S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vũ Quang Thuận

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

 

“Một đêm Vũ Thư Hiên ngủ ở nhà tôi. Sáng hôm sau, tung chăn dậy, nhìn ra cửa sổ, nghe tiếng loa từ Ngã Sáu vọng vào, Hiên nhíu mày bảo:

– Hình như tao đã gặp buổi sáng như thế này ở đâu rồi.

Đúng là tiếng loa đã có từ lâu lắm rồi. Nó đã ngấm vào máu thịt, như là tiền kiếp vậy. Bao nhiêu năm chúng tôi đã nghe những bản nhạc hiệu ấy, những giọng nói đanh thép mở đầu ấy và cả những giọng điệu trong nội dung người viết người đọc nữa. Nó đã biến thành một phần của chúng tôi.” (Bùi Ngọc Tấn. Viết Về Bè Bạn. Hà Nội: Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2012).

Cứ nghe ra rả cả ngày lẫn đêm (đảng ta, nhà nước ta, xã hội ta, nhân dân ta, quốc hội ta, bộ đội ta, sứ quán ta, người phát ngôn của bộ ngoại giao ta…) suốt “bao nhiêu năm” nên “nó biến thành một phần của chúng tôi” là… phải. Tất nhiên, đây không phải là chuyện ngẫu nhiên hoặc tình cờ – theo nhận xét của nhà bình luận La Thành:

“Trải qua nhiều chục năm thực hành và thực hành rất thành công, ngành tuyên truyền của Đảng Cộng sản đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp và tinh vi vượt xa mọi lĩnh vực còn lại của thực tiễn cầm quyền. Để thí dụ, trong khi đã cân nhắc loại bỏ đi các thuật ngữ ‘ngụy quyền’, ‘ngụy quân’ trong sách giáo khoa lịch sử, các sử gia của chế độ vẫn tiếp tục sử dụng các thuật ngữ ‘Đảng ta’, ‘Nhà nước ta’, ‘quân và dân ta’, v.v. với dụng ý đánh đồng các thành phần trong hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản với toàn thể quốc dân và xã hội – một phép nguỵ biện về lô-gích và một sự trâng tráo về hành xử.”

Tuy “trâng tráo” nhưng hiệu quả. Nạn nhân của cách tuyên truyền lì lợm và thô bạo này, với thời gian, có thể biến thành… thủ phạm (dễ) như chơi. Thử nghe đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, trưởng nam của thi sĩ Thế Lữ, nói về bằng hữu của thân phụ ông (trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn) nha:

– Ta ngặt lắm… Khái Hưng là ta… thịt mà. Bác Tam không trốn kịp thì cũng bị.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Cũng trong tác phẩm thượng dẫn, chương 44, tác giả viết tiếp:

“Báo Nhân Dân năm nay đặc biệt kỷ niệm báo ra hàng ngày nên tổ chức một buổi riêng ôn lại thành tích tuyên truyền chiến tranh chống Mỹ… Nguyễn Sinh, xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói… anh đã chứng kiến những người ở phía bên Nam kia bị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người lạnh mặt lại.”

Ta thịt người này, ta chôn sống kẻ khác… nhưng chả ai áy náy hay phải chịu trách nhiệm gì ráo trọi về những việc làm tàn bạo đến độ vô nhân tính như thế vì đây là sự tàn ác của cả tập thể mà. Vô số người dân Việt đã vô tình dùng chung căn cước với Đảng CSVN (cái tập đoàn hiếu sát, hiếu chiến, bất nhân, tham lam, ác độc, giảo hoạt …) một cách hết sức hồn nhiên và vô tư: Đảng ta, nhà nước ta, quốc hội ta, bộ đội ta, sứ quán ta, người phát ngôn của bộ ngoại giao ta … Cũng không ít kẻ hễ mở miệng ra là cũng ba hoa (“ta/ta”) cứ y như loa đài của Nhà Nước vậy.

Dù vậy, Nhà Nước vẫn chưa yên tâm nên cả hệ thống truyền thông – gần trăm năm qua – luôn luôn nhắc nhở cho mọi người nhớ “con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã chọn!” Kiểu đánh đồng rất mất dậy và vô cùng trắng trợn này, tuy thế, hầu như đã không gặp phải bất cứ một sự chống đối công khai nào ráo.

Mãi cho đến đầu thế kỷ XXI, vào hôm 24 tháng 7 năm 2016, mới có một công dân Việt Nam – Trần Thị Thảo – đứng giữa phố phường, nói rõ (và nói to, to hơn cả tiếng loa phường) rằng mình hoàn toàn và tuyệt đối không có liên hệ chi với với tập đoàn lãnh đạo của chế độ hiện hành: “Tiên sư cha chúng mày chứ! Lịch sử sẽ lên án chúng mày, cả một chế độ thối nát, từ trên xuống dưới!

Vài tuần sau nữa, vào ngày 17 tháng 9, trong một cuộc phỏng vấn dành cho biên tập viên Mặc Lâm (RFA) giáo sư Tương Lai cho biết thêm là cái “chế độ thối nát” mà bà Trần Thị Thảo vừa đề cập đến (theo thứ tự từ dưới lên trên) gồm những “thằng” sau:

“Từ ông thôn ông ấy bảo thằng xã nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng xã bảo thằng huyện nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng huyện bảo thằng tỉnh nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng tỉnh bảo Bộ chính trị nó còn ăn, thằng Tổng bí thư nó còn ăn tại sao tao không ăn…”

Giáo sư Tương Lai thản nhiên gọi TBT của Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh bằng “thằng” khiến không ít người phải lấy làm ái ngại. Họ quan ngại rằng (cũng như bà Trần Thị Thảo) ông đã đi hơi xa trong việc biện biệt giữa “chúng ta” và “chúng nó.”

Nỗi lo ngại chính đáng này (bỗng) trở thành viển vông khi một công dân Việt Nam khác, ông Vũ Quang Thuận, đột nhiên xuất hiện như một “dàn đại bác” – theo lời tiên tri của blogger Bà Đầm Xoè:

Với tôi, dù Vũ Quang Thuận là ai thì sự lên tiếng của anh có giá trị khai sáng rất cao cho dân trí Việt Nam. Nó đã như một dàn đại bác liên tục nả vào đầu giới chóp bu cộng sản Việt Nam không trừ một ai, kể cả “linh hồn bất khả xâm phạm” Hồ Chí Minh. Với tôi, những gì Vũ Quang Thuận đã “bắn ra” đã đưa anh vào thế anh có thể biến mất bất kỳ lúc nào trước họng súng của chế độ CSVN đã bủa vây anh từ bốn phía.”

Quả nhiên, Vũ Quang Thuận và thân hữu của ông trong Phong Trào Chấn Hưng Nước Việt đã bị bắt giam vào hôm 3 tháng 3 năm 2017.

Theo blogger Huỳnh Ngọc Chênh thì “việc bắt giữ hai công dân Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển là vi phạm nhân quyền, là dùng biện pháp bạo lực để dập tắt và chà đạp lên quyền tự do ngôn luận của công dân.” Ông bạn đồng nghiệp của tôi nói không sai nhưng e chỉ đúng phân nửa mà thôi.

Quả thực là nhà đương cuộc Hà Nội đã “dùng bạo lực chà đạp lên quyền tự do ngôn luận của công dân” nhưng “dập tắt” được công luận thì vô phương, hay nói chính xác hơn là vô vọng. Trên mặt trận truyền thông, ĐCSVN đang phải đối mặt với một cuộc chiến tranh nhân dân mà Vũ Quang Thuận (và Nguyễn Văn Điển) chỉ là hai cảm tử quân ở tuyến đầu thôi!

TNT – 2017


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến -Lê Anh Hùng

VNTB – Lê Anh Hùng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến 

(VNTB) – Nếu không có sự hy sinh cao cả như thế thì dân Việt biết trông vào đâu để vẫn còn có thể giữ được chút niềm tin về tương lai của dân tộc, và đất nước này!

“Cứ mỗi lần cầm bút là Lê Anh Hùng nghĩ đến ba đứa con thơ. Người đàn ông 38 tuổi này đã hai lần vào tù, vì viết blog về nhân quyền và nạn hối lộ, hiện đang sống phấp phỏng trong căn nhà của ông ở Hà Nội. Tuy thế, ông nói, ‘Tôi biết điều mình lựa chọn là nguy hiểm nhưng tôi chấp nhận trận chiến này.”

Every time Le Anh Hung starts to write he thinks of his three young children. The 38-year-old has already been imprisoned twice for blogging about human rights and corruption from his home in Hanoi and lives half-expecting another fateful knock at the door. And yet “I’m not scared,” he says, “I know what I choose to do is risky but I accept the fight. (Charlie Campbell. “Internet Censorship Is Taking Root in Southeast Asia.” Time 18 Jul 2013).

Cái giá phải trả cho sự “chấp nhận” của Lê Anh Hùng, tất nhiên, không rẻ. BBC cho hay là ông đã bị bắt, lần hai, vào năm 2018:

“Ông Lê Anh Hùng, blogger, thành viên Hội Nhà báo Độc lập bị bắt tạm giam 3 tháng hôm 5/7 theo Điều 331 Bộ luật Hình sự về tội Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước…”

Ba tháng, sáu tháng, rồi chín tháng trôi qua nhưng vẫn không có phiên toà nào cho Lê Anh Hùng cả. Mãi đến ngày 27 tháng 3 năm 2019, công luận mới có chút tin tức mới về người tù nhân lương tâm này, qua bản tin của Việt Nam Thời Báo:

“Cán bộ trại giam số 2 thi hành kỷ luật không cho ông Hùng gặp mặt thân nhân khi thăm nuôi vì ở trong trại giam ông Hùng không chấp nhận việc đeo còng, không chấp nhận mặc đồng phục, nói mình chưa ra tòa và chưa nhận bản án phán quyết của Hội đồng xét xử thì chưa gọi là phạm tội nên ông Hùng không chấp nhận bản thân bị hành xử như một phạm nhân.”

Với chế độ toàn trị hiện nay ở Việt Nam, một người tù “không chấp nhận mặc đồng phục, nói mình chưa ra tòa và chưa nhận bản án phán quyết của Hội đồng xét xử thì chưa gọi là phạm tội” bị xem là một thái độ bất bình thường. Vì thế, bốn ngày sau trên trang  RFA có mẩu tin ngăn ngắn:

“Hôm 1/4/2019, blogger Lê Anh Hùng, người bị cơ quan An ninh điều tra bắt giữ vào ngày 5 tháng 7 năm ngoái với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ nhưng chưa ra tòa, đột nhiên bị đưa vào Bệnh viện tâm thần trung ương 1 ở Thường Tín, Hà Nội.”

Đây không phải là lần đầu tiên ông Hùng “bị đưa vào bệnh viện tâm thần.” Chuyện tương tự đã xẩy hồi năm 2013, cùng với nhiều lời bình giễu cợt về sự kiện này:

– Blogger Lê Dũng: “… đệch mịa cái vở kịch xứ mình nó dàn dựng sao thô thiển thế? vậy có ai tin nổi không thưa mấy bố luật sư, nhà báo, trí thức trí ngủ?”

– Blogger Lã Việt Dũng: “Hôm qua vào Trung tâm bảo trợ xã hội hỏi về việc của Lê Anh Hùng, giám đốc trung tâm bảo đưa anh Hùng vào đây theo yêu cầu của mẹ anh ấy và của phòng LĐ-TBXH quận Thanh Xuân. Mình hỏi:

– Thế lúc vào đây anh ấy có biểu hiện tâm thần gì không? Có gây nguy hại gì cho xã hội không?

– Không, anh ấy bình thường

– Trước khi nhận anh ấy vào, các anh có giám định gì không?

– Không, chúng tôi chỉ làm theo đơn và theo yêu cầu của trên !!!”

– Blogger Nguyễn Tường Thụy: “Cứ như những gì biết khi tiếp xúc với Hùng, đọc những gì Hùng viết, tôi phải khẳng định, nếu Lê Anh Hùng bị tâm thần thì tôi còn tâm thần nặng hơn.”

Tôi có bằng hành nghề trị liệu tâm thần do tiểu bang California cấp từ ngày 20 tháng 11 năm 1995 đến tháng 30 tháng 4 năm 2015. Tôi cũng là một độc giả thường xuyên của Lê Anh Hùng từ hơn mười năm nay. Thỉnh thoảng, chúng tôi vẫn trao đổi đôi câu tâm sự (vụn) qua email. Tuyệt nhiên, tôi không nhận thấy có dấu hiệu nào bất thường nơi Lê Anh Hùng cả.

– Ngày 11/10/2011, ông viết trên trang RFANhiều chính sách của chính phủ hiện nay đang thực sự phá hoại nền kinh tế Việt Nam, khiến cho thị trường hỗn loạn, tạo ra sự bất công ngày càng sâu sắc trong xã hội, còn kẻ thù của chúng ta thì lại vui mừng. Hậu quả khốc liệt trong việc khai thác bauxit, và của những quả đấm thép Vinashin là những bằng chứng sống động cho nhận xét thượng dẫn của Lê Anh Hùng.

– Ngày 1 tháng 7 năm 2013, nơi trang  Bauxite Việt Nam, ông lên tiếng: Cảnh giác những khoảng vay từ Trung Quốc… Người ta thường nói: “Chẳng ai cho không ai cái gì.” Câu châm ngôn này xem ra rất đúng với Trung Quốc, và càng đặc biệt đúng trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1950.

Sáu năm sau, trên tờ Straits Times, số ra ngày 7 tháng 3 năm 2019, T.T Mã Lai ( Mahathir Mohamad) cũng tuyên bố một câu y như thế: “Beware of China debt trap.”

– Ngày 27/06/2018, ông khẳng định trên trang blog của VOA : Dự luật Đặc khu là một dự luật bán nước theo đúng nghĩa đen của từ này. Đây là một sự thực hiển nhiên:

– T.S Nguyễn Ngọc Chu : “Có bào chữa kiểu gì đi nữa, có tô vẽ kiểu gì đi nữa, có khoác áo mục tiêu gì đi nữa, thì cuối cùng về bản chất, đặc khu là hình thức nhượng chủ quyền lãnh thổ.”

– Thi sĩ Inra Sara: “Người dân ở những nơi sẽ trở thành đặc khu này sẽ bị mất đất, sẽ trở thành lưu dân, tha hương ngay trên mảnh đất mà tổ tiên họ đã dày công khai phá… Họ sẽ trở thành những kẻ làm thuê khốn cùng cho ngoại bang bằng những nghề hạ tiện nhất mà ngoại bang không thèm làm, để kiếm sống một cách tủi nhục trên chính quê hương mình.”

– T.S Trần Đức Anh Sơn: “Người dân ở những nơi sẽ trở thành đặc khu này sẽ bị mất đất, sẽ trở thành lưu dân, tha hương ngay trên mảnh đất mà tổ tiên họ đã dày công khai phá … Họ sẽ trở thành những kẻ làm thuê khốn cùng cho ngoại bang bằng những nghề hạ tiện nhất mà ngoại bang không thèm làm, để kiếm sống một cách tủi nhục trên chính quê hương mình.”

Blogger Vũ Mạnh Hùng nhận định: “Nguyện vọng của LAH là muốn làm sáng tỏ những việc mình tố cáo, nên từ lâu anh đã sẵn sàng chấp nhận bị bắt để có được một phiên tòa xét xử những việc mình tố cáo một cách công khai.”

Blogger Nguyễn Tường Thụy cũng có nhận xét tương tự: “Vụ bắt và khởi tố Lê Anh Hùng: đối tượng làm chủ ‘cuộc chơi.

Thái độ quyết liệt và sự lựa chọn can trường của Lê Anh Hùng, cũng như của những tù nhân lương tâm đồng hành, khiến cho vợ con cùng thân nhân của họ phải chịu rất nhiều thiệt thòi và phiền toái. Nhưng nếu không có sự hy sinh cao cả như thế thì dân Việt biết trông vào đâu để vẫn còn có thể giữ được chút niềm tin về tương lai của dân tộc, và đất nước này!

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Biệt tăm biệt tích

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Hôm 25 tháng 5 năm 2016, Pearl Pinson (một nữ sinh 15 tuổi) bị bắt cóc khi đang trên đường đến trường và biệt tích luôn kể từ ngày đó. Tuy hơn 7 năm đã qua nhưng thân nhân của em vẫn cứ nuôi hy vọng là sẽ có ngày đoàn tụ, nhân viên điều tra vẫn không ngưng việc kiếm tìm, và báo giới (hàng năm) vẫn không ngừng nhắc nhớ đến câu chuyện buồn lòng này:

  • CBS: Family of Vallejo teen Pearl Pinson holds out hope 6 years after disappearance
  • NBC: Investigation ongoing in 2016 abduction of Pearl Pinson in Vallejo, California
  • The Mercury News: Bay Area community continues to search for kidnapped teen Pearl Pinson
  • Daily Republic: The fight to find Pearl Pinson remains strong 7 years after the teen was kidnapped

Thành phố Vallejo (nói riêng) hay California (nói chung) là một vùng đất phú túc nên tình người nơi đây cũng sâu đậm hơn hẳn nhiều nơi khác chăng?

Không nhất thiết thế đâu!

Hôm 10 tháng 6 vừa qua, mọi cơ quan truyền thông trên toàn thế giới đều hớn hở loan tin đã tìm thấy bốn trẻ em thất lạc, sau tai nạn khiến chiếc phi cơ Cessna 206 bị hỏng máy bất ngờ và rơi giữa xuống rừng sâu:

  • CBS NEWS:4 children lost in Colombian jungle found alive after being missing for 40 days
  • NBC NEWS: 4 children found alive 40 days after plane crashed in Amazon jungle
  • PBS NEWS: 4 Indigenous children found alive 40 days after plane crash in Amazon rainforest
  • The New York Times: 4 Missing Children Found Alive After 40 Days in Colombian Jungle

Lòng yêu thương và sự sự tận tụy của người dân Colombia (một xứ sở nghèo nàn) dành cho những công dân bản địa nhỏ bé của họ thật thiết tha,  và rất đáng trân trọng:

Các em nhỏ, tất cả đều thuộc bộ tộc bản địa Huitoto, đã bị mất tích kể từ khi một chiếc bay hạng nhẹ lao xuống rừng Amazon vào buổi sớm ngày 01/05. Thảm kịch đã khiến người mẹ qua đời, và ba đứa con, 13, chín, bốn và một tuổi, bị lạc trong một khu vực đầy rắn, báo đốm và muỗi.

Nhân viên cứu hộ ban đầu e sợ điều tồi tệ nhất sẽ xảy đến, nhưng những dấu chân, trái cây trong rừng bị ăn dở, và những tín hiệu khác sớm mang đến cho họ một hy vọng là các em có thể còn sống sót sau khi rời khỏi nơi chiếc máy bay rơi để tìm kiếm sự giúp đỡ…

Giới chức đã rải 10.000 tờ rơi với những lời khuyên về sinh tồn được viết bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng bản địa của bộ tộc Huitoto, và các trực thăng của quân đội phát đi thông điệp của bà các em nhỏ qua loa, để trấn an các em là công cuộc tìm kiếm vẫn đang tiếp diễn. (Matt Murphy. “Colombia: Làm Cách Nào Bốn Em Bé Có Thể Sống Sót Trong Rừng Thiêng Nước Độc?” BBC – 06/12/ 2003)

Câu chuyện cảm động về những đứa trẻ bị thất lạc, từ một quốc gia xa xôi, khiến tôi không khỏi mủi lòng khi liên tưởng đến những đồng bào biệt tăm/biệt tích của mình. Suốt mấy thập niên qua, hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ cũng đã lần lượt và âm thầm biến mất khỏi cõi đời này nhưng không hề nhận được sự quan tâm của bất cứ ai – ngoài mấy người thân, nếu có!

Hơn 10 năm trước, vào hôm 12 tháng 11 năm 2009, Việt Báo (California) đã phổ biến một mẩu nhắn tin ngăn ngắn (“Cha Xin Giúp Tìm Con Gái Lạc 25 Năm Trước Ở Biển Thái Lan”) khiến không ít độc giả phải cảm thấy nặng lòng:

Bé Bích Hằng bị thất lạc từ năm 1984, 14 tuổi, cho đến nay… Đã xa gia đình và cha mẹ hơn 25 năm qua… Mong rằng Bích Hằng sẽ được đoàn tụ với gia đình trước khi ngày cha mẹ qua đời. Muôn ngàn đa tạ và mang ơn các bạn.  Email: [email protected][email protected]. Mobile Number: 714 487 4241. Other: 714 839 1587.” Xin cầu nguyện và chúc lành.

Gần nửa thế kỷ đã qua, Bích Hằng vẫn biệt vô âm tín. Trang sử thuyền nhân đã đóng nhưng dân Việt vẫn tiếp tục thất tung, và mỗi lúc một thêm nhiều. Hôm 24 tháng 5 vừa rồi, trang FB Hung Tran có ghi lại một status ngắn:

Nhạn Ơi! Em Ở Đâu Về Với Gia Đình.

Em gái tôi là Nguyễn Thị Nhạn, sinh năm 1982. Quê quán xã Thiệu Quang, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Lúc nhỏ do gia đình khó khăn, em đã phải nghỉ học nhường cho tôi được đến trường, rồi e phải đi lao động kiếm sống xa gia đình từ 13 tuổi…

Đến khi tôi học Sư phạm e phụ giúp nuôi tôi ăn học, phụ giúp bố mẹ chi tiêu. Trong gđ so với e tôi là người may mắn hơn. Em cứng rắn, nghị lực hơn tôi. Cuối năm 2003 e viết cho mẹ một lá thư : “Mẹ đọc được lá thư này mẹ đừng khóc, con tặng mẹ 1 chỉ vàng làm kỉ niệm, hẹn một con giáp con sẽ về.”

Bố mẹ cứ đợi và hi vong nhưng đã 16 năm trôi qua em vẫn không về. E đang ở đâu ? Bố nhớ thương e chỉ biết ngậm ngùi nuốt nước mắt vào trong, còn mẹ cũng lặn lội khắp nơi để tìm em. Bố mẹ đã già, cạn nước mắt vì các anh, vì em. Chỉ mong những năm còn lại trên cuộc đời em sớm quay về để gd đoàn tụ. Cho dù e có là ai, thành công hay thất bại, dù giàu có hay bần hàn thì e mãi là e của chị. Thương và nhớ em rất nhiều ! Nhờ cộng động mạng bạn bè chia sẻ giúp. Gđ tôi xin cảm ơn. Xin liên hệ :0967315570. 0965708529.

Đã có bao nhiêu Nguyễn Thị Nhạn “phải đi lao động kiếm sống xa gia đình” rồi không bao giờ về nữa? Con số hẳn không nhỏ, theo như những bản tin đọc được hàng ngày qua báo chí:

Tuy số nạn nhân đã lên đến mức báo động và dân Việt “biến mất” khắp mọi nơi nhưng nhà đương cuộc Hà Nội hoàn toàn không hề quan tâm chi đến thảm trạng này, dù chính họ vẫn “dỗ ngon dỗ ngọt” để người dân rời nhà bằng mọi cách – kể cả những lời dối gạt:

Báo Vietnamnet đăng tin:

“Bộ mặt làng quê thay đổi với những ngôi nhà cao tầng mọc lên san sát, ô tô đỗ trước ngõ… từ nguồn tiền các em gửi về… Một cán bộ thôn ở xã Thạch Kim (huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh) cho biết: ‘Thôn có 463 người đang lao động ở nước ngoài, nhiều nhất xã, chủ yếu đi theo con đường không chính thống… Một số em vào đại học sau đó lại bỏ ngang, có em đã sở hữu tấm bằng cử nhân nhưng không tìm việc làm ở quê nhà mà sang Mỹ, Canada, Anh, Hàn Quốc… làm việc.”

Báo Dân Trí cho biết: “Phần lớn thanh niên trai tráng sang Lào làm thuê, dù chưa giàu nhưng thu nhập ổn định, đổi đời sau một thời gian làm việc… Nhờ đó, bộ mặt làng quê thay đổi hẳn. Đường bê tông được xây dựng. Nhiều người đi Lào đứng ra đóng góp tiền làm đường, kéo điện thắp sáng, góp sức đưa thôn 5 đạt đủ 19 tiêu chí nông thôn mới…”

Tuyệt nhiên không thấy một tờ báo, một ban ngành hay một giới chức lãnh đạo nào nhắc nhở chi đến những kẻ đã biệt tăm/biệt tích nơi đất lạ xứ người. Cứ như thể là họ chưa bao giờ có mặt trên cuộc đời này cả. So với với những người dân bản địa ở rừng mưa Amazon (Nam Mỹ) thì mạng sống của người Việt hiện nay, xem chừng, hơi rẻ.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Người & Rác

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Đồng chí Tổng Bí Thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà lòng không xúc động thì không còn là người cộng sản nữa.” Bùi Ngọc Tấn – Chuyện Kể Năm 2000

Tôi “nhặt” được câu danh ngôn (thượng dẫn) trong Chuyện Kể Năm 2000, tập II, của Bùi Ngọc Tấn. Chỉ có điều đáng tiếc là tác giả quên ghi rõ là đồng chí TBT nào đã phát biểu một câu nói “đắt giá” tới cỡ đó. Mãi đến khi cùng cụng ly với tác giả ở California (ông chơi một ly sinh tố to đùng, ngó mà ớn chè đậu) tôi mới có dịp nêu thắc mắc, và nhận được câu trả lời hóm hỉnh : “Thì ông TBT nào mà chả  nói thế.”

Ah! Thì ra thế. Tuy thế, mọi người đều biết rằng mấy ổng nói vậy thôi chớ hổng phải vậy đâu. Bởi vậy nên những phụ nữ đẩy xe bò hay xe rác lềnh khênh, khắp mọi nẻo đường, từ hơn hai phần ba thế kỷ qua mà chả thấy có đồng chí nào xúc động (hay xúc cảm) gì ráo trọi. Cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam chỉ mang lại một thay đổi duy nhất cho giới người này là họ được đổi tên từ “phu quét đường” thành “công nhân vệ sinh đường phố” thôi.

Làm phu quét rác thì vô tư nhưng khi đã trở thành công nhân (lực lượng tiên tiến và tiên phong của Đảng) thì lại được Mặt Trận Tổ Quốc giao thêm rất nhiều trọng trách : “là lực lượng quan trọng, là tai mắt đường phố, có thể góp phần giữ vững an ninh chính trị, phòng chống, phát hiện các đối tượng tệ nạn xã hội… được công an quận tập huấn một số kỹ năng như: hướng dẫn nắm bắt vụ việc, nhận diện hiện tượng, con người liên quan đến an ninh chính trị; về hoạt động băng nhóm hoặc nghi vấn đối tượng trộm cắp, cướp giật tài sản cũng như công tác bảo vệ hiện trường.”

Vừa thôi chớ!

Họ vừa phải đẩy xe rác làm vệ sinh đường phố, lại vừa kiêm nhiệm luôn công việc của ngành an ninh tình báo, và bảo vệ hiện trường nữa nên (lắm lúc) không tránh được tai nạn giao thông thảm khốc – theo tin loan của trang Tin Tức Việt Nam:

“Đêm 22/4/2019, trên địa bàn Hà Nội, một chiếc ô tô Hyundai từ phố Vĩnh Hồ đi về đường Láng, hướng Cầu Giấy đã đâm liên hoàn nhiều phương tiện khiến chị Lê Thị Thu Hà (42 tuổi, Đặng Văn Ngữ, Hà Nội) đang là công nhân quét rác thuộc Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội – Chi nhánh Đống Đa tử vong…

Hoàn cảnh của chị Lê Thị Thu Hà rất đáng thương. Ly thân chồng, chị phải một mình nuôi hai con còn đang ăn học và mẹ già bị bệnh nặng. Gia đình bốn người sống trong căn nhà cấp 4 lụp xụp, lợp ngói dột nát, tường nhà toàn bộ bong tróc, nứt toác. Khi còn sống, chị Hà mong ước có thể sửa sang lại căn nhà cho mẹ và các con nhưng lại ngặt nỗi chẳng có tiền.

Tiền lương từ nghề vệ sinh môi trường không đủ để lo cho các con ăn học nên chị phải làm cả việc khác để kiếm thêm tiền. Hàng ngày, chị đi quét rác đến 2-3h sáng mới về. Chợp mắt được vài tiếng, chị gắng dậy, chạy xe ôm Grab…

Sự việc của chị Lê Thị Thu Hà như một hồi chuông cảnh báo xã hội cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường. Để cho cuộc sống chúng ta sạch đẹp, họ phải đối mặt với nhiều nguy hiểm khi ngày ngày ra giữa đường phố quét rác. Chị Hà không phải người lao công đầu tiên gặp tai nạn giao thông.

Đã có rất nhiều trường hợp tương tự xảy ra khi các công nhân môi trường ra đường lao động để mang lại mỹ quan đô thị cho người dân. Đấy là chưa kể đến những mối tiềm tàng bệnh tật do hàng ngày đối mặt với rác thải độc hại.”

Úy Trời/Đất/Quỉ/Thần ơi! Cái xã hội này có ai dòm ngó gì đến đám phu quét đường bao giờ đâu mà nói “cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường,” cha nội? Ngoài việc “đối mặt với rác thải độc hại” – hằng ngày – họ còn phải gánh chịu biết bao là nỗi tủi nhục và đắng cay khác nữa. Ngày 24 tháng 4 năm 2019, ký giả  Đào Thanh Tuy tường thuật:

“Có lần tận mắt chứng kiến một chiếc ô tô đẹp đi trong ngõ, ngang qua xe phu rác đang đẩy. Xe chậm lại, từ trong xe, một ả hạ kính rồi lẳng ngay chiếc bỉm vàng khè vào xe rác. Bởi xe không dừng hẳn nên cú ném ấy không trúng đích mà trúng đầu phu rác. Uất ức, phu rác chửi. Xe dừng, thằng chồng phi xuống vớ ngay cái xô rác ở gần đó vụt tới tấp vào đầu phu rác. Phu rác chỉ biết thụp xuống ôm mặt khóc.”

Hơn ba tuần sau, báo Pháp Luật (số ra ngày 20 tháng 5 năm 2019) loan tin:

“Một đoạn video xuất hiện trên mạng xã hội, được cho là quay tại Quảng Trị. Theo đó, khi chủ một shop quần áo vứt rác ra đường thì bị một công nhân vệ sinh nhắc nhở, sau đó chủ shop trên đã lao vào hành hung và mắng chửi người công nhân vệ sinh.”

Chả hiểu khi bị “hành hung và mắng chửi” hay bị ném “chiếc bỉm vàng khè vào đầu” (giữa phố đông người) đám phụ nữ đẩy xe rác có ai nghĩ đến lời khuyên của ông Bí Thư Thành Ủy Nguyễn Thiện Nhân không : “Những lúc khó, cực, lúc không hài lòng với công việc, hãy nghĩ tới Bác.”

Bác chính là vị Tổng Bí Thư đầu tiên của ĐCSVN và là tác giả Hồ Chí Minh Toàn Tập. Trong tác phẩm này (bản in lần thứ ba, do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tái bản năm 2011) nơi trang 12 có câu: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.”

Đương kim TBT Nguyễn Phú Trọng lại vừa cập nhật “tình hình” (không mấy lạc quan) như sau : “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” nữa” Chuyện giải phóng phụ nữ ở VN, như thế, đành phải đợi đến … cuối thế kỷ sau vậy!

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Trường Chinh

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

Tôi vừa được đọc một bài viết thú vị (“Kiêu Ngạo Nhận Vơ”) của blogger Hà Hiển, với câu kết khá bất ngờ:

“Từ năm 1954 đến 1975, đúng là ‘ta’ đã chiến thắng được ‘hai đế quốc to’ cùng với được hơn chục nước trên thế giới đã đi theo con đường mà Lê nin đã chọn, tức theo CNCS, từ đó các Cụ nhà mềnh thấy CNCS ‘oách’ quá, cứ đà này cả thế giới gần 200 nước sẽ theo CNCS hết sạch, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin sẽ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác rồi tiến lên giải phóng cả Hoa Kỳ, Ý, Đức, Anh, Pháp… abc… thoát khỏi ách bóc lột của CNTB… Hu hu…!!!

Từ những nguyên nhân trên các Cụ lớn nhà mềnh mới sinh ra thói ‘Kiêu ngạo cộng sản’ tuy không tốt nhưng có cái để …kiêu ngạo, nhưng các cụ nối ngôi sau này chẳng có cái gì lận lưng để mà ‘kiêu ngạo’ cả. Chỉ là ăn theo thôi! Nên đúng là… ‘kiêu ngạo vì những cái không phải của mình’ hay còn gọi là ‘kiêu ngạo cộng sản!’ Sau Cụ Trường Chinh, nếu có thì chỉ là ‘kiêu ngạo nhận vơ!’ mà thôi!”

Nhận xét thượng dẫn về “Cụ Trường Chinh” khiến tôi chợt nhớ đến công trình biên soạn rất công phu (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Tác giả đã dành nguyên một chương (chương 10, tập I) cho ông Trường Chinh, nhân vật được coi là đã đặt nền móng cho chính sách “đổi mới” và được mô tả như một vị thánh tử vì đạo:

“Trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của mình.”

Cách nhìn của những người ngoại đạo, hay đã bỏ đạo (cộng sản) lại hoàn toàn khác:

– Nguyễn Minh Cần: “Sau khi Lê Duẩn chết, Trường Chinh lên làm TBT. Ông vốn là một ‘lãnh tụ’ nổi tiếng ‘giáo điều.’ Ngay cái biệt hiệu của ông cũng nói lên đầu óc sùng bái họ Mao… Cũng trên cương vị TBTĐCSVN, hồi những năm 50, Trường Chinh đã lãnh đạo cuộc cải cách ruộng đất CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức (CĐTC) Ở NÔNG THÔN MIỀN Bắc rập khuôn theo hình mẫu trung quốc đã đem lại vô vàn tai hoạ cho nhân dân.” (Nguyễn Minh Cần. Đảng Cộng Sản Việt Nam. Arlington, VA: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2016).

– Vũ Thư Hiên: “Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp (*) của Roger Garaudy. Đọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và Vấn Đề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh. Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville.

Tiếp đó là sự phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông, trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay …” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. 2sd ed. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1997).

Riêng trong lãnh vực thi ca thì Trường Chinh hoàn toàn không bị tai tiếng gì ráo trọi. Ông sáng tác mình ên, không “mượn” câu chữ nào – nửa chữ cũng không – bất kể là của Tây hoặc của Tầu. Thơ của Trường Chinh, với bút hiệu Sóng Hồng, chỉ có chút khuynh hướng (và hơi hướng) Mạc Tư Khoa thôi:

Hỡi thi sĩ! Hãy vươn mình đứng dậy!
Thời rượu nồng, đệm gấm đã qua rồi.
Thôi thôi đừng khóc gió với than mây,
Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ.
Dùng thi khúc mà lạnh lùng soi tỏ
Những bệnh căn xã hội đã tràn đầy;
Cùng công nông vun xới cuộc tương lai
Đã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ.

(Ngoại thành Hà Nội, tháng 6-1942)

Hơn 40 năm sau, sau khi kêu gọi giới thi sĩ “cùng công nông vun xới cuộc tương lai,” đến năm 1986 (vào lúc cuối đời, chả hiểu sao) bỗng Anh Cả Trường Chinh đổi ý. Ông Tổng Bí Thư đến già mới chợt tỉnh, theo như cách nói của nhà báo Tống Văn Công:

“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày.

Trường Chinh cau mày khó tin – bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế – nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Tiếc rằng ông không “tỉnh” được lâu. Chỉ hai năm sau, năm 1988, Trường Chinh đột ngột từ trần. Thôi thế cũng xong. Cuối cùng, rồi ông cũng thoát. Thoát khỏi cái XHCN do chính ông đã dụng công xây đắp nhưng giai cấp công nhân thì không. Họ kẹt: kẹt lớn, kẹt lắm, và (chắc chắn) sẽ kẹt luôn – nếu chế độ hiện hành vẫn tiếp tục tồn tại.

Báo Vietnamnet ái ngại cho hay: “Lương tối thiểu mới đáp ứng hơn 1/3 nhu cầu tối thiểu.” Và đó là mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, chớ giới công nhân thì còn tệ hơn thế nữa!

Thế họ sống làm sao?

Thưa họ “ăn thịt mình để sống” – như nguyên văn lời Phó Viện Trưởng Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, PGS-TS Lê Bạch Mai:

“Những khảo sát của viện năm đó cho thấy chất lượng bữa ăn của công nhân không khác gì hai chữ “tồi tệ” khi trong khẩu phần ăn chỉ có 12% protein (chất đạm), 16% chất béo…

“Khi năng lượng khẩu phần ăn không đủ thì (cơ thể) phải sử dụng nguồn năng lượng dự trữ của mình. Khi đó khối cơ của người lao động bị bào mòn, bị lấy đi hằng ngày… và họ rơi vào thực trạng ‘như ăn thịt mình …’ Họ chưa chết đói. Nhưng sẽ đói đến lúc chết”.

Bản thân ông Trường Chinh (đôi khi) cũng đói, theo như lời của trưởng nam Đặng Xuân Kỳ – nguyên Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương:

“Ông cụ tôi ra ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (T. Đĩnh, trang 208).

Chung cuộc, may thay, ông Trường Chinh cũng đã cứu được chính mình. Ông qua đời vì tai nạn chứ không phải vì bị đầu độc – như rất nhiều đồng chí khác.

Nghĩa tử là nghĩa tận. Tôi đang không rảnh (lắm) và cũng chả thấy có chút hứng thú gì khi phải đụng chạm gì đến một người… đã chết. Vấn đề, chả qua, vì chẳng đặng đừng – như “lời trăng trối” của triết gia (ngoại đạo) Trần Đức Thảo:

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, để vĩnh viễn không cho phép nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy.

Nạn cộng sản sẽ qua, và sắp qua. Chúng ta khó mà có thể tái thiết đất nước và xây dựng một tương lai ổn định nếu không nhìn cho thật rõ về quá khứ.

– Tưởng Năng Tiến

_______________

(*) Vì thấy nhà văn Vũ Thư Hiên đánh dấu hỏi (?) sau chú thích về cuốn sách của Roger Garaudy nên chúng tôi tìm hiểu thêm, và được biết tên chính xác của tác phẩm là Le communisme et la renaissance de la culture française –Paris, Éditions sociales, 1945 – chứ không phải là Le Marxisme et la Renaissance de la culture Française. Trong cuốn Những Lời Trăng Trối (trang 309) Trần Đức Thảo cho biết là ông được giao trách nhiệm “dịch ngược” tác phẩm Đề Cương Văn Hoá Văn Nghệ Cách Mạng ra Pháp ngữ, và được chính Trường Chinh mời gặp để “bắt tay” cùng với lời cảm ơn.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Về Ngoại

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Người ta bảo sông có khúc, người có lúc. Thế mà, khúc đời nào của Việt Kiều Cambodia cũng nhiêu khê. Thời nào của họ cũng là thời mạt vận.

NgyThanh

Thông tín viên Võ Thành Nhân (SBTN) vừa buồn bã loan tin: nhà báo Lê Văn Phúc đã từ trần vào hôm 7 tháng 8 năm 2020, tại Reston – Virginia. Tác phẩm (Tôi Làm Tôi Mất Nước) đầu tay của ông do Văn Hữu xuất bản năm 1985, và Thế Giới Ấn Quán tái bản – lần thứ 5 – vào năm 1989. Với thị trường sách báo hải ngoại thì đây là một hiện tượng hiếm hoi.

Lê Văn Phúc được nhiều người tìm đọc vì không ít độc giả đã cùng chia sẻ với ông cái cái tâm cảm, hay mặc cảm (mất nước) bàng bạc trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản từ nhiều thập niên qua. Gần đây, tác giả Thụy Khuê vừa gửi đến mọi người một cách tư duy khác, mới mẻ và khoáng đạt hơn, qua tập bút ký (Quê Hương Ngày Trở Lại) xuất bản vào tháng 6 năm 2019:

“Khi miền Nam thua trận năm 1975, nhiều người Việt phải bỏ nước ra đi, không ít người kêu than ‘mất nước’. Kêu như thế là chưa hiểu gì về đất nước: đất nước ta là một tập hợp sông núi, con người, văn hoá và lịch sử ngàn năm, nó có cái vinh quang cũng có cái ô nhục, bởi nó là tổ tiên ta, ta phải gánh tất cả, bởi nó đã ở trong ta, trong dòng máu.

Sinh con, ta tưởng nó là của ta, nhưng không, con ta là của nó. Duy chỉ có đứng trên đất nước, chỗ nào, ta cũng cảm thấy đó là của mình, đất nước là cái sở hữu duy nhất mà con người có được. Đi du lịch, biết bao nhiêu cảnh đẹp thế gian bầy ra trước mắt, nhưng cảnh đó không phải của ta, nó là của người Tầu, của người Pháp, của người Nhật… chỉ có nước Việt là của ta, của mình, miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được thua…

Vì thế, nước không bao giờ mất, chỉ thay đổi chế độ. Nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn không phải là chủ đất nước, họ là những người cai trị đất nước trong một thời đại. Nhìn như thế, ta sẽ thấy lòng an nhiên tự tại, một niềm hãnh diện mở ra tới vô cùng, bóp chết những thương đau, thù hận.”

Nỗi lòng “anh nhiên tự tại” của một vị nữ sỹ (e) khó có thể được chia sẻ bởi tất cả mọi người, nhất là những kẻ đang lâm vào bước đường cùng trong kiếp tha hương.  Lịch sử của một triều đại, hay một chế độ, có thể kéo cả hàng thế kỷ mà kiếp người  thì chỉ tính bằng năm. Không ít những mảnh đời tuy rất ngắn ngủi nhưng đã bị bầm dập đến te tua thì quê cha, hay đất tổ, chỉ là một khái niệm rất mơ hồ và vô cùng mù mịt. Xin ghi lại một:

“Năm 1993, Yến chết thảm ở tuổi 21. Đám tang của Yến diễn ra trong một ngày mùa đông buồn thảm. Cái buồn thảm không giống những nỗi buồn tôi từng chứng kiến trong các đám tang khác khi còn ở Việt Nam.

Lần cuối cùng người ta thấy Yến đi với một gã người Campuchia khoảng một tuần trước. Khách đã thỏa thuận và chi tiền trước với chủ chứa để ‘bao’ Yến trong hai ngày. Nhưng ba, rồi bốn ngày vẫn không thấy Yến về.

Linh tính có điều gì chẳng lành xảy ra với cô nên hai người chị kết nghĩa là Hương và Trầm bỏ tiền nhờ người đi tìm. Để có thêm tiền chi trả việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải ‘làm thêm’, tức là tiếp khách nhiều hơn ngày thường.

Người ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã không còn nguyên vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị vứt ở chân núi Mô Păng. Vì chủ chứa – một mụ đàn bà người Việt có nước da bợt như xác chết, không cho làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm phải đi kiếm gỗ, dựng tạm cho cái chòi tại khu đất trống để có chỗ kê quan tài. Đám tang lèo tèo vài ba người hàng xóm thất nghiệp trong đó có tôi, ngồi dự cho đỡ tủi. Yến có thằng con trai lên bốn tuổi, tên là Hên. Thấy mẹ chết, nó gào khóc, tiếng khóc tôi chưa từng nghe thấy bao giờ:

  • Ụ má mày, mày xí gạt Mày hứa đưa tao về quại mà mày hổng đưa. Mày bỏ tao mày đi. Choi me hặn…hặn tau na… cùm ngợp. (Đù má mày…mày đi đâu… đừng chết.) … Dậy đưa tao về quại!” (Phạm Thanh Nghiên. Chuyện Kể Của Chồng) .

Bà Yến từ trần vào năm 1993 khi Hên mới vừa lên 4. Tính đến năm nay thì cậu bé này đã trở thành một thanh niên ở tuổi ba mươi. Tôi băn khoăn tự hỏi: chả hiểu người người đồng hương trẻ tuổi của mình, nếu vẫn còn sống sót, có còn muốn về quê ngoại?  Và “lỡ” muốn thì đường về liệu có còn lối hay không?

Báo Công An Nhân Dân vừa, số ra ngày 31 tháng 7 năm 2020, vừa đăng tải một bản tin (ngắn ngủi) đọc mà muốn nát lòng:

“Lúc 6h30’ cùng ngày, Tổ công tác của Trạm kiểm soát thuộc Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phối hợp với Chi cục Hải Quan Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phát hiện hàng chục đối tượng (gồm người lớn và trẻ em), di chuyển từ phía Campuchia qua tuyến biên giới tỉnh An Giang, trên 8 thuyền máy.

Tổ công tác tiến hành dừng phương tiện, dẫn giải người, phương tiện về Trạm kiểm soát Biên phòng cửa khẩu quốc tế xác minh, điều tra, làm rõ.

Qua lấy lời khai, được biết có 7 hộ gia đình với 41 khẩu (20 người lớn, 21 trẻ em) sống tại tỉnh Siem Reap và tỉnh Pur Sát (Campuchia). Do hoàn cảnh sống khó khăn nên có ý định trốn về Việt Nam sinh sống tại tỉnh Đồng Tháp và Tây Ninh. Tất cả đều không có giấy tờ hợp pháp, không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương đã tiến hành lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xuất, nhập cảnh trái phép bằng hình thức cảnh cáo đối với 14 đối tượng là chủ hộ gia đình, cho làm cam kết không tái phạm.”

Hoá ra đất nước chỉ “miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được thua…”, nếu kẻ tha hương vẫn có một nơi anh lành (nào khác) để tạm cư và có thể về thăm chơi – đôi ngày – bất cứ lúc nào với passport cùng một mớ ngoại tệ bên mình. Chứ với những kẻ lâm vào bước đường cùng (không có một đồng xu dính túi) thì đất nước và quê hương không có chỗ dành cho họ.

Mất nước – rõ ràng – là thực tại phũ phàng đối với nhiều người, chứ chả phải là chuyện nói theo giọng cường điệu hay nói cho vui miệng thôi đâu.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Phan Thắng Toán

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Giới yêu nhạc Việt, có lẽ, đều đã từng nghe bản nhạc “Tình Lỡ” của Thanh Bình (“Thôi rồi còn đâu chi anh ơi/ Có còn lại chăng dư âm thôi/ Trong cơn thương đau men đắng môi…) nhưng e không nhiều người biết đến tác phẩm “Lá Thư Về Làng” do Lúa Mới phát hành hồi 1956:

Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng
Sắt son gửi trong mấy hàng
Thăm bà con dãi dầu năm tháng
Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang
Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng

Thương những già hôm sớm lang thang

Em thơ ơi có còn học hành sớm tối
Áo nâu tươi gái làng còn che môi cười
Và đàn bò còn nghe chim hót lưng đồi
Nhớ nhung rồi, thương quá lắm bé thơ ơi…

Đám “bé thơ” mà Thanh Bình “nhớ nhung” (hồi giữa thế kỷ trước) nay đều đã trở thành những công dân lão hạng, nếu mà sống sót. Còn tác giả thì qua đời từ lâu, sau một thời gian “hôm sớm lang thang” ngay tại Sài Gòn – một thành phố đã mất tên – nơi mà ông đã tìm đến để lánh nạn khi còn là một thanh niên.

FB Lâm Ái cho biết:

“Ở cái tuổi 80, ít ai tin rằng một nghệ sĩ nổi tiếng nhưng không nhà không cửa, lang thang xin ăn ở chợ, bến xe. Các anh công an đưa ông về trại dưỡng lão thì phát hiện ra là nhạc sĩ Thanh Bình và đưa ông về ở với cháu gái (con gái của chị ruột).

Vợ chồng cháu gái làm công nhân, làm thuê đời sống hết sức khó khăn. Đầu năm nay ca sĩ Ánh Tuyết đã tổ chức đêm nhạc cho ông, chị cũng đã làm được 2 sổ tiết kiệm. Nhưng vì ông đột ngột mất, con gái đang đi tù nên không thể rút được tiền làm đám tang.

Ca sĩ Ánh Tuyết lại là người bên ông, lo cho đám tang của ông. Điều đáng buồn, dù ca sĩ Ánh Tuyết có kêu gọi hỗ trợ nhưng dường như số tiền vẫn không đủ để lo cho đám tang, đành xin quan tài lục giác của chùa để an nghỉ.”

Thôi thế cũng xong!

Cuối cùng, Thanh Bình cũng đã có nơi “an nghỉ” – dù hơi cô quạnh! Bạn đồng nghiệp và đồng thời với ông, lắm kẻ – tiếc thay – đã không có được chút may mắn đó:

“Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình… Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù.

Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần… Vào một buổi sáng năm 1995, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân.” (Hoài Nam. “Bẩy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam 1930 – 2000”).

Sao lại đến nông nỗi thế nhỉ? Chả lẽ chỉ vì Trúc Phương “lỡ dại vượt biên”, và vì Thanh Bình “lỡ chân vượt tuyến” nên mới ra cớ sự chăng?

Không hẳn thế đâu!

Có những kẻ luôn sống ở miền Bắc, không hề di cư hay di tản (lần nào cả) nhưng vẫn phải trải qua một kiếp nhân sinh còn bầm dập/te tua và tơi tả hơn thế nữa. Ông tên là Phan Thắng Toán – biệt danh Toán Xồm –  sinh năm 1932, bị bắt giam từ năm 1968 (vì tội “tuyên truyền văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc”) và đã lìa đời từ lâu.

Bi kịch của cuộc đời Phan Thắng Toán có thể hiểu được – phần nào – qua vài câu đối thoại (hơi hài) do nhạc sỹ Tô Hải ghi lại, trong một phiên tòa tại Hà Nội, vào hôm 12/ 01/1971:

Chánh án: Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi truỵ không?

Toán xồm: Dạ! Thưa quý toà, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hoà Dân Chủ Đức thôi ạ!

Chánh án: Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?

Toán Xồm: Dạ! Paloma là của nước bạn Cu Ba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất Bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sỹ biểu diễn ạ!

Chánh án: Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?

Toán Xồm: Dạ! Có ạ!! Đây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cu Ba ạ!

Chánh án: Thế còn Tango bleu chắc anh cũng đổ cho Cu Ba hết hả?

Toán xồm: Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ác-giăng-tin nhưng đã được quốc tế hoá. Vừa giờ Đoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều xử dụng cả ạ!

Chánh án: Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Đừng có ngụy biện!

Toán Xồm: Dạ! Đánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn… chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!

Chánh án: Anh hãy im miệng! Đồ ngoan cố!Và cứ như vậy, suốt phiên tòa Chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Đồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.

Cuối cùng, toà luận án và tuyên án: “Việc làm của bọn này đã gây ảnh hưởng xấu cho phong trào trật tự trị an, phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách lao động sản xuất, chính sách nghĩa vụ quân sự… xâm phạm nghiêm trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều người, và tuyên truyền xuyên tạc lại chế độ xã hội chủ nghĩa trong lúc cả nước đang chiến đấu chống Mỹ xâm lược.”

“Do tính chất nghiêm trọng của vụ án nói trên, toà quyết định xử phạt Phan Thắng Toán 15 năm tù giam và 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Đắc, 12 năm tù giam và 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Lộc 10 năm tù giam và 4 năm bị tước quyền công dân …” (“Phan Thắng Toán và Đồng Bọn Đã Bị Xét Xử” – báo Hà Nội Mới 12/ 01/1971).

Chơi nhạc Tango, Rumba, Cha Cha Cha … thì có gì mà “nghiêm trọng” đến độ phải ngồi tù lâu dữ vậy, hả Trời?

Mãn hạn tù lại bắt đầu một bi kịch khác:

“Nhà tôi có 5 người chen chúc trong cái phòng 09 m2, thêm anh Toán Xồm nữa là sáu. Thế nên anh cũng không thể tá túc mãi ở chỗ tôi. Anh có mỗi bà chị ruột thì đã di cư vào Sài Gòn trước 1954, ở Hà Nội không còn ai thân thích. Anh Toán Xồm cứ lang thang ‘lãng tử’ nay đây mai đó, lúc màn trời khi chiếu đất.

Cho đến ngày 30/04/1994 … sáng đó là kỷ niệm ngày thống nhất đất nước nên công an phường đi dẹp đường. Họ bắt gặp anh Toán Xồm vạ vật và hấp hối trên vỉa hè, liền cho người báo tin. Nhưng anh chẳng còn ai trong giờ phút lâm chung, chỉ có cái vỉa hè … chứng kiến.”  [Kim Dung – Kỳ Duyên. Cung Đàn Số Phận (Hồi Ký Lộc Vàng). Hội Nhà Văn: Hà Nội, 2018].

Qua năm sau (1995) thì Trúc Phương qua đời tại Sài Gòn, cũng không có ai “chứng kiến” ngoài … “đôi dép nhựa dưới chân.” Tuy kẻ Bắc/người Nam nhưng số phận của cả ba ông, tưởng chừng, chả khác gì nhau?

Tưởng vậy thôi, chớ không phải vậy đâu.

Họ khác chớ và khác lắm!

Tuy sinh cùng thời (và cùng nơi) với Phan Thắng Toán nhưng nhờ di cư vào Nam nên Thanh Bình đã có cơ hội viết được nhiều bản nhạc bất hủ, trước khi cuộc cách mạng vô sản biến ông thành một kẻ trắng tay (rồi) một lão … ăn mày! Trúc Phương cũng thế, ông cũng kịp “để lại cho chúng ta một di sản vô giá” (theo nhận định của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam) rồi mới nằm chết cong queo ngoài bến xe đò.

Còn ở giữa lòng Hà Nội (nơi được mệnh danh là “Thủ Đô Của Lương Tâm & Phẩm Giá Con Người”) thì Toán Xồm chả hề có được chút cơ hội hay cơ may nào sất, và dường như ông không có chi để lại cho đời – dù chỉ là một “đôi dép nhựa”!

Đảng & Dân– Tưởng Năng Tiến

Đảng & Dân

Thỉnh thoảng, báo chí quốc doanh vẫn có mấy mẩu tin ngăn ngắn về Lễ Trao Huy Hiệu Tuổi Đảng cho đồng chí này hay đồng chí nọ. Ngoài Việt Nam, dường như, không đâu có cái thứ “lễ lạt” nhạt nhẽo và chán phèo như thế cả. Xứ sở này, không chừng, cũng dám là nơi duy nhất mà danh tính của một cá nhân luôn kèm theo tuổi … đảng:

  • Nguyễn Thị Bình 75
  • Lê Khả Phiêu 73
  • Lê Đình Kình 58 …

Trong một chế độ đảng trị thì thâm niên tuổi đảng quả là một thành tích đáng kể nhưng đó không phải là một thứ “kim bài miễn tử” (hay miễn tù hoặc miễn bị sách nhiễu/bạo hành) nếu đảng viên đi … trật đường rầy!

RFA cho biết: “Cho đến khi bị Cảnh sát cơ động Hà Nội bắn chết vào ngày 9-1-2020, thủ lĩnh tinh thần của người dân Đồng Tâm, cụ Lê Đình Kình vẫn còn là một đảng viên đảng Cộng sản có hơn 55 năm tuổi đảng.”

Cách đó chưa lâu, vào hôm 15 tháng 4 năm 2017, ông Lê Đình Kình (LĐK) cũng đã bị “hành hung” đến trọng thương và phải nằm nhà thương gần đến chục ngày.

Ủa! Chớ ổng đã phạm phải lỗi lầm gì mà Đảng xuống tay (và nặng tay) dữ vậy cà?

Chuyện cũng hơi dài dòng nhưng không có chi là khó hiểu. Tuy là một đảng viên lão thành nhưng LĐK không “nhất trí” với đường lối và chủ trương (“Đất đai tuy thuộc sở hữu toàn dân nhưng do Nhà nước quản lý) của Đảng. Đã thế, sau khi bị hành hung đến độ phải nhập viện vì cái quan niệm (“trật lất”) của mình, ông vẫn thản nhiên tuyên bố: “Các anh có đưa máy chém chém ngay đầu tôi đi chăng nữa, thì tôi vẫn giữ quan điểm đây là đất nông nghiệp của xã Đồng Tâm.”

Nói năng linh tinh như thế, dưới chế độ hiện hành, là một cách vời họa vào thân. Họa vốn “vô đơn chí” nên chả phải tìm kiếm đâu xa mà ngay chính người dân địa phương đã vô tình đón (và đưa) ông LĐK vào … cửa tử.

Báo Tuổi Trẻ đi tin: “Sau 10 ngày điều trị tại Bệnh viện Việt Đức do bị gãy xương đùi, chiều 2-5, cụ Lê Đình Kình đã được đưa về với gia đình tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội… rất đông người dân Đồng Tâm đã xếp hàng dài từ ngoài đường làng đến trước cổng nhà cụ Lê Đình Kình để chào đón cụ Kình trở về.”

Nếu đám đông đừng “mừng đến rơi nước mắt” khi LĐK được xuất viện, và đừng tôn vinh nhân vật này là “thủ lãnh tinh thần” thì chưa chắc lão nông phu chân chất của xã Đồng Tâm đã bị thảm sát, và thảm họa cũng đã không xẩy ra cho cả gia tộc của ông.

Tại Việt Nam, “các đồng chí ở trên” không chỉ toàn quyền trong chuyện lãnh đạo mà họ còn độc quyền làm lãnh tụ nữa cơ. Với chủ trương toàn trị, họ không thể dung thứ cho bất cứ một loại “thủ lãnh tinh thần” nào sất. Cỡ chủ tịch xã nghỉ hưu mà được đám đông dân chúng công kênh, hoan hô (vì thái độ bất tuân) thì buộc phải bị loại thôi. Ông bị sát hại bằng súng tại nhà vào hôm 9 tháng 1 năm 2020.

Cái chết của ông khiến cho không ít kẻ bàng hoàng, và lắm người đã rơi nước mắt. Nhà thơ Bùi Chí Vinh cảm thán:

Tru di ta viết một bài hành

Chuyện xưa giờ tái hiện sử xanh

Đồng Tâm có cụ Kình giữ đất

Chẳng ai ngờ bụng rạch, thây phanh

Hai con án chết đầy oan khốc

Một cháu chung thân xử rành rành …

Vụ bà Lê Thị Dung, một đảng viên khác (Bí Thư Chi Bộ Trung Tâm Giáo Dục Huyện Hưng Nguyên) thì hơi khác. Báo Tuổi Trẻ, đọc được hôm 13 tháng 6 năm 2023, cho hay:

Sau hai ngày xét xử, chiều 13-6 hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh Nghệ An đã tuyên phạt bị cáo Lê Thị Dung mức án 15 tháng tù về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ…   

HĐXX nhận định tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Dung mức án 5 năm tù là quá nghiêm khắc, do số tiền bị cáo hưởng lợi (gần 45 triệu đồng) là không lớn, nhân thân bị cáo tốt, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Việc cấp sơ thẩm chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo Dung là áp dụng thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.

HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Dung 15 tháng tù, tính từ ngày bị bắt giam 28-3-2022 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ. Như vậy, cuối tháng 6-2023, bà Dung sẽ chấp hành xong án phạt. Trước đó, trong phiên tòa sơ thẩm, cô Lê Thị Dung bị tuyên mức án 5 năm tù.”

Tuy HĐXX đã “rút kinh nghiệm” và cũng hết sức quan tâm đến “các tình tiết giảm nhẹ” nhưng bản án 15 tháng tù – xem chừng – vẫn cứ khiến cho lòng người sôi sục:

  • Ngô Trường An : “Không được! Tòa phải tuyên vô tội thả ngay cô Dung tại tòa, xin lỗi và bồi thường.”
  • Nguyễn Vũ Bình: “Đây là một trường hợp vô cùng thú vị để nghiên cứu về một hệ thống khuyết tật bao gồm những con người khuyết tật hãm hại một người trung thực, thẳng thắn và không có bất kỳ một tỳ vết gì.”
  • Đoàn Bảo Châu : “Tôi tin rằng phiên toà phúc thẩm vừa diễn ra là một phiên toà RÁCH NÁT. Muốn xoa xuýt dư luận, hạ nhiệt bức xúc nhưng không đủ dũng cảm và phục thiện để tuyên bố vô tội.”
  • Thái Hạo: Tôi tin, không một người có lương tri nào có thể kìm được nước mắt vì sự phẫn nộ, đau xót, bất lực của mình khi nghe những gì cả một bộ máy đã làm với một người vô tội.
  • Chu Vĩnh Hải: Cô giáo Lê Thị Dung ở Nghệ An vô tội! Công lý là công minh chứ không phải để ban phát!
  • Vũ Tuân: “Từ 60 tháng tù giảm xuống 15 tháng. Công Lý là tên hề nổi tiếng.”
  • Trần Thị Thảo: “Mặc dù giảm xuống còn 15 tháng nhưng vẫn thấy rừng rú thế nào ấy.”
  • Nguyễn Thông: “Vụ xử sơ thẩm và phúc thẩm đối với cô Dung chả khác gì trò đùa, với đủ trò mưu mẹo dấm dúi và trắng trợn. Pháp luật trong tay kẻ tiểu nhân cai trị chỉ là trò đùa dai của vở diễn hài nhân danh công lý.”
  • Nguyễn Khanh: “Chán nhỉ!”

Tôi thì trộm nghĩ khác (“khó nhỉ!”) nhưng chỉ dám nghĩ thầm thế thôi vì sợ gạch đá tứ phương. Nói gần nói xa, chả qua nói thực thì được vậy cũng “tử tế” lắm rồi. “Pháp luật đang trong tay những kẻ tiểu nhân” mà từ sơ thẩm đến chung thẩm bản án đã giảm được tới ba phần tư rồi, chớ đâu phải ít.

Dù cũng chả hả hê chi về phiên toà thượng dẫn nhưng đi tính lại tôi bỗng bật tiếng cười (vui) khi nhớ đến đôi lời đàm tiếu, nghe được ngay sau khi Việt Nam vừa được vào W.T.O:

  • Blogger Ôsin: “Thật nực cười khi, chỉ khi chịu sức ép của ‘các nước tư bản’, ‘đảng của giai cấp công nhân’ mới (có thể) thừa nhận các quyền căn bản của công nhân.”
  • Blogger Nguyễn Vạn Phú: “Điều mỉa mai là Việt Nam phải trông chờ vào một hiệp định ký với các nước tư bản để các nước tư bản này gây sức ép buộc Việt Nam phải bảo vệ công nhân của mình, không để giới chủ bóc lột quá đáng!”

Còn điều “nực cười” và “mỉa mai” trong vụ án vừa qua là nếu không có sức ép của đồng bào thì các đồng chí ở Nghệ An đã “xử đẹp” bà Bí Thư Chi Bộ (Trung Tâm Giáo Dục Huyện Hưng Nguyên) rồi. Tuy không đến nỗi bị phanh thây, xẻ ngực và lãnh án chu di tam tộc như trường hợp của ông Lê Đình Kình nhưng bà Lê Thị Dung cũng rũ tù – dù vô tội.

Tình đồng chí của đảng CSVN, rõ ràng, không chỉ đáng kinh mà còn đáng tởm nữa. Từ trung ương đến địa phương chúng đều bất nhân, bất nghĩa, bất tín như thế cả. Sự tàn ác của Đảng, xem ra, chả từ bất cứ ai – kể cả cái đám đảng viên lau nhau của nó.

Đôi khi, tôi băn khoăn tự hỏi: Sao hà khắc, bạo ngược (và trơ tráo) đến vậy mà cái Đảng ôn dịch CS vẫn tiếp tục cầm quyền ở Việt Nam gần cả thế kỷ qua? Chả lẽ vì dân tộc này đã quá quen với bạo ngược và hà khắc của chế độ hiện hành nên không còn mấy ai quan tâm gì đến công bằng, công đạo, công lý tâm, và công tâm nữa?

TNT

– Tưởng Năng Tiến

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tien – Một chút tình riêng về miền sơn cước

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Chẳng hiểu em nói cái gì
nhìn môi một cụm xuân thì cũng thương
em xinh như đóa hướng dương
mọc hoang theo lối về buôn bản nghèo (H’na Cô Gái Tây Nguyên – PTN)

 Tác giả những câu thơ vừa dẫn, thi sĩ Phan Ni Tấn, là một người vô cùng may mắn. Vô số kẻ đã đến miền sơn cước nhưng có lẽ chỉ riêng mình thằng chả là có mối duyên tình với nàng sơn nữ (”xinh như một đóa hướng dương”) dù rằng hai bên bất đồng ngôn ngữ.

Tôi biết một nhân vật khác, cũng lặn lội lên đến cao nguyên, và đến nơi rất sớm nhưng không có cái diễm phúc tương tự. Ông tên là Văn Trí, người viết bản nhạc Hoài Thu (“Mùa thu năm ấy / Trên đường đến miền Cao nguyên …) vào năm 1951.

Ðà Lạt (ở thời điểm này) theo như lời mô tả của tác giả là một nơi “núi rừng thâm xuyên,” với những “bầy nai ngơ ngác, lá vàng rơi đầy miên man,” và… chấm hết! Tuyệt nhiên, không hề thấy bóng dáng bất cứ một cô sơn nữ nào ráo trọi!

Tôi ra đời sau tác phẩm Hoài Thu và dưới một ngôi sao xấu. Dù sinh trưởng ở miền sơn cước, tôi chưa bao giờ có hân hạnh được trao (hay nhận) những lời yêu thương đến cô gái H’ Na – như Phan Ni Tấn. Tương tư suông, nghĩa là yêu đơn phương, cũng miễn có luôn.

Tôi cũng không được cái vinh dự nhìn thấy nét man dại, trinh nguyên của một vùng đất mới như ông Văn Trí. Sự hoang dã của cao nguyên Lâm Viên, đối với những kẻ sinh sau đẻ muộn như tôi (có chăng) chỉ còn là dư âm – qua những câu chuyện kể – đại khái như:

– “Hồi đó, ở Ðà Lạt, cọp thiếu mẹ gì. Nhiều bữa, con nít đang lơn tơn đến trường bỗng thấy mấy ông cọp bự nằm chơi phơi nắng. Vậy là đám lật đật nín thở, nhè nhẹ quay lưng, và chầm chậm… đi về.”

Khoẻ!

Sự gần gũi (giữa cọp và người) như thế – tiếc thay – không kéo dài luôn, và cũng chả kéo dài lâu. Trong những tháng ngày thơ ấu, mỗi sáng đi học, tôi đều cầu nguyện và van xin (Phật, Chúa,Thánh, Thần…) để được nhìn thấy vài ông cọp bự  – cũng đang ngồi chơi phơi nắng giữa đường – như “những ngày xưa thân ái” đó.

Dù tôi hết sức chí tình, sự khẩn cầu này – tiếc thay – chưa bao giờ ứng nghiệm. Lòng tin của tôi vào các đấng thiêng liêng giảm sút (không ngừng) kể từ thưở ấy.

Khi tôi được “bế” lên Ðà Lạt, vào giữa thập niên 1950, thành phố này đã bị đô thị hóa.Voi, cọp, heo, beo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, chồn… không còn chung sống với người. Người Thượng (nói chung) và những cô sơn nữ (nói riêng) cũng không mấy khi xuất hiện trên đường phố. Họ ở cách xa, nơi những bản làng heo hút.

Văn hóa miền núi, tất nhiên, có nhiều nét dị biệt với miền xuôi; do đó, trong giao tiếp giữa người Thượng và người Kinh (đôi lúc) đã có những hiểu lầm vô cùng đáng tiếc!

Thuở ấu thơ, tôi đã có lần chứng kiến cảnh một chàng thanh niên từ miền sơn cước xuống chợ miền xuôi, và bị “tiếng sét ái tình” với một cô gái bán hàng. Chàng đứng ngẩn ngơ, chân không thể bước. Trước tình huống đó, có người buột miệng nói đùa:

– Người Kinh không có “bắt chồng” như người Thượng đâu. Muốn “bắt vợ” thì tuần trăng sau phải mang hai con trâu tới đây mới được.

Chàng trai miền núi mừng rỡ gật đầu, hăm hở quay về. Không hiểu phải qua bao nhiêu đường đất, và gặp bao nhiêu khó khăn ở thôn bản của mình nhưng đúng hẹn chàng trở lại. Nhác trông thấy người xưa – dắt theo hai con trâu, như giao ước –  cô gái vội vàng bỏ trốn!

Chờ hoài không thấy cố nhân, chàng thẫn thờ (mãi) rồi lặng lẽ dắt trâu đi. Một chuyện tình buồn thảm thiết như thế mà khi kể xong vẫn có người cười. Nói thiệt: sao tôi cười… không nổi! Cách đùa cợt đó, ngay từ khi còn bé, tôi đã cảm thấy có cái gì rất là không ổn. Sau này, lúc đã cắp sách đến trường, cũng đã có lần tôi suýt khóc khi đọc một câu thơ trào phúng:

Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe!

Tú Xương sinh năm 1870 và mất năm 1907. Câu thơ (thượng dẫn) có thể được viết từ cuối thế kỷ XIX. Vào thời điểm này, khi mà mọi phương tiện truyền thông và giao thông đều vô cùng giới hạn nên cách nhìn lệch lạc của thi sĩ về một người đồng bào miền núi – tôi cố nghĩ – có thể thông cảm được.

Đến đầu thế kỷ XXI, theo bài viết về “Mọi” của Duy Ngọc (đọc được trên talawas) thì tình cảm của người Việt đối với “những đồng bào thuộc sắc tộc ít người’ (hoàn toàn) không có gì thay đổi: “Thử lên Tây Nguyên sống vài tháng sẽ thấy cái nhìn kỳ thị như thế trong rất nhiều người Kinh đối với các cộng đồng người dân tộc thiểu số vẫn còn nặng nề như thế nào.”

Khỏi phải “thử lên Tây Nguyên sống vài tháng” làm chi, cho má nó khi. Cứ ngồi nhà google vài chữ – “thằng mọi, thằng mán, thằng mường” – là sẽ tìm được vô số định kiến vô cùng đáng tiếc. Tự thâm tâm, có lẽ, những người thuộc dân tộc Kinh ở Việt Nam chưa bao giờ coi đồng bào Thượng là đồng bào (thiệt) cả.

Bà Tòng Thị Phóng (khi còn là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương) cũng đã lớn tiếng kêu gọi:

Quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây; tăng cường cơ sở khám bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian; từng bước ngăn chận tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số.”

Bà Phóng (cũng) nói cho nó đã miệng vậy thôi chớ sáu năm sau, theo báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới thì “các sắc dân thiểu số ở Việt Nam có tỉ lệ người nghèo cao hơn 5 lần tỉ lệ của người Kinh.”

Cách đây chưa lâu báo Tiền Phong cũng (buồn bã) loan tin: “THPT Đinh Tiên Hoàng nằm sâu trong hẻm núi xã Sơn Dung, huyện Sơn Tây, nơi phần lớn là người dân tộc K’dong sinh sống, cách thành phố Quảng Ngãi hơn 100 km, không có học sinh nào đậu tốt nghiệp trong kỳ thi vừa qua.”

Nguyên do, theo lời của thầy hiêu trưởng Nguyễn Hải Thịnh: “Đây là hệ quả tất yếu của một hệ thống đào tạo có chất lượng thấp.” Nói cách khác là “gạo nào cơm nấy,” thế thôi.

Còn ông Phạm Tấn Hoàng, chủ tịch UBND huyện, cho biết thêm: “Sơn Tây có 6/6 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, tỉ lệ nghèo đói còn 78% trên tổng số 3.706 hộ. Do địa bàn cách trở giao thông, điều kiện kinh tế học sinh khó khăn, nơi ăn ở cho học sinh chưa có nên các em không an tâm học tập.”

An tâm gì nổi, hả Trời! Đời sống có những ưu tiên sắp sẵn: ăn – mặc, ăn – học. Cơm áo lo chưa xong, nói chi đến học – mấy cha?

Theo tường trình của Ủy ban Dân tộc thì “người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu chỉ  còn lại… vài trăm!” Nhà văn Nguyên Ngọc, trong bài “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” cho biết thêm: “Người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80…”

Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc bản địa tự ngàn xưa. Với cuộc sống đơn giản và hài hoà với thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước.  Cũng chính họ là những tuyến đầu, và là vòng đai an ninh cho tố quốc. Cớ sao toàn Đảng (cũng như toàn dân) tỏ thái độ khinh thị, và cương quyết tìm mọi cách đẩy họ đến bước đường cùng như thế?

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. Văn Nghệ: California 2000).

“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (xem chừng) đang sắp sửa muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng tệ hại hơn!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Báo chí cách mạng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

 

Bác sỹ Tom Dooley qua đời năm 1961. Mãi đến vài chục năm sau, tôi mới biết đến tác phẩm đầu tay của ông (Deliver Us from Evil) do Farrar, Straus & Cudahy xuất bản từ 1956. Đây là một tập bút ký, có hình ảnh minh hoạ đính kèm, về cuộc di cư ồ ạt (vào giữa thế kỷ trước) của hằng triệu người dân Việt. Họ ra đi chỉ với hành trang duy nhất là niềm tin vào tình người, và không khí tự do, ở bên kia vỹ tuyến.

Rồi họ đã được tiếp đón, hoà nhập và sinh sống ra sao nơi miền đất mới? Câu trả lời có thể tìm được – phần nào – qua một tác phẩm khác (Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố) của Phạm Công Luận, do Hội Nhà Văn xuất bản năm 2013. Xin trích dẫn đôi ba đoạn ngắn:

“Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ miền Bắc chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê hương mới. Tuy nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao khó khăn để hòa nhập vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới năm 1954 đã làm một chuỗi phóng sự hồi mới vào của các văn nghệ sĩ, có nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm về những gì họ đã gặp.

Nhà văn Thượng Sỹ, một nhà văn nổi danh từ thời tiền chiến mà trong cuốn Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia đình ông vào Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và chị giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, tên tuổi từng nổi tiếng là nhà phê bình văn chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu…

 Một bữa, ra chợ mua đồ, bà vợ ông gặp một chị không quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay: ‘Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu’. Cả nhà lại đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò Vấp. Ông bà chủ nhà đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống cống xi măng.

Ông bà nói ngay với khách lạ :‘Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!’ Bà chủ còn nói là bà không lấy một xu nhỏ.

Gia đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt của ông bà chủ nhà nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ nhà nói lên điều xuất phát từ đáy lòng : ‘Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”

Sau này, nhà văn Thượng Sỹ nói với tác giả bài tường thuật thượng dẫn : ‘Tôi cứ tưởng sảy nhà ra thất nghiệp… nào ngờ tôi lại hai lần ‘sa’ vào hai cảnh gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt…”

“Các anh” trong câu văn thượng dẫn – tất nhiên – là những nhà báo miền Nam, những người mà độc giả dù có phải “nhịn ăn mà giúp” vẫn cảm thấy “vui lòng” vì họ luôn đứng về phía những người cô thế. Miền Bắc cũng không thiếu những người cầm bút với quan niệm tương tự:

Tam Lang viết Tôi Kéo Xe năm 1932, Ngô Tất Tố sáng tác Tắt Đèn năm 1937, Nguyên Hồng xuất bản Bỉ Vỏ năm1938. Tác phẩm Con Trâu của Trần Tiêu đăng từng kỳ trên báo “Ngày Nay” từ số 140 (ra ngày 10/12/1938) trước khi được in thành sách, vào năm 1940.

“Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ‘Sắc lệnh về chế độ báo chí’, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013). Bắt đầu từ đây thì sách báo hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, và những người cầm bút buộc phải đứng cùng phe với những kẻ cầm quyền.

Ngày 21 tháng 1 năm 1960, hai công dân Việt Nam (Nguyễn Hữu Đang và Thụy An) bị kết án 15 năm tù vì tội “phá hoại chính trị” và “làm gián điệp” bởi Toà Án Nhân Dân Hà Nội. Vì đây là một phiên “toà kín” nên không ai biết hai nhân vật này đã “phá hoại chính trị” ra sao, và đã “làm gián điệp” cho “thế lực thù địch” nào – ngoài những người làm báo:

  • Báo Thời Mới(21/01/1960): Năm tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội …Nguyễn Hữu Đang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân 5 năm sau khi hết hạn giam”.
  • Báo Nhân dân (21/01/1960): Trước tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi của chúng.
  • Báo Thủ đô Hà Nội ( 21/01/1960): Tên Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Báo Nhân văn có tính chất chính trị ngay từ số 1. Mục đích của tờ báo là khích động quần chúng cùng với chúng tôi chống lại lãnh đạo”.
  • Báo Văn học (05/02/1960): Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Tư tưởng của chúng tôi là phản động nên chúng tôi ra tờ báo Nhân văn để chống đối lãnh đạo, kích động quần chúng làm áp lực đấu tranh”. Ngoài báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang còn dùng nhà xuất bản Minh Đức làm một công cụ để chống cách mạng. Y cung khai:“Tôi đã biến nhà xuất bản Minh Đức thành một công cụ chống lãnh đạo.”

 

Không phải là vô cớ mà nhà văn Võ Thị Hảo kết luận : “Cấm báo chí tư nhân là tội ác.” Sự “ác độc” này được duy trì và nuôi dưỡng xuyên suốt gần hai phần ba thế kỷ qua :

  • Ngày 29/11/2006, T.T. Nguyễn Tấn Dũng ban hành chỉ thị 37/2006 kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức.
  • Ngày 3/4/2019, T.T. Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 362/QĐ quy định báo chí là phương tiện thông tin, quan trọng đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Cái cách mà Đảng và Nhà Nước xử dụng “công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng” từ hơn nửa thế kỷ qua, xem ra, đã trở thành thảm họa :

  • S. Tuấn Khanh: “Cũng cần có lúc, các nhà nghiên cứu về lịch sử nên đặt lại câu hỏi, vì sao ngày 21-6 hàng năm, được gọi là ngày Báo chí Việt Nam, chứ không phải gọi đúng tên là ngày báo chí của đảng Cộng sản Việt Nam?
  • FB Huynh Ngoc Chenh: “Người cộng sản rất tự hào mình là cộng sản tại sao nền báo chí của đảng không mang đúng tên lại phải lấp liếm qua thành báo chí cách mạng?”
  • Nhà báo Phan Anh: “Báo chí nước ta nó đã băng hoại tới mức độ không thể cứu vãn nổi, và nhiều kẻ điều hành nó cũng như những kẻ tham gia đóng góp cho nó đa phần là một lũ vừa ngu dốt vừa vô liêm sỉ đến cùng cực…”

Ông có nói quá chăng?

Câu trả ‘lời’ có thể tìm được qua tiêu đề của dăm/bẩy bản tin, xuất hiện trên “làng báo  cách mạng” vào những ngày tháng gần đây :

Tuổi Trẻ & Thanh Niên sa đọa tới cỡ đó lận sao? Cái được mệnh danh là những “nhà báo cách mạng”, hiện nay, chả lẽ chỉ rặt là một phường vô lại?



 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chim hót ngoài lồng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Trong ký ức thơ ấu của tôi, Đà Lạt không phải là nơi có nhiều chim chóc. Ngoài những bầy sẻ ríu rít đón chào nắng sớm trên mái ngói, và những đàn én bay lượn khắp nơi vào lúc hoàng hôn – thỉnh thoảng – tôi mới nhìn thấy vài chú sáo lò cò giữa sân trường vắng, hay một con chàng làng lẻ loi (và trầm ngâm) trên cọc hàng rào.

Chào mào tuy hơi nhiều nhưng chỉ ồn ào tụ họp, giữa những cành lá rậm ri, khi đã vào hè và trái mai (anh đào) cũng đà chín mọng. Họa hoằn mới thấy được thấy đôi ba con chim lạ, đỏ/vàng rực rỡ (chả biết tên chi) xa tít trên những cành cây cao ngất, giữa đồi thông vi vút.

Ở California thì chim chóc nhiều hơn, và cũng dạn dĩ hơn. Tiếc vì vốn liếng tiếng Anh giới hạn (và cơ hội tiếp xúc với thiên nhiên cũng thế) nên tôi chỉ gọi tên được dăm ba loại chim thôi: robin, blue bird, hummingbird, mockingbirdhouse sparrow – sẻ nhà. Nơi đâu có người là có chim se sẻ, tiếng kêu gần gũi thân quen của chúng vào lúc chiều tàn – ở bất cứ phương nao – cũng đều khiến cho tôi cảm thấy được an ủi (phần nào) trong suốt những tháng ngày lưu lạc.

Mãi cho đến những năm gần đây (khi không còn phải bận bịu với chuyện áo cơm) tôi mới có dịp tìm biết thêm ít/nhiều về thế giới của loài chim, qua những tập phim tài liệu, và qua ống kính của giới birder (hay con gọi là birdwathcher) chuyên nghiệp tự quê nhà.

Hôm đầu năm nay, người ngắm chim Huynh Ngoc Chenh mới trình làng một chú Sơn Ca (trông) rất bảnh.

Bên dưới bức ảnh là lời bình của FB Nghiem Vietanh:

“Sơn ca có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ theo địa phương, như chiền chiện; Huế gọi là Cà lơi; Quảng Nam, Quảng Ngãi gọi là Chà chiện, ở bãi sông Hồng còn một loại nữa cũng giống sơn ca nhưng nhỏ hơn và không biết hót, à con sẻ mía. Con của ông Chênh, bắc cờ kêu chiền chiện, con này cũng hót nhưng chỉ hót khi chúng bay trên không trung, nuôi trong lồng chúng không hót …”

Tôi nghe tên Sơn Ca từ khi còn thơ ấu nhưng mãi đến nay mới được thấy hình, và được biết thêm đôi điều lạ lẫm: “Bắc cờ kêu chiền chiện, con này cũng hót nhưng chỉ hót khi chúng bay trên không trung, nuôi trong lồng chúng không hót …”

Hay nhỉ?

Hoá ra có những con chim không hót trong lồng! Chi tiết thú vị này khiến tôi nhớ đến những dòng chữ của Huy Đức trong Bên Thắng Cuộc:

Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký “Sắc lệnh về chế độ báo chí”, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp… Ngày 5-6-1958, dưới sự chủ trì của Tố Hữu, “800 văn nghệ sỹ” đã ký vào một nghị quyết “hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày 7-7-1958 Ban Chấp hành Hội Nhà văn ra thông báo “kỷ luật nhóm Nhân Văn” ….

Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những ngày “khôn ngoan không dám làm người”. Phần lớn các nạn nhân, vốn là những văn nhân tài hoa, đều phải cúi đầu, tự mình viết bài xỉ vả mình. Họ được ở lại Hà Nội và sau một thời gian lao động phần lớn được trở lại hành nghề. Cũng có những nhà văn, nhà thơ bỏ về rừng như Hữu Loan, Nguyên Hồng. Nhưng, cái giá mà họ và gia đình họ phải trả là vô cùng đau đớn.

Tôi có đọc “Lời Tự Thuật Của Hữu Loan” nên cũng biết qua về “cái giá” mà nhà thơ và cả gia đình phải trả cho quyết định “về rừng” của ông. Kể thì “đau đớn” và khốn nạn thật nhưng vẫn chưa đến nỗi nào, nếu so với tình cảnh của nhiều người cầm cầm bút độc lập hiện nay. Xin ghi lại đôi ba trường hợp.

Trương Duy Nhất sinh năm 1964, bắt đầu viết báo từ năm1987. Đến năm 2011, ông đột nhiên tuyên bố “nghỉ báo viết blog để viết theo lẽ phải!” Nói cách khác, và nói theo cách riêng của TDN, là ông ngang nhiên ra khỏi cái “Hợp Tác Xã Tư Tưởng” của Đảng và Nhà Nước VN.

Tôi không hiểu –  vào thế kỷ trước, ở miền Bắc – khi một nông dân bỏ Hợp Tác Xã Nông Nghiệp thì sẽ bị trừng phạt ra sao nhưng thấy cái giá mà TDN phải trả hiện nay thì cay nghiệt quá, “một đòn thù chính trị đê hèn”: hai cái án tù, tổng cộng là 12 năm chẵn. Cả hai vụ án này – chắc chắn – đã không xẩy ra, nếu bạn Nhất vẫn chịu hót… trong lồng!

Trường hợp chia tay với làng báo quốc doanh của Đoan Trang thì hơi khác, nhẹ nhàng và kín đáo hơn. Nhân vật này lặng lẽ rời bỏ cái Hợp Tác Xã Tư Tưởng VN không một lời tuyên bố hay tuyên ngôn gì ráo. Tuy thế, cái giá mà ĐT phải trả – xem ra – cũng không rẻ lắm. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho RFA, vào hôm 5 tháng 3 năm 2020, cô cho biết:

“Từ khi tôi trở về nước vào năm 2015, về được 3 tháng thì tôi bị công an tấn công trong một cuộc tuần hành cây xanh, chấn thương 2 chân. Sau liveshow ca sĩ Nguyễn Tín năm 2018 thì tôi bị chấn thương ở tay. Sức khỏe của tôi gần như xuống dốc không phanh nên tôi không biết còn chịu được bao lâu.”

Nói tóm lại và nói cho chính xác là ĐT chỉ bị truy sát và truy lùng thôi chứ chưa mất mạng và (cuối cùng) thì chỉ bị tù thôi .

Phạm Chí Dũng, Chủ Tịch Hội Nhà Báo Độc Lập, cũng thế!

Năm 2012 ông bị bắt khẩn cấp vì bị tình nghi biên soạn tài liệu “nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.” Qua năm 2019, ông lại bị khởi tố và bắt giam lần nữa với cáo buộc là đã “đăng 63 bài báo xuyên tạc sự thật, kích động các cá nhân trỗi dậy và lật đổ chính quyền nhân dân, kích động hận thù và cực đoan, đánh lừa mọi người về tình hình kinh tế xã hội nhằm mục đích gây lo lắng công cộng và bất ổn xã hội.”

Tuy không rành rẽ về bói toán hay lý số, tôi vẫn có thể đoán (chắc) được rằng lòng bàn tay của ông Chủ Tịch Hội Nhà Báo Độc Lập có đường tù ngục vì đường này cũng có thể thấy ngay được qua cái chức vụ của ông. Cái gì chứ Độc Lập với Tự Do là “hai món” mà đám cầm quyền ở VN hiện nay tối kỵ (họ nuốt không trôi) nên PCD vướng vòng lao lý là chuyện tất nhiên.

Sau P.C.D đến lượt Phạm Thành, nguyên Phó Trưởng Phòng Đài Phát Thanh Tiếng Nói Việt Nam, vừa bị “tó” tại nhà, với cáo buộc là đã vi phạm Điều 117 Bộ Luật Hình Sự. Điều này có khoản ghi rõ như sau:

“Người phạm tội có hành vi làm ra, tạo ra, xác lập thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân … tạo ra hình ảnh méo mó, phản cảm, sai lệch về việc làm, hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị…”

BBC, nghe được vào hôm 22 tháng 5 năm 2020 ái ngại loan tin:

Blogger ‘Bà Đầm Xòe’, cây bút chỉ trích TBT Nguyễn Phú Trọng bị bắt Cuốn sách “Nguyễn Phú Trọng: Thế thiên hành đạo hay Đại nghịch bất đạo” do ông tự xuất bản năm 2019 đã gây xôn xao dư luận. Nội dung chính cuốn sách “ngoài luồng” này tập trung vào thái độ và hành động của ông Nguyễn Phú Trọng trước Trung Quốc… Trước đó, ông từng tự xuất bản một số cuốn sách khác như “Hậu Chí Phèo”, “Nền Kinh tế Thị trường Định hướng XHCN Xuống hố cả lũ.”

Phen này Phạm Thành chắc chết, chết chắc, với Đảng và Nhà Nước ta chứ chả phải bỡn đâu!

Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những ngày “khôn ngoan không dám làm người.” Xét ra thì thời kỳ “hậu đổi mới” còn ti tiện và tàn tệ hơn nhiều. Dân Việt, tuy thế, vẫn chưa bao giờ thiếu vắng những nhân vật cầm bút vẫn nhất định làm người. Xin chân thành cảm ơn qúi vị.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Phiên bản tình yêu

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Tôi mới lần ra danh sách bộ chính trị đảng CSVN từ 1951-1960. Đó là Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, và Lê Văn Lương. Phạm Văn Đồng chỉ là nhân vật hàng thứ sáu, chỉ bậc trung thôi… Án chung không thể tội riêng, một mình Phạm Văn Đồng mà dám qua mặt chủ tịch Hồ Chí Minh a? Dám qua mặt đảng Cộng Sản a?

Vũ Điện Biền

Tôi (trộm) nghe nói rằng quân tử ba ngày mà không đọc sách thì diện mạo dơ dáng, và trò chuyện khó nghe. Tôi vốn bẩm sinh mặt mũi không mấy dễ coi, và chuyện trò vô cùng nhạt nhẽo nên (lắm khi) đến vài ba năm cũng chả nhìn đến một cuốn sách nào mà vẫn cứ sống phây phây – chả có (trăng) sao gì ráo trọi.

Tháng trước, tôi được nhà xuất bản Tiếng Quê Hương gửi cho một bộ sách to đùng, dầy hơn ngàn trang (thấy mà ớn chè đậu) tựa là Phiên Bản Tình Yêu (*). Bìa trước và bìa sau đều có hình của hai phụ nữ khỏa thân, và trông (hơi) gợi dục!

Tên tác giả (Vũ Biện Điền) lại hoàn toàn xa lạ. Trong tình yêu, cũng như tình dục, tôi rất ngại chuyện “phiêu lưu” nên lẳng lặng đẩy luôn cái “của nợ” trông rất “ướt át” này vào một góc! Tuần rồi, chả may, giáp mặt người tặng sách – nhà báo Uyên Thao:

– Cậu nghĩ sao về cuốn Phiên Bản Tình Yêu của Vũ Biện Điền?

Tôi đỏ mặt, ấp úng:

– Dạ, em chưa đọc chữ nào.

Dù không nghe nhưng tôi cảm được một tiếng thở dài (cố nén) của người đối diện. Với đôi chút áy náy, ngay tối hôm ấy, tôi đọc hơn bốn trăm trang sách. Sáng hôm sau, cáo bệnh, nằm nhà “chơi” luôn hơn bẩy trăm trang nữa với rất nhiều ngạc nhiên và thích thú.

Mấy thế hệ người Việt liên tiếp vừa qua, ít nhiều, đều là nạn nhân của thời cuộc hay của chế độ hiện hành nhưng chắc chưa có ai ngồi cặm cụi (nhiều năm trời) để ghi lại những nhận xét tỉ mỉ và chính xác của mình về “những loại nhà nước” hiện nay – như Vũ Biện Điền:

Trong số đó đáng kể hơn cả là nhà nước Đảng, còn gọi là nhà nước Quỷ hoặc Siêu Chính Phủ vì nó biến hóa như một cái bóng ma khổng lồ tác nghiệp lên tất cả các nhà nước khác. Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có tổng bí thư, nội các cơ mật là bộ chính trị. Ở địa phương, đứng đầu nhà nước này có bí thư tỉnh ủy, nội các cơ mật là ban thường vụ… Nó là đầu mối của mọi nhũng nhiễu, tai họa và tội ác nhưng rất có tài bẻm mép phủi tay

Tiếp theo là nhà nước Hành Chánh, còn gọi là nhà nước Hành Dân vì bộ nào của nhà nước này cũng có chức năng làm dân khổ cực do đặc tính cửa quyền, nó vâng lệnh đảng như một thứ đầu sai quản lý đất đai và điều hành nô lệ cho chủ nhân, thu gom vô tội vạ tài sản trong nhân dân, sau khi trích nạp cho chủ, nó được quyền chi tiêu xả láng. Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có một chủ tịch không thực quyền, nội các cơ mật là thủ tướng và các bộ trưởng. Ở địa phương, đứng đầu nhà nước này có chủ tịch, nội các cơ mật là ban thường trực và các giám đốc sở…

Thứ ba là nhà nước Quốc Hội, còn gọi là nhà nước Phường Chèo hoặc nhà nước Kỳ Nhông vì đặc tính hát ca véo von theo cách dàn dựng của đảng, nhanh nhạy thay vai đổi màu tùy từng vị trí – ở trung ương nó là lập pháp, ở tỉnh nó là hành pháp, ở tòa án nó là tư pháp. Hình thái nhà nước Quốc Hội về đến địa phương gọi là Hội Đồng Nhân Dân, đặc tính véo von và đổi màu vẫn lưu cửu.….

Thứ bốn là nhà nước Mặt Trận Tổ Quốc, còn gọi là nhà nước Chịu Trận, vì nó là một thứ bung xung vỹ đại hứng đòn – phản đòn – đỡ đòn cho các nhà nước kia. Nhà nước này còn có một chức năng định kỳ như một lò hộ sinh, phù phép hiệp thương ba lên bốn xuống trong mỗi mùa bầu cử, cho ra những đứa con đúng kiểu mẫu đặt hàng của đảng… Quá trình vận động, thành tích cao nhất của Mặt Trận Tổ Quốc là tạo ra Mặt Trận Việt Minh trước trước 1954, và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trước 1975 – hai lá bài này khá ăn khách, nhưng tới hồi lật tẩy thì vô cùng bỉ ổi!

Thứ năm là nhà nước Quân Đội, còn gọi là nhà nước Vũ Trang… nhà nước này làm bằng sức người và của nả của nhân dân nhưng chỉ trung với đảng. Nên chi nó khu trú ở đâu là lãnh thổ riêng ở đó, từa tựa như một quốc gia trong một quốc gia. Khi cần, nó mạo danh quốc phòng, đưa quân chiếm hữu đất đai, rồi đặt ra định chế tự cấp tự quản… Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có quân ủy, hội đồng cơ mật bao gồm các tổng cục chuyên ngành… Nhà nước này hội đủ tính chất phong kiến trung cổ La Mã, sỹ quan là giai cấp đảng viên gọi là cán bộ, bổng lộc hậu hĩ – hạ sỹ quan và lính (con em nhân dân thi hành nghĩa vụ), gọi là chiến sỹ, chỉ được hưởng sinh hoạt phí vừa đủ cầm hơi tới ngày phục viên…

Thứ sáu là nhà nước Công An, còn gọi là nhà nước Tam Đại vì mỗi thành viên phải có lý lịch ba đời bần cố… vừa nghèo vừa ngu từ đời ông đến đời cháu. Đây là nhà nước bán vũ trang, thừa quan thiếu lính, quyền hành vô giới hạn, bổng lộc vô bờ bến. Không những nhân dân kinh sợ mà một số viên chức các nhà nước khác cũng chùn bước trước những đặc quyền đặc lợi của các ấm tử viên tôn. Lịch sử nhân loại từ xưa đến nay, chỉ dưới thời phát xít Đức-Ý-Nhật và các nước xã hội chủ nghĩa mới có thứ nhà nước kỳ lạ này. Nó đồng hóa mình với đảng chuyên chính, tự quyết tất cả và không chịu một quyền lực nào ràng buộc, một tổ chức nào kiểm soát.

Nguồn phóng ảnh: http://www.bacaytruc.com

Vũ Biện Điền cũng “tính sổ” rành mạch từng vụ một, cùng với tên tuổi rõ ràng của những tên chính phạm. Xin đơn cử vài vụ tiêu biểu:

Công Hàm 1958:

“Tôi mới lần ra danh sách bộ chính trị đảng CSVN từ 1951-1960. Đó là Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, và Lê Văn Lương. Phạm Văn Đồng chỉ là nhân vật hàng thứ sáu, chỉ bậc trung thôi… Án chung không thể tội riêng, một mình Phạm Văn Đồng mà dám qua mặt chủ tịch Hồ Chí Minh a? Dám qua mặt đảng Cộng Sản a?”

Thảm sát Mậu Thân 1968:

“Tôi đào được danh sách của bộ chính trị nhiệm kỳ ba của đảng Cộng Sản Việt Nam 1960 -1976. Nhìn chung, chẳng ai xa lạ, Hồ Chí Minh chủ tịch, Lê Duẩn bí thư thứ nhất, Trường Chinh chủ tịch quốc hội, Phạm Văn Đồng thủ tướng, Phạm Hùng phó thủ tướng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp phó thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng, Nguyễn Chí Thanh mất năm 1967, Nguyễn Duy Trinh phó thủ tướng, Lê Thanh Nghị phó thủ tướng, Hoàng Văn Hoan phó chủ tịch quốc hội, Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến dũng, hai thành viên này được bổ sung từ năm 1972.”

Cách nhìn của Vũ Biện Điền về những người đồng thời với mình – qua lời những nhân vật của ông – cũng khá khắt khe, và rất có thể gây ra tranh cãi gắt gao:

“Nhưng người Hà Nội đến lạ! Họ biết Xã Hội Chủ Nghĩa là cái bánh vẽ cực kỳ thối tha mà cứ hớn hở ngồi vào lột lá bóc ăn và xơn xớt khen ngon khen ngọt đến nỗi người ngoài nhìn vào phát thèm. Họ biết Hồ Chí Minh gian manh xảo trá mà cứ ngoác miệng ngợi ca lúc ông ta còn sống và khóc khô nước mắt khi ông chết. Họ biết bè lũ kế thừa đang đi tiếp con đường của ác quỉ mà vẫn tranh nhau làm tôi mọi, cúc cung tận tụy. Họ biết lịch sử đang rao giảng là thứ cực kỳ giả dối nhưng học thuộc vanh vách, nếu có ai mạnh dạn đính chính thì phồng mang trợn mắt, cãi cối cãi chầy như sợ mất đi độc quyền làm thân sáo vẹt. Họ nhận quá nhiều đau khổ do độc tài đảng trị nhưng không dám đối mặt với kẻ thù cứ ươn hèn đổ vạ cho phong kiến, cho tư sản, cho địa chủ, cho Mỹ Ngụy, xua con em vào chết ở miền Nam mà không biết đang hiến máu cho hung thần và đang hy sinh cho một thiên đường mù… Ngoại trừ một số rất ít sớm thức tỉnh như Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Dương Thu Hương, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc… tôi chưa thấy một tổ chức nào bi phẫn, chưa thấy một đoàn thể nào muốn nắm tay nhau liên kết xuống đường biểu tình, họp mít-tinh vạch mặt chỉ tên bè lũ tay sai Nga – Hoa, tập đoàn phi nhân bản, phản nhân quyền, bọn bán nước cầu vinh…”

Một tác phẩm mang đậm mầu sắc chính trị như thế sao lại có cái tựa trữ tình và ướt át là Phiên Bản Tình Yêu? Trong phần lời tựa nhà văn Trần Phong Vũ đã giải thích (phần nào) như sau:

“Như nhan sách, Phiên Bản Tình Yêu là một chuyện tình – mà là một chuyện tình xuyên thế hệ, mang nhiều kịch tính với những tình tiết éo le, ngang trái, chuyển biến bất ngờ. Nhưng Tình Yêu ở đây chỉ là lớp vỏ, là mặt nổi của một tảng băng sơn giữa đại dương mờ mịt… Cuộc tình xuyên thế hệ ở đây có thể được hiểu như một thứ ‘thang’ để dẫn ‘thuốc’, một chất xúc tác, tạo hấp lực lôi cuốn người đọc đi sâu vào những âm mưu, những màn đấu đá, những trò lường gạt, thay bậc đổi ngôi trong một xã hội người ta nhân danh đủ thứ với những mặt nạ khóc cười, hỉ nộ đã được mã hóa khi thực chất chứa đầy tâm thái tham lam, ích kỷ, độc ác, chỉ vụ thỏa mãn những lợi ích cá nhân, bè nhóm, bất chấp sự an nguy của tiền đồ quốc gia dân tộc. Và trong chừng mực nào đó, với tư cách người chứng, tác giả đã đạt được mục đích của ông.

Tôi cũng tin là Vũ Biện Điền hoàn toàn đạt được mục đích của mình nhưng e rằng ông không thành công (lắm) khi dùng hình thức tiểu thuyết như “một chất xúc tác, tạo hấp lực lôi cuốn người đọc đi sâu” vào “chuyện tình xuyên thế hệ” này. Những nhân vật trong Phiên Bản Tình Yêu (e) hơi quá nhiều kịch tính, nhất là qua những mẫu đối thoại rất dài và (rất) trí tuệ nhưng cũng rất xa lạ với đời thường hay đời thật.

Tất nhiên, đây chỉ là suy nghĩ hoàn toàn chủ quan (và có thể là hoàn toàn sai lạc) của một thường dân mà trình độ thưởng ngoạn nghệ thuật còn nhiều giới hạn. Mong được đón nhận những nhận định khác, từ những người đọc khác, về công trình tâm huyết và đồ sộ này của Vũ Biện Điền.