S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Biệt phủ & biệt thự

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Biệt phủ & biệt thự

Sau khi xem qua giá vé, tôi đổi ý liền, tới mấy ngàn Mỹ kim lận. Ở quê tôi không ít người phải bán thân (hay bán thận) mà chỉ được vài trăm đô la thôi nên tôi đâu có điên mà… vứt tiền qua cửa sổ như vậy.

Đã vậy, tôi cũng hơi ngại ngần rằng cái thứ thường dân tị nạn như mình mà giả dạng làm du khách e cũng khó coi. Tôi còn sợ là mình sẽ vô cùng lúng túng khi được những tiếp viên hàng không tiếp đãi trang trọng quá.

Cách đây chưa lâu tôi cũng đã có đôi chút kinh nghiệm (rất phiền) khi bầy đặt làm sang, liều mạng thuê một cái phòng ngủ hơi mắc tiền ở Rangoon – Miến Điện. Vừa bước xuống taxi, nhân viên khách sạn túa ra chào đón khiến tôi hết hồn hết vía.

Họ đưa tôi vào một cái phòng rộng thênh thang có bàn ăn, bàn viết, bàn phấn, tủ lạnh, sofa tiếp khách to đùng, và cả hoa tươi trên table de nuit. Mình ên tui mà tới hai cái giường ngủ lận, cái lớn/cái nhỏ, ra nệm trắng tinh. Trên mặt gối còn có đặt mấy búp sen hồng tươi thắm và thơm ngát nữa.

Tôi chỉ dám nằm ké né chút xíu xiu ở mí giường thôi, và nằm thao thức cho tới gần sáng luôn vì không quen ngủ ở một nơi sang trọng. Đợi mặt trời vừa lú là tôi cút ngay vì ngại cái cảnh nhân viên khách sạn (lại) chắp tay xá chào khi từ biệt.

Tôi trở lại với mấy cái nhà trọ rẻ tiền quen thuộc, chi phí chỉ vài Mỹ kim một ngày thôi – breakfast included. Tuy phải nằm giường hai tầng, và ngủ chung phòng với mấy cô/cậu Tây ba lô (xốc xếch) nhưng tôi cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Tưởng chừng như mình là một con cá hồi, vừa tìm lại được đúng dòng sông cũ vậy!

Hoá ra Oscar Lewis cũng không sai lắm. Nhà nhân chủng học này đưa ra cái khái niệm culture of poverty (văn hoá nghèo) và tin rằng một kẻ sinh trưởng và nuôi nấng từ một gia đình – và đất nước nghèo khó – như tôi rất khó thích ứng với những sinh hoạt của nếp sống phú túc nên cứ … nghèo hoài, cho tới chết luôn!

Tui cũng sắp chết tới nơi rồi nên không có gì để phiền hà ráo trọi nhưng khi còn sống thì nhất định không để cái văn hoá nghèo biến mình trở thành một kẻ nghèo văn hóa.

Chỉ cần ngồi nhà – không phải tiêu dùng một đồng nào ráo trọi – xem một bộ phim tài liệu (Amazing Hotels: Life Beyond the Lobby) dài sáu tiếng, cũng đủ giúp tôi học hỏi rất nhiều điều kỳ thú về những khách sạn lạ lùng và sang trọng vòng quanh thế giới: Marina Bay Sands (Singapore), Giraffe Manor (Kenya), Royal Mansour (Morocco), Fogo Island Inn (Newfoundland), Icehotel (Sweden) …

 

Riêng Mashpi Lodge thì tôi coi đi coi lại tới vài lần. Mashpi được coi là “Five Star Ecohotel.” Có tên trong danh sách những khách sạn độc đáo của thế giới do National Geographic tuyển chọn, dù Mashpi chỉ chiếm một diện tích rất khiêm tốn, và nằm ẩn mình trong khu rừng mây (cloudy forest) xa khuất thuộc rặng núi Andean ở Nam Mỹ.

Chủ nhân là Roque Sevilla (cựu thị trưởng Quito, thủ đô của Ecuador) người trở thành triệu phú nhờ vào dịch vụ bảo hiểm và truyền thông, đã mua 1.200 mẫu Tây đất rừng với giá 350, 000 USA dollars, và bỏ thêm 10 triệu Mỹ Kim nữa để xây dựng quán trọ Mashpi Lodge. Ông tâm sự: “Mọi người đều nghĩ rằng tôi điên. Everybody thinks I’m crazy.”

Với số vốn lớn lao này mà khách sạn chỉ có 22 phòng thì quả là “khùng” thiệt nhưng mục đích của Roque Sevilla không phải là đầu tư sinh lợi. Ông muốn cứu vãn, và bảo vệ, một phần rừng nguyên sinh đang bị mất dần vì sự khai thác quá tải của những công ty cung cấp gỗ.

Phần lớn nhân viên của Mashpi Lodge vốn là thợ làm rừng hay thợ săn. Nay họ đều trở thành những chuyên viên bảo vệ thiên nhiên. Kết quả là nhiều chủng loại (chim chóc cũng như động vật hoang dã) mất dạng từ hơn nửa thế kỷ đã có mặt trở lại trong khu rừng mây của Mashpi Lodge – theo ghi nhận bởi camera traps của nhà sinh vật học thường trú Carlos Morochz.

Tôi cứ nhìn cái khách sạn thiết kế toàn bằng kiếng (để du khách đứng ở góc nào cũng có thể tiếp xúc với thiên nhiên) với thư viện, phòng thí nghiệm, đài quan sát … của ông thị trưởng Quito mà không khỏi ngẩn ngơ và chạnh lòng nghĩ đến giới quan chức ở đất nước mình.

Thay vì bảo vệ thì những kẻ này chính là thủ phạm đã phá nát rừng núi ở Việt Nam để khai thác gỗ kiếm tiền, và xây những biệt thự hay biệt phủ :

– Biệt phủ Yên Bái và tài sản bất minh

– Bất ngờ biệt phủ gỗ quý của lãnh đạo kiểm lâm

– Biệt phủ xây bằng 2.000 m3 gỗ quý của đại gia xứ Nghệ

– Hoa mắt trước biệt phủ rộng thênh thang bằng gỗ quý của ông Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị

– Vì sao quan chức lại có dinh thự, “biệt phủ” xa hoa đến vậy?

– Hình ảnh khu “biệt thự quan chức” ồn ào ở Lào Cai

– Biệt thự quan chức: Những dinh thự, biệt phủ “ồn ào” dư luận thời

– Biệt thự Sơn La là của em trai Chủ nhiệm UB Kiểm tra tỉnh

– Con gái nguyên lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đứng tên “biệt phủ”

– 137 biệt thự trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà: “Tối mật” hay mặt tối của một toan tính

– Biệt phủ vẫn sừng sững sau những ồn ào

Bà Nguyễn Hải Vân, một chuyên viên về môi trường cho hay :

“Rừng phòng hộ ở Việt Nam đang suy giảm mạnh cả về diện tích và chất lượng. Chỉ tính từ 2004-2014, diện tích rừng phòng hộ đã giảm 1,7 triệu hécta, tương đương tốc độ suy giảm trung bình 23%/năm.”

Nhà báo Trương Châu Hữu Danh nhận xét :

“Trên khắp dải đất hình chữ S này, nhà gỗ triệu đô không hiếm. Nhưng những căn nhà này không thuộc về giới siêu giàu, giới doanh nhân. Những căn nhà này, trớ trêu thay, lại là của cán bộ. Sau lệnh đóng cửa rừng, các món đồ gỗ, nhà gỗ này càng trở nên vô giá.

Một thực tế là nhà cán bộ càng to thì lũ càng lớn, dân chết càng nhiều. Những căn nhà xa hoa này được đánh đổi bằng mạng dân. Các vị ngủ có ngon không khi dưới chân mình là xác dân lập lờ trong lũ dữ?”

Theo tôi thì “các vị cán bộ” này đều vẫn ngủ rất ngon vì họ được bảo vệ rất kỹ trong những căn “nhà gỗ triệu đô” bởi chế độ hiện hành. Qua lệnh xử phạt “500 triệu đồng và cho tồn tại ‘biệt phủ’ của gia đình ông Phạm Sỹ Quý” ở Yên Bái, mọi người đều thấy được cái tâm, cũng như cái tầm, của những người hiện đang nắm quyền bính ở Việt Nam. Đất nước này tuy không nằm trên đường xích đạo như Ecuador nhưng số phận thì e đen đủi hơn nhiều.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trường Chinh

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trường Chinh

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

“Từ năm 1954 đến 1975, đúng là ‘ta’ đã chiến thắng được ‘hai đế quốc to’ cùng với được hơn chục nước trên thế giới đã đi theo con đường mà Lê nin đã chọn, tức theo CNCS, từ đó các Cụ nhà mềnh thấy CNCS ‘oách’ quá, cứ đà này cả thế giới gần 200 nước sẽ theo CNCS hết sạch, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin sẽ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác rồi tiến lên giải phóng cả Hoa Kỳ, Ý, Đức, Anh, Pháp …abc… thoát khỏi ách bóc lột của CNTB …hu hu…!!!

Từ những nguyên nhân trên các Cụ lớn nhà mềnh mới sinh ra thói ‘Kiêu ngạo cộng sản’ tuy không tốt nhưng có cái để …kiêu ngạo, nhưng các cụ nối ngôi sau này chẳng có cái gì lận lưng để mà ‘kiêu ngạo’ cả. Chỉ là ăn theo thôi! Nên đúng là… ‘kiêu ngạo vì những cái không phải của mình’ hay còn gọi là ‘kiêu ngạo cộng sản!’ Sau Cụ Trường Chinh, nếu có thì chỉ là ‘kiêu ngạo nhận vơ!’ mà thôi!”

Nhận xét thượng dẫn về “Cụ Trường Chinh” khiến tôi chợt nhớ đến công trình biên soạn rất công phu (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Tác giả đã dành nguyên một chương (chương 10, tập I) cho ông Trường Chinh, nhân vật được coi là đã đặt nền móng cho chính sách “đổi mới” và được mô tả như một vị thánh tử vì đạo:
“Trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của mình.”

Cách nhìn của những người ngoại đạo, hay đã bỏ đạo (cộng sản) lại hoàn toàn khác:
– Nguyễn Minh Cần:

“Sau khi Lê Duẩn chết, Trường Chinh lên làm TBT. Ông vốn là một ‘lãnh tụ’ nổi tiếng ‘giáo điều.’ Ngay cái biệt hiệu của ông cũng nói lên đầu óc sùng bái họ Mao… Cũng trên cương vị TBTĐCSVN, hồi những năm 50, Trường Chinh đã lãnh đạo cuộc cải cách ruộng đất CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức (CĐTC) Ở NÔNG THÔN MIỀN Bắc rập khuôn theo hình mẫu trung quốc đã đem lại vô vàn tai hoạ cho nhân dân.” (Nguyễn Minh Cần. Đảng Cộng Sản Việt Nam. Arlington, VA: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2016).

– Vũ Thư Hiên:

“Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp (*) của Roger Garaudy. Ðọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh. Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville.

Tiếp đó là sự phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông, trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay …” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. 2sd ed. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1997).

Riêng trong lãnh vực thi ca thì Trường Chinh hoàn toàn không bị tai tiếng gì ráo trọi. Ông sáng tác mình ên, không “mượn” câu chữ nào – nửa chữ cũng không – bất kể là của Tây hoặc của Tầu. Thơ của Trường Chinh, với bút hiệu Sóng Hồng, chỉ có chút khuynh hướng (và hơi hướng) Mạc Tư Khoa thôi:

Hỡi thi sĩ! Hãy vươn mình đứng dậy!
Thời rượu nồng, đệm gấm đã qua rồi.
Thôi thôi đừng khóc gió với than mây,
Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ.
Dùng thi khúc mà lạnh lùng soi tỏ
Những bệnh căn xã hội đã tràn đầy;
Cùng công nông vun xới cuộc tương lai
Ðã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ.

(Ngoại thành Hà Nội, tháng 6-1942)

Hơn 40 năm sau, sau khi kêu gọi giới thi sĩ “cùng công nông vun xới cuộc tương lai,” đến năm 1986 (vào lúc cuối đời, chả hiểu sao) bỗng Anh Cả Trường Chinh đổi ý. Ông Tổng Bí Thư đến già mới chợt tỉnh, theo như cách nói của nhà báo Tống Văn Công:

“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày.

Trường Chinh cau mày khó tin – bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế – nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Tiếc rằng ông không “tỉnh” được lâu. Chỉ hai năm sau, năm 1988, Trường Chinh đột ngột từ trần. Thôi thế cũng xong. Cuối cùng, rồi ông cũng thoát. Thoát khỏi cái XHCN do chính ông đã dụng công xây đắp nhưng giai cấp công nhân thì không. Họ kẹt: kẹt lớn, kẹt lắm, và (chắc chắn) sẽ kẹt luôn – nếu chế độ hiện hành vẫn tiếp tục tồn tại.

Báo Vietnamnet ái ngại cho hay: “Lương tối thiểu mới đáp ứng hơn 1/3 nhu cầu tối thiểu.” Và đó là mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, chớ giới công nhân thì còn tệ hơn thế nữa!

Thế họ sống làm sao?

Thưa họ “ăn thịt mình để sống” – như nguyên văn lời Phó Viện Trưởng Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, PGS-TS Lê Bạch Mai:

“Những khảo sát của viện năm đó cho thấy chất lượng bữa ăn của công nhân không khác gì hai chữ “tồi tệ” khi trong khẩu phần ăn chỉ có 12% protein (chất đạm), 16% chất béo…

“Khi năng lượng khẩu phần ăn không đủ thì (cơ thể) phải sử dụng nguồn năng lượng dự trữ của mình. Khi đó khối cơ của người lao động bị bào mòn, bị lấy đi hằng ngày… và họ rơi vào thực trạng ‘như ăn thịt mình …’ Họ chưa chết đói. Nhưng sẽ đói đến lúc chết”.

Bản thân ông Trường Chinh (đôi khi) cũng đói, theo như lời của trưởng nam Đặng Xuân Kỳ – nguyên Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương:

“Ông cụ tôi ra ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (T. Đĩnh, trang 208).

Chung cuộc, may thay, ông Trường Chinh cũng đã cứu được chính mình. Ông qua đời vì tai nạn chứ không phải vì bị đầu độc – như rất nhiều đồng chí khác.

Nghĩa tử là nghĩa tận. Tôi đang không rảnh (lắm) và cũng chả thấy có chút hứng thú gì khi phải đụng chạm gì đến một người… đã chết. Vấn đề, chả qua, vì chẳng đặng đừng – như “lời trăng trối” của triết gia (ngoại đạo) Trần Đức Thảo:

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, để vĩnh viễn không cho phép nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy.

Nạn cộng sản sẽ qua, và sắp qua. Chúng ta khó mà có thể tái thiết đất nước và xây dựng một tương lai ổn định nếu không nhìn cho thật rõ về quá khứ.

—————

(*) Vì thấy nhà văn Vũ Thư Hiên đánh dấu hỏi (?) sau chú thích về cuốn sách của Roger Garaudy nên chúng tôi tìm hiểu thêm, và được biết tên chính xác của tác phẩm là Le communisme et la renaissance de la culture française –Paris, Éditions sociales, 1945 – chứ không phải là Le Marxisme et la Renaissance de la culture Française. Trong cuốn Những Lời Trăng Trối (trang 309) Trần Đức Thảo cho biết là ông được giao trách nhiệm “dịch ngược” tác phẩm Đề Cương Văn Hoá Văn Nghệ Cách Mạng ra Pháp ngữ, và được chính Trường Chinh mời gặp để “bắt tay” cùng với lời cảm ơn.

Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại – Tưởng Năng Tiến

 Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại

Tưởng Năng Tiến

Bao giờ các anh sẽ thôi tán phét trong các quán nhậu?
Bao giờ các anh quyết định thôi sống hèn?
Nguyễn Thị Từ Huy

Ở tù về chiều hôm trước, sáng hôm sau ông công an khu vực đã ghé “thăm” và nhắc nhở đôi điều cần thiết:

– Vì không có hộ khẩu ở thành phố nên tôi sẽ phải đi kinh tế mới.
– Trong khi chờ đợi, bắt đầu từ ngày mai phải sắm “một cuốn sổ đi lại.” Khi đi đâu phải ghi ngày giờ khởi hành với chữ ký xác nhận của tổ trưởng dân phố, và đến đâu cũng phải có sự xác minh của người ở nơi đó.
– Mỗi tuần phải mang sổ lên phường để kiểm tra.
– …
– …

Nghe xong, mẹ tôi lặng lẽ móc túi đưa cho thằng con hai đồng cùng lời dặn:

– Mua cái bút nữa con ạ. Đi đâu, đến đâu cũng phải nhờ người ký thì giắt viết theo luôn cho nó tiện …

– Dạ.

Tôi cầm tiền bước ra khỏi nhà, ghé vào một cái quán nhỏ mua một ly rượu trắng và mấy điếu Vàm Cỏ. Ực xong ly rượu, tôi châm điếu thuốc rồi lủi thủi đi và đi luôn cho đến bây giờ.

Năm ấy, tôi hai mươi sáu tuổi.

Hai năm sau tôi bò đến được một trại tị nạn ở Thái Lan (tả tơi, ủ dột, eo xèo, và bèo nhèo như một cái mền Sakymen ngấm nước) vào đúng ngày sinh nhật của mình.

Hôm nay tôi hăm tám
Sáng tôi cầm gương soi
Tôi nhìn tôi bối rối
Tôi tưởng mình bốn mươi

Bây giờ thì tôi đã ngoài sáu mươi, đã sống gần hết đời (và tàn đời trong ngõ hẹp) ở xứ người nhưng chưa bao giờ bước chân trở lại chốn xưa – dù đôi lúc cũng nhớ nhà và nhớ quê muốn ứa nước mắt luôn. Bố mẹ tôi đều tự an ủi rằng vì “thằng con có số xa nhà” nên cả hai đành lặng lẽ từ trần trong cô quạnh!

Kiếp sống chung thân biệt xứ của tôi, xem ra, chả có gì là thú vị. Tuy thế, theo blogger Song Chi:

“Dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại. Chỉ trong một ngày, chat với người quen, bạn bè qua facebook, viber… cả 3 câu chuyện đều cùng một chủ đề: ra đi khỏi Việt Nam.

Nhưng họ muốn ra đi trước hết vì môi trường sống ở VN ngày càng tệ khiến con người luôn ở trong cảm giác bất an, lo lắng. Từ thực phẩm không an toàn, cho tới nguồn nước, không khí, biển… nhiều nơi bị ô nhiễm/nhiễm độc nặng nề; đạo đức xã hội xuống cấp, những vụ án cướp giết hiếp ngày nào cũng xảy ra với mức độ ngày càng dã man, con người dễ dàng bức hại nhau, lừa lọc nhau, giết nhau chỉ vì một lý do vặt vãnh; chế độ an sinh xã hội không có để bảo đảm cho người dân một sư hỗ trợ khi cần thiết, lúc ốm đau, tai nạn, thương vong; pháp luật không bảo đảm cho con người được xét xử công bằng, công lý được thực thi, những quyền lợi tối thiểu về tự do, dân chủ, nhân quyền không có, không được tôn trọng v.v…

Quan trọng hơn, họ ra đi vì không tin rằng chế độ này, nhà nước này sẽ tốt đẹp hơn hoặc sẽ đưa đất nước, dân tộc đến một tương lai sáng sủa-thời gian đảng cộng sản cầm quyền đã quá lâu đủ để chứng minh điều đó.

Đây không phải là lần đầu, ngược lại, rất nhiều lần, tôi chứng kiến những người quen, bạn bè, họ hàng chuẩn bị rời bỏ VN. Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con thuyền đang đắm!”

Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai gợi ra ý niệm “tị nạn niềm tin,” và blogger Lam Thủy gọi đây là “một cuộc di cư đau lòng.” Dù “đau” nhưng nhà văn Dương Thu Hương vẫn khẳng định: “Trong thâm tâm, ai cũng mong ‘Thoát Việt!’, ra khỏi mảnh đất bùn lầy tối tăm này bằng mọi giá.”

Sự thực, cũng không hẳn thế. Không phải “ai cũng muốn thoát khỏi mảnh đất bùn lầy tôi tăm này”. Vẫn có những người quyết định, và quyết liệt, với một thái độ sống (hoàn toàn) khác: Dù thế nào cũng ở lại đây!

Tranh: Tuấn Khanh

Cái giá của sự lựa chọn dũng cảm này, tất nhiên, không rẻ. Ngày 10 tháng 10 vừa qua, Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) cho biết:

“Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – tức Mẹ Nấm đã bị công an bắt khẩn cấp trái phép với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 bộ luật hình sự.

Blogger Mẹ Nấm là người hoạt động tranh đấu cho nhân quyền, cải thiện dân sinh, chủ quyền biển đảo trong nhiều năm qua và là người được tổ chức Civil Rights Defenders trao giải thưởng Người Bảo Vệ Nhân Quyền 2015.

Trong suốt thời gian gần đây, blogger Mẹ Nấm đã tập trung nỗ lực tranh đấu của mình vào việc bảo vệ môi sinh, tố cáo Formosa và những dự án có ảnh hưởng nguy hại đến môi trường. Đây là những hoạt động dẫn đến việc công an bắt giam khẩn cấp blogger Mẹ Nấm.”

Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là người mới nhất, chứ không phải là duy nhất, vừa bị bắt giữ tại Việt Nam. Ba tuần lễ trước đó, một phụ nữ khác cũng đã bị mang ra xét xử với với cáo buộc gây rối trật tự công cộng – theo tin của BBC:

“Tòa án Nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội, tuyên phạt bà Cấn Thị Thêu 20 tháng tù giam trong lúc một số người ủng hộ bà bị câu lưu.

Bà Cấn Thị Thêu, người từng bị bắt vì đấu tranh giữ đất trong vụ ‘dân oan Dương Nội’, lại bị công an bắt tháng 6/2016 do ‘gây rối trật tự công cộng’ ở Hà Nội.
Hôm 20/9, hình ảnh lan truyền trên mạng xã hội cho thấy nhiều người giăng biểu ngữ đòi trả tự do cho bà Thêu bên ngoài phiên tòa.”

Ảnh: Trịnh Bá Phương

Nếu “dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại” thì những kẻ lựa chọn ở lại, và sẵn sàng đối mặt với cường quyền (như bà Cấn Thị Thêu và bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) cũng chưa bao giờ ngưng nghỉ. Bởi vậy, biên tập viên Mặc Lâm nêu ra câu hỏi:

– Sau Mẹ Nấm là ai?

Trong một xã hội mà tất cả các thành viên đều là “tù nhân dự khuyết” thì kẻ kế tiếp có thể là bất cứ ai. Tuy thế, sự “rủi ro” này đã được tiên liệu và chấp nhận một cách bình thản nhiên – như lời của blogger Phạm Thanh Nghiên:

“Từ lúc Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị bắt, số lần tôi nhận những tin nhắn đe doạ bị bắt, bị đánh gia tăng một cách đột biến.

Dạ xin kính thưa các loại đe doạ. Tôi biết, tôi biết là tôi hay bất cứ cựu TNLT nào cũng có thể trở lại nhà tù lần 2, thậm chí lần 3.

Điều này tôi đã xác định được ngay khi bước chân khỏi nhà tù Trại 5 Thanh Hoá rồi. Nói thẳng là tôi thích ở ngoài hơn, không thích đi tù. Nhưng nếu phải trả giá cho ước nguyện tự do, công bằng và dân chủ mà phải trở lại nhà tù một lần nữa, xin sẵn lòng.”

Dù “đất nước như một con thuyền đang đắm” nhưng bao giờ ở Việt Nam vẫn còn những vị nữ lưu vì “tự do, công bằng và dân chủ” mà “sẵn lòng… trả giá cho ước nguyện tự do, công bằng và dân chủ thì dân Việt hy vọng vẫn còn đường thoát.

Mảnh đất này, tất nhiên, cũng có những công dân nam giới. Tuy nhiên, vì bài viết đã khá dài; vả lại, tui cũng sắp có độ nhậu (đang nóng như hơ) nên xin tạm ngưng ở nơi đây – kẻo trễ hẹn!

Tưởng Năng Tiến

Xứ Sở Hận Thù – Tưởng Năng Tiến

Xứ Sở Hận Thù

 Tưởng Năng Tiến

Tuy là một nhà văn danh tiếng nhưng Bá Dương, xem chừng, không được đồng bào/đồng chủng quí mến (hay yêu thích) gì cho lắm. Chả những thế, ông còn bị nhà nước Trung Hoa Dân Quốc bắt giam gần cả chục năm luôn!

Lâu dữ vậy sao ?

Chớ sao! Bởi ổng có cái tật hay cạnh khóe quý vị lãnh đạo cấp cao, và cũng thường chê bai cái đám đồng hương/đồng khói với mình, bằng nhiều lời lẽ chua cay (nghe) rất mất lòng – kiểu như: “Tôi nghi rằng để có thể móc trong mồm một người TQ ra cái câu cám ơn ông e rằng nếu không dùng đến cái cào cỏ năm răng của ông bạn Trư Bát Giới của chúng ta thì không thể được.” (Bo Yang. The Ugly Chinaman and The Crisis of Chinese CultureTrans Nguyễn Hồi ThủNgười Trung Quốc Xấu Xí. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1999).

Nếu đúng vậy thì Tầu quả là tệ thiệt (và tệ lắm) nhưng có lẽ vẫn chưa đến nỗi nào, nếu so sánh với Ta. Dân Việt chả những đã ngại cảm ơn mà còn phủi ơn, hoặc tỏ ra vô ơn, ra mặt nữa kìa – theo như lời than phiền (mới nhất) vừa đọc được trên trang RFA của blogger Tuấn Khanh:

Tháng 8-2022, Lính thủy trên tàu bệnh viện Mercy của Hải quân Hoa Kỳ vừa khánh thành công trình phúc lợi là một trường học cho trẻ em ở Phú Yên. Toàn bộ chi phí được phía Mỹ tài trợ và sức lao động của lính thủy Mỹ nhằm ghi dấu cho một công trình mang tính hữu nghị và giáo dục.…

Nhìn hình ảnh ngày khánh thành trường mà chỉ loe hoe một vài người đại diện phía chính quyền Việt Nam ngồi cho có, còn bao nhiêu là những người đã dựng lên phía trường, và thầy cô của trường. Thấy mà ngại…

Nhưng những chuyện nói trên cũng không quan trọng bằng chuyện một chương trình giao lưu và hoàn toàn thiện nguyện từ một quốc gia khác, mà không hiểu sao phía truyền thông dư luận viên pro (ủng hộ) nhà nước tổ chức rất công phu những ngôn luận phủ nhận những hoạt động này, và nói rằng đây chỉ là những thứ mua chuộc để phá hoại Việt Nam, hay là giả dối để âm thầm tổ chức diễn biến hòa bình …

Tuấn Khanh khiến tôi nhớ đến một sự việc khác, xẩy ra đã khá lâu, hồi vài ba năm trước. Có bữa, từ San Francisco, tôi bay cái vù xuống phi trường Suvarnabhumi rồi phóc lên một toa tầu điện (BTS – Bangkok Skytrain) để về nhà trọ.

Trên tất cả những màn hình nhỏ trong xe, ngoài đủ thứ quảng cáo thương mại như thường lệ – lạ thay – lại còn xuất hiện rất nhiều hình ảnh và những hàng chữ rất trang trọng (và cảm động) viết bằng cả tiếng Thái lẫn tiếng Anh:

  • An entire country in one in heartfelt thanks. Lời cảm ơn từ tận đáy lòng của cả nước Thái.
  • Without national boundaries, working in unity. Thank you (from) the people of Thailand. (Không biên giới quốc gia, hành động hợp nhất. Lòng tri ân (từ) dân chúng Thái Lan).

Ủa! Chuyện gì vậy ta?

Nhật báo Nation (số ra ngày 15 tháng 7 năm 2018) cho biết: “Chính phủ Thái đã phát hành một video bầy tỏ sự tri ân với toàn thể nhân loại – về sự đồng cảm và hỗ trợ của tất cả mọi người – trong công việc giải cứu đội banh Wild Boars trong một hang động ngập nước, ở huyện lỵ Chiang Rai. Đoạn phim ngắn ngủi này vừa được khởi chiếu trên CNN, và được chia sẻ rộng rãi trên mọi phương tiện truyền thông.”

Asean News Today cũng có bài tường thuật (“The world is one: Thailand says thank you from the heart”) của John Le Fevre, với hình ảnh của người đứng đầu chính phủ Thái – Thủ Tướng Prayut Chan-o-cha – mừng phát khóc, sau khi được biết rằng các nạn nhân đều còn sống sót. Tác giả bài báo, cũng không quên ghi lại lời tri ân từ tận đáy lòng (“heartfelt thank you”) của Nhà Vua và ông Bộ Trưởng Ngoại Giao đã gửi đến tất cả những ai đã tham gia vào việc cứu nguy cho hàng chục công dân của xứ sở này.

Quan sát dân chúng Thái chăm chú lắng nghe từng câu/từng tiếng (“cảm ơn”) chân thành và trân trọng của giới cầm quyền ở xứ sở này – lập đi lập lại nhiều lần, trên màn ảnh nhỏ, trong mấy toa xe điện – khiến tôi đột nhiên “ngộ” ra cái lý do khiến cho người Việt hôm nay không ai có thể thốt lên được đôi lời (“tri ân”) tử tế như đa phần nhân loại.

Chớ các “đồng chí lãnh đạo ở ta” có bao giờ nói đến khoan dung, tha thứ, yêu thương hay ơn nghĩa … đâu! Chế độ hiện hành được dựng lên và duy trì nhờ vào lòng căm thù cùng sự oán hận mà, và thù hận không bỏ sót một ai – kể cả những nông dân chân lấm tay bùn:

  • Giết ! Giết nữa ! bàn tay không chút nghỉ/ Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
  • Lôi cổ bọn nó ra đây/ Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi!

Nhà báo Uyên Vũ cho biết: “Trong sách giáo khoa lẫn trên bục giảng, từ một trẻ nhỏ chập chững bước vào trường tiểu học cho đến một tân khoa cử nhân đều phải học những bài học lịch sử được viết lại cho thuận ý nhà cầm quyền. Những bài học lịch sử bịa đặt, thêm thắt và tràn ngập những căm thù.”

Ngoài “những bài học lịch sử bịa đặt, thêm thắt và tràn ngập những căm thù,” bia căm thù (một đặc sản của chế độ hiện hành tại VN) còn được “tu bổ”, “tôn tạo” và “nâng cấp” thường xuyên – ở khắp mọi nơi:

Blogger Nguyễn Lân Thắng nhận xét: “Có lẽ, sau cuộc chiến, chưa có cuộc chiến tranh nào trên thế giới này lại có nhiều bia căm thù như cuộc chiến tranh Nam Bắc ở Việt Nam.”

G.S Nguyễn Văn Tuấn kết luận: “Những tấm bia căm thù đó chẳng làm cho người Việt mạnh hơn chút nào; ngược lại, nó nói cho người nước ngoài biết rằng người Việt vẫn còn sợ hãi.”

Cách đây khá lâu, tôi đã nghe một nhà văn than thở: “Người ta chỉ cần một hai thập niên để vực dậy một nền kinh tế sa sút nhưng để xây dựng lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể như dân tộc tôi, nay chỉ còn cầu phép lạ gieo xuống thửa đất hoang hoá này những hạt giống mới để bắt đầu lại.” (Bùi Bích Hà. “Nhìn Lại Quê Hương.” Thế Kỷ 21, Sep. 2003).

Phép lạ – nếu có – e cũng khó nẩy mầm, nếu “gieo xuống” cái mảnh đất chất chứa (và chất ngất) hận thù như ở VN!

Trong những ngày tháng lang thang nơi xứ Thái, tôi cứ nhìn những dòng “loằng ngoằng” khắp nơi mà trộm nghĩ là đất nước này sẽ hòa nhập với thế giới nhanh chóng hơn nữa, nếu ngôn ngữ của họ được biểu đạt bằng mẫu tự abc – alphabétique – như đa phần nhân loại.

Sau khi xem phim Thirteen Lives và thấy thiên hạ (ở khắp mọi nơi trên trái đất) đổ dồn đến hang động Tham Luang, để giải cứu đội banh Wild Boars, tôi mới biết thêm rằng: không có gì tệ hại hơn trong việc cô lập một xứ sở bằng chủ trương ngu xuẩn (và thái độ ti tiện, đốn mạt) của bọn cầm quyền.

Tưởng Năng Tiến
9/2022

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Buồn vào hồn không tên (Trúc Phương)

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Buồn vào hồn không tên (Trúc Phương)

Có bữa tôi đang ngồi lơ tơ mơ hút thuốc thì chuông điện thoại reo:

-Tiến hả?

-Dạ…

-Vũ Ðức Nghiêm đây…

-Dạ…

-Anh buồn quá Tiến ơi, mình đi uống cà phê chút chơi được không?

-Dạ… cũng được!

Tôi nhận lời sau một lúc tần ngần nên tuy miệng nói “được” mà cái giọng (nghe) không được gì cho lắm. Tôi cũng thuộc loại người không biết làm gì cho hết đời mình nên thường rảnh nhưng không rảnh (tới) cỡ như nhiều người trông đợi. Sống ở Mỹ, chớ đâu phải Mỹ Tho mà muốn đi đâu thì đi, và muốn đi giờ nào cũng được – mấy cha?

Vũ Đức Nghiêm. Ảnh:honque.com.

Khi Mai Thảo và Hoàng Anh Tuấn còn trên dương thế, thỉnh thoảng, tôi cũng vẫn nghe hai ông thở ra (“anh buồn quá Tiến ơi”) y chang như thế. Chỉ có điều khác là ông nhà văn khi buồn thì thích đi uống rượu, ông thi sĩ lúc buồn lại đòi đi… ăn phở, còn bây giờ thì ông nhạc sĩ (lúc buồn) chỉ ưa nhâm nhi một tách cà phê nóng. Ai sao tui cũng chịu, miễn đến chỗ nào (cứ) có bia bọt chút đỉnh là được!

Vũ Ðức Nghiêm sinh sau Mai Thảo và trước Hoàng Anh Tuấn. Ông chào đời vào năm 1930. Hơn 80 mùa Xuân đã (vụt) trôi qua. Cả đống nước sông, nước suối – cùng với nước mưa và nước mắt – đã ào ạt (và xối xả) chẩy qua qua cầu, hay trôi qua cống. Những dịp đi chơi với ông (e) sẽ cũng không còn nhiều lắm nữa. Tôi chợt nghĩ như thế khi cho xe nổ máy.

Quán cà phê vắng tanh. Nhạc mở nhỏ xíu nhưng tôi vẫn nghe ra giai điệu của một bài hát rất quen:

Gọi người yêu dấu bao lần.
Nhẹ nhàng như gió thì thầm.
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi thương người xa xôi.
Gọi người yêu dấu trong hồn.
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn.
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương cho lòng nhớ thương…

-Hình như là nhạc Vũ Ðức Nghiêm… Anh nghe xem có đúng không? Tôi đùa.

-Em nói nghe cái gì?

-Anh thử nghe nhạc coi…

-Nhạc của ai?

Tôi chợt nhớ ra là ông anh đã hơi nặng tai nên gọi cô bé chạy bàn:

-Cháu ơi, người ngồi trước mặt chúng ta là tác giả của bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu mà mình đang nghe đó. Cháu mở máy lớn hơn chút xíu cho ông… sướng nha!

Thấy người đối diện có vẻ bối rối vì cách nói vừa dài dòng, vừa hơi quá trịnh trọng của mình nên tôi cố thêm vào một câu tiếng Anh (vớt vát) nhưng ngó bộ cũng không có kết quả gì. Ðúng lúc, chủ quán bước đến:

-Cháu nó mới từ Việt Nam sang, ông nói tiếng Mỹ nó không hiểu đâu. Ông cần gì ạ?

-Dạ không, không có gì đâu. Never mind!

Tôi trả lời cho qua chuyện vì chợt nhận ra sự lố bịch của mình. Cùng lúc, bản nhạc của Vũ Ðức Nghiêm cũng vừa chấm dứt. Tôi nhìn anh nhún vai. Vũ Ðức Nghiêm đáp lại bằng một nụ cười hiền lành và… ngơ ngác!

Tự nhiên, tôi thấy gần và thương quá cái vẻ ngơ ngác (trông đến tội) của ông. Tôi cũng bị nhiều lúc ngơ ngác tương tự trong phần đời lưu lạc của mình. Bây giờ hẳn không còn ai, ở lứa tuổi 20 – dù trong hay ngoài nước – còn biết đến tiếng “Gọi Người Yêu Dấu” (“ngập ngừng tha thiết bồn chồn”) của Vũ Ðức Nghiêm nữa. Thời gian, như một dòng sông hững hờ, đã vô tình bỏ lại những bờ bến cũ.

Vũ Ðức Nghiêm, tựa như một cây cổ thụ hiếm hoi, vẫn còn đứng lại bơ vơ bên bờ trong khi bao nhiêu nhạc sĩ cùng thời đều đã ra người thiên cổ. Trúc Phương là một trong những người này. Qua chương trình Bảy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam, nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam cho biết nhiều chi tiết vô cùng thê thiết về cuộc đời của người viết nhạc (chả may) này.

Trang sổ tay hôm nay, chúng tôi xin được nắn nót ghi lại đây những nhận xét của Hoài Nam, và mong được xem như một nén hương lòng (muộn màng) gửi đến một người đã khuất:

“Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình. Ông tên thật là Nguyễn Thiện Lộc, ra chào đời năm 1939 tại xã Mỹ Hòa, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, tức Vĩnh Bình – một xứ Chùa Tháp thu nhỏ ở vùng hạ lưu sông Cửu Long…”

Tháng Tư, 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù. Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần. Trong một đoạn video phỏng vấn ông, được Trung Tâm Asia phổ biến tại hải ngoại, Trúc Phương cho biết:.

“Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó, ‘bèo dạt hoa trôi’… Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no… Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nỗi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được… đến nửa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắt, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám ‘chứa’ tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả. Tôi nghĩ ra được một cách là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ… Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, một chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng… thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta… thế là mình lấy 1 đồng về…. như là tiền thế chân… Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết chín tháng… Mà nói anh thương… khổ lắm… Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng 5 giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi, tôi đành phải trải chiếu gần chỗ ‘thằng cha đi tiểu vỉa hè,’ thế rồi cũng phải nằm thôi. Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát… mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn … Tôi nghĩ mà thôi, còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này…”

Chất liệu, rõ ràng, đã có (và có quá dư) nhưng cơ hội để Trúc Phương viết bài sau này (tiếc thay) không bao giờ đến – vẫn theo như lời của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam:

“Vào một buổi sáng năm 1996, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân. Thế nhưng xét về mặt tinh thần Trúc Phương đã để lại cho chúng ta một di sản vô giá.”

“Chúng ta ở đây là những người yêu nhạc, trong nước cũng như hải ngoại, bên này cũng như bên kia chiến tuyến. Bởi vì hơn 30 ca khúc nổi tiếng của ông cho dù có một hai bài có nhắc đến chữ ‘Cộng Hòa’ vẫn phải được xem là những tình khúc viết cho những con người không phải cho một chế độ chính trị nào. Những con người sinh ra và lớn lên trong một cuộc chiến không lối thoát với niềm khắc khoải chờ mong một ngày thanh bình. Cuối cùng thanh bình đã tới nhưng không phải là thứ thanh bình mà những ‘con tim chân chính’ trong nhạc của Lê Minh Bằng hằng mơ ước mà là thứ thanh bình của giai cấp thống trị, của một thiểu số may mắn nào đó. Chính cái thanh bình ấy đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng trong đó có người Việt Nam xấu số đáng thương tên Nguyễn Thiện Lộc, tức nhạc sĩ Trúc Phương nổi tiếng của chúng ta.”

Thôi thì cũng xong một kiếp người! Và dòng đời, tất nhiên, vẫn cứ lạnh lùng và mải miết trôi. Sáng nay, tôi lại chợt nhớ đến Trúc Phương sau khi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn – trên báo Pháp Luật, phát hành từ trong nước:

“Ngày 31 Tháng Giêng, một số cán bộ hưu trí, người dân ở phường Bình Hưng Hòa B (quận Bình Tân, TP.HCM) bức xúc phản ánh cuộc họp mặt đầu năm do phường tổ chức… Ngay phần khai mạc lúc gần 9 giờ sáng, trên nền nhạc hip hop, hai phụ nữ ăn mặc hở hang, thiếu vải lên nhún nhảy, múa những động tác khêu gợi. Hai thanh niên múa phụ họa. Quan sát đoạn video chúng tôi thấy nhiều cán bộ hào hứng xem tiết mục ‘lạ mắt’ này. Có cán bộ còn dùng điện thoại quay lại cảnh hai cô gái biểu diễn, ưỡn người và ngực về phía khán giả. Nhiều người tham gia rất hào hứng, chỉ trỏ, thì thầm vào tai nhau…

Chúng tôi tiếp tục liên lạc với bà Nguyễn Thị Bích Tuyền, phó chủ tịch phường kiêm chủ tịch công đoàn phường,… bà Tuyền lý giải: ‘Tiết mục múa chỉ diễn ra gần 3 phút và đây là vũ điệu theo phong cách Hawaii nên hơi lạ…’”

Nếu ngay sau khi chiếm được miền Nam mà quý vị cán bộ Cộng Sản cũng có được cách “lý giải” tương tự thì Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn… đã không phải bỏ thân nơi đất lạ. Vũ Ðức Nghiêm cũng đã tránh được những giây phút bơ vơ, ngơ ngác, lạc lõng ở xứ người. Và Trúc Phương thì chắc chắn vẫn sẽ còn ở lại với chúng ta, vẫn có những đêm khắc khoải buồn vào hồn không tên, thay vì nằm chết cong queo trong đói lạnh – trên một manh chiếu rách – với tài sản duy nhất còn lại chỉ là một đôi dép nhựa.

Mọi cuộc cách mạng luôn luôn có cái giá riêng của nó. Riêng cái thứ cách mạng (thổ tả) của những người cộng sản Việt Nam thì đòi hỏi mọi người đều phải trả cái giá (hơi) quá mắc mà thành quả – xem ra – không có gì, ngoài tội ác!

Tưởng Năng Tiến

Bữa Cơm Chiều 29

Bữa Cơm Chiều 29

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

26/01/2022

https://vietbao.com/a310949/s-t-t-d-tuong-nang-tien-bua-com-chieu-29

Tưởng Năng Tiến

Dường như tôi không hợp lắm với không khí gia đình, nhất là cảnh gia đình xum họp hay đầm ấm. Ngay lúc thiếu thời, vào những chiều giáp Tết, thay vì quanh quẩn ở nhà – phụ cha lau chùi lư hương; giúp mẹ bầy biện mâm cơm cúng cuối năm – tôi hay lặng lẽ tìm lên một ngọn đồi cao nào đó (lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang) với tâm cảm của một … kẻ giang hồ, đang trên bước đường phiêu bạt.

Ôi! Tưởng gì chứ chuyện “phiêu bạt” thì nào có khó chi, khi sinh trưởng trong một đất nước chiến tranh và ly loạn. Muốn là được liền thôi. Trời – đôi khi – cũng chiều lòng người, và chiều tới nơi tới chốn!

Những tháng ngày niên thiếu vụt qua như một cánh chim. Tôi bước vào tuổi đôi mươi, đúng vào Mùa Hè Đỏ Lửa, cùng với lệnh Tổng Động Viên. Thế là tôi “xếp bút nghiên để theo việc đao cung.” Hay nói một cách ít kiểu cọ hơn là tôi đi lính.

Sau lính đến tù, với tội danh (nghe) hơi nặng là “cầm súng chống lại nhân dân.” Ra tù, vừa lếch thếch về đến nhà chiều hôm trước, ngay sáng sớm hôm sau ông công an khu vực đã vội vã ghé “thăm” và “nhắc nhở” đôi điều cần thiết:

— Vì không có hộ khẩu ở thành phố nên tôi sẽ phải đi kinh tế mới.

— Trong khi chờ đợi, bắt đầu từ ngày mai, tôi phải sắm “một cuốn sổ đi lại.” Khi đi đâu phải ghi ngày giờ khởi hành với chữ ký xác nhận của tổ trưởng dân phố, và đến đâu gặp ai cũng phải có sự xác minh của viên chức chính quyền ở nơi đó.

— Mỗi tuần phải mang sổ lên phường để công an kiểm tra.

— Mỗi tháng phải đọc kiểm điểm trước tổ dân phố để nhân dân nhận xét và phê bình ưu/khuyết điểm.

Nghe xong, mẹ tôi lặng lẽ móc túi đưa cho thằng con mấy tờ giấy bạc cùng lời căn dặn:

— Thế thì mua luôn cái bút nữa con ạ. Đi đâu, đến đâu cũng phải nhờ người ký thì dắt viết theo luôn cho nó đỡ phiền.

— Dạ.

Tôi cầm tiền bước ra khỏi nhà, ghé vào cái quán nhỏ bên đường mua một ly rượu trắng và mấy điếu thuốc lẻ. Ực xong ly rượu, tôi châm thuốc hút rồi lủi thủi bước đi, vừa đi vừa lầm bầm mấy câu thơ của Thâm Tâm (Mẹ thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu say) và đi luôn cho tới bây giờ.

Mấy chục năm qua, không ít lúc, tôi cũng nhớ nhà mà chả rõ nhớ ai. Bố mẹ đã từ trần từ lâu. Anh chị em thì kẻ mất người còn nhưng đều tứ tán cả rồi. Tôi nhớ quê chứ không phải nhớ nhà, chắc vậy.

Tôi nhớ Đà Lạt cùng tiếng mưa đêm rầm rì, thầm thì qua mái ngói. Nhớ những bữa cơm chiều và món con cá nục hấp (chiên vàng rồi mới kho chung với tóp mỡ) cùng những lát ớt đỏ tươi. Nhớ những buổi sáng sớm tuy vẫn còn nằm trong chăn ấm (lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên mái ngói) nhưng biết được rằng cơn bão rớt đã qua, hôm nay trời sẽ nắng tươi vàng.

Đôi khi, tôi cũng nhớ Rạch Giá vào những ngày biển động. Trời sụt sùi mưa, mây mù thấp xám, sóng dạt bờ kè tung tóe. Tôi lần dò đến thành phố này với hy vọng tìm được đường chui, dù chả quen biết một ai và cũng không một đồng xu dính túi.

Ban đêm, tôi thường nằm quấn mình trong một tấm vải nhựa ở chân cầu Đúc. Ngày thì hay đi loanh quanh trong chợ Nhà Lồng. Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang nhưng mắt vẫn không rời những chiếc bàn ăn với ước mong có thể kiếm được chút gì còn sót lại trong tô hay trên dĩa. Niềm mong ước rất mỏng manh vì vào thời gian này (những năm cuối của thập niên 1970 – khi phong trào vượt biên đang lên tới đỉnh) thì gần như mọi người đều đói cả, chứ chả mấy kẻ no.

Rạch Giá có một tiệm ăn nổi tiếng (Tây Hồ) ở số 6 đường Nguyễn Du. Tôi thường   thập thò trước cửa nhưng không mấy khi chạy vội vào bên trong, ngay khi thực khách vừa buông đũa. Tôi ngượng, đã đành; điều khó đành hơn là ánh mắt thèm thuồng của mấy đứa bé bẩn thỉu, gầy gò đứng cạnh bên. Chúng cũng đang chầu chực “khẩn trương” chả khác chi mình.

Cả đám – chắn chắn – đã không đến nỗi này, nếu tôi không phải là một kẻ bại trận trong cuộc chiến vừa qua. Tôi vẫn nghĩ thế nên cái mặc cảm của kẻ có lỗi đã luôn giữ chân tôi lại, với không ít buồn rầu!

Có lẽ nhờ chút sĩ diện (còn sót) này mà tôi đã được những người chạy bàn “đối đãi cách riêng.” Họ cho tôi cái đặc ân quí giá là được sớt vô lon guigoz ít thức ăn thừa, vào giờ đóng cửa.

Nhờ thế mà tôi biết canh chua cá chẻm của quán Tây Hồ ngon lắm, canh chua cá lóc còn ngon hơn nữa, còn cá rô kho tộ (có lần tôi được hưởng gần cả nguyên con) thì ngon hết biết luôn. Nó ngon đến độ khiến tôi suýt hóc xương chỉ vì nhai vội quá!

Nhiều người nói là ở Mỹ muốn ăn thứ gì cũng có – bất kể là món của Tây, Tầu, Cận Đông, Trung Đông, Viễn Đông hoặc Phi Châu lục địa. Tôi đã lê la qua hàng ngàn quán ăn ở đất nước này nhưng không tìm đâu ra được canh chua cá lóc và cá rô kho cả.

Từ California, muốn tìm lại được hai thức ăn này, phải mất đến hơn 20 giờ bay lận! Xin ghi địa chỉ đây cho người đồng điệu, khi cần: Nhà Hàng Ngon (Preah Sihanouk Blvd 274, Tonle Bassac) Phnom Penh – Cambodia.

Tôi mới ghé đây chiều qua, chiều 29 Tết. Không thể đến vào ngày mai vì 30 quán đóng. Tôi đã bỏ cái thói quen thập thò trước tiệm ăn tự lâu rồi. Bây giờ tôi đàng hoàng thong thả bước vào bên trong, cười đùa thân thiện với những nhân viên (đứng chào khách ngay  tận cửa) và không quên đút nhẹ vào túi trên của họ mấy tờ giấy bạc lì xì.

Dù chỉ có mặt xuân thu nhị kỳ, tôi không phải là khách lạ vì khó ai quên được một ông già Á Châu nhưng không nói được tiếng Tầu (tiếng Thái hay tiếng Miên cũng nỏ) luôn vui vẻ đùa cợt, và lúc nào cũng chỉ gọi một thứ thức ăn duy nhất: cá rô kho.

Tôi luôn được tiếp đón hơi quá nồng hậu vì có thói quen over tiping, không bỏ sót một cô hay cậu chạy bàn nào đang có mặt, và cũng không quên người đứng bếp. Chắc các em nghĩ là tôi giầu có và hào phóng, chứ đâu có biết rằng tôi buộc phải trả thêm tiền cho những gô cơm (ngon tuyệt vời) mà mình vẫn còn thiếu nợ ở quán Tây Hồ, từ mấy mươi năm trước.

Phải mất gần nửa tiếng món ăn ruột của tôi mới được dọn ra. Mấy chú cá rô bé bỏng chỉ bằng ba ngón tay thôi, tiêu đen rắc lấm tấm trông giống như mè, thơm phức. Cơm trắng cũng ngạt ngào hương gạo mới nhưng tôi không cảm thấy đói, dù đã uống “khai vị” hơi nhiều.

Ơ cá chiều nay – không dưng – khiến tôi hơi nghèn nghẹn, dù tuổi già hạt lệ như sương. Lại nhớ nhà chăng? Tôi không nhớ nồi cá nục kho vào những chiều mưa Đà Lạt khi mình còn thơ ấu (và còn được sống trong yên ấm) nhưng nhớ những ngày biển động ở Rạch Giá, và lũ trẻ thơ bất hạnh năm nào.

Đứa bé nhất thì nay cũng đã đến tuổi ngũ tuần rồi. Cũng sắp xong một kiếp người đen đủi. Đúng như ước mơ của thời niên thiếu, nửa thế kỷ rồi, tôi “được giang hồ phiêu bạt” qua rất nhiều nơi (những vùng đất văn minh phú túc, cùng những xứ sở lạc hậu nghèo nàn) nhưng chưa thấy đâu mà kiếp nhân sinh lại nhọc nhằn, cay đắng, cơ cực và tủi nhục như ở cái phần quê hương khốn khổ khốn nạn của mình.

Tưởng Năng Tiến  

Mũ Tai Bèo – STTD- Tưởng Năng Tiến

Mũ Tai Bèo – STTD- Tưởng Năng Tiến

Tôi đã trót có dăm ba lời về nón cốimũ cối, và dép râu nên (lỡ trớn) cũng xin được thưa luôn – đôi câu – về cái nón tai bèo.

 “Theo một tài liệu, chiếc mũ tai bèo đầu tiên xuất hiện ở một đơn vị võ trang ta trong đêm Đồng Khởi (17-1-1960) ở Bến Tre. Dần dần chiếc mũ vải mềm, màu xanh, vành tròn, có làn sóng giống như những cánh bèo trên sông nước, càng được đông đảo các chiến sĩ giải phóng quân sử dụng.

Đến những năm 1966-1967, chiếc mũ tai bèo “dễ thương như một bàn tay nhỏ”, với nhiều tiện lợi ở một xứ sở nhiệt đới nắng lắm mưa nhiều, trong hoàn cảnh chiến trận cần cơ động, gọn nhẹ, đã được đưa vào hành trang của anh bộ đội Giải phóng. Nó chính thức nằm trong trang phục của Quân giải phóng miền Nam. Và từ đó, chiếc mũ tai bèo cùng đôi dép cao su cũng hiện lên trong thơ, văn, nghệ thuật, gần gũi, giản dị mà đầy tự hào, cao vợi.” (Đàm Chu Văn. “Nhớ Chiếc Mũ Tai Bèo.” Đồng Nai Online 13.11.2019).

Trí nhớ của tác giả đoạn văn thượng dẫn e có vấn đề, chứ thực sự thì cái mũ bèo nhèo này chưa từng bao giờ được ca tụng (“tự hào, cao vợi”) như nón cối hay dép râu cả. Lý do dễ hiểu vì nó không thuộc về lực lượng chính quy mà chỉ là trang phục dành cho đám binh lính Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (M.T.G.P.M.N) thôi. Chả những thế, cái mặt trận này đã chết. Vì chút “nhậy cảm chính trị” (hay cũng có thể là do “tế nhị”) nên không mấy ai muốn nhắc nhở (xa gần) gì đến sợi giây thừng trong một căn nhà đã có người bị treo cổ!

Thảng hoặc, mới thấy một vị quan chức cấp địa phương có cố gắng “nâng cấp” cái mũ tai bèo nhưng nỗ lực này – xem ra – cũng chả đến đâu. Ký giả Đoàn Nguyễn (Sài Gòn Tiếp Thị Online) tường thuật:

“Tại một hồ nước trên cánh đồng thuộc xã Đại Cường (Đại Lộc, Quảng Nam) có một pho tượng cô du kích đầu đội mũ tai bèo, vai mang súng. Bức tượng khi xây có thể là thạch cao trắng, nhưng bây giờ, người ta thấy đã loang lổ nhiều mảng đen.

Trong hồ nước, nông dân làm chuồng nuôi vịt. Qua mấy ngày mưa lũ, đàn vịt không còn, chỉ còn lại cái chuồng xiêu vẹo tả tơi. Một bác nông dân vác cuốc đi ngang dừng lại góp chuyện: “Mấy tháng trước, hồ nước sạch sẽ lắm, không ai dám thả vịt, thả cá, nước trong vắt. Nhưng từ khi thay Phật bà bằng cô du kích thì ra như ri đây”. Phật Quan Âm? Tôi ngạc nhiên và nhìn kỹ thì thấy có điều lạ là cô du kích này đứng trên… toà sen.

Trước đó, tuy cô du kích chưa bao giờ có chỗ đứng “ngang hàng” với Phật Quan Âm nhưng cũng chiếm được vị trí tương đối khá trang trọng trong tranh ảnh cổ động và sách báo của nhà đương cuộc Hà Nội. Cùng với những thành viên của lực lượng Dân Công Hỏa Tuyến hay Thanh Niên Xung Phong, họ luôn được xưng tụng là những bông hoa nở giữa chiến trườngbông hoa trên tuyến lửahoa lan trong rừng cháy …  

Sau khi chiến trường đã ngưng tiếng súng thì mọi hy vọng về một cuộc sống an lành (“đôi chim bồ câu trắng hẹn nhau về làng xưa”) cũng đều biến thành ảo vọng. Những bông hoa từng nở trên tuyến lửa đều héo úa trong các “xóm không chồng” giữa thời bình. Họ trở thành những con số không tròn trĩnh: không chồng, không con, không nhà, và không chế độ!

Họ chỉ được hưởng trợ cấp mỗi một lần thôi nhưng rất tượng trưng, và cũng rất muộn màng. Quyết định 290/2005/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ – Về Chế Độ, Chính Sách Đối Với Một Số Đối Tượng Trực Tiếp Tham Gia Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước nhưng chưa được Hưởng Chính Sách Của Đảng và Nhà Nước – ký ngày 8 tháng 11 năm 2005, quy định như sau:

Dân quân tập trung ở miền Bắc từ ngày 27 tháng 01 năm 1973 trở về trước, du kích tập trung ở miền Nam (bao gồm cả lực lượng mật) từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 trở về trước do cấp có thẩm quyền quản lý đã về gia đình phải được hưởng trợ cấp một lần theo số năm thực tế tham gia dân quân, du kích tập trung, cứ mỗi năm được hưởng 400.000 đồng. Mức chi trả trợ cấp một lần thấp nhất bằng 800.000 đồng.

Những con số bạc bẽo và thảm hại này hoàn toàn tương phản với tâm tình chứa chan của những kẻ đã từng chiến đấu bên nhau, dù họ không hẳn đã là đồng đội cùng chung lực lượng hay đơn vị. Một cựu chiến binh tâm sự:

Sáng ngày 30-4-1975, sau khi Sư đoàn 10 (thuộc Quân đoàn 3) đánh chiếm xong một số mục tiêu đã định, ông Việt khi đó là Thượng sĩ, Tiểu đội trưởng Tiểu đội xe, thuộc Phòng hậu cần Sư đoàn 10, lái chiếc zeép (chiến lợi phẩm) có gắn máy thông tin 2W và rơ-moóc, đưa đồng chí Võ Khắc Phụng-Phó sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Sư đoàn 10 cùng một số sĩ quan chỉ huy tổ chức đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy.

Trên xe có một thiếu nữ độ 20 tuổi, gương mặt tươi sáng, đội mũ tai bèo, luôn luôn mang khẩu tiểu liên AK bên mình. Đó là nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn Nguyễn Thị Nết (biệt hiệu: Nguyễn Thị Trung Kiên, nguyên mẫu nhân vật Cô Nhíp trong bộ phim truyện cùng tên – bộ phim đầu tiên của điện ảnh miền Nam sau ngày giải phóng).

Theo sự dẫn đường thông minh, chủ động và linh hoạt của cô Nết, đội hình tấn công vừa vận động, vừa chiến đấu, vượt qua mọi trở ngại, thần tốc xốc tới…

Đã 40 năm trôi qua. Ông Việt và những người bạn chiến đấu ngày ấy … vẫn thường xuyên liên lạc, thông báo cho nhau chuyện vui, buồn. Những lúc như thế, các ông thường nhắc tới cô Nết, mong biết tin tức về người nữ biệt động xinh đẹp, gan dạ, mưu trí, dũng cảm và thông minh ấy… (Phạm Xưởng. “Cô Nhíp Đang Ở Đâu.” TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM – 01.06.2015).

Câu hỏi trên đã nhận được hồi đáp, qua một status ngắn của FB Văn Toàn, vào hôm 13 tháng 4 năm 2016:

Sáng ngày 29-4-1975, xe tăng của bộ đội Bắc Việt tiến vào cửa ngõ Sài Gòn theo hướng Tây bắc. Trên xe có một thiếu nữ độ 20 tuổi, gương mặt xinh đẹp, đội mũ tai bèo, luôn luôn mang khẩu tiểu liên AK bên mình dẫn đường cho bộ đội.

Đó là nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn Cao Thị Nhíp (tên hoạt động là Nguyễn Thị Trung Kiên,). Vốn thông thuộc đường xá, Cô Nhíp đã ngồi trên xe chỉ huy để hướng dẫn toàn đơn vị của Thiếu tá Bùi Quan Bùi Quang Đấng đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Sau này, đạo diễn Nguyễn Trí Việt của Hãng phim Giải Phóng đã dựa vào hình tượng này để dựng thành bộ phim “Cô Nhíp” khá nổi tiếng. Hiện nay bà Nhíp đã sang định cư tại thành phố Garden Grove, Nam California, Hoa Kỳ từ lâu và mang quốc tịch Mỹ với tên họ khác…  

Bên dưới thông tin thượng dẫn có không ít những lời lẽ vô cùng cay nghiệt:

  • Tung Thu Tran: Bà nầy ăn cơm quốc gia thờ ma cs!
  • Hoang Nam: Mẹ kiếp sao bà không chết cho rồi?
  • Kim Oanh Tran: Loài ký sinh trùng dơ bẩn ai biết bà ta ở đâu làm ơn thông báo để đồng bào tránh xa
  • Anh Nguyen Hung: Bên thắng cuộc mà cũng đu càng à, LOÀI VÔ SỈ.
  • Quyền Toàn Lâm: Thiên đường ko ở qua đó làm j chòi.

Bà Nhíp không phải là người duy nhất đã rời khỏi Việt Nam, và đã thay tên cùng quố́c tịch. Hơn nửa thế kỷ qua đã có vài triệu người bỏ đi như thế, và dòng người này chưa bao giờ ngừng lại cả. T.S  Phương Mai gọi đây là cuộc “tị nạn niềm tin.”

Cũng như bao nhiêu kẻ khác, khi niềm tin đã mất, bà Nhíp có toàn quyền thay đổi chính kiến và đổi thay nơi cư trú để tìm đến một nơi có cuộc sống an toàn và khả kham hơn. Chỉ có điều đáng tiếc (và đáng nói) là số nạn nhân của những cái nón tai bèo thì quá nhiều mà kẻ may mắn, có cơ hội làm lại cuộc đời, lại quá hiếm hoi – và dường như chỉ có mỗi một thôi!

Tưởng Năng Tiến
9/2022 

Nguyên Ngọc- Sổ tay thường dân- Tưởng Năng Tiến

Nguyên Ngọc

Nếu chưa đọc hồi ký Lời Ai Điếu thì e khó mà biết được nỗi niềm mà Nguyên Ngọc (N.N) đã tâm sự với tác giả Lê Phú Khải về cuộc cách vô sản ở VN: “Chúng ta sai từ thời đại hội Tours”!

Giai thoại này – may thay – vừa được thi sĩ Thái Bá Tânvt thuật lại, một cách rất gẫy gọn, bằng những câu ngũ ngôn (quen thuộc) của ông:

Một nhóm mười trí thức
Được bà Nguyễn Thị Bình
Mời đến chơi, nói chuyện,
Kiểu thân mật gia đình.

Giữa chừng, bà chợt hỏi,
Không khỏi không bất ngờ:
Theo các anh, nói thật,
Ta sai từ bao giờ?

Hầu hết mọi người nói
Thưa chị, chúng ta sai
Từ Một Chín Năm Mốt,
Tức từ Đại Hội Hai,

Khi đảng quyết định lấy
Chủ nghĩa Mác – Lênin
Tư tưởng Mao Chủ Tịch
Làm đường lối của mình

Còn Nguyên Ngọc thì nói,
Mọi người nghe, tưởng đùa:
Chúng ta sai, thưa chị,
Từ thời Đại Hội Tours!

Bà Bình không đồng ý.
Nhưng ngay sáng hôm sau
Tự đến tìm Nguyên Ngọc,
Rồi nói, vẻ buồn rầu:

Hôm qua chị không ngủ,
Nằm suy nghĩ suốt đêm,
Và buộc phải thừa nhận,
Chị đồng ý với em!

Tuy chị đã “suy nghĩ suốt đêm” và “đồng ý với em” như thế nhưng trong cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên Xuân Hồng (BBC) vào hôm 13 tháng 10 năm 2008, bà Bình lại nói khác: “Tôi không có sai lầm gì hết. Con đường mình đi hoàn toàn đúng, chỉ có là một số việc mình đã có thể làm tốt hơn để đóng góp công việc chung.”

Tôi chưa bao giờ có chút kỳ vọng nào vào những chính khách tầm cỡ (cỡ) như Nguyễn Thị Bình nên chả thất vọng chi, và cũng không phiền trách gì, về thái độ (bất nhất) của họ. Thứ người cố đấm ăn xôi này thì ở đâu, và thời nào, cũng thế. Chả thế mà bà Bình có thể yên vị trên cái ghế Phó Chủ Tịch Nước đến cả chục năm (1992 – 2002) dù chỉ ngồi để làm cảnh chơi thôi, chứ có “đóng góp” được gì đâu!

Thế còn N.N?

Với cá nhân tôi, ông là người hoàn toàn đặc biệt và ngoại lệ: một nhà văn lớn được rất nhiều bạn đồng nghiệp/ bạn đọc nể trọng và ái mộ về tài năng cũng như tư cách. Trong cái đám đông độc giả vô danh này; riêng tôi, còn có sự kính mến cùng quí trọng (cách riêng) vì mối hảo cảm chứa chan mà ông vẫn luôn luôn dành cho đất và người miền núi 

  • Tôi yêu Hà Giang, Lũng Phìn, Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Cán Tỷ, Mậu Duệ… là thơ chứ không phải đời thật.”
  • Các dân tộc Tây Nguyên đã cấy trồng trên đất đai núi rừng của mình một nền văn hóa lớn, cực kỳ độc đáo và đặc sắc, lâu đời và bền vững.”

Tôi sinh trưởng tại Cao Nguyên Lâm Viên nơi mà những sắc dân bản địa vẫn phải gánh chịu rất nhiều thua thiệt (về mọi mặt) chỉ vì chút thiên kiến, cùng đầu óc  chủng tộc hẹp hòi (ethnocentric minds ) của nhiều kẻ ở miền xuôi. Họa hoằn mới có một vị thức giả ở tuốt luốt dưới miền duyên hải (xa xôi) nhưng vẫn nhìn nhận đám dân sơn cước chúng tôi là đồng bào thiệt – như N.N.

Bởi vậy, hỏi sao mà tôi không “kết” (và không “mết”) cái ông Già Làng Tây Nguyên này chớ!

Ấy vậy mà khi có dịp được gặp gỡ nhân vật mà mình ái mộ, tôi lại ứng xử rất vụng về nên đã làm hư bột/ hư đường (ráo trọi) cái cơ may hạn hữu này. Bữa đó, tôi lái xe một mạch suốt 6 tiếng từ Bắc xuống Nam – California.

Đến thành phố Wesminster, tôi chợt nhớ đến Hoàng Khởi Phong nên tắp vô nhà ổng luôn. Ai dè Nguyên Ngọc lại đang có mặt ở Hoa Kỳ, và cũng ở tại đó. Tôi mời hai ông anh đi ăn cơm tối, và cả hai đều vui vẻ nhận lời ngay.

Thay vì chạy lòng vòng, kiếm một tiệm ăn thanh lịch để đãi khách quí tự phương xa, tôi vì quá vã (suốt từ sáng tới đến chiều chưa được nhấp môi một giọt rượu hay giọt bia nào mà) nên tắp đại vào một cái quán nằm ngay trong khu Bolsa (Quán Bình Dân) ở góc đường Brookhurst và Mc Fadden.

Tôi đã tạt vô đây vào giấc trưa, với Nguyễn Nam An, mấy lần rồi. Đúng như tên gọi, quán bình dân thật (và bình dân lắm, hay nói cho đàng hoàng và rõ ràng hơn là khá bầy hầy) nhưng được cái là giá bia tương đối nhẹ nhàng và mọi món nhậu đều trên trung bình cả. Chỉ có điều không ngờ là tối cuối tuần nó lại đông đúc và ồn ào quá cỡ (thợ mộc) như vầy.

Chúng tôi “may mắn” còn kiếm được một cái bàn trống nhỏ xíu xiu trong góc. Tiệm chật, khách đông. Mặt ai cũng đỏ gay, và tất cả đều chửi thề tới tấp. Không khí sinh động và náo nhiệt đến độ mà ngay cả một người thường hay ăn to nói lớn (cỡ) như anh Hoàng Khởi Phong mà cũng phải tắt đài – ngồi im ru bà rù – chớ chả nói được tiếng nào sất cả, nửa tiếng cũng không!

N.N rất … cool, tuy hơi trầm lắng nhưng luôn nhỏ nhẹ và chả tỏ vẻ gì là khó chịu. Phần tui thì đâu cũng được, sao cũng OK, miễn là có tí “cồn” là ça va tout. Cho đến khi nhìn thấy ông nhà văn mà mình yêu quí trệu trạo nhai khúc dồi trường, rồi ngần ngại xêu thử vài cọng bún giả cầy thì tôi bắt đầu … vô cùng ân hận!  

Cùng lúc, tôi mới chợt nhớ ra là dân Quảng (bất kể Quảng gì: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Tín ….) có mấy ai ưa tiết canh và lòng lợn? Nghe nói họ nhất định chỉ ăn đồ biển (tôm, cua, cá, mực, ghẹ, sò …) thôi hà. Mà Orange County thì có thiếu chi những nhà hàng trang nhã, lịch sự, ngon lành, chuyên trị cá bẩy món (hay lẫu hải sản) và tôi là cái thứ cơm hàng cháo chợ quanh năm, chớ nào có phải loại thường dân!

Từ chiều hôm đó, tôi cứ áy náy hoài về sự vô tâm/vô tính của mình cho mãi đến chiều nay. Nay, vừa có dịp được nỗi lòng (xong) nên cũng cảm thấy đôi phần nhẹ nhõm. Ngoài “tâm sự” này, tôi lại còn chút xíu “tâm tư” nữa cũng xin phép được thưa luôn (N.N đã bước vào tuổi cửu tuần, và tôi cũng đã thất thập rồi) chớ để lâu nữa thì sợ rằng … không tiện!

Sau cái bữa ăn chiều lãng xẹt ở khu phố Bolsa, có hôm, tôi tình cờ đọc được đôi câu trong thiên hồi ký (“Những Ngày Lang Thang”) của N.N rồi cứ băn khoăn mãi:

“Tôi thương Xuân Vũ. Anh ấy là một con người cực kỳ cảm tính, dễ cực đoan, dễ sai lầm, cả những sai lầm chết người, và là người ít gặp may trong đời.… Sau này trong chiến tranh chống Mỹ miền Nam Xuân Vũ đã rẽ đi một con đường khác. Tôi có nghe Nguyễn Quang Sáng kể lại chuyện ấy. Đáng giận, đáng buồn, và cũng đáng thương. Cũng là một cuộc đời!”

Ủa! Tại sao vậy kìa?

Sao Xuân Vũ “rẽ đi một con đường khác” lại là chuyện “đáng giận, đáng buồn, và cũng đáng thương” – hả Trời? Riêng về điểm này, quan niệm của N.N (xem ra) cũng chả khác chi với bà chị Nguyễn Thị Bình.

Trong cuộc phỏng vấn (thượng dẫn) với BBC, khi được hỏi “về hoạt động ‘ngoài luồng’ thời trẻ của mình với những người bất đồng chính kiến gần đây như luật sư Lê Thị Công Nhân,” bà Bình đã “nhấn mạnh” rằng: “Những việc làm của họ (những người đấu tranh chính trị) trong tình hình này không đem lại lợi ích cho đất nước.”

Như đã thưa, tôi không chấp với bà Nguyễn Thị Bình nhưng với N.N thì lại là chuyện khác. Cả hai đều nhận rằng mình đã sai ngay từ khi bước chân vào con đường cách mạng (vô sản) nhưng lại không chấp nhận một lựa chọn nào khác của tha nhân. Bà Bình chê ỏng, chê eo sự dấn thân và hy sinh của những người bất đồng chính kiến hiện nay là “không đem lại lợi ích cho đất nước.” Còn N.N thì chỉ “nghe Nguyễn Quang Sáng kể lại chuyện” của Xuân Vũ thôi mà đã buông một câu (e) hơi khinh bạc: “Cũng là một cuộc đời!”

Thế cuộc đời của Xuân Vũ ra sao?

Xin nghe qua đôi lời gan ruột của chính người trong cuộc:

“Nỗi day dứt về quê hương và gia đình, cộng với những điều kỳ cục trong mấy năm dằng dặc trên đất Bắc làm cho tôi thấy mình đi lạc đường. Sống trong nước mình mà cứ tưởng nước ai. Do đó tôi quyết chí trốn về Nam, sống dưới gầm cầu cũng được.”

Sau khi “trốn về Nam,” Xuân Vũ gần như đã dành hết phần đời còn lại cho bút mực. Trang Văn Việt cho biết: “Tác phẩm của ông tổng cộng gồm 90 cuốn.” Trang Văn Hóa Việt Nam lại ghi nhận một con số khác: “Thư mục Xuân Vũ có ít nhất 60 tựa với 15000 trang giấy.” Sở dĩ có sự dị biệt này vì đôi khi Xuân Vũ viết trường thiên – nhiều tập – như Đường Đi Không Đến gồm 5 cuốn, với 5 cái tựa khác nhau.

Tôi không tin rằng N.N không hề để mắt đến “mười lăm ngàn trang giấy” này chỉ vì đó là những dòng chữ viết ngoài luồng (nơi những “vùng đất tạm chiếm”) nên không đáng được quan tâm. Chả những thế, tôi còn hy vọng rằng nay mai (có lúc) N.N sẽ đọc qua dăm ba tác phẩm của nhà văn Xuân Vũ, và sẽ viết lại đôi dòng – chín chắn hơn – về một người bạn văn (nay) đà khuất bóng!

K’ Tiên
9/2022

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngy Thanh

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngy Thanh

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Dù cùng viết cho tờ Thời Báo nhiều năm, và dù cả hai cũng đã từng chung tay với chủ bút Đỗ Nghi thực hiện đôi việc từ thiện nhỏ, tôi chưa bao giờ có cơ hội được gặp Ngy Thanh (NT) cả. Chỉ đọc ông thôi thì tôi cũng có thể đoán rằng nhân vật này chắc lớn hơn mình cỡ vài ba tuổi, chứ không nhiều. Tuy thế, dường như trên mọi nẻo đường đời, ông đều đi trước tôi vài bước – hơi dài!

Mãi đến 2015, tôi mới lò dò đặt chân đến Đế Thiên – Đế Thích trong khi NT đã tới nơi đây gần chục năm trước lận, và đã thu vào ống kính rất nhiều hình ảnh tuyệt vời của cả Angkor Wat lẫn Angkor Thom.

Vốn là một nhiếp ảnh gia và phóng viên chuyên nghiệp nên NT không chỉ dừng chân ở những nơi có kỳ quan hay thắng cảnh mà còn lang bạt khắp xứ Chùa Tháp, chả sót một xó xỉnh nào. Ông len lỏi vào tận “Thánh Địa Ấu Dâm” và ghi lại những dòng chữ nát lòng về tình cảnh bi phẫn của lắm đứa trẻ thơ:

Svay Pak là làng điếm truyền thống gồm những căn nhà vừa gạch vừa bê tông làm nơi chứa gái bán dâm đến từ Việt Nam, công khai mời chào ‘boom boom’ (làm tình với bé gái) và ‘yum yum’ (khẩu dâm với bé trai) với giá mạt hạng chỉ 5 đô trong những vuông phòng chật hẹp được ngăn ra bằng ván ép xập xệ…

NT cũng đã từng vác máy đến bãi rác Stung Meanchey, nơi được nhật báo The Guardian mô tả là “the world’s most famous rubbish dumps” của thế kỷ XX. Khi tôi tìm đến nơi thì “bãi rác nổi tiếng nhất thế giới” này đã bị dẹp bỏ nhưng hình ảnh của đám trẻ con bần cùng, khốn khổ mà ông đã chụp được tại đây vẫn khiến cho tôi bứt rứt và … ấm ức!

Tưởng bở nên tôi cũng mang máy nhẩy xổ vào một bãi rác khổng lồ khác (cũng ở Phnom Penh) vì muốn được nhìn tận mắt cái thứ “địa ngục trần gian” này. Tới nơi, tôi dặn taxi trở lại đón sau chừng vài tiếng nhưng vừa hăm hở mở cửa xe là đã bị “oẹ” liền. Không khí nồng nặc mùi hôi thối khiến tôi chui vội lại vào bên trong, và ra dấu cho tài xế chạy ngay tức khắc. May mà tôi không có thói quen ăn sáng nên chưa đến nỗi nôn mửa ra xe của người ta.

Rời Miên, tôi băng qua Nam Lào bằng cửa khẩu Stung Treng. Rồi tà tà lội từ Si Phan Don lên Paske, Vientiane, Vang Vieng, Luang Prabang, Luang Namtha, đến tuốt Muang Sing – một thị trấn heo hút ở cực Bắc – giáp giới với Tầu. Sau chuyến đi xuyên suốt này, tôi vội vã kết luận rằng: “Không thấy người Lào không bóp còi xe, và cũng chả gặp ai đi ăn xin cả.”

Nói vừa dứt câu thì tôi lại tình cờ nhìn được bức hình cha con một người ăn mày, đang băng qua đường (giữa thủ đô Vạn Tượng) của NT trên trang mạng Trekearth – nơi tụ tập của nhiều nhiếp ảnh gia quốc tế!

Hóa ra, NT cũng đã đến Lào từ lâu và đôi mắt nhà nghề của ông chả bỏ sót một hình ảnh thương tâm nào cả. Phải công nhận là “thằng chả” rất chịu đi, và luôn luôn lên đường rất sớm, kể cả khi lao vào … chỗ chết!

Mãi đến ngày 10 tháng 10 năm 1972, tôi mới lò dò đến Trung Tâm Xã Hội Sài Gòn để trình diện nhập ngũ nhưng binh nhất NT và hạ sỹ Đoàn Kế Tường (với vai trò là phóng viên cho quân đội và ký giả chiến trường) đã có mặt giữa Mùa Hè Đỏ Lửa rồi:

“Phái viên Ngy Thanh và Đoàn Kế Tường của Sóng Thần cho hay họ đã vượt sông Mỹ Chánh để tới một đoạn đường dài 10 cây số Đông Nam Quảng Trị gọi là ‘đoạn đường máu’, nơi đây còn hàng trăm xác quân xa chở đồng bào Quảng Trị di tản trong ngày 1-5, cháy xém nằm la liệt, bên cạnh còn thấy những xác của đồng bào bị lính BV pháo kích chết cách đây hơn 2 tháng. Những xác nầy nay đã rữa thối, chỉ còn trơ xương.”  (“Xác Dân Tỵ Nạn Trơ Xương Nằm Dài 2 CS Trên Quốc Lộ I.” Sóng Thần 02 July 1972).

Trong tác phẩm mới vừa xuất bản, NT cho biết thêm đôi ba chi tiết về biến cố hãi hùng này:

“Với các bản tin như trên và tương tự, cùng với hình ảnh chúng tôi gửi về toà báo hằng ngày, ban chủ biên đã bàn bạc, thảo luận ngay chương trình ‘Thác Một Nấm Mồ’ cho các nạn nhân bị giết bởi bom đạn trên Đại Lộ Kinh Hoàng, bằng cách lạc quyên từ độc giả của tờ báo …

Kết cuộc lại, năm 1972 anh chị em báo Sóng Thần chúng tôi đã đến, đã thấy, đã vận động những người hảo tâm đóng góp, để tìm gặp và thu lượm được trong các đợt hốt xác, mang về trường tiểu học Mỹ Chánh tẩm liệm và mai táng ở nghĩa trang Đồng Bào Chiến Nạn Quảng Trị 1.841 thi thể, từ tháng 8/1972 đến tháng 1/1973. Những tưởng thế là xong việc. Nhưng ngày 22/06/2016, chúng tôi đi tìm để vận động nâng cấp, mới biết nghĩa trang đã bị xóa sổ”. (Ngy Thanh. Đại Lộ Kinh Hoàng. San Jose: Nhân Ảnh, 2022.)

Từ 1972 đến 2016 là một khoảng thời gian không ngắn. Trong gần nửa thế kỷ, NT đã tận tụy làm trọn nhiệm vụ của một công dân, đối với đồng bào cũng như đồng đội. Cuộc đời của cá nhân ông, nếu chỉ kể đến đây (tưởng) cũng đã đủ dài, và đủ đẹp rồi, nhưng chuyện về Đại Lộ Kinh Hoàng thì e còn thiếu.

Năm 2008, nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân cho ra đời một cuốn nhật ký chiến tranh (Mùa Hè Cháy) của Đại Tá Nguyễn Quý Hải. Ông chính là vị sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 2, trung đoàn 38 Pháo Binh Bông Lau – đơn vị đã nã pháo vào đám đông thường dân và binh lính miền Nam trên Đại Lộ Kinh Hoàng – hồi năm 1972. 

Tuy thế, trong tác phẩm này, tác giả chỉ ghi lại sự kiện trên bằng một câu văn ngắn: “Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.”

Thế mới biết xóa sổ một cái nghĩa trang với hàng ngàn xác người chỉ là chuyện nhỏ, rất nhỏ, đối với người cộng sản VN. Họ còn có thể xóa sạch mọi tội ác đã gây ra bằng một thủ thuật rất quen thuộc, và vô cùng giản dị (gắp lửa bỏ tay người) cứ đổ vấy hết cho Mỹ/Ngụy là xong!

Là người lính và là nhân chứng hiếm hoi có mặt trên Đại Lộ Kinh Hoàng, NT đã đặt nghi vấn:

“Thứ nhất, hố bom do máy bay thả xuống và hố đạn pháo binh sau khi bị kích hỏa, tôi nghĩ là không thể trộn lẫn với nhau… Là người đi suốt chiều dài tử lộ từ sông Bến Đá đến sông Nhung, tôi khẳng định với người anh hùng Bông Lau rằng, trên mặt đường nhựa ấy, chỉ có xác chết và xác xe, không có một hố bom, dù là loại bom nhỏ nhất.”

Không chỉ “khẳng định” suông như thế, NT còn biên soạn cả một tác phẩm (Đại Lộ Kinh Hoàng) gần năm trăm trang đầy ắp dữ kiện, hình ảnh, tài liệu, chứng từ … Ông cũng đã thư từ với Đại Tá Nguyễn Quý Hải, và nhận được hồi đáp (vào hôm 17 tháng 5 năm 2019) như sau:

“Trong đoạn nhật ký của tôi bạn trích ở trên, rõ ràng tôi viết chưa chuẩn vì tôi không trực tiếp nhìn thấy, chỉ là nghe các quan sát viên nói lại rồi suy diễn… trong lần tái bản tới tôi sẽ bỏ đoạn: ‘Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.” (S.đ.d. tr. 351).

Thật là giản dị, dễ dàng, lẹ làng, gọn gàng hết sức!

Ông Quý Hải (nói riêng) và những người CSVN (nói chung) xem chừng khó mà hiểu được điều giản dị này: “Chỉ cần làm chết một người khi người ấy không vũ khí phòng thân … cũng đủ để trở thành tội ác.” Câu văn thượng dẫn được viết vào ngày 2 tháng 6 năm 2022, đây là dòng chữ cuối cùng mà NT đã dùng để làm kết cho tác phẩm (Đại Lộ Kinh Hoàng) mới nhất của ông.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Võ Thị Thắng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Võ Thị Thắng

Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay đôi lời ai điếu, tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm (đưa người ta không đưa sang sông) để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hòe, nhang khói, điếu văn … này nọ hẳn không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:

“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa – Thể Thao và Du Lịch, Trưởng Ban Lễ Tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.”

Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm cũng biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.

Theo vnexpress:

“Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi 17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên – sinh viên – học sinh…

Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII và Khóa IX; Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.”

Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, cũng cho biết thêm đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng:

“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ…

Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”

Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều người khác thì không.

Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận:

“Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): ‘Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”. (Vũ Quang Hùng. “Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn.”Dân Việt, 30 April 2011).

Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S. Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.

Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966:

“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”

Vẫn theo bản tin thượng dẫn:

“Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.”

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.

Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng hiện nay – rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng từ nửa thế kỷ qua.

Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, ông Hạ Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”

Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!

Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn gọn và thi vị: “Chị VTT là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”

Thiệt là quí hoá hết sức!

Dù vậy, tôi vẫn cũng còn có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ thi ca của Thâm Tâm là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vợ Tù

Ảnh của tuongnangtien

The Catcher in the Rye xuất bản năm 1951, khi tôi chưa kịp mở mắt chào đời. Tuy hai phần ba thế kỷ đã qua, và tôi cũng sắp sửa từ giã cõi trần (tới nơi rồi) nhưng vẫn chưa bao giờ tìm đọc nguyên văn tác phẩm này của J.D Salinger cả.

Lý do, giản dị, chỉ vì tôi đã đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh (Thanh Hiên xb 1967) của Phùng Khánh tự lâu rồi. Dịch giả hẳn là phải thông thạo Anh ngữ lắm nên bản tiếng Việt vô cùng gẫy gọn, trong sáng (và cũng rất tài hoa) khiến tôi sợ rằng đọc nguyên tác chưa chắc đã thích bằng. Nó hay đến độ mà nhà văn Võ Phiến cũng có một tạp luận) cùng tên (“Bắt Trẻ Đồng Xanh”) vì ông đã mượn tựa từ bản dịch của ni sư Thích Nữ Trí Hải.

Bài viết này xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bách Khoa – phát hành từ Sài Gòn, vào tháng 10 năm 1968 – và đến nay vẫn còn được độc giả quan tâm, dù hơn nửa thế kỷ đã qua. Một trong những vấn đề được tác giả đề cập đến là số phận bi đát của những người phụ nữ miền Nam, có chồng (và mất chồng) chỉ trong vài hôm – hoặc vài tuần – sau Hiệp Định Genève :

“Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.”

Sáu năm sau Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập, vào hôm 20 tháng 12 năm 1960, tại huyện Châu Thành – tỉnh Tây Ninh. Tuy được “dựng” lên ở miền Nam  nhưng phần lớn cán binh (và tử sĩ) lại là người miền Bắc, theo ghi nhận của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện :

Trại lính, trại tù, người đi không ngớt

Người về thưa thớt dăm ba

Trẻ con đói, xanh như tàu lá

Cày bừa phụ nữ đảm đang

Chốn thôn trang vắng bóng trai làng

Giấy báo tử rơi đầy mái rạ! (“Đất Này Chẳng Có Niềm Vui” – 1965)

Mười năm sau năm nữa (năm1975) thì chiến tranh chấm dứt. Tuy hòa bình đến nhưng trại lính, trại tù, người (vẫn) đi không ngớt. Bọn trẻ thì đi thi hành nghĩa vụ quốc tế (giải phóng nước bạn Cambodia), còn lớp già (thuộc phe thua trận) thì đi … học tập cải tạo.

Dù được bên thắng cuộc hứa hẹn là thời gian “thụ huấn” chỉ vài tuần thôi nhưng thực tế thì người về thưa thớt dăm ba, và không ít kẻ đã ra đi vĩnh viễn, để lại vô số những vành khăn tang trên đầu cô phụ (vào giữa thời bình) mà chả hề có một tờ thư hay mảnh giấy báo tử nào ráo trọi.

Nếu còn sống sót, kẻ thất trận cuối cùng cũng đã rời trại tù vào những năm đầu của thập niên 1990, sau gần 20 năm bị giam cầm. Hơn một phần tư thế kỷ đã qua. Tù nhân chính trị ở Việt Nam hiện nay đều thuộc vào lớp người mới, với tên gọi mới: tù nhân lương tâm – TNLT.

Hôm 22 tháng 6 năm 2021, VOA cho biết :

“Theo báo cáo mới được đưa ra của VNHR, ít nhất 46 người đã bị bắt giữ và truy tố tính đến ngày 31/5 vì vi phạm Bộ luật Hình sự 2015 sau khi ‘bày tỏ quan điểm chính trị của họ thông qua mạng xã hội’, một cáo buộc mà các nhà chức trách gọi là ‘chống phá nhà nước’. Nhóm nhân quyền ở California cho biết rằng những người khác bị bắt trong năm qua bao gồm các nhà hoạt động chính trị, nhà báo độc lập và những người khiếu kiện về quyền đất đai.”

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, bỉnh bút Nguyễn Văn Lung (Tạp Chí Luật Khoa) cập nhật thêm vài ba dữ kiện :

“Trong nửa đầu năm 2022, đã có 16 người bị bắt liên quan đến những vấn đề như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí hay quyền tự do hoạt động hội nhóm… Con số bị bắt đó tương đương với các năm trước, khi mà cả năm 2021 và 2020 đều có 39 người bị bắt vì những vấn đề nhân quyền. Hiện tượng này có thể gọi là ‘đàn áp một cách ổn định’. Những con số đáng buồn cho thấy không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước.”

 

 

Tuy tuyệt nhiên “không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước” nhưng đã có sự thay đổi lớn lao (và khá bất ngờ) nơi thái độ của không ít nạn nhân. Phụ nữ Việt Nam hiện nay không còn chịu nín lặng trong cảnh góa bụa, ngay sau ngày cưới, như lúc đình chiến 1954. Họ cũng không cắn răng và nuốt nước mắt, trước cảnh gia đình tan nát (chỉ vì chả may thuộc bên thua cuộc) như sau Đại Thắng Mùa Xuân 1975 nữa.

Những người vợ tù bây giờ đã cùng chồng tích cực nhận lãnh vai trò “tác nhân,” thay vì chỉ nhẫn nhục “cam chịu lịch sử” như lớp người đi trước, dù họ vẫn bị đe dọa và sách nhiễu thường xuyên :

Chính sách thô bạo và ti tiện cố hữu của nhà đương cuộc Hà Nội, xem ra, không có chút tác dụng nào đáng kể. Phản ứng và cách hành xử của những người vợ tù hiện nay, thế hệ sinh trưởng trong lòng cách mạng, đã hoàn toàn khác trước.

Xin ghi lại dăm ba trường hợp, theo thứ tự abc, để rộng đường dư luận :

– Bùi Huệ, phu nhân của TNLT Dũng Vova: “Đến nay Vova được sự ủng hộ và quý mến của không ít các bà con, anh em cùng lý tưởng. Nó giống như vị ngọt của cà phê đã trải qua cái đắng.”

– Đỗ Lê Na, phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng: “Tôi cũng muốn cho người dân ở trong nước, đặc biệt là những gia đình đấu tranh, một số gia đình thì cũng còn e ngại trong việc người thân của mình bị bắt bớ, có những gia đình không dám thẳng thắn lên tiếng, thì tôi muốn qua cái câu chuyện của gia đình mình để cho mọi người biết rằng là cái quyền lên tiếng để chống lại áp bức bất công – đó là quyền của mỗi người, và nếu chúng ta làm đúng thì chúng ta sẽ không có gì phải sợ hãi họ cả.”

– Trịnh Nhung, phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận: “Cháu/em là vợ của anh Thuận, luôn tự hào về anh, ủng hộ và tin tưởng rằng anh không làm gì sai cả, nên sẽ luôn đồng hành cùng anh trên con đường khó khăn phía trước.”

– Đỗ Thu, phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương: “Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Tôi nghĩ họ sẽ không để yên cho tôi đâu.”

– Nguyễn Thị Ánh Tuyết, hôn thê của TNLT Đỗ Nam Trung: Sau này Trung về chắc chắn chúng tôi sẽ thực hiện nốt những việc còn dang dở, mà chúng tôi đã có những dự tính cho tương lai của hai đứa. Và tôi cũng sẽ kể cho Trung nghe rất nhiều về những tháng ngày đã xa cách này, tôi đã nhớ Trung biết bao nhiêu…”

– Lê Bích Vượng, phu nhân của TNLT Nguyễn Lân Thắng: “Bốn tuần. Ba mươi ngày. Một tháng. Nghe nói tóc anh bạc nhiều. Nghe nói anh gầy đi. Nghe nói anh già đi đến vài tuổi. Uh. Không sao. Mọi người luôn bên anh – Như anh đã có mặt ở những vùng đất khó khăn, những khi bão lũ, thiên tai, nhân hoạ … tàn phá.”

 

Không chỉ thân nhân mà bằng hữu, hàng xóm, láng giềng cũng thế. Thái độ của họ đối với những TNLT của chế độ hiện hành hoàn toàn đã khác. Hình ảnh, biểu ngữ, cùng những bó hoa rực rỡ và bia bọt tràn lan khi mọi người chào đón Phạm Thanh NghiênCấn Thị ThêuBa Sàm Nguyễn Hữu Vinh (như những vị anh thư hay anh hùng của thời đại) đã khiến cho cư sỹ Phạm Nguyên Trường cảm thán: “Trong nước CS mà đón tù chính trị về vui vẻ như thế này thì thời gian tồn tại của chế độ có thể kéo dài bao lâu?”

Ơ hay, cái ông này hay nhỉ? ̣Sao đã tu tại gia (và đã muốn gác bỏ chuyện thế sự ngoài tai) mà vẫn còn “bao la” thế? “Thời gian tồn tại của chế độ còn có thể kéo dài bao lâu” nữa là chuyện của “các đồng chí lãnh đạo ở trên,” chứ việc gì mình phải bận tâm!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Loa & net 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Loa & net   

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

05/08/2022

Lịch sử cận đại của nước Việt vừa ghi nhận (thêm) hai lần… Nam Tiến nữa! Lần đầu – vào năm 1954 – gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam bằng tầu: tầu bay, tầu hoả, và tầu thủy… Họ mang theo nhiều thứ trông rất quen nhưng tên gọi thì hơi lạ: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa …

Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm… tuy không toàn  hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp. Từ thành thị đến nông thôn – trong mọi ngõ ngách – trẻ con miền Nam đồng lòng đổi lời bản “Khúc Nhạc Đồng Quê” (của Thúc Đăng) từ “Quê hương tôi gió chiều về trong nắng vàng” thành … “Quê hương tôi cái mùng mà kêu cái màn,” cùng với tiếng cười khúc khích.

1954 – 1975: Hai mươi mốt năm tuy ngắn nhưng đủ thời gian để xoá nhoà mọi ngăn cách giữa cái mùng với cái màn. Rồi ra, ai cũng biết: cái mền với cái chăn là một, cái phong bì và cái bao thư cũng vậy, còn cái bao diêm chính là cái hộp quẹt, và cái hôn với cái hun đều cùng một nghĩa!

Đợt di cư thứ hai, khởi sự vào năm 1975, ồn ào và ồ ạt hơn trước. Những thứ được mang theo cũng rất khó coi, và gây ra rất nhiều phiền toái nơi vùng đất mới: nón cối, dép râu, tem phiếu, sổ gạo, sổ hộ khẩu, loa phóng thanh, tinh thần làm chủ tập thể, ảnh bác Hồ lộng kiếng …

Với thời gian, nón cối, dép râu, tem phiếu, sổ gạo, tinh thần làm chủ tập thể… đều lặng lẽ bị vứt vào sọt rác. Ảnh bác Hồ lộng kiếng, không ít kẻ, cũng liệng cống luôn. Rồi đến cái sổ hộ khẩu cũng đi vào dĩ vãng khiến “hàng triệu người dân vỡ oà sung sướng” – theo như nguyên văn của báo Lao Động, số ra ngày 5 tháng 11 năm 2017 :

“Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30.10.2017 của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, với việc xóa bỏ nhiều thủ tục liên quan đến hộ khẩu, đã làm hàng triệu người dân ‘vỡ òa’ sung sướng.”

Trước đó không lâu, dân Việt cũng đã trải qua một niềm vui (“vỡ oà”) tương tự, ngay sau khi báo Thanh Niên – số ra ngày 14 tháng 1 năm 2017 – hớn hở loan tin: “Loa phường đã hoàn thành vai trò lịch sử!”

Ngoài việc tháo gỡ những chướng ngại vật đã gây ra đủ thứ rắc rối, khó khăn, nhũng nhiễu, phiền hà… cho dân chúng; Nhà Nước Cách Mạng còn đi rất xa trong tiến trình đổi mới. Báo chí tới tấp đi tin :

– Giúp Người Dân Cải Thiện Cuộc Sống Nhờ Tiếp Cận Internet

– Cuộc Sống Người Dân 40 Tỉnh Thay Đổi Ra Sao Nhờ Internet?

– Cơ Hội Cho Người Dân Nông Thôn Tiếp Cận Với Internet

– Máy tính cho cuộc sống với học sinh nông thôn

Hiệp Hội Doanh Nghiệp Điện Tử Việt Nam hân hoan cho biết: “Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho phép Bộ TT-TT thực hiện giai đoạn hai Dự án thí điểm nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập internet công cộng tại Việt Nam (BMGF-VN) tại 40 tỉnh, thành phố trên cả nước với tổng kinh phí hơn 50 triệu USD.”

Ủa, tiền ở đâu ra mà chính phủ (bỗng) hào phóng dữ vậy cà?

Tìm hiểu thêm chút xíu mới biết ra rằng BMGF là mấy chữ viết tắt của Bill & Melinda Gates Foundation của vợ chồng ông Bill Gates, có trụ sở tại Seattle, Washinton State. Theo trang Khoa Học Việt Nam : “Quỹ Bill & Melinda Gates viện trợ không hoàn lại 30 triệu USD, Microsof tài trợ 3,6 triệu USD (để mua máy tính) và số còn lại là vốn đối ứng của Việt Nam.”

Thảo nào mà quan chức, cũng như báo giới VN, hào hứng và vui vẻ quá xá. “DỰ ÁN NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG MÁY TÍNH VÀ TRUY NHẬP INTERNET CÔNG CỘNG TẠI VIỆT NAM” được tán thưởng không tiếc lời :

– Lao Động: “Mỗi Công Dân Là Một Nhà Báo”

– Sài Gòn Giải Phóng: “Mỗi Công Dân Là Một Phóng Viên”

– Tuổi Trẻ: “Vinh Danh Nhà Báo Công Dân”

Được “vinh danh” nên các nhà báo công dân hiện diện khắp nơi. Ngay cả ở vùng xa, vùng sâu như xã Quảng Điền – huyện Krông Na, tỉnh Đắk Lắk – mà hình ảnh một ông trưởng công an xã (đá tứ tung thúng mẹt rau cải, tôm cá … của bạn hàng) cũng được phổ biến khắp năm Châu, trong chớp mắt.

Trong một xã hội vốn khép kín mà bỗng dưng mỗi công dân trở thành một phóng viên thì hệ lụy thật khó lường. Bung là cái chắc. Thông Tấn Xã Vỉa Hè thay thế ngay vai trò truyền thống của Thông Tấn Xã VN, và “từng bước đưa đất nước thoát khỏi cái vòng kim cô mang cái tên ‘định hướng’ trên lĩnh vực tư tưởng-truyền thông” – theo như nhận xét của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh.

Bộ Thông Tin thất thủ. Truyền Thông vỡ trận. Chung qui cũng chỉ vì những con ngựa thành Troie, có tên gọi khác là máy vi tính, giữa lòng cách mạng!

Lúc sinh tiền, nhà văn Trần Đĩnh gọi internet là thằng … Thời Đại, và ông rất hả hê vì “luôn nhìn thấy Đảng loạng choạng lùi” trước cái “thằng” này. Nếu không vì nó thì mấy người dân Việt được nhìn thấy tận mắt phóng ảnh Công Hàm 1958 với chữ ký của Phạm Văn Đồng (hay Thư Xin Nhập Học Trường Thuộc Địa của sinh viên Nguyễn Tất Thành) và nói chắc cũng chả ai tin.

Buộc phải lùi thôi nhưng lùi hoài chắc chết, chết chắc. Phải làm một cái gì đó để cứu vãn tình thế, chứ không thể để tên tuổi của những vị lãnh đạo cấp cao (Lâm Dát VàngTrọng Mặt DầyNgân Mặt ThớtPhúc Maze …) bị bôi bác mãi. Thế là Bộ Công An bèn trình Quốc Hội cái gọi là “Dự Án Luật An Ninh Mạng.”

Công luận, tất nhiên, dậy sóng:

  • Trương Huy San: “Luật chống lại loài người.”
  • Lê Văn Luân: “Luật pháp ban hành ngày càng tệ và có xu hướng đi ngược lại tiến trình phát triển văn minh của nhân loại.”
  • Người Buôn Gió: “Công cụ đàn áp mới – luật an ninh mạng.”
  • Trịnh Hữu Long: “Dự luật an ninh mạng: hàng Việt Nam made in China?”
  • Nguyễn Thông: “Đó là thứ tư duy cộng sản man rợ.”
  • Nguyễn Ngọc Chu: “Chỉ có những chế độ độc tài vì muốn duy trì sự cai trị của mình, mới liều lĩnh khống chế thông tin.”
  • Trần Song Hào: “Đảng muốn có chi bộ trong máy chủ!”
  • Võ Văn Tạo: “Lại tiếp tục tư duy lỗi thời.”
  • Nguyễn Quang Lập: “Chỉ cần 1 năm vắng bóng Facebook và Google sẽ thấy đất nước này lạc hậu so với thế giới hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm.”
  • Trương Duy Nhất: “Với gần 100 triệu công dân Việt, đó là bức tường giam hãm tự do tư tưởng, biểu đạt và giao tiếp.”

Tất cả đều phẫn nộ hay buồn bực. Buồn tất cả. Chỉ cái loa là vui được tiếp tục vai trò lịch sử của mình. Với hệ thống loa phường thì an toàn là cái chắc. Không còn phải lo lắng đến sự phá hoại của những thế lực thù địch nước ngoài, và sự tự diễn biến/chuyển hoá của một bộ phận không nhỏ đảng viên nữa. Ban Tuyên Giáo lại độc quyền cầm loa nên chả việc gì phải “đối thoại” với bất cứ ai nữa.

Đất nước sẽ an bình và ổn định (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) như xưa, cứ y như là chưa bao giờ có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra ráo trọi. Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc dự đoán :

“Ngày ấy sẽ không xa! Học viện KHXH sẽ đóng cửa; chủ nhân các biệt phủ sẽ ăn ngon ngủ yên; các quan anh sẽ tha hồ có bồ nhí; các trạm BOT sẽ có mặt khắp hang cùng hẻm cụt; lãnh đạo sẽ tha hồ cho trái đâm ra từ rễ cây; đày tớ sẽ thoải mái đá xô chậu, chặn xe đám cưới thu tiền …”

Thằng chả đoán bậy bạ vậy mà không trật. Báo Thanh Niên, số ra ngày 26 tháng 07 năm 2022, vừa hân hoan chạy tít: “Hà Nội Lên Kế Hoạch Khôi Phục Loa Phường”!

TNT 2017 – 2022