đình Công & Lê Đình Chức-Tưởng Năng Tiến/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

August 3, 2024

Tưởng Năng Tiến/SGN

Hồi đầu thế kỷ, có bữa, tôi nhận được thư của Vũ Thư Hiên. Ông hớn hở cho hay “Anh Tấn sắp sang Pháp chơi với anh vài tuần.” Thuở ấy, hai ông còn khá trẻ trung (và còn sung lắm) nên chắc chắn là đôi bạn già sẽ đi lung tung khắp Âu châu, chứ dễ gì mà chịu quanh quẩn ở Paris.

Mãi cả chục năm sau, sau khi nhà văn Bùi Ngọc Tấn lâm trọng bệnh, tôi mới nghe ông nhắc đến chuyến du hành thú vị này (với ít nhiều tiếc nuối) trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC – vào hôm 14 Tháng Mười Một năm 2014: “Sang châu Âu, tôi quan sát dáng người đi, nét mặt của họ khác dân mình lắm … Đi thì mới biết mình bị mất những gì.”

Giờ ạ! Tưởng gì? Chứ nếu “đi mới biết mình bị mất những gì” thì cần chi phải qua đến tận Âu châu làm chi (cha nội!) chỉ cần xẹt qua Cambodia cũng đủ “biết” là “họ khác dân mình lắm,” và khác “toàn tập” luôn.

“Trên đường phố mù bụi đỏ, những tủ đổi tiền, cỡ bằng tủ thuốc lá của ta, vẫn hoạt động bình thường, thong thả với hàng cọc tiền đủ từ mọi quốc gia chứa bên trong. Tiền bày ra đường, an nhiên, tự tại như vậy, ắt hẳn nạn trộm cướp ở đây không hề là nỗi ám ảnh thường xuyên của những ngân hàng đường phố kiểu này.

Dừng chân hỏi đường với một anh xe ôm đen sạm, phong sương bên đường bằng một thứ tiếng Miên bồi, tôi đã không khỏi ngạc nhiên và cảm động khi câu trả lời chỉ được thốt ra sau khi giở nón. Rõ ràng, người xe ôm này thuộc về một nền văn hóa lớn, mà những con người của nó đã học cách sống lễ độ và văn minh một cách rất tự nhiên.” (Lê Đình Phương. “Về Một Nền Du Lịch Lễ Độ.” Lang Thang Như Gió. Phụ Nữ: 2013).

Cho đến nay số người Việt có cơ hội “lang thang như gió” vẫn chưa nhiều nhặn gì cho lắm nên ít kẻ có cơ hội để so sánh, và nhận thức được về sự thua thiệt hay “mất mát” của mình. Phần lớn vẫn chấp nhận chuyện bị giựt đồ, bị thu phí thu thuế vô tội vạ, bị công an giao thông trấn lột, bị bắt đi bầu, bị công an phường mời lên làm việc (bất kể ngày giờ)… chỉ là những chuyện xui thôi. Cũng không mấy ai phiền hà chi, khi hỏi đường thì bị đòi tiền công (“10K”) chỉ dẫn.

Cho đến khi “đụng” phải sự mập mờ, lập lờ, gian giảo, lật lọng, tráo trở (trắng trợn) của Bộ Luật Đất Đai Thuộc Sở Hữu Toàn Dân thì “toàn dân” mới thực sự biết thế nào là “mất mát,” và mới có những phản ứng thích đáng, sau khi “bừng con mắt dậy thấy mình trắng tay.” Cái giá mà dân Việt phải trả cho sự phản kháng quyết liệt của họ, tất nhiên, không rẻ. Không ít người, Kinh cũng như Thượng, vẫn đang (hoặc đã) lãnh án tù.

(Hình: tác giả cung cấp)

Sự việc nổi cộm nhất liên quan đến chuyện tranh chấp đất đai, giữa Đảng và Dân, được mệnh danh là Vụ Án Đồng Tâm. Từ California, ký giả Nguyễn Tuyển (nhật báo Người Việt) tóm lược như sau:

Vào sáng sớm 9 Tháng Giêng, 2020, nhà cầm quyền CSVN đưa một lực lượng hùng hậu gồm một trung đoàn cảnh sát cơ động cùng các lực lượng công an khác tấn công xã Đồng Tâm. Dân làng cương quyết chống đối lại việc tịch thu khu đất thường được gọi là “cánh đồng Sênh” mà dân làng canh tác hàng chục năm. Họ có các văn kiện địa bạ chứng minh quyền sở hữu, canh tác trong khi nhà cầm quyền lấy cớ đó là đất “quốc phòng” nên đòi lại.

Các vụ tranh cãi, kiện tụng và cưỡng chế hụt cũng như chống cưỡng chế đất tại xã Đồng Tâm kéo dài suốt nhiều năm. Trước khi xảy ra vụ tấn công đầu năm ngoái, vào Tháng Tư, 2017, dư luận trong ngoài nước rúng động khi dân làng đã bắt giữ gần 40 cảnh sát cơ động, công an, viên chức huyện Mỹ Đức. Những người vừa kể chỉ được thả một tuần sau khi nhà cầm quyền cam kết giải quyết thỏa đáng, căn cứ theo đúng luật đất đai và quyền lợi của người dân.

Nhưng sau đó, nhà cầm quyền CSVN trở mặt, vẫn lập luận là dân địa phương chiếm cứ bất hợp pháp, đòi trả đất nhưng không lấy được, dẫn tới đàn áp.

Từ phiên xử sơ thẩm đến phúc thẩm, các nhân chứng quan trọng có mặt khi xảy ra vụ việc như bà vợ ông Kình, con dâu, cháu dâu cùng nhiều dân làng khác đã có lời yêu cầu triệu tập ra tòa làm chứng. Không những không cho triệu tập mà còn bị ngăn chặn từ xa, không cho đến gần tòa án.

Trước phiên xử phúc thẩm, các luật sư biện hộ đã gửi một đơn kiến nghị, yêu cầu thực nghiệm lại hiện trường để xem những cáo buộc qua lời khai của công an có đúng hay trái với sự thật. Tuy nhiên, họ đã bị tảng lờ. Nói chung, phiên tòa xử mang tính áp đặt, bất chấp luật lệ tố tụng hình sự của chính họ đặt ra…

Phiên tòa phúc thẩm tại Hà Nội chiều Thứ Ba, 9 Tháng Ba, với kết quả không làm mấy ai ngạc nhiên khi chủ tọa phiên xử phúc thẩm đọc bản án y án tử hình với hai anh em ông Lê Đình Công, Lê Đình Chức. Hai ông là con ông Lê Đình Kình, người bị công an CSVN giết chết khi xông vào nhà ông vào sáng sớm 9 Tháng Giêng, 2020. Con trai ông Công là Lê Đình Doanh bị y án chung thân…

Vào thời điểm trên tuy ông Tô Lâm đang giữ chức Bộ Trưởng Công An (lực lượng đã tấn công vào xã Đồng Tâm và hạ sát ông Lê Đình Kình) nhưng T.B.T kiêm C.T.N Nguyễn Phú Trọng mới là kẻ “chịu trách nhiệm trực tiếp và cao nhất trong vụ án kinh hoàng” này. Ông qua đời vào ngày 19 Tháng Bảy vừa qua (hoặc trước đó vài hôm) và để lại không ít eo sèo, cùng rất nhiều điều tiếng.

Bên cạnh những mỹ từ cố hữu (anh minh, đạo đức, vỹ đại, giản dị, liêm chính, hết lòng vì dân vì nước…) của mọi cơ quan truyền thông quốc doanh – đây đó – trên những trang Thông Tấn Xã Vỉa Hè là vô số những lời chỉ trích, phê bình, chê bai, chửi rủa, mạt sát: lạc hậu, bảo thủ, giáo điều, hèn nhát, tham quyền cố vị …

Giữa hai thái cực này là thái độ và ngôn từ trung dung, dễ được công luận tán đồng: hãy để lịch sử phán xét, nghĩa tử là nghĩa tận …

Ơ hay! Hai ông Lê Đình Công và Lê Đình Chức đã “tử” đâu (mà “tận” được) cả hai vẫn còn đang vật vờ – sống dở/chết dở – với hai bản án tử hình lơ lửng trong tù mà, đúng không?

(Hình: tác giả cung cấp)

Vào những giây phút cuối đời (khi vẫn còn thoi thóp thở) nếu Nguyễn Phú Trọng chợt nhận thức ra được việc làm tàn ác/bất nhân/thất đức của mình – chắc chắn – ông đã ký lệnh miễn tử cho Lê Đình Công và Lê Đình Chức. Thế là làm giảm nhẹ được phần nào tội nghiệt của mình, và cũng xóa luôn được cái bản án “tru di” một vết nhơ không nhỏ của loài người ở thế kỷ này.

Nguyễn Phú Trọng, tiếc thay, đã không “ngộ” ra được điều chi cho đến khi nhắm mắt/xuôi tay. Ông xứng đáng bị thế nhân nguyền rủa mà khỏi cần chờ đến thời gian hay lịch sử gì sất cả!

Nay thì mạng sống hai lương dân vô tội này đang trong tay của ông Tô Lâm. Nếu còn nhất điểm lương tâm – ông tân chủ tịch nước – cũng nên ký lệnh “ân xá” (và phóng thích tất cả những người dân Đồng Tâm đang bị cầm tù) dù hy vọng như thế thật rất mong manh. Người còn chút nhân tính đâu ai nhẫn tâm để “đớp” một miếng thịt bò dát vàng (trị giá “tương đương với tám tấn lúa khô”) trong khi suy dinh dưỡng vẫn là vấn nạn lớn đối với rất nhiều trẻ thơ, ở đất nước mình.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chùa xưa người cũ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

28/07/2022

Tôi không có duyên lắm với những người phụ nữ cầm bút, đặc biệt là những cô hay những bà làm thơ, kể cả Bà Huyện Thanh Quan. Vấn đề hoàn toàn chả phải vì lý do cá nhân, hay tư riêng gì ráo. Điều không may chỉ vì tôi gặp nữ sỹ hơi quá sớm, thế thôi!

Thuở ấy, thuở mười ba mười bốn, tôi mới bước chân vào trung học mà đã giáp mặt với nàng thơ rồi. Có hôm, tôi vừa hối hả rời sân bóng đá (chạy vào phòng học) mồ hôi chưa kịp ráo lưng, đã nghe vị thầy phụ trách môn Việt Văn trầm giọng đọc bài Thăng Long Hoài Cổ :

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn 
trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương…

Tôi vừa cắm cúi ghi chép, vừa khuých tay thằng ngồi cạnh :

– Cuộc hý trường là cuộc gì vậy cà?
– Không biết.
– Thăng Long ở đâu?
– Không biết luôn.

Thằng bạn chung bàn của những ngày xưa thân ái đã xa xôi và phôi pha ấy (nay) chả hiểu đã lưu lạc phương nào, sống chết ra sao? Còn tôi, sau cái cuộc hý trường (1975) thì lâm vào cảnh đời tha phương cầu thực và tha hương cho mãi đến bây giờ. Chiều qua, ở một góc trời xa, tôi tình cờ đọc lại một truyện ngắn (“Mái Chùa Xưa”) của Võ Hồng và mới chợt hiểu (thấm thía) thế nào là nỗi niềm hoài cổ :

Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm…, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm.

Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò… Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.

Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp…

Trải qua cuộc chiến giằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau, hiên trước.

Cuối cùng “cuộc chiến giằng co” rồi cũng đến lúc kết thúc, hoà bình được tái lập. Chùa chiền nhiều nơi được trùng tu với qui mô lớn, đạt kỷ lục thế giới bởi những quần thể tu viện mênh mông và những pho tượng phật khổng lồ. Đây đều là những công trình tập thể, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều thành phần xã hội – theo nhận xét của T.S. Nguyễn Xuân Diện :

“Để tạo thành được những Chùa Bái Đính, Chùa Ba Vàng, Chùa Tam Chúc, Chùa Yên Tử như hiện nay, phải hội đủ ba mặt: Chức sắc Phật giáo + Chính quyền huyện đến tỉnh sở tại + Đại gia. Thiếu một trong ba thì không thể nào vẽ ra được các khu kinh doanh như vậy.”

Sau khi đã “vẽ” xong “các khu kinh doanh như vậy” thì vấn đề kế tiếp là điều hành, quản lý. Đây là giai đoạn cần sự “can thiệp” của Chính Quyền Trung Ương và Bộ Nội Vụ, với những ban ngành “có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”

Phương thức tổ chức này được nhập khẩu (nguyên con) từ nước bạn Trung Hoa Vỹ Đại :

“Tất cả các nhóm tôn giáo dựa trên đức tin ở Trung Quốc, bao gồm 41 viện nghiên cứu Phật giáo trên toàn quốc, đều được Ban Tôn giáo Chính phủ [State Administration of Religious Affairs] giám sát.” (“The decline and fall of Chinese Buddhism: how modern politics and fast money corrupted an ancient religion.” South China Morning Post, Sep. 21, 2018 translated by Hoàng Kim Bảo).

Chỉ có điều hơi khác là ta “can thiệp” rất vụng về và “giám sát” quá sống sượng nên đã gây rất nhiều điều tiếng :

Từ Thức: “Qua cửa BOT của chùa VN ngày nay, người ta bước vào thế giới ma quái của oan hồn, của ‘vong’ ngất nghểu, ra rả đòi tiền như nặc nô đòi nợ.”

Nguyễn Văn Tuấn: “Thuở đời nay nhà sư đã xuất gia mà ăn thịt chó, uống tiết canh, hút thuốc lào, uống rượu Tây, say xỉn bí tỉ. Đó không phải là nhà sư nữa (chưa nói đến bậc chân tu), mà là dân ‘giang hồ’ rồi.”

Đặng Văn Sinh: “Có những hòa thượng vốn là nhân viên công lực hàm cấp cao tót vời, khoác áo cà sa trụ trì ở những chùa lớn theo dõi nhất cử nhất động của giới tăng ni phật tử.”

Mạnh Kim : “Những gì đang diễn ra khiến diện mạo Phật giáo ngày càng bi thảm là kết quả của chính sách ‘nhuộm đỏ’ Phật giáo, trong lớp áo ‘Đạo pháp và Dân tộc’ ra đời từ đầu thập niên 1980.”

Vương Trí Nhàn: “Ngày Phật đản… Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.”

Những vị sư “có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng nào đó” – đôi lúc – vẫn tưởng rằng mình đang ở giữa mặt trận nên đã phát biểu như một chiến sĩ (thực thụ) khiến công luận không khỏi bàng hoàng: “Chúng ta phải quyết tâm xây dựng quân đội nước ta mạnh như là quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Ảnh: vietnamnet

Bây giờ thì còn tìm đâu ra một ngôi chùa nhỏ bé, nghèo nàn nhưng thân thiết như chùa Châu Lâm trong ký ức tuổi thơ của Võ Hồng :

“Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm… Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mời thầy tụng kinh cầu an.

Mười năm một lần, ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới. Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi và cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.”

Những vị tu sĩ “mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ, mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy” cũng đều đã biệt tăm/biệt tích. Những người muôn năm cũHồn bây giờ ở đâu?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Điều rất may của bên bại cuộc

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tôi bỏ ra nhiều thập niên để nghiên cứu về Vũ Trụ Học, Thiên Văn Học, Đại Dương Học, Địa Chất Học, và Nhân Chủng Học. Sau khi đã hoàn toàn thông thiên văn/ đạt địa lý, và hiểu thấu (hết trơn hết trọi) mọi lẽ cơ trời huyền diệu – cuối đời – thấy mình vẫn còn rảnh rỗi quá xá nên bèn tìm hiểu thêm (chút đỉnh) về tiểu sử của những vị lãnh tụ được sùng bái (nhất) trong khối cộng : Stalin, Lenin, Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, Hồ Chí Minh.

Cả năm đều có một điểm này chung : khi họ chuyển qua từ trần thì dân chúng đều khóc lóc quá trời, quá đất – đến nỗi có nơi bị lụt lội, thiệt hại đến mùa màng vì dư… nước mắt!

Họ còn có một điểm chung nữa : không ai mang dép khi tiếp xúc với quần chúng, trừ ông Hồ Chí Minh. Cuộc đời của nhân vật huyền thoại này gắn liền với đôi dép như hình với bóng, ông lê la dép khắp mọi nơi – kể cả khi đi công du ở nước ngoài :

“Khi Bác tới thăm 1 ngôi đền lớn và cổ kính của Ấn Độ thì có một chuyện lạ xảy ra. Lúc Bác bước vào trong đền, để lại đôi dép bên ngoài thì bất ngờ có hàng trăm phóng viên báo chí, nhiếp ảnh, quay phim ập đến vây kín đôi dép cao su của Bác.

Họ như phục sẵn từ rất lâu rồi, một số phóng viên còn cúi xuống dùng tay sờ, nắn đôi dép tỏ vẻ lạ lùng và trịnh trọng. Sau đó họ vội vàng ghi chép lại những gì mình vừa thấy. Từ những góc độ, cự ly khác nhau, các phóng viên thi nhau bấm máy, họ chen nhau để có được những vị trí thuận lợi.

Rồi tiếp theo đó là cảnh đám đông dân chúng kéo đến từ các ngả, ùa vào để được ngắm nghía đôi dép. Đó chỉ là một cảnh tượng tự hào và cảm động mà bạn bè quốc tế đã dành cho đôi dép của Bác trong rất nhiều nơi Bác tới thăm.” (“Trăm phóng viên nước ngoài vây kín đôi dép của Bác” – Tin Ngắn, 19/05/2013).

Cảnh tượng “tự hào và cảm động mà bạn bè quốc tế đã dành cho đôi dép của Bác” ở New Delhi, thực ra, chả là cái (đinh) gì nếu so với lòng sùng kính của đồng bào trong nước – nhất là đối với những người ở vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng :

“Không dối lòng đâu, mỗi lần đi “dép Bác Hồ” là thấy bụng không nghĩ điều trái, chân không đi hai đường. Chẳng riêng mình, cả làng này ai cũng vậy. Chiến tranh khỏi nói, hòa bình rồi có biết bao chuyện khó… Bông Rẫy hồi chiến tranh chỉ có 50 hộ, bây giờ đã lớn lên gần 120 hộ mà không còn ai đói, chỉ còn 10 hộ nghèo. Ai cũng có xe máy, hơn một nửa đã làm được nhà xây. Không ai nghe lời kẻ xấu vượt biên trái phép… Không nhờ phép lạ “dép Bác Hồ” sao được thế? Có “dép Bác Hồ” là thắng tất! Đinh Ngút cất lên một tràng cười sảng khoái. Ông nâng niu đôi dép mòn vẹt trên tay … (Lê Quang Hồi. “Làng Bông Rẫy Mang Dép Bác Hồ.” Quân đội Nhân dân 1-6-2009).

Đôi dép lốp của Bác, rõ ràng, không chỉ đã đi vào trái tim toàn thể nhân loại mà còn đi vào vũ trụ và (sẵn trớn) đi luôn vào lịch sử văn học nghệ thuật, và danh nhân của dân tộc Việt:

“Dép Bác, đôi dép cao su
Bác đi từ ở chiến khu Bác về
Phố phường trận địa
Nhà máy đồng quê
Đều in dấu dép Bác về, Bác ơi…

Bác Hồ là biểu trưng của tất cả những gì dung dị, mang một bản sắc dân tộc Việt Nam nhuần nhị, sâu xa nhất. Ngay cả quần áo, đồ dùng tiện nghi của Bác cũng đơn sơ, mộc mạc trong đó đôi dép của Bác trở thành một hình tượng thân quen, thắm thiết đối với chúng ta…” (Trung Đức. “Đôi Dép Bác Hồ Đôi Dép Cao Su.” vietnamngayve 23-03-2013).

Hai chữ “chúng ta” trong câu văn thượng dẫn, tiếc thay, không bao gồm cái đám dân miền Nam – nơi vùng địch tạm chiếm. Ở đây, trong suốt chiều dài của cuộc chiến vừa qua không ai được mang dép như Bác, và người dân cũng thiếu vắng hình ảnh của lãnh tụ kính yêu (cỡ Bác) để tôn thờ.

Và có lẽ vì thế nên có người đã sinh ra lòng đố kỵ, ganh tị, rồi thốt ra những lời lẽ xúc phạm đến Bác một cách rất nặng nề : “Nhưng người Hà Nội đến lạ! Họ biết Xã Hội Chủ Nghĩa là cái bánh vẽ cực kỳ thối tha mà cứ hớn hở ngồi vào lột lá bóc ăn và xơn xớt khen ngon khen ngọt đến nỗi người ngoài nhìn vào phát thèm. Họ biết Hồ Chí Minh gian manh xảo trá mà cứ ngoác miệng ngợi ca lúc ông ta còn sống và khóc khô nước mắt khi ông chết.” (Vũ Biện Điền. Phiên Bản Tình Yêu, Volume II. Fall Church,Virginia: Tiếng Quê Hương, 2012).

Nói thư thế là “vơ đũa cả nắm.” Ở đâu mà không có kẻ này, kẻ nọ. Ở Hà Nội, cũng có người ngắm đôi dép bác Hồ với đôi mắt ráo hoảnh :

“Một lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường còn lại những vũng nước lớn. Ðến một đoạn đường lầy lội ông tụt dép, cúi xuống xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị ngập. Tôi chợt hiểu : ông không đi men vệ đường bởi vì ông muốn chưng đôi dép.” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày, 2nd ed. Fall Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2008).

Ồ thì ra Bác dùng dép để chưng! Thảo nào mà đôi dép râu đã được toàn ban Tuyên Giáo Trung Ương cầy cục, bằng mọi cách, để đặt nó lên…bàn thờ tổ quốc cho bằng được mới thôi! Và thế mới biết là cái khái niệm “chính chủ” của (nguyên) Bộ trưởng Đinh La Thăng không phải là hoàn toàn vô lý hay vô cớ.

Cùng là đôi dép cao su, sản xuất hàng loạt, nhìn thô kệch y hệt như nhau mà Bác thì sử dụng nó như là vật trang sức cho cuộc đời hoạt động chính trị của mình, và cũng phần nào nhờ nó mà sự nghiệp cách mạng của Bác có lúc đã lên đến “đỉnh cao chói lọi”, còn đám thường dân (dấm dớ) mà buộc phải xỏ chân vào là đời kể như khốn nạn – nếu không bỏ mạng thì cũng bỏ mẹ như chơi.

Hình ảnh này nếu dùng để minh hoạ cho bài thơ “Vay Tuổi” của Phùng Cung là (kể như) hết xẩy:

Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Đèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh – Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghĩa trang mồ giả, nắm xương không mồ…

Dù cũng sinh ra trong thời chinh chiến nhưng vì sống bên này vỹ tuyến nên tôi may mắn hơn những người cùng tuổi với mình. Trong khi họ chân đi dép râu, vai đeo ba lô, tay ôm súng đạn vượt Trường Sơn thì tôi vẫn được ngồi yên lành ở trường trung học công lập Trần Hưng Đạo – Đà Lạt.

Dù vậy, rất ít khi tôi chịu ngồi yên trong lớp. Một tuần, ít nhất cũng có đến hai ba hôm tôi bỏ học. Tôi ra ngồi cà phê Tùng (Đà Lạt) để tập uống cà phê đen, hút thuốc lá Basto Xanh, nghe nhạc Beatles hay đọc Im Lặng Hố Thẳm và Hố Thẳm Tư Tưởng của Phạm Công Thịện – nếu vào buổi sáng.

Chiều, tôi đi lang thang quanh đồi Cù rồi ngồi dựa gốc thông hát nhạc vàng (Thu Vàng, Chiều Vàng) nho nhỏ chỉ đủ chính mình nghe :

Chiều hôm qua lang thang trên đường
Hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn hương
chiều hôm qua mình tôi bâng khuâng
Có mùa Thu về, tơ vàng vương vương

Trên đồi xanh chiều đã xuống dần
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng.
Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời
Lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn

Mãi cho đến sau Mùa Hè Đỏ Lửa, khi đã hai mươi tuổi, tôi mới nhận được giấy mời của Nha Động Viên đi trình diện nhập ngũ “để sát cánh cùng quân dân cán chính chống cộng sản xâm lược.”

– Úy Trời, cộng sản xâm lược hồi nào vậy cà?

– Sao hồi giờ không nghe ai nói gì hết trơn hết trọi về cái vụ này há?

– Mà họ xâm lược làm chi mới được chớ? Why and for what?

Đến khi tôi tìm ra được giải đáp cho những câu hỏi trên thì mọi sự đã trở nên quá muộn, tôi đã trở thành một kẻ thuộc bên thua cuộc. Dù sao (nói có thánh thần làm chứng) tôi vẫn cảm ơn Trời là đã may mắn không sinh ra và lớn lên… ở Bên Thắng Cuộc, cái bên mà vô số thiếu niên hay thiếu nữ phải đi dép râu để cùng với Bác hành quân rồi trở thành “những đoá hoa bất tử nơi ngã ba Đồng Lộc” hay tù binh trên đường Trường Sơn. Hiếm họa mới có người vào đến được Sài Gòn để rồi trở về với con búp bê, hay cái khung xe đạp trên vai!

Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh. Bên nào thắng thì nhân dân cũng bại. Nhưng ở bên bại cuộc (chắc) đỡ bại hơn, chút xíu!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Xe lôi, xe kéo & xe ôm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

30/07/2024

Từ Rạch Giá, nhà văn Thận Nhiên đã gửi đến độc giả xa gần tấm hình của người đàn ông gầy gò/đen đủi, ngồi trên chiếc xe lôi (trong một con phố nào đó) ở thị xã này. Bức ảnh tuy chỉ đơn sơ và giản dị thế thôi nhưng vẫn khiến tôi không khỏi ngậm ngùi tự hỏi, theo thói quen nghề nghiệp:

  • Xe của thằng chả hay là xe thuê vậy ta?

Dù đều phải “nhọc nhằn cam chịu mưu sinh” nhưng dân chạy mướn phải đổ mồ hôi gấp đôi mới đủ ăn vì tiền thuê xe khá bộn. Tuy thế, đây vẫn chưa phải là đám cùng đinh mạt hạng. Ít nhất thì họ cũng còn có đủ “uy tín” và “tư cách” để thuê được một cái xe.

Tôi thì không!

Không tiền, không nhà, không một tờ giấy lận lưng, cũng không quen biết bất cứ một ai ở Rạch Giá – ngoài ông chủ ghe tổ chức vượt biên nhưng thằng chả đã bị công an bắt mất tiêu rồi.

Lạnh và đói nên giấc khuya tôi hay la cà trước rạp hát Châu Văn ở trung tâm thành phố. Nơi đây, ngoài mấy cái xe hủ tíu/mì của người Tầu, còn có hơn chục cái bàn ăn thấp lè tè chuyên bán rượu đế (tôm khô, củ kiệu, cải chua, hột vịt bắc thảo, hột vịt muối …) và cháo trắng cho đám dân nghèo mà phần lớn đều là phu xe cả!

Tôi chưa lần nào dám xin xỏ gì ai (và cũng chả bao giờ giành giật chi với đám trẻ bụi đời còi cọc) chỉ lặng lẽ đi loanh quanh nhặt những mẩu thuốc lá hay thu vét chút thực phẩm thừa cho vào một cái lon gô, rồi tìm một góc khuất ngồi ăn.

Đôi lúc, tôi cũng được mời một ly rượu nhỏ, hay một chén cháo khuya, từ quí vị thực khách hảo tâm và hào sảng. Thảng hoặc, cũng có một hai tay chạy thuê may mắn (kiếm đủ sở hụi sớm hơn mong đợi) nên họ có thể yên tâm ngồi nhậu lai rai và cho tôi được mượn tạm cái xe – đạp lòng vòng – kiếm khách.

Tôi vợ con không có (mèo chó cũng không) và lại rất hảo rượu nên kiếm được đồng nào cũng đều bỏ hết vào bàn nhậu để chung vui với mọi người. Ai cũng vui như Tết nên dần dà tôi được dân xe lôi ở Rạch Giá “chấp nhận” như là một thành viên chính thức, và rồi cũng thuê được một cái xe, như nhiều người khác.

Từ đó, tôi sống khỏe! Ngày nào cũng cơm no, xui lắm mới có hôm chỉ chạy đủ tiền thuê xe và đành phải nhai khoai nướng hay chuối nướng (chan nước dừa) cho qua bữa. Đêm lại càng khoẻ nữa. Từ đây, khỏi còn lo chuyện bắt bớ lôi thôi như trước.

Thỉnh thoảng, bạn đồng nghiệp trúng mánh (chắc mới chở dầu cho ghe vượt biên) còn lôi dậy rủ nhậu vài ly nữa chớ. Sau khi uống “sương sương” chừng nửa chai, có người còn rủ rê về chơi (cho biết nhà biết cửa) dù giữa đêm khuya khoắt.

Tôi chả hề phân biệt (hay kỳ thị) ngày/đêm gì sất nên gật đầu là cái chắc. Thực sự, tôi không cần chỗ ngủ nhưng cần được xối vài gáo nước cho sạch sẽ và mát mẻ. Tắm rửa là một trong những nhu cầu cấp thiết nhưng rất khó thực hiện khi lâm vào cảnh … không nhà!

Nói chung là tôi OK. Không có gì để phàn nàn cả, nếu so với cuộc sống nhếch nhác của đám phu kéo xe thời trước :

“Ở Hà Nội có tới ngàn rưỡi người chỉ vì bát gạo mà làm cái nghề kéo người. Bất cứ trời rét hay trời nóng, đang mưa như trút nước hay đang nắng như hun trời, đút đầu qua hai cái càng gỗ, anh em phu xe phải thúc tay co vó, chạy bở hơi tai, mình mẩy nhễ nhại mồ hôi, áo quần ướt như dúng nước. Họ khó nhọc như thế để kiếm cái gì! – Năm ba xu, một hào, một cuốc. Vừa đúng số tiền để mua ít cơm đút miệng, cái thứ cơm thổi bằng gạo hẩm trộn với ít nước hàng. Ăn để mà sống, ta không cần nói đến cái ăn! Nhưng sống nào đã được yên?” (Tam Lang. Tôi Kéo Xe. Mai Lĩnh, Hà Nội: 1935).

Đạp xe lôi cũng không “yên” lắm nên một đêm tối trời – vào tháng 3 năm 1980, khi mà nước biển êm ru như nước trong lu – tôi đã đành đọan bỏ Rạch Giá ra đi. Tôi  đến được nơi mà người ta sẵn sàng cấp phát cho mình một cái căn cước mới (với tên họ cũ) và một cái thẻ cử tri mà không cần phải qua một cuộc điều tra lý lịch xét nét hay lôi thôi nào cả. Nói cách khác là tôi đã tìm được một cơ hội đổi đời.

Những bạn đồng nghiệp còn lại tại Rạch Giá thì không. Tấm ảnh Thận Nhiên chụp được gần nửa thế kỷ sau, vào hôm 21 tháng 3 vừa qua, cho thấy là họ vẫn sống như xưa: chưa ráo mồ hôi đã cạn túi rồi!

Ở những thành phố lớn mới có ít nhiều đổi thay. Xe lôi và xích lô nay đã được thay thế bằng xe ôm hay xe grab. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: “Những cảnh làm ruộng của những người nông dân của mấy chục năm trước kia và bây giờ chẳng khác nhau chút nào. Có khác thì chỉ khác một điểm. Đó là người nông dân đi sau đít con trâu mấy chục năm trước kia hiện ra trong ảnh đen trắng còn người nông dân bây giờ vẫn đi sau đít trâu nhưng là trong ảnh màu rực rỡ.”

Những thay đổi trong giới phu phen ở thành phố, xem chừng, có vẻ “triệt để” hơn thế. Phu quét rác nay đã trở thành “công nhân vệ sinh đường phố” với đồng phục đàng hoàng và tươm tất. Đám phu xe kéo hay xe lôi cũng thế. Họ được mệnh danh là “công nhân công nghệ xe ôm” với phương tiện hành nghề là những chiếc xe máy tân kỳ (với đủ loại sắc mầu tươi tắn thật sự) chứ chả phải là “ảnh mầu” đâu.

Chỉ có sự cơ cực thì dường vẫn không khác mấy. Báo Tuổi Trẻ vừa đăng tải một bài viết ngắn (Xe Ôm Chắt Bóp Mưu Sinh”) với những chi tiết não lòng: “Những ngày qua, nhiều tài xế xe ôm phải tăng giờ chạy xe từ 10 tiếng lên 14-15 tiếng mỗi ngày để bù đắp cho các khoản chi phí gia tăng. Cuộc sống họ đang phải đắp đổi từng ngày.”

Bài báo thượng dẫn cũng trích dẫn vài lời tâm sự của đôi ba người trong cuộc :

  • Nguyễn Văn Thảo: “Dân chạy xe ôm chỉ qua năm thứ ba, thứ tư trở lên đã hay đổ bệnh, mà nhiều nhất là bệnh hô hấp và mắt vì khói bụi. Còn tai nạn thì chỉ biết tự an ủi là gặp xui xẻo thôi.”
  • Trần Văn Chí: “Rất nhiều dân xe ôm chạy đến nát xe và không dành nổi tiền để mua lại xe mới. Nghĩ lại cứ y như lấy mỡ mình rán mình.”
  • Ngô Du: “Sáng xách chiếc xe ra đổ 100 ngàn xăng để mưu sinh. Họ đã cúng cho nhà nước 64 ngàn. Chạy một cuốc xe… Nộp thêm 10% VAT nữa.”

Blogger Nguyễn Thùy Dương cho biết thêm :

“Mội tài xế chạy Grab được xem như một giám đốc doanh nghiệp riêng lẻ. Và mức thuế họ chịu bằng với mức thuế của một doanh nghiệp vận tải. Đúng là một niềm vui hiếm thấy, khi chỉ cần một bản xác minh lý lịch của địa phương, một chiếc xe máy, một cái điện thoại, một bộ đồ, 2 cái nón bảo hiểm, 2 triệu đồng ký quỹ, từ người tốt nghiệp Tiểu học cho đến Cử nhân Đại học đều có thể cùng nhau làm Giám đốc doanh nghiệp.

Các giám đốc doanh nghiệp này không được giảm trừ gia cảnh, không được trừ các loại thuế phí hao hụt, không có chế độ bảo hiểm, không có chế độ đãi ngộ. Ngày đêm, họ cần mẫn nuôi ‘Má mì’ Grab và đóng góp vào ngân sách Quốc gia.”

Thùy Dương giúp tôi nhớ đến đôi câu ca dao Việt Nam mà mình đã quên bẵng từ lâu, sau nhiều năm viễn xứ: Thương thay thân phận con rùa/Lên đình cõng hạc xuống chùa đội bia!


 

Ông Ba Thê Đồng Thời và Ông Đại Cuộc

Ba’o Tieng Dan

Tưởng Năng Tiến

26-7-2024

Lúc trẻ, tôi thích Võ Hồng. Khi già, tôi ưa Võ Phiến. Ông viết không nhiều (lắm) nên tác phẩm nào tôi cũng đọc đi, đọc lại đôi lần. Xem xong là quên ngay cái tựa nhưng tên tuổi các nhân vật trong chuyện của Võ Phiến thì cứ nhớ hoài. Họ để lại những ấn tượng rất sâu trong lòng độc giả:

– Ngô Thế Vinh: “Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã từ, Lại Thư nhà, Một mình…”

– Thụy Khuê“Ở miền Nam những năm 60, khi lớp trẻ đọc thơ Nguyên Sa, hát Tiễn em của Phạm Duy, Cung Trầm Tưởng… thì Võ Phiến đưa ra những nhân vật quê mùa, tầm thường, như anh Bốn Thôi, ông Ba Thê Đồng Thời, chị Bốn Tản, Bốn Chìa Vôi, những thân phận lạc loài, không hẫp dẫn, chẳng ai bận tâm, mất thì giờ mô tả. Đó là những mảnh vụn, thừa thẹo của xã hội, sống âm thầm như chưa hề có mặt”.

– Nguyễn Mộng Giác: “Nhân vật của Võ Phiến hầu hết là dân quê mùa ít học, quanh năm không có lấy vài phút sống cho được tới mức tạm gọi là sang trọng đầy đủ. Tên của họ là những anh Bốn Thôi, ông Ba Đồng Thời, chị Bốn Chìa Vôi, Ông Bốn Tản Cư, ông thập Tam, cô Tư Lớn…”

Nói nào ngay, ông Ba Thê (BT) tuy “ít học” thật nhưng “quê mùa” thì không đến nỗi: “Hồi xuân xanh ông Ba Thê đẹp trai, vui vẻ, lanh lợi, khiến ai thoáng trông qua cũng phải chú ý. Cho nên ông không cần khó khăn gì cả mà tự nhiên đi đến đâu có bạn bè, có nhân tình nhân ngãi đến đó, rồi không cần tìm kiếm mà tự nhiên cơ hội đến: Ông ta được vào lính khố xanh dễ dàng, được thăng lên cai, lên đội lúc nào, tựa hồ như không kịp để ý tới”. (Võ Phiến. Giã Từ. Thời Mới: 1967).

Rồi vì bài bạc nên Ba Thê bị “lột lon cho về làm dân” mà không có đồng xu cắc bạc hưu bổng nào ráo trọi. Túng nên phải tính, phải vay mượn (loanh quanh) nhưng cách “xoay sở” của ông ta – xem ra – cũng hơi nhàn nhã.

Thay vì đi gõ cửa từng nhà thì Ba Thê sai con mang phong thư đến. Nội dung chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ li ti (“Qui Nhơn le…Cher ami,”) viết trên một tấm danh thiếp con con, nhắc lại chút tình quen biết cũ và những khó khăn hiện tại…

Giản dị vậy thôi nhưng BT vẫn sống được và (đôi lúc) lại còn có dư ra chút đỉnh, đủ để chung chi cho một độ chọi gà trong xóm. Giá cứ như thế mãi thì cũng “khỏe” thôi, nếu thời thế đừng thay đổi. Mà thế thời thì tránh sao được đổi thay, dâu bể. Tình cảnh của BT, sau cuộc bể dâu, nhắc nhớ đến dăm ba câu thơ cũ:

Lép nhép vài hàng tỏi
Lơ thơ mấy khóm gừng
Vẻ chi là cảnh mọn
Thế mà cũng tang thường

(Ôn Như Hầu – Nguyễn Gia Thiều. “Ra Xem Vườn Sau Khi Trời Mưa”).

Chỉ sau một cơn mưa mà “cảnh mọn” còn “tang thương” thì nói chi đến chuyện thế nhân, trong cuộc hý trường:

Sau biến cố chính trị mùa thu năm 1945, ông Ba Thê liền đổi lốt, chọn một cuộc sống mới. Không phải rằng ông ta chịu nhận một nghề, nhưng chính là vì vẫn không có nghề nghiệp mà ông ta thành ra một kẻ hoạt động hăng hái theo lối mới. Hoạt động lối mới cần nhất ở cái mồm…

Nói cách khác, giai đoạn mới, ông đội Ba Thê ăn rồi toàn đi nói chính trị, khắp từ đầu làng tới cuối xóm … Ở chỗ công cộng, những khi đăng đàn phát biểu ý kiến, ông Ba Thê, đang thao thao diễn giảng, nếu thình lình thiếu ý, lúng túng, ông ta liền quẩn xung quanh một vài khẩu hiệu thật rỗng và thật rổn rảng … Ta ziết zặc zữ nước, đồng thời ta xây dựng con người mới, đồng thời tiến về…” Ông Ba Thê biến ra ông Ba Thê Đồng Thời trong trường hợp như vậy.

Tôi vốn có một ông bác già ưu thời mẫn thế. Nhưng tất cả sự đóng góp của người vào công cuộc cách mạng chung quy cũng chỉ trông cậy vào ba tấc lưỡi dùng để… động viên kẻ khác. Đối với kẻ hoang đàng nhác nhớn, người khuyên nên nghĩ đến đại cuộc. Đối với kẻ bủn xỉn ngần ngại trước những cuộc quyên góp, người cũng khuyên nên nghĩ tới đại cuộc… ông bác của tôi bèn mang thêm cái tên mới: “Ông Đại Cuộc”…

Nếu chịu khó bươi xới kho tàng ngôn ngữ của dân tộc như các nhà khảo cổ quật lên từng lớp đất, chắc chắn chỉ riêng cái cách ăn nói cũng giúp ta hiểu được nhiều về tâm lý, về cách sinh hoạt, về tổ chức xã hội, về đường lối chính trị … của mỗi thời. (V.P, s.đ.d).

Thời nay tôi thì chả phải mất công “bươi xới kho tàng ngôn ngữ” mà chỉ cần lướt net là cũng “hiểu được nhiều về tâm lý, về cách sinh hoạt, về tổ chức xã hội, về đường lối chính trị” của chế độ hiện hành.

Blogger Trân Văn (VOA) nhận xét: “Nếu ông Nguyễn Xuân Phúc – tiền nhiệm của ông Chính – thường xuyên khuyến khích các ngành, các địa phương trở thành… ‘đầu tàu’ … ông Chính – nhân vật kế nhiệm – lại rất yêu… ‘đột phá’.

Không chỉ động viên các ngành, các địa phương… ‘đột phá’, ông Chính còn khuyên các doanh nghiệp ngoại quốc đầu tư vào Việt Nam (FDI) tham gia ‘đột phá’ nếu muốn phát triển. Thậm chí ông Chính còn đề nghị những quốc gia khác nên cùng Việt Nam… ‘đột phá”!

Ôi! Tưởng gì chớ “đột phá” thì chả phải là chuyện mới mẻ chi. Trước khi “hạ cánh”, đồng chí Nguyễn Thanh Sơn (Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao – Chủ Nhiệm Ủy Ban Nhà Nước Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài) cũng thế, cũng cứ mở mồm ra là “đột phá” rầm rầm. Ông khiến cho lắm kẻ bị ù tai và nhiều người đỏ mặt.

Mà dường như tất cả quý vị lãnh tụ đều như thế cả, đều ăn nói theo cùng một sách, gồm những cụm từ vô nghĩa (quen thuộc) và bất biến ở đầu môi: “Vận dụng nội lực”, “nâng cao phẩm chất đạo đức”, “phát huy văn hóa”, “phát triển bền vững ”, “đi tắt đón đầu”, “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, “sánh vai cùng cường quốc năm châu” … Mới nghe một hai lần đầu cũng cảm thấy có chút khí thế nhưng nghe hết thế kỷ này qua thế kỷ khác (ra rả ngày đêm) thì ớn muốn ói luôn!

GS Nguyễn Văn Tuấn buồn rầu kết luận: “Có thể nói rằng rất nhiều bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo Việt Nam chỉ là những khẩu hiệu được lắp ráp vào với nhau”.

Cứ thế, họ biến tình hình tồi tệ của xứ sở này thành một đề tài giễu cợt cho thiên hạ cười chơi – khi trà dư/ tửu hậu: “Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển”!

Chớ có nước nào mà phát triển … bằng mồm được, mấy cha? Chả những vậy, kiểu “lắp ráp” và “hô hoán khẩu hiệu” của đám lãnh đạo lưỡi gỗ còn có thể gây ra lắm điều tai hại khác:

“Ý đồ của ngôn ngữ này, theo Orwell phân tích, ta có thể gọi là ‘lưỡi gỗ’ không phải là mở rộng phạm vi hoạt động của tư tưởng. Trái lại, nó thu hẹp phạm vi của tư tưởng. Một trong những thủ đoạn của nó là cắt bỏ từ vựng, chỉ cho sử dụng một vốn từ vựng rất ít ỏi, rất nghèo nàn. Chức năng này của các ngôn từ không phải để diễn đạt tư tưởng mà nhằm hủy diệt bớt tư tưởng… Mục tiêu tối hậu của ngôn ngữ mới này là cầm tù tư tưởng, biến con người thành đàn bọ, đàn kiến, như Orwell đã từng viết”. (Bạch Thái Quốc. “1984  Của G. Orwell: 70 Năm Lời Cáo Buộc Chế Độ Toàn Trị”. RFI – 10/07/2019).

Thường dân cỡ tôi, tất nhiên, không thể̉ có được cái tầm nhìn cao xa đến thế. Tôi chỉ rất sốt ruột về tình trạng “không chịu phát triển”, và vô cùng ái ngại cho đám dân đen, ở đất nước mình.

Không hiểu quý vị lãnh tụ (Đầu Tầu, Đột Phá, Vận Dụng Nội Lực, Phát Huy Văn Hóa, Đi Tắt Đón Đầu …) có “ý đồ” chi trong việc “cắt bỏ từ vựng” hay không (?) chớ còn ông Ba Thê Đồng Thời và ông Đại Cuộc thì chắc chắn là chả có hậu ý gì đâu. Cả hai đều là dân đen, và đều là nạn nhân của thời cuộc thôi mà.

Theo cách diễn tả của một nhà văn họ Võ khác (Võ Văn Trực) thì hai ông chỉ là “những cọng rêu dưới đáy ao”. Võ Phiến cũng thường nhìn xuống đáy, nơi dành riêng cho Bốn Thôi, Bốn Chìa Vôi, Bốn Tản Cư, Tú Từ Lâm, Tư Lớn, Ba Thê Đồng Thời, Đại Cuộc … Ông mô tả họ như “những chiếc lá mục bết bùn ở dưới đáy sông” nhưng cũng phải “cựa quậy ve vẩy” (đôi ba khẩu hiệu) để thích ứng với thế thời, để giữ lấy thân, giữa cơn gió bụi. Vẻ chi là cảnh mọn/ Thế mà cũng tang thường!


 

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tien – Dân Bản Địa

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

21/07/2024

Mùa Hè năm ngoái, cũng vào khoảng này đây, gần như mọi cơ quan truyền thông (trên toàn thế giới) đều hớn hở loan tin: đã tìm thấy bốn em bé biệt tăm, sau khi khiến chiếc phi cơ Cessna 206 bất ngờ bị hỏng máy và rơi xuống rừng sâu núi sâu.

  • CBS NEWS :4 children lost in Colombian jungle found alive after being missing for 40 days
  • NBC NEWS: 4 children found alive 40 days after plane crashed in Amazon jungle
  • PBS NEWS: 4 Indigenous children found alive 40 days after plane crash in Amazon rainforest
  • The New York Times: 4 Missing Children Found Alive After 40 Days in Colombian Jungle

Lòng yêu thương và sự sự tận tụy của người Colombia (một đất nước nhỏ bé và nghèo nàn) dành cho những trẻ thơ dân bản địa của họ thật vô cùng thiết tha, và rất đáng trân trọng:

Các em nhỏ, tất cả đều thuộc bộ tộc bản địa Huitoto, đã bị mất tích kể từ khi một chiếc bay hạng nhẹ lao xuống rừng Amazon vào buổi sớm ngày 01/05. Thảm kịch đã khiến người mẹ qua đời, và ba đứa con, 13, chín, bốn và một tuổi, bị lạc trong một khu vực đầy rắn, báo đốm và muỗi.

Nhân viên cứu hộ ban đầu e sợ điều tồi tệ nhất sẽ xảy đến, nhưng những dấu chân, trái cây trong rừng bị ăn dở, và những tín hiệu khác sớm mang đến cho họ một hy vọng là các em có thể còn sống sót sau khi rời khỏi nơi chiếc máy bay rơi để tìm kiếm sự giúp đỡ…

Giới chức đã rải 10.000 tờ rơi với những lời khuyên về sinh tồn được viết bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng bản địa của bộ tộc Huitoto, và các trực thăng của quân đội phát đi thông điệp của bà các em nhỏ qua loa, để trấn an các em là công cuộc tìm kiếm vẫn đang tiếp diễn. (Matt Murphy. “Colombia: Làm Cách Nào Bốn Em Bé Có Thể Sống Sót Trong Rừng Thiêng Nước Độc?” BBC – 06/12/ 2023).

Tổng thống Colombia đã không quá lời khi thốt lên rằng đây là niềm vui sướng của cả nước khi tìm lại được bốn đứa bé (thuộc bộ tộc Huitoto) giữa rừng xanh. Niềm vui này – vui thay – lại vừa tái hiện qua cuốn phim (Operation Hope: The Children Lost in the Amazon) của đạo diễn Tom Cross, dài 86 phút, vừa được trình chiếu lần đầu vào hôm 26 tháng 4 năm 2024 vừa qua.

Xem xong, tôi biết thêm được vài tình tiết thú vị. Có cả hàng trăm người dân bản địa tình nguyện tham dự trong cuộc tìm kiếm gian nan này. Họ nhiệt tình cộng tác với một đơn vị quân đội đặc nhiệm, do chuẩn tướng Pedro Sánchez chỉ huy. Ông tướng cũng ba lô, nai nịt, cùng binh sỹ lặn lội vào rừng suốt mấy tuần liền. Rồi cũng chính gia đình ông đã nhận cháu bé mồ côi mới một tuổi, Cristin Mucutuy (vừa mất mẹ) làm con nuôi.

Cái tình của người dân Colombia đối với nhau khiến tôi không khỏi chạnh lòng khi nhớ đến những đôi mắt vùng cao (“sao cứ buồn vời vợi”) của đám trẻ thơ bản địa, vừa xem được qua trang FB của cô giáThảo Dân.

Các em không bị lạc nhưng “bị quên” nơi “vùng sâu – vùng xa – vùng căn cứ cách mạng”, sau khi cuộc “cách mạng vô sản thành công” ở Việt Nam. Từ đây, không ai còn cần đến cô gái sông Ba (“tay vót chông miệng hát không nghỉ”) hay cô gái Pakô (“gùi trên vai súng đạn ra hoả tuyến”) nữa. SóBom Bo cũng thôi rộn rã tiếng chày khuya (“giã gạo ban đêm vì ngày bận làm mùa”) tự lâu rồi.

Súng đạn đã im tiếng nửa thế kỷ qua. Các cô sơn nữ cũng đã qua hết thời tươi trẻ. Họ đang phải đối mặt với vô số khó khăn, và biết bao cùng cực trong cuộc mưu sinh vô cùng vất vả, vào những ngày tháng cuối đời – theo tường thuật (“Người Dân Tộc Thiểu Số Vân Kiều và Pa Ko”) của RFA:

“Đi dọc theo đường 9 Nam Lào từ thành phố Đông Hà lên cửa khẩu Lao Bảo, qua khỏi những dãy nhà ngói đỏ chói của thành phố chừng 10km, đến đoạn sông Dakrong chảy dọc đường 9 Nam Lào, nhìn sang bên kia sông là những mái nhà lụp xụp nằm lặng lẽ trên đồi, nhìn lại bên cánh rừng dọc đường 9 cũng nhiều mái nhà sàn lợp tranh nhỏ xíu, tuềnh toàng gió lộng nằm giữa các nương sắn hoặc giữa các ngọn đồi trọc. Cảnh nghèo đói hiện ra xác xơ, tiều tụy”.

FB Chi Lê cũng cho biết thêm: “Từ ‘giải phóng’ đến nay, trẻ con ở Sóc Bom Bo chưa từng biết Phở là gì”.

Ở Việt Nam mà chưa từng nếm phở thì chắc cũng chưa có bé thơ nào nơi vùng sâu/vùng xa/vùng căn cứ cách mạng đã nhìn thấy cái phi trường, nói chi đến chuyện bước chân lên một chiếc phi cơ như trẻ con thuộc bộ tộc Huitoto – ở Colombia. Thôi thế cũng hay. Khỏi lo tai nạn!

Chớ đi máy bay mà lỡ nó lao xuống rừng Trường Sơn thì chết mẹ. Hết phim là cái chắc. Nhà đương cuộc Hà Nội chỉ săn đuổi thôi, chứ có khi nào cất công tìm kiếm ai đâu. Ngay sau những biến động xẩy ra (vào năm 20012004 , 20112023) tại buôn làng của dân bản địa, bao giờ cũng là những cuộc tìm bắt rất gắt gao. Cuộc truy nã mới nhất xẩy ra, sau vụ bạo động ở Darlac, vào hôm 11 tháng 6 năm 2023.

FB Quang Phan cho biết: “Họ lùa đuổi bắt giữ người bản xứ … Họ không hề biết đến rằng cái hành động ngỡ như anh hùng ấy chỉ làm khắc sâu thêm những ẩn ức nơi cộng đồng bản địa. Và nguy cơ mâu thuẫn sắc tộc càng thêm chất chứa.”

FB Dương Quốc Chính cảm thán: “Xem mấy video được cho là người dân đi truy bắt khủng bố mà thấy đau lòng … anh em Kinh tộc đang hô hào rất khát máu, đòi báo thù, diệt tộc người ta.”

Về bản chất, cách “diệt tộc” của nhà đương cuộc Hà Nội (xem ra) cũng không khác mấy với chính sách khắc nghiệt mà nhà nước Hoa Lục đang áp đặt lên những sắc dân bản địa ở xứ sở này, theo tường trình của giới truyền thông:

Hồi thế kỷ trước, Liên Xô cũng đã từng hành sử dã man tương tự. Chỉ riêng nạn đói xẩy ra ở Ukraine (Ukrainian Famine) vào những năm 1932 – 33 đã giết hại gần 4 triệu sinh mạng của dân tộc này.

Liệu có sự trùng hợp (ngẫu nhiên) nào giữa ba nhà nước kể trên với chủ nghĩa chủ nghĩa cộng sản, và chủ trương diệt chủng không?

Câu trả lời có thể tìm được (qua vài con số) trong bài diễn văn của Tổng Thống George W. Bush, đọc trong dịp lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Của Chủ Nghĩa Cộng Sản, vào hôm 12 tháng 6 năm 2007:

“Họ gồm có các nạn nhân Ukraina bị chết đói trong Nạn đói Vĩ đại dưới thời Stalin; hoặc những người Nga bị giết trong các cuộc thanh trừng của Stalin; những người Litva, Latvia và Estonia bị quăng lên xe chở trâu bò và bị đày khổ sai trong các trại tử thần vùng giá rét của chủ nghĩa Cộng sản Xô Viết. Họ bao gồm những người Trung Hoa bị giết chết trong Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa; những người Campuchia bị tàn sát trong những cánh đồng chết của Pol Pot; những người Đông Đức bị bắn chết trong lúc cố trèo qua Bức tường Berlin để tìm tự do; những người Ba Lan bị tàn sát tại rừng Katyn; và những người Ethiopia bị tàn sát trong cuộc ‘Khủng bố Đỏ’; những người da đỏ Miskito bị giết chết bởi chế độ độc tài Sandinista ở Nicaragua; và những người Cuba, Việt Nam bị chết chìm trong lúc vượt thoát bạo quyền”.

Nói thì lại bảo cái gì cũng đổ thừa cho cộng sản, chứ với nạn diệt chủng (trong lịch sử cận đại) thì ngoài tụi facism ra thì còn ai khác vào đây ngoài bọn communism nữa?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Di Cư

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

16/07/2024

Tuy chào đời tại Sài Gòn – trước Hiệp Định Genève – tôi vẫn có mặt trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam, hồi năm 1954. Tuy đây không phải là một “giai thoại” ly kỳ hay thú vị gì cho lắm, tôi vẫn xin mạn phép để được ghi thêm đôi dòng (dặm thêm ít nhiều mắm muối) để câu chuyện được tỏ tường hơn, và cũng đỡ phần nhạt nhẽo.

Tác giả Lê Duy San cho biết: “Ngày 12/7/1946, theo lệnh của Trường Chinh, Việt Minh âm thầm cho công an đột nhập trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng ở số 9 phố Ôn Như Hầu. Hằng trăm người bị giết bằng cách trói lại và bị quăng xuống những con sông để họ chết chìm rồi loan tin là những người này bị VNQDĐ thủ tiêu.

Vụ này đã làm cho VNQDĐ tan rã, nhiều người phải chạy trốn sang Tầu trong đó có cụ Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Hồng Khanh, Hoàng Đạo, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và nhiều lãnh tụ của Việt Quốc và Việt Cách khác. Hàng ngàn người khác bị chúng bắt đem di giam giữ tại Hỏa Lò Hà Nội và nhiều nơi khác trong đó có nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư.”

Tôi sinh sau đẻ muộn nên không được tường tận về những sự kiện thượng dẫn nhưng biết chắc rằng – ngoài những nhân vật nổi tiếng vừa nêu, trừ Huỳnh Thúc Kháng – còn có vô số những đảng viên cấp địa phương (của cả Việt Quốc lẫn Việt Cách) cũng bị truy lùng hay sát hại vì không “bung” kịp, hoặc không tìm được đường để ra đến nước ngoài.

Thân phụ tôi là một trong những kẻ thuộc cái đám đông vô danh tiểu tốt này. Thay vì chạy sang Tầu, như phần lớn những đồng chí ở trung ương, ông trốn vào Nam. Tuy tay trắng, không có chi để lận lưng, ngoài cái bằng tiểu học (Certificat D’Étude Primaires Complémentaires Indochinoises, C.E.P.C.I) ông vẫn kiếm được đôi ba chỗ kèm trẻ, và một nơi để trú thân, trong một cái xóm lao động nghèo nàn –  có tên là Xóm Chiếu – bên Khánh Hội.

Trong Thư Về Làng, nhạc sỹ Thanh Bình tâm sự: Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng/ Sắt son gửi trong mấy hàng/ Thăm bà con dãi dầu năm tháng/ Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang/ Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng …

Bố tôi không phải là nghệ sỹ nên thư chỉ đề cập đến chuyện cơm, áo, gạo, tiền … Ông viết: “Trong này có khi cơm ăn không hết, người ta đổ cho gà hay cho lợn.” Mẹ hiền, tất nhiên, không thể nào tin vào một chuyện “hoang đường” cỡ đó!

Bà vùng vằng, tức tối xé nát tờ thư trong tay (ấy là tôi đoán thế, nếu sai, xin má bỏ lỗi cho thằng con út) lầu bầu: “Lại phải lòng con đĩ ngựa nào trong ấy rồi, chắc  định trốn vợ trốn con luôn đây, chứ gạo cơm ở đâu ra mà cho gà với lợn?”

Nói xong, bất chấp mọi sự can ngăn/khuyên giải/năn nỉ (ỉ ôi) của bà con hai họ,  bà tức tốc lặn lội vào Nam. Tới nơi, hiền mẫu tìm quanh quất mãi nhưng chả ra một con đĩ  (ngựa) nào ráo trọi mà nhìn đâu cũng thấy phố xá tấp nập, hàng quán tùm lum, và đồ ăn thức uống thì ê hề khắp hang cùng ngõ hẻm.

Vốn ham vui, và rất chóng quên nên mẹ tôi ở lại luôn trong Nam cả năm trời. Hệ quả (hay hậu quả) là tôi cất tiếng khóc chào đời tại Sài Gòn. Khi hiệp định đình chiến được ký kết tại Geneve, vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi mới vừa lẫm chẫm biết đi. Cũng mãi đến lúc này bà má mới “chợt nhớ” ra rằng mình còn mấy đứa con nữa, đang sống với ông bà, ở tuốt luốt bên kia vỹ tuyến.

Thế là tôi được bế liền ra Bắc, ra mắt bà con nội/ngoại, rồi lại được gồng gánh vào Nam (cùng với hai bà chị nhỏ) ngay tức khắc. Nhờ vậy (nhờ ra đời trước cái đám Bắc Kỳ con sinh trong Nam đôi ba năm) nên từ thuở ấu thơ tôi đã được nghe nhiều bài hát ca ngợi tình bắc duyên nam – qua radio – vào thời điểm đó :

  • Người từ là từ phương Bắc đã qua dòng sông, sông dài/ Tìm đến phương này, một nhà thân ái/ Ơi! Tình Bắc duyên Nam là duyên tình chung muôn đời ta đắp xây… (“Khúc Hát Ân Tình.” Xuân Tiên & Song Hương).
  • Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa/ Em đất Thanh Nghệ, anh nhà Cà Mâu/
    Đồi nương thương sức cần lao/ Se duyên Nam Bắc ngọt ngào tình yêu, ngọt ngào tình yêu
    … (“Đất Lành.” Phạm Đình Chương)

Chuyện se duyên Nam Bắc có ngọt ngào tình yêu (thiệt) không thì chả ai dám chắc, và cũng không có chi bảo đảm cả nhưng với thời gian – rồi ra – ai cũng biết cái mền là cái chăn, cái mùng còn gọi là cái màn, cái phong bì với cái bao thư là một, cái bật lửa đã trở thành bựt lửa, cái hôn và cái hun cùng một nghĩa (và cùng đã) như nhau.

Cuộc chung đụng giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm … tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp. Một một phần tư thế kỷ sau (dù không ai tuyên truyền, xúi bẩy hay xúi dại gì ráo nạo) chàng trai Biên Hoà Nguyễn Tất Nhiên vẫn cứ si mê “cô em tóc demi garçon” và mê chết bỏ: “Đôi mắt tròn, đen, như búp bê/ Cô đã nhìn anh rất… Bắc Kỳ/ Anh vái trời cho cô dễ dạy/ Để anh đừng uổng mớ tình si”(“Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ.” NXB Nam Á: Paris 1982).

Nền Đệ I Cộng Hoà ở miền Nam cũng có không ít những khiếm khuyết (vô cùng đáng tiếc) nhưng việc định cư hằng triệu người di dân di phải được coi là một điểm son của chế độ này, nhờ vào sự trợ giúp tận tình của cả nước Hoa Kỳ. Không phải thế lực ngoại bang nào đến Việt Nam cũng chỉ với mục đích xâm chiếm, cùng với chính sách chia để trị.

Chủ trương phân biệt vùng miền, mỉa mai thay, lại là đường lối xuyên suốt và nhất quán của cái nhà nước được mệnh danh là cách mạng hiện hành – theo như lời của nhiều công dân Việt :

  • FB Trần Đình Thu: “Để kỳ thị hai miền Nam Bắc xẩy ra ngày càng nghiêm trọng là do những chủ trương tuyên truyền hung hăng của nhà nước VN.”
  • Blogger Ku Búa: “Ai là người gây ra nạn phân biệt Bắc Kỳ Nam Kỳ? Đó không phải là sự khác biệt trong tư duy, trong môi trường sống, trong quan niệm sống hay con người. Mà chính là sự phân biệt trong chính sách chính phủ hiện tại.”
  • FB Thuc Tran: “Bất công là nguồn gốc của mọi sự thù ghét nhau giữa dân chúng hai miền và có lẽ đó cũng là ý đồ của đảng khi chia để trị.”

Họ có quá lời chăng?

Không dám “quá” đâu. Từ cuối thế kỷ trước, ông Vũ Đình Huỳnh (một nhân vật quan trọng của ĐCSVN) cũng đã từng nói những điều tương tự: “Sài Gòn là một thành phố bị chiếm đóng. Không phải là một thành phố được giải phóng. Chỉ vài năm thôi, nó sẽ giống Hà-Nội.” (Nguyễn Chí Thiện. Hỏa Lò. 7th ed. NXB Cành Nam, Virginia: 2007).

Thực sự thì Sài Gòn chưa bao giờ được Bên Thắng Cuộc xem “giống như Hà Nội” cả. Sự thực phũ phàng này được nhìn thấy rõ hơn trong những năm tháng vừa qua.

Tác giả Nguyễn Khoa nhận xét: “Dịch bệnh cũng làm bộc lộ mâu thuẫn chính trị vùng miền, với sự thống trị của miền Bắc, vốn là nơi phát xuất những đội quân chiến thắng năm 1975. Trong những năm 1990, người ta dành kinh phí quốc gia để xây dựng đường số 5 Hà Nội – Hải Phòng, hay đường số 18 Hải Dương – Quảng Ninh, thay vì con đường nhiều hàng hóa hơn là Quốc lộ 1 Sài Gòn – Mỹ Tho, hay liên tỉnh số 8 Sa Đéc – Long Xuyên.

Việc này có thể được thông cảm vì hệ thống đường sá miền Bắc quá tệ hại. Nhưng vào năm 2021, với một dân số gấp đôi, số người nhiễm bệnh gấp ba Hà Nội, mà số liều vaccine phân phối về Sài Gòn lại ít hơn là điều không thể tha thứ được.”

Bao giờ mà kẻ thống trị còn giữ được quyền bính thì họ chả cần đến sự “tha thứ” của bất cứ ai. Câu hỏi đặt ra là cái đạo quân chiếm đóng hiện nay sẽ còn tiếp tục duy trì được quyền lực ở Việt Nam thêm bao lâu nữa, và chuyện gì sẽ xảy ra sau đó?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một bà Mai khác

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

11/07/2024

Tôi đang lẽo đẽo theo chân Anh Vũ đi lòng vòng Phnom Penh để tìm hiểu về sinh hoạt tôn giáo, và xã hội của một số người Việt đang sống ở thủ đô Cambodia thì nhận được thư của anh Ngô Thế Vinh. Tác giả Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng biểu tôi chạy lên Nam Lào chụp vài tấm ảnh – nơi vừa khởi công xây con đập Don Sahong – để dùng cho ấn bản tiếng Anh (The Nine Dragons Drained Dry The East Sea In Turmoil) cuốn sách sẽ do Giấy Vụn xuất bản nay mai.

Cùng lúc, anh Trịnh Ngọc Lân và bằng hữu cũng rủ tôi qua Hạ Lào. Qúi anh muốn cùng bà quả phụ Nguyễn Văn Đương đến tận chiến trường xưa, để thắp một nén nhang tưởng niệm người anh hùng đã hy sinh trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719, hơn bốn mươi năm trước.

Dù rất ham đi, ham vui, và dễ dụ, tôi vẫn phải từ chối lời đề nghị thứ hai vì không thể đi hai nơi trong cùng một lúc. Hơn nữa, tôi cũng thành thực tin rằng khi công luận đã biết đến tình cảnh khó khăn của bà Trần Thị Mai thì ước nguyện thắp một nén nhang – ở nơi xa xôi – cho người quá vãng sẽ không còn là một việc khó khăn.

Nhờ nán lại Cambodia vài hôm nên tôi và Anh Vũ đã gặp được thêm một bà Mai nữa. Chúng tôi tình cờ nhìn thấy bà đang dạo quanh những bàn ăn ở quán cơm Ba Số Bẩy – trong khu chợ Tô Sanh, ở Nam Vang – để chào mời thực khách mua vé số. Loại số sổ hàng ngày, phát hành từ những tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long – Việt Nam.

Bà nhận lời mời ngồi chơi, uống nước, nói chuyện “tâm tình” mươi/mười lăm phút. Nhờ thế, chúng tôi mới biết được những nỗi khó khăn trong cuộc đời của một bà Mai khác – bà Nguyễn Thị Mai. Cũng như bà Trần Thị Mai, bà Nguyễn Thị Mai cũng có chồng là một người lính miền Nam đã mất, và cả hai đều đang chia chung một cảnh đời cùng quẫn.

Bà Mai Nguyễn quê ở huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, nơi mà chỉ cần vài giờ xe là đã bước sang xứ khác – xứ Chùa Tháp. Tuy thế, đã lâu lắm rồi bà không trở lại chốn xưa vì không còn thân bằng quyến thuộc gì nơi cố quốc.

Bà Mai đành nhận Cambodia làm mảnh đất dung thân. Quê hương thứ hai – may thay – đủ lượng dung cho một người dân Việt Nam ở bước đường cùng (không chồng, không con, không tiền, không nhà, và không cả manh giấy tùy thân) vẫn sống được lây lất qua ngày.

Mặc dù không thể đi nhiều trên đôi chân đã bắt đầu run rẩy, bà Mai còn có thể kiếm được mười lăm/hai mươi ngàn đồng riels mỗi ngày, nghĩa là khoảng trăm hai đến trăm năm mươi Mỹ Kim hàng tháng. Chỉ cần nửa số tiền này cũng đã đủ để thuê được một chỗ tắm rửa, và ngủ nghỉ qua đêm.

– Ban ngày tôi đi suốt mà, đi mệt thì ngồi, được cái người Miên họ dễ lắm mấy chú à. Họ cho mình ngồi trong quán nghỉ, cho sài cầu tiêu cầu tiểu thoải mái, và có khi còn cho đồ ăn dư luôn nữa.

Lời bà Mai khiến tôi thốt nhớ đến dòng chữ (“Vé Số Không Được Vào Nhà Vệ Sinh”) trong một tiệm cà phê, ở An Giang. Nó cũng giúp tôi hiểu tại sao lại có cả “một đạo quân vé số” xuất hiện ở Nam Vang. Người Miên – xem chừng – “dễ” hơn người Việt, và “dễ” hơn nhiều lắm!

Trong khi chuyện trò với chúng tôi, bà Mai hay nhắc đến Chúa và khẳng định nhiều lần: “Chúa chỉ sao thì tui chịu vậy thôi.” Bà khiến tôi tự hỏi ngoài bà Trần Thị Mai và Nguyễn Thị Mai, hiện còn có bao nhiêu bà Mai khác nữa đang “chịu vậy” mà không một lời than van – và cũng chả một ai đoái hoài tới họ – từ nửa thế kỷ qua!

Phải đợi đến mãi thời gian gần đây, mới có những lời kêu gọi “tri ân” và “giúp đỡ” những thương phế binh thuộc QLVNCH. Hai chữ “tri ân” tuy nghe vô cùng trang trọng nhưng sự “giúp đỡ” – xem ra – lại không được nhiều nhặn gì cho lắm, mới chỉ có tính cách tượng trưng. Đối với người sống sót (dù sống trong cảnh tàn phế) còn thế thì nói chi đến những bà quả phụ mà chồng đã chết trận tự lâu.

Cuộc chiến Bắc/Nam kết thúc vào năm 1975. Gần năm mươi năm đã trôi qua nhưng công luận – dường như – mới chỉ được nghe nhắc đến tên của năm ba bà quả phụ: Ngụy Văn Thà, Nguyễn Thành Trí, Nguyễn Văn Đương …

Khi nghe hỏi về ước nguyện hiện tại của mình, bà Mai trả lời với ít nhiều bình thản:

– Tui không có mong ước gì ráo trọi. Bây giờ còn đi bán được ngày nào thì hay ngày đó thôi. Bữa nào cũng phải đi lòng vòng hơi mệt nhưng tui thấy khuây khoả, lúc nào cũng có xấp nhỏ bao quanh, và cả lũ đứa nào cũng sẵn sàng “bán dùm vé ế cho ngoại Mai kẻo tội.” Đêm về thì có sẵn chỗ để nằm, không ai đụng chạm phiền phức gì mình, vậy là được rồi. Chỉ sợ khi chết bỏ xác ở xứ này không ai chôn cất thôi.

Tôi buột miệng:

– Chết là hết chị ơi, hơi đâu mà lo mấy chuyện lùm xùm sau đó. Mình nằm xuống thì mấy người ở lại buộc phải chôn thôi. Nếu không, cái xác thúi rùm tụi nó chịu đời sao thấu.

Câu nói bạt mạng của tôi, không ngờ, lại được bà chị tán thưởng bằng một nụ cười móm mém. Tuy thế, tận trong ánh mắt của người phụ nữ “nhiều nỗi chuân truyên” này, tôi vẫn thấy (thấp thoáng) một nỗi buồn – không kín.

Tôi không đùa (cũng không dám dở giọng khinh bạc) khi nói về những chuyện liên qua đến thân xác của con người, sau khi đã nhắm mắt kìa đời. Chết là hết, chớ còn khỉ gì nữa!

Tôi dặn con nhiều lần: “Không cần mang tro cốt ra biển làm chi, cứ đổ cha nó hết vào cầu tiểu rồi giựt nước là xong. Nếu làm vậy tụi bay thấy hơi khó coi (hay sợ tiếng đời dị nghị) thì bỏ nhúm tro tàn vào bồn rửa chén, mở nước chẩy ri rỉ qua đêm, là bố cũng tà tà ra tới … biển thôi.”

Khi tao chết chớ mang tao ra biển
Đừng mất công làm chuyện tào lao!

Thế hệ chúng tôi (Ngô Thế Vinh, Trịnh Ngọc Lân, Trần Thị Mai, Nguyễn Thị Mai, Tưởng Năng Tiến …) rồi sẽ qua, và cũng sắp qua rồi. Điều băn khoăn không phải là chúng tôi sẽ chôn cất ở đâu, hay thiêu đốt ra sao mà là kiếp sống bấp bênh và nhếch nhác của những người còn ở lại – những thanh niên thiếu nữ Việt Nam đang “đồng nghiệp” của ngoại Mai, ở Cambodia. Tôi nhìn họ đang tò mò vây quanh thiết bị thu thanh của Anh Vũ, lắng nghe chúng tôi trò chuyện, mà thấy nặng lòng.

Họ đều còn rất trẻ, đều rất hồn nhiên, và (tất nhiên) đều thất học – dù tuổi chỉ khoảng từ 15 đến 20. Các em từ đâu đến, và tại sao lại quanh quẩn trong hàng quán nơi đây thay vì đang ngồi dưới mái trường? Câu trả lời có thể tìm được trong một bài viết ngắn của nhà báo Hữu Danh:

“Ở vùng ĐBSCL, nhiều doanh nghiệp xổ số nộp ngân sách cả ngàn tỉ đồng/năm. Với nhiều địa phương, thu từ xổ số là nguồn thu chính. Để có nguồn thu này, các công xổ số đều dựa vào lực lượng bán vé số dạo.

Họ là ai? Là trẻ em, thay vì được đến trường thì áo quần rách rưới, tay cầm xấp vé số đi ‘bán cái rủi may’; là những ông bà lão bảy – tám mươi tuổi, lẽ ra phải được an hưởng tuổi già, vui vầy cùng con cháu thì phải còng lưng mời từng tờ vé số; là những người tật nguyền, khi mà hệ thống an sinh xã hội còn quá kém, phải vừa bò vừa lết ngoài đường, bò lết dưới chân trai thanh gái lịch trong những quán cà phê, nhà hàng để bán từng tờ vé số bằng cách kêu gọi lòng thương…”

Lòng thương (ngó bộ) đã cạn kiệt ở quê hương, nơi mà người bán nhiều hơn người mua, và “bán vé số không được vào nhà vệ sinh” nên không ít kẻ phải lần dò qua đến tận xứ người. Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn có thể đoán được là trong lòng bàn tay của tất cả các em đều có đường xuất ngoại nhưng lại thiếu đường may mắn. Số mệnh của cả một thế hệ (e) đã được an bài.

Sẽ còn có thêm vài ba thế hệ kế tiếp đi chào mời vé số (hay thân xác) nơi xứ lạ, nếu dân Việt vẫn giữ thái độ thản nhiên trước những mảnh đời rách nát và vẫn đồng lòng nhắm mắt để cho chế độ hiện hành tiếp tục hoành hành trên đất nước này.


 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tô Hoài

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

07/07/2024

Một ngày phiên chợ, u tôi mua về đôi gà nhỏ. Hai con gà: một trống, một mái, dáng còn bé tí teo, như vừa mới lìa đàn. Suốt ngày chúng cứ rúc vào một góc sân và kêu chim chíp bằng một giọng ai oán, thảm thương!

Ðó là đôi câu ngăn ngắn, trong tập truyện (O Chuột) của Tô Hoài mà tôi đã được cô giáo đọc cho nghe khi còn thơ ấu. Sao tôi cứ thương mãi đôi gà nhỏ côi cút đó, và có cảm tình mãi với tác giả của đoạn văn vừa dẫn.

Tô Hoài có thể sẽ sướng ngất ngư, khi biết có độc giả đã nhớ nằm lòng (suốt đời) những con chữ của mình. Ông (có thể) cũng sẽ tức điên luôn, nếu biết thêm rằng: tôi chưa bao giờ đọc thêm bất cứ một trang hay dòng nào khác nữa trong hàng trăm tác phẩm của ông.

Tôi sinh trưởng ở miền Nam nơi mà trẻ con không đeo khăn quàng đỏ, không thi đua lập chiến công, cũng không có kế hoạch (lớn/nhỏ) nào phải hoàn thành hay vượt chỉ tiêu. Chúng tôi chỉ có việc học với chơi thôi, và chơi mới là chuyện chính. Tôi quá mải chơi nên không có thì giờ để đọc Tô Hoài, hoặc bất cứ ai.

Sau khi cuộc chiến Bắc/Nam chấm dứt, thỉnh thoảng, tôi cũng có ghé vào những hiệu sách quốc doanh nhưng không bao giờ ngó ngàng gì đến Tô Hoài. Dù bắt đầu từ đây, cũng như bao nhiêu người dân miền Nam khác, cuộc đời của tôi (bỗng dưng) hoá rảnh. Rất rảnh và rất … đói!

Tác phẩm duy nhất mà tôi thực sự tâm đắc, vào thời điểm đó, là Hồ Chí Minh Toàn Tập – dù tác giả viết nhiều đoạn hơi (bị) dở. Thí dụ như: “Không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc. Không có lực lượng gì ngăn trở được loài người tiến lên. Cũng không có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội phát triển.”

Tôi chết được chứ chả bỡn đâu, Giời ạ!

Mặt trời chứ bộ mặt trận sao mà đòi lấy lực lượng ra ngăn trở. Tương tự, có cái lực lượng mẹ rượt nào mà ngăn trở được loài người tiến lên, cha nội? Viết như thế mà cũng bầy đặt cầm bút.

Ngoài những lỗi lầm nho nhỏ không đáng kể (như trên) phải nói đây là một công trình đồ sộ, rất đáng đồng tiền bát gạo. Sách rất dầy, giấy in rất tốt, giá rất rẻ, và rất được những bà hay những cô bán hàng rong ưa chuộng.

Họ cần giấy để gói. Còn tôi, tôi cần một phần ăn nhiều hơn số tiền trong túi. Do đó, dù có đói thảm thiết tôi cũng chả bao giờ (dại dột) sà ngay xuống mẹt xôi hay mẹt bánh. Tôi luôn luôn chịu khó đi vòng qua tiệm sách, tìm cho bằng được mấy cuốn Tuyển Tập Hồ Chí Minh, cho đỡ khổ cái dạ dầy!

Trong hoàn cảnh ấy, nói tình ngay, lỡ mà có thấy những tác phẩm của Tô Hoài chắc tôi cũng chỉ ngó lơ thôi. Mắt tôi lúc nào cũng chỉ dáo giác, liếc nhìn ra biển, tìm một đường chui.

Trời thương, tôi chui lọt!

Lưu lạc mãi rồi có hôm tôi tình cờ gặp lại Tô Hoài, trong tác phẩm phê bình văn học (Cây Bút, Ðời Người) của nhà phê bình văn học & xã hội Vương Trí Nhàn, do công ty Phương Nam xuất bản. Đến lúc này thì tôi đủ tuổi đời, đủ rảnh (và cũng đủ no) để có thể tìm đọc thêm chút đỉnh về một tác giả mà mình đã yêu thích, từ khi còn bé. Và đến thời điểm này thì Tô Hoài đã bước vào tuổi bát tuần.

“Ngay từ năm 1940, khi bắt tay làm quen với giới sáng tác đương thời, thì đồng thời tác giả Dế mèn cũng bước vào hoạt động cách mạng. Lúc đầu ở thời kỳ Mặt trận bình dân, ông hoạt động trong cơ sở Hội ái hữu thợ dệt Hà Ðông. Sau đó lại được tổ chức Ðảng ở Hà Nội bắt liên lạc để hình thành nên lực lượng Văn hoá cứu quốc.

Tiếp đó, từ sau 1945, những hoạt động xã hội của nhà văn ngày một đa dạng. Triển khai theo chiều rộng, có lúc ông trở thành cán bộ địa phương, có thời gian đi cải cách ruộng đất, đi học trường Ðảng, nhiều năm làm đối ngoại nhân dân, đồng thời vẫn giữ chân trưởng ban đại biểu dân phố (1956–1972) ở cơ quan văn nghệ trên Trung ương hay ở Hà Nội, hầu như từ năm 1946 tới nay, khoá nào ông cũng được bầu làm bí thư chi bộ, đảng bộ. Mặt khác, ngay trong giới cầm bút, ông cũng luôn luôn có hoạt động xã hội của mình, khi là Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn, khi chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, từ đó đẻ ra cơ man nào là đầu việc, là họp hành, mà người ta gọi chung là công tác” (s.đ.d. tr. 264).

Tiểu sử Tô Hoài lung tung, lang tang (ngổn ngang cả đống chức vụ) nhưng không để lại một ấn tượng đậm nét nào về đời người và cây bút của ông. Tô Hoài như luôn bị nhấn chìm vào những đoàn đội hay đoàn thể (vớ vẩn) gì đó, “với cơ man nào là đầu việc”.

Thực là một cuộc đời chán ngán và nhạt nhẽo, tôi đoán thế.

Tôi lầm đấy. Ðược thế thì đã phúc.

Cuộc đời của Tô Hoài chán ngán hẳn có thừa nhưng nhạt nhẽo thì chưa chắc, và đắng chát với tủi nhục (xem ra) không thiếu – nếu vẫn theo như ghi nhận của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn:

“… bao nhiêu từng trải, như còn in dấu vào cách sống, cách chuyện trò của Tô Hoài hôm nay, bên cạnh cái nhũn nhặn lảng tránh, con người ấy thật cũng đã nhiều phen phải dàn mặt, phải chịu trận, nói chung là phải đối chọi với đời và nếu như có lúc phải đầu hàng thì đó cũng là bước đường cùng, rồi, nín nhịn chẳng qua để tồn tại, và sau hết, để được viết”.

“Ấy là cái điều không chỉ Tô Hoài biết mà nhiều người cũng biết… Ðại khái có thể hình dung như cái cảnh đứa bé bị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn. Xá gì chuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy”. (s.đ.d. tr. 266).

Tôi thực muốn ứa nước mắt, xót xa cho “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài, khi biết rằng (đôi lúc) ông vẫn phải qùi như thế. Tôi còn e rằng Vương Trí Nhàn cũng chỉ khéo miệng mà nói thế (để đỡ tủi thôi) chứ chuyện “đùa bỡn” và “tha hồ tung tẩy” làm sao tìm được trong “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài!

Tôi trật!

Tôi thành thật xin lỗi vì đã quyết đoán một cách hấp tấp về văn nghiệp, cũng như tư cách, của Tô Hoài. Ông ấy quả là có “tròn” (và đôi khi “tròn lắm”) nhưng không đến nỗi “tròn mãi”, hay “tròn hoài”, như tôi đã tưởng!

Đúng như nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã ví von, có thể hình dung Tô Hoài “… như cái cảnh đứa bé bị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn. Xá gì chuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy.”

Tô Hoài đã “tung tẩy” không dở trong tác phẩm Ba Người KhácTalawas đã có đôi lời giới thiệu khá trang trọng về tác phẩm này:

“Cuốn tiểu thuyết 250 trang của nhà văn Tô Hoài (NXB Đà Nẵng vừa ấn hành) đang làm xôn xao dư luận trong và ngoài giới văn học. Cuộc toạ đàm về tiểu thuyết này do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức tại trụ sở Viện Văn học sáng ngày 22 tháng 12 năm 2006 đã hầu như một cuộc vinh danh lão tướng văn chương 87 tuổi”.

Trong cuộc tọa đàm này, nhiều vị thức giả đã không ngần ngại lên tiếng:

  • Hoàng Minh Tường: “Cuốn sách thể hiện sự dũng cảm và tư cách công dân của nhà văn Tô Hoài.”
  • Nguyên Ngọc: “Cách viết hay, độc đáo về CCRĐ. Không viết về nông dân mà viết về ba anh đội. Hoá ra cái thảm kịch của đất nước, xã hội, là do ba cái anh lăng nhăng. Những cuốn khác viết về nông dân là nạn nhân, nhưng đây là lại là thủ phạm. Ba kẻ chẳng có kiến thức gì cả, tự nhiên làm đảo lộn hết cả xã hội…”
  • Nguyễn Xuân Khánh: “Cuốn sách đã chạm tới một vấn đề rất nhạy cảm là Cải cách ruộng đất (CCRĐ)… Tôi chợt liên tưởng tới cách chữa bệnh về tinh thần cho con người. Người thầy thuốc, bằng những biện pháp tâm lý, tìm cho ra cái nguyên cớ sinh ra bệnh tật. Tức là làm cho nguyên nhân bệnh từ vô thức chồi lên ý thức”.
  • Lại Nguyên Ân: “Tôi nghĩ, đối với xã hội ta, sự xuất hiện những cuốn sách như cuốn này là một cách giải toả cho một trong những chấn thương của xã hội ta. Sự kiện CCRĐ để lại một chấn thương trầm trọng ai cũng biết, nhưng những người giữ quyền ăn quyền nói ở xã hội ta lại muốn xoá đi bằng cách cấm mọi người nhắc đến”.

Tôi có giấy phép hành nghề tâm lý trị liệu của tiểu bang California, và kiếm cơm nhờ đó. Có lẽ vì chút méo mó nghề nghiệp, tôi “chịu” quá những nhận định (rất Jungian và Freudian) thượng dẫn.

Tuy thế, tôi vẫn không tin rằng những tác phẩm văn học (kể cả loại kiệt tác) có thể “giải toả” những “chấn thương xã hội” do cuộc C.C.R.Đ gây ra.

“Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất đã hỏng to đến thế.” Nguyễn Hữu Đang đã viết (như thế) trên báo Nhân Văn số 4, phát hành ngày 5 tháng 11 năm 1956. Dù chậm, chúng ta cần phải nhìn vấn đề cho minh bạch và “chính qui” y như vậy.

Họa cộng sản sẽ qua, và sắp qua. Ngoài C.C.R. Đ, còn nhiều “vụ động trời” khác nữa – Nhân Văn, Xét Lại, Đổi Tiền, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Mười Ngày Học Tập, Thu Vàng Bán Bãi Vuợt Biên … – chưa xử và bắt buộc phải xử, trong tương lai gần.

Vấn đề không phải là để truy thù hay báo oán. Truyền thống văn hoá bao dung dân tộc Việt không cho phép bất cứ ai thực hiện điều đó. Tuy nhiên, quá khứ cần phải được thanh thoả – và không thể thanh thỏa bằng một (hay vài) cuốn truyện– để chúng ta đều cảm thấy được nhẹ lòng, và an tâm hơn khi hướng đến tương lai.


 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hoàng Chí Bảo

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

03/07/2024

Tui nghèo tiền của nhưng luôn luôn rất giầu tình cảm, và vô cùng đa cảm nên hay yêu thích những câu thơ cùng những nhà thơ (lãng mạn) ngay từ thuở thiếu thời:

  • Ôi! nắng vàng sao mà nhớ nhung!
    Có ai đàn lẻ để tơ chùng ?
    Huy Cận
  • Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió,
    Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây. 
    Xuân Diệu

Mãi đến già – và cho tới khi gần chết, như vào lúc này đây – tôi mới biết ra rằng nhị vị tác giả của những câu thơ thượng dẫn chả ai lãng mạn (hay vẩn vơ) gì ráo trọi, theo như lời của nhiều người cầm bút khác:

  • “Hai ông bạn, có chỗ này quả là giống nhau: cùng ăn rất khoẻ và chỉ thích thịt cá, trứng vịt lộn, nghĩa là những thứ nhiều prôtit… Tôi thấy Xuân Diệu rất thích uống bia và húp trứng sống. Khi anh mất, Vũ Tú Nam nói, Xuân Diệu đã bồi dưỡng nhầm là vì thế. Huy Cận cũng vậy. Phải nói là tham ăn.” (Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh).
  • “Lần đi Hồng Gai ấy, lúc trở về Hà Nội, ghé một quán phở mậu dịch sơ tán dọc đường, Huy Cận tươi cười hỏi cô bán phở đang thái tảng thịt chín: Cô thái thịt rất khéo, cô có muốn tôi đọc thơ cô nghe không? Cô mậu dịch viên lúng túng không biết trả lời sao… Huy Cận nói thêm, vẫn giọng tếu táo: Thế cô có nhận ra tôi không đã, tôi là Huy Cận, cô đi học đã học thơ Huy Cận chưa? Tôi sẽ đọc thơ tặng cô, nhưng cô phải cho bát phở Huy Cận nhiều thịt.” (“Giai Thoại”. Vũ Quần Phương).
  • “Chắc cháu biết thi sĩ Xuân Diệu, ông ta không có công tác gì nhiều, ‘cái cần câu cơm’ của ông là bài thuyết trình ‘Đạo Đức Bác Hồ’ và ‘Tiết Kiệm Để Sản Xuất.’ Hai bài thuyết trình nối với nhau bởi một đoạn kể chuyện Bác Hồ dạy người cần vụ đặt miếng xà-phòng sau khi tắm lên viên gạch để xà-phòng ráo nước, cứng, lâu hao mòn.

Một hôm nhà máy phân bón nơi tôi làm việc, được chỉ thị đón nhà thơ Xuân Diệu đến thuyết trình. Đảng cử đồng chí giám đốc và tôi đi đón, trên đường thi sĩ Xuân Diệu nói: Tôi nói chuyện với nhà máy thì cũng quá trưa, vậy trưa nay nhà máy cho tôi ăn gì nào? Gà nhé?

Một lúc sau, thi sĩ Xuân Diệu lại lên tiếng: ‘Có ăn trưa rồi thì phải có uống chứ? Mà ngay lúc tôi nói cũng phải có gì cho tôi giải lao nhé, thôi để tôi gợi ý cho các đồng chí là cho tôi uống bia nhé? Uống nước lã tôi hay đau bụng.”

(Nguyễn Chí Thiệp. Trại Kiên Giam. Los Angeles, CA: Sông Thu, 1992).

Chứ có mấy “nhà thơ cùng thế hệ” (và sống cùng nơi) với “ông ấy” mà không thèm ăn uống?

Miếng thịt lợn chao ôi là vĩ đại!
Miếng thịt bò lại vĩ đại bằng hai
Chanh, muối, cam, đường, lạc, đỗ, gạo, khoai
Tất cả những gì người có thể nhai
Đảng mó tới tự nhiên thành vĩ đại

Mà Đảng thì “mó tới” có sót một thứ gì đâu nên ai cũng có thể gạ gẫm (năn nỉ hay vòi vĩnh) một miếng thịt gà, khi có dịp, chứ nào có riêng gì Xuân Diệu. Nhà thơ của chúng ta, chả qua, chỉ là một kẻ sinh bất phùng thời (thôi) nên đâu có chi để mà dè bỉu hay chê trách.

Cái thời bao cấp (thổ tả) ấy, may quá, đã xa như dĩ vãng. Sau khi Đảng dũng cảm nhìn vào sự thực, quyết tâm đổi mới toàn diện, và cương quyết bẻ lái con tầu tổ quốc (theo hướng kinh tế thị trường) thì bộ mặt của xã hội đã hoàn toàn thay đổi – theo như nhận xét của T.S Nguyễn Hữu Liêm: “Nay dân chúng không còn ăn để no, mà phải ngon; mặc không chỉ đủ ấm, mà phải đẹp. Chúng ta phải công bằng ghi cho Nhà nước VN điểm cộng.”

Thêm một điểm cộng nữa, cũng cần phải được ghi luôn, là sự đổi thay trong chính sách đãi ngộ của Đảng đối với văn nghệ sỹ và trí thức mà tiêu biểu là trường hợp của G.S, T.S Hoàng Chí Bảo.

Ông tiến sỹ cũng chuyên nghề kể chuyện về cuộc đời (cần – kiệm – liêm – chính) của Hồ Chủ Tịch và được giới truyền thông của Nhà Nước tung hô (lên đến tận Giời) chứ không còn bị ghẻ lạnh, hay coi thường, như cái thời của ông thi sỹ nữa:

Không chỉ được vinh danh, và được chi trả hậu hĩnh, G.S Hoàng Chí Bảo còn được hưởng “đặc lợi” nữa cơ – theo như tường thuật của nhà báo Nguyễn Thông, qua một bài viết ngắn, xin ghi lại toàn văn (không sót một chữ nào) kể luôn cái tựa:

Đặc lợi

Nhớ hôm ra sân bay TSN (hôm nào, nhà cháu chả khai lúc trốn trong đống rơm đâu) gặp sự này: Làm thủ tục vé xong, nhà cháu ra ngoài rìa đường làn A hút thuốc, dù biết “hút thuốc dẫn đến cái chết từ từ và đau đớn” như hãng Craven đã cảnh báo.

Một cái xe biển xanh 80 xịch tới, một xe còi hụ cảnh sát bám đít cũng xịch. Nhân viên cung kính mở cửa xe 80, một ông già trán hói đồi mồi bước ra. Nhà cháu hay tò mò đọc báo nên nhìn là biết đích thị ai rồi.

Ông giáo sư tiến sĩ dân quen gọi đùa là giáo sĩ tiến sư, nghề nghiệp chuyên… nói phét về cụ Hồ. Cả đám tiền hô hậu ủng đưa tiễn, có cả thượng tá công an, cung kính mang vác, dắt dẫn, đưa vào làm thủ tục ưu tiên.

Thôi thì người già, kính lão đắc thọ, lại có tí danh tí quyền, cũng được đi. Chắc có nơi nào trong miền Nam chưa giác ngộ cách mạng, mời ngài vào để ngài thực thi nghề nghiệp.

Tôi có ý chờ xem sao. Hút thêm điếu nữa, lại điếu nữa, rồi ngồi phệt xuống ngó hai chú tài xế đang bước tới bước lui sốt ruột. Cả nửa tiếng chả thấy ai ra, nhà cháu sợ trễ chuyện mình liền lò dò vào. Qua cửa an ninh, lên trên, thấy giáo sĩ, thượng tá và cả đám vẫn đang ngồi ăn uống.

Chắc hai chú tài sẽ phải bồn chồn đi lại hút thuốc thêm cả gói nữa. Tôi không tị nạnh gì với giáo sĩ kia. Mình mà tiếng tăm như vậy có khi còn 5 – 7 xe hộ tống là đằng khác. Chỉ sực nhớ nơi này quy định rất rõ, dán cả chữ lên tường lên cột, rằng xe đưa khách tới nhà ga chỉ được dừng tối đa 5 phút.

Nhớ lần trước đứa cháu chở tôi đi, xe cũ khó mở thùng sau, lúng túng lấy đồ, mà chưa đầy 5 phút đã có 2 chú công vụ to con đeo dùi cui tới đuổi quầy quậy. Nghĩ thương phận dân đen, ngay cả cái chỗ cần sự công bằng nhất cũng chả có công bằng. Hơn nửa tiếng đồng hồ, 2 cái xe biển xanh cứ chiếm chỗ, không đứa lực lưỡng dùi cui nào dám ngó tới, nói chi lại gần nhắc nhở.

Tôi tận mắt chứng kiến nhưng không thèm chụp ảnh bởi những ảnh này chả bõ chụp, đã có camera ở đó ghi lại tất. Chỉ muốn nói rằng đặc quyền đặc lợi là thứ đặc sản của nhà cai trị ở xứ này, họ chỉ từ bỏ bằng mồm chứ thực tế không bao giờ bỏ được.

Nghe tôi phàn nàn, người bạn bảo ở các nước dân chủ văn minh, giáo sư chứ ông giời cũng cứ phải như mọi người. Anh ấy còn kể thủ tướng Anh khi hết chức, rời tòa nhà ở phố Downing phải tự cùng vợ con vận chuyển đồ lên xe, tự lái xe về, đâu như mấy ông kễnh xứ mình. Chiếm chỗ như kiểu ở Tân Sơn Nhất vừa kể, pháp luật nó lại chả phạt cho lòi mắt ra. (Nguyễn Thông – 27.09.2022).

Bài báo thượng dẫn đã được nhiều trang mạng đăng lại cùng với vô số lời bình. Tất cả đều rất rườm lời (hoặc rất rườm rà) đọc mà phát mệt luôn. Chớ nói cho nó gọn (và cho nó lẹ) thì chỉ cần một từ là đủ: tởm!


 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tô Lâm & Bùi Tuấn Lâm

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Trang Tuổi Trẻ Kon Tum có mục (“Mỗi Tuần Một Câu Chuyện Đẹp”) khá hấp hay. Tuần này, chuyện kể về một người già độc thân rộng rãi và hào phóng:

Quán bún bò 199 là chỗ dựa tài chính vững chắc giúp ông Lâm Kim Hùng (66 tuổi, Đồng Nai) nuôi hàng chục sinh viên nghèo hiếu học. Quán của ông vừa là nơi ăn ở miễn phí vừa là nơi tạo công ăn việc làm cho các bạn kiếm thêm thu nhập…

May mắn trong việc kinh doanh, quán bún bò mang lại nguồn thu nhập ổn định. Thế nhưng, vì sống một mình, nên khoảng lợi nhuận ấy quá dư giả so với cuộc sống bình thường của ông. Nhận thấy cứ để dành tiền mãi cũng chẳng được gì nên ông quyết định giúp đỡ cho những người có hoàn cảnh khó khăn.

Đối với ông, việc này không phải là làm thiện nguyện mà chỉ là ông đang trả “nợ đời”. Vì cuộc đời đã cho ông công ăn việc làm, có điều kiện hơn nhiều người nên ông mong muốn san sẻ bớt với những ai khó khăn hơn.

Tôi cũng biết một ông chủ quán khác bún bò hào sảng khác, tên Bùi Tuấn Lâm (BTL) ở Đà Nẵng. Nhân vật này cũng rất thường hay “trả nợ đời” bằng cách “san sẻ”, dù hơi nặng gánh gia đình:

Tối nay, ông lại ngang quán mình.

 Nhưng lúc nào ông cũng lướt đi qua rất nhanh. Và lần nào cũng vậy, mình phải chạy theo gọi ông mới quay lại. Nhưng không phải lúc nào ông cũng nhận. Có khi ông nói người ta mới cho ông tô cơm chiên ăn rồi, có khi lại nói có người cho tô cháo rồi, ông no rồi, con giữ lại bán đi. Khi nào đói ông lấy.

Và hôm nay thì ông nhận. Biết ông cả hơn hai tháng nay, từ ngày mở quán. Nhưng ít khi nói chuyện nhiều, vì ghé lấy rồi đi. Nay ông đứng đợi chiên gà lại cho nóng. Nên nói chuyện hỏi thăm, mới biết hằng ngày ông đi bán đến 2, 3h sáng. Và sau đó thì ghé công viên 23-9 ngủ tạm ở gầm cầu.

 Nghe mà xót.

 Gởi đồ cho ông, rồi lại dặn. Như những lần trước con nói, nay con nhắc lại ông nha, ông cháu mình vui vẻ quý mến nhau. Nên cứ đi ngang qua quán con thì ghé vào lấy đồ ăn nha, không ngại ngùng gì hết, cứ xem như con cháu. Tiền thì con không có, nhưng đồ ăn thì con luôn có nghen ông…

Cảm ơn con.

 Dạ con chào ông, chúc ông ngon miệng.

 Rồi nhìn ông lầm lũi bước đi, tự nhiên cay cay. Nghĩ lại mình còn sướng quá ấy chứ. Cảm tạ Chúa, vì nay con mở hàng món mới được tốt lành. Xin cho con buôn bán được thuận lợi, để qua đó con có thể làm được những chuyện bé nhỏ như này, và có tiền đặng còn trả nợ nghen Chúa.

 Lạy Chúa con yêu mến Ngài. Amen.

 Peter Lam Bui 26/05/2020

Phóng viên Bùi Thư (BBC) tường thuật: “Bên cạnh bán bún bò, ông Bùi Tuấn Lâm còn tổ chức bữa ăn 0 đồng cho những người có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn.”

Ngoài tính hào hiệp, BTL còn giầu chất hiệp sỹ và nghệ sỹ nữa. Ông là thành viên của Câu Lạc Bộ Bóng Đá No-U, luôn góp công góp sức giúp đỡ cho các gia đình tù nhân lương tâm, thường tham dự vào những cuộc biểu tình chống ngoại xâm, và hay đăng tải những bài viết liên quan đến việc bảo vệ môi trường.

Tất cả những hoạt động của ông đều không “được lòng” nhà nước (hiện hành) nên BTL bị sách nhiễu thường xuyên, và đôi lúc còn bị bạo hành. FB Hoang Vu cho biết:

“Vì lẽ đó, công việc làm ăn và chỗ trọ của Phêrô Bùi Tuấn Lâm ở Sài Gòn luôn bị công an làm khó dễ, hạch sách đủ kiểu… Sau khi lập gia đình, nhắm không thể trụ lại ở thành Hồ, Lâm Bùi đành đưa vợ về quê nhà là Đà Nẵng để tìm kế sinh nhai.

Từ lúc có 3 cô con gái xinh xắn, Lâm Bùi đã không còn tham gia phong trào đấu tranh như trước, chỉ lo kiếm tiền nuôi con bằng những công việc trang trí thiết kế tự do và bán quán Bún Bò BA CÔ GÁI. Những lúc rảnh rỗi thì Lâm Bùi mới lên facebook bình luận hài hước một số sự kiện thời sự, châm biếm những bất cập của cuộc sống…”

Cuộc sống ở VN hiện nay lại có quá nhiều điều “bất cập” để mà “bình luận” (hay giễu cợt) nên sự “hài hước” của BTL đã khiến ông bị bắt giam. Phil Robertson, thành viên của tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền, tường thuật:

“Bùi Tuấn Lâm trở nên nổi tiếng vào tháng Mười một năm 2021 khi làm một đoạn video chế ghi hình bản thân bắt chước đầu bếp nổi tiếng có nghệ danh là Thánh Rắc Muối, người mấy ngày trước đã nổi như cồn ở Việt Nam sau khi rắc muối lên miếng bít tết dát vàng giá 2000 đô la và bón tận miệng cho bộ trưởng công an Việt Nam, Tô Lâm.

Trong đoạn video của mình, Bùi Tuấn Lâm thay miếng bít tết dát vàng bằng tô mì thường nhật với vài lát thịt và hành. Đoạn video này cũng được lan truyền rộng rãi, mang lại cho Bùi Tuấn Lâm cái tên lóng ‘Thánh Rắc Hành’ và tai tiếng cho ông bộ trưởng.

Người của ông bộ trưởng ra đòn trả đũa rất nhanh. Công an sách nhiễu và đe dọa Bùi Tuấn Lâm, 39 tuổi, theo dõi ông gắt gao, triệu tập và thẩm vấn ông, cũng như gây sức ép buộc ông đóng cửa quán mì bên lề đường của mình. Tháng Chín năm 2022, nhà hoạt động nhân quyền lâu năm bị bắt với cáo buộc ngụy tạo về ‘hành vi tuyên truyền chống nhà nước’ …. Tòa án kết án ông năm năm rưỡi tù giam cộng thêm bốn năm quản chế …”

Bản án này có hà khắc quá không?

Không đâu!

Vụ BTL và Tô Lâm không chỉ giản lược vào một cái án tù nặng nề mà còn nhiều màn “trả đũa” bẩn thỉu và ti tiện khác nữa, và chưa biết đến bao giờ mới có điểm dừng. Ngày 27 tháng 05 năm 2023, bà Lê Thanh Lâm cho biết:

Tôi không được vào tham dự phiên tòa. Tôi bị bạo lực, bị xúc phạm danh dự, bị xâm phạm thân thể. Hai em trai của chồng bị đánh bầm dập ngay trước tòa án.

Tôi không khỏi rùng mình khi nghĩ về những gì mà tôi và gia đình đã trải qua vào ngày diễn ra phiên toà xét xử chồng tôi là Bùi Tuấn Lâm. Tôi không nghĩ nơi mình đang đứng là trước cổng toà án và sau đó là UBND Phường mà lại bị chính những người của bộ máy công quyền hành xử thô bạo như thế.

Ngày 13 tháng 10 năm 2023 vừa qua, bà Lê Thanh Lâm  còn cho biết thêm:

Trại Giam Đà Nẵng ngăn cản không cho mẹ con tôi thăm gặp Bùi Tuấn Lâm?

Đã 2 tháng trôi qua, gia đình tôi vẫn chưa được thăm gặp ba của bọn trẻ.

 – Trong tháng 9, không có cuộc gặp nào vì họ nói chồng tôi bị kỷ luật.

 – Tháng 10, họ đồng ý cho thăm gặp lại nên đã nhận đơn từ ngày 2/10. Nhưng đến nay không giải quyết. Cán bộ trại giam nhận đơn của tôi đến hôm nay đã chặn luôn số điện thoại của tôi. Phó giám thị thì nói không nhận được đơn trình báo. Tất cả các phòng ban và cán bộ đều đùn đẩy qua lại cuộc thăm gặp này…

 Thật khốn nạn!

Khốn nạn thì đã hẳn nhưng đôi ba câu hỏi vẫn cần được đặt ra: sao họ lại có thể khốn nạn đến thế được, và “họ” là ai vậy?

Xin thưa: họ là những người đeo đồng hồ mua bằng nhiều tỷ đồng, ở biệt phủ trị giá hằng trăm tỉ, trả học phí cho con nhiều gấp trăm lần tiền lương hàng tháng. Họ cũng là những kẻ có đủ nhẫn tâm ăn một miếng thịt bò dát vàng (trị giá “tương đương với tám tấn lúa khô”) trong khi suy dinh dưỡng vẫn là một vấn nạn lớn đối với rất nhiều trẻ thơ ở Việt Nam.

Quan niệm, thái độ, cũng như cung cách vị tha của BTL hoàn toàn tương phản với cuộc sống vị kỷ, bê tha và bất cận nhân tình của họ. Sự hiện diện cùng lối hành sử của ông đã khiến họ rất bận lòng. Bởi thế, họ đã tìm cách giam ông vào một nơi cho khuất mắt rồi nghĩ ra đủ trò đê tiện để hành hạ BTL và gia đình thân nhân của ông cho … thỏa dạ tiểu nhân.

Những kẻ ti tiểu, ác độc và bất nhân như thế thì ở đâu và thời nào mà không có. Điều không may của dân tộc VN là chúng lại đang “lãnh đạo” cái đất nước khốn khổ và bất hạnh này!