S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tết Thái

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

18/01/2025

Từ làng nổi Koh K’ek tôi giang ghe ra Pursat, rồi bắt xe đò trở lại Phnom Penh. Dọc theo quốc lộ 5, thỉnh thoảng, có nhà bầy bán mai vàng. Nhìn những cành hoa vừa nhu nhú nụ mà (chợt) thấy nôn nao.

Tết đến rồi đa!

Vào đến thủ đô Nam Vang lúc chiều vừa tắt nắng. Ngang công viên Tượng Đài Độc Lập, đôi chỗ, thấy bán bóng bay. Những chùm bóng đủ mầu rực rỡ, to hơn kích cỡ bình thường, với hàng chữ Việt (Cung Chúc Tân Xuân – Chúc Mừng Năm Mới) khiến tôi thoáng ngẩn ngơ.

Không dưng thấy mắt hơi cay. Tôi nghĩ thừa tại khói xe nhưng lại nhớ đến lời kêu gọi thiết tha của ông Nguyễn Thiện Nhân hồi mấy năm trước : “Tất cả đồng bào Việt Nam ở nước ngoài nếu trong 40 năm qua chưa có dịp về nước thì nên về… chắc chắn sẽ thấy nó phát triển.”

Năm nay, Ban Tuyên Giáo còn “tiếp sức” với ông Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc bằng nguyệt san Di Sản Việt Nam (Vietnam Heritage ) với nội dung vô cùng phong phú. Tất cả những bài viết đều bằng Anh Ngữ, kèm nhiều hình ảnh sống động: đua thuyền, thổi cơm thi, đá gà, dựng nêu, múa lân, đốt pháo…

Xem mà nhớ quê hương muốn ứa nước mắt luôn, và chỉ ước ao sao mình có thêm đôi cánh (hay được cấp cái visa) để bay về quê tức khắc. Nước Việt thiệt là nền nã, an bình, và phú túc.

Đọc đến trang cuối mới thấy một mẩu tin (“Vietnam to slap higher fines on public urination”) ngăn ngắn, khiến độc giả – dù là người Việt – cũng phải bàng hoàng :

“People who urinate in public will be fined VND1-3 million ($44-133) from February 1, 2017, according to a new government decree.

The fines have been raised significantly from the current $9-13.

Public urination is nothing strange in Vietnam, where there is an acute shortage of public toilets…

Data from Hanoi’s Department of Construction shows that the capital has 340 public toilets, but two thirds are located in residential areas and only 100 are situated along streets or at entertainment facilities.

Ho Chi Minh City faces the same problem with only 200 public toilets serving the needs of its 10 million residents and the 5 million foreign tourists that visit the city each year.”

Úy, trời, đất, quỉ, thần, ơi? Giữa Thủ Đô Của Lương Tri & Phẩm Giá Con Người và Thành Phố Hồ Chí Minh (Quang Vinh) mà mười lăm triệu người phải dùng chung chỉ có hai trăm cái nhà vệ sinh công cộng thôi sao? Nếu thế, nếu có bệnh tiểu đường thì sống làm sao ở một đất nước mà khắp nơi đều có bảng ghi “cấm đái”. Đã thế, theo luật lệ mới, mỗi lần tè bậy là có thể bị phạt đến 144 Mỹ Kim thì chịu đời sao thấu.

Đ…mẹ, tiền (dollar) chớ bộ giấy lộn hay sao – mấy cha? Thảo nào mà nhà báo Lê Phú Khải đã phải nặng lời : “Có lẽ không có ở đâu trên trái đất này có một chính quyền cư xử với dân ti tiện như vậy.”

Thế là “giấc mơ hồi hương” tan vỡ. Lại phải tiếp tục đi thôi, dù chưa biết sẽ đi đâu? Thôi, cứ ghé đại chỗ nào làm vài ly cái đã :

Dừng chân nơi quán lạ

Thèm cơm chiều hương quê

Chị ơi thôi đừng đợi

Chiều nay em chưa về (tnt)

Chả quen biết ai ở Nam Vang, và cũng đã trải qua hai mấy cái Tết chán ngắt ở Xứ Chùa Tháp rồi nên tôi nghe lời rủ rê của một người bạn đồng nghiệp (đang làm thông tín viên thường trực cho RFA, ở Thái Lan) bay sang Bangkok, rồi đi xe về vùng quê nghỉ chơi vài bữa.

Anh kết hôn với một cô giáo Thái, người vùng Chai Nat. Họ sống cách thủ đô chỉ chừng hai trăm cây số mà khung cảnh nơi đây an bình và trầm lặng khiến tôi cảm thấy ngỡ ngàng. Nhà hai người nằm cạnh bờ sông. Dòng sông (Chao Phraya) mà chỉ mới chỉ thoạt trông thôi tôi cũng đã “phải lòng” rồi : tĩnh lặng, hiền hoà và yêu kiều quá!

Tôi sinh trưởng ở cao nguyên, nơi chả có biển rộng hay sông dài gì ráo trọi. Suốt thời thơ ấu, tôi chỉ quen với những buổi sáng rừng tưng bừng (tiếng con vượn hú) và những đêm trăng tà ngây ngất, hoang vu.

Mãi đến năm mười sáu – trong một chuyến giang hồ (vặt) đầu đời – khi đặt chân đến Tân Châu, tôi mới được nhìn thấy một nhánh sông Tiền đang cuồn cuộn cuốn mau dưới ánh nắng chiều lấp lánh. Tôi đoán đó là “Giòng An Giang” của Anh Việt Thu mà ca sĩ Ánh Tuyết đã khiến cho nhiều người thương mến :

Giòng An Giang sông sâu nước biếc

Giòng An Giang cây xanh lá thắm

Lả lướt về qua Thất Sơn

Châu Đốc giòng sông uốn quanh

Soi bóng Tiền Giang Cửu Long… 

Cô thôn quê đang giặt yếm trên sông

Tiếng sáo vắng trên đồng lúa xanh tươi 

Trâu lang thang, đôi cò trắng tung bay dập dìu. 

Tôi không thấy cô gái Thái nào giặt yếm, hay phơi khăn, trên sông Chao Phraya cả. Cũng không nghe “tiếng sáo vắng trên đồng lúa xanh tươi” nhưng cò trắng và cò quăm thì (ôi thôi) không phải từng đôi mà dễ đến hàng ngàn, bay rợp cả bầu trời.

Đôi lúc, tôi cũng bắt gặp vài cánh cò lạc lõng ở California nhưng đến Chai Nat thì mới nhìn thấy tận mắt – lần đầu – cảnh vật an bình mà mình chỉ được nghe qua tiếng đàn và giọng hát (trầm ấm) của Phạm Ngọc Lân :

Con cò lại bay trên đồng ruộng xanh

Tre già bảo nhau cúi đầu trầm ngâm

Cùng mùi khói rơm quen thuộc…

Đồng xanh, cánh cò, khói rơm, và trâu bò dục mõ… tuy cũng quyến rũ nhưng chính nét diễm kiều và hiền dịu của dòng sông Chao Phraya mới khiến cho tôi say đắm. Chợ họp không đông, ngay tại bến đò. Những con đò thưa khách, từ từ cặp bến rồi chầm chậm rời bờ. Dù không đón, cũng chả đưa (ai) mà cũng thấy bận lòng và chút bâng khuâng.

Người dân Chai Nat đều có dáng vẻ chậm rãi và khoan thai y như con sông và bến đò của họ. Ở đây, rõ ràng, chả ai có việc gì phải vội. Tôi cũng thế, tôi cũng “chậm” lại (luôn) mà chả hiểu tại sao và tự lúc nào?

Sáng, chiều thơ thẩn đi dọc bờ sông. Nhìn nắng, nhìn nước, nhìn trời, nhìn mây; ngó lá, ngó hoa, ngó cây, ngó trái. Chao ơi, xứ sở gì mà thơ mộng và trù phú dữ vậy nè? Đu đủ, mía, xoài, vú sữa, chuối, dừa… mọc tá lả khắp nơi – kể cả ở những khúc sông hoang dã. Thiệt là quá đã! Đã nhứt là đứng sau bất cứ búi tre, bụi chuối nào cũng có thể vạch quần tè mà không sợ làm bận mắt tha nhân. Tuy thế, đái bậy dường như chỉ là thói quen của người dân Việt (và người dân Miên nữa) chớ người Lào và ngườinThái thì không.

Dọc theo bờ sông Chao Phraya, tại những khoảng cách nhất định, đều có những nhà vệ sinh chung. Tuy chỉ nhỏ nhắn thôi nhưng xinh xắn và sạch sẽ nên dân chúng không ai bị bệnh… đái đường!

Vợ chồng anh bạn còn cho tôi biết thêm rằng phong trào xây dựng nhà vệ sinh công cộng ở Thái Lan đã phát khởi từ hai mươi năm trước. Bởi thế, những chiếc ghế đá đặt cạnh bên cho khách nghỉ chân đều đã nhuốm rêu nhưng bồn tiểu và bồn cầu thì vẫn trắng tinh vì được thay thế định kỳ và cọ rửa thường xuyên.

Nghe mà lại nhớ đến lời khẳng định về sự “phát triển đất nước” của ông Nguyễn Thiện Nhân, và những bài viết (dùng toàn những lời có cánh) trên Vietnam Heritage mà không khỏi thở dài!

Loài vật có thể tiểu tiện hay đại tiện bất cứ nơi đâu vì chúng không có ý thức gì về ngoại cảnh. Ép buộc con người phải sinh hoạt gần như cầm thú – trong những đô thị với hàng trăm ngàn người mới có một nhà vệ sinh chung – là điều chỉ có thể xẩy ra trong một chế độ bất nhân, nơi mà những kẻ nắm quyền “ăn không từ một thứ gì” – kể cả những cái cầu tiêu hay buồng tiểu.


 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Lê Đình Công & Lê Đình Chức

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

16/01/2025

Hồi đầu thế kỷ, có bữa, tôi nhận được thư của Vũ Thư Hiên. Ông hớn hở cho hay “Anh Tấn sắp sang Pháp chơi với anh vài tuần”. Thuở ấy, hai ông còn khá trẻ trung (và còn sung lắm) nên chắc chắn là đôi bạn già sẽ đi lung tung khắp Âu Châu, chứ dễ gì mà chịu quanh quẩn ở Paris.

Mãi cả chục năm sau, sau khi nhà văn Bùi Ngọc Tấn lâm trọng bệnh, tôi mới nghe ông nhắc đến chuyến du hành thú vị này (với ít nhiều tiếc nuối) trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC – vào hôm 14 tháng 11 năm 2014: “Sang châu Âu, tôi quan sát dáng người đi, nét mặt của họ khác dân mình lắm … Đi thì mới biết mình bị mất những gì.”

Giờ ạ! Tưởng gì? Chứ nếu “đi mới biết mình bị mất những gì” thì cần chi phải qua đến tận Âu Châu làm chi (cha nội?) chỉ cần xẹt qua Cambodia cũng đủ “biết” là “họ khác dân mình lắm”, và khác “toàn tập” luôn.

“Trên đường phố mù bụi đỏ, những tủ đổi tiền, cỡ bằng tủ thuốc lá của ta, vẫn hoạt động bình thường, thong thả với hàng cọc tiền đủ từ mọi quốc gia chứa bên trong. Tiền bày ra đường, an nhiên, tự tại như vậy, ắt hẳn nạn trộm cướp ở đây không hề là nỗi ám ảnh thường xuyên của những ngân hàng đường phố kiểu này …

Dừng chân hỏi đường với một anh xe ôm đen sạm, phong sương bên đường bằng một thứ tiếng Miên bồi, tôi đã không khỏi ngạc nhiên và cảm động khi câu trả lời chỉ được thốt ra sau khi giở nón. Rõ ràng, người xe ôm này thuộc về một nền văn hóa lớn, mà những con người của nó đã học cách sống lễ độ và văn minh một cách rất tự nhiên.” (Lê Đình Phương. “Về Một Nền Du Lịch Lễ Độ.” Lang Thang Như Gió. Phụ Nữ: 2013).

Cho đến nay số người Việt có cơ hội “lang thang như gió” vẫn chưa nhiều nhặn gì cho lắm nên ít kẻ có cơ hội để so sánh, và nhận thức được về sự thua thiệt hay “mất mát” của mình. Phần lớn vẫn chấp nhận chuyện bị giựt đồ, bị thu phí thu thuế vô tội vạ, bị công an giao thông trấn lột, bị bắt đi bầu, bị công an phường mời lên làm việc (bất kể ngày giờ) … chỉ là những chuyện xui thôi. Cũng không mấy ai phiền hà chi, khi hỏi đường thì bị đòi tiền công (“10K”) chỉ dẫn.

Cho đến khi “đụng” phải sự mập mờ, lập lờ, gian giảo, lật lọng, tráo trở (trắng trợn) của Bộ Luật Đất Đai Thuộc Sở Hữu Toàn Dân thì “toàn dân” mới thực sự biết thế nào là “mất mát”, và mới có những phản ứng thích đáng, sau khi “bừng con mắt dậy thấy mình trắng tay”. Cái giá mà dân Việt phải trả cho sự phản kháng quyết liệt của họ, tất nhiên, không rẻ. Không ít người, Kinh cũng như Thượng, vẫn đang (hoặc đã) lãnh án tù.

Sự việc gần nhất (và nổi cộm nhất) liên quan đến chuyện tranh chấp đất đai, giữa Đảng và Dân, được mệnh danh là Vụ Án Đồng Tâm. Từ California, ký giả Nguyễn Tuyển (nhật báo Người Việt) tóm lược như sau:

Vào sáng sớm 9 Tháng Giêng, 2020, nhà cầm quyền CSVN đưa một lực lượng hùng hậu gồm một trung đoàn cảnh sát cơ động cùng các lực lượng công an khác tấn công xã Đồng Tâm. Dân làng cương quyết chống đối lại việc tịch thu khu đất thường được gọi là “cánh đồng Sênh” mà dân làng canh tác hàng chục năm. Họ có các văn kiện địa bạ chứng minh quyền sở hữu, canh tác trong khi nhà cầm quyền lấy cớ đó là đất “quốc phòng” nên đòi lại.

Các vụ tranh cãi, kiện tụng và cưỡng chế hụt cũng như chống cưỡng chế đất tại xã Đồng Tâm kéo dài suốt nhiều năm. Trước khi xảy ra vụ tấn công đầu năm ngoái, vào Tháng Tư, 2017, dư luận trong ngoài nước rúng động khi dân làng đã bắt giữ gần 40 cảnh sát cơ động, công an, viên chức huyện Mỹ Đức. Những người vừa kể chỉ được thả một tuần sau khi nhà cầm quyền cam kết giải quyết thỏa đáng, căn cứ theo đúng luật đất đai và quyền lợi của người dân.

Nhưng sau đó, nhà cầm quyền CSVN trở mặt, vẫn lập luận là dân địa phương chiếm cứ bất hợp pháp, đòi trả đất nhưng không lấy được, dẫn tới đàn áp.

Từ phiên xử sơ thẩm đến phúc thẩm, các nhân chứng quan trọng có mặt khi xảy ra vụ việc như bà vợ ông Kình, con dâu, cháu dâu cùng nhiều dân làng khác đã có lời yêu cầu triệu tập ra tòa làm chứng. Không những không cho triệu tập mà còn bị ngăn chặn từ xa, không cho đến gần tòa án.

Trước phiên xử phúc thẩm, các luật sư biện hộ đã gửi một đơn kiến nghị, yêu cầu thực nghiệm lại hiện trường để xem những cáo buộc qua lời khai của công an có đúng hay trái với sự thật. Tuy nhiên, họ đã bị tảng lờ. Nói chung, phiên tòa xử mang tính áp đặt, bất chấp luật lệ tố tụng hình sự của chính họ đặt ra…

Phiên tòa phúc thẩm tại Hà Nội chiều Thứ Ba, 9 Tháng Ba, với kết quả không làm mấy ai ngạc nhiên khi chủ tọa phiên xử phúc thẩm đọc bản án y án tử hình với hai anh em ông Lê Đình Công, Lê Đình Chức. Hai ông là con ông Lê Đình Kình, người bị công an CSVN giết chết khi xông vào nhà ông vào sáng sớm 9 Tháng Giêng, 2020. Con trai ông Công là Lê Đình Doanh bị y án chung thân…

Vào thời điểm trên tuy ông Tô Lâm đang giữ chức Bộ Trưởng Công An (lực lượng đã tấn công vào xã Đồng Tâm và hạ sát ông Lê Đình Kình) nhưng T.B.T kiêm C.T.N Nguyễn Phú Trọng mới là kẻ “chịu trách nhiệm trực tiếp và cao nhất trong vụ án kinh hoàng” này. Ông đã qua đời vào ngày 19 tháng 07 vừa qua (hoặc trước đó vài hôm) và để lại không ít eo sèo, cùng rất nhiều điều tiếng.

Bên cạnh những mỹ từ cố hữu (anh minh, đạo đức, vỹ đại, giản dị, liêm chính, hết lòng vì dân vì nước…) của mọi cơ quan truyền thông quốc doanh – đây đó – trên những trang Thông Tấn Xã Vỉa Hè là vô số những lời chỉ trích, phê bình, chê bai, chửi rủa, mạt sát: lạc hậu, bảo thủ, giáo điều, hèn nhát, tham quyền cố vị …

Giữa hai thái cực này là thái độ và ngôn từ trung dung, dễ được công luận tán đồng: hãy để lịch sử phán xét, nghĩa tử là nghĩa tận …

Ơ hay! Hai ông Lê Đình Công và Lê Đình Chức đã “tử” đâu (mà “tận” được) cả hai vẫn còn đang vật vờ – sống dở/chết dở – với hai bản án tử hình lơ lửng trong tù mà, đúng không?

Vào những giây phút cuối đời (khi vẫn còn thoi thóp thở) nếu Nguyễn Phú Trọng chợt nhận thức ra được việc làm tàn ác/bất nhân/thất đức của mình – chắc chắn – ông đã ký lệnh miễn tử cho Lê Đình Công và Lê Đình Chức. Thế là làm giảm nhẹ được phần nào tội nghiệt của mình, và cũng xóa luôn được cái bản án “tru di”, một vết nhơ không nhỏ của loài người ở thế kỷ này.

Nguyễn Phú Trọng, tiếc thay, đã không “ngộ” ra được điều chi cho đến khi nhắm mắt/xuôi tay. Ông xứng đáng bị thế nhân nguyền rủa mà khỏi cần chờ đến thời gian hay lịch sử gì sất cả!

Nay thì mạng sống hai lương dân vô tội này đang trong tay của ông Tô Lâm. Nếu còn nhất điểm lương tâm – ông tân Chủ Tịch Nước – cũng nên ký lệnh “ân xá” (và phóng thích tất cả những người dân Đồng Tâm đang bị cầm tù) dù hy vọng như thế thật rất mong manh. Người còn chút nhân tính đâu ai nhẫn tâm để “đớp” một miếng thịt bò dát vàng (trị giá “tương đương với tám tấn lúa khô”) trong khi suy dinh dưỡng vẫn là vấn nạn lớn đối với rất nhiều trẻ thơ, ở đất nước mình.


 

Nước Mất & Mất Nước – Tưởng Năng Tiến

Tưởng Năng Tiến

Tập bút ký Quê Hương Ngày Trở Lại – xuất bản năm 2019 – của nhà phê bình văn học & xã hội Thụy Khuê, có đôi đoạn, hơi nhậy cảm :

“Khi miền Nam thua trận năm 1975, nhiều người Việt phải bỏ nước ra đi, không ít người kêu than ‘mất nước’. Kêu như thế là chưa hiểu gì về đất nước: đất nước ta là một tập hợp sông núi, con người, văn hoá và lịch sử ngàn năm, nó có cái vinh quang cũng có cái ô nhục, bởi nó là tổ tiên ta, ta phải gánh tất cả, bởi nó đã ở trong ta, trong dòng máu…

Vì thế, nước không bao giờ mất, chỉ thay đổi chế độ. Nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn không phải là chủ đất nước, họ là những người cai trị đất nước trong một thời đại. Nhìn như thế, ta sẽ thấy lòng an nhiên tự tại, một niềm hãnh diện mở ra tới vô cùng, bóp chết những thương đau, thù hận.”

Tác giả viết không có chi sai. Tuy thế, “sau khi miền Nam thua trận năm 1975”, lắm kẻ ở vùng đất này (e) khó có thể chia sẻ cái quan niệm bao dung và khoáng đạt của thượng dẫn.

Tập bút ký đầy ắp những tài liệu lịch sử khả xác và khả tín (được viết bởi một ngòi bút tài hoa) đã được đăng tải làm 10 kỳ trên trang Văn Việt. Sau đó, tác phẩm này còn được phổ biến trên trang TV&BH thêm hai kỳ nữa (và chỉ 2 thôi) với lời giải thích của ban biên tập:

Đến kỳ 3, chúng tôi quyết định không tiếp tục giới thiệu loạt bài này trên TV&BH nữa. Lý do tại sao, xin kính mời quý độc giả cùng theo dõi bài viết dưới đây của nhà văn Khuất Đẩu, người có gốc gác ở Khánh Hòa Nha Trang, hiện đang sinh sống ở Việt Nam.

Bài viết này (“Thụy Khuê Trở Lại Quê Hương Để Làm Gì”) mở đầu bằng những câu chữ hơi gay gắt:

Kính thưa bà Thụy Khuê,

Tôi xin mạn phép được viết những dòng này, sau khi đọc xong bài bút ký của bà nhan đề là: Quê hương ngày trở lại (kỳ 3)

Tôi xin nói ngay rằng, đó không phải là một bài viết ca ngợi quê hương, như tôi lầm tưởng, mà chỉ để chửi và dạy khôn người dân Việt Nam (trong đó có tôi).

Phần kết luận cũng thế, cũng không được thân thiện, hay nhẹ nhàng (hoặc dịu dàng) gì cho lắm:

Nói đến tài liệu thì bà là nhất.

Nhưng nói tới tình cảm, nhất là tình yêu quê hương thì, xin nói thực, bà hãy còn “hô khẩu hiệu” lắm.

Tôi không quen Khuất Đẩu, và chỉ biết ông qua tác phẩm (Lão Tiền BốiNhững Tháng Năm Cuồng NộNgười Giữ Nhà Thờ Họ …) cùng những bài viết đã được phổ biến rộng rãi trên nhiều trang mạng. Tác giả nguyên là nhà giáo, trước khi trở thành nhà binh, thuộc bên bại cuộc. Tôi cũng thế (cũng là một tên lính thất trận) nên chủ quan tin rằng mình có thể hiểu được, phần nào, cái tâm trạng (phẫn uất) của người đồng cảnh!

Vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến VN, không ít đồng đội của chúng tôi bỗng mất liên lạc vô tuyến với thượng cấp. Vô cùng hoang mang, họ tìm đường trở về đơn vị. Gần đến nơi, tất cả đều bàng hoàng và kinh sợ khi thấy lá cờ lá cờ đỏ sao vàng đang phất phới giữa sân bộ chỉ huy.

Không ít người đã tự xử ngay tại chỗ. Số đông còn lại thì đi tù. Có kẻ đi đến chục năm, và khi về thì mất ráo cả nhà cửa lẫn vợ con. Ở vào hoàn cảnh đó, thật khó để có thể giữ được cho mình “lòng an nhiên tự tại” – dù đất nước có mất đi tấc đất nào đâu mà còn hoàn toàn thống nhất!

Trong nhiều hoàn cảnh khác cũng thế, cũng khó mà khỏi bật tiếng kêu than là “quê hương của mình” không còn nữa. Xin ghi lại một câu chuyện nhỏ (qua một mẩu tin ngắn) đọc được trên Báo Công An Nhân Dân, số ra ngày 31 tháng 7 năm 2020:

Lúc 6h30’ cùng ngày, Tổ công tác của Trạm kiểm soát thuộc Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phối hợp với Chi cục Hải Quan Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phát hiện hàng chục đối tượng (gồm người lớn và trẻ em), di chuyển từ phía Campuchia qua tuyến biên giới tỉnh An Giang, trên 8 thuyền máy.

Tổ công tác tiến hành dừng phương tiện, dẫn giải người, phương tiện về Trạm kiểm soát Biên phòng cửa khẩu quốc tế xác minh, điều tra, làm rõ.

Qua lấy lời khai, được biết có 7 hộ gia đình với 41 khẩu (20 người lớn, 21 trẻ em) sống tại tỉnh Siem Reap và tỉnh Pur Sát (Campuchia). Do hoàn cảnh sống khó khăn nên có ý định trốn về Việt Nam sinh sống tại tỉnh Đồng Tháp và Tây Ninh. Tất cả đều không có giấy tờ hợp pháp, không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương đã tiến hành lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xuất, nhập cảnh trái phép bằng hình thức cảnh cáo đối với 14 đối tượng là chủ hộ gia đình, cho làm cam kết không tái phạm.

Đêm vẫn còn dài nên xin phép được ghi thêm một câu chuyện nữa, qua lời kể của đôi bạn đồng hương:

Năm 1993, Yến chết thảm ở tuổi 21. Đám tang của Yến diễn ra trong một ngày mùa đông buồn thảm. Cái buồn thảm không giống những nỗi buồn tôi từng chứng kiến trong các đám tang khác khi còn ở Việt Nam. 

Lần cuối cùng người ta thấy Yến đi với một gã người Campuchia khoảng một tuần trước. Khách đã thỏa thuận và chi tiền trước với chủ chứa để ‘bao’ Yến trong hai ngày. Nhưng ba, rồi bốn ngày vẫn không thấy Yến về.

Linh tính có điều gì chẳng lành xảy ra với cô nên hai người chị kết nghĩa là Hương và Trầm bỏ tiền nhờ người đi tìm. Để có thêm tiền chi trả việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải ‘làm thêm’, tức là tiếp khách nhiều hơn ngày thường. 

Người ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã không còn nguyên vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị vứt ở chân núi Mô Păng. Vì chủ chứa – một mụ đàn bà người Việt có nước da bợt như xác chết, không cho làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm phải đi kiếm gỗ, dựng tạm cho cái chòi tại khu đất trống để có chỗ kê quan tài.

Đám tang lèo tèo vài ba người hàng xóm thất nghiệp trong đó có tôi, ngồi dự cho đỡ tủi. Yến có thằng con trai lên bốn tuổi, tên là Hên. Thấy mẹ chết, nó gào khóc, tiếng khóc tôi chưa từng nghe thấy bao giờ : 

  • Ụ má mày, mày xí gạt Mày hứa đưa tao về quại mà mày hổng đưa. Mày bỏ tao mày đi. Choi me hặn…hặn tau na… cùm ngợp. (Đù má mày…mày đi đâu… đừng chết.) … Dậy đưa tao về quại! (Phạm Thanh Nghiên. “Chuyện Kể Của Chồng”. Tiếng Dân – 05/08/2020 ) .

Bà Yến từ trần vào năm 1993, khi Hên mới vừa lên 4. Tính đến năm nay thì cậu bé năm xưa nay đã trở thành một người ở tuổi trung niên. Tôi băn khoăn tự hỏi: nếu vẫn còn sống sót, chả hiểu ông Hên có còn muốn về quê ngoại hay không?  Và “lỡ” muốn thì cách sao mà về được nhỉ?

Lịch sử của một triều đại, hay một chế độ, có thể kéo dài đến vài thế kỷ nhưng kiếp người thì chỉ tính bằng năm. Trong những năm tháng đó, không phải ai cũng có chỗ tạm cư (trong cơn quốc biến) và có điều kiện để hồi hương bằng thông hành, chiếu khán, cùng ít nhiều ngoại tệ. Với những kẻ lâm vào bước đường cùng, không có một mảnh giấy lận lưng, không được một đồng xu dính túi (và cũng chả tìm được chỗ nương thân) thì chuyện nước/non – xem ra – không chỉ xa vời mà còn xa xỉ lắm!

TNT


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ông Già Ba Tri Lê Đình Kình

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

10/01/2025

Tôi mém viết hồi ký mấy lần, lần nào cũng đang lúc chuyến choáng hơi men. Ngủ một giấc – thức dậy – ngẫm nghĩ thấy đời mình chán như con gián và nhạt còn hơn nước ốc nữa (chả có cái con mẹ gì để mà “ký” cả) nên … thôi!

Thôi, không viết thì đọc vậy. Cho nó đỡ buồn. Năm trước, tôi coi lại nguyên bộ Trả Ta Sông Núi của Đại Tá Phạm Văn Liễu. Năm nay, nghe Đinh Quang Anh Thái dụ, tôi đặt mua cuốn Hồi Ký Tống Văn Công – do Người Việt Books xuất bản.

Tống Văn Công cùng quê với Xuân Vũ. Cả hai ông đều là dân miền Nam nên không biết làm dáng, cũng không quen mầu mè (riêu cua) gì ráo, viết cứ như nói, và nghĩ sao thì nói vậy hà. Xin coi chơi một đoạn ở chương dẫn nhập:

“Tôi cứ tưởng ông già Ba Tri là chỉ những vị nổi tiếng của quê tôi như Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Phan văn Trị nhưng ông nội tôi bảo sự tích này có từ thời Minh Mạng: Ông Trần văn Hạc, Hương cả của làng An Hòa Tây cho đắp con đập ngăn vàm rạch làm tắc nghẽn đường ghe chở hàng hóa vào chợ Ba Tri.

Dân chúng cả vùng phát đơn kiện, nhưng thế lực Trần Văn Hạc quá mạnh, quan tổng, quan huyện, quan tỉnh đều xử ông ta thắng kiện. Bà con bàn bạc cử ba ông già có uy tín nhất vùng là Thái Hữu Kiếm, Nguyễn Văn và Lê Văn Lợi mang đơn ra Huế kiện lên triều đình.

Các ông này đi bộ qua nhiều vùng rừng hoang vắng nguy hiểm, mất mấy tháng trời mới tới Huế, nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn. Vua Minh Mạng cho các ông vào chầu tấu trình sự việc. Vua nghe xong, hạ chiếu cho các ông thắng kiện. Từ đó, danh xưng ‘ông già Ba Tri’ là chỉ những cụ già nhưng chí khí không già, dám dũng cảm bảo vệ lẽ phải.”

Thiệt, đọc mà ái ngại hết sức: “Các ông này đi bộ qua nhiều vùng rừng hoang vắng nguy hiểm, mất mấy tháng trời mới tới Huế, nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn.” May mà còn gặp vị vua nhân đức (“hạ chiếu cho các ông thắng kiện”) chớ không thì công cốc.

Thời nay lỡ xẩy ra những chuyện oan khuất tương tự thì chả ai còn phải cất công đi lại xa xôi như vậy nữa. Địa phương nào cũng có hội đồng nhân dân các cấp, trên nữa là quốc hội. Thêm vào đó là hàng ngàn tờ báo, chưa kể vô số các cơ quan truyền thông, mọi chuyện khuất tất đều sẽ bị phơi bầy trước công luận tức thì nên mấy ông già Ba Tri bị thất nghiệp là cái chắc (và cũng hết còn đất sống) đúng không?

Không!

Tưởng vậy chớ không phải vậy đâu. Tưởng vậy là tưởng năng thối. Năm rồi, xã Đồng Tâm vừa xuất hiện một ông già Ba Tri khiến cả nước phải giật mình kinh ngạc. Ông được Tạp Chí Luật Khoa bình chọn là một trong “Mười Nhân Vật Chính Trị Việt Nam Năm 2017,” cùng với không ít lời ưu ái:

“Trước tháng 4/2017, công chúng không biết Lê Đình Kình là ai. Vụ chính quyền huyện Mỹ Đức, Hà Nội xô xát và bắt giữ ông cụ 82 tuổi này vào ngày 15/4 đã thổi bùng làn sóng phản đối của người dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm, vốn đang có tranh chấp đất đai tại khu vực đồng Sênh.

Tất cả những diễn biến sau đó cho người ta thấy hình ảnh của một lãnh đạo cả về tinh thần lẫn quyết sách của những người nông dân Đồng Tâm. Ngoài trí tuệ minh mẫn và khả năng trình bày khúc chiết, ông Lê Đình Kình hội tụ nhiều yếu tố để trở thành người được tín nhiệm ở một làng nông thôn Bắc Bộ …”

Về vụ “xô xát” nói trên, nhà báo Nguyễn Đình Ấm cho biết thêm chi tiết:

“Việc ngày 15/4/2017  ba sĩ quan quân đội và đội cảnh sát, an ninh CAHN mời dân ra đồng Sênh ‘kiểm tra mốc giới’ khi đến mốc 15- 20 thì nổ súng uy hiếp, trung tá Trần Thanh Tùng phó CA huyện Mỹ Đức đá cụ Kình văng 2m rồi cùng ‘côn đồ mặc quần bò, áo thun’ xốc nách cụ đưa lên ô tô khóa tay, bịt miệng đồng thời bắt 4 người nữa chở lên Hà Nội thẩm vấn, tra khảo…”

Ông già Ba Tri của xã Đồng Tâm – huyện Mỹ Đức – bị “côn đồ đấm đá, tra khảo” nhưng cả trăm đại diện của Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố Hà Nội  đều câm như hến. Còn ĐBQH Đào Thanh Hải thì đứng về phía … công an, để vu cáo nạn nhân: “Gia đình ông Lê Đình Kình đã xông vào chống lại lực lượng thi hành nhiệm vụ, giằng co và xảy ra việc ông Lê Đình Kình bị gãy chân” – theo như tường trình của báo Người Lao Động, đọc được vào hôm 7 tháng 11 năm 2017.

Một năm sau, trên trang Tiếng Dân – đọc được vào ngày 6 tháng 8 năm 2018 –  Nguyễn Đăng Quang (một nhà báo tận tụy và đặc biệt quan tâm về sự việc Đồng Tâm) cho biết:

“Cuộc khủng hoảng Đồng Tâm vẫn đang bế tắc. Người dân đã hai lần gửi TÂM THƯ đến HNTƯ7 và Kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội vừa qua, nhưng không có ai trả lời họ. Mới đây, cụ Lê Đình Kình, người được coi là thủ lĩnh của người dân Đồng Tâm, với danh nghĩa người bị hại trong biến cố Đồng Tâm, đã gửi tới Ủy ban Tư pháp Quốc hội và bà Lê Thị Nga, Chủ nhiệm Ủy ban này một “Thư công dân gửi ĐBQH”.

Thư gửi qua ‘Chuyển phát nhanh’, song đến nay đã hơn 2 tháng mà chẳng một ai hồi âm hay phúc đáp cả!

Cụ Kình nhờ tôi hỏi giúp việc này. Tôi có điện hỏi bà Lê Thị Nga, được bà cho biết là chưa nhận được, và đề nghị tôi nhắn cụ Kình gửi lại cho riêng bà, đừng gửi cho ai khác…

Trong cuộc khủng hoảng Đồng Tâm, người viết bài này cũng như tuyệt đại đa số người dân đều mong muốn Trung ương Đảng, Quốc hội và các cơ quan chức năng cần hồi đáp đơn thư và các nguyện vọng, kiến nghị của người dân.”

Khi đất nước còn ở trong tình cảnh một cổ hai tròng (thực dân & phong kiến) nếu bị đám quan lại địa phương ức hiếp, mấy ông già Ba Tri thời trước chỉ cần mất vài tháng đi bộ từ quê mình ra đến kinh đô – nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn – rồi chầu tấu trình sự việc là … kể như xong.

Còn bây giờ “tuyệt đại đa số người dân đều mong muốn Trung ương Đảng, Quốc hội và các cơ quan chức năng hồi đáp đơn thư” thôi nhưng điều “mong muốn” giản dị này – xem ra – vẫn hơi có vẻ xa vời, nếu chưa muốn nói là xa xỉ.

Chúng ta đang sống vào cái thời đại (thổ tả) gì vậy, hả Trời?

27/08/ 2018


 

Dư Thị Thành- Tưởng Năng Tiến

Ba’o Tieng Dan

09/01/2025

Tưởng Năng Tiến

9-1-2024

Hồi ký (Đồng Bằng) của Nguyên Ngọc có dành đôi ba trang viết về Rạch Gốc – một địa danh hẻo lánh, ở tuốt luốt tận dưới mũi Cà Mau lận:

Rạch Gốc chẳng chợ búa gì hết, mọi thứ phải chạy đò lên Năm Căn mua… Một buổi sáng, bước ra trước sân Ủy ban, tôi ngạc nhiên thấy treo cờ tang.

Hỏi sao vậy … trả lời: Ông Andropov chết.

Tôi hỏi lại: Ông Andropov là ai thế?

Trả lời: Không biết, nghe đài Hà Nội biểu treo cờ tang thì mình treo…

Cờ tang cho ông Andropov nào đó treo rất đúng quy cách, chỉ kéo tới nửa cột, thòng kèm một dải vải đen nhỏ phất phơ trong gió biển…”

Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa.

Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.

Nói chi đến chuyện tang ma của một đồng chí cỡ Tổng Bí Thư và Chủ Tịch Nước của nước ta. Tang lễ, truy điệu, điếu văn, nhang khói, hoa hòe, hoa sói, cờ phướn, cờ tang, cờ liệt, cờ rũ … thì (ôi thôi) tá lả bùng binh – theo như thông tin rầm rộ của báo chí nước nhà:

Ở thời điểm này, phu nhân của cố TBT – tất nhiên – cũng trở thành một yếu nhân, thuộc diện trung tâm. Mọi hình ảnh của bà đều được ký giả, phóng viên, nhà báo … ghi lại qua ống kính, không sót một góc cạnh nào:

Thế mới biết là giới truyền thông của nước CHXHCNVN “tác nghiệp” cũng rất nhiệt tình và hăng hái, trong điều kiện an toàn. Riêng báo Tuổi Trẻ còn có bài (“Thư Tay Của Phu Nhân Tổng Bí Thư Lào Gửi Phu Nhân Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng”) cảm động hết biết luôn, khiến cho mọi tầng lớp độc giả đều phải sụt sùi, rơi lệ:

“Chị Mận kính mến!        

Hôm nay (ngày 19-7), khi vừa về đến nhà, anh Thongloun Sisoulith bước đến gần em với sắc mặt buồn rầu và cất giọng nói khác thường: ‘Naly ơi, anh vừa nhận được tin anh Nguyễn Phú Trọng mất, anh đã rời xa chúng ta rồi’.

Chị Mận ơi, trong giây phút đó em thật sự đứng tim, không thể nói nên lời và em không thể cầm được nước mắt, anh Thongloun Sisoulith đã ôm em vỗ nhẹ vào lưng và an ủi rằng: ‘Anh cũng rất đau buồn và thương tiếc khi nhận được báo cáo khẩn từ Hà Nội, em hãy bình tĩnh và mạnh mẽ. Anh Trọng đã ra đi một cách thanh thản, anh ấy đã nhắm mắt đi xa trong niềm tiếc thương và đau buồn vô tận của nhân dân cả nước Việt Nam’.

Ai mà dè dân Lào lại đa cảm dữ vậy chớ? Tình cảm của bà Naly dành cho bà Mận (không dưng) khiến tôi thốt nhớ đến tình cảnh buồn bã và cô quạnh của một người đàn bà khác, bà quả phụ Lê Đình Kình – nhũ danh Dư Thị Thành.

Chồng bà Thành cũng là một đảng viên Cộng Sản (và cũng đã qua đời cách đây chưa lâu lắm) nhưng cái chết của ông ta bất ngờ, rùng rợn, thảm thiết lắm kìa. Tang ma thì não nề, và u uất. Tình cảnh vợ con/cháu chắt của người quá cố, xem ra, cũng vô cùng bi đát – theo tường thuật của RFA:

Đã bốn năm trôi qua kể từ ngày hàng ngàn cảnh sát cơ động tấn công vào thôn Hoành lúc rạng sáng, bắn chết cụ Lê Đình Kình – thủ lĩnh tinh thần của người Đồng Tâm, nhưng những ký ức đau buồn vẫn còn hiển hiện đối với những người liên quan như mới hôm qua…

Những người đàn ông trụ cột trong nhà, người thì bị bắn chết như ông Lê Đình Kình, người thì bị tuyên án tử hình như hai con trai của ông là Lê Đình Công và Lê Đình Chức, cháu nội ông Kình là Lê Đình Doanh bị án chung thân, và ba người khác bị án tù từ 12 năm đến 16 năm về tội “giết người” trong khi sáu người khác bị kết án từ 5-6 năm về tội “chống người thi hành công vụ.”

Trong cuộc trả lời phỏng vấn của RFA trước ngày giỗ chồng lần thứ tư, bà quả phụ Dư Thị Thành cho biết đến nay, chính quyền xã không làm giấy khai tử cho ông Kình vì bà không đồng ý ký giấy thừa nhận ông bị bắn chết ở Đồng Sênh, là cánh đồng mà dân Đồng Tâm cho là của mình còn chính quyền thành phố Hà Nội và huyện Mỹ Đức nói là đất quốc phòng.

Facebooker Lã Việt Dũng, người có mặt tại hiện trường, cho biết thêm chi tiết qua BBC:

“Sáng nay đám tang cụ Kình, an ninh chìm nổi dày đặc…không cho một ai quay phim, chụp ảnh và cắt liên lạc toàn vùng. Tuy nhiên vẫn có một phóng viên … tiếp cận và lấy được lời kể của vợ cụ Kình:

‘Người ta bắt khai là ở nhà cầm lựu đạn, tôi bảo là tôi không biết quả lựu đạn thế nào, tôi không biết bom xăng là thế nào, thì tôi không khai được. Thế là nó tát, cứ thế nó tát, nó đá, tát suốt, hết bên nọ sang bên kia, xong rồi nó đá vào hai bên ống chân,’ bà Thành nói”.

Sao mà đối xử phân biệt “kỹ” dữ vậy, hả Trời?

Cả hai ông đều là đảng viên cộng sản lão thành (và đều tin vào chủ nghĩa này cho đến hơi thở cuối) mà. Nguyễn Phú Trọng thì nhất định dẫn dắt cả nước đi theo con đường XHCN, dù không tin rằng nó có thể “hoàn thiện đến cuối thế kỷ này”. Còn Lê Đình Kình thì “tin ông Trọng, ủng hộ ông Trọng, ủng hộ đảng tuyệt đối”, bất kể đúng sai. Vậy mà ông Tổng Bí Thư nỡ hạ sát ông Bí Thư Xã bằng nhiều phát đạn. Chưa đã, nạn nhân còn bị phanh thây, không cho khai tử, rồi tịch thu luôn cả tiền phúng điếu, và bắt con cái người ta phải chịu án tử hình – y như một vụ án tru di!

Nay thì cả hai ông đều đã xuống tới Suối Vàng (nơi mà sức mạnh của chuyên chính vô sản chắc không còn hiệu lực) nên hy vọng họ có thể nói chuyện phải quấy với nhau một cách bình đẳng và tử tế hơn – chút xíu!

Sự bình đẳng và tử tế không hề có trên dương thế:

Cùng là phận đàn bà
Một người chìm dưới đáy
Người tột đỉnh vinh hoa
Nhưng băng tang cũng vậy

Cũng màu tang trắng ấy
Phanh thây Lê Đình Kình
Cũng màu tang trắng ấy
Cả triều đình tụng kinh

Thơ thay mặt thần linh
Cất tiếng lòng Đỗ Phủ
Trần gian lắm bất bình
Người với người dã thú

Cùng là thân phụ nữ
Xót bà vợ dân lành
Tiếng khóc than ai oán
Thấu chín tầng trời xanh!

Bùi Chí Vinh  – 29/7/2024

Nước ta – may quá –  bên cạnh 820 tờ báo và 41.000 người cầm viết ăn lương, vẫn còn có được một nhà thơ, và một bài thơ … tử tế!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến –  Lê Đình Kình

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

07/01/2025

Khi có dịp gặp nhau, ở bất cứ nơi đâu, những người Việt tị nạn Cộng Sản vẫn thường hay sa đà vào những câu chuyện có liên quan đến vấn đề thời sự hay chính trị ở quê nhà. Bữa rồi, trong tiệc cưới, có ông mượn một thành ngữ thường nghe ở Hoa Kỳ (“The only good Indian is a dead Indian”) để lên tiếng giễu cợt: “Thằng cộng sản chỉ tốt khi nó không còn thở nữa.” Câu nói được nhiều người ngồi chung bàn người bật cười tán thưởng.

Sự thực (e) không giản dị thế đâu. Khối thằng đã chết từ lâu nhưng di hại vẫn kéo dài mãi mãi:

Bác Hồ đang sống bỗng chuyển qua từ trần vào năm 1969 nhưng hơn một phần tư thế kỷ qua ổng vẫn gây ra hao tốn đều đều, và mỗi lúc một thêm hao. FB Vũ Huy Hoàng  cho biết “ngân sách cho BQL Lăng đã tăng từ 157,300 tỷ đồng năm 2010 lên tới 318,730 tỷ đồng cho năm 2016.” Thảo nào mà số nợ công hằng năm cũng  tăng theo vùn vụt.

Cái kiểu lìa đời của bác Trần Đại Quang cũng phiền nhiễu lắm. Ổng chiếm một “khu lăng mộ vài chục ngàn mét vuông” lận. Khoảnh đất bao la này mà mang bán cho anh Vượng Vin để xây chung cư thì số nợ công chắc cũng giảm kha khá, chứ không phải ít. Bác Phạm Văn Đồng tuy đã rời xa nhân thế khá lâu nhưng vẫn để lại một dấu ấn khó phai: Công Hàm (158). Bác Nguyễn Văn Linh và bác Đỗ Mười, tất nhiên, cũng không kém cạnh: Mật Ước Thành Đô

Gần đây, có lẽ, chỉ có một đảng viên cộng sản duy nhất khi sống (cũng như lúc thác) vẫn được coi là một người tốt là ông Lê Đình Kình. Nhân vật này bị giết hại  một cách tàn bạo, vào rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020, và ngay hôm sau kẻ thủ ác được Đảng và Nhà Nước truy tặng huân chương chiến công hạng nhất. Tuy thế,  cái chết thương tâm của ông (tựa như một giọt nước tràn ly) đã gây ra một hiệu ứng tích cực về mặt nhận thức nơi rất nhiều người:

  • TS. Mạc Văn Trang: Sự kiện đảng viên Đảng CSVN LÊ ĐÌNH KÌNH 58 tuổi đảng, 84 tuổi đời, một lý lịch đảng viên đầy chiến tích, mà không một UV Trung ương hay UV Bộ Chính trị nào hiện nay dám so sánh với Cụ, đã bị chính các đồng chí của mình sát hại, vẫn gây chấn động nhân tâm. Nhân đây, nhìn lại TÌNH ĐỒNG CHÍ của các đảng viên Đảng cộng sản thì mới rõ. ĐỒNG CHÍ = “ĐỒNG CHÓ”!
  • Nhà báo Lê Phú Khải : “Máu ở Đồng Tâm như một thứ thuốc hiện hình làm rõ những điều mà trước đây người ta không thể nghĩ tới! Nó là một bước ngoặt vô hình của lịch sử.
  • Nhà văn Nguyên Ngọc: “Tôi thiết tha kêu gọi mọi bậc trí giả trong nước và trên thế giới cùng mọi người có lương tri lên án tội ác man dại này và ngăn chặn nó có thể tái diễn bất cứ ở đâu.”

Lời kêu gọi “thiết tha” thượng dẫn được đáp ứng tức thì:

  • BBT trang Bauxite Việt Nam lên tiếng: “Nhiệt liệt hưởng ứng lời tuyên bố nóng hổi của nhà văn Nguyên Ngọc và qua trang mạng chúng tôi cũng như nhiều phương tiện thông tin đại chúng khác, rất mong tiếng nói tố cáo trung thực của nhà văn sớm lan tỏa rộng rãi khắp trong nước và trên toàn thế giới.”
  • Thành viên của Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng gửi thư đến Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc (LHQ) kêu gọi sự can thiệp trong vụ việc Đồng Tâm: “Mong Ngài Tổng Thư ký LHQ có tiếng nói kịp thời để ngăn chặn giải pháp tàn bạo của một nhà nước vừa được đảm nhận vai trò Uỷ viên Không Thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020-202.”

Sau bức thư lịch sử này, có thể, cụm từ “đối lập trung thành” sẽ biến mất luôn khỏi ngôn ngữ VN. Cũng từ nay –  hy vọng – sẽ không còn lời kêu cầu, bản kiến nghị, hay đơn thư (tâm huyết) nào gửi đến Bộ Chính Trị, Văn Phòng Thủ Tướng hay Quốc Hội như trước nữa. Ông Hà Sĩ Phu bình luận: “Việc thảm sát đảng viên lão thành rất yêu đảng như cụ Kình là lời tuyên ngôn khai tử hình thức đấu tranh trong nội bộ đảng, cũng chấm dứt hy vọng dùng đường lối cải lương để cải biến tình hình.”

Nguyễn Quang Lập  khái quát vấn đề một cách vô cùng dung dị: “Nguyễn Trọng Tín đánh xe tới nhà tui, nói, tui nói với ông một câu rồi tui dzề: Dzụ Đồng Tâm cho biết điều quan trọng này: Thực sự chính quyền này không phải của dân. Dzậy thôi!”

Sao “thôi ngang” như vậy được, cha nội? Chơi vậy đâu có “fair”! Nẫy giờ toàn trích dẫn ý kiến của một phe thôi – phe của những đảng viên ly khai và của đám dân đen sôi sục vì bất mãn. Còn phía Đảng và Nhà Nước nữa chớ. Để cho nó khách quan xin nghe thêm tiếng nói của hai ông (cố) TBT và TT:

  • Nguyễn Phú Trọng: “Không có một lực lượng nào khác ngoài ĐCSVN có đủ bản lĩnh, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn.”
  • Nguyễn Xuân Phúc: “Điều tôi muốn nhấn mạnh là niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng… chưa bao giờ lớn và sâu sắc như lúc này.”

Sự thực ra sao? Thực trạng và thực lực của Đảng CSVN hiện nay thế nào?

Hãy nghe đôi lời từ vài nhân chứng khả tín và thế giá:

“Tôi ‘thoái Đảng’ vào thời điểm hiện tượng trên còn hãn hữu, nhưng đến nay nó đã trở nên phổ biến. Các đảng viên ĐCSVN, khi nhận quyết định nghỉ hưu, thường họ không chuyển giấy sinh hoạt cho các đảng bộ địa phương, mà lặng lẽ cất kỹ dưới đáy tủ như kỷ niệm của ‘một thời đáng quên!’.

Họ lặng lẽ, âm thầm thực hiện hành động đó, không ồn ào và công khai với bất cứ ai, trừ khi là bạn rất thân của nhau. Đến nay, đã bao nhiêu đảng viên cộng sản chọn cách này để ‘tạm biệt’ Đảng, không một ai có thể biết chính xác, bởi Đảng giấu rất kỹ. Nhưng theo nhiều người dự đoán, con số này ước khoảng 45%! Số còn lại, mang tiếng là ‘vẫn yêu Đảng’, nhưng thực tế đa số họ đã ‘chán Đảng’, họ miễn cưỡng phải tiếp tục ở lại sinh hoạt vì nhiều lý do khác nhau, trong đó phải kể đến lý do hàng đầu là sợ liên lụy đến con cháu, tiếp đến là sợ ảnh hưởng đến ‘sổ hưu’, tức kế sinh nhai hàng ngày của họ.”

  • Nhà văn Tạ Duy Anh, một người ngoài Đảng, viết trong tác phẩm (“Dưới Bàn Tay Vô Hình’) chưa xuất bản như sau: “…Lần ấy P. Thắng, nhân viên chính trị của tiểu đoàn, nhận lệnh đi công tác một tháng. Theo thông lệ, cậu ta bàn giao lại việc cho tôi, nhân viên quân lực. Tuy không phải đảng viên nhưng tôi thông thuộc hết mọi thủ tục để hoàn thiện bộ hồ sơ cho một đảng viên mới, chính là nhờ một tháng làm thay ấy

Vốn là người chu đáo, trước khi đi, Thắng bỏ ra một buổi chiều dặn kỹ tôi phải làm gì. Bấy giờ tôi mới biết: Trọn vẹn một bộ hồ sơ để kết nạp ai đó vào đảng, từ đơn xin gia nhập đảng, lời của hai đảng viên giới thiệu, đến tất cả những trích biên bản cuộc họp, (họp quần chúng, họp chi đoàn, liên chi đoàn, chi bộ, chi ủy…) đều do nhân viên chính trị làm.

Tức là bịa ra hoàn toàn. Càng bịa giỏi càng được coi là có năng lực… Suốt cái tháng cuối năm ấy, tôi “chế” được cả thảy hơn chục bộ hồ sơ “đẹp như mơ”, có bút tích, chữ ký của tôi với cái tên Tạ Duy Anh chưa bao giờ được công nhận về mặt hành chính. Nhiều năm sau thỉnh thoảng tôi vẫn thấy khoái trá với ý nghĩ: “Mình chỉ làm thay có một tháng, trong phạm vi một tiểu đoàn, mà đã góp cho đội ngũ trùng trùng điệp điệp hơn chục thành viên, vẻ vang là cái chắc.”

Cái “đội ngũ trùng trùng điệp” mấy triệu đảng viên CSVN, xem ra, chỉ là những con số không hồn. Nền không chắc mà tường cao thì sự sụp đổ nằm sẵn nơi đó rồiẤy thế mà hôm 3 tháng 2 vừa qua, họ vừa “Kỷ Niệm Trọng Thể 90 Năm Ngày Thành Lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.” Rõ ràng là nguyên một dân tộc bị đè đầu cưỡi cổ gần một thế kỷ qua mà không nhóc nhách gì được cả.

Sao thế nhỉ?

Và liệu nghịch lý này sẽ còn kéo dài thêm bao nhiêu năm nữa?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Lê Thị Thanh Lâm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

04/01/2025

Trong lúc ông Tô Lâm đang ồn ào “giống trống lệnh” (phòng chống lãng phí) thì nhà báo & nhà văn Lưu Trọng Văn nhỏ nhẹ tâm sự: “Nhà lý luận Nhị Lê nói với gã … cái mà chúng ta đang lãng phí gây ra tổn thất lớn nhất chính là lãng phí niềm tin.”

Bộ thiệt vậy sao?

Sao các nhà (nhà báo, nhà lý luận, nhà văn .. ) lại cứ cố nói vớt vát (và nói lấy được) như vậy cà? Có còn ai tin tưởng tí gì vào cái chế độ hiện hành đâu mà lại đặt vấn đề lãng nhách và lãng xẹt, vậy Trời ?

Quý vị có thể quên, chứ quần chúng thì không! Sự việc vẫn còn sờ sờ ra đó, và đã hết chuyện hồi nào đâu mà sao họ lại nhanh quên đến thế:

Giữa thế kỷ trước, đã có bao nhiêu người dân Việt hốt hoảng bỏ hết ruộng vườn, làng mạc, mồ mả tổ tiên tất tả đi di cư từ Bắc vào Nam lánh nạn. Đến cuối thế kỷ,  có thêm bao nhiêu triệu người khác nữa, hớt ha/hớt hải đâm xầm ra biển để tìm tự do? Bao nhiêu kẻ đã chết đói, chết khát (chết chìm, chết đắm, chết đuối, chết trôi …) thi thể nổi lều bều trên Biển Đông suốt mấy thập niên liền?

Bẩy mươi năm sau, nếu tính từ 1954, vào hôm 5 tháng 7 năm 2024, thông tín viên Cao Nguyên (RFA) lại vừa tường thuật:

“Hiện tại có gần 6.000 người Việt đã luồn lách qua những cánh rừng, những hoang mạc đầy bất trắc gần biên giới đường bộ Mexico để leo rào vào Mỹ một cách bất hợp pháp. Họ đánh cược tài sản, tuổi thanh xuân và cả tính mạng của mình với hy vọng mơ hồ rằng sẽ định cư tại xứ cờ hoa”.

Nói chi đến xứ “cờ hoa”. Biết bao thanh niên thiếu nữ VN đã “đánh cược tài sản lẫn tuổi thanh xuân” trong những chiếc xe tải bít bùng mà chắc chắn là không kẻ nào biết là mình sẽ phiêu lưu đến đâu, nếu còn sống sót. Đâu cũng được miễn là không phải trở lại quê hương đất nước khốn khổ của mình thôi. Liệu có còn chút lòng tin nào nơi mà ngay cả những cái cột đèn cũng sẽ bỏ đi (nếu chúng có chân) mà quý vị lo chuyện “lãng phí” ?

Lắm vị thức giả rất hay quên (hay nhất định không chịu nhớ) chớ đám thường dân thì không. Ngoài việc ghi nhận mọi nỗi cùng cực/đắng cay của những đám nạn nhân tập thể (như vừa kể) chúng tôi cũng không quên vô số những mảnh đời nhỏ nhoi và mọi điều bất hạnh, bất công, bất chính đang xẩy ra cho họ.

Nhân vật chính trong câu chuyện hôm nay có tên là Lê Thị Thanh Lâm (L.T.T.L)  phu nhân của nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Bùi Tuấn Lâm, người đã bị bắt giam vì đã giễu nhại cảnh “ăn bò dát vàng” của Bộ Trưởng Công An – Tô Lâm.

Ngày 25 tháng 5 năm 2023, ông bị kết án 5 năm 6 tháng tù giam và bốn năm quản chế trong khi vợ con và thân nhân bị hành hung thô bạo, ngay trước cổng tòa án. Cũng hôm đó, L.T.T.L còn bị “bắt cóc” về đồn công an, và nhân viên an ninh thành phố Đà Nẵng chỉ tay vào mặt bà, và nói: “Tao sẽ không để cho mẹ con mày được yên.”

Tất cả các cơ quan “chức năng” đã giữ đúng lời. Họ chưa bao giờ “để mẹ con được yên” từ đó đến nay.

Ngày 13 tháng 10 năm 2023, L.T.T.L cho biết:

Trại Giam Đà Nẵng ngăn cản không cho mẹ con tôi thăm gặp Bùi Tuấn Lâm?

Đã 2 tháng trôi qua, gia đình tôi vẫn chưa được thăm gặp ba của bọn trẻ.

– Trong tháng 9, không có cuộc gặp nào vì họ nói chồng tôi bị kỷ luật.

– Tháng 10, họ đồng ý cho thăm gặp lại nên đã nhận đơn từ ngày 2/10. Nhưng đến nay không giải quyết. Cán bộ trại giam nhận đơn của tôi đến hôm nay đã chặn luôn số điện thoại của tôi. Phó giám thị thì nói không nhận được đơn trình báo. Tất cả các phòng ban và cán bộ đều đùn đẩy qua lại cuộc thăm gặp này…

Mấy tháng sau, hôm 18 tháng 2 năm 2024, nhà báo Tuấn Khanh còn cho biết thêm:

Kể từ khi ông Bùi Tuấn Lâm đi tù, quán bún bò Ba Cô Gái nổi tiếng của gia đình cũng bị đóng cửa theo, chấm dứt phương thức sinh sống cuối cùng của gia đình. Bà Lâm chỉ còn cách buôn bán hàng online để tìm chút tiền lời nuôi con và đi thăm nuôi chồng. Phía công an hiểu rõ khó khăn của gia đình, và dựng một kế hoạch để đánh triệt đường sinh sống của người mẹ có ba đứa con nhỏ…

Mới đây, vào đầu Tháng Hai, bà Lâm nhận được một đơn mua hàng online của một người nói là sẽ đến tận nhà để nhận chứ không cần phải gửi. Bà đồng ý và đợi người đến lấy hàng, nhưng không hề biết đó là một cái bẫy của công an nhằm để kết tội bà mua bán trái phép.

Đúng hẹn, người gài bẫy của công an đến nhận hàng, thì lập tức cả chục người của chính quyền ập đến kiểm tra, lập biên bản và thu giữ “tang vật vi phạm.” mà tất cả chỉ là những hũ rong biển, mít sấy, vài chai xì dầu và ít lon sữa đặc. Họ bao vây bắt bà Lâm nhận tội bàn hàng gian gần bốn tiếng đồng hồ, ép ký vào biên bản.

Kẻ mua hàng chạy mất, cũng như khoá số điện thoại. Câu chuyện được kể lại, khiến ai cũng hiểu đây là một cái bẫy quá ấu trĩ.

Câu chuyện kế tiếp thì hoàn toàn không “ấu trĩ” tí nào và nghiêm trọng hơn nhiều, theo lời kể của chính nạn nhân, vào hôm 04 tháng 12 năm 2024:

“Cách đây tầm hơn 2 tháng, an ninh PA88 của thành phố Đà Nẵng đã vào tận trại Xuân Lộc Đồng Nai để gặp chồng tôi. Mặc dù chồng tôi đang thụ án và chẳng có gì cần phải làm việc với an ninh Đà Nẵng nữa. Chồng tôi có thể từ chối cuộc gặp, nhưng anh muốn nghe xem là họ sẽ nói gì với mình.

Cuộc gặp diễn ra giữa ba bên, 2 an ninh Đà Nẵng, cán bộ trại giam Xuân Lộc và chồng tôi. Tất cả cũng phải trên dưới 10 người, một con số chứng kiến khá đông… hai anh an ninh Đà Nẵng đặc biệt quan tâm tới công việc buôn bán của tôi, thậm chí tôi còn không biết họ ‘quan tâm’ hay đang hăm dọa khi nói rằng tôi đi giao nhận hàng coi chừng xui xui bị xe đụng…”

Khi ông Tô Lâm còn làm bộ trưởng công an thì L.T.T.L bị đe dọa (“không để cho mẹ con mày được yên”) đến khi ông ấy lên ngôi Tổng Bí Thư thì lời đe dọa này có nguy cơ sẽ biến thành hiện thực: “đi giao hàng coi chừng xe đụng”!

Lịch sử cổ kim, có lẽ, chưa bao giờ có một chính thể nào mà hèn hạ, ác độc, ti tiểu và ti tiện đến như thế cả. Đó là một chế độ bất nhân và đó cũng chính là điểm nghẽn (của điểm nghẽn) mà cái nhà nước vô nhân tính hiện hành vô phương tháo gỡ!


 

Dân đức và quan đức-Tưởng Năng Tiến

Ba’o Tieng Dan

Tưởng Năng Tiến

29-12-2024

Tui định đi Nhật nhiều lần nhưng chỉ “định” thế (cho đỡ buồn) chứ chưa bao giờ đặt chân tới Xứ Hoa Anh Đào cả. Chả phải vì tôi thiếu dịp may mà chỉ tại tôi nghèo thôi. Tiền rượu còn bữa thiếu (bữa không) mà nói đến chuyện viễn du làm chi, cho má nó khi.

Cứ sống mãi ở nhà (cơm nhà quà vợ) thì cũng chả sao, nếu bạn bè khá giả đừng cứ tung tăng đi đây/ đi đó, rồi lên Facebook kể lể tùm lum đủ chuyện khiến mình – đôi lúc – cũng nóng … như hơ!

Từ Nhật về, vừa bước vào cửa, nhà báo Từ Thức đã hớn hở kể chuyện (làm quà) khiến ai cũng phải xuýt xoa:

 “Loạng quạng, đánh rơi cái ví (portefeuille), trong đó có thẻ kiểm tra (ID/ carte didentité), carte bleue (credit card), 250 Euros và một số tiền Nhật mới đổi. Ra bót cảnh sát đầu đường. Nhân viên cảnh sát có vẻ mừng rỡ vì có việc làm.

Thường thường, cảnh sát Nhật ngồi buồn tênh, đi ra đi vào, không có ai thưa gởi gì, không có ẩu đả, ăn trộm, ăn cướp, ăn cắp, lừa đảo. Thỉnh thoảng vớ được một bà già té xỉu, chở tới bệnh viện. Hay đưa một ông cụ qua đường (đưa thực, không phải dìu ông già trước máy quay phim, quay phim xong đá đít ông già) hay chỉ lối cho một du khách tới một địa chỉ không có tên đường.

Một ông cảnh sát mở computer, coi danh sách những đồ vật lượm được trong thành phố. Một bà gọi điện thoại tới phi trường. Người thứ ba đứng coi, sẵn sàng phụ tá hai đồng nghiệp. Họ hơi thất vọng vì không tìm thấy gì, khuyên nên trở lại buổi chiều.

Chiều, trở lại, họ đã tìm được cái ví. Có người lượm được dưới ghế một xe bus, đưa cho tài xế. Giấy tờ, tiền bạc còn y nguyên. Xứ sở gì kỳ cục”.

Hết Từ Thức lại đến vợ chồng Huong Tran và Hon Viet. Cả hai đang lang thang khắp xứ Phù Tang, vừa đi vừa huyên thuyên đủ chuyện:

“Dân du lịch đi lạc có thể hỏi đường bắt cứ một người Nhật nào trên đường, dù không biết một chữ tiếng Anh, họ cũng sẽ tận tình giúp đỡ. Mặc dù đây là lần thứ 3 đi Nhật, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn bị lạc.

Ngày đầu tiên đi tìm hotel, mặc dù có Google map nhưng vẫn đi lạc. May có cô bé mới đi làm ra, mình cho cô xem địa chỉ, cô ta coi Google map rồi đưa mình tới tận cửa hotel luôn. Cô bé này chỉ nói được vài chữ tiếng Anh. 

Tới Nagoya, lại cũng đi tìm hotel, dừng lại hỏi đường một vài người Nhật đang đứng truyền đạo, mấy cô xem Google map xong nói: Thôi để chúng tôi đưa ông bà tới hotel đó luôn. Và họ vui vẻ đưa tới tận cửa”.

Nghe mà không khỏi liên tưởng đến hình ảnh những bảng đòi tiền chỉ đường (ở đất nước mình) cùng với đề xuất 350.000 tỷ đồng để “chấn hưng phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam”, của Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch.

Mười lăm tỉ Mỹ kim đối với chính phủ hiện hành (nói nào ngay) chỉ là chuyện nhỏ, nếu so với con số 67,3 tỷ USD xây đường sắt cao tốc Bắc Nam, để sáng ăn điểm tâm ở Hà Nội và trưa nhậu sương sương ở Sài Gòn. Câu hỏi cần được đặt ra là liệu có thể “chấn hưng văn hóa” bằng tiền (?) và dân tộc này – sau nhiều thập niên “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương bác Hồ vĩ đại – lại “xuống cấp” tới cỡ cần phải “tân trang” bằng nhiều đô la dữ vậy sao ?

Vấn đề cứ khiến cho tôi băn khoăn mãi, nên cuối cùng quyết định phải trở lại quê nhà vài bữa xem hư/thực ra sao? Qua Nhật thì mới lo tiền, chớ về Việt Nam đi tuốt tuồn tuột từ Bắc ra Nam (bằng xe hỏa) thuê nhà nghỉ loại ngủ chung chạ – nằm trên những cái giường đôi, gọi là ở dorm, như đám Tây con và chỉ uống Vodka (Hà Nội) thôi thì nào có tốn kém bao nhiêu.

Thế là bay thôi!

Ra khỏi phi trường Nội Bài, tôi bảo Taxi “cho về Yên Hoa” nhưng tài xế lại nghe ra “Yên Hòa”. Thế là xe chạy lòng vòng bằng thích. Cuối cùng rồi cũng đến nơi nhưng chú em nhất định không nhận số tiền hiển hiện trên máy mà hào sảng bớt hẳn một phần ba, với lý do giản dị: “Lỗi tại cháu nghe lầm, chứ đâu có đến cái giá đó.”.

Hôm ở Bồng Sơn (Bình Định) cũng vậy. Tôi đặt chỗ ngủ tại nhà nghỉ Tiến Vương. Bác xe ôm đã già quá cỡ (cỡ như tui) nên nghễnh ngãng nghe ra Tiến Phát. Thế là lại mất thêm một đoạn đường (dài) nhưng lại rất vui vì chúng tôi vừa đi vừa chuyện trò vô cùng rôm rả. Cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp tôi đều ngọng nghịu (chớ) còn tiếng Nam, tiếng Bắc, tiếng Huế, tiếng Thanh, tiếng Nghệ, tiếng Quảng thì tôi phát âm nhuần nhuyễn như nhau – kể cả Quảng Bình.

Tới nơi mới biết là mình lại gặp một tay “hảo hớn”, dù y nghèo ra mặt:

– Đúng rơ (ra) là trem hơi (trăm hai) nhưng lẫu (lỗi) tại tui nghe lộn nên cho tém (tám) chục lờ (là) được rầu (rồi).

Ông bạn đồng hương (và đồng thời) hào sảng của tôi ơi! Chúng ta đều gần đất xa trời lắm rồi, lẽ ra, ông không còn phải vất vả mưu sinh bằng một cái Honda tàn tạ như vậy nữa. Tôi thương ông (thương cả cái xe rệu rã) cùng tất cả mọi thứ, chả may, hiện hữu ở đất nước khốn khổ và khốn nạn này!

Cũng như bao nhiêu địa danh hẻo lánh và nghèo nàn khác, thị xã Hoài Nhơn không có chỗ mô để đi (và cũng không có cái chi để nhìn) ngoài bãi biển Tam Quan hoang sơ, vắng ngơ (vắng ngắt) nhưng thơ mộng và an lành chưa từng thấy. Suốt đời tôi chưa bao giờ được đứng (bơ vơ) một mình giữa biển trời bao la xanh ngát, với tiếng sóng vỗ rì rào (dịu êm) như thế cả.

Sao mà bỏ đi cho được (chớ) nên tôi lưu lại Bồng Sơn tới đôi ba bữa. Thời gian đủ để tôi làm quen được một gia đình bán cơm, gần chỗ trọ. Tôi sinh trưởng ở Cao Nguyên (Lâm Viên) nên hoàn toàn không mặn mà gì với cá mắm (hay cá mú) dù đồ biển ở đây tươi lắm. Tôi nhờ họ làm cho món đậu rán chiên dòn, để chấm nước tương đen, ăn cùng với ớt đỏ.

Cô em không chỉ vui vẻ nhận lời mà còn cho thêm tôi một chén canh tép nữa. Không biết là nấu với thứ rau chi nhưng húp mát rượi và ngọt lừ hà, ngọt nhất là đôi lời “khuyến mãi” vô cùng mộc mạc và hết mực chân tình:

– Cứ en (ăn) đi. En hết lấy thêm. Tui không tính tiền keng (canh) đâu.

Người đâu mà tốt bụng nhưng xấu số. Chồng đi biển rồi đi luôn, vào một ngày biển động. Con trai lớn (lái xe tải) cũng theo cha sau một tai nạn giao thông, để lại bốn đứa con lau nhau lắt nhắt. Vậy là cô em (cùng đứa gái út, mới mười mấy tuổi) và con dâu bèn mở một cái quán cơm lụp xụp bên hè, sau khi cân nhắc kỹ rằng nếu không có lời thì cũng không lỗ lắm:

– Khéc (khách) không en thì nhờ (nhà) mình en chớ mớt (mất) chi mờ (mà) lo.

Nghe thiệt muốn ứa nước mắt!

Bữa cơm chiều cuối cùng, tôi kín đáo để lại một số tiền nho nhỏ (có lẽ chỉ đủ để mua vài bộ quần áo Tết cho mấy đứa bé mồ côi lam lũ, tết sắp đến nơi rồi) nhưng vừa quay lưng thì đã bị phát hiện ngay tại … hiện trường! Cô em tức tốc đuổi theo để trả lại cho bằng được tờ giấy bạc, đang nắm chặt trong tay, khiến tôi ngượng chín người:

– Ông chú cho nhiều quớ (quá). Tui cởm (cảm) ơn lém (lắm) nhưng nhờ (nhà) tui bớn hờng (bán hàng) chớ đâu en xin!

Mà nào có riêng chi mình tôi phải đỏ mặt. Lẽ ra, bọn thống trị – ở xứ sở này – cũng phải có kẻ còn biết ngượng (chớ) khi họ đọc được những mẩu tin ngăn ngắn hàng ngày:

– Thanh Niên: “Chị phụ hồ trả lại 150 triệu đồng nhặt được … Ba hôm trước, chị Dung mua tấm bạt nhựa ở tiệm tạp hóa của bà Nguyễn Thị Mai cách nhà khoảng một km. Lúc trải tấm bạt ra sân, chị bất ngờ thấy túi nylon đựng 150 triệu đồng. Khi chị báo với chồng, anh Thanh không chút đắn đo, hối thúc vợ đem số tiền trả lại cho chủ tiệm”.

– Tuổi Trẻ: “Phát hiện 180 triệu đồng và 1,3 lượng vàng trong chiếc tủ sắt cũ phế liệu vừa mua với giá 20.000 đồng, người đàn ông làm nghề thu gom ve chai nghèo khó đã liên hệ công an xã, trả lại cho người mất”.

– Vnexpress: “Chị Lê Thị Đại (ở xã Bình Đông, huyện Bình Sơn) cũng trả 19 triệu đồng nhặt được cho người mất. Khi được biếu lại 1,5 triệu để cảm ơn, chị Đại đã ủng hộ vào quỹ phòng chống Covid-19 của huyện”.

Trong khi người dân “biếu lại tiền” để “ủng hộ vào quỹ phòng chống Covid-19” thì giới quan chức các cấp (từ trung ương đến địa phương) đều lợi dụng nước đục thả câu bằng “những chuyến bay giải cứu” và những mũi “tiêm chủng phòng ngừa” để trấn lột thiên hạ, một cách vô cùng dã man, giữa cơn đại dịch.

Dân tộc này không cần đến hàng chục tỷ Mỹ Kim để “chấn hưng phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam” đâu. Họ chỉ cần loại bỏ cái đám quan chức vô nhân tính hiện hành, cùng cái cơ chế đểu cán/ gian trá/ độc ác và thối rữa … đã tạo ra bọn chúng thôi!


 

Từ Chung – Tưởng Năng Tiến

Ba’o Tieng Dan

Tưởng Năng Tiến

27-12-2024

Tác giả Võ Văn Quản vừa có bài viết hơi bất ngờ và khá thú vị (“Bốn Nhân Vật Dân Sự Xuất Sắc Của Việt Nam Cộng Hòa Có Thể Bạn Chưa Biết”) trên Tạp Chí Luật Khoa:

– Giáo sư Nguyễn Văn Bông

– Bộ trưởng Cao Văn Thân

– Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy

– Nhà báo Từ Chung

Xin được ghi lại đôi ba đoạn chính về nhân vật cuối:

“Từ Chung là biên tập viên, là cây bút của tạp chí Chính Luận, một trong những tờ báo độc lập được đón đọc và nể trọng nhất miền Nam Việt Nam thời điểm bấy giờ… Sự trỗi dậy của tờ báo phần lớn nhờ vào tầm nhìn và chủ trương của ông Đặng Văn Sung, một dân biểu có tiếng, và hoạt động quản trị của thư ký – biên tập viên Từ Chung.

Cuối năm 1965, sau nhiều loạt bài chỉ trích hành vi tấn công dân thường và các hoạt động quân sự không phù hợp của phe Việt Cộng, Đặng Văn Sung và Từ Chung nhận tối hậu thư của phe này: Một là im lặng – hai là chết.

Vài ngày sau khi nhận được tối hậu thư, Từ Chung thay mặt tòa soạn viết thư trả lời phe Việt Cộng đăng trên Chính Luận. Theo ghi nhận của ‘Vietnam Information Notes’ do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lưu trữ, Từ Chung khẳng định rằng Chính Luận là một tờ báo trung lập và từng vạch trần tất cả sai phạm của mọi bên trong chính trường miền Nam, song duy chỉ có Việt Cộng là đưa ra kiểu đe dọa vô pháp như vậy. Ông khẳng định: Các anh có thể giết chúng tôi, nhưng tinh thần của chúng tôi sẽ còn sống mãi. Ngày 30 tháng 12 năm 1965, sau hai năm quản lý tờ báo, Từ Chung bị Việt Cộng (nhiều khả năng là biệt động Sài Gòn) bắn chết ngay trước cửa nhà ông bằng bốn phát đạn”.

Nhà báo Thụy Giao cho biết thêm chi tiết: “Từ Chung là anh cả trong một gia đình gồm bảy anh em trai, thế nhưng chỉ có hai người anh lớn trong nhà là Vũ Mạnh Sơn Nhất Huy và Vũ Mạnh Sơn Nhị Hoàng vào được miền Nam, năm người em phải ở lại miền Bắc với cộng sản sau năm 1954. Từ Chung mất đi để lại một vợ trẻ và bốn con thơ, cháu lớn nhất mới 12 tuổi…

Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.

Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chương, văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân.

Những bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một số trí thức gọi đùa là ‘mục kinh tế chợ’ đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn ‘Bí Danh’ (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường”.

Ký giả Lê Thiệp kết luận: “Lập trường chống cộng của Chính Luận rất rõ rệt và đối với người Cộng sản thì đây là một mối nguy phải được dập tắt. Họ chọn cách dễ nhất là bạo lực. Ðặc công Việt Cộng đã bắn gục Từ Chung khi ông trên đường về nhà. Ba vị ký giả từng ký vào bản văn hứa sẽ không lùi trước nỗ lực đóng góp cho vận mệnh đất nước, ông Từ Chung là người đầu tiên đã trả giá cho nỗ lực đó bằng chính sinh mạng của mình”.

Từ Chung sinh năm 1924, bị giết chết vào ngày 30 tháng 12 năm 1965. Ba mươi hai năm sau, sau khi miền Nam thất thủ, người Việt tị nạn cộng sản vẫn tổ chức một buổi lễ long trọng để tưởng niệm ông – theo tường thuật của ký giả Cam Vũ:

Ba tờ báo Ngày Nay (Houston), Xây Dựng (San Jose) và Thế Kỷ 21 (Quận Cam) đã cùng nhau tổ chức một buổi tưởng niệm cố ký giả Từ Chung vào lúc 3 giờ chiều ngày 12 tháng Tư 1997, tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt, thuộc thị xã Westminster, Quận Cam, California.

Phòng sinh hoạt chiều hôm ấy được trang hoàng đớn giản nhưng mỹ thuật và trang nghiêm. Trên nền phông trắng của sân khấu có treo một bức chân dung phóng lớn của Từ Chung với ghi chú: ‘Từ Chung (1924-1965)” bên cạnh là hàng chữ ‘Tưởng Niệm Từ Chung”, tất cả được nâng đỡ bởi sắc đỏ, xanh và trắng của một bình hoa lớn đặt ngay bên dưới. Khoảng 100 người đã ngồi hết các dãy ghế trong phòng.

Một câu hỏi đã được đặt ra trong bài bình luận của tờ Người Việt số ra ngày 12 tháng Tư 1997, viết rằng: “Nhiều người sẽ hỏi Từ Chung là ai, nhất là các bạn trẻ dưới bốn mươi tuổi. Chính vì câu hỏi đó mà chúng ta cần tổ chức lễ tưởng niệm và ghi nhận những đóng góp của Từ Chung vào việc tranh đấu xây dựng cho một nền báo chí tự do và có trách nhiệm ở trong nước ta.

Từ Chung đã bị đặc công CSVN ám sát năm 1965 ngay trước cửa nhà trong lúc đi làm công việc của một nhà báo. Lúc đó ông là Tổng Thư ký nhật báo Chính Luận. Tờ báo có lập trường chống Cộng này đã bị đe dọa nhiều lần, có lúc đã bị đặt bom.

Nhưng cái chết của vị Tổng Thư ký đương nhiệm là kết quả một hành động khủng bố tàn nhẫn và man rợ nhất. Những kẻ ra lệnh giết ông bây giờ còn sống ở Việt Nam. Họ muốn cái chết của ông sẽ làm cho những người làm báo và viết báo ở miền Nam run sợ và lùi bước, nhưng họ đã thất bại.

Từ Chung đã hy sinh như một chiến sĩ hy sinh trên chiến trường. Sự hy sinh của ông càng dũng cảm phi thường vì tay ông không một tấc sắt tự vệ. Cũng như nhiều người làm báo thời đó, Từ Chung biết cộng sản có thể giết ông bất cứ lúc nào, nhưng ông không lùi bước”.

Đúng như lời Từ Chung (“các anh có thể giết chúng tôi, nhưng tinh thần của chúng tôi sẽ còn sống mãi”) trước khi bị bắn gục, vào hôm 30/12/1965. Tinh thần bất khuất của thế hệ các ông vẫn “sống mãi” với nhiều người cầm bút đến sau. Xin ghi lại một số tên tuổi (theo thứ tự năm sinh) mà chúng tôi đã từng có hân hạnh được là độc giả̉:

Nguyễn Văn Hóa (1995) Huỳnh Thục Vy (1985) Đoàn Kiên Giang (1985) Trương Châu Hữu Danh (1982) Nguyễn Phước Trung Bảo (1982) Đường Văn Thái (1982) Nguyễn Văn Điển (1983) Huỳnh Thị Tố Nga (1983) Bùi Văn Thuận (1981) Nguyễn Viết Dũng (1986) Lê Hữu Minh Tuấn (1989) Nguyễn Anh Tuấn (1980) Nguyễn Thanh Nhã (1980) Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (1979) Phạm Đoan Trang (1978) Lê Dũng (1970) Lê Chí Quang (1970) Lê Anh Hùng (1973) Nguyễn Chí Tuyến (1974)  Nguyễn Lân Thắng (1975) Lê Trọng Hùng (1979) Phạm Thanh Nghiên (1977) Phạm Chí Dũng (1966) Vũ Quang Thuận (1966) Phạm Hồng Sơn (1968) Tạ Phong Tần (1968) Nguyễn Vũ Bình (1968) Nguyễn Văn Đài (1969) Nguyễn Minh Sơn (1963) Huy Đức (1962) Phạm Viết Đào (1952) Nguyễn Tường Thụy (1952) Phạm Thành (1952) Trần Đức Thạch (1952) …

Chúng tôi xin được vinh danh ông, một ngòi bút tài năng & bất khuất. Cùng lúc, chúng tôi cũng xin phép được gửi lời tri ân tất cả những người cầm bút (thuộc mấy thế hệ đến sau) đã dũng cảm tiếp tục nói thay cho cả dân tộc, về mọi tệ trạng ở Việt Nam, dù cái giá mà họ phải trả là chất chồng những năm tháng tù đầy.

Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913, Nguyễn Văn Hóa chào đời năm 1995. Nếu kể từ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm thì đã 4 thế hệ người cầm bút ở VN bị đảng Cộng Sản bị cầm tù hay sát hại. Liệu cường quyền & bạo lực sẽ còn có thể “ngự trị” ở xứ sở này thêm bao lâu nữa?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến –  Nguyễn Văn Vinh

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

26/12/2024

Ngôi chùa duy nhất mà tôi biết rõ từng viên gạch (và từng gốc cây/bụi cỏ) có tên là Linh Sơn Tự, trên cao nguyên Lâm Viên. Thuở ấu thơ, khi còn “lon xon như con với mẹ,” tôi vẫn thường theo bà đi lễ – đều đặn – vào những ngày rằm và mùng một.

Ðây là đất Phật nên bà yên tâm để tôi tha thẩn khắp nơi, suốt buổi, trong khi bận rộn việc công quả. Tôi cũng bận luôn. Bận tìm rau cho rùa ăn, bận bắt chuồn chuồn (bươm bướm/bọ cánh vàng) bận trèo cây, bận hái hoa trà, bận ngồi nhong nhong trên đôi rồng đá nằm chầu – song song – bên những bậc thang dẫn vào chính điện.

Cho đến khi biết đọc, và có thể đi giang hồ (vặt) một mình thì tôi thôi không theo mẹ lên chùa nữa. Chán thấy bà luôn! Với thời gian, và qua những bộ chuyện kiếm hiệp của Kim Dung (cùng trí tưởng tượng hơi quá phong phú của tôi) thì Linh Sơn Tự mỗi lúc càng thêm nhỏ lại, quá nhỏ nếu so với Thiếu Lâm Tự chót vót trên đỉnh Tung Sơn, ở bên Trung Quốc!

Xa Linh Sơn Tự, tôi cũng xa luôn quí vị chư tăng mà mình chưa có cơ hội để gần trong những tháng ngày thơ ấu. Ðã thế, sách sử còn khiến cho tôi dành rất ít tình cảm cho quí vị quan chức, tăng lữ và quí tộc. Những giới người này thường (rất) dễ bị hư hỏng trong mọi thời đại, và khắp các nơi, chứ chả riêng chi ở Việt Nam.

Tôi không nhớ là mình đã từng xưng “con” với một vị tu sĩ nào ráo trọi. Tôi chỉ có thể là con Phật, con Chúa, và là con của bố mẹ mình thôi.

Rồi cũng như bao nhiêu người khác, với thời gian (dường như) mỗi lúc tôi lại… “nhích” lại gần với tôn giáo hơn – một chút! Khi Lê Trí Tuệ chưa bị bắt đi biệt tích, có lần, tôi hỏi em:

-Sao địa chỉ email của Tuệ lại dùng bốn chữ Thanh Minh Thiền Viện (thanhminhthienvien) viết liền vậy?

-Dạ tại đây là nơi đang giam lỏng Hòa Thượng Quảng Ðộ, và em thì rất quí mến ngài anh ạ.

Tôi cũng đã từng thấy ảnh của một người bạn trẻ khác – Nguyễn Vũ Bình – chụp chung với Hòa Thượng Quảng Ðộ khi ngài còn tại thế. Nhìn một vị cao tăng, vào tuổi cửu tuần, hiền hòa và an nhiên đứng cạnh mấy bạn thanh niên (không dưng) khiến tôi rưng rưng cảm động. Bây giờ, nếu còn có cơ hội được diện kiến ông – chắc chắn – tôi cũng sẽ cung kính chắp tay đảnh lễ và nhỏ nhẹ xưng “con” như tất cả mọi người khác thôi!

Cách đây chưa lâu, tôi cũng có cái tâm cảm tôn kính tương tự, khi tìm hiểu về trại Cổng Trời và được biết thêm (đôi điều) về cuộc đời của một vị tu sĩ khác – Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh – qua lời của bạn đồng nghiệp Mặc Lâm và nhà thơ Tuân Nguyễn:

Mặc Lâm:

“Tiếng chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội giục giã vang lên chỉ một ngày trước Lễ Giáng Sinh năm 1959. Không phải báo hiệu sự ra đời của Chúa Giê Su, mà tiếng chuông kêu cứu với giáo dân vì nhà thờ đang bị một nhóm người đến phá rối.

Câu chuyện vỡ lở ra sau đó cho thấy nhóm người đến phá nhà thờ do chủ trương quá khích của một nhóm người và kết quả là Linh Mục Trịnh Văn Căn, Linh Mục Nguyễn Văn Vinh, cùng một số giáo dân bị quy tội phá rối trị an. Linh Mục Căn chịu 12 tháng tù treo, Linh Mục Vinh chịu 18 tháng tù giam vì tội “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân.” (Mặc Lâm. “Trại Giam Cổng Trời”. RFA – 24/12/2010).

Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công Giáo mà chính quyền Hà Nội hướng tới. Linh Mục Nguyễn Văn Vinh do quá cương quyết và không chịu khuất phục đã âm thầm chịu chết sau đó, trong trại giam Cổng Trời.”

Ngài sống, và chết, ra sao, sau 12 năm (chứ không phải 18 tháng) bị giam ở trại Cổng Trời?

Tuân Nguyễn kể lại như sau:

“Anh vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị.

Bộ dạng anh ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh, rất khó đoán tuổi, có thể 30, mà cũng có thể 50.

Ở trại, anh có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Ðó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh) và giao cho việc khâm liệm.

Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên từng đánh đập anh, anh đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

*********

Anh nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật. Mình cúi xuống sát người anh, gọi hai ba lần, anh mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khóe môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh. Anh thè lưỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh thều thào nói:

-Tuân ở lại, mình đi đây. Ðưa bàn tay đây cho mình.

Anh nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN. Viết xong, anh hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than (Phùng Quán, “Người Bạn Lính Cùng Tiểu Ðội.” Ba Phút Sự Thực. NXB Văn Nghệ: Sài Gòn, 2007).

Cha Nguyễn Văn Vinh qua đời vào năm 1971. Chữ NHẪN mà ngài viết bằng than (vào lòng bàn tay của một nhà thơ) hồi gần nửa thế kỷ trước, đến nay mới được chứng nghiệm qua “sự cố môi trường Formosa” cùng cách hành sử của nhị vị linh mục Ðặng Hữu Nam và Nguyễn Ðình Thục.

Hai ông hiện cũng đang bị “đấu tố” về những tội danh tương tự như cha Vinh 50 năm trước (vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân…) nhưng thời thế và tình thế thì hoàn toàn đã khác. Chữ NHẪN đã chín với thời gian.

Bây giờ nhà nước không còn có thể ngang nhiên bước vào nhà thờ, còng tay tu sĩ, và đẩy vào tù cho cho đến chết (luôn) như trước nữa. Dù đã vận dụng mọi thủ thuật và thủ đoạn (bẩn thỉu) trong gần cả năm qua nhưng chuyện tìm cách bắt giữ cha Nam và cha Thục, xem ra, mỗi lúc một thêm vô vọng!

2017


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Gấu bông/cọp giấy & bộ đội cụ Hồ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

25/12/2024

Từ Điển Thành Ngữ Tiếng Việt giải thích “khôn ba năm dại một giờ” như sau:  “Chỉ sơ suất một chút mà phải gánh chịu hậu quả nặng nề; người phụ nữ khôn ngoan, đứng đắn chỉ vì nhẹ dạ cả tin trong chốc lát mà đánh mất cái quý giá nhất của đời người… Ý nói chỉ sơ suất một chút mà khổ cả đời; người phụ nữ khôn ngoan, đứng đắn nhưng vì nhẹ dạ trong chốc lát mà trót dại, mắc sai lầm trong quan hệ (nam nữ…).”

Mắc mớ gì mà “khổ cả đời,” hả Trời! “Nhẹ dạ trong chốc lát” thì đã làm sao? Chuyện nhỏ như con thỏ thôi mà. Đêm rồi lỡ ham vui chút xíu thì sáng bữa sau nuốt một hai viên morning after pills là kể như xong. Loại thuốc này bán hà rầm, không cần toa bác sỹ, và rẻ rề hà!

Thể lý là như thế. Còn về mặt đạo lý cũng vậy, cũng không có gì nghiêm trọng ráo trọi, theo như quan niệm từ xưa của người dân Việt: Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn/ Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ.

Ấy thế nhưng đàn ông mà chuyên chính, độc tài, và ham mê quyền lực quá độ thì chỉ cần dại một phút (hay một giây) thôi là cả sự nghiệp kể như … đi đứt. Sự xốc nổi của Putin trong “chiến dịch quân sự đặc biệt” vừa qua là một thí dụ điển hình cho kiểu dại dột này.

Thiên hạ – bỗng nhiên – nhận diện được một con “ngáo ộp” mà lâu nay họ vẫn ngỡ là người hùng của nước Nga, và khả năng tác chiến (vô cùng giới hạn) của lực lượng quân đội ở xứ sở này, cùng với rất nhiều lời dè bỉu. Bởi nhiều quá nên xin phép chỉ ghi lại năm ba, theo thứ tự alphabétique:

  • Lê Khắc Ái: “Ở Nga, người ta bắt đầu nhận ra rằng đội quân ‘ngầu’ của họ là fake: “Đó là một cú sốc đối với họ.”
  • Trần Khánh Ân: “Hiện nay, một trong những lý do mà các quan sát viên nhấn mạnh đó là sự lúng túng về việc tiếp liệu cho đoàn quân tại Ukraine và có thể không thể tiếp liệu được nữa, đồ ăn của lính Nga là đồ ăn hết hạn, có những người lính trên đường hành quân đã tự phá hỏng phương tiện của mình.”
  • Ngô Nhân Dụng: “Bao lâu nay ông Putin vẫn làm cho thế giới tưởng rằng ông chỉ huy một quân đội hùng mạnh, cuộc kháng chiến của dân Ukraine cho thấy đạo quân của Putin quá yếu… Khi cuộc chiến chấm dứt, Vladimir Putin sẽ hiện nguyên hình là một người hùng làm bằng giấy, hay bằng rơm theo lối nói của người Việt. Sẽ đến ngày anh hùng rơm phải ra tòa vì tội ác chiến tranh.”
  • Văn Phạm Hùng: “Té ra NGA chỉ là cường quốc quân sự hạng 2 đểu mà thôi.”
  • Lưu Thủy Hương: “Cuộc chiến ở Ukraine phơi bày một sự thật tệ hại: Nạn tham nhũng đã hủy hoại thực lực của quân đội Nga.”
  • Mạnh Kim: “… những gì đang diễn ra cho thấy hình ảnh có phần nhếch nhác của quân đội Nga như đang chứng kiến là kết quả tất yếu của ‘tiến trình’ tham nhũng qui mô và kéo dài.”

Những lời chê trách của quí vị thức giả thượng dẫn khiến tôi liên tưởng đến một siêu cường (khác) tai tiếng hơn nhiều:

Muốn biết “quân đội Trung Quốc cam kết tiếp tục chống tham nhũng” có hiệu quả ra sao thì cứ thử “xúi” Tập Cận Bình tấn công Đài Loan xem có dám không? Hổng dám là cái chắc sau khi thấy tấm gương bồng bột và dại dột của Putin. Chả phải vô cớ mà cựu TT Đài Loan, Thái Anh Văn, lạc quan tuyên bố: “Nhìn Ukraine kháng cự với quân Nga, chúng ta càng thêm tin tưởng vào khả năng của chính mình.”

Thế còn “nhỡ” Trung Cộng lại muốn “dậy” cho Việt Cộng thêm “một bài học” nữa, như hồi 1979 thì sao?

Chả có “trăng sao” gì đâu mà lo. Hôm 5 tháng 2 năm 2014, South China Morning Post cho biết hơn 70 phần trăm quân nhân Tầu hiện nay là con một, và đặt câu hỏi: “Liệu họ có quá yếu đuối để đáp ứng được tham vọng quân sự của Bắc kinh không? Soldiers of the one-child era: are they too weak to fulfill Beijing’s military ambitions?

Câu trả lời có thể tìm được, cùng ngày, trên trang mạng Quartz: “Lính thuộc thế hệ một con hèn yếu không có tinh thần chiến đấu. Soldiers from the one-child generations are wimps who have absolutely no fighting spirit.”

Dù Việt Nam không theo “chính sách một con” nhưng đám bộ đội cụ Hồ hiện nay (xem chừng) cũng chả mạnh mẽ gì hơn thế. Họ bị bắt vào quân ngũ để nuôi lợn và trồng rau, chứ có được huấn luyện gì về quân sự đâu. Bởi thế, bây giờ mà đụng trận và nghe hô “xung phong” thì lính ta (và lính Tầu) đều vứt súng và bỏ chạy là cái chắc!

Blogger Người Buôn Gió tâm sự:

Tôi đi lính năm 1990, thời thế lúc đó thay đổi nhiều. Biên giới Tây Nam người ta đã rút quân về, biên giới phía Bắc đã quan hệ bình thường. Thời của làm ăn kinh tế, các sĩ quan quân đội tận dụng chúng tôi để làm kinh tế cho họ. Đám lính chúng tôi đi đào mương, đào móng nhà, phụ hồ…rặt toàn công việc dùng đến sức lao động thô sơ. Bữa ăn chỉ có rau kho, rau nấu và một hay may lắm là hai miếng thịt to bằng đốt ngón tay út…

Lúc cầm giấy ra quân về nhà, bố tôi xem tờ giấy đục lỗ nói.

– Có tờ giấy mà 2 chỉ vàng.

 Tôi ngạc nhiên hỏi bố vàng nào. Bố tôi mới kể là lúc tôi và các bạn trốn, đơn vị cũng đến nhà tìm. Bố tôi có nói nhỏ ông cán bộ quân lực liệu lo cho tôi. Ông ấy nhận lời. Hôm tôi lên làm phục vụ cho cán bộ quân lực được vài hôm. Ông quân lực đến nhà báo cho bố tôi biết là đã lo tôi như vậy, vài tháng nữa sẽ cho tôi về nhà. Khi nào có giấy ra quân vào lĩnh. Lúc tôi về nhà là bố tôi đưa ông một chỉ vàng, khi ông gọi tôi vào lấy giấy ra quân là đã cầm của bố tôi một chỉ vàng nữa.

Ngoài việc “ăn không từ một thứ gì,” đám tướng lãnh VN – hiện nay – còn rất “tâm tư” về một vấn đề “thiết thân” khác nữa: sinh hoạt tình dục. SBTN cho hay:

Tướng quân đội CSVN trao đổi thuốc kích dục trong trụ sở quốc hội. Báo mạng VietNamNet trong nước là cơ quan truyền thông đầu tiên đăng bức ảnh đại tướng Ngô Xuân Lịch, đương kim bộ trưởng Bộ Quốc Phòng CSVN, và thượng tướng Võ Trọng Việt, đương kim chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Và Và An Ninh của Quốc Hội, trao tay nhau một chiếc hộp màu đen bọc giấy bóng.

Dư luận trên mạng xã hội lập tức chú ý tới bức ảnh này, vì khi được phóng lớn, chiếc hộp màu đen này không là gì khác hơn loại thuốc Ottopin xuất xứ từ Nhật Bản, có tác dụng cường dương và trị yếu sinh lý cho nam giới. Báo VietNamNet sau đó đã phải cắt bỏ phần ảnh liên quan đến hộp thuốc, nhưng các blogger Việt Nam đã kịp lưu lại ảnh gốc.

Giới lãnh đạo không chỉ yếu về sinh lý mà còn (rất) yếu về tâm lý nữa. Cố Bí Thư Quân Ủy Trung Ương Nguyễn Phú Trọng đã đi vào lịch sử bằng một câu nói để đời: “Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không?”

Cầu an là tâm lý phổ biến của nhân loại chứ chả riêng gì ông cố ổng Bí Thư. Nhờ thế nên Vladimir Putin và Tập Cận Bình mới có cơ hội diễu võ dương oai, và lăm le muốn lấn lướt thiên hạ cho mãi đến nay. Nay thì ai cũng biết hình ảnh Gấu Nga (dữ dằn) chỉ là sản phẩm của tuyên truyền và Cọp Tầu (vằn vện) chỉ là cọp giấy mà thôi, trừ đám dân Ba Đình Hà Nội. 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tiếng nước mình

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

17/12/2024

Giữa khe cửa trước nhà, bữa rồi, thấy có gài một mẩu giấy quảng cáo – với dòng chữ in đậm – trộn lộn cả hai thứ tiếng Việt/Anh: “Under New Management. Tăng Cường Ẩm Thực. Tăng cường giờ mở cửa tới midnight. Đọc nghe hơi chương chướng nhưng tui cũng hiểu được liền, và còn đoán được luôn tác giả: cha nội Hải Ký Mì Gia – ở ngay ngã tư đầu đường – chớ còn ai vô đó nữa!

Tiệm này “chuyên trị” mì gà chiên và mì vịt tiềm. Thỉnh thoảng, tui vẫn ghé qua và lần nào cũng có trao đổi với chủ nhân đôi câu chào hỏi (xã giao) nên biết cái kiểu nói chuyện và hiểu ý của ổng mà: “Tiệm có quản lý mới. Thực đơn phong phú hơn. Từ đây sẽ mở cho tới tận khuya.”

Ông chủ người Minh Hương, sinh trưởng ở Bạc Liêu, vượt biên hồi đầu thập niên 1980. Dân Việt gốc Hoa, sống ở Mỹ gần nửa thế kỷ mà vẫn viết được “tiếng nước tôi” như vậy là ngon lành cành đào rồi – đúng không?

Tôi đã từng “đụng chuyện” với một vị “người Hoa gốc Tầu” nữa kìa. Ổng viết tiếng Việt (theo kiểu gu gồ) đọc mà muốn khóc bằng … tiếng Tây luôn. Thằng chả (chắc) là chủ nhân của một hãng làm thức ăn khô của Đài Loan hay Hồng Kông gì đó, và sản phẩm được bầy bán ê hề ở California, bao bì cũng in một dòng chữ trộn lộn cả hai thứ tiếng Việt/Anh: Chuẩn Bị Con Cá Mực – Prepared Cuttlefish!

Cái gì vậy, hả Trời? Thông minh tới cỡ tui mà phải mất mấy chục giây mới hiểu (té ra) là … Khô Mực Ăn Liền. Thiệt là thầy chạy!

Tiếng Việt, cũng như dân Việt – trên bước đường lưu lạc – tránh sao khỏi những cảnh ngộ bi hài hay những mảnh đời tơi tả. Kampuchea là nơi không thiếu những cảnh tình này. Nhà báo Ngy Thanh đã từng cảm thán: “Người ta bảo sông có khúc, người có lúc. Thế mà, khúc đời nào của Việt Kiều Cambodia cũng nhiêu khê. Thời nào của họ cũng là thời mạt vận.”

Việt ngữ ở đây cũng thế, cũng “mạt vận” chả khác chi người.

Theo tường trình của MIRO (Minority Rights Organization) thì có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở Xứ Chùa Tháp. Đây là nhóm dân thiểu số đông nhất ở đất nước nhỏ bé này. Phần lớn đều không có được một tờ giấy lận lưng (không khai sinh, cũng không căn cước) nên không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ xã hội nào cả. Họ cũng không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai gì ráo. Bởi vậy, rất nhiều kiều bào ở Miên hiện vẫn sống trong những túp lều tranh (lều bều như mấy dề lục bình) trên mặt Biển Hồ – Tonlé Sap.

Chắn chắn không nơi nào trên trái đất này mà dân Việt phải sống lam lũ và thảm thương đến thế. Y tế cũng như giáo dục đều là những điều xa xỉ, nói chi đến chuyện báo/đài hay một cái trường (Việt Ngữ) cho những đứa bé luôn trôi nổi bấp bênh.

Vậy mà chả hiểu nhờ vào cơ duyên nào đó, năm 2008, bỗng dưng có vài người Việt từ Canada lặn lội đến tận làng Kampong Luong (Kampong Luong Floating Village) làm tặng cho dân ấp Koh Ka Ek một ngôi trường tử tế.

Mãi đến năm 2014, tôi mới theo chân sư Minh Trí (người sáng lập Hội Vì Dân – Vidan Foundation) lò dò tìm đến chốn này. Tới nơi thì trường học đã nằm chỏng chơ trên cạn vì nổi hết được rồi.

Sau khi gắn vô mấy chục cái thùng phuy nhựa mới (mỗi cái cỡ 25 Mỹ Kim) và dặm thêm một mớ lồ ô hai bên cạnh sườn (không có tre để giữ cân bằng nó sẽ bị bồng bềnh) rồi sửa sang lại chút đỉnh thì kể như êm. Tụi nhỏ lại có cơ hội đến trường ê a (“mờ a ma sắc má” – “ba a ba huyền bà”) như trước.

Năm 2012, lại có thêm một cơ duyên kỳ diệu nữa, người Việt từ Perth (Australia) cũng lặn lội đến tận làng Kandal – thuộc xã Phsar, tỉnh  Kampong Chhnang – để xây tặng cho đồng bào mình một ngôi trường bề thế, tốn kém cả trăm ngàn Mỹ Kim chứ không phải ít.

Vài ba năm sau, sư Minh Trí cũng đưa tui đến đây luôn. Chúng tôi đều hân hoan khi nhìn thấy ba lớp học được dựng trên những cột xi măng vuông vắn và vững chắc, bên trong được trang bị bàn ghế đàng hoàng. Chỉ kẹt cái là nó không có điện, cũng không có nước nên WC vô phương sử dụng.

Chuyện nhỏ thôi (so với tiền của và công sức của bao nhiêu người VN tại Úc) nên chúng tôi hăng hái bắt điện, bơm nước, gắn quạt máy, và còn lát xi măng luôn cả cái nền để vào mùa khô học sinh có chỗ chơi đùa.

Từ đó –  theo sự cắt đặt của nhà sư – tôi vẫn thường trở lại thăm non hai cái trường này (cùng dăm ba lớp học ở vài nơi khác nữa) để mang sách vở bút viết cho học sinh, và chút tiền trợ cấp cho mấy vị giáo viên.

Tới đâu, tôi cũng đều “lớn tiếng” lập đi lập lại cái quan niệm rất thực tiễn và cấp tiến của mình : Xin quý thầy cô đừng quá quan tâm đến Việt Ngữ. Thay vào đó hãy dùng thời giờ dậy các em làm được mấy phép tính (cộng – trừ – nhân – chia) căn bản, và đọc được tiếng Miên để sau này chúng có thể sinh tồn một cách dễ dàng hơn nơi đất nước này.

Cái quan niệm “đúng đắn và cấp tiến” đó, mới đây, vừa bị thử thách (một cách vô cùng nghiêm trọng) khi tôi ghé qua lớp học ở Bati – nằm trong khuôn viên của Chùa Ông Quan Đế, thuộc huyện Peam Ro, tỉnh Prey Veng – vào tháng 11 năm rồi. Đây là một nơi hết sức đặc biệt vì người Việt chả những có chùa (và ban trị sự) mà còn có cả hội đồng hương tề luôn nữa.

Tôi được coi là khách quý, đến tự phương xa, và được hân hạnh họp mặt với tất cả quý vị chức sắc địa phương. Họ đều thuộc vào hàng lão hạng nên tôi rất nhỏ giọng khi lập lại quan niệm (cố hữu) của mình là con cháu chúng ta cần học toán và học tiếng Khmer để sinh tồn, chứ không phải là Việt Ngữ. Mỗi đứa trẻ chỉ được tới trường vài ba năm thôi, mất thời giờ học tiếng Việt làm chi khi mà cái cơ hội đọc được một tờ báo (hay viết một cái thư) bằng Việt Ngữ kể như là bằng không. Chỉ cần sắp nhỏ vẫn nói chuyện bằng tiếng nước mình là cũng đã tốt lắm rồi, chớ…”

Tôi chưa dứt lời mà không khí buổi họp đã trầm hẳn xuống. Những ánh mắt, và những nụ cười chứa chan thiện cảm mà mọi người đã dành cho tôi từ lúc ban đầu (bỗng) tan biến hết trơn. Rồi một vị lão nhiêu, chắc cũng đã bát tuần, mới nhỏ nhẹ đáp lời:

“Chúng tôi lại có chút suy nghĩ khác. Người Việt ở nơi đây từ đời này qua đời nọ nên bây giờ ai cũng đen thủi, đen thui y như người bản xứ. Ngó qua thiệt khó nhận ra là “Duồn” ai là “Miên” nữa. Sự khác biệt chỉ còn ở cái tiếng nước mình thôi. Bởi vậy, khi đã có cơ hội cắp sách đến trường thì ưu tiên là phải dậy bầy trẻ đọc viết tiếng mẹ đẻ cái đã, chớ còn nói như ông thì …”

Ông anh cũng chưa dứt lời nhưng tôi đã cảm được sự đồng tình của mọi người hiện diện. Rồi có lẽ vì quá xúc động (hay quá bất nhẫn) ổng đưa tay gạt nước mắt và ngồi phịch xuống ghế, tựa như là muốn đứng cũng không nổi nữa!

Những “giọt lệ như sương” của vị đồng hương cao niên khiến tôi chợt nhận ra sự nông nổi và thiển cận của mình. Cùng lúc, tôi cũng “ngộ” được đôi điều quan trọng khác:

Nào phải là tình cờ mà những người Việt từ Bắc Mỹ, từ Úc Châu đều đã cất công tìm đến Cambodia để làm trường học. Cũng đâu phải là vô cớ mà chỉ riêng ở tiểu bang California (Hoa Kỳ) đã có đến cả chục Trung Tâm Dậy Việt Ngữ và hầu như ở khắp mọi nơi trên thế giới, nơi đâu có dân Việt là có những lớp học cho trẻ Việt cùng với sự tham gia (tự nguyện) của hàng vạn giáo viên – từ nửa thế kỷ qua.

Khi Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ cho phép giảng dậy Việt Ngữ ở một số trường trung học và đại học tại quốc gia này thì giản dị chỉ vì đó là chủ trương nhân bản và bao dung (đa văn hóa) của xứ sở này. Còn mọi cố gắng, chắt chiu, thương khó để bảo tồn tiếng mẹ đẻ của hàng triệu người dân Việt, đang lưu lạc ở khắp bốn phương (có lẽ) là do sự thôi thúc tiềm ẩn từ vô thức.

Đây là phản ứng tự nhiên từ vô thức tập thể (collective uncounciousness) của cả một giống nòi (trong cơn quốc biến) khi ngôn ngữ của họ đang “bị tha hóa, bị thao túng, bị phá sản một cách có hệ thống” –  theo như lời báo nguy của nhà giáo và nhà báo Thái Hạo.

Lời báo động muộn màng này cũng đã giúp tôi hiểu ra lý do mà sư Minh Trí – sau khi xuất gia, từ bỏ mọi hoạt động chính trị – đã hết lòng tận tụy chăm lo cho những lớp học Việt Ngữ, ở Kampuchea, cho đến … hơi thở cuối!