S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hát Xẩm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

17/09/2024

Rằm tháng Tám (Tết Trung Thu) tôi hú cả đống bạn bè tụ tập lại chơi, và uống sương sương vài chai cho vui nhà vui cửa – nhân lúc “nhà tôi” …đi vắng. Sau khi cạn mấy ly đầy, rồi đầy vài ly cạn, và lại cạn thêm mấy ly đầy nữa thì tất cả chúng tôi đều “ngỡ như trẻ thơ – dù tóc đều đã bạc từ lâu!

Cả đám đồng ca bài Thằng Cuội. Bản nhạc mà có lẽ đứa bé nào sinh trưởng ở miền Nam (vào thập niên 1950 – 1960) cũng biết. Đây là bài đồng dao được nhạc sĩ Lê Thương viết bằng những lời lẽ rất tân kỳ, dù nền tân nhạc Việt Nam (vào thời điểm này) còn ở giai đoạn phôi thai:

Bóng trăng trắng ngà có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ …

Lặng nghe trăng gió hỏi nhau
Chị kia quê quán ở đâu
Gió không có nhà
Gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng
Trên trời nước ta…”

Các con dế mèn suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ

Hát bội, hát chèo, hát cô đầu, hát cải lương, hát hồ quảng… để kiếm sống ra sao thì tôi không biết. Chớ còn hát xẩm thì dù có được (cho) tiền, vẫn nghèo xơ xác.

Thuở ấu thơ, thỉnh thoảng, tôi vẫn nhìn thấy những người hát xẩm. Họ thường ngồi ở cầu thang chợ Đà Lạt, vào lúc chợ đông, gẩy những tiếng đàn buồn bã (và hát những bài ca u uất) giữa sự hờ hững của đám đông – “ông đi qua bà đi lại”!

Đó là chuyện hát xẩm miền Nam, trong trí nhớ non nớt của tôi, khi đất nước đã hoàn toàn chia cắt. Ở miền Bắc, sinh hoạt của giới người này (có lúc) lại hoàn toàn khác hẳn :

“Khi hoà bình mới lập lại 1954, ông (nhà văn Thanh Tịnh) được giao phụ trách một đoàn xẩm, gồm 23 anh chị em, phần lớn là mắt kém, đi về hướng Bùi Chu – Phát Diệm, lấy lời ca tiếng hát dân gian để động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ di cư của kẻ địch mà hãy ở lại với quê hương.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người. Phương Nam: 2002).

Quê hương, tuy thế, xem ra cũng chả “ưu ái” gì lắm với những người ở lại. Ngay cả Thanh Tịnh (một nhà văn tăm tiếng, biên tập viên của tạp chí Văn Nghệ, sĩ quan cao cấp của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Anh Hùng) mà ngó bộ cũng không được hạnh phúc hay vui sướng gì lắm, ngay giữa lòng cách mạng :

“Ở vào cái tuổi chưa đầy sáu muơi mà Thanh Tịnh những năm đó trông đã già lắm, già hơn tuổi rất nhiều… muốn biết Thanh Tịnh đơn độc thế nào phải nhìn những lúc ông đi bộ. Trên đường Phan Đình Phùng, duới những hàng sấu, cũng già cả mệt mỏi, ông bước đi như không thể dừng lại nên phải bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ đẫn.” (Vương T.N. s.đ.d 181).

Với hàng triệu người di cư thì hậu vận cũng không sáng sủa gì hơn. Họ bị bắt lại, trọn đám, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng! Từ đây, Nam/Bắc hoà lời ca. Một bản trường ca rất khó hát nên hằng triệu kẻ đã liều mạng đâm xầm ra biển, hay ù té bỏ chạy thục mạng qua biên giới xứ người.

Họ thuộc thành phần “bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, chây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” – theo như nguyên văn lời giải thích của giới truyền thông trong nước với dư luận thế giới, và với lũ cột đèn (còn) ở lại.

Không hiểu đám người này đã hành nghề ma cô, đĩ điếm và tổ chức trộm cướp ra sao – nơi đất khách – nhưng số lượng bơ thừa sữa cặn mà họ gửi về cố hương đã cứu toàn dân, cũng như toàn Đảng, thoát chết (đói) nhiều phen. Từ đó, Bộ Chính Trị bèn đổi mới tư duy, và báo chí nhà nước cũng bắt đầu… đổi giọng.

Chỉ qua một đêm, tiếng Việt (bỗng) có thêm nhiều cụm từ rất mới và (nghe) rất thân thương: khúc ruột xa ngàn dặm, sứ giả Lạc Hồng, thành phần không thể thiếu trong đại gia đình dân tộc …  Bộ Ngoại Giao VN cũng có thêm một vị Thứ Trưởng, Chủ Nhiệm Ủy Ban Người Việt Ở Nước Ngoài.

Nếu bỏ những chức danh vừa kể, cho nó đỡ rườm rà, và nói trắng phớ ra thì đây chỉ là một đoàn hát xẩm tân thời. Nhiệm vụ mới không phải là động viên người dân ở lại như thời Thanh Tịnh (vì chúng đã thoát được rồi) mà là kêu gọi họ đừng nỡ ngoảnh mặt đi luôn, tội lắm!.

Nói cho chính xác thì trước khi cái “đoàn hát xẩm” này được chính thức thành lập, Đảng và Nhà Nước cũng đã từng có những “động thái” để hoà giải với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, cụ thể là chuyến công du Hoa Kỳ (vào năm 2004) của bà Tôn Nữ Thị Ninh – Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Đối Ngoại Quốc Hội.

Chỉ tiếc có điều là cái giọng hát xẩm của bà Ninh lại không được dễ nghe cho lắm :– Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.

–  Mình là thế thượng phong của nguời chiến thắng, mình cần chủ động, người ta không thể chủ động được do mặc cảm, cũng không thể yêu cầu ngươi ta đi trước, họ đứng ở vị trí không thuận lợi trong tiến trình lịch sử.

Đã ngồi ngửa nón ăn xin giữa chợ đời mà còn ca ông ổng (“mình là thế thượng phong”) như thế thì có mà ăn cứt. Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Thị Thu Hằng – Chủ Nhiệm Ủy Ban Người V.N Ở Nước Ngoài – cũng thế (cũng không biết thế nào là nghề hát xẩm) nên giọng ca rất khó nghe: “Một bộ phận bà con vẫn chưa thực sự mở lòng, xóa bỏ định kiến tiếp, chưa có nhận thức đúng, đủ, kịp thời về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”.

G.S Nguyễn Văn Tuấn nhận xét:

“Tôi thấy phát ngôn này hơi bậy nè. Bà con ở ngoài này, nếu họ quan tâm đến quê hương, thì họ có nhiều thông tin hơn những gì báo chí do Nhà nước kiểm soát cung cấp. Chị có để ý là cứ mỗi lần có thay đổi nhân sự ở trong nước thì bà con ngoài này đã biết trước khi báo chí đưa tin cả tháng trời. Họ thậm chí còn biết những chuyện ‘thâm cung bí sử’ do chính những bà con trong nước chuyển ra.

Chẳng hạn như làm sao bà con trong nước đọc được các tác phẩm của Vũ Thư Hiên, Tô Hải, Trần Đĩnh, Lê Phú Khải, v.v. nhưng bà con ngoài này thì đọc lâu rồi. Chị có vẻ xem thường bà con ở hải ngoại.”

Chị Hằng, nói nào ngay, cũng không đến nỗi xem thường “bà con ở hải ngoại” bằng người tiền nhiệm, T.T Nguyễn Thanh Sơn. Ông cựu Chủ Nhiệm Ủy Ban Người Việt Ở Nước Ngoài ăn nói còn khó nghe hơn thế nữa cơ:

  • Họ ra đi, đem theo hận thù và hận thù đó, rất đáng tiếc, được nuôi dưỡng bởi sự không hiểu về chúng ta, bởi những tuyên truyền sai lệch về chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội. Sự sợ hãi đó gây nên nhiều thiệt thòi cho bà con. 
  • Trong rất nhiều người đã về Việt Nam, chúng tôi đã gặp, và chúng tôi biết chứ, rất nhiều người tham gia những cuộc biểu tình trước đây… Chúng tôi có hỏi một vài người tại sao lại tham gia như thế làm gì thì họ bảo là thực tế nói thật là cũng đi để kiếm thêm vài ba chục đô la vì họ phát tiền, họ cho tiền thì tại sao không đi.

Với cái đám “bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn” và sẵn sàng đi biểu tình chỉ “để kiếm thêm vài ba chục đô la” mà Đảng và Nhà Nước mong họ “tích cực đóng góp xây dựng đất nước” thì quả là ước mong rất đỗi viển vông. Cũng viển vông y như dự tính huy động tiền và vàng của người dân trong nước vậy.

Túng quá nên hoá quẫn chăng?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Biệt phủ & biệt thự

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

13/09/2024

Tôi vốn duy tâm (và hơi duy cảm) nên gần như chả có tham vọng, hay khát vọng gì nhiều về vật chất. Trước khi về Trời (hay về đâu đó) tôi chỉ có ước vọng duy nhất là được ngồi trong khoang hạng nhất – First Class, hay Business Class cũng ok – trên một chuyến bay đường dài, từ châu Mỹ sang châu Á.

Sau khi xem qua giá vé, tôi đổi ý liền, tới mấy ngàn Mỹ kim lận. Ở quê tôi không ít người phải bán thân (hay bán thận) mà chỉ được vài trăm đô la thôi nên tôi đâu có điên mà… vứt tiền qua cửa sổ như vậy.

Đã vậy, tôi cũng hơi ngại ngần rằng cái thứ thường dân tị nạn như mình mà giả dạng làm du khách e cũng khó coi. Tôi còn sợ là mình sẽ vô cùng lúng túng khi được những tiếp viên hàng không tiếp đãi trang trọng quá.

Cách đây chưa lâu tôi cũng đã có đôi chút kinh nghiệm (rất phiền) khi bầy đặt làm sang, liều mạng thuê một cái phòng ngủ hơi mắc tiền ở Rangoon – Miến Điện. Vừa bước xuống taxi, nhân viên khách sạn túa ra chào đón khiến tôi hết hồn hết vía.

Họ đưa tôi vào một cái phòng rộng thênh thang có bàn ăn, bàn viết, bàn phấn, tủ lạnh, sofa tiếp khách to đùng, và cả hoa tươi trên table de nuit. Mình ên tui mà tới hai cái giường ngủ lận, cái lớn/cái nhỏ, ra nệm trắng tinh. Trên mặt gối còn có đặt mấy búp sen hồng tươi thắm và thơm ngát nữa.

Tôi chỉ dám nằm ké né chút xíu xiu ở mí giường thôi, và nằm thao thức cho tới gần sáng luôn vì không quen ngủ ở một nơi sang trọng. Đợi mặt trời vừa lú là tôi cút ngay vì ngại cái cảnh nhân viên khách sạn (lại) chắp tay xá chào khi từ biệt.

Tôi trở lại với mấy cái nhà trọ rẻ tiền quen thuộc, chi phí chỉ vài Mỹ kim một ngày thôi – breakfast included. Tuy phải nằm giường hai tầng, và ngủ chung phòng với mấy cô/cậu Tây ba lô (xốc xếch) nhưng tôi cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Tưởng chừng như mình là một con cá hồi, vừa tìm lại được đúng dòng sông cũ vậy!

Hoá ra Oscar Lewis cũng không sai lắm. Nhà nhân chủng học này đưa ra cái khái niệm culture of poverty (văn hoá nghèo) và tin rằng một kẻ sinh trưởng và nuôi nấng từ một gia đình – và đất nước nghèo khó – như tôi rất khó thích ứng với những sinh hoạt của nếp sống phú túc nên cứ … nghèo hoài, cho tới chết luôn!

Tui cũng sắp chết tới nơi rồi nên không có gì để phiền hà ráo trọi nhưng khi còn sống thì nhất định không để cái văn hoá nghèo biến mình trở thành một kẻ nghèo văn hóa.

Chỉ cần ngồi nhà – không phải tiêu dùng một đồng nào ráo trọi – xem một bộ phim tài liệu (Amazing Hotels: Life Beyond the Lobby) dài sáu tiếng, cũng đủ giúp tôi học hỏi rất nhiều điều kỳ thú về những khách sạn lạ lùng và sang trọng vòng quanh thế giới: Marina Bay Sands (Singapore), Giraffe Manor (Kenya), Royal Mansour (Morocco), Fogo Island Inn (Newfoundland), Icehotel (Sweden) …

Riêng Mashpi Lodge thì tôi coi đi coi lại tới vài lần. Mashpi được coi là “Five Star Ecohotel.” Có tên trong danh sách những khách sạn độc đáo của thế giới do National Geographic tuyển chọn, dù Mashpi chỉ chiếm một diện tích rất khiêm tốn, và nằm ẩn mình trong khu rừng mây (cloudy forest) xa khuất thuộc rặng núi Andean ở Nam Mỹ.

Chủ nhân là Roque Sevilla (cựu thị trưởng Quito, thủ đô của Ecuador) người trở thành triệu phú nhờ vào dịch vụ bảo hiểm và truyền thông, đã mua 1.200 mẫu Tây đất rừng với giá 350, 000 USA dollars, và bỏ thêm 10 triệu Mỹ Kim nữa để xây dựng quán trọ Mashpi Lodge. Ông tâm sự: “Mọi người đều nghĩ rằng tôi điên. Everybody thinks I’m crazy.”

Với số vốn lớn lao này mà khách sạn chỉ có 22 phòng thì quả là “khùng” thiệt nhưng mục đích của Roque Sevilla không phải là đầu tư sinh lợi. Ông muốn cứu vãn, và bảo vệ, một phần rừng nguyên sinh đang bị mất dần vì sự khai thác quá tải của những công ty cung cấp gỗ.

Phần lớn nhân viên của Mashpi Lodge vốn là thợ làm rừng hay thợ săn. Nay họ đều trở thành những chuyên viên bảo vệ thiên nhiên. Kết quả là nhiều chủng loại (chim chóc cũng như động vật hoang dã) mất dạng từ hơn nửa thế kỷ đã có mặt trở lại trong khu rừng mây của Mashpi Lodge – theo ghi nhận bởi camera traps của nhà sinh vật học thường trú Carlos Morochz.

Tôi cứ nhìn cái khách sạn thiết kế toàn bằng kiếng (để du khách đứng ở góc nào cũng có thể tiếp xúc với thiên nhiên) với thư viện, phòng thí nghiệm, đài quan sát … của ông thị trưởng Quito mà không khỏi ngẩn ngơ và chạnh lòng nghĩ đến giới quan chức ở đất nước mình.

Thay vì bảo vệ thì những kẻ này chính là thủ phạm đã phá nát rừng núi ở Việt Nam để khai thác gỗ kiếm tiền, và xây những biệt thự hay biệt phủ :

– Biệt phủ Yên Bái và tài sản bất minh

– Bất ngờ biệt phủ gỗ quý của lãnh đạo kiểm lâm

– Biệt phủ xây bằng 2.000 m3 gỗ quý của đại gia xứ Nghệ

– Hoa mắt trước biệt phủ rộng thênh thang bằng gỗ quý của ông Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị

– Vì sao quan chức lại có dinh thự, “biệt phủ” xa hoa đến vậy?

– Hình ảnh khu “biệt thự quan chức” ồn ào ở Lào Cai

– Biệt thự quan chức: Những dinh thự, biệt phủ “ồn ào” dư luận thời

– Biệt thự Sơn La là của em trai Chủ nhiệm UB Kiểm tra tỉnh

– Con gái nguyên lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đứng tên “biệt phủ”

– 137 biệt thự trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà: “Tối mật” hay mặt tối của một toan tính

– Biệt phủ vẫn sừng sững sau những ồn ào

Bà Nguyễn Hải Vân, một chuyên viên về môi trường cho hay :

“Rừng phòng hộ ở Việt Nam đang suy giảm mạnh cả về diện tích và chất lượng. Chỉ tính từ 2004-2014, diện tích rừng phòng hộ đã giảm 1,7 triệu hécta, tương đương tốc độ suy giảm trung bình 23%/năm.”

Nhà báo Trương Châu Hữu Danh nhận xét :

“Trên khắp dải đất hình chữ S này, nhà gỗ triệu đô không hiếm. Nhưng những căn nhà này không thuộc về giới siêu giàu, giới doanh nhân. Những căn nhà này, trớ trêu thay, lại là của cán bộ. Sau lệnh đóng cửa rừng, các món đồ gỗ, nhà gỗ này càng trở nên vô giá.

Một thực tế là nhà cán bộ càng to thì lũ càng lớn, dân chết càng nhiều. Những căn nhà xa hoa này được đánh đổi bằng mạng dân. Các vị ngủ có ngon không khi dưới chân mình là xác dân lập lờ trong lũ dữ?”

Theo tôi thì “các vị cán bộ” này đều vẫn ngủ rất ngon vì họ được bảo vệ rất kỹ trong những căn “nhà gỗ triệu đô” bởi chế độ hiện hành. Qua lệnh xử phạt “500 triệu đồng và cho tồn tại ‘biệt phủ’ của gia đình ông Phạm Sỹ Quý” ở Yên Bái, mọi người đều thấy được cái tâm, cũng như cái tầm, của những người hiện đang nắm quyền bính ở Việt Nam. Đất nước này tuy không nằm trên đường xích đạo như Ecuador nhưng số phận thì e đen đủi hơn nhiều.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Mạ Thủ & Cò Mù

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

10/09/2024

Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe cư dân mạng than phiền về những dư luận viên (DLV) của chế độ hiện hành:

  • Nguyễn Tiến Dân: “Trong đám Tuyên giáo, thành phần lưu manh nhất – cặn bã nhất, chính là cái lũ, mà CS gọi là dư luận viên”.
  • Võ Văn Tạo: “Vì họ kém văn hóa nên họ có kiểu viết lách khiêu khích, cục cằn, thô bỉ lắm”.
  • Trương Huy San: “Lâu nay, cứ đọc những tin nhắn tục tĩu, những cmts khiên cưỡng, ngờ nghệch mà không biết ở đâu ra.”
  • Tuấn Khanh: “Nuôi dưỡng những kẻ giòi bọ đó, như bôi tro trát trấu mặt cả chủ nuôi, liệu có ích lợi gì”?

Cá nhân tôi – hàng tuần – cũng vẫn đọc được những bài viết của các bạn DLV (dành cho riêng mình) với những lời lẽ không mấy ôn hòa, hay nhã nhặn:

Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung (“khóc thằng bán cua”) và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc.

Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ chủ trương/chính sách/ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.

Khả năng, thái độ, cũng như lời lẽ của các bạn DLV khiến nhiều người liên tưởng đến một giới người có tên gọi là mạ thủ, ở nước Trung Hoa, ngày trước. G.S Nguyễn Văn Tuấn cho biết:

“Tôi mới học được một danh từ mới: mạ thủ. Một cách ngắn gọn, mạ thủ là một kẻ chuyên nghề chửi. … Danh từ này xuất phát từ thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu. Thời đó, nhà cầm quyền huy động những người có lá phổi lớn, tiếng nói vang, và có cách chửi độc địa để làm ‘mạ thủ’…

Tàu ngày xưa là nơi sản sanh ra những mạ thủ, thì Tàu ngày nay cũng có những đội quân mạ thủ, nhưng họ mang một danh xưng văn hoa hơn: dư luận viên… Nói tóm lại, bọn mạ thủ là những kẻ không có khả năng đánh giá đúng sai, họ chỉ đơn giản là những cái máy phun ra những câu chữ mà có khi họ không hiểu”.

Tôi ít học (và ít đọc) nên không rõ lắm về bối cảnh xã hội vào cái “thời thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu”. Còn tình cảnh của các bạn DLV hiện nay (ở Việt Nam) thì hoàn toàn không được sáng sủa gì cho lắm.

Ở xứ sở này, cỡ cử nhân hay thạc sỹ còn chạy xe ôm (nhan nhản) thì nói chi đến những người không nghề nghiệp và trình độ học vấn chỉ ở mức biết đọc và biết viết. Muốn tham gia vào lực lượng xuất khẩu lao động thì cũng phải có ít nhiều vốn liếng (hay tài sản thế chấp) mới có thể vay mượn để lo lót cho một xuất đi.

Còn bán hoa, bán vé số, lao động phổ thông … chả những quá nhọc nhằn mà chắc gì đã kiếm được “ba củ” (ba trăm đô la) mỗi tháng – như lương bổng hiện nay của các bạn DLV. Tuy chỉ là đồng lương vô cùng khiêm tốn nhưng có còn hơn không, chứ không có đồng nào thì biết sống làm sao?

Trong thư gửi một dư luận viên của tác giả Dương Quốc Chính, ông tâm sự: “Chỉ vì những người lớn như các bác quá hèn, nên các cháu mới ra nông nỗi này”.

Đúng thế! Tôi cũng không cách chi chối bỏ được trách nhiệm của mình trước tình trạng bi đát, gần như không lối thoát, của con cháu hiện nay. Bởi thế, tuy vẫn bị bạn mạt DLV mạt sát đều đều, cả chục năm qua, tôi vẫn luôn lấy bồ hòn làm ngọt!

Vấn đề, tuy thế, không chỉ có thế mà thôi. Các bạn DLV mỗi lúc một đi quá xa khiến cho thiên hạ rất phiền hà và lo ngại.

Hôm 26 tháng 8 năm 2024, Nguyên Tống than phiền: “Mình thấy cần có đôi lời cần phải nói với những kẻ mà mình coi là vô học và dốt nát trên fb này… Chỉ cần có một chút tư duy thôi là họ sẽ đặt được câu hỏi: vì sao những người đang có cuộc sống hơn họ rất nhiều kia lại lên tiếng về những bất công xã hội?

Những người đó có được lợi ích gì cho cá nhân họ không? Hay chính những kẻ bần cùng khốn nạn và vô học kia đang được hưởng? Chẳng lẽ họ đã mất khả năng tư duy của một con người mà chỉ biết sủa theo hiệu lệnh chủ để kiếm khúc xương còm cõi mà gặm cho qua ngày đoạn tháng?! Cuộc sống của họ đơn giản không hơn gì con vật như vậy ư”?

Bùi Thanh Hiếu thêm:

“Điều đáng lo ngại nhất từ mâu thuẫn giữa người Việt về hệ tư tưởng không chỉ giới hạn giữa việc hai bên người Việt thoá mạ nhau, mà nó dẫn tới sự căm thù chế độ tư bản của những người thanh niên trong nước, mà ta tạm gọi là thanh niên cờ đỏ. Sự căm thù chế độ tư bản, tức căm ghét các nước tư bản của thanh niên cờ đỏ đang có nguy cơ trở thành một phong trào lan rộng, nó có thể tác động đến quan hệ đối ngoại…

Đáng nói đây không còn là sự căm thù mang tính cảm xúc nhất thời, mà dường như nó đang được thế lực nào đó thúc đẩy một cách có bài bản mang tính chuyên nghiệp, có sự tài trợ, hỗ trợ về mọi phương tiện như kinh tế hay những chính sách ưu đãi trên các nền tảng mạng xã hội.”

Nỗi “lo ngại” này được không ít người tán đồng, và chia sẻ:

  • Ngô Vưu: “Thực ra bọn đó là bọn AK47 ăn lương để quậy chửi bới trên mạng … Dân nghèo họ lo cày cuốc, làm ăn, thời gian đâu, khả năng đâu mà phá rối”.
  • Trường An : “Hiếu viết bài này đúng như suy nghĩ của mình. Nhiều khi tự hỏi, nếu không có động lực nào từ phía sau, lẽ nào bọn ấy lên đồng tập thể vậy được”.
  • Thảo Dân: “Chắc chắn khựa đứng sau dùng mạng tiktok để kích động rồi anh. Chúng không muốn người Việt đoàn kết, không muốn Việt Nam phát triển.”
  • Trần Toàn: “Não bị nhồi đậu hũ vào nên sáng tối chẳng nhận ra mù màu tịt cả mùi Anh ạ”.

Tôi thực sự không có được cái tầm nhìn xa rộng như quý vị thức giả thượng dẫn. Hiện trạng của cá bạn DLV chỉ khiến tôi nhớ đến một hiện tượng rất đáng ngại, đang diễn ra tại nơi ở đất nước mình – theo thông tin của giới truyền thông:

Báo Vietnamnet cho biết đôi ba chi tiết:

Cứ vào mùa từ tháng 3 đến mùa tháng 8, tại cánh đồng thuộc xã Xuân Liên, rất nhiều hình nộm chim giả để nhử chim thật, nhiều cây cối được trồng để làm chỗ đậu cho các loài chim trời…

Theo chân người săn chim, chúng tôi vào sâu các cánh đồng. Ở đó, ám ảnh nhất là những con chim bị khâu mắt lại. Từ những con chim bình thường, chúng bị biến thành những con chim mù, bị buộc chân giữa nắng để làm mỗi nhử đồng loại.

Theo lý giải của họ:“Sở dĩ cò bị móc mắt, hoặc lấy kim chỉ khâu mắt, biến thành cò mù vì tiếng cò bị mù mắt sẽ kêu to hơn cò bình thường nhằm gọi được đàn cò khác đến dính bẫy”.

Khâu mắt cò đã là việc làm dã man khiến lắm người cảm thấy bị “xót xa” và “ám ảnh”, nói chi đến chuyện nhẫn tâm khâu cả mắt con người để biến họ thành một “lực lượng” thông tin mù quáng và lớn họng!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vũng lầy giáo dục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

05/09/2024

Lá vẫn còn xanh. Hè vẫn còn nấn ná. Trời vẫn chưa muốn vào thu mà (không dưng) sáng nay California chợt thoáng chút âm u, và lấm tấm vài hạt mưa nho nhỏ. Mưa chưa ướt đất nhưng cũng đủ làm cho tôi hơi thấy ngại ngần khi nghĩ đến chuyện phải ra khỏi nhà chỉ vì một ly cà phê nóng.

Thôi thì bắt chước cổ nhân thắp vài cây nến nhỏ, châm một bình trà, rồi ngồi nhẩn nha đọc lại vài bức thư xưa. Lá thư cũ nhất mà tôi còn giữ được (“Thư Gửi Các Cháu Học Sinh”) Chủ Tịch Hồ Chí Minh, đề ngày 3 tháng 9 năm 1945, có mấy câu vô cùng thắm thiết và cảm động:

 “Ngày hôm nay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Bác đã tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn nhịp tưng bừng của ngày tựu trường ở khắp các nơi… từ giờ phút này trở đi các cháu bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam.”

Viễn ảnh về một ngày tựu trường “nhộn nhịp tưng bừng … ở khắp các nơi” và một “nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam” dễ khiến cho lòng người phấn chấn:

“Chúng tôi thường tự hào đây là một nền giáo dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây dưa gì nhiều với nền giáo dục mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang lại.” (Vương Trí Nhàn. “Mấy Cảm Nhận Về Sự Khác Biệt Giữa Giáo Dục Miền Nam Và Giáo Dục Miền Bắc.”  Tạp Chí Nghiên Cứu Và Phát Triển số 7-8 năm 2014).

Niềm tự hào này, tiếc thay, không kéo dài lâu. Khi có cơ hội so chiếu, nhà phê bình văn học và văn hóa Vương Trí Nhàn đã nhìn ra sự bất toàn:

 “Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh… Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng…

Nói quá lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành nhân dạng. Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm —  rồi để yên lòng nhau, sẽ viện ra đủ lý lẽ để chống chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng…”

Hệ quả, tất nhiên, là thảm họa – vẫn theo như nhận định của tác giả bài viết thượng dẫn:

“Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác, nhưng là chỉ đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính mình. Nó đã cạn kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy quyền lực cũng đều tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất là sang Mỹ để học.

Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong nước, những bài bản của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục, và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.”

Đối với những thế hệ đến sau (những kẻ sinh trưởng ngay giữa “bãi lầy”) thì vấn đề không còn gì để mà bàn cãi nữa. Vũ Thạch Tường Minh, một học sinh lớp 8, đã khẳng định như vậy: “Bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là, con không có tính từ nào khác nên con phải dùng tính từ này, là giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Mà suốt bao năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lùi mà nó vẫn không thay đổi được kết quả gì cả.”

Khoảng cách giữa nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn và cháu Vũ Thạch Tường Minh là ba thế hệ người. Tuy vậy, cả hai đều “nhất trí” là nền giáo dục hiện nay của nước CHXHCNVN (đã) hết thuốc chữa rồi!

Để minh chứng, xin xem qua một “trường hợp thú vị” – nơi một vùng quê, thuộc tỉnh Rạch Giá –  theo như nguyên văn lời của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

“Một em gốc Khmer học giỏi, thi đậu vào 3 trường đại học (2 đại học ở Sài Gòn và 1 ở ĐH Cần Thơ), nhưng cuối cùng thì giấc mơ đại học cũng đành phải bỏ. Ba má em ấy lí giải rằng: học để làm gì, nhìn quanh số sinh viên tốt nghiệp đại học thất nghiệp tùm lum cả, mà ngay cả xin được việc thì cũng cần đến 500 triệu đồng đút lót thì làm sao nhà có khả năng lo nổi.

Tôi kinh ngạc về con số 500 triệu đồng (tức là 25000 đôla), nên phải hỏi lại cho chắc ăn, thì bà con đều khẳng định đó là con số tiêu biểu, có trường hợp thấp hơn nhưng cũng có trường hợp cao hơn. Tình trạng mua chức đâu phải chỉ ở ngoài Bắc, mà đang lan về nông thôn miền Tây rồi đấy.”

Mọi tệ trạng vừa nêu đang được Đảng và Nhà Nước “đối phó” hay “giải quyết” bằng … chỉ thị số 42-CT/TW (“Tăng Cường Sự Lãnh Đạo Của Ðảng Đối Với Công Tác Giáo Dục Lý Tưởng Cách Mạng, Đạo Đức, Lối Sống Văn Hóa Cho Thế Hệ Trẻ Giai Đoạn 2015 – 2030”) như sau:

“Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ phải được tiếp tục tăng cường và nâng cao về chất lượng, nhằm góp phần xây dựng thế hệ trẻ Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức trong sáng, ý thức tuân thủ pháp luật; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng lao động, trở thành những công dân tốt, tích cực tham gia vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”

Sự thực thì thiên hạ không còn ai kỳ vọng hoặc quan tâm gì ráo vào bất cứ lời “kêu gọi” (nghe cứ như hô khẩu hiệu) nào của Đảng tự lâu rồi. Người dân tìm cách tự cứu qua nhiều nỗ lực rất đáng trân trọng, dù gặp không ít khó khăn, ngăn trở và sách nhiễu.

Từ Bangkok, biên tập viên Gia Minh có bài tường thuật (“Nhóm Cánh Buồm Ra Mắt Sách Giáo Khoa Mới”) khá bất ngờ và thú vị. Xin trích dẫn một vài đoạn ngắn:

 Nhóm soạn sách giáo khoa Cánh Buồm do nhà giáo Phạm Toàn chủ xướng vào ngày 12 tháng 8 vừa qua giới thiệu bộ sách Văn và Tiếng Việt lớp sáu tại Trung tâm Văn Hóa Pháp ở Hà Nội. Việc ra mắt sách mới của Nhóm Cánh Buồm không thuộc Bộ Giáo Dục như thế được cho là một dấu chỉ tích cực trong tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay.…

Một nhà giáo công khai đấu tranh chống những tiêu cực trong ngành giáo dục Việt Nam lâu nay, thầy Đỗ Việt Khoa cũng tỏ rõ sự ủng hộ đối với sách giáo khoa do Nhóm Cánh Buồn soạn thảo:

 “Đây là nhóm khá tâm huyết đang soạn bộ sách giáo khoa cho liên cấp từ tiểu học trở lên. Theo quan điểm của tôi làm được một bộ sách giáo khoa như vậy là công sức cực kỳ lớn, rất tốt. Sẽ có những chỗ chưa được, có người sẽ đánh giá khiếm khuyết… nhưng sửa dần không sao cả…”

Cùng vào thời điểm này, một công dân Việt Nam khác (ông Hoàng Thành, 25 tuổi) đã đến trước cổng trụ sở Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, cầm ảnh của chính mình – với poster in hình con chuột bạch đang bị tiêm thuốc – cùng dòng chữ: “Học sinh, sinh viên không phải là CHUỘT BẠCH.”

Khi được hỏi về “ý nghĩa” của việc làm này, ông cho biết:

 “Bức ảnh của tôi đơn thuần là một hình thức thực hiện quyền biểu đạt ý kiến của mình. Tôi chỉ muốn nhắn tới các bậc cha mẹ và các em học sinh … rằng: Hãy thể hiện quan điểm của mình trước các vấn đề xã hội, thay vì chỉ biết kêu than, vì đó không những là quyền của chúng ta, mà còn là cách chúng ta giúp chính quyền hiểu được nhu cầu của dân chúng và hoàn thiện chính sách sao cho hợp lý nhất…”

Ở bình diện cá nhân, cũng như tập thể – rõ ràng – đang có những nỗ lực đáng kể của rất nhiều người để vượt ra khỏi cái “vũng lầy giáo dục” hiện nay. Với ý thức và quyết tâm, chắc chắn, chúng ta sẽ “thoát” bất chấp sự ngăn trở (cùng sức ì) của chế độ hiện hành – một chế độ mà mọi người đều biết là sinh mệnh của nó đang được đo đếm từng ngày.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đám Bắc Kỳ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

03/09/2024

Trong bài viết “Tổng Quan Về Hồi Ký Tô Hoài,” Đặng Tiến có nhận xét sau :

“Ở các tác phẩm trước, Tô Hoài thường bao che, bào chữa, như là một hồi ký bao cấp. Đến Chiều Chiều, giọng kể nghiêm nghị hơn về đời sống chính trị và văn nghệ ngột ngạt những năm 1955-1970, về những sai lầm trong chính sách Cải cách ruộng đất, về những đợt học tập chiếu lệ ở trường Đảng cao cấp là trường Nguyễn Ái Quốc …”

Thực là quí hóa! Nhờ Tô Hoài đã chán viết “hồi ký bao cấp” nên qua Chiều Chiều độc giả mới biết được cuộc sống (thực) của một gia đình nông dân ở miền Bắc, Việt Nam.

Từ cái năm xây cống Trà, đồng bớt mặn khỏi mặn, ông Ngải ra vỡ hoang được chín miếng thành ruộng rồi ở luôn đấy, chẳng bao lâu những nhà khác cũng kéo ra, cái xóm to dần. Bà Ngải lại kể ngày trước ông ấy đi kéo cày mướn thay trâu.

Một con trâu thường đi suất ba sào. Ông kéo một buổi năm sào ruộng dầm gần gấp đôi trâu, chỉ đổi vai thừng một lần. Ngày công cao gấp rưỡi người khác mà các chủ ruộng đều ưa gọi ông, nhiều người đặt hẳn cọc đầu năm.

Rồi lại việc sông nước, đi cất vó. Cái năm ra phá hoang, chưa nên đất phải bện cỏ đánh luống để vũi dây khoai. Được ba tháng lá tốt um, móc lên ngốt mắt những củ khoai mập mạp. Rồi ông ấy lợp lều ở luôn, vừa trông vừa làm. Đến khi thành ruộng đã cấy được rồi mà cứ gặt xong lại cuốc, đất ngấu như bãi bồi. Thế là lại cắm luống dưa hồng, dưa gang, được quả to như lợn tháu lăn lóc cả đồng.

Nghe cứ như nếp sinh hoạt của đám nông dân vào Thời Trung Cổ: tối tăm và ngập bùn lẫn đất. Được cái là an bình và no đủ, dù đạm bạc.

Giá vợ chồng và con cái của ông bà Ngãi cứ được tiếp tục cuộc sống tối tăm như thế mãi thì chắc… họ cũng không có (và không biết) gì để phàn nàn. Nhưng cách mạng bùng lên, với nhiều đường lối và chủ trương vô cùng quyết liệt: Cải Cách Ruộng Đất, Hợp Tác Xã Nông Nghiệp, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Giải Phóng Miền Nam …

Trong nhà ông Ngải cũng nhiều đối thay. Ốc đã đi bộ đội. Cả Toàn con rể, ông bà cho ở gửi rể, cũng đi bộ đội. Chỉ ông bà Ngải vẫn ngày ngày nghe kẻng ra đồng làm. Nhưng ông Ngải ghét nhất cái cảnh ra đầu xóm đứng lố nhố, chuyện râm ran, điểm danh mấy lần vẫn chưa đủ người, đến khi cả tổ ra tới giữa đồng thì mặt trời đã lên ngang lưng tre.

Ông Ngải bực mình chửi làm ăn thế này thì đói rã họng ra đến nơi. Ông Ngải không đi với mọi người. Ông hỏi hôm nay làm gì rồi ông xuống đồng trước. Ông Ngải đi sớm về muộn.

Ông làm theo ý ông, không biết cái kẻng. Ông đã quá tuổi lao động, ông làm hay không cũng thế, nhưng hôm nào không đi làm thì chân tay như uỗi ra. Cái gì ông cũng tự nghĩ rồi làm. Ông chỉ cho con cái học cho biết mặt chữ.

Ông gả chồng cho cái Hến cũng không biết thế là tảo hôn, mà làng nước cũng chẳng ai bắt bẻ ông. Thằng Ốc nhà độc đinh ông vẫn cho đi bộ đội. Ông bảo “đi cho biết đó biết đây”.

Suy nghĩ của ông Ngãi xem chừng hơi giản dị nhưng cuộc đời thì không, dù là đời sống của một ông nông dân chân chất, vẫn theo ngòi bút của Tô Hoài :

Tôi lại về xóm Đồng… Bao nhiêu năm rồi, ông Ngải ngồi bên búi tre lép, ngày ngày mọi việc trôi qua như dòng sông quanh ngoài chân tre. Cũng đồng đất ấy, nhưng chẳng ai nhắc đến thời hợp tác xã. Người đời hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những tiếng thô, tiếng bỗ bã…

Một con trâu vào xóm. Đường ngõ vướng tường và nhà cao, chân trâu bước âm âm rời rạc như tiếng chày giã bèo. Rồi ló ra con trâu đi, một bé cưỡi trâu, một người đàn bà vai vác như cái sào, như cây mía, một bé quảy gánh cỏ rảo bước như chạy. Ông Ngải không nhìn ra, nhưng nói:

– Mẹ con nhà nó.

Nói rồi ông ngước mặt:

– Anh Tư về chơi, mẹ Hến à!

Cô Hến ngả nón. Cô Hến chỉ bé sắt người lại còn thì vẫn như trước, cứ hao hao mà không khác mấy.

– Anh mới về. Mấy chục năm rồi…

– Năm nay cô bao nhiêu tuổi, cứ trừ đi khoảng mười lăm năm thì là bấy nhiêu lâu.

– Tính làm gì cho già người. Trông anh vẫn thế, bố em mà không gọi tên. em vẫn nhận ra.

– Cô với cháu đi làm đồng về. Thằng bé cưỡi trâu này ngày trước nằm võng phải không?

– Em vào trong xóm mua chuối…

– Thế thì cô là lái chuối…

Tôi hỏi:

– Anh Toàn nhà cô đâu?

– Báo cáo với anh, nhà em lên Hà Nội làm xế lô. Có khi anh gặp mà không nhận ra thôi. Đến mùa thì về đỡ đần việc nhà. Cày cuốc ra hạt gạo, thì đồng tiền lại hiếm. Chẳng đạp cái xế lô thì đào đâu ra tiền làm nhà, trát sân, lại tiêu pha cho các cháu đi học. Thằng nhớn cũng thôi học rồi, chưa đến tuổi tuyển quân, đương đòi xuống Diêm làm cửu vạn …

Cô Hến lại kể:

– Nhà em bảo em lên ở Hà Nội. Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ, vẫn đồn thế mà. Người hèn đớn cũng kiếm được, không mất bữa. Gánh đồng nát mà lãi quan viên. Nhà em bảo thế, em cũng đã lên xem sao.

Rồi cô Hến cười rúm mặt lại:

– Chưa nổi phiên chợ em phải nhảo về. Kệch đến ngày xuống lỗ

– Thủ đô đấy, mà cô chê a?

– Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường. Cả đêm không tài nào chợp mắt, ăn cơm lại oẹ ra, ốm đến nơi. Thế là cút ngay. Thuê kẹo em cũng không bao giờ dám lên Hà Nội nữa.

Chiều Chiều xuất bản vào năm 1997. Tô Hoài từ trần năm 2014. Ông bà Ngải chắc cũng không còn trên dương thế. Cậu con rể (hẳn) đã trở thành một công dân lão hạng, và e không còn sức vóc để tiếp tục đạp xế lô như xưa nữa. Loại xe này, nghe đâu, cũng đã bị cấm tiệt cả rồi.

Cháu ngoại ông Ngải (chắc) đang làm cửu vạn ở Diêm, như dự ước. Cái Hến (không chừng) đã thành bà nội và (có lẽ) vẫn ở lại xóm Đồng vì không quen cảnh sống (“bốn bên lủng củng người nằm đéo nhau huỳnh huỵch”) ngay giữa Thủ Đô Của Lương Tri & Phẩm Giá Con Người!

Cả gia đình ông Ngãi chỉ có mỗi thằng Ốc là đi bộ đội vào giải phóng miền Nam nhưng chưa đến nơi đã trở thành liệt sĩ nên lỡ mất cái cơ hội mang cái khung xe đạp, hay con búp bê, về lại xóm làng. Ấy thế chứ cứ theo dư luận thì cả nhà vẫn bị điều tiếng (và đay nghiến) là… đám Bắc kỳ:

  • Trần Yên Hoà: Nói đến dân bắc kỳ bảy lăm thứ thiệt đang làm mưa làm gió ở Sài gòn đó là những ông lớn đang cai trị dân miền Nam, từ công an, thuế vụ, ngoại thương, chủ tịch quận huyện, giám đốc các công ty quốc doanh, đám nầy đang làm mưa làm gió ở miền Nam và toàn quốc. Ở Sài Gòn, suốt đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3 tháng 2) những ngôi nhà cao tầng khang trang sang trọng được mọc lên, đó là đất của quân đội cũ bọn việt công chiếm và chia chác cho nhau, cất nhà lầu cho thuê, buôn bán…
  • Nguyễn Hữu Huấn: Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy “dzô tuyến chuyền hình” hay cái “ra dzô” ra thì thấy liền, các “xướng ngôn dziêng” hầu như “chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng “E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe “em người Hà Lội” hết ráo! Chẳng biết tại “dziêng dzáng” hay” phe đảng”?
  •  Nguyễn Văn Tuấn : Ai cũng biết phần lớn phi công VNA là người Bắc, nhưng ít ai biết rằng phần lớn tiếp viên VNA cũng là người phía Bắc. Ðó là hệ quả của chủ nghĩa lý lịch và chủ nghĩa địa phương, “chủ nghĩa chiến thắng.

Quí vị thức giả thượng dẫn viết không có gì sai nhưng e không đúng lắm với hoàn cảnh của gia đình ông Ngải, nơi cái Xóm Đồng (nào đó) ngoài miền Bắc. Ông bà Ngãi chưa chắc đã có lần nào đặt chân đến miền Nam, nói chi đến chuyện “làm mưa làm gió’ hay “chiếm đất đai” của bất cứ ai ở xứ sử này. Con cháu họ có lẽ cũng chưa đứa nào được “may mắn” bước chân lên một chiếc phi cơ, và cái cơ hội được trở thành một tiếp viên của VNA (e) còn xa vời lắm.

Như đã thưa (đôi lần) tôi chưa bao giờ được đặt chân đến miền Bắc nên không thể biết là có bao nhiêu triệu nông dân (đang sống trong cảnh bần cùng) ở vùng đất này, như gia đình ông Ngãi. Chỉ đoán già đoán non rằng họ chiếm khoảng chừng 60 đến 70 phần trăm dân số của nửa phần đất nước. Họ mới chính là những nạn nhân lâu năm nhất, khốn khổ và khốn nạn nhất của chế độ hiện hành.

Ở Việt Nam hiện nay chỉ còn có hai loại người thôi: thống trị và bị trị. Cả nước đã rơi vào tay cộng sản mà còn chia phe (Bắc/Nam/Trung) nữa bao giờ mới thoát nạn được, hả Trời?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngày Độc Lập

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

02/09/2024

Ngày 2 tháng 9 năm 45, ông Hồ Chí Minh long trọng đọc Tuyên Ngôn Độc Lập tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội. Bữa đó, tui không có mặt. Lý do: không phải vì quá bận, hay vì có chuyện chi đó (đố kỵ) với cá nhân ông Hồ hoặc đám Cộng Sản VN mà chỉ vì tôi chưa kịp… ra đời!

Dù sinh sau đẻ muộn, tôi cũng nghe được hơi nhiều chuyện “không được tử tế gì cho lắm” quanh cái ngày này – ngày khai sinh ra cái gọi là nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.” Trước hết, xin ghi lại vài mẩu tin có liên quan đến ông Nguyễn Hữu Đang – Trưởng Ban Tổ Chức Ngày 2 Tháng 9 – được trích dẫn nguyên văn từ những cơ quan truyền thông của Nhà Nước, vào mười lăm năm sau :

Báo Quân Đội Nhân Dân (21/01/1960):

Ta hãy nghe Đang cung khai trước Tòa án: Tôi đã gây hoài nghi đối với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Tôi đã cổ động cho những xu hướng chính trị phản động. Tôi đã thổi phồng hoặc xuyên tạc bịa đặt ra những khuyết điểm để nói xấu Chính phủ và những cơ quan Nhà nước.

Báo Nhân Dân (21/01/1960):

Trước tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi của chúng. Sau khi luật sư Đỗ Xuân Sảng bào chữa cho các tội phạm, căn cứ vào chính sách xét xử và trừng trị của Tòa án nhân dân là nghiêm trị bọn chủ mưu và bọn ngoan cố, khoan hồng với những người lầm đường, bị lừa gạt đã biết hối cải …

Báo Thời Mới (21/01/1960) :

“Năm tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội. Nguyễn Hữu Đang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân 5 năm sau khi hết hạn giam.”

Mười lăm năm sau, sau khi mãn hạn tù (không biết Thụy An trôi dạt về đâu) Nguyễn Hữu Ðang thì lủi thủi trở lại làng quê của ông, ở Thái Bình :

… Gót nhọc men về thung cũ
Quì dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn

(“Ăn Năn” – Phùng Cung)

Nguyễn Hữu Đang sống gần hết quãng đời còn lại nhờ vào côn trùng và cóc rắn! Ông cũng đã chọn sẵn chỗ nằm trong “… một búi tre gần cuối xóm, độc giữa cánh đồng…, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ dầy lá tre rụng, rất vừa người … Tôi sẽ nằm ở đó chết để khỏi phiền ai … Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay” (Phùng Quán. “Ngày Cuối Năm Tìm Thăm Người Dựng Lễ Ðài Tuyên Ngôn Ðộc Lập.” Ba Phút Sự Thực, 2nd ed. Văn Nghệ: 2007).

Đọc xong bài viết thượng dẫn, Công Tử Hà Đông có đôi lời góp ý như sau :

Nguyễn Hữu Đang đi kháng chiến 9 năm, không thấy nói trong 9 năm ấy NH Đang làm gì, ở đâu. Trở về Hà Nội sau Hiệp Định Geneve chia đôi đất nước, NH Đang là một trong số văn nghệ sĩ đòi tự do tư tưởng, tự do sáng tác được gọi là nhóm Nhân Văn Giai Phẩm; NH Đang bị Tố Hữu, Trường Chinh thù, kỵ tài, dùng tội Phản Động Chống Đảng đánh cho tàn tệ. Bọn Tố Hữu, Trường Chinh cho NH Đang đi tù năm 1959. Năm ấy Hồ chí Minh mới về Hà Nội, được tẩm bổ, tiếng VC học mót của CS Tầu là ‘bồi dưỡng’, người ngợm Hồ béo tốt, hồng hào, phởn phơ. Nhưng không một lần họ Hồ nhớ đến ‘chú Đang’, không một lời hỏi:

– Chú ấy làm tội gì mà bắt chú ấy tù khổ thế?

Nhiều người Hà Nội biết chuyện NH Đang là Trưởng Ban Tổ Chức Lễ Đài Ngày 2 Tháng 9, 1945 ở Hà Nội, NH Đang là người đứng trước micro giới thiệu:

– Thưa đồng bào… Đây là Chủ Tịch Chính phủ Lâm Thời Hồ chí Minh.

Nói xong, NH Đang lùi lại, nhường micro cho Hồ chí Minh. Bức ảnh chụp Hồ đọc tuyên ngôn có NH Đang đứng ngay sau lưng họ Hồ. Sau khi còng cổ tống NH Đang đi tù, bọn Tố Hữu cho tẩy, xóa hình NH Đang trong bức ảnh. Từ đó ảnh Hồ chí Minh đọc Tuyên Ngôn không có NH Đang.

Nói tóm lại là cuộc đời của Nguyễn Hữu Đang đã bị cách mạng xoá sổ hoàn toàn. Đây không phải là loại “tai nạn” chỉ xẩy ra riêng cho một cá nhân. Ở bình diện tập thể, người dân cũng bị cách mạng tước đoạt mọi thứ – “tan hoang đến tột cùng” – theo như cách diễn tả của nhà văn Võ Văn Trực, trong ký sự Chuyện Làng Ngày Ấy  :

Ngày mồng 2 tháng 9 hàng năm, dân làng tôi gọi là ngày ‘tết Độc Lập’. Cả làng nghỉ việc đồng áng. Nhà nào cũng thắp hương bầy biện mâm cỗ cúng đơm. Nhiều trò vui được tổ chức như ngày tết Nguyên Đán. Làng xóm hân hoan trong phong tục mới…

Thêm được ngày hội Tết độc lập, nhiều ngày hội cổ truyền khác bị phế bỏ: rằm tháng giêng, thanh minh, tết Đoan ngọ, rằm tháng bẩy…Người ta cho đó là cổ hủ, là mê tín dị đoan … Thế là cả làng làm cách mạng triệt để, thay cũ đổi mới hoàn toàn. Gặp nhau ngoài đường, giơ nắm tay phải lên ngang tai ‘chào đồng chí’. Nhất là trong các cuộc hội nghị, mẹ gọi con bằng ‘đồng chí, con gọi bố bằng ‘đồng chí’, anh gọi em bằng ‘đồng chí’…

Sau tết Độc lập đầu tiên, đến tết Nguyên Đán, không thấy ông tôi cuộn hương trầm công phu như trước, chỉ mua hương ở chợ. Chiều 29 tết, ông mở hòm gỗ trắc, lau bụi đôi hạc đồng, xếp lại câu đối, rồi khoá hòm. Tôi ngỡ ngàng hỏi: ‘Sao ông không đem ra cúng tết?’ Ông trả lời giọng ngậm ngùi: ‘Bây giờ là cách mạng, khác rồi cháu ạ…’ Vĩnh viễn các đồ tế khí linh thiêng ấy nằm trong hòm khoá kín như tấm lòng ông tôi khoá lại niềm tôn kính thờ phụng tiền nhân…

Sau cuộc rước tổ tiên tập trung về một nơi, tất cả các nhà thờ họ trong làng đều bị phá. Có nhà thờ biến thành địa điểm hội họp. Có nhà thờ biến thành kho phân. Tất cả thánh, thần, phật ở rải rác cá thể trong thôn xã đều phải về tập trung tại đền Hàng Khoán, dưới chân núi Hai Vai…

Thần đã đi rồi. Thánh đã đi rồi. Phật đã đi rồi. Những ngôi đền, ngôi chùa, ngôi miếu như cái xác không hồn. Dân tứ chiếng tranh nhau cướp giật mang đi: người được hòn đá tảng, người được cái cửa vọng, người được viên ngói viên gạch, người được cái cột gỗ…Ôi tan hoang đến tột cùng tan hoang sau cuộc rước các thần các thánh về thế giới đại đồng. Tại nhà thờ thánh, tượng Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương chết đường chết chợ, bị trẻ con ném cứt vào mặt…

Tác phẩm Chuyện Làng Ngày Ấy, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Thụy Khuê :

“Nhẹ như tiếng thở dài, Võ Văn Trực đưa ta vào cõi ấy, cõi mộng du hoang tàn tiền sử: Sau khi tập trung tất cả những gì thuộc địa hạt thần linh, đến tập trung con người. Tập trung con người bằng hội họp, suốt ngày hội họp bỏ bê đồng áng, hệ quả tất yếu là không có lúa gạo, là đói khát, là thuế khả năng: vét nhẵn, sạch trơn không còn một hạt thóc. Không còn gì để đóng thuế, là phản động. Là tố cáo lẫn nhau. Là đấu tranh chính trị. Là tố khổ…”

Chưa hết, cùng thời điểm mà mồ mả tổ tiên và đền thờ thánh thần phải tập trung “để lấy đất canh tác” thì một trong những nhân vật lãnh đạo của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – ông Phạm Văn Đồng – đã thể hiện “một cử chỉ tốt đẹp về tình hữu nghị” bằng một công hàm tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của nước láng giềng Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về hải phận.

Công hàm này đang được Trung Quốc coi như “là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.” Và đây có lẽ là một trong những lý do khiến cho một nhóm trí thức Việt Nam, vào ngày 13 tháng 7 năm 2011, đã gửi một bản kiến nghị đến Quốc hội và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, bầy tỏ sự lo ngại rằng: “Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị uy hiếp, xâm phạm nghiêm trọng.”

Trước đây, cũng đã có nhiều người dân Việt khác bầy tỏ sự quan ngại tương tự về lãnh thổ, lãnh hải cũng như tính cách độc lập của đất nước này. Tất cả, đều đang bị cầm tù. Không có gì bảo đảm rằng 20 nhân sĩ vừa ký tên trong bản kiến nghị (dẫn thượng) sẽ thoát khỏi số phận tương tự, trong tương lai gần.

Không có gì quí hơn Độc Lập Tự Do
Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó
Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó
Việc nó làm, tội nó ra sao

Tác giả bốn câu thơ thượng dẫn, ông Nguyễn Chí Thiện, rõ ràng là một người… vô ơn! Ông ấy quên béng đi rằng trong 27 năm đi tù, năm nào vào ngày 2 tháng 9 ông ấy cũng đều được ban quản lý trại giam cho ăn thịt – chí ít thì cũng phải được một miếng (bạc nhạc) bằng đầu ngón tay út, hay lớn hơn tí xíu.

Truyền thống “văn hóa độc lập” này vẫn còn kéo dài mãi đến hôm nay, theo như nhật ký (Một Năm Kể Lại) của Người Buôn Gió :

“Hôm nay là ngày 2-9-2009, sáng sớm đài phát thanh trên tường ra rả ca ngợi thành tích đạt được của đất nước, lời ông Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập được phát đi phát lại nhiều lần. Anh bạn tù cùng phòng hít hít cái mũi vào không khí nói:

– Hôm nay chúng mình sẽ được ăn thịt.

Tôi nhìn ra ô cửa sắt bâng quơ:

– Chắc hôm nay không phải đi cung nhỉ?

Anh bạn hồ hởi gật đầu.

– Đúng, ai lại đi cung ngày này…”

Ngày mà Bác tuyên bố “từ nay đất nước ta hoàn toàn độc lập” (quả) là một ngày đặc biệt đối với tất cả mọi người dân Việt, không loại trừ ai, trải mấy thế hệ qua – kể từ Nguyễn Hữu Đang, qua Nguyễn Chí Thiện, đến Bùi Thanh Hiếu.

Cái giá của độc lập/tự do, tất nhiên, phải mắc – đã đành. Điều khó đành lòng, phải nói, là dân Việt lại vớ nhằm của giả mà vẫn phải ngậm bồ hòn làm ngọt – từ hơn nửa thế kỷ qua.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngy Thanh

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

26/08/2022

Dù cùng viết cho tờ Thời Báo nhiều năm, và dù cả hai cũng đã từng chung tay với chủ bút Đỗ Nghi thực hiện đôi việc từ thiện nhỏ, tôi chưa bao giờ có cơ hội được gặp Ngy Thanh (NT) cả. Chỉ xem hình và đọc ông thôi thì tôi cũng có thể đoán rằng nhân vật này chắc lớn hơn mình cỡ vài ba tuổi, chứ không nhiều. Tuy thế, dường như trên mọi nẻo đường đời, ông đều đi trước tôi vài bước – hơi dài!

Mãi đến 2015, tôi mới lò dò đặt chân đến Đế Thiên – Đế Thích trong khi NT đã tới nơi đây gần chục năm trước lận, và đã thu vào ống kính rất nhiều hình ảnh tuyệt vời của cả Angkor Wat lẫn Angkor Thom.

Vốn là một nhiếp ảnh gia và phóng viên chuyên nghiệp nên NT không chỉ dừng chân ở những nơi có kỳ quan hay thắng cảnh mà còn lang bạt khắp xứ Chùa Tháp, chả sót một xó xỉnh nào. Ông len lỏi vào tận “Thánh Địa Ấu Dâm” và ghi lại những dòng chữ nát lòng về tình cảnh bi phẫn của lắm đứa trẻ thơ:

Svay Pak là làng điếm truyền thống gồm những căn nhà vừa gạch vừa bê tông làm nơi chứa gái bán dâm đến từ Việt Nam, công khai mời chào ‘boom boom’ (làm tình với bé gái) và ‘yum yum’ (khẩu dâm với bé trai) với giá mạt hạng chỉ 5 đô trong những vuông phòng chật hẹp được ngăn ra bằng ván ép xập xệ…

NT cũng đã từng vác máy đến bãi rác Stung Meanchey, nơi được nhật báo The Guardian mô tả là “the world’s most famous rubbish dumps” của thế kỷ XX. Khi tôi tìm đến nơi thì “bãi rác nổi tiếng nhất thế giới” này đã bị dẹp bỏ nhưng hình ảnh của đám trẻ con bần cùng, khốn khổ mà ông đã chụp được tại đây vẫn khiến cho tôi bứt rứt và … ấm ức!

Tưởng bở nên tôi cũng mang máy nhẩy xổ vào một bãi rác khổng lồ khác (cũng ở Phnom Penh) vì muốn được nhìn tận mắt cái thứ “địa ngục trần gian” này. Tới nơi, tôi dặn taxi trở lại đón sau chừng vài tiếng nhưng vừa hăm hở mở cửa xe là đã bị “oẹ” liền. Không khí nồng nặc mùi hôi thối khiến tôi chui vội lại vào bên trong, và ra dấu cho tài xế chạy ngay tức khắc. May mà tôi không có thói quen ăn sáng nên chưa đến nỗi nôn mửa ra xe của người ta.

Rời Miên, tôi băng qua Nam Lào bằng cửa khẩu Stung Treng. Rồi tà tà lội từ Si Phan Don lên Paske, Vientiane, Vang Vieng, Luang Prabang, Luang Namtha, đến tuốt Muang Sing – một thị trấn heo hút ở cực Bắc – giáp giới với Tầu. Sau chuyến đi xuyên suốt này, tôi kết luận (chắc như bắp) rằng: “Không thấy người Lào nào bóp còi xe, và cũng chả gặp ai đi ăn xin cả.”

Nói vừa dứt câu thì tôi lại tình cờ nhìn được bức hình cha con một người ăn mày, đang băng qua đường (giữa thủ đô Vạn Tượng) của NT trên trang mạng Trekearth – nơi tụ tập của nhiều nhiếp ảnh gia quốc tế!

Hóa ra, NT cũng đã đến Lào từ lâu và đôi mắt nhà nghề của ông chả bỏ sót một hình ảnh thương tâm nào cả. Phải công nhận là “thằng chả” rất chịu đi, và luôn luôn lên đường rất sớm, kể cả khi lao vào … chỗ chết!

Mãi đến ngày 10 tháng 10 năm 1972, tôi mới lò dò đến Trung Tâm Xã Hội Sài Gòn để trình diện nhập ngũ nhưng binh nhất NT và hạ sỹ Đoàn Kế Tường (với vai trò là phóng viên cho quân đội và ký giả chiến trường) đã có mặt giữa Mùa Hè Đỏ Lửa rồi:

“Phái viên Ngy Thanh và Đoàn Kế Tường của Sóng Thần cho hay họ đã vượt sông Mỹ Chánh để tới một đoạn đường dài 10 cây số Đông Nam Quảng Trị gọi là ‘đoạn đường máu’, nơi đây còn hàng trăm xác quân xa chở đồng bào Quảng Trị di tản trong ngày 1-5, cháy xém nằm la liệt, bên cạnh còn thấy những xác của đồng bào bị lính BV pháo kích chết cách đây hơn 2 tháng. Những xác nầy nay đã rữa thối, chỉ còn trơ xương.”  (“Xác Dân Tỵ Nạn Trơ Xương Nằm Dài 2 CS Trên Quốc Lộ I.” Sóng Thần 02 July 1972).

Trong tác phẩm mới vừa xuất bản, NT cho biết thêm đôi ba chi tiết về biến cố hãi hùng này:

“Với các bản tin như trên và tương tự, cùng với hình ảnh chúng tôi gửi về toà báo hằng ngày, ban chủ biên đã bàn bạc, thảo luận ngay chương trình ‘Thác Một Nấm Mồ’ cho các nạn nhân bị giết bởi bom đạn trên Đại Lộ Kinh Hoàng, bằng cách lạc quyên từ độc giả của tờ báo …

Kết cuộc lại, năm 1972 anh chị em báo Sóng Thần chúng tôi đã đến, đã thấy, đã vận động những người hảo tâm đóng góp, để tìm gặp và thu lượm được trong các đợt hốt xác, mang về trường tiểu học Mỹ Chánh tẩm liệm và mai táng ở nghĩa trang Đồng Bào Chiến Nạn Quảng Trị 1.841 thi thể, từ tháng 8/1972 đến tháng 1/1973. Những tưởng thế là xong việc. Nhưng ngày 22/06/2016, chúng tôi đi tìm để vận động nâng cấp, mới biết nghĩa trang đã bị xóa sổ”. (Ngy Thanh. Đại Lộ Kinh Hoàng. San Jose: Nhân Ảnh, 2022.)

Từ 1972 đến 2016 là một khoảng thời gian không ngắn. Trong gần nửa thế kỷ, NT đã tận tụy làm trọn nhiệm vụ của một công dân, đối với đồng bào cũng như đồng đội. Cuộc đời của cá nhân ông, nếu chỉ kể đến đây (tưởng) cũng đã đủ dài, và đủ đẹp rồi, nhưng chuyện về Đại Lộ Kinh Hoàng thì e còn thiếu.

Năm 2008, nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân cho ra đời một cuốn nhật ký chiến tranh (Mùa Hè Cháy) của Đại Tá Nguyễn Quý Hải. Ông chính là vị sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 2, trung đoàn 38 Pháo Binh Bông Lau – đơn vị đã nã pháo vào đám đông thường dân và binh lính miền Nam trên Đại Lộ Kinh Hoàng – hồi năm 1972.

Tuy thế, trong tác phẩm này, tác giả chỉ ghi lại sự kiện trên bằng một câu văn ngắn: “Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.”

Thế mới biết xóa sổ một cái nghĩa trang với hàng ngàn xác người chỉ là chuyện nhỏ, rất nhỏ, đối với người cộng sản VN. Họ còn có thể xóa sạch mọi tội ác đã gây ra bằng một thủ thuật rất quen thuộc, và vô cùng giản dị ̣(gắp lửa bỏ tay người) cứ đổ vấy hết cho Mỹ/Ngụy là xong!

Là người lính và là nhân chứng hiếm hoi có mặt trên Đại Lộ Kinh Hoàng nên NT đã đặt nghi vấn:

“Thứ nhất, hố bom do máy bay thả xuống và hố đạn pháo binh sau khi bị kích hỏa, tôi nghĩ là không thể trộn lẫn với nhau… Là người đi suốt chiều dài tử lộ từ sông Bến Đá đến sông Nhung, tôi khẳng định với người anh hùng Bông Lau rằng, trên mặt đường nhựa ấy, chỉ có xác chết và xác xe, không có một hố bom, dù là loại bom nhỏ nhất.”

Không chỉ “khẳng định” suông như thế, NT còn biên soạn cả một tác phẩm (Đại Lộ Kinh Hoàng) gần năm trăm trang đầy ắp dữ kiện, hình ảnh, tài liệu, chứng từ … Ông cũng đã thư từ với Đại Tá Nguyễn Quý Hải, và nhận được hồi đáp (vào hôm 17 tháng 5 năm 2019) như sau:

“Trong đoạn nhật ký của tôi bạn trích ở trên, rõ ràng tôi viết chưa chuẩn vì tôi không trực tiếp nhìn thấy, chỉ là nghe các quan sát viên nói lại rồi suy diễn… trong lần tái bản tới tôi sẽ bỏ đoạn: ‘Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.” (S.đ.d. tr. 351).

Thật là giản dị, dễ dàng, lẹ làng, gọn gàng hết sức!

Ông Quý Hải (nói riêng) và những người CSVN (nói chung) xem chừng khó mà hiểu được điều giản dị này: “ Chỉ cần làm chết một người khi người ấy không vũ khí phòng thân … cũng đủ để trở thành tội ác.” Câu văn thượng dẫn được viết vào ngày 2 tháng 6 năm 2022, đây là dòng chữ cuối cùng mà NT đã dùng để làm kết cho tác phẩm (Đại Lộ Kinh Hoàng) mới nhất của ông.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vin Danh Cách Mạng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

30/08/2024

Tôi đọc lại Thư Gửi Bạn Ta của Bùi Bảo Trúc, trên trang Thời Báo thấy có đoạn sau:

“Tờ Pháp luật ở trong nước vừa đăng một bản tin rất kỳ lạ: một thanh niên ở tỉnh Quảng Nam, sau một chầu ăn nhậu với bạn bè, đã xông vào một cư xá, định hiếp dâm một cô giáo, nhưng bị cô giáo chống cự dữ dội nên đương sự không thực hiện được ý định…

Đương sự sau đó bị bắt giữ, bị truy tố ra tòa và bị tòa phạt 3 năm tù. Đương sự kháng cáo, xin được giảm án và tòa sau khi xét lại hồ sơ, đã giảm bản án 3 năm tù xuống còn 2 năm… lý do… vì gia đình của Sơn ‘có công với cách mạng.’

Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?”

Trong khi cả nước đang nô nức chuẩn bị kỷ niệm cuộc Cách mạng tháng Tám, và chào mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9 mà cái ông ký giả này lại đi hỏi ngang một câu (nghe) “kỳ quá vậy” khiến cho ai cũng phải cảm thấy – ít/nhiều – ái ngại. Nhưng khách quan mà nói thì cái vẫn thường được mệnh danh, hay giả danh, là cách mạng (ở ta) quả nhiên có kỳ cục thiệt, và kỳ cục lắm, ở khắp mọi mặt – chớ chả riêng chi cái “khâu” pháp luật.

Cũng trên tờ Thời báo này, ký giả Đoàn Dự còn sưu tập được đôi điều kỳ cục (khác) về cách mưu sinh bằng… “nghề bán máu.” Xin trích dẫn một đoạn ngắn:

“Cùng đường mới phải đến đây… Đó là câu nói của một người đàn ông đội cái mũ cáu bẩn, ngồi lúp xúp trên hành lang để chờ đến lượt mình. Ông cho biết ông quê ở ngoài Bắc (Nam Định), gia đình vào đây 4 người gồm hai vợ chồng ông và 2 đứa con lớn, còn 2 đứa nhỏ thì gửi bà nội ở ngoài quê, đi học.

Cả gia đình thuê một căn nhà nhỏ xíu có gác gỗ ở Thủ Đức. Hai con đi làm công nhân, vợ chồng ông bán rau cỏ ở chợ, chắt chiu sống cũng tạm được. Nhưng đùng một cái, vợ ông bị bệnh ung thư vú, tiền dành dụm cũng hết, bà nội ở quê gọi điện thoại vào giục gửi tiền ra nuôi hai đứa nhỏ. Bí quá, ông đành giấu vợ con, lên Sài Gòn tìm đến Bệnh viện Chợ Rẫy hỏi thủ tục để xin bán máu.

Phía sau ông là một cô gái mảnh dẻ, có vẻ như sinh viên nhưng nước da men mét có lẽ do thiếu ăn, cũng đang hỏi han về giá cả bán máu …

Giá 250cc máu là 140.000 đồng, nhưng thực ra họ không được hưởng toàn bộ số tiền đó. Anh Nguyễn Văn Hùng, người vừa đi bán máu về, giải thích: ‘Chúng tôi phải chi riêng cho các nhân viên giám định để họ viết giấy chứng nhận mình đủ sức khỏe, máu tốt, không có bệnh cần phải đề phòng. Ngoài ra, còn tiền ăn uống, tàu xe đi về v.v… Thế nên mỗi 250cc máu chúng tôi chỉ còn lại được khoảng 90.000 đồng là cùng.’”

Ôi tưởng gì chớ tiền “bôi trơn” thì ở đâu mà chả mất. Không mất thêm tiền “cò” đã là may rồi. Và ở xứ mình thì bán máu – xưa nay – vốn chỉ là chuyện nhỏ, và chuyện thường ngày vẫn xảy ra ở huyện:

“Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống. Đang loay hoay với kế mưu sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết cho Mặc Lân vấn đề cực kì khó khăn ấy: Đi bán máu… (Bùi Ngọc Tấn. “Thời Gian Gấp Ruổi“. Viết về bè bạn. Fall Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006).

Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?

Nó không chỉ kỳ ở cái chuyện bán máu mà còn kỳ ở nhiều vụ đổ máu tùm lum nữa kìa. Xin đơn cử một thí dụ, qua lời giới thiệu trên trang pro&contra về tác phẩm (Luật Hiến pháp và Chính trị học) của cố giáo sư Nguyễn Văn Bông:

“Cuốn sách này sẽ còn phải chờ một thời gian dài, trước khi lại được xuất bản tại Việt Nam. Vì hai lẽ:

Thứ nhất, vì bản thân nội dung của nó. Ra đời gần một nửa thế kỉ trước tại miền Nam Việt Nam thời Đệ nhị Cộng hòa, nền tảng lí thuyết tổ chức một nhà nước dân chủ và pháp quyền mà nó trình bày đối lập sâu sắc với mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa với độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản trước sau vẫn tồn tại trong thực tế và vẫn chế ngự tư duy chính thống.

Thứ hai, tác giả của nó không phải ai khác, chính là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người bị chính quyền cách mạng ám sát ngày 10-11-1971. Lí do để ở thời điểm ấy, Hà Nội quyết định duyệt lệnh giết một giáo sư luật, Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh tại Sài Gòn, gần đây được bạch hóa trên báo chí Việt Nam với một sự thản nhiên đến lạnh người…

Trong danh sách những nhân vật xuất chúng bị chính quyền cộng sản ám sát hoặc trừ khử trong bóng tối, Nguyễn Văn Bông có nhiều điểm tương đồng với Phạm Quỳnh. Họ đều là những trí tuệ hiếm có, những trí thức có tầm vóc và ảnh hưởng lớn, dấn thân trong trường chính trị cho một nước Việt Nam mới, song họ đều khước từ lựa chọn chủ nghĩa cộng sản…”

Cách “ám sát” giáo sư Nguyễn Văn Bông, tuy thế, “văn minh” hơn thấy rõ nếu so với kiểu “trừ khử” học giả Phạm Quỳnh:

“Thầy tôi bị giết trước, bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc, sau đó còn bị bắn bồi thêm 3 phát đạn… Cụ Khôi cũng bị bắn 3 phát… ông Huân hoảng sợ, vùng chạy thì bị bắt lại và bị bắn một phát ngay vào đầu… Cả 3 thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.” (Phạm Tuân. “Cái Chết Của Cụ Phạm Quỳnh.” Gió O).

Đã có bao nhiêu “thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất” (y như thế) trong cuộc Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, và trong cuộc thảm sát vào năm Mậu Thân – ở miền Trung?

Thêm bao nhiêu (triệu) thi hài khác nữa được vùi lấp qua loa, ở cả ba miền, trong hai cuộc kháng chiến (rất thần thánh và cũng rất không cần thiết) vừa qua? Đó là chưa kể vô số những xác người đã vùi sâu trong lòng đại dương, khi đang trốn chạy khỏi (cái) thiên đường cách mạng!

Đ… mẹ, cách mạng gì mà kỳ quá vậy?

Đã thế, theo lời của cố nhà báo Bùi Tín: “Giáo sư Hoàng Xuân Phú lại có một khám phá động trời. Trên blog Quê Choa, ông khẳng định Đảng Cộng sản đã vi phạm luật lệ do chính mình đề ra, suốt 68 năm nắm chính quyền, là một đảng chính trị, Đảng CS chưa hề có giấy xin phép, đăng ký hoạt động, cũng chưa được chính quyền cấp giấy khai sinh và quy định thể lệ hoạt động cho nó.

Cả khi nó tự giải thể (giả vờ) và đổi tên gọi – Đảng CS Đông Dương, Đảng Lao Động VN, rồi Đảng CSVN – nó cũng không xin phép, đăng ký với chính quyền, có nghĩa là nó chưa hề thực thi thủ tục luật pháp. Nó là một tổ chức không hợp lệ. Trên thực tế và theo quan điểm luật học, Đảng CS vẫn là một đảng phi pháp, không chính danh.”

Hay nói một cách lãng mạn và nhẹ nhàng hơn, theo ngôn ngữ thi ca của nhà thơ Bùi Hoàng Tám, đây là một cách… vin danh:

“Việc một đại gia đập bỏ ngôi biệt thự cổ trong khuôn viên trị giá 137 tỉ đồng trong sự nuối tiếc chưa kịp nguôi ngoai của nhiều người thì lại có tin, chiếc giường… trị giá 6 tỉ đồng của đại gia Lê Ân đã về đến Việt Nam… ‘Tôi tìm cách đặt mua không phải để ngủ mà để thế giới biết rằng Việt Nam cũng có nhiều đại gia lắm tiền’ – Ông Ân nói…

Còn nhiều việc có thể ‘nhân danh đất nước’ mà có lẽ ông Ân chưa biết, ví như hiện có hàng trăm người Việt Nam lao động bất hợp pháp ở Nga bị bắt giữ đang sống trong cảnh khốn khổ, không có tiền mua vé máy bay về quê. Nếu vì danh dự của đất nước, ông hãy bỏ tiền mua vé cho họ. Khi đó thì ông cứ thỏa mái nhân danh tình yêu đồng bào, lòng tự trọng quốc gia hay… gì gì đó…

Còn việc mua giường, nó có gì đó càng thô thiển khi liên tưởng tới việc đất nước được ‘vinh danh’ nhờ… cái giường ngủ của đại gia Lê Ân. Mua giường để vợ chồng ngủ mà cũng ‘vin danh’ đất nước thì quả thật, đất nước bị đem ra lạm dụng đến mức như một sự xúc phạm!”

Phải chi ngay khi những kẻ “vin danh cách mạng” để lạm dụng và xúc phạm đất nước Việt Nam mà chúng cũng bị chỉ mặt đặt tên ngay tức khắc, như ông Lê Ân hôm nay thì đỡ cho cái xứ sở này biết mấy.

Từ đó đến nay đã gần hai phần ba thế kỷ trôi qua, thời gian đủ dài để mọi người dân bị “nhồi sọ” nhuần nhuyễn hai chữ “cách mạng” nên đều (hồn nhiên) gọi bọn cướp ngày bằng mỹ từ này: cách mạng tháng tám, cách mạng mùa thu, chính quyền cách mạng, chính phủ cách mạng, chủ nghĩa cách mạng, văn hoá cách mạng, văn công cách mạng, anh hùng cách mạng, truyền thống cách mạng, sách báo cách mạng, thơ văn cách mạng …

Bao giờ mà lũ “ngụy cách mạng” chưa bị điểm đúng mặt, gọi đúng tên (ác độc, bất nhân, bất tín, bất nghĩa, nói một đằng làm một nẻo, vừa đánh trống vừa ăn cướp) thì chúng vẫn còn có thể tác yêu tác quái – ở đất nước này.

Vin Danh Cách Mạng Từ đó đến nay đã gần hai phần ba thế kỷ trôi qua, thời gian đủ dài để mọi người dân bị “nhồi sọ” nhuần nhuyễn hai chữ “cách mạng” nên đều (hồn nhiên) gọi bọn cướp ngày bằng mỹ từ này: cách mạng tháng tám, cách mạng mùa thu, chính quyền cách mạng, chính phủ cách mạng, chủ nghĩa cách mạng, văn hoá cách mạng, văn công cách mạng, anh hùng cách mạng, truyền thống cách mạng, sách báo cách mạng, thơ văn cách mạng …

Bao giờ mà lũ “ngụy cách mạng” chưa bị điểm đúng mặt, gọi đúng tên (ác độc, bất nhân, bất tín, bất nghĩa, nói một đằng làm một nẻo, vừa đánh trống vừa ăn cướp) thì chúng vẫn còn có thể tác yêu tác quái – ở đất nước này.


 

Tưởng Năng Tiến – Đêm Cao Miên

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

28/08/2024

Tặng Võ Hoàng

Khi chúng tôi bước chân vào được đất Cao Miên thì trời đã ngả chiều. Tuy nắng đã nhạt nhưng trời chiều mùa hạ nơi đây vẫn còn hừng hực nóng. Sẵn với định kiến là mình sẽ đi vào một vùng đất chết, tôi hơi thoáng ngỡ ngàng khi không nhìn thấy xung quanh dấu tích của sự đổ vỡ do bom đạn. Khó mà có thể ngờ rằng, cách đây không bao lâu, mảnh đất khô cằn nắng hạn này lại là nơi giao tranh bằng chiến xa và đại pháo của nhiều đạo quân khác nhau.

Dư vị của chiến chinh chỉ còn cảm thấy được qua không khí chết chóc, và sự đe dọa rình rập trên từng tấc đất. Tôi được căn dặn nhiều lần là luôn luôn phải bước đúng vào bước chân của người đi trước vì ngoài con đường mòn đã được sử dụng ra, bất cứ lùm cây bụi cỏ nào cũng có thể là nơi ẩn mình của “mìn hộp gỗ” – một loại mìn bẫy trông nhỏ bé và xinh xắn y như hộp bút chì màu nhưng thừa sức làm nát bấy đôi chân của kẻ nào vô phước dẵm nhầm phải nó.

Vùng đất hiểm nghèo này cũng còn đuợc gọi đùa là “sân banh cộng sản”. Lý do: người ta ước tính rằng cứ mỗi lần nhà cầm quyền Hà Nội xua quân tràn qua biên giới để đánh đuổi kháng chiến Cao Miên lùi vào đất Thái thì ít nhất cũng phải có vài trăm cặp giò của “cầu thủ bộ đội” phải để lại nơi đây. Ðó cũng là lý do tại sao vừa bước chân vào đất Cao Miên người ta đã ngửi thấy ngay mùi tử khí.

Bất giác tôi quay nhìn về đất Thái và không dưng mà thoáng thấy ngậm ngùi. Chỉ cách nhau có một lằn ranh định mệnh nhưng đời sống dân chúng của hai nước Miên – Thái hoàn toàn khác hẳn nhau. Bên kia là những căn nhà sàn xinh xắn, và những tàn lá rậm rì xanh mát của đủ thứ loại cây ăn trái: chôm chôm, xoài, ổi, mẵng cầu, sầu riêng, măng cụt, nhãn, mít… Bao nhiêu lần đi ngang qua đó tôi đều nhớ đến một đoạn văn mà mình đã đọc đến thuộc lòng, trong tác phẩm Mùa Hè, Một Nơi Khác của chị Phan Thị Trọng Tuyến : “… vườn ngoại có xanh um những cây dừa, cây chuối, những trái quýt đường to vàng bóng láng, những trái mận trắng điểm những tia nắng hồng ngọt lịm, những mương tôm đầy tăm mặt nước…”

Không hiểu những người dân Thái đang sống ở nơi đây có ai biết được rằng mái nhà sàn đơn sơ của họ – với khoảnh sân đầy cây ăn trái, với “những mương tôm đầy tăm mặt nước… – là hình ảnh của một thiên đường đã lỡ, hay một giấc mơ quá xa tầm tay với đối với một người Việt lưu lạc như tôi, và với tất cả dân tộc Cao Miên láng giềng không ?

Cảnh nghèo nàn, tang tóc ở Cao Miên – tất nhiên – khó có thể giải thích được đơn thuần bằng lý do địa dư hay khí hậu. Ðiều “kỳ diệu” là cả hai đài phát thanh Hà Nội và Khmer Ðỏ (nghe được rất rõ nơi đây) đều nêu ra được những lý do rất thỏa đáng về tình trạng bi thảm này, dù lập luận của họ hoàn toàn dị biệt và – đôi lúc – tương phản với nhau rõ rệt.

Theo đài phát thanh thứ nhất thì thủ phạm gây ra cảnh chiến tranh điêu tàn diệt chủng cho dân tộc Cao Miên chính là bọn khát máu Pol Pot và Ieng Sari, tay sai của bọn giặc bá quyền Trung Quốc. Còn theo đài phát thanh thứ hai thì thủ phạm gây ra một nước Cao Miên đau thương tang tóc chính là tập đoàn lãnh đạo Hà Nội, tay sai của quan thầy Liên Sô.

Thêm vào đó là những thông báo về những chiến tích quân sự “không thể nào tin nổi” của cả đôi bên, cùng với những lời lẽ chửi rủa nặng nề đến độ thô tục bẩn thỉu mà Hà Nội và Khmer Ðỏ chăm chỉ và đều đặn gửi đến nhau đôi ba lần trong một ngày. Ðiểm tương đồng duy nhất của cả hai đài phát thanh này, hay nói đúng hơn là của cả Hà Nội và Khmer Ðỏ, là họ cùng cố quên đi một sự kiện căn bản và giản dị như sau: dù hiện thân hay đội lốt dưới bất cứ hình thức nào, nơi đâu có mặt chủ nghĩa cộng sản là nơi đó hóa lầm than hay tang tóc, mà thường là cả hai. Trường hợp Kampuchia chỉ là một thí dụ điển hình.

Ðơn vị được lệnh dừng chân. Mọi người ngồi dựa lưng vào ba lô nghỉ ngay tại chỗ, tay vẫn lăm lăm cầm chặt súng. Thấy dáng điệu lớ ngớ của tôi, người cán bộ chỉ huy đoàn quân quay lại nói nhỏ:

– Ðây là bộ chhỉ huy tiền phương của sư đoàn X, thuộc lực lượng Para (Son Sann).

Tôi tròn xoe mắt nhìn. Trước mắt tôi chỉ là những túp lều tranh nho nhỏ, nằm ẩn mình dưới những bụi tre già. Ngoài cần ăng ten ngụy trang của máy truyền tin, và những công sự phòng thủ đã cũ nát ra, đây không có vẻ gì là một căn cứ quân sự cả, đừng nói chi đến cái tên gọi to lớn là bộ chỉ huy tiền phương của cả một sư đoàn.

Ðọc được sự kinh ngạc qua ánh mắt của tôi, anh bạn cười hềnh hệch tiếp:

– Bên Thái đã nhiều chuyện lạ, bên Miên này còn nhiều chuyện lạ hơn. Từ từ rồi ông sẽ thấy.

Tôi gật đầu nhẹ hều bày tỏ sự đồng tình yếu ớt, với một nụ cười chắc hẳn là trông vô cùng mệt mỏi. Tôi mệt thiệt và mệt lắm. Tôi đã sống ở Mỹ gần mười năm và đến Thái Lan chưa được mười ngày. Mười năm qua tôi di chuyển bằng thang máy, bằng máy bay phản lực, bằng xe hơi với hộp số và tay lái tự động. Bỏ những tiện nghi này ra là tôi biến ngay thành một thứ ốc sên không có vỏ.

Ðể che dấu cái mặc cảm này, tôi luôn luôn cố giữ bộ mặt “tỉnh như ruồi” cùng với thái độ “ai tới đâu tui tới đó” và “muốn tới đâu thì tới”. Hiện tại thì tôi đã “tới” Cao Miên và đây còn là vùng đất tương đối an toàn thuộc phạm vi kiểm soát của kháng chiến quân Son Sann. Không hiểu đơn vị sẽ còn đi thêm bao xa nữa ? Tôi vẫn giữ lập trường “ai tới đâu tui tới đó” nhưng hình như đôi chân của tôi thì không. Chúng bắt đầu “lung lay” và hơi … loạng quạng!

Cán bộ chỉ huy đơn vị, cùng với hai kháng chiến quân Kampuchea có nhiệm vụ dẫn đường, đi vào doanh trại bên trong. Không bao lâu anh trở ra, chỉ tay về phía những bụi cây thật rậm ở phía bên phải chúng tôi, nói lớn:

– Ðêm nay ngủ tại chùa. Di chuyển liền qua bên đó. Cơm nước phải xong trước khi trời tối.

Tôi nhìn mặt trời đang xuống thật thấp, gần đụng đỉnh núi xa mờ ở phía Tây, với sự lo âu bâng quơ. Chậm lắm thì chừng hơn một giờ nữa thôi trời sẽ tối. Khác với bóng tối đô thị mà tôi đã từng quen, đêm tối nơi đây chắn chắn phải ẩn tàng nhiều đe dọa và bất trắc.

Trái với tâm trạng bất an của tôi, một kháng chiến quân ngồi ngay ở phía sau bỗng buột miệng nói sung sướng như reo:

– Bên chùa có chợ. Giờ này dám chợ còn họp lắm. Ở bển họ có bán nước đá, anh ơi!

Ðất Cao Miên quả có nhiều chuyện lạ. Chợ và chùa tuyệt nhiên không có dính dáng liên hệ gì với nhau, theo như tôi biết. Sao lại có chuyện “bên chùa có chợ” được kìa ? Tôi càng thắc mắc hơn nữa khi nhìn thấy nét hớn hở của người bạn nhỏ khi nói đến hai chữ “nước đá”. Tôi ngắm kỹ khuôn mặt trẻ thơ của em rồi bất chợt hỏi một câu lãng xẹt:

– Em sinh năm mấy ?

– 68.

– Như vậy là em vưà đúng hai mươi há ?

– Dạ, tháng tới anh.

Em trả lời với đôi mắt sáng và nụ cười hồn nhiên quá khiến tôi không khỏi trạnh lòng. Ôi chao cái tuổi hai mươi! Tôi bỗng nghĩ đến nó mà buồn đến ngẩn ngơ. Ủa, chớ nó bỏ đi đâu mất hồi nào vậy cà ? Nó mới vừa còn loáng thoáng đâu đó mà. Nhiều chuyện tôi tưởng như mới xảy ra hồi hôm, hay tuần rồi chứ không phải là đã hai mươi năm trước.

Lúc bằng y chang tuổi của chú em đây tôi cũng bắt đầu bước vào cuộc đời lính chiến. Có điều là tôi chả bao giờ trông vô tư và hăng hái như em hiện tại. Tôi không nhớ rõ là hồi đó mình đã ước ao cái gì khi di hành trong những lúc nóng bỏng và nắng cháy như thế này ? Nhu cầu của tôi thường rất nhiều, nhiều đủ thứ, và tốn kém lắm nha. Đại khái thì ít nhất cũng phải là năm bẩy chai bia ướp lạnh, chớ đâu có đơn sơ giản dị chỉ là vài cục nước đá như anh chàng kháng chiến quân trẻ con này.

Toán quân đã bắt đầu di chuyển. Tôi vội vã đứng dậy, chăm chú bước theo mọi người, cắt đứt những hoài niệm vu vơ. Ði loanh quanh thêm một lúc nữa, qua những con đường mòn mà cỏ dại mọc cao đến ngực, rồi chúng tôi nhìn thấy ngôi chùa.

Bắt đầu là sân chùa lát đá với cái được gọi là “chợ trời” nằm chình ình trên đó. Thực tại vốn phong phú, da dạng và … lộn xộn trong khi khả năng diễn đạt của ngôn ngữ lại vô cùng giới hạn nên tôi bắt buộc phải dùng chữ “chợ”, chỉ thêm được chữ “trời”, để mô tả một cách gắng gượng về cảnh ‘thị tứ’ nhỏ bé và nghèo nàn đến độ thảm thiết này. Ở ba góc sân chùa, người ta trải ra ba tấm ny lông độ một mét vuông. Trên đó bầy vài chai nước ngọt, mấy bao thuốc lá, năm bẩy nải chuối chín đen, cùng với bàn chải đánh răng, khăn mặt, xà phòng và…chấm hết!

Câu “trăm người bán vạn người mua” xem ra có vẻ mỉa mai trước cảnh xơ xác của cái chợ mini mà tôi nhìn thấy chiều nay ở Cao Miên. Tôi đếm được ba người bán và chỉ chừng năm bẩy người mua. Có lẽ họ đều là những binh sĩ thuộc lực lượng Son Sann đồn trú gần đây, và thái độ của họ trông có vẻ nặng phần “tham quan” hơn là có ý định mua bán thật.

Sự xuất hiện bất ngờ của chúng tôi chỉ làm cho những người đang hiện diện ngạc nhiên đôi chút, chứ không gây nổi chút xôn xao nào cho cái chợ vô sinh khí này. Không riêng gì tôi mà cả toán quân đều tự động dừng chân, đưa mắt nhìn ngắm những món hàng được bầy bán. Giữa vùng đất chết này thì nước ngọt, kem đánh răng, xà phòng, thuốc lá…đều có vẻ như những xa xỉ phẩm được mang đến từ một thế giới văn minh an bình nào đó.

Sau khi biết chắc là người ta có bán nước đá, tôi thân mật mời người bạn nhỏ một chai “lemonade” với thật nhiều đá. Khác hẳn với thái độ hăm hở lúc ban đầu, bây giờ thì em lại tỏ vẻ chần chừ:

– Mà đều họ bán mắc lắm anh ơi.

– Mắc là bao nhiêu ?

Em quay sang hỏi người bán hàng, chả hiểu bằng tiếng Miên hay tiếng Thái, rồi trả lời tôi buồn bã:

– Nếu trả bằng tiền Thái thì tới mười hai “baht” lận. Mắc gấp đôi bên kia.

Mười hai đồng tiền Thái chỉ cỡ năm mươi xu theo bản vị Mỹ Kim. Lúc ở phi trường Vọng Các tôi đã đổi hai trăm đô la ra tiền địa phương mà chưa dùng tới cắc nào. Ngay bây giờ tôi có thể mời em…tắm bằng bốn trăm chai Sprite chứ đừng nói chi là uống. Tôi cười hào sảng:

– Cứ mua uống đi em. Uống tới mệt thì thôi. Anh có tiền đây mà.

– Ðể em xin phép đã.

Tôi chợt nhận ra một điều nữa. Nơi đây mọi người đều không được quyền có nhu cầu nào riêng tư cả. Họ sống chết bên nhau, chia sẻ mọi gian lao cùng cực, cũng như tấ cả những ngọt bùi mà hoàn cảnh khó khăn dành cho mình. Hiểu như thế nên tôi nói vội:

– Ðể anh xin phép cho.

Em nhỏ gật đầu cười nhẹ nhõm, trong khi tôi đưa đề nghị với cán bộ chỉ huy cho tất cả được uống mỗi người một chai nước ngọt. Tôi cũng quơ vội hết những bao thuốc lá Samit và Krongthip mà người ta bầy bán và phân phát đồng đều cho tẫt cả.

Rồi chúng tôi tiến vào chùa. Vị sãi già, một ông sư Cao Miên cỡ chừng một trăm tuổi hay có thể là hơn thế nữa – người đầy vết xâm trên da thịt nhăn nheo răn rúm – run rẩy đứng nhìn toán quân với đôi mắt ưu phiền và ái ngại.

Bên cạnh ông là hai vị sãi con, tuổi chỉ cỡ mười hai mười ba chi đó, cũng đen đủi và gầy gò y như sư phụ, và cũng nhìn chúng tôi với ánh mắt rất bất an. Chợ họp trước sân chùa đã là một điều phiền; lính ở luôn trong chùa thì còn phiền dữ nữa. Nếu mà Phật dự kiến được mọi hệ lụy của kiếp nhân sinh của thế kỷ hai mươi, tôi e là ngài sẽ trừng phạt nặng nề cái kẻ láu táu nào đó đã phát ngôn rằng “cửa thiền luôn rộng mở”.

Khi đi qua mặt ba vị sãi hai người cán bộ chỉ huy toán quân cung kính chắp hai tay lên trán, theo đúng như tập tục chào hỏi của người…Thái. Tôi không tin là người Miên và người Thái có chung một lối chào nhưng cũng vội vã bắt chiếc làm theo y như mọi người cho nó…chắc ăn. Ba ông sãi đều chắp tay chào lại và miệng thì lẩm bẩm không ngừng. Tôi hy vọng là họ niệm Phật bằng ngôn ngữ bản xứ chứ không phải là đang chúc dữ cho số phận chúng tôi.

Tôi bớt áy náy hẳn về chuyện “xâm nhập chùa chiền” khi bước vào bên trong và nhìn thấy cổng chùa đã xập. Bên trong không còn gì ngoài những tảng đá xanh rơi đổ lổng chổng lên nhau. Bây giờ thì tôi hiểu tại sao, nhìn từ xa, không ai có thể ngờ được dưới những lùm cây rậm rạp lạI có một ngôi chùa.

Cùng lúc, tôi cũng tự giải thích được chuyện chợ họp trên sân chùa. Người ta cần một khoảnh sân bằng đá bằng phẳng để bầy hàng buôn bán. Ngoài sân chùa ra, xung quanh đây có nơi nào mà không mọc đầy cỏ dại, và không bị gài mìn?

Thấy vẻ thẫn thờ của tôi, một kháng chiến quân đứng gần giải thích:

– Hồi 85 tụi nó mang tăng vô tới tận đây đó anh.

– T 54 hả ?

– Dạ.

– Thứ này tôi có biết. Ðại bác của nó không công phá dữ dằn tới vậy đâu. Còn đại liên 12 ly 7 thì đâu có làm gì được những tảng đá xanh bự tổ mẹ này.

– Tụi nó pháo mà.

– Em nói ai ? Tụi Khmer đỏ, Heng Samrin hay là Việt Cộng ?

– Chớ còn ai nữa ? Nói tình ngay thì tụi Miên, dù Miên nào cũng vậy, không có phá chùa đâu. Bởi vậy đêm nay mình nằm đây vững lắm.

Tôi gật đầu biểu đồng tình cho vui lòng người đối thoại chứ thực tâm tôi chưa bao giờ thấy “vững lắm” kể từ lúc xuống máy bay đến giờ, dù ở bên này hay bên kia biên giới Thái.

– Ông vô trong này lễ Phật không ?

Một anh cán bộ khác mà trách nhiệm, tôi đoán, hơi nặng phần chính trị vỗ vai tôi hỏi nhỏ. Tôi gật đầu như máy bước theo anh vào bên trong.

Và tôi bất ngờ nhìn thấy Phật mà không khỏi sinh lòng … ái ngại. Vì nóc chùa đã đổ nên người ta che đỡ mấy liếp tranh trên đầu cho ngài trông đỡ dãi dầu mưa nắng. Bụi bặm và máng nhện giăng đầy áng thờ. Giữa cái không khí hoang liêu cô tịch nơi đây tôi nghe rõ có tiếng …muỗi vo ve! Nhang đèn, tất nhiên, là miễn có; nói chi đến xôi chè, oản chuối… khiến Phật thêm buồn. Ðến như Phật mà còn thê thảm tới cỡ này thì cả dân tộc Cao Miên tránh sao khỏi chuyện te tua, bầm dập!

Chu đáo như một chính trị viên, anh bạn đã chuẩn bị sẵn nhang đèn và có cả một túi chôm chôm đã héo. Sự thán phục đọc trong ánh mắt của tôi được giải thích liền:

– Ở Miên cũng như ở Thái, cách tốt nhất để làm đẹp lòng người dân địa phương là mình phải tỏ ra là một Phật tử thuần thành.

Sự thực thì anh bạn không chỉ “tỏ ra” mà tôi thấy rõ là anh ta vô cùng trang nghiêm và thành khẩn khi khấn vái. Sống trong một hoàn cảnh bất an thường trực thì tất nhiên Phật, Chúa, Thánh Thần… luôn luôn phải ở rất gần.

Bữa cơm chiều với thức ăn duy nhất là món canh mì gói. Nó đạm bạc một cánh thảm thiết, và ngon miệng một cách khó hiểu. Sau đó, tôi nhận đuợc thêm nửa ca nước trà nóng hổi, đậm đen. Tôi uống từng ngụm nhỏ, suýt xoa, hít hà, đã đời, thấm thía.

Ðược miễn gác nên tôi yên tâm mắc võng, nằm tận hưởng hương vị đậm đà của điếu thuốc Thái Lan. Những tàn lá cây trên đầu cũng vừa trở mầu đen sậm, và bầu trời đã nhấp nháy những ngôi sao mọc sớm. Ðêm nhiệt đới dường như kỳ bí và huyền ảo hơn là đêm ở những vùng đất khác.

Nếu có dịp làm cố vấn cho những công ty du lịch thì tôi sẽ ân cần khuyên bảo du khách điều này khi họ đến Cao Miên: coi chừng tụi Khmer Ðỏ và muỗi mòng ở nơi đây. Dù lực lượng Khmer Ðỏ đang cố tạo một bộ mặt “hiền hậu” và “dễ mến”, bất cứ ai hễ đã đỏ thì dù họ có biến thành hồng chúng ta vẫn nên tìm cách tránh xa – cho nó chắn ăn.

Còn muỗi mòng ở Kampuchea thì có thừa khả năng đâm xuyên qua võng ny lông và chích thẳng ngòi vào da thịt của những tên du khách khờ khạo như tôi. Ðã vậy, trong lúc ngủ tôi còn sơ ý để hở lớp võng ny lông che người cho năm bẩy chú muỗi lọt vào bên trong. Tôi nhổm ngay người dậy, nhẩy xuống đất, lục tìm chai thuốc muỗi bôi vội vào mặt, vào cổ, vào tay…

Cùng lúc, tôi nghe tiếng khúc khích cười. Trong vòng ánh sáng mờ ảo của một cây nến nhỏ, tôi thấy năm bẩy người ngồi quay quần bên nhau, và tất cả đang hướng mắt nhìn về phía tôi. Thái độ hốt hoảng vừa rồi của tôi chắc là lố bịch lắm khiến họ phải bật cười. Hơi ngượng, tôi lạI nằm yên trên võng. Còn họ thì dường như vẫn tiếp tục câu chuyện gì đó mà tôi đoán là có vẻ hào hứng đang bỏ dở. Thỉnh thoảng tôi mới nghe ba tiếng “trời đất ơi” đệm vào giữa câu chuyện bằng tiếng Miên mà tôi nhận ra được ngay là giọng nói của Thạch T.

Trong số những kháng chiến quân Khmer Krom (người Việt gốc Miên) mà tôi gặp nơi đây, tôi gần gũi với anh ta nhất. Thạch T. cởi mở và vui tính. Cách đây hơn một tuần khi còn ở căn cứ trong đất Thái, có hôm tôi đã thức gần đến sáng để nghe anh kể chuyện đi tu, đi lính, “những chuyện tình không may”, và cuộc đời lưu lạc của anh. Dù giọng nói của Thạch T. có “accent”, tiếng Việt anh vô cùng thông thạo.

Tôi tự hỏi không hiểu sao hôm nay anh lại nói tiếng Miên và những người ngồi xung quanh anh là ai. Lặng lẽ, tôi tuột người xuống võng đi đến bên họ tìm một chỗ ngồi. Thấy bóng dáng tôi, Thạch T. nói như reo:

– Em tưởng anh mệt qúa nên ngủ luôn rồi chớ.

Tôi gật đầu chào mọi người, rút bao thuốc lá ra mời họ hút, và nói vu vơ:

– Muỗi quá há!

Rõ ràng là không ai quan tâm đến chuyện “vu vơ” đó. Mọi cặp mắt đều dán chặt vào bao thuốc lá Winston đang chuyền qua tay từng người. Thạch T. chỉ vào tôi, và nói với mọi người như một lời giới thiệu. Mắt họ cùng lúc đều mở tròn xoe, kinh ngạc. Tôi nhìn Thạch T. dò hỏi. Anh cười thích thú nói:

– Em nói anh từ Mỹ tới đây.

Giọng Thạch T. hãnh diện như thể anh vừa tuyên bố với một đám đông hiếu kỳ rằng tôi là bạn thân của anh, và tôi vừa đến từ… một hành tinh khác! Sau đó, anh ân cần giới thiệu từng người:

– Thằng này là thằng cháu. Nó đi bên ông Sonn San. Em mới gặp lại nó chiều nay thôi.

– Chào em.

Người cháu của Thạch T. lắc đầu cười bẽn lẽn khiến anh lại vội vàng giải thích:

– Nó đẻ bên Miên mà, không biết nói tiếng Việt đâu. Má nó mới biết. Còn mấy đứa này là bạn nó. Ở chung một chỗ Siem Reap với nhau hết. Thằng này thì đi lính cho Heng Samrin, mới đào ngũ thức thì.

Người thứ hai vừa được giới thiệu nhìn tôi với đôi mắt hơi nghi ngại. Anh nghiêm trang hỏi Thạch T. có phải tôi làm việc cho CIA không ? Tôi lắc đầu cười khổ, trong lúc Thạch T. vẫn vui vẻ liếng thoắng giới thiệu tiếp:

– Còn thằng này thì ở bên Khmer đỏ. Cũng đào ngũ luôn!

Tôi suýt nhẩy nhổm người lên như kẻ bất ngờ bị đạp đinh. Cuốn phim “The Killing Fields” bỗng quay lại thật lẹ trong đầu. Hình ảnh bộ đội Khmer Rouge áo quần đen bó sát, ống quần tay áo xắn cao, chân đi dép râu, khăn rằn quấn kín đầu, mặt đằng đằng sát khí, tay lăm lăm AK 47, sẵn sàng chỉa súng vào mặt bất cứ ai và…bóp cò cái bộp!

Tôi mở mắt thật lớn nhìn, thoáng một chút ngỡ ngàng vì khuôn mặt chất phác và hồn nhiên của người đối diện. Cùng lúc, em nhìn lại tôi với nụ cười thật hiền lành và rất ngây thơ.

Cuộn phim trong đầu tôi vụt tắt. Qua nụ cười của em, tôi chỉ thấy là sao da em đen quá mà răng em trắng quá, thế thôi. Em còn quá trẻ để có thể tham dự vào thảm kịch tàn sát tập thể xẩy ra trên quê hương mình đã hơn mười năm trước. Ân hận vì thành kiến của mình, tôi vội xiết chặt lấy tay em. Tôi muốn “âm thầm” gửi đến em một lời xin lỗi.

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà thiên hạ sẵn sàng dán nhãn hiệu lên trán của nhau. Thực sự những người đang ngồi trước mặt tôi đâu có dính dáng, can dự gì đến quyền lợi của đảng phái này hay lực lượng nọ ở Cao Miên đâu. Tự nhiên người ta chia phe, trưng bảng hiệu, may cờ, vẽ vòng…rồi bắt ép các em phải đứng vào phe này hay phe nọ để cầm súng giết nhau.

Tình trạng ở quê hương tôi cũng chả khác gì. Ngồi cạnh tôi đêm nay là Bằng, là Thu, là Hoàng Hải, là Quốc…những người trẻ Việt Nam mà tôi đã quen nên Thạch T. không cần giới thiệu. Chỉ mới cách đây một hoặc hai năm thôi các em đều còn có tên gọi là bộ đội Việt Nam, một đạo quân có tiếng là hung hãn và ngu xuẩn nhất của thế kỷ này.

Và mới chỉ cách đây chừng hai tuần thôi, tôi còn nghĩ đến các em với ít nhiều thành kiến. Tôi quên bẵng đi một điều giản dị là các em đâu có quyền lựa chọn “không” là bộ đội.

Chợt nhớ ra một điều quan trọng khác, tôi vội hỏi trống không:

– Ở đây có ai đi lính cho ông Hoàng Sihanouk không ?

– Không.

Vậy chỉ thiếu có một nhân vật nữa thôi là đêm nay tôi đã gặp đủ tất cả “đại diện” của những phe đang lâm chiến ở Cam bốt rồi: Khmer Ðỏ, Heng Samrin, Son Sann, và Sihanouk. Tất nhiên là tôi muốn nghe chuyện của họ. Qua sự thông dịch của Thạch T., tôi hỏi người bạn nhỏ bỏ về từ phía Heng Samrin trước:

– Em ở với Heng Samrin bao lâu rồi ?

– Gần ba năm, từ hồi 1985 lận.

– Sao bỏ đi ?

– Người Cam bốt không thích ở với Heng Samrin đâu. Nó là “tay sai” của Việt Nam mà.

– Còn em, sao không ở với Pol Pot và Ieng Sari nữa ?

– Cực lắm, chịu không nổi.

– Rồi hai em có tính ở lại đây đầu quân bên Son Sann không ?

– Không, bên Son Sann không có mạnh đâu. Ở với ổng cũng khó sống lắm. Chắc tụi tui rủ thằng này (chỉ người cháu Thạch T. thuộc lực lượng Son Sann) đi vô Site II tị nạn luôn.

– Mấy em tính đi Mỹ hả ?

– Nghe nói không cho đi Mỹ nữa đâu. Không được đi nước nào hết. Nó nhốt luôn mà.

– Vậy vô đó làm chi ?

– Chớ ở ngoài này dễ chết quá mà không có ăn nữa.

– Mấy em có biết là Việt Cộng đang rút quân không ?

– Biết chớ nhưng ăn thua gì. Nó còn cả đống mà.

– Nếu không có bộ đội Việt Cộng thì lính Son Sann và lính Sihanouk đánh được Heng Samrin không ?

– Làm sao biết được nhưng lính Son Sann và Sihanouk cũng không có thuận nhau đâu.

– Lính Heng Samrin đánh giặc giỏi không ?

– Không giỏi đâu. Tụi nó nhờ có Việt Cộng mới mạnh thôi.

– Sao Khmer Ðỏ lại đánh giặc giỏi như vậy ?

– Cũng không giỏi đâu. Tụi nó nhờ có nhiều súng đạn thôi.

– Nếu bây giờ được tự do lựa chọn thì mấy em làm gì ?

– Tụi tui trở về Biển Hồ đánh cá nuôi mẹ, nuôi cha.

– Lấy vợ nữa chớ ?

– Cái đó phải có cha mẹ đi nói con gái nó mới chịu.

– Còn không về được thì sao ?

– Cũng chưa biết tính sao nữa ?

Tôi cố nén một tiếng thở dài và không dưng mà thấy mắt mình cay.

Ngọn nến tàn dần. Ánh lửa nhỏ nhoi đột nhiên hóa màu đỏ sậm, rồi biến thành lập lòe xanh lét khiến khuôn mặt mọi người trông đều có vẻ ma quái. Tôi nghe tiếng Quốc nhắc Hoàng Hải lục ba lô tìm nến, rồi tiếng nói ngái ngủ của anh cán bộ chỉ huy:

– Thôi ngủ đi mấy ông. Ai gác thì lo canh gác đàng hoàng, còn lại thì ngủ đi. Mai đi “hóc” lắm chứ không phải chơi đâu.

Ngọn nến tắt hẳn. Ðêm đen thui. Cùng lúc là tiếng đại pháo ầm ì ở xa xa. Trong bóng tối, em nhỏ về từ phía Khmer Ðỏ chợt nắm nhẹ lấy tay tôi và nói một điều gì đó nghe rất ân cần. Thạch T. cười nhỏ dịch lại:

– Nó biểu anh đừng có sợ. Pháo bắn ở xa lắm.

Nếu nói được ngôn ngữ của em, có lẽ tôi sẽ trả lời rằng “tôi không sợ gì hết, chỉ buồn thôi.” Lẫn trong tiếng pháo, tôi chợt nghe tiếng gà gáy sáng. Chắc mới canh một. Còn lâu, lâu lắm trời mới sáng, và không có gì hứa hẹn là ngày mai cuộc đời sẽ sáng sủa và dễ thở hơn cho bất cứ ai nơi vùng đất bất hạnh này.

Tưởng Năng Tiến – 1988 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Họ ở thế quỳ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

22/08/2024

Sức khoẻ tinh thần của tôi tương đối bình thường và ổn định. Chỉ “tương đối” thế thôi vì đôi khi tôi vẫn hay bị buồn ngang, nhất là sau những giấc ngủ muộn màng, chợt mở mắt và thấy mình đang trơ trọi ở một nơi hoàn toàn xa lạ.

Chán viết, lười đọc, bạn không, rượu cạn nhưng thay vì khoác áo đi kiếm thêm vài chai thì tôi chỉ nằm lắng nghe đám học sinh (ở ngôi trường tiểu học kề bên nhà trọ) hò hát – dù chả hiểu chi. Hoá ra trẻ con của nước Cambodia cũng hay được dậy dỗ hát hò y như mình, lúc còn thơ ấu.

Những bài hát mà chúng tôi được học, cách đây hơn nửa thế kỷ, không hề có trong chương trình của Bộ Quốc Gia Giáo Dục ở miền Nam. Tất cả đều hoàn toàn do ngẫu hứng của thầy cô. Do đó, ca từ không có lời nào nhắc đến râu (dài) tóc (bạc) của bất cứ vị lãnh tụ nào ráo trọi mà thường thì chỉ liên quan đến những con vật ngây ngô (và quen thuộc) trong đời sống hằng ngày:

  • Em có nuôi một con chó, trông nó to như con bò. Sáng nó kêu gấu, gấu, gấu…
  • Kìa đàn vịt bơi dưới ao hồ. Thằng bờm xờm vác cây đuổi đánh. A ha ha nó kêu quác quạc quác quạc …
  • Hai chú gà con đi chơi với nhau. Chú che cái dù, chú đội mũ trên đầu …

Thảng hoặc, cũng có những bản hùng ca:

  • Đây Bạch Đằng Giang sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống anh hùng Nam Bắc Trung …

Hay:

  • Toàn dân! Nghe chăng? Sơn hà nguy biến!
    Hận thù đằng đằng! Biên thùy rung chuyển…

Chúng tôi thích ca bè. Nửa lớp bên này:

  • Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?

Nửa lớp còn lại hét lên:

  • Quyết chiến!

Rồi đổi bên:

  • Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh?

Bên kia lại gào lên:

  • Hy sinh!

Chúng tôi thích hò hét và gào thét (“quyết chiến” – “hy sinh”) chơi cho vui, chứ chả đứa nào hiểu rõ nghĩa của những cụm từ (“sơn hà nguy biến” – “biên thùy rung chuyển”) nghiêm trọng đến thế.

Thế mà hơn nửa thế kỷ đã qua. Thằng nhỏ năm xưa (nay) đã thành một ông già  bước vào tuổi thất tuần. Nhiều chiều nó nằm cô quạnh trong một căn nhà trọ – ở một góc trời buồn – hát nho nhỏ (“Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến? Quyết chiến”) chỉ cho chính mình nghe, rồi không dưng mà muốn trào nước mắt!

Lấy cái con bà gì ra để chiến?

Hơn 10 năm trước, vào ngày 24 tháng 7 năm 2009, trong buổi tọa đàm Biển Đông & Hải Đảo Việt Nam nhà văn Nguyên Ngọc đã nói đến “sức mạnh của nhân dân” như là yếu tố quan trọng nhất trước hiểm hoạ ngoại xâm. Hai hôm sau, ông Hà Sĩ Phu cũng long trọng khẳng định: “Chân lý muôn đời là chỉ có Dân mới cứu được nước.”

Nay, quý vị thức giả trong và ngoài nước, cũng vẫn đang loanh quanh với chuyện lòng dân và thế nước. Lòng dân hiện tại ra sao?

Xin hãy nghe đôi lời tâm sự của một người dân vừa rời bỏ quê hương, và nhất quyết sẽ không ngoảnh đầu nhìn lại:

Tôi đi vì tương lai của con trai tôi, thằng Tí Hớn.

Khi Tí Hớn sinh ra trong bệnh viện, tôi phải trải qua cảnh hối lộ cho bác sĩ tiền, người ta nói rất thẳng phải bồi dưỡng ca này, kíp kia ngần này, ngần kia.

Là dân giang hồ, tôi từng hối lộ cho công an nhiều lần. Khi sinh con ra, tôi phải hối lộ cho bác sĩ. Như một thói quen, chuyện hối lộ trở thành bình thường trong xã hội Việt Nam, nó bình thường đến nỗi tôi thấy nó là việc tự nhiên không có gì đáng phải nghĩ về nó cả.

Những người nhận hối lộ ấy, họ cũng phải hối lộ cấp trên của họ để làm việc được chỗ ấy. Để cho họ yên tâm làm việc phục vụ mình, đóng góp cùng với họ để họ có vị trí ấy yên ổn thì có gì đâu.

Nhưng rồi một ngày không lâu sau khi Tí Hớn ra đời, tôi nhận ra rằng, nếu con tôi lớn lên trong một xã hội mà những nghề cao quý như công an, nhà giáo, bác sĩ lại thản nhiên đòi tiền hối lộ như thế , con tôi sẽ sống thế nào.

Tôi có phải dạy nó rằng chuyện hối lộ như vậy là điều bình thường không ? Bạn nghĩ xem, một đất nước mà đầy rẫy những kẻ dối trá từ y tế, hành pháp, giáo dục và cả tôn giáo nữa, tôi có nên để cho con mình ở đó không ? (Người Buôn Gió. “Đầu Không Ngoảnh Lại.” Dân Luận – 07/10/2019).

Quan niệm cá nhân của một blogger (vốn là một thị dân) về đất nước, tất nhiên, không thể tiêu biểu cho cả một dân tộc mà đại đa số sống ở nông thôn. Những nông phu (đội sương nắng bên bờ ruộng sâu/vài ngàn năm đứng trên đất nghèo) không mấy ai có ý nghĩ rời bỏ quê cha đất tổ. Họ sống ra sao?

“54 năm qua, những người nông dân không một ngày ngừng cày cuốc, gieo trồng với tất cả những đức tính cần cù trên cánh đồng của họ. Họ đã lao động không hề than thở, họ đã hy sinh không hề than thở. Nhưng sau 54 năm, họ ngẩng đầu lên nhìn lại con đường của họ đã đi. Và họ kinh hãi nhận ra: họ đã đang đi theo một vòng tròn. Họ đang có nguy cơ trở lại điểm xuất phát… Tôi mang cảm giác người nông dân bị bỏ mặc và trở nên bơ vơ trên cánh đồng đầy nắng mưa, bão gió”. (Nguyễn Quang Thiều. “Thư Của Đứa Con Những Người Nông Dân.” Vietnamnet – 26/06/2009).

Má ơi, nếu họ được “bỏ mặc trên những cánh đồng đầy nắng mưa” để “cần cù cầy cuốc gieo trồng” thì may mắn và quí hoá biết chừng nào. Từ thưở lập quốc đến nay, nông dân Việt Nam có bao giờ dám than thở hay mong mỏi điều gì khác nữa đâu.

Chỉ sợ họ lại bị bắt xỉa xói đấu đá lẫn nhau cho đến chết, rồi vào hợp tác xã nông nghiệp (thay trời làm mưa, nghiêng đồng cho nước chẩy ra ngoài) nay buộc trồng lúa thần kỳ, mai buộc trồng cây cao lương … – những nông phẩm mà sản lượng chỉ thu hoạch được … trên đài và báo!

Chưa hết:

“Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Từ đó, Việt Nam trở nên một “cường quốc của dân oan.” Giới người này vật vạ, la lết, lang thang, vất vưởng trên khắp mọi nẻo đường đất nước hoặc “co dúm thút thít” trong mảnh đất (còn lại) mà diện tích chỉ đủ dựng một túp lều, kỳ dư đã bị thu hồi với giá đền bù “mỗi m2 bằng giá một… cốc bia” – theo như ghi nhận của blogger Đào Tuấn.

Sẽ có bao nhiêu người dân ở Lộc Hưng, Văn Giang, Dương Nội, Long An, Cần Thơ, Đồng Nai, Dak Nong … sẵn sàng “hy sinh” mạng sống khi “sơn hà nguy biến” hay “biên thùy rung chuyển”?

Lòng dân đã vậy. Thế nước thì sao ?

G.S Tương Lai buông thõng, vỏn vẹn, chỉ có hai từ ngắn gọn nhưng hoàn toàn chính xác:

– Chông chênh!

Chủ trương, đường lối, chính sách nhất quán và xuyên suốt là “đi dây” mà không “chông chênh” thì mới là chuyện lạ. Thế nước thì chông chênh, quốc khố thì trống rỗng, dù “mỗi quả trứng gà phải cõng đến 14 loại thuế phí.”

Giới lãnh đạo bất tài, phân hoá, ngu dốt và tham lam vô độ … nên phải quỳ xuống cắt biển và dâng đất để giữ lấy thân (cùng của cải) là hệ quả tất yếu. Dân Việt làm sao thoát Trung, nếu không tiên quyết (và cương quyết) thoát khỏi cái đám Cộng Sản gian tà này.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Võ Thị Thắng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

21/08/2024

Thay vì một vòng hoa, một nén nhang (hay vài lời ai điếu) tôi xin mượn đôi câu thơ để đưa Võ Thị Thắng (10/12/45 – 22/08/14) về nơi an nghỉ cuối cùng. Chớ hoa hoè, nhang khói, điếu văn … này nọ nào có thiếu chi trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:

“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Trưởng ban lễ tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.”

Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không hiểu chi nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Mày mò cả buổi mới biết được thêm ba điều bốn chuyện:

Báo Vnexpress :

“Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi 17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên – sinh viên – học sinh…

Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII và Khóa IX; Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.”

Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, còn cho biết thêm :

“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ…

Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”

Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều người khác thì không.

Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận :

Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng :

“Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): ‘Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”.

Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S. Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.

Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966 :

“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”

Vẫn theo bản tin thượng dẫn:

“Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.”

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.

Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay – rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.

Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, ông Hạ Đình Nguyên (cố Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”

Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!

Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị Võ Thị Thắng là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”

Thiệt là quí hoá hết sức!

Dù vậy, tôi vẫn còn có đôi chút lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?


 

Đạo Quân Vé Số-Tưởng Năng Tiến

Ba’o Tieng Dan

Tưởng Năng Tiến

9-8-2024

“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”!

Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ?

Cũng không đến nỗi trăng/ sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/ tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …

Mâm nào cũng có tui hết ráo!

Dần dà, tôi nhận ra là ngành học cuối có vẻ hợp với cái tạng, và cái tính bao la trời biển (bẩm sinh) nên quyết định sẽ chơi cho tới bến luôn. Quyết định này – tiếc thay – đã không được vị cố vấn giáo dục (academic counselor) củ̉a nhà trường khích lệ:

“Ấy chớ! Chớ nên đi vào con đường xa xôi, lôi thôi, diệu vợi, hoang vu, âm u, và mịt mù như thế. Với bằng tiến sĩ nhân chủng thì chỉ có hai cách để kiếm sống thôi: Đi dạy học hoặc đi chạy taxi. Dạy học thì ngay dân bản xứ (da trắng bóc, tóc vàng hoe, mắt xanh lè) cũng khó chen chân, nói chi đến cái ngữ di dân với vốn tiếng Anh ngọng nghịu. Còn chạy taxi ở New York (hay San Francisco) thì cái thứ trông lờ khờ, lừ khừ, lử khử, lù khù, lờ đờ, lù đù, lừ đừ như ông từ vào đền (“y dạng của chú mày”) chắc cũng chỉ được độ ba bẩy/ hai mốt ngày là … phải bỏ việc thôi – con ạ!

Tất nhiên, không ai nỡ nói thẳng vào mặt tha nhân những lời lẽ thô bạo và nặng nề đến thế. Tuy thế, tuy chỉ số thông minh trí tuệ (IQ – intelligence quotient) rất thấp nhưng mức độ mẫn tuệ (EQ – emotional intelligence) thì không đến nỗi gì nên tôi cảm nhận được ngay cái tình huống (không được sáng sủa gì lắm) của mình – qua giọng điệu của người đối thoại. Quả là tôi lầm thật, và chắc rằng lầm lắm, chứ chả bỡn đâu!

Nói nào ngay thì tôi cũng chả mặn mà (cái con bà) gì với cái bằng tiến sĩ. May mắn chui tọt ra được xứ người nên cũng có nuôi chút hoài bão là được hấp thụ một mớ kiến thức cơ bản về một ngành học lạ, cùng với ước mơ là sẽ thành lập được phân khoa về nhân chủng học (ở quê nhà) mai hậu.

Mai hậu chả biết là bao giờ mà đời người thì ngắn ngủi. Tóc tôi mỗi lúc một bạc dần (rồi bạc ráo) mà đường về thì mãi vẫn chưa có lối. Đã thế, cơm áo không đùa với khách thơ hay khách trú (fresh off the boat) không một xu dính túi, không nghề nghiệp trong tay, bằng cấp và học thức cũng không luôn … nên đành thôi vậy.

Giấc mơ nhân chủng học, tới đây, kể như là chấm hết (hay nói rõ hơn là đã chết) nhưng tôi nhất định vẫn chưa chịu mang chôn. Lâu lâu – đi lang thang trên mạng – cứ thấy loáng thoáng đâu đó có đám nào đang xì xào, thăm dò/ tìm kiếm/ xăm xoi/ đào xới/ bới móc/ khai quật (hang hốc, lăng tẩm, mộ bia, mồ mả, xương cốt …) là thế nào tôi cũng dừng chân, ghé mắt xem qua, cho biết.

Có lần, tôi tình cờ xem được đôi ba bài báo có đề cập đến nơi xuất phát của nền văn minh nhân loại:

– Helping someone else through difficulty is where civilization starts

– A 15,000 year old bone and the Fall 2013 issue of Reflections

– How A 15,000-Year-Old Human Bone Could Help You Through The Coronacrisis

Xin được tóm lược nội dung:

Khi được hỏi, “điều gì có thể được xem như là dấu hiệu đầu tiên của sự văn minh”, nhà nhân chủng học Margaret Mead trả lời rằng: “Helping someone else through difficulty is where civilization starts”. (“Văn minh khởi đầu ở nơi mà tha nhân được trợ giúp khi lâm vào nghịch cảnh”).

Theo bà, trong thế giới loài vật khi một con thú bị gẫy chân thì chết là cái chắc. Nó không còn khả năng sinh tồn, và sẽ bị đồng loại xâu xé tức thì. Do vậy, khi khai quật được một cái xương đùi của kẻ bị thương đã được chữa lành (15 ngàn năm trước) thì đây là dấu chỉ của văn minh, di tích về tính tương trợ của giống người.

Margaret Mead từ trần vào ngày 15 tháng 11 năm 1978. Gần nửa thế kỷ sau, sau khi bà tạ thế, mới có một cuộc tái khai quật tại hang động Shanidar (Trung Đông) vào năm 2018. Thành quả vừa được Netflix trân trọng giới thiệu một cuốn phim tài liệu (“Secrets of Neanderthal”) dài 80 phút – sản phẩm của BBC – hôm 2 tháng 5 năm 2024, với nhiều khám phá mới lạ có liên quan đến vấn đề thượng dẫn.

Một trong những phát hiện quan trọng đưa đến kết luận là, người Neanderthal đã từng thể hiện sự thương cảm và tinh thần tương thân/ tương ái lâu lắm rồi, chớ không phải chỉ mới 15.000 năm trước đâu!

Fred Lewsey, thuộc phân khoa nhân chủng của Đại Học Cambridge, cũng có bài tóm lược (“Revealed: face of 75,000-year-old female Neanderthal from cave where species buried their dead”) về cuộc khai quật mới mẻ này. Ông ghi nhận:

“ … remains from Shanidar Cave still show signs of an empathetic species. For example, one male had a paralyzed arm, deafness and head trauma that likely rendered him partially blind, yet had lived a long time, so must have been cared for. (… hài cốt từ hang động Shanidar còn có dấu hiệu của những giống loài đồng cảm. Chẳng hạn, có một người nam với cánh tay bị liệt, điếc và bị thương trên đầu rất có thể bị mù nữa mà vẫn sống thọ, hẳn đã được chăm sóc đàng hoàng).

Tinh thần tương trợ của giống người Neanderthal (được thể hiện từ bốn mươi lăm ngàn năm trước) khiến tôi không khỏi bùi ngùi, khi thoáng nhớ đến những mẩu tin ngăn ngắn – xuất hiện hằng ngày – trên mặt báo ở đất nước mình:

– Dùng Gậy Đánh Người Tàn Tật Ngồi Xe Lăn Cướp Hơn 180 Tờ Vé Số

– Tuổi teen cướp giật vé số

– Bắt hai gã trai tráng chuyên đi cướp vé số của người nghèo

– Giật Gần 300 Tờ Vé Số Của Người Bán Dạo

– Cụ Bà Bệnh Tật Bị Cướp Giật Hơn 200 Tờ Vé Số

– Bắt Nhanh Đôi Nam Nữ Chuyên Cướp Giật Vé Số

– Cướp 260 Tờ Vé Số Của Người Khuyết Tật

– Khởi tố 4 người cướp giật hàng ngàn vé số của người già, tàn tật

– Cướp vé số của người tàn tật để lấy tiền mua ma túy sử dụng

Những đứa bé thơ (không một mái trường) những người già cả neo đơn (không nơi nương tựa) những kẻ thương tật (không nơi bám víu) những mảnh đời cùng quẫn, (không hề được đoái hoài) … đã biến Việt Nam thành một “cường quốc vé số”, theo như ghi nhận của giới truyền thông:

– Xổ số kiến thiết “góp” 10.000 tỷ đồng cho Nhà nước trong quý I

– Xổ số đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước

– Xổ số đóng góp gần bằng ngành dầu khí và vượt xa hàng không

– Nguồn thu từ xổ số cao hơn nhà đất

Tuy là “lực lượng kinh tế nòng cốt” của một “cường quốc” nhưng những đạo quân vô danh này luôn bị trấn lột, bóc lột, ức hiếp, và dầy xéo đủ cách bởi bọn trẻ trâu (nghiện ngập) và đám lãnh đạo (đã không còn nhân tính) ở xứ sở này.

Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh phẫn nộ: “Cái bọn đặt ra cái nghề kinh doanh mà lợi dụng triệt để lòng thương xót của cộng đồng đối với những người không còn sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động để tăng doanh thu quả rất đáng để khinh bỉ và căm giận. Sáng nay, tui ngồi uống ly cà phê trong 1/2 tiếng đồng hồ để chờ vào cơ quan làm thủ tục giấy tờ ở một thị trấn tại Đồng Nai mà có đến gần 10 người vào mời mua vé số. Người già nua có, trẻ em có, người tàn tật có”.

Từ Việt Nam, thông tín viên Uyên Nguyên (RFA) cho biết:

“Mỗi công ty có số lượng nhân viên biên chế chưa tới 50 người, với mức lương khá hời, số còn lại, cũng là nhân viên nhưng không có bất kỳ một chế độ nào, đó là những người bán vé số. Số lượng này đông gấp nhiều chục lần nhân viên biên chế, nhưng thu nhập và đời sống của họ vô cùng khó khăn. Thậm chí, có nhiều người chết trên đường đi bán vé số vì bụng đói và bệnh tật!”

Những đứa bé thất học, những cụ già không còn sức lao động, những kẻ cơ nhỡ thương tật … ở nước CHXHCNVN (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) nếu sống trước đây vài chục ngàn năm – rất có thể – đã được đồng loại cưu mang và nuôi dưỡng tử tế, chứ không đến nỗi phải “chết trên đường đi bán vé số vì bụng đói và bệnh tật” như hiện trạng đâu.

Việt cộng thì cũng là người Việt thôi. Sao cũng là dòng dõi Lạc Hồng hay con Rồng cháu Tiên (gì đó) mà họ lại có thể ăn ở man rợ đến vậy, hả Trời?