Sổ Tay Cuối Cùng – Dân Đức & Quan Đức

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

16/06/2025

Tui định đi Nhật nhiều lần nhưng chỉ “định” thế (cho nó đỡ buồn) chứ chưa bao giờ được đặt chân tới Xứ Hoa Anh Đào lần nào cả. Lý do: chả phải vì tôi không có dịp may hay không có duyên với đất nước này mà chỉ vì tôi không có đủ tiền thôi. Rượu còn bữa thiếu (bữa không) mà nói đến chuyện viễn du xa xôi làm chi, cho má nó khi.

Sống mãi ở nhà (cơm nhà quà vợ) thì cũng chả sao, nếu bạn bè khá giả đừng cứ tung tăng đi đây/đi đó, rồi kể lể tùm lum đủ chuyện trên FB khiến mình – đôi lúc – cũng nóng … như hơ!

Từ Tokyo về, vừa bước vào cửa, nhà báo Từ Thức đã hớn hở và duyên dáng kể chuyện (làm quà) khiến ai cũng phải xuýt xoa:

“Loạng quạng, đánh rơi cái ví (portefeuille), trong đó có thẻ kiểm tra (ID/ carte didentité), carte bleue (credit card), 250 Euros và một số tiền Nhật mới đổi. Ra bót cảnh sát đầu đường. Nhân viên cảnh sát có vẻ mừng rỡ vì có việc làm.

Thường thường, cảnh sát Nhật ngồi buồn tênh, đi ra đi vào, không có ai thưa gởi gì, không có ẩu đả, ăn trộm, ăn cướp, ăn cắp, lừa đảo. Thỉnh thoảng vớ được một bà già té xỉu, chở tới bệnh viện. Hay đưa một ông cụ qua đường (đưa thực, không phải dìu ông già trước máy quay phim, quay phim xong đá đít ông già) hay chỉ lối cho một du khách tới một địa chỉ không có tên đường.

Một ông cảnh sát mở computer, coi danh sách những đồ vật lượm được trong thành phố. Một bà gọi điện thoại tới phi trường. Người thứ ba đứng coi, sẵn sàng phụ tá hai đồng nghiệp. Họ hơi thất vọng vì không tìm thấy gì, khuyên nên trở lại buổi chiều.

Chiều, trở lại, họ đã tìm được cái ví. Có người lượm được dưới ghế một xe bus, đưa cho tài xế. Giấy tờ, tiền bạc còn y nguyên. Xứ sở gì kỳ cục”.

Hết Từ Thức lại đến vợ chồng Huong TranHon Viet. Cả hai lang thang khắp xứ Phù Tang, vừa đi vừa huyên thuyên đủ chuyện:

“Dân du lịch đi lạc có thể hỏi đường bất cứ một người Nhật nào trên đường, dù không biết một chữ tiếng Anh, họ cũng sẽ tận tình giúp đỡ. Mặc dù đây là lần thứ 3 đi Nhật, thinh thoảng chúng tôi vẫn bị lạc.

Ngày đầu tiên đi tìm hotel, mặc dù có Google map nhưng vẫn đi lạc. May có cô bé mới đi làm ra, mình cho cô xem địa chỉ, cô ta coi Google map rồi đưa mình tới tận cửa hotel luôn. Cô bé này chỉ nói được vài chữ tiếng Anh.

Tới Nagoya, lại cũng đi tìm hotel, dừng lại hỏi đường một vài người Nhật đang đứng truyền đạo, mấy cô xem Google map xong nói Thôi để chúng tôi đưa ông bà tới hotel đó luôn. Và họ vui vẻ đưa tới tận cửa.

Nghe mà không khỏi liên tưởng đến hình ảnh những bảng đòi tiền chỉ đường (ở đất nước mình) cùng với đề xuất 350.000 tỷ đồng để “chấn hưng phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam”, của Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch”.

 Mười lăm tỉ Mỹ Kim đối với chính phủ hiện hành (nói nào ngay) chỉ là chuyện nhỏ, nếu so với con số 67,3 tỷ USD xây đường sắt cao tốc Bắc Nam, để sáng ăn điểm tâm ở Hà Nội và trưa nhậu sương sương ở Sài Gòn. Câu hỏi cần được đặt ra là liệu có thể “chấn hưng văn hóa” bằng tiền (?) và dân tộc này – sau nhiều thập niên “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương bác Hồ vỹ đại – lại “xuống cấp” tới cỡ cần phải “tân trang” bằng nhiều đô la dữ vậy sao?

Vấn đề cứ khiến cho tôi băn khoăn (mãi) nên cuối cùng thì quyết định phải trở lại quê nhà vài bữa xem hư/thực ra sao? Qua Nhật thì mới lo tiền, chớ về Việt Nam đi tuốt tuồn tuột từ Bắc ra Nam (bằng xe hỏa) thuê nhà nghỉ loại ngủ chung – trên những cái giường đôi, gọi là ở dorm, như đám Tây con) và chỉ uống Vodka (Hà Nội) thôi thì nào có tốn kém bao nhiêu.

Thế là bay luôn!

Ra khỏi phi trường Nội Bài, tôi nói Taxi “cho về Yên Hoa” nhưng tài xế lại nghe ra “Yên Hòa”. Thế là xe chạy lòng vòng bằng thích. Cuối cùng rồi cũng đến nơi nhưng chú em nhất định không nhận số tiền hiển hiện trên máy mà hào sảng bớt hẳn một phần ba, với lý do giản dị: “Lỗi tại cháu nghe lầm, chứ đâu có đến cái giá đó.”

Hôm ở Bồng Sơn (Bình Định) cũng vậy. Tôi đặt chỗ ngủ tại nhà nghỉ Tiến Vương. Bác xe ôm đã già quá cỡ (cỡ như tui) nên nghễnh ngãng nghe ra Tiến Phát. Thế là lại mất thêm một đoạn đường (dài) nhưng lại rất vui vì chúng tôi vừa đi vừa chuyện trò vô cùng rôm rả. Cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp tôi đều ngọng nghịu (chớ) còn tiếng Nam, tiếng Bắc, tiếng Huế, tiếng Thanh, tiếng Nghệ, tiếng Quảng thì tôi phát âm nhuần đều nhuyễn như nhau – kể cả Quảng Bình.

Tới nơi mới biết là mình lại gặp thêm một tay “hảo hớn” nữa, dù y nghèo ra mặt:

  • Đúng (ra) là trem hơi (trăm hai) nhưng lẫu (lỗi) tại tui nghe lộn nên cho tém (tám) chục lờ (là) được rầu (rồi).

Ông bạn đồng hương (và đồng thời) hào sảng của tôi ơi! Chúng ta đều gần đất xa trời lắm rồi, lẽ ra, ông không còn phải vất vả mưu sinh bằng một cái Honda tàn tạ như vậy nữa. Tôi thương ông (thương luôn cái xe rệu rã) cùng tất cả mọi thứ, chả may, hiện hữu ở đất nước khốn khổ và khốn nạn này!

Cũng như bao nhiêu địa danh hẻo lánh và nghèo nàn khác, thị xã Hoài Nhơn không có chỗ mô để đi (và cũng không có cái chi để nhìn) ngoài bãi biển Tam Quan hoang sơ, vắng ngơ (vắng ngắt) nhưng thơ mộng và an lành chưa từng thấy. Suốt đời tôi chưa bao giờ được đứng (bơ vơ) một mình giữa biển trời bao la xanh ngát, với tiếng sóng vỗ rì rào (dịu êm) như thế cả.

Sao mà bỏ đi cho được (chớ) nên tôi lưu lại Bồng Sơn tới đôi ba bữa. Thời gian đủ để tôi làm quen được một gia đình bán cơm, gần chỗ trọ. Tôi sinh trưởng ở Cao Nguyên (Lâm Viên) nên hoàn toàn không mặn mà gì với cá mắm (hay cá mú) dù đồ biển ở đây tươi lắm. Tôi nhờ họ làm cho món đậu rán chiên dòn, để chấm nước tương, ăn cùng với ớt đỏ xắt nhỏ.

Cô em không chỉ vui vẻ nhận lời mà còn cho thêm tôi một chén canh tép nữa. Không biết là nấu với thứ rau chi nhưng húp mát rượi và ngọt lừ hà, ngọt nhất là đôi lời “khuyến mãi” vô cùng mộc mạc và hết mực chân tình:

– Cứ en (ăn) đi. En hết lấy thêm. Tui không tính tiền keng (canh) đâu.

Người đâu mà tốt bụng nhưng xấu số. Chồng đi biển rồi đi luôn, vào một ngày biển động. Con trai lớn (lái xe tải) cũng theo cha sau một tai nạn giao thông, để lại bốn đứa con lau nhau lắt nhắt. Vậy là cô em (cùng đứa gái út, mới mười mấy tuổi) và con dâu bèn mở một cái quán cơm lụp xụp bên hè, sau khi cân nhắc kỹ rằng nếu không có lời thì cũng không lỗ lắm:

– Khéc (khách) không en thì nhờ (nhà) mình en chớ mớt (mất) chi mờ (mà) lo.

Nghe thiệt muốn ứa nước mắt!

Bữa cơm chiều cuối cùng, tôi kín đáo để lại một số tiền nho nhỏ (có lẽ chỉ đủ để mua vài bộ quần áo mới cho mấy đứa bé mồ côi lam lũ) nhưng vừa quay lưng thì đã bị phát hiện ngay tại … hiện trường! Cô em tức tốc đuổi theo để trả lại cho bằng được tờ giấy bạc, đang nắm chặt trong tay, khiến tôi ngượng chín người:

– Ông chú cho nhiều quớ (quá). Tui cởm (cảm) ơn lém (lắm) nhưng nhờ (nhà) tui bớn hờng (bán hàng) chớ đâu en xin!

 Mà nào có riêng chi mình tôi phải đỏ mặt. Lẽ ra, bọn thống trị – ở xứ sở này – cũng phải có kẻ còn biết ngượng (chớ) khi họ đọc được những mẩu tin ngăn ngắn hàng ngày:

  • Thanh Niên: “Chị phụ hồ trả lại 150 triệu đồng nhặt được … Ba hôm trước, chị Dung mua tấm bạt nhựa ở tiệm tạp hóa của bà Nguyễn Thị Mai cách nhà khoảng một km. Lúc trải tấm bạt ra sân, chị bất ngờ thấy túi nylon đựng 150 triệu đồng. Khi chị báo với chồng, anh Thanh không chút đắn đo, hối thúc vợ đem số tiền trả lại cho chủ tiệm”.
  • Tuổi Trẻ: “Phát hiện 180 triệu đồng và 1,3 lượng vàng trong chiếc tủ sắt cũ phế liệu vừa mua với giá 20.000 đồng, người đàn ông làm nghề thu gom ve chai nghèo khó đã liên hệ công an xã, trả lại cho người mất”.
  • Vnexpress: “Chị Lê Thị Đại (ở xã Bình Đông, huyện Bình Sơn) cũng trả 19 triệu đồng nhặt được cho người mất. Khi được biếu lại 1,5 triệu để cảm ơn, chị Đại đã ủng hộ vào quỹ phòng chống Covid-19 của huyện”.

Trong khi người dân “biếu lại tiền” để “ủng hộ vào quỹ phòng chống Covid-19” thì giới quan chức các cấp (từ trung ương đến địa phương) đều lợi dụng nước đục thả câu bằng “những chuyến bay giải cứu” và những mũi “tiêm chủng phòng ngừa” để trấn lột thiên hạ, một cách vô cùng dã man, giữa cơn đại dịch.

Dân tộc này không cần đến hàng chục tiền tỷ Mỹ Kim để “chấn hưng phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam” đâu. Họ chỉ cần loại bỏ cái đám quan chức vô nhân tính hiện hành, cùng cái cơ chế đểu cán/gian trá/độc ác và thối rữa … đã tạo ra bọn chúng thôi!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Thị Bình  

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

14/06/2025

Thỉnh thoảng, giới truyền thông trong nước lại hốt hoảng loan tin:

Hoặc:

Tuy được báo động đều đều như thế nhưng tình trạng “lạm phát cấp phó vẫn cứ diễn ra ở nhiều sở, phòng, ngành, tại không ít địa phương” –  theo như lời than phiền của phóng viên báo Lao Động.

Tình trạng này được ông Dương Văn Thống, Phó Bí Thư Tỉnh Yên Bái, lý giải như sau: “Anh em phân công nhau không được, hạ xuống không được. Người Việt Nam chúng ta là thế.” Thảo nào mà nước CHXHCNVN, đã từng có đến 17 ông Phó Thủ Tướng và năm/sáu bà (hay ông) Phó Chủ Tịch Nước cùng tại vị.

Vấn đề – chả qua – là vì “ghế ít đít nhiều” nên lắm đồng chí lãnh đạo đành phải ngồi ghế phó, thế thôi. Tuy thế, chả nghe vị nào lên tiếng phiền hà gì ráo và tất cả (ngó bộ) đều muốn ngồi luôn – dù chỉ tại vị trên … ghế súp!

“Với đám con cháu, cụ Tôn bảo: ‘Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa cái con ráy lắm! Người ta đặt đâu tao ngồi đó, chớ tao không màng cái chức chi hết’. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm việc gì khác ngoài một việc cụ thích thú hơn cả là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày trước buồn tay buồn chân.

Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn. Thương cụ quá, đôi khi họ còn làm cho xe trục trặc đi để dắt đến nhờ cụ sửa giùm. Một người bạn tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, kể rằng một hôm anh đến thăm cụ, vào thời gian Nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào:

‘Mầy có thấy lính kín theo mầy tới đây không mầy?’ Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu :‘Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu.”  (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. Văn Nghệ. Westminster, CA: 1997).

Tuy “nghe ngứa con ráy lắm,” và đôi khi cũng cảm thấy ngượng ngập (đôi chút) vì chức vụ hữu danh vô thực nhưng bác Tôn vẫn cứ ngồi im re ở cái ghế Phó Chủ Tịch Nước từ 1960 cho đến mãi 1969 lận!

Bác Bằng cũng thế: “Ông tiếp mẹ tôi trên gác ngôi nhà có công an canh gác, nói những lời an ủi vô thưởng vô phạt. Tiễn mẹ tôi xuống nhà, khi đã ra đến vườn rồi, tin chắc không còn bị nghe trộm nữa rồi, ông mới hứa sẽ đặt vấn đề ra trước Trung ương để Trung ương xem xét …

Lời hứa của ông chẳng bao giờ được thực hiện. Ðịa vị cao sang và nỗi sợ hãi trước Lê Ðức Thọ đã làm tâm hồn người chiến sĩ cách mạng nổi tiếng năm xưa tê liệt. Mẹ tôi kể rằng trong những lần bà tới gặp Nguyễn Lương Bằng, bà thấy ông biết nhà ông bị gài rệp.” (Vũ T. H., s.đ.d. tr. 361).

Ấy vậy chớ người Anh Cả Cách Mạng cũng vẫn yên vị với cái chức danh Phó Chủ Tịch Nước đúng mười năm chẵn, dù biết rằng cái ghế này có rệp.

Thế mới biết lợi danh – hay người xưa còn gọi là cái bả vinh hoa – luôn là miếng mồi hấp dẫn đối với chúng sinh, bất kể thời nào, và bất phân giới tính. Bà Bình cũng ngồi êm ru ở cái ghế PCT, dù chỉ ngồi chơi/xơi nước (đâu) cũng cỡ một thập niên – chớ đâu có ít!

Theo Wikipedia Hà Nội: “Nguyễn Thị Bình (sinh năm 1927) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nổi tiếng trên thế giới khi giữ cương vị Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn 1968-1973. Bà là một trong những người đại diện các bên ký hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định…

Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục trong 10 năm (1992-2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó nguyên thủ và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên giữ chức vụ Phó chủ tịch nước. Năm 2001, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng cho bà Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhận những công lao to lớn của bà đối với Đảng Cộng sản Việt NamNhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Mọi huân chương đều có mặt trái của nó. Cái mặt trái Huân Chương Hồ Chí Minh của bà Nguyễn Thị Bình là tính mạng và cuộc sống khống cùng của vô số những người phụ nữ Việt Nam khác:

Họ là những cô gái thời chiến, những thiếu nữ tình nguyện đầu quân vào một trong những đội nữ binh lớn nhất mà bất cứ nước nào đã từng đưa ra một chiến trường tân tiến … Khi hòa bình trở lại, họ mong sẽ tìm được một tấm chồng xứng đáng và sinh con đẻ cái.

Ðối với nhiều người trong số họ, giấc mơ đó đã không thành. Trở về sau khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975, họ đã bị coi như thiếu hấp dẫn, vì bị tàn phá bởi bệnh hoạn, thiếu ăn và những cực khổ khác mà họ đã phải chịu đựng trong rừng…

Họ nói về chuyện trở về nhà với đời sống khó khăn hơn là đời sống mà họ đã rời bỏ. Sự cay đắng dai dẳng vì trong suốt bao nhiêu năm họ đã là những chiến sĩ bị bỏ quên trong một cuộc chiến tranh mà những người đàn ông chiến đấu – chứ không phải phụ nữ – đã trở thành anh hùng.

Tôi đã tưởng cuộc đời tôi sau chiến tranh sẽ giản dị và hạnh phúc,’ theo lời Nguyễn Thị Bình, cân được 85 pounds khi trở về nhà. ‘Nhưng tôi đã để cho người bạn trai của tôi ra đi. Tôi đã nói với anh ấy rằng với những chứng bệnh của tôi, với một chân bị thương của tôi, tôi sẽ là một gánh nặng cho anh ấy.’

Bà Bình đã sống một mình suốt 17 năm, một hình thức lưu vong trong một xã hội nặng về gia đình trong đó những phụ nữ hiếm muộn và những cặp vợ chồng không con là những đối tượng để thương hại. Thế rồi, trước sự thúc giục của những cựu đồng chí trong một đoàn phụ nữ – đoàn 559 – bà Bình đã ‘lấy một người chồng qua đêm’ và sinh được một đứa con gái. (David Lamb. “Vietnam’s Women of War.” Los Angeles Times 10 Jan. 2003. Bản dịch Nguyễn Nhật. Talawas 17/07/2003).

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC (vào hôm 13 tháng 10 năm 2008) về số phận Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam sau 1975, nguyên Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Bình nói “tổ chức này khi ấy đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử” và “khẳng định” rằng “tôi không có sai lầm gì hết. Con đường mình đi hoàn toàn đúng.”

Nếu sau chiến tranh mà bà Bình này cũng trở thành một phụ nữ 4 không: không nhà, không cấp dưỡng, không con, không chồng (hoặc chỉ là một người chồng qua đêm, y như bà Bình kia) thì khán thính giả của BBC – không chừng – đã được nghe đôi lời nói (khác) chân thành và tử tế hơn!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nước & Dân

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

29/05/2025

Đúng 9 giờ sáng ngày 10 tháng 10 năm 1972, tôi có mặt tại Trung Tâm Xã Hội Sài Gòn để trình diện nhập ngũ. Tới trưa, tôi được đưa vào trại Nguyễn Tri Phương. Đây là nơi tiếp nhận tân binh để đưa đi huấn luyện. Những thằng trong hạn tuổi quân dịch như tôi, theo luật Tổng Động Viên (sau Mùa Hè Đỏ Lửa) thì nhiều vô số nên cả đống phải nằm chờ khá lâu ở cái trại chuyển tiếp này.

Tôi ghét tất cả các trại lính và mọi thứ quân trường (Quang Trung, Thủ Đức, Lam Sơn …) mà mình đã trải qua nhưng riêng Nguyễn Tri Phương thì có một “điểm son” đáng được ghi nhận: nơi đây có một cửa hàng cho mướn sách truyện, và không thiếu một tác phẩm nào của Erich Maria Remarque. Tất cả đều được những dịch giả tài hoa của miền Nam (Huỳnh Phan Anh, Cô Liêu, Tâm Nguyễn, Vũ Kim Thư…) chuyển sang Việt ngữ:

All Quiet on the Western Front (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh)

Three Comrades (Chiến Hữu)

Arch of Triumph (Tình Yêu Bên Bờ Vực Thẳm)

Spark of Life (Lửa Thương Yêu Lửa Ngục Tù)

A Time to Love and a Time to Die (Một Thời Để Yêu và Một Thời Để Chết)

The Black Obelisk (Bia Mộ Đen) …

Tâm cảm phản chiến của Remarque rất hạp với cái “tạng” ngại chuyện súng đạn của tôi. Nước Đức bất an và tan hoang qua của ông cũng rất gần với không khí ngột ngạt mà tôi đang hít thở, ngay ở quê hương của chính mình. Tôi lại đang không có́ chuyện chi để giết thời giờ trong khi nằm chờ khoá nên truyện của Remarque tôi đều đọc đi đọc lại (vài lần) và trở thành “rành rẽ” về nước Đức hơn nhiều quốc gia khác ở Âu Châu.

Duyên nợ của tôi với Đức Quốc không chỉ ngừng ngang đó. Tuy chưa bao giờ có dịp được đặt chân đến xứ sở này nhưng người Việt thì sống ở nơi đây không ít, và họ có lắm nỗi băn khoăn. FB Đặng Đình Mạnh vừa đặt ra nhiều câu hỏi:

– Nước Đức, sau ngày thống nhất, chúng ta không rõ tại sao họ không đặt ra vấn đề buộc những người cộng tác với chính quyền Đông Đức cũ phải đi học tập cải tạo như đất nước ta?

– Nước Đức, sau ngày thống nhất, chúng ta không hiểu tại sao người dân Đông Đức cũ đã không chọn con đường đào thoát, tỵ nạn ra nước ngoài như người dân đất nước ta?

– Nước Đức, sau ngày thống nhất, chúng ta không rõ tại sao và như thế nào mà họ lại có thể chấp nhận một người vốn xuất thân từ một đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng sản Đức thuộc Đông Đức cũ, nhưng chỉ 15 năm sau khi thống nhất, thì người này đã có thể trở thành người phụ nữ đầu tiên và trẻ nhất đắc cử vào chức vụ Thủ tướng đầy quyền lực của nước Đức thống nhất?

– Tại sao và tại sao?

Những “thắc mắc” vừa nêu có thể được giải đáp, phần nào, qua lời của FB Nguyễn Thọ:

“Trong những vấn đề dân tộc, người dân Đông Đức XHCN chỉ biết đến nước Đức. Thời tôi ở Đông Đức cuối những năm 1960, đội tuyển bóng đá Đông Đức chỉ là loại trung bình ở châu Âu, trong khi đội tuyển Tây Đức là một trong những đội đứng đầu thế giới.

Các trận đấu của đội tuyển Tây Đức ngày đó luôn là những tuyệt tác nghệ thuật của các danh thủ Gerd Müller, Beckenbauer, Overrath, Netzer… Dân Đông Đức hay rủ nhau xem các trận này qua TV. Mặc dù đội Tây Đức luôn được ký hiệu trên TV là RFA hay FRG [1], dân Đông Đức chỉ hét cổ vũ “Deutschland, Deutschland” (nước Đức, nước Đức). Đó là dân trí lành mạnh!”

Đoạn văn thượng dẫn khiến tôi chợt nhớ đến một trận đá bóng (khác) không được “lành mạnh” gì cho lắm, hay nói chính xác là “kinh hoàng” hơn nhiều – theo như “nguyên văn” cách dùng từ của người thuật chuyện:

“Khi Việt Nam kịch liệt lên án Liên Xô, chị Nona người Nga, giáo sư đại học ở ta, vợ Nguyễn Tài Cẩn, mấy lần mếu máo bảo tôi là đi đường chị vẫn bị người lớn trẻ con ném đá, và chửi ‘đ. mẹ con xét lại!’ Dân Việt Nam say mê chính trị lắm, mà thể hiện chủ yếu bằng gạch đá và chửi tục, chị nói.

Nhân Nona nói đến gạch đá tham gia chống xét lại, tôi hỏi chị có biết quân đội 12 nước xã hội chủ nghĩa đá bóng với nhau ở Hà Nội hồi sắp ra Nghị quyết 9 không. Nona nói có, có nghe. Bảo kinh hoàng lắm.

Tôi nói chính tôi chứng kiến. Tôi cùng ngồi xem với Trần Đức Hinh cục trưởng điện ảnh và Khánh Căn, báo Nhân Dân, sau này thông gia với Tố Hữu. Hôm ấy quân đội Liên Xô đấu với ai đó, tôi không nhớ – hình như Anbani … Dần lại thấy có những bị cói và sọt đan kín phủ báo ở chân mấy người xem gần chỗ chúng tôi.

Thì ra đựng đầy đá củ đậu. Trận đấu bắt đầu được chừng mười lăm phút, người xem ở khắp bốn phía sân vân động thình lình nhất tề nhè vào cầu thủ Liên Xô ném đá tới tấp. Ba chúng tôi kinh ngạc. Khánh Căn nói phong trào quăng đá này nhất định là phải có tổ chức từ trên rồi.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Ôi, tưởng đâu chứ trên thì còn có lắm chuyện tiểu nhân và bất nhân hơn thế rất nhiều:

“Sáng sớm ngày 9 tháng 4 năm 1979, phòng tổ chức mời vợ tôi lên. Cuộc gặp mặt gồm Bùi Đình Phảng, bí thư đảng ủy, Nguyễn Đình Mão, phó bí thư kiêm bệnh viện phó, Nguyễn Gia Hòa, đảng ủy viên, trưởng phòng Tổ Chức Hành Chính cùng một số nhân viên …

Sau vài lời rào đón, Nguyễn Đình Mão bảo vợ tôi: “Việt Nam và Trung Quốc đã xảy ra chiến sự. Chúng ta đang chống quân bá quyền, bành trướng Trung Quốc. Chị là người Việt, nhưng chồng chị là người Hoa. Chúng tôi đang giải quyết anh ấy nghỉ chế độ mất sức. Còn chị muốn tiếp tục công tác, chị phải làm đơn ly dị và trả lại 3 cháu cho anh ấy, nộp cho chúng tôi. Vợ tôi bàng hoàng… Thấy vợ tôi im lặng, trưởng phòng tổ chức Nguyễn Gia Hòa an ủi: Chúng tôi muốn giúp đỡ, cho chị lối thoát chứ không có ý gì khác.” (Lâm Hoàng Mạnh. Vui Buồn Đời Thuyền Nhân, Tiếng Quê Hương, Falls Church, VA: 2011).

Khi thù Nga, lúc oán Tầu. Nay thế này, mai thế khác, bao giờ cũng với thái độ quá khích, rồi giận cá chém thớt, trút hết mọi oán hận vào những lương dân vô tội. Đất nước “được” dẫn dắt bởi một đám người nông nổi, tiểu tâm, ngu tối (và thiển cận) đến thế nên đã tạo ra một “cái nền dân trí luôn là mảnh đất cho hận thù, ngờ vực và chia rẽ” – theo như nhận xét của FB Nguyễn Thọ:

“Chúng ta chưa có một nền dân trí mạnh vì còn rất ít người có thói quen suy nghĩ độc lập, tự đi tìm sự thật. Đa số người Việt trên mạng chỉ có một hình ảnh kẻ thù cố định hoặc một anh hùng vĩnh cửu.

Khi coi Trung Quốc là kẻ thù thì mọi thứ của Trung Quốc đều xấu, đều đáng bị tiêu diệt. Ai chửi Trung Quốc thì là bạn, ai phê phán người chửi Trung Quốc là kẻ thù. Có lẽ không ở đâu mà fake news có đất sống và phát tán nhanh như mạng Việt ngữ.

Cách đơn giản hóa vấn đề, chỉ biết có trắng và đen đang làm cho người Việt trở nên cực đoan. Người ta chửi nhau, hủy bạn bè vì những chuyện nhỏ như dùng Chloroquine chữa bệnh Covid-19, vì Bill Gates, vì Greta Thunberg hay vì Mẹ Nấm. Lên đến mức độ Trump thì đã có những cặp vợ chồng tan vỡ. Cái nền dân trí đó luôn là mảnh đất cho hận thù, ngờ vực và chia rẽ.”

“Cái nền dân trí luôn là mảnh đất cho hận thù, ngờ vực và chia rẽ” nếu chỉ giới hạn trong lãnh thổ VN thì có thể tìm ngay ra thủ phạm: Chủ Nghĩa Toàn Trị và học thuyết Marx – Lenin! Vấn đề là không ít người Việt đang sống ở nước ngoài, chả có liên quan (hay ảnh hưởng chi nhiều) với cái chế độ thổ tả hiện hành mà vẫn sẵn sàng chửi nhau, hủy bạn bè vì những chuyện nhỏ (như con thỏ) như thường. Vì cái nước mình nó thế nên dân mình không thể khác được chăng?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cái Gông Thủ Huồng & Nghĩa Trang Quan Chức

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

27/05/2025

Năm 17 tuổi, đang khi học thi tú tài, tôi bỗng nhiên bị suyễn. Căn bệnh này – vào cuối thế kỷ trước, ở VN– vẫn bị coi là loại nan y, vô phương chữa trị. Từ đó, thỉnh thoảng, tôi lại phải trải qua vài ba cơn suyễn thập tử nhất sinh.

Những lúc ngồi (hay nằm) thoi thóp tôi mới ý thức được rằng sinh mệnh của chúng ta mong manh lắm, và chỉ cần được hít thở bình thường thôi cũng đã là một điều hạnh phúc lắm rồi. If you can’t breathe, nothing else matters!

Vì thường xuyên sống bấp bênh và bồng bềnh (“giữa hai cõi âm/ dương”) nên tôi… rất nhát. Địa ngục gần xịt hà. Mà địa ngục trong trí tưởng của tôi (kẻ lon son theo mẹ đi chùa suốt thời thơ ấu) thì vô cùng khủng khiếp: đầy bọn lâu la đầu trâu mặt ngựa, cùng với dầu sôi, lửa đỏ …. ngó là muốn xỉu liền. Bởi vậy, suốt đời tôi không bao giờ dám làm điều gì ác; cũng không dám giữ riêng chi cho cá nhân mình, và sẵn sàng thực hiện mọi điều thiện khi có thể.

Với thời gian, cùng những phát kiến của y khoa, bệnh suyễn không còn hành hạ và đe dọa đến mạng sống của tôi như khi còn trẻ nữa. Nhưng cũng với thời gian, tà tà đời xế về chiều, rồi tôi cũng sắp sửa phải đối diện với cái chết thôi.

Nhờ đã từng trải nhiều lần “bên vực tử sinh” nên tôi không ngán Thần Chết xíu xiu nào ráo trọi. Tôi cũng chả ngại ngùng gì khi gặp mặt Diêm Vương. Tui sống đàng tử tế quá trời nên dù có xét nét tới đâu chăng nữa thì thằng chả vẫn phải công nhận rằng tui là “thằng đàng hoàng nhứt trong cái đám lộn xộn,” cùng thời.

Trong đám này có hai cha nội rất đáng phàn nàn là Ba Dũng và Bắc Hà, theo như ghi nhận của nhà báo Huy Đức:

“Trong bức ảnh này (Bogaya, Ấn Độ), khi xếp bằng dưới gốc bồ đề nơi được cho là phật tổ từng ngồi, Bắc Hà (phải cùng) là người duy nhất có dáng điệu rúm ró khác thường. Đây là giai đoạn mà ở quốc gia này, Bắc Hà chỉ ‘dưới Ba Dũng’ và hách dịch với phần còn lại, vậy nhưng khi đối diện với thần linh nhìn ông ta vô cùng sợ hãi.

Không chỉ có Bắc Hà, rất nhiều quan chức tối cao cứ sắp bước chân ra khỏi nhà là thỉnh ý các thầy tâm linh, đổ không biết cơ man nào tiền để xây chùa, xây đền… Họ nên đọc lại ‘Chuyện Thủ Huồng’ để thấy rằng, khi sợ trời phật thì cách tốt nhất là ngưng làm điều ác để bắt đầu các việc thiện.

Đừng vì tâm quá hoảng loạn mà vội vàng truyền bá cái văn hóa hối lộ trần tục đến cõi thiêng liêng: vẫn thỏa sức vơ vét của dân rồi mong gỡ tội bằng cách cuống cuồng mua trời, bán phật.”

Nhìn “dáng điệu của Bắc Hà” quả là “rúm ró” thiệt, và “rúm ró” lắm. Còn nét mặt của Ba Dũng – xem chừng – cũng không được tự tín gì mấy, ngó cũng lấm lét thấy rõ. Huy Đức còn khuyên “họ nên đọc lại ‘Chuyện Thủ Huồng’ để thấy rằng, khi sợ trời phật thì cách tốt nhất là ngưng làm điều ác để bắt đầu các việc thiện.”

Ủa, chớ Thủ Huồng là ai vậy cà?

Tui vô gu gồ thì thấy Wikipedia có những đoạn sau:

“Ngày xưa, khoảng năm 1755, ở châu Đại Phố có một người tên là Võ Hữu Hoằng. Ông xuất thân làm thơ lại. Trong hai mươi năm làm việc trong nha môn, ông đã thu tóm được nhiều tiền của. Sau khi vợ mất sớm lại không con, mà tiền bạc thì quá thừa thải, Thủ Huồng xin thôi việc về nhà.

Thủ Huồng (có sách ghi là Thủ Huồn) rất yêu vợ, cho nên khi nghe người mách rằng ở chợ Mãnh Ma (Quảng Yên) là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau, ông quyết đi tìm vợ.

Gặp nhau, trong lúc trò chuyện, Thủ Huồng ngỏ ý muốn xuống âm phủ chơi và được vợ đồng ý. Ở cõi âm, ông tận mắt nhìn thấy những cực hình dành cho những kẻ phạm nhiều tội ác khi còn sống. Và ông cũng đã nhìn thấy một cái gông to, mà cai ngục cho biết là để dành cho ông…

Khi trở lại cõi dương, Thủ Huồng đem toàn bộ tài sản dùng vào việc bố thí, xây dựng những công trình phúc lợi, đặc biệt là làm nhà để giúp dân nghèo…

Sau, Thủ Huồng được vợ đưa xuống cõi âm lần nữa, và thấy cái gông ngày cũ đã nhỏ lại rất nhiều. Từ đó, ông tiếp tục làm việc thiện, việc nghĩa cho đến khi mất …”

Hèn chi mà bữa rồi tôi có nghe nhà báo Đinh Ngọc Thu cho hay là ông Trần Đại Quang vừa cúng chùa Vĩnh Nghiêm một cặp đèn trị giá 19 tỷ lận. Trước đó, dư luận cũng có hơi lăn tăn chút xíu về một món quà từ thiện (bất ngờ) dành cho trẻ em ở huyện Võ Nhai – tỉnh Thái Nguyên.

Về sự kiện này, VOA có bài (“Chia Rẽ Về Quỹ Xây Trường Từ Con Gái Nguyễn Tấn Dũng”) nghe được vào hôm 11 tháng 9 năm 2017. Xin trích vài đoạn ngắn:

“Tin cho hay trường mới trông như một “bông hoa nổi bật giữa núi rừng”, có đầy đủ các phòng học, phòng chức năng, phòng đa năng, thư viện, bếp nấu, nhà ăn, nhà nội trú, khu vệ sinh, sân vui chơi cho các em…

Ông Hoàng Dũng ở TP. HCM, người từng nhiệt tình tham gia các hoạt động vì dân chủ, viết: ‘Nếu cả tập đoàn dòng họ nhà bạn khai thác 1 đất nước đến kiệt quệ rồi xây dựng lại dăm vài chục công trình thiện nguyện bất kể đó là tiền sạch hay bẩn, thì bạn có xứng được tung hô không?’

Nhà báo Võ Văn Tạo ở Nha Trang, người thường xuyên lên tiếng về những chuyện gây bất bình ở Việt Nam, viết: ‘Cứ mặc sức tham nhũng trăm nghìn tỷ, phá nát đất nước, tạo trường rách nát đi. Hưu, bỏ vài tỷ xây 1 trường, sẽ được tri ân’.

Đã có hàng trăm những lời bình luận hay các ý kiến tương tự như của ông Dũng và ông Tạo. Đáp lại các ý kiến này, trên trang Facebook cá nhân, giáo sư Ngô Bảo Châu bày tỏ ông có cái nhìn ‘đơn giản’ về việc vận động nguồn tài trợ xây trường”.

Với cái nhìn của một người từng sống giữa cõi âm/dương như tôi thì tất cả những ý kiến thượng dẫn (dù pro hay con) đều hoàn toàn không đáng được quan tâm. Vấn đề thực sự cần được đặt ra là liệu những cái gông, đang nằm chờ dưới cõi âm, sẽ có nhỏ lại hay không – sau khi qúi vị lãnh đạo quốc dân chịu chi (ít nhiều) để làm việc nghĩa?

Là một người có “thẩm quyền” trong “lãnh vực âm dương,” tôi khẳng định: có! Hồi thời Thủ Huồng Diêm Vương tính điểm ra sao, thời nay ổng cũng vẫn làm y như trước thôi.

Nói thí dụ cho dễ hiểu là nếu cái gông của ông Quang dài một thước thì sau khi cúng chùa cặp đèn giá trị 19 tỷ đồng nó sẽ ngắn bớt lại được một phân. Cứ như thế mà nhân lên, khi số tiền làm việc thiện lên tới 190 tỷ thì cái gông của ổng sẽ ngắn lại một tấc.

Cứ theo tiến trình này, cùng với hàng vài chục tỷ đô la mà qúi vị quan chức sốt sắn nôn ra thì chả mấy chốc mấy cái gông dưới địa ngục (dám) sẽ biến mất luôn hết ráo. Cùng lúc trên dương gian số trẻ em Việt Nam bán vé số sẽ bớt dần vì trường học mọc lên như nấm, bệnh viện cũng mọc theo nên hết có cái vụ chồng chất ba bốn mạng một giường như hiện tại. Còn cầu đường thì (ôi thôi) bắc ngang bắc dọc khắp nơi … nên không còn cái vụ con nít chết trôi, chết chìm đều đều nữa.

Mọi người đều vui hết, và vui còn hơn Tết nữa. Ở ngoài nước, tất nhiên, tui cũng vui luôn. Chỉ có điều đáng tiếc là niềm vui này hơi ngắn. Báo Người Lao Động lại vừa ái ngại loan tin: “1.400 tỉ đồng xây nghĩa trang quốc gia dành cho cán bộ cao cấp.”

Ah, đù! Vừa mới nhả ra cặp đèn mười chín tỷ xong lại cạp ngay vào thêm một ngàn bốn trăm tỷ khác thì Diêm Vương, dù có dễ tính tới đâu chăng nữa, cũng đành phải bó tay chấm còm thôi. Thôi, quăng mẹ hết cả đám “cán bộ cao cấp” vô vạc dầu sôi đi – khỏi có gông cùm gì nữa ráo – bất kể là tụi nó xuống âm ty qua thứ nghĩa trang nào.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thời Phản Động

Ba’o Dan chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

22/05/2025

Từ khi có FB, tôi hay đọc tác giả Ngô Nhật Đăng nên biết rằng ông mở mắt chào đời ở Hà Nội hồi cuối thập niên 1950. Tôi thì sinh ra tại Sài Gòn, trước đó vài năm. Chút dị biệt này khiến cho chúng tôi sống trong hai xã hội khác nhau, và tham dự vào hai cuộc chiến (cũng) hoàn toàn khác.

Những dòng chữ Ngô Nhật Đăng viết về chiến tranh biên giới (Việt – Trung) đều hết sức sống động, và vô cùng chân thật. Ông giúp cho độc giả, nhất là những kẻ đã từng cầm súng, thấy rõ hơn cái thân phận của người lính trận. Ở nơi đâu (và thời nào) cũng thế, họ cũng đều sống khổ cực và chết dễ như chơi.

Ngô Nhật Đăng không chỉ viết về những tháng năm binh lửa. Ông am tường nhiều vấn đề và bao biện rất nhiều lãnh vực (chính trị, xã hội, khoa học, kỹ thuật, nhân sinh …) nhưng riêng về chuyện tình cảm ( Anh Hùng Với Mỹ Nhân) thì tôi e rằng tác giả không được khách quan cho lắm:

Mình quen biết nhiều các bác, các chú Nhân văn giai phẩm, thấy phu nhân của các vị ấy thật tận cùng lãng mạn. Nếu không có các bà chăm lo thì các ông ấy chết đói từ lâu rồi, nói gì đến chuyện phản kháng, phản động. Nuôi chồng, chăm con, xù lông lên dữ tợn như gà mái nếu có kẻ nào dám động đến đàn con của mình.

Thỉnh thoảng đến chơi, ví dụ như nhà chú Phùng Quán mình lại thích ngồi nói chuyện với cô Bội Trâm hơn, quan sát cách cô chăm sóc chú Quán mà cảm động. Rồi vợ bác Văn Cao, Lê Đạt, Bùi Xuân Phái, chị Mai của anh Lộc Vàng ….đúng là thuyền quyên sánh với anh hùng. Đổi lại, các vị ấy cũng tôn trọng nếu không nói là biết ơn các bà nội tướng của mình lắm. Luôn tương kính nhau, nhìn mà phát thèm.

Có “Hiền thê” được coi là thành tựu quan trọng nhất trong đời đàn ông. Một lần ngồi với ông bạn vong niên cũng là bậc trưởng thượng, ông bảo :

– Nước mình hết mỹ nhân rồi, vận nước suy nên làm ra như thế.

Mình ngạc nhiên nói :

– Thưa bác, đâu có vậy. Cháu thấy Việt Nam bây giờ ngày càng nhiều người đẹp đó chứ, đẹp hơn xưa nhiều lắm, hàng năm có đến cả chục cuộc thi hoa hậu, người đẹp đó thôi.

Ổng phẩy tay :

– Cậu còn nông cạn lắm, từ thượng cổ, trời đất đã định mỹ nhân chỉ dành cho anh hùng. Cậu xem các ông chồng của những “mỹ nhân” bây giờ có ai đáng mặt anh hùng không ?

Có thể đúng là “các ông chồng của những ‘mỹ nhân’ bây giờ không có ai đáng mặt anh hùng” (cả) nhưng như thế không có nghĩa là nước Việt không còn người hùng anh, và số “người đẹp” ở xứ sở này chỉ giới hạn vào những bóng hồng đã tham dự “vào mấy chục cuộc thi hoa hậu hằng năm” mà thôi.

Mới cách đây không lâu, hôm 01/01/2023, FB Bông Tuyết đã đưa lên mạng hình chụp chung của chính cô và vài người bạn đồng cảnh – Trịnh Nhung, Lê Bích Vượng, Bùi Thị Huệ – cùng với lời chú thích vô cùng sảng khoái (“Vợ ‘phản động’ xinh dã man ha..ha..ha…”) rồi nhận ngay được không ít những lời lẽ tán thưởng rất nhiệt tình:

  • Nguyễn Thanh Mai: “Xinh quá.”
  • Phạm Thị Xuân: “Xinh đẹp lắm em.”
  • Huynh Ngoc Chenh: “Đẹp thế này nên chúng nó âm mưu bắt mấy anh chồng đi nhốt hết.”
  •  Nguyễn Thu Nga : “Sao bọn ‘phản động’ chọn vợ giỏi thế nhỉ. Toàn giỏi giang xinh đẹp và vô cùng có văn hoá.”
  • Dũng Nguyễn: “Không phải vợ phản động ! Đây là vợ của những người đàn ông yêu nước!”

Thế “những người đàn ông yêu nước” này, những ông chồng của những phụ nữ (“xinh dã man”) trong bức hình trên là ai vậy?

Tôi may mắn và hân hạnh biết được danh tính của họ nên cũng (mau mắn) xin phép được thưa luôn, cho nó lẹ:

  • Nguyễn Lân Thắng, phu quân của bà Lê Bích Vượng, ông bị bắt giữ vào tháng 7 năm 2022 cho đến nay (vẫn chưa được xét xử) với cáo buộc: “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
  •  Bùi Văn Thuận, phu quân của bà Trịnh Nhung, đang thụ án 8 năm tù giam và 5 năm quản chế, với cáo buộc “thường xuyên đăng các bài viết lan truyền thông tin xuyên tạc nhằm bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo đảng, nhà nước khác của Việt Nam”.
  • Đỗ Nam Trung, hôn phu của cô Nguyễn Thị Ánh Tuyết, đang thụ án 10 năm tù giam và 4 năm quản chế, với tội danh “phát tán tài liệu chống nhà nước.”
  • Dũng Vova (Lê Văn Dũng) phu quân của bà Bùi Thị Huệ, đang thụ án 5 năm tù với tội danh: “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Những cáo buộc và tội danh (quen thuộc) này khiến tôi nhớ đến một mẩu đối thoại ngăn ngắn, giữa hai người tù – vào hồi cuối thế kỷ trước – trong tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn:

– Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?

– Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”.

– Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực.

Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm. (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Khi Đảng chống bọn xét lại, Bùi Ngọc Tấn đi tù nhiều năm vì “tội nói thực.” Lúc Đảng chống bọn Nhân Văn, Phùng Quán chỉ vì “muốn là  nhà văn chân thật” nên phải chịu cảnh “cá trộm, viết chui, rượu chịu” gần suốt cuộc đời. Nay thì cái giá mà Nguyễn Lân Thắng, Bùi Văn Thuận, Đỗ Nam Trung, Dũng Vova … phải trả cho sự “chân thật” cũng nào có rẻ.

Mà đâu phải chỉ chừng đó mạng thôi. Mạng lưới Nhân Quyền Việt Nam (VNHR) cho biết hiện có gần 300 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ, một phần ba là người bản địa, không ít kẻ phải nhận những bản án rất nặng nề. Họ chả phải là anh hùng sao?

Ở mảnh đất này, hào kiệt có bao giờ thiếu. Mỹ nhân cũng thế!

Đã thế, họ không chỉ “xinh dã man” mà còn tận tụy cũng “dã man” luôn. Tôi vẫn nhìn theo những bước chân của quý bà Nguyễn Chương (phu nhân của TNLT Trần Đức Thạch) Nguyễn Thị Nghiêm (phu nhân của TNLT Phạm Thành) Nguyễn Thị Kim Thanh (phu nhân của TNLT Trương Minh Đức) Lân Tường Thụy (phu nhân của TNLT Nguyễn Tường Thụy) …. khi họ lặn lội thăm chồng – lẽo đẽo trên mọi nẻo đường đất nước – mà không khỏi ứa nước mắt vì sự tảo tần, thương khó triền miên của những người phụ nữa này. Còn có hình ảnh nào đẹp hơn được nữa?

Nhà văn Ngô Nhật Đăng nhận xét là quý bà Nhân Văn “thật tận cùng lãng mạn.” Sự “lãng mạng tận cùng” này – có lẽ – cũng không hơn (hay không khác) những bà vợ tù nhân lương tâm ngày nay là mấy:

  • Trịnh Nhung (phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận) : “Mùa đông là mùa mà anh thích nhất, còn em vì thích anh mà cũng thêm yêu mùa đông.”
  • Đỗ Thu (phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương) : “Hôm qua ngày 10/2 tôi nhận được 2 niềm vui đó là trưa thì nhận được 2 bức thư của chồng… Cả tháng đợi mỗi thư của chồng về.”
  • Đỗ Lê Na (phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng) : “Trưa nay (lễ tình nhân thứ hai xa cách), bất ngờ nhận được thư chồng gửi về từ trại 6. Cầm thư mà lòng xen lẫn mừng vui và ngậm ngùi!”

T.S Mạc Văn Trang cảm thán: “Đất nước của những hòn VỌNG PHU sao cứ cắm vào dân tộc này mãi vậy hả Trời!”

Tôi hoàn toàn đồng tình với tâm cảm của ông nghè họ Mạc. Tuy thế, không ít lúc, vẫn trộm nghĩ thêm rằng: nhờ lúc nào cũng có vài trăm TNLT chật ních trong những nhà tù, cùng những hòn vọng phu luôn ở bên ngoài nên người Việt cũng đỡ ngượng ngùng khi nhìn vào mặt nhau, và họ còn có nơi để hướng tới – khi nghĩ đến tương lai của đất nước này!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trường làng Kandal

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

20/05/2025

Người Việt rất lạc quan và hãnh diện về tính hiếu học của dân tộc mình, trừ nhà văn Phạm Thị Hoài:

“Nhân đây cũng xin nói ngoài lề là cái tinh thần rất nổi tiếng và thường xuyên được ca ngợi rằng, người Việt hiếu học, cha mẹ muốn con hay chữ, yêu thầy, theo tôi một phần cũng rất đáng kể xuất phát từ tinh thần yêu địa vị và trọng quyền lực. Nếu chữ nghĩa không mở ra được một triển vọng thơm tho như vậy, một người đi học thi đỗ làm quan thì cả họ được nhờ, tôi tin rằng cái sự hiếu học kia chắc chắn là giảm đi đáng kể.”

Cái kiểu nói (“nhân đây”) của bà nhà văn nghe “mích lòng” thấy rõ nhưng e là hoàn toàn không trật, với mọi người dân Việt – trừ ông Út Em:

– Đời mình thì chịu thua rồi nhưng con cháu thì phải lo cho tụi nó học được cái chữ, con số để mai mốt lỡ mượn tiền ai rồi lúc trả còn biết đường ghi vô sổ là mình đã trả ngày nào, hay đã trả bao nhiêu, để không họ cứ đòi hoài cái chết mẹ … – anh Tư thấy ý tui nói đúng không?

– Dạ, đúng!

Tui lật đật tán thành ý kiến của Út Em, dù hoàn toàn không thấy đương sự có gửi gắm chút mộng ước quan quyền gì ráo trọi cho tương lai con cháu, trong khi chúng tôi đang ngồi nhậu (lai rai) tại căn nhà nổi của ổng ở làng Kandal – xã Phsar Chhnang – thuộc tỉnh Kampong Chhnang.

Địa phương này nằm trên giòng Tonlé Sap, tuy chỉ cách thủ đô Nam Vang chưa tới một trăm cây số nhưng lại quá xa những địa điểm du lịch nên chả có ma nào ghé.

Và có lẽ vì vậy (vì cái gì hiếm thì qúi) nên tôi được Út Em tiếp  đãi rất tận tình, dù không được linh đình gì lắm. Trước khi ngồi “uống sương sương vài ly” ổng đã chống ghe đưa tôi đi thăm ngôi trường Samaki, cùng với lời giới thiệu say sưa và hãnh diện:

Việt kiều bên Úc xây đó, tốn cả trăm ngàn đô chớ không phải ít đâu nha.

Sao tự nhiên ngay lúc đó tui muốn mình biến được (liền) thành một “Việt kiều bên Úc.” Thiệt là quá đã. Đúng là một niềm hãnh diện lớn lao.

Giữa cái làng nổi chen chúc lổn nhổn những mái lá xiêu vẹo xác sơ thì trường Kami nổi bật như một công trình kiến trúc hết sức tân kỳ, và vô cùng hoành tráng. Út Em tự hào là phải.

Dù trường ốc đã có sẵn sàng, và đàng hoàng đâu ra đó nhưng “quan niệm và triết lý giáo dục” (rất khiêm tốn) của Út Em – xem chừng –  vẫn chưa được phần đông người dân địa phương chia sẻ. Đời sống có những nhu cầu căn bản được sắp sẵn, theo thứ tự ưu tiên: ăn/học. Ăn  chưa đủ no, lo chi tới học!

Mà trường làng Kandal lại dậy tới ngày hai buổi lận: sáng học tiếng Miên, chiều tiếng Việt. Coi như mất nguyên ngày.

Tuổi thơ là một thành quả đặc thù thế kỷ XX. Trước đó, nhân loại phải dồn hết nỗ lực vào việc mưu sinh nên trẻ con chỉ là một người lớn thu nhỏ (miniature adult) với trách nhiệm đè nặng lên vai gần như bố mẹ.

Nhân loại đã bước vào thế kỷ 21 nhưng dân làng Kandal thì chưa, và chắc còn phải chờ lâu. Hy sinh “nguyên” cả một thành viên trong gia đình cho việc giáo dục là một kiểu đầu tư hơi xa xỉ (và cũng có vẻ rất xa vời) ngoài tầm tay với của rất nhiều cư dân, ở nơi đây.

Tui chợt “ngộ” ra điều này nhưng loay hoay mãi vẫn chưa tìm ra được thứ ngôn ngữ thích hợp để chia sẻ ý nghĩ của mình với ông bạn đồng hương, và đồng ẩm, ngồi bên. Út Em vẫn chậm rãi nhai khô (thứ thực phẩm mà tôi nghi ngại là thằng chả phải nhai một ngày hai lần, và đúng 365 ngày mỗi năm) chợt hất hàm nhìn ra phía trước:

– Anh Tư ngó cái con Sáu bán chuối nướng này nè. Nó đi bán mình ên cũng được vậy, ráng cực thêm chút xíu thôi, để cho thằng con tới trường mà nó nhứt định không chịu. Phải chi nó làm nghề cá mà tới mùa cần người phụ thì tui không trách …

“Con Sáu” đang chèo nghe ngang nhà, và chắc chắn không biết đang bị Út Em “đấu tố” nên còn ráng xề tới thiệt gần (chắc tại thấy khách lạ) cất tiếng chào mời:

– Ai chuối nướng hông?

Người phụ nữ còn rất trẻ nhưng đen đủi và gầy guộc như một con khô. Còn thằng bé thì tóc cháy nắng vàng hoe nhưng trông rõ có nét thông minh và lém lỉnh. Tôi không quen chụp ảnh nên lính quýnh một hồi mới mở được máy, và vì vụng về nên không thu được hình của cả hai mẹ con khi họ lướt qua.

– Chớ ba thằng nhỏ đâu anh Út?

Hai đứa đã khổ quá mà con này nó có cái tật hay nhằn nên thằng kia bỏ lên Nam Vang rồi. Nghe đâu đi phụ hồ nhưng bữa có việc, bữa không, không có tiền gửi về cho vợ nuôi con nên tui sợ nó trốn luôn quá. Nó với tui cũng có bà con xa nhưng mình lo thân còn chưa xong làm sao hụ hợ gì cho ai được.

– Anh Út ở đây bao lâu rồi vậy?

– Tui sinh ngay tại đây chớ đâu – giọng Út Em chợt có vẻ phẫn uất như thể tôi vừa mới chạm đến một vết thương (lòng) nào đó – hồi trào Lon Nol sợ bị nó “cáp duồn” nên tui chạy về bển. Tới chừng thấy êm êm vừa quay trở lại ở chưa ấm chỗ thì tiếp tới trào Khmer Rouge nên chạy thêm lần nữa, cứ chạy hoài thiếu điều muốn xút quần luôn.

Tất cả những người dân Việt sinh trưởng nơi đây thuộc thế hệ Út Em đều có có cái cái lý lịch (“chạy muốn xút quần luôn”) na ná như nhau cả. Họ sinh trưởng ở Cambodia, hốt hoảng bỏ về Việt Nam tị nạn (đôi lần) nhưng quê hương cũng không phải là nơi nương náu được nên rồi lại đành phải tiếp tục tha phương cầu thực.

Sau vài lần chạy qua/chạy về như vậy thì tài sản, đất đai, nhà cửa của đám Việt Kiều ở Miên đều mất ráo. Đến tấm giấy tuỳ thân để lận lưng (rồi) cũng mất luôn nên họ không còn gì để có thể chứng minh mình là ai nữa. Tình trạng vô tổ quốc của họ kéo dài từ đời mình … qua đến đời con cháu.

Út Em nói nghe như khóc:

– Ở đây thì tụi nó kêu mình là Duồn: “Tụi Duồn về quê mày hết đi.” Về tới bển thì họ kêu mình là Miên: “Đám Miên qua đây làm cái gì?” Riết rồi tui thiệt tình cũng không biết mình là cái giống gì nữa, anh Tư à.

Tôi ngồi chết trân, làm bộ ngó mông ra mặt sông đang loang loáng nắng, cứ như thể là mình không hề nghe gì về tình trạng không Miên/không Việt (“không biết mình là cái giống gì nữa”) của Út Em nhưng vẫn thấy mắt cay cay. Út Em ấm ức thêm:

– Đời tụi tui cam chịu như vậy thì đã đành rồi nhưng còn con cháu mình nữa chớ. Tui ước ao tụi nó đều được đi học. Học biết con số, biết cái chữ thì sẽ đỡ bị người ta ăn hiếp – đúng không, anh Tư?

– Dạ, đúng!

Tui lại nhiệt liệt tán thành “quan niệm và triết lý giáo dục” (vô cùng) khiêm tốn của Út Em, dù thâm tâm vẫn e ngại rằng niềm “ước ao” này  – xem ra – vẫn còn hơi xa, so với những thực tế (não lòng) mà tôi đang nhìn thấy ở đất nước này, trong mấy tháng qua.

Nhà cầm quyền Phnom Penh và Hà Nội có rất nhiều điểm dị biệt trong đường lối, và chính sách điều hành quốc gia nhưng chắc chắn họ có điểm này chung: cả hai đều (nhất định) bỏ mặc, không ngó ngàng gì đến đám dân Việt trôi sông lạc chợ ở Cambodia.

Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn đã từng mạnh miệng tuyên bố “sẽ không để vùng trống, vùng trắng trong công tác kiều bào.” Lẽ ra, ngài nên nói thêm rằng: “Trừ đám kiều bào ở Miên thì khỏi.”  N.Q 36 chắc cũng có một điều khoản bất thành văn, và chỉ được hiểu ngầm là: “Không tiền, không kiều hối gửi về quê mẹ thì khúc ruột gần/xa gì cũng đều là ruột thừa ráo nạo.”

– Anh Út còn ai ở VN không?

– Còn bà dì, em má, ở Trà Vinh nhưng già lắm nên chắc bả cũng chết luôn gồi.

– Bộ không liên lạc gì hết trơn sao?

– Liên lạc cách nào, Trời?

Thay vì rượu vào lời ra, tuy chúng tôi vẫn uống tì tì nhưng chuyện trò – rõ ràng – mỗi lúc lại một thêm buồn bã và bế tắc. Tôi rụt rè gợi ý:

– Anh Út chống ghe cho tui trở lại trường học Nghe nói buổi chiều dậy tiếng Việt nên tui muốn ngó qua mấy cái lớp học này coi sao?

– Ở đâu mà ra tới mấy lớp?

– Có cả trăm em học sinh lận mà.

Nhưng mà có một cô giáo tiếng Việt hà, nên dồn hết vô một lớp luôn.

– Ý Trời, đông quá ai mà dậy nổi? Sao không mướn thêm thầy cô?

– Ngoài cái cô này ra, cả xã có ai biết chữ đâu mà đòi làm thầy giáo hay cô giáo. Cổ ở Việt Nam mới qua đó.

Út Em nói không sai. Tôi gặp cô giáo VN rồi mới biết đây một cành lan hiếm hoi và quí giá của cái xã này, hay (dám) của cả tỉnh Kampong Chhnang luôn nữa.

– Cháu tên là Bạch Lan, quê ở Sóc Trăng. Cháu theo chồng qua đây …

– Làm sao cháu dậy được cả trăm em học trò.

– Dạ thì cháu cũng phải “ráng” thôi. Cái khó là các em học mấy trình độ khác nhau. Lớp một nhỏ thì mới học a,b,c. Lớp một lớn thì đọc chạy mặt chữ rồi. Lớp hai thì tập viết, và bắt đầu tập làm toán cộng trừ …Bị không có sách giáo khoa, cái gì cũng phải viết lên bảng nên mất thì giờ, và dậy chậm rì hà…

– Lương lãnh đủ sống không cháu?

– Dạ, hơn trăm đô. Chồng cháu cũng đi làm nên “ráng” thì cũng được nhưng hổng biết là sẽ được bao lâu nữa?

– Ủa, sao vậy?

Nghe nói là hội chỉ đủ tiền trả cho tới cuối năm thôi. Qua Tết mình thì chưa biết vì còn phải chờ ngân quỹ.

Tôi quay qua hỏi một nhân viên MIRO (Minority Rights Organization) người Khmer đứng cạnh:

– Tổ chức của ông có tiếp tục tài trợ cho trường không?

Thằng chả nhún vai, cứ y như là Tây vậy:

– Tụi tao là N.G.O (non governmental organization) chớ có phải là chính phủ Cambodia đâu mà có tiền để trả ai hoài hoài được. Nếu vẫn nhận được tiền từ Vidan Foundation thì “project” này vẫn tiếp tục chớ, còn không thì phải ngưng thôi.

Đúng lúc, tôi thấy anh Nguyễn Công Bằng, đại diện Hội Thiện Nguyện Vì Dân (trụ sở ở Houston, TX) đang sớ rớ gần bên nên hỏi tiếp:

– Sang năm hội còn tài trợ cho ngôi trường ở làng Kandal không anh?

– Hy vọng là còn, tụi tui đang “ráng”…

– Xin lỗi, anh nói “đang ráng” là “đang” làm sao?

–  Dạ thì “ráng” tiếp tục kêu gọi sự tiếp tay của đồng bào mình khắp nơi coi bà con ủng hộ ra sao. Có đủ tiền thì mới dám ký contract cho MIRO dạy tiếp, chớ đâu làm sao khác được…

Chiều vẫn rơi mênh mông trên sông, khiến tôi thốt nhớ đến bản nhạc Chiều Về Trên Sông của Phạm Duy:

Chiều buông trên giòng sông Cửu Long
Như một cơn ước mong, ơi chiều
Về đâu ơi hàng cây gỗ rong
Nghiêng mình trên sóng sông yêu kiều

Thấy tôi có vẻ trầm tư, Út Em nhắc nhỏ:

– Thôi mấy anh chuẩn bị trở lại thành phố đi. Ban đêm ngủ lại không tiện đâu. Nói nào ngay thì ở đây cũng không được an ninh gì cho lắm.

Nghe tới chuyện “không được an ninh” là tui lật đật nhẩy xuống ghe liền. Út Em ái ngại nhìn theo, ngập ngừng (chút xíu) rồi nói với:

– Bữa nào ghé nhậu nữa không, anh Tư?

– Ờ, thế nào tui cũng… “ráng” mà!

Thì cũng nói đại như vậy cho qua chuyện, chớ cái trường làng Kandal này mà đóng cửa luôn thì tui mặt mũi nào mà gặp lại Út Em cho được. Đ…mẹ, sao tui già đầu rồi mà vẫn cứ hay vướng vào nhiều chuyện lôi thôi (dữ) vậy Trời!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Noi gương của bác

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

18/05/2025

Gần đây, qua biên khảo (Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932) của Linh Mục Thanh Lãng, tôi mới được biết thêm quan niệm vô cùng phóng khoáng của cụ Phan Khôi, về chuyện nữ quyền:

“Trong phụ nữ ta có nhiều người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ, vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời ; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá.

Lại thường thấy bà goá nào có máu mặt thì bọn điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra ; vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hoá thì có chớ có bổ ích gì đâu? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi ; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa.” (Phụ Nữ Tân Văn số 95,13-8-1931).
“Cái luật cải giá” khắt khe của thời phong kiến tại Việt Nam – tiếc thay – đã không bị “phế trừ” mà còn trở nên khắt khe hơn, sau khi cuộc cách mạng vô sản thành công ở xứ sở này:

Ả Định mới hai mươi hai tuổi đã có ba đứa con, nhưng trông còn son lắm. Da trắng, má lúc nào cũng ửng hồng, ngực phây phây như cái thúng. Anh mất, ả nghĩ mình là người của Đoàn thể nên rất giữ gìn. Hơn nữa, gia đình ả có công với cách mạng từ lâu.

Bác Hoe Chu, bố chồng, tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ năm 1927. Chồng của ả vào Đảng từ khi còn bóng tối. Về làm dâu, ả được bố chồng và chồng giác ngộ, cũng trở thành đảng viên…

Không may giữa đường đứt gánh tương tư. Giữ nếp nhà, ả mặc áo sổ gấu, đội nón không vành. Nhưng sức lực càng ngày càng căng ra… Tuy thế, ả vẫn tránh tất cả các trường hợp đàn ông cợt nhả khi gặp riêng trên đường làng…

Rồi đến một hôm, trong cuộc họp, anh Cu Kình liếc mắt nhìn ả, ả quay mặt đi. Cứ quay mặt mãi cũng không tránh được cái vòng vây tình ái của anh Cu Kình. Đôi má của ả càng ngày càng đỏ au như con gái dậy thì khiến anh mê như điếu đổ.

Anh đón gặp ả trên đường làng, gặp ngoài đồng, gặp ban ngày, gặp ban đêm. Rồi hai người hò hẹn nhau. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Và ả có thai sau bảy năm giữ gìn. Đảng uỷ triệu tập ả lên trụ sở…

Khi nêu vấn đề khai trừ ả Định, có người gợi ý “chiếu cố quá trình tham gia cách mạng của gia đình”. Nhưng đồng chí bí thư diễn giải một cách kiên quyết:

“Tội quan hệ tình ái bất chính là tội rất nặng. Hơn lúc nào hết, trong hoàn cảnh hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Đảng ta phải thật trong sạch. Đảng viên đi trước làng nước theo sau… (Võ Văn Trực. Cọng Rêu Dưới Đáy Ao. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty Văn Hoá & Truyền Thông Võ Thị, 2007. Bản điện tử do talawas chủ nhật thực hiện).
Cách “diễn giải” của “đồng chí bí thư” về “quan hệ tình ái, xem ra, có vẻ hơi xa (rời) với cuộc sống của “làng nước.” Sau những lũy tre xanh, người dân Việt vẫn cứ sinh hoạt theo nhịp thở, nhịp tim, và tiếng lòng của họ (thay vì theo ý Đảng) bất kể là vào thời bình hay thời chiến:

Những năm 1965- 1975 nhà mình sơ tán ở làng Đông. Nhớ nhiều người nhưng nhớ nhất anh Đa. Bây giờ kể chuyện anh Đa thôi, vì anh này hay nhất trong kí ức của mình về cái làng này.Anh Đa lùn, đen, xấu. Anh Diệu nói cái mặt thằng Đa chành bành giống cái l. trâu.

Anh Đa sống với mẹ già, sau mẹ chết anh ở một mình. Nhà nghèo quá, 24, 25 tuổi rồi hỏi cô nào cũng bị chê.

Anh con liệt sĩ, lại con một, khỏi đi bộ đội. Con trai trong làng ai lớn đều đi bộ đội hết, còn lại dăm ba anh tuổi như anh thôi, chỉ có anh là chưa vợ. Mẹ anh khóc lên khóc xuống, anh vẫn chẳng quan tâm đến chuyện vợ con. Cho đến khi mẹ anh chết anh vẫn độc thân. Mình hỏi anh sao anh không lấy vợ. Anh nói tao để vậy để đàn bà nó thèm…

Anh chỉ làm hai việc: đi đập lúa thuê và nơm cá bán lấy tiền. Cứ mùa lúa là anh đi đập lúa cho các gia đình có chồng con đi bộ đội, một đêm đập lúa được trả vài lon gạo. Thế cũng đủ sống, lại được tiếng giúp đỡ gia đình bộ đội…

Một đêm mình đi thăm túm lươn, hôm đó được nhiều, hơn chục con, mừng lắm hí hửng xách oi về thì gặp anh Đa đi từ nhà chị Thơm ra. Mình hỏi anh đi đâu, anh nói không.

Minh thấy anh mặc cái áo bộ đội dài gần đến gối (anh lùn mà). Nghi nghi, mình kéo vạt áo anh lên, chim cò phơi ra cả, hoá ra anh không mặc quần. Mình ngạc nhiên nói sao vào nhà người ta lại không mặc quần, anh cười phì một tiếng rồi bỏ đi.

Nhà chị Thơm một mẹ một con, chồng đi bộ đội, thằng cu con chị mới hơn 4 tuổi. Mình nghi lắm. Mình lẻn theo anh Đa. Anh Đa lại vào nhà chị Hà. Chị Hà có chồng hy sinh, vừa báo tử năm ngoái.

Chị vẫn say sưa sinh hoạt đoàn, biến đau thương thành hành động cách mạng, hăng hái phát biểu lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu…v.v. Bà con làng xóm khen lắm, vẫn nói với con gái con dâu: đó, sang nhà con Hà mà coi.

Mình vào sau hồi nhà chị Hà Tối quá không thấy gì, chỉ nghe chị kêu hệt như mèo kêu. Mình chặn anh Đa ở cổng nhà chị Hà nói em biết rồi nha. Anh Đa túm cổ áo mình nói mày nói tao giết.

Về sau, lần nào đi nơm anh vừa nơm suất của anh, vừa nơm suất của mình. Mạ mình toàn khen thằng Lập dạo này nơm cá giỏi. Hi hi.

Làng Đông có chừng 4-5 trăm nóc nhà, hơn 1 trăm nóc là nhà hoặc là vợ bộ đội hoặc là vợ liệt sĩ. Không biết anh Đa chui vào bao nhiêu nhà trong số 100 nóc nhà ấy, chỉ biết suốt cuộc chiến tranh 1965-1975, tối nào cứ đến 3-4 giờ sáng anh Đa lại mặc cái áo bộ đội dài đến đầu gối, không thèm mặc quần, đi hết nhà này đến nhà kia, 5 giờ sáng thì về.

Mình hỏi sao anh không mặc quần. Anh nói mặc mần chi, cởi vô cởi ra mệt. (Nguyễn Quang Lập. “Anh Cu Đa”. Ký Ức Vụn. Hội Nhà Văn: Hà Nội, 2011)
Một anh trai làng “lùn, đen, xấu” và “mặt  chành bành giống cái l. trâu” mà còn “bận” đến cỡ đó thì anh Ba Duẩn (“ngọn đèn cháy sáng 200 nến”, soi khắp Bắc/Nam) làm sao mà rảnh rang cho được:

Tháng 7-1986 Duẩn chết, dân đứng hai bên đường đếm mấy bà tổng goá. Chúng khẩu đồng từ bảo nhau cái bà tre trẻ mặc áo dài đen dắt đứa con be bé kia đứt đuôi là vợ tư! Ấy, chưa kể những bà bị gạt xuống nữa chứ. Cho lên cả thì khéo phải một hai xe nữa…

Ngày ấy nếu blogger nhiều như ba chục năm sau thì trên mạng cử là lũ lụt lời bình về sức mạnh tính dục của Lê Duẩn.

Rõ ràng là có nỗi sự riêng tư thầm kín của thân thích ông, sau cái chết của ông, vị hoàng đế đỏ từng làm run sợ và đau khổ biết bao con người. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).
Những vị “hoàng đế đỏ” kế tiếp (Đỗ Mười, Lê Khả, Nông Đức Mạnh) cũng đều là những nhân vật mà sinh hoạt tình dục của họ khiến cư dân mạng phải tốn không ít thời giờ bàn tán. Điều may mắn là đất nước đã bước vào “thời mở cửa” (chả còn phải giấu diếm gì, và muốn dấu cũng không thể được) nên không có tình nhân nào bị biến thành nạn nhân – kiểu xe tông bể sọ – như bà Nông Thị Xuân ngày trước nữa.

Cũng từ thời đổi mới, quan niệm về sinh hoạt tình dục của toàn dân rất nới (và rất mới) – theo thông tin của tờ Việt Báo: “Việt Nam Tỷ lệ nạo phá thai cao hàng đầu thế giới.”

Tờ Vietnamnet thì đưa ra một con số khiêm tốn và nhẹ nhàng hơn, chút xíu: “Hiện Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới.”

Tại sao Việt Nam lại đứng đầu thế giới, hay toàn khu vực về tỷ lệ nạo/phá thai như thế? Chắc tại ở những quốc gia khác không có một vị lãnh tụ đạo đức như Hồ Chí Minh nên dân chúng không phải học tập và làm theo tấm gương của Bác.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thầu Chín

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

16/05/2025

Có lần, tôi được nghe T.S Mạc Văn Trang giới thiệu (qua) về một nhân vật hơi kỳ lạ:

“Cụ K. cán bộ lão thành chuyên làm công tác tuyên huấn, rồi dạy lý luận Mac- Lê ở trường Đảng của tỉnh, cho đến lúc nghỉ hưu. Cụ vừa tổ chức mừng thọ 80 tuổi khá hoành tráng. Cụ có nguyên tắc bất di bất dịch là: chỉ đọc báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, nghiên cứu sách kinh điển, xem VTV, không bao giờ nghe tin ngoài luồng…”

Cụ K. khiến tôi chợt nhớ đến những vị đồng hương mà mình đã gặp ở Nong Khai, Nakhom Phanom, Sakon Nakhon và Udon Thani – ở miền Bắc Thái. Việt Kiều tại vùng này, bây giờ, đa số là hậu duệ của những người di cư (từ Lào) vào thập niên 1940.

Lớp tiên phong đều đã qui tiên, đám cháu chắt thì không mấy đứa nói sõi tiếng mẹ đẻ (và cũng chả quan tâm hay tha thiết gì đến VN) còn lũ con cái thì nay đều đã bước vào tuổi xế chiều. Trước kia, những người này thường là đảng viên cộng sản hay thành viên (tích cực) của Hội Việt Kiều Yêu Nước. Nay, tuy không ai đọc báo Nhân Dân hay Tạp Chí Cộng Sản – như cụ K. ở Hà Nội – nhưng cũng chỉ đều “xem VTV và không bao giờ nghe tin ngoài luồng” cả!

Khoẻ!

Cũng như ông Nguyễn Thiện Nhân, tôi tuy sinh ở trong Nam nhưng nói giọng Bắc.  Có lẽ nhờ thế nên tôi được các cụ ở Bắc Thái chấp nhận dễ dàng, và tiếp đãi khá thân mật, dù là người lạ mặt.

  • Thế ra ông mới từ Hà Nội sang à?
  • Vâng ạ. Tôi “vâng/dạ” cho qua chuyện…
  • Đã đi thăm Nhà Bác chưa đấy?
  • Dạ đã.
  • Thấy thế nào?
  • Quí hóa lắm ạ.

Tôi lại khen (đại) cho vui lòng người đối thoại, chứ mấy cái nhà (thổ tả) của Bác mà tôi đã ghé qua chả thấy có gì là hay ho cả. Chúng đều giống như những cái chùa (trá hình) nho nhỏ, vậy thôi. Nói là “trá hình” vì xây chùa mà không thờ Phật mà lại thờ ông Thầu Chín (nào đó) thì e người dân địa phương bất bình nên mới phải “giả danh” là “Khu Tưởng Niệm” hay còn gọi giản dị (và “thân thương” hơn) là Nhà Bác!

Ở Việt Nam thì Hồ Chí Minh, đôi khi, được lôi tuột lên ngồi ké trên bàn thờ Phật. Còn nơi đây (quỷ lộng chùa hoang) Bác một mình một chợ trên án thờ, với lư hương nhang đèn và trước mặt, cùng hạc đứng chầu ở hai bên.

Thiệt là quá đã và quá đáng!

Từ khi bước vào tuổi thuận nhĩ (lục thập nhi nhĩ thuận) tôi trở thành đằm tính, không còn hay buột miệng phát biểu (“linh tinh”) nữa nên chả làm ai bị phật lòng. Bởi vậy, ai cũng nở nụ cười mãn nguyện khi bất ngờ gặp được một kẻ đồng hương (và lại đúng người “đồng điệu” nữa) nơi đất khách.

Miếng trầu là đầu câu chuyện. Rượu bia cũng thế. Vốn tính Nam Kỳ (đi đâu gặp vịt cũng lùa/ gặp duyên cũng kết/ gặp chùa cũng tu) nên xà vào chỗ nào tôi cũng mời mọc tất cả ngồi vào chung bàn, và ân cần cụng ly không sót một ai. Sau khi cạn ly đầy (rồi lại đầy ly cạn) vài lần là chúng tôi đều nói cười rôm rả, sôi nổi nhất là khi mọi người đều hào hứng kể lại những hoạt động (“vào sinh ra từ”) vào những ngày tháng cũ.

Có vị đã từng dắt đường cho bộ đội ta tấn công vào căn cứ Ubon của Mỹ hồi năm 1970. Nhân vật này may mắn thoát chết trong khi có đến 5 chiến sỹ đặc công bị lính canh phòng Thái bắn hạ ngay tại chỗ.

Nói chung, phần đời tuổi trẻ của họ ở Thái đều rất gian truân và phải trải qua nhiều khó khăn cũng như thua thiệt. Tất tần tật đều bị đối xử phân biệt, bị kỳ thị vô cùng khắc nghiệt.

Dân Thái tương đối phóng khoáng. Chính phủ Thái cũng không hay “ganh ghét” gì với tình cảm mà đám kiều dân dành cho cố quốc. Cộng đồng người Hoa sống “chùm gửi” trên đất nước này rất là ổn thoả, an bình, và phú túc.

Tập thể người Việt tị nạn ở Thái Lan, tiếc thay, đã không có được sự ưu ái tương tự. Họ bị coi là những phần tử nguy hiểm (phá rối trị an) nên bị nhà cầm quyền Thái sách nhiễu, cấm đoán đủ điều (*).

Tất nhiên, đây không phải là chuyện hoàn toàn vô cớ. Hồ Chí Minh đã từng đến đất nước này, và đã reo rắc mầm mống cộng sản trong đám dân Việt tha hương:

  • “Từ châu Âu trở về Xiêm, lấy bí danh là Thầu Chín, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không quản ngại khó khăn, vất vả, hiểm nguy tìm cách tiếp cận với cộng đồng người Việt tại Xiêm để vận động, tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê nin, kêu gọi tinh thần đoàn kết, yêu nước, và vận động đồng bào, đồng chí Việt Kiều tại Xiêm sẵn sàng cho cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc.” (H.H. “Thầu Chín ở Xiêm và hành trình thành lập tổ chức Đảng gian khó.” Dân Trí – 03/02/2015).
  • “Trong khoảng thời gian hơn 1 năm (1928-1929), Bác Hồ thận trọng và kiên trì mở rộng hoạt động tuyên truyền cách mạng tới bà con Việt kiều đang sinh sống tại nhiều địa phương thuộc Đông Bắc Thái Lan như Phi Chit, U Đon, Nakhon Phanom, Sa Kol, Nong Khai, Mucdahan.” (Nguyễn Tiến. “Bác Hồ Truyển Lửa Cách Mạng Cho Việt Kiều Thái Lan.” Dân Vận – 18/05/2020)

Những “hoạt động tuyên truyền cách mạng” của Người đã gây ra cớ sự và hậu họa khôn lường cho mấy thế hệ kế tiếp. Mãi đến thập niên 1990 – sau khi Chủ Nghĩa Cộng Sản đã chuyển qua từ trần – nhà nước Thái mới hết lo ngại về những “quả bom nổ chậm” do Hồ Chí Minh gài lại, và bắt đầu nới tay với đám Việt Kiều. Từ đó, họ mới ngóc đầu lên được.

Đến nay thì trên những đường phố chính ở Nong Khai, Nakhom Phanom, Sakon Nakhon và Udon Thani… đã có không ít những căn nhà khang trang ̣(cùng với những cửa hàng Việt Nam) xuất hiện, bên cạnh Hoa Kiều.

Nếu Thầu Chín không lò mò đến Thái để “tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê” thì cuộc sống của đám dân Việt ở xứ này đã dễ thở hơn nhiều, và đã khá giả từ lâu. Hồ Chí Minh đúng là một tên phá thối (trouble maker) rất vô duyên, và là một tay xách động (agitator) vô cùng ngu xuẩn.

Sự xuẩn động của Bác đã được nhà đương cuộc Hà Nội “thăng hoa” qua phim Thầu Chín Ở Xiêm. Cuốn phim “cúng cụ” (đối thoại nghe cứ như kịch nói, cùng với nhiều tình tiết rất cường điệu và lố bịch) này, dù đã công chiếu nhiều lần nhưng ngay cả đám nhi đồng Việt Nam cũng không đứa nào để mắt. Khán giả mộ điệu – có chăng – chỉ là mấy cụ cao niên, vẫn còn đang sống sót ở (tận) bên Xiêm.

Họ hãnh diện về Thầu Chín, cũng như hãnh diện về những “hoạt động” cách mạng của chính mình – vào những năm tháng xa xưa cũ – bất chấp đúng/sai và hậu quả.

Đủ chân thật để có thể nhìn nhận cả một quãng đời thanh xuân bị lừa gạt không phải là chuyện dễ dàng chi (đối với rất nhiều người) nên trong đoàn quân tiến về Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 – dường như – chỉ có mỗi mình nhà văn Dương Thu Hương đã “ngồi xuống vỉa hè ôm mặt khóc như cha chết, một cảm giác vô cùng hoang mang và cay đắng.”

Bởi thế, tôi không ngạc nhiên lắm khi biết ra rằng quí vị nhân sỹ VN ở Thái cũng  “chỉ xem VTV và không bao giờ nghe tin ngoài luồng” cả. Tôi cũng hoàn toàn chia sẻ và thông cảm với cái tâm trạng “dễ hiểu” này nên chưa bao giờ dám “đặt vấn đề” với bất cứ ai.

Chỉ đôi lần, khi chén chú/ chén anh/ chén tôi/ chén bác thân tình (và tưng bừng nhất) tôi mới dám đặt một câu hỏi nhỏ với tất cả chân thành :

  • Có khi nào các bác nghĩ đến chuyện về sống hẳn ở quê mình không?

Sau vài giây phút tần ngần của những người đối ẩm (rồi) tôi cũng nhận được câu trả lời, cũng giản dị và chân tình không kém:

  • Chúng tôi ở đây nó cũng quen rồi, về Việt Nam sợ cũng có nhiều điều bất tiện.

Nhiều vị Việt Kiều ở bên Tây cũng thế, theo như lời kể của đạo diễn Song Chi:

“Nhớ có lần sang Paris được ‘hân hạnh’ gặp một nhóm người, toàn dân ‘trí thức văn nghệ sỹ’ chống Mỹ, thân Cộng ở MN trước kia, nay đã sống mấy chục năm ở Pháp, nhìn chế độ độc tài do ĐCS lãnh đạo ở VN nhưng vẫn không thấy không hiểu ra, sung sướng khi được đăng được in một cuốn sách gì đó ở VN, tiếp tục hăng hái bênh vực chế độ này, nhưng lạ một cái là vẫn cứ sống ở Pháp, bảo về VN sống thì không về…”

Thế mới biết là Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc chưa chắc đã hợp với cái “tạng” của tất cả mọi người nên kính nhi viễn chi (cho nó chắc ăn) là chuyện không có gì đáng trách, hay đáng để phàn nàn. Dù giữa kinh đô ánh sáng Paris hay ở tận những tỉnh vùng ngược, thuộc miền thượng du Bắc Thái (giáp giới với Lào) những kẻ “khôn ngoan” và “thức thời” đều xử sự y như nhau cả.

———————–

(*) Thái thành lập Sở Quản Lý Việt Kiều, một bộ phận riêng trực thuộc tổng nha cảnh sát và nhiều luật cấm được ban hành:

  1. Mọi công chức, cảnh sát, binh sĩ, không được lập gia đình với Việt kiều, nhất là người trong quân đội: phải giải ngũ hoặc ly dị.
  2. Việt kiều chỉ được phép định cư tại 9 tỉnh qui định và không được ra khỏi quận mình cư ngụ. Ra khỏi quận phải có giấy phép để trình tại các trạm kiểm soát dọc đưòng (để kiểm soát VK và cộng sản Thái), nếu không muốn bị bắt tù.
  3. Cấm hội họp, cấm dạy Việt ngữ (sợ cán bộ CSVN dạy lý thuyết CS, tuyên tuyền chống chính quyền).
  4. Không được học đại học.
  5. Cấm làm một số nghề dành cho người Thái hay ngoại kiều hợp pháp.
  6. Cấm mua đất đai, cấm mua xe, cấm xuất ngoại.
  7. Cấp sổ gia đình và giấy chứng minh riêng cho Việt kiều. (Paulle. “Thân Phận Việt Kiều Tại Thái Lan.Nghiên Cứu Lịch Sử – 09/13/2016).

 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vợ Tù

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

15/05/2025

The Catcher in the Rye xuất bản năm 1951, khi tôi chưa kịp mở mắt chào đời. Tuy hai phần ba thế kỷ đã qua, và tôi cũng sắp sửa từ giã cõi trần (tới nơi rồi) nhưng vẫn chưa bao giờ tìm đọc nguyên văn tác phẩm này của J.D Salinger cả.

Lý do, giản dị, chỉ vì tôi đã đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh (Thanh Hiên xb 1967) của Phùng Khánh tự lâu rồi. Dịch giả hẳn là phải thông thạo Anh ngữ lắm nên bản tiếng Việt vô cùng gẫy gọn, trong sáng (và cũng rất tài hoa) khiến tôi sợ rằng đọc nguyên tác chưa chắc đã thích bằng. Nó hay đến độ mà nhà văn Võ Phiến cũng có một tạp luận) cùng tên (“Bắt Trẻ Đồng Xanh”) vì ông đã mượn tựa từ bản dịch của ni sư Thích Nữ Trí Hải.

Bài viết này xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bách Khoa – phát hành từ Sài Gòn, vào tháng 10 năm 1968 – và đến nay vẫn còn được độc giả quan tâm, dù hơn nửa thế kỷ đã qua. Một trong những vấn đề được tác giả đề cập đến là số phận bi đát của những người phụ nữ miền Nam, có chồng (và mất chồng) chỉ trong vài hôm – hoặc vài tuần – sau Hiệp Định Genève :

“Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.”

Sáu năm sau Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập, vào hôm 20 tháng 12 năm 1960, tại huyện Châu Thành – tỉnh Tây Ninh. Tuy được “dựng” lên ở miền Nam  nhưng phần lớn cán binh (và tử sĩ) lại là người miền Bắc, theo ghi nhận của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện:

Trại lính, trại tù, người đi không ngớt 

Người về thưa thớt dăm ba 

Trẻ con đói, xanh như tàu lá 

Cày bừa phụ nữ đảm đang

Chốn thôn trang vắng bóng trai làng 

Giấy báo tử rơi đầy mái rạ! (“Đất Này Chẳng Có Niềm Vui1965)

Mười năm sau năm nữa (năm1975) thì chiến tranh chấm dứt. Tuy hòa bình đến nhưng trại lính, trại tù, người (vẫn) đi không ngớt. Bọn trẻ thì đi thi hành nghĩa vụ quốc tế (giải phóng nước bạn Cambodia), còn lớp già (thuộc phe thua trận) thì đi … học tập cải tạo.

Dù được bên thắng cuộc hứa hẹn là thời gian “thụ huấn” chỉ vài tuần thôi nhưng thực tế thì người về thưa thớt dăm ba, và không ít kẻ đã ra đi vĩnh viễn, để lại vô số những vành khăn tang trên đầu cô phụ (vào giữa thời bình) mà chả hề có một tờ thư hay mảnh giấy báo tử nào ráo trọi.

Nếu còn sống sót, kẻ thất trận cuối cùng cũng đã rời trại tù vào những năm đầu của thập niên 1990, sau gần 20 năm bị giam cầm. Hơn một phần tư thế kỷ đã qua. Tù nhân chính trị ở Việt Nam hiện nay đều thuộc vào lớp người mới, với tên gọi mới: tù nhân lương tâm – TNLT.

Hôm 22 tháng 6 năm 2021, VOA cho biết:

“Theo báo cáo mới được đưa ra của VNHR, ít nhất 46 người đã bị bắt giữ và truy tố tính đến ngày 31/5 vì vi phạm Bộ luật Hình sự 2015 sau khi ‘bày tỏ quan điểm chính trị của họ thông qua mạng xã hội’, một cáo buộc mà các nhà chức trách gọi là ‘chống phá nhà nước’. Nhóm nhân quyền ở California cho biết rằng những người khác bị bắt trong năm qua bao gồm các nhà hoạt động chính trị, nhà báo độc lập và những người khiếu kiện về quyền đất đai.”

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, bỉnh bút Nguyễn Văn Lung (Tạp Chí Luật Khoa) cập nhật thêm vài ba dữ kiện :

“Trong nửa đầu năm 2022, đã có 16 người bị bắt liên quan đến những vấn đề như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí hay quyền tự do hoạt động hội nhóm… Con số bị bắt đó tương đương với các năm trước, khi mà cả năm 2021 và 2020 đều có 39 người bị bắt vì những vấn đề nhân quyền. Hiện tượng này có thể gọi là ‘đàn áp một cách ổn định’. Những con số đáng buồn cho thấy không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước.

Tuy tuyệt nhiên “không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước” nhưng đã có sự thay đổi lớn lao (và khá bất ngờ) nơi thái độ của không ít nạn nhân. Phụ nữ Việt Nam hiện nay không còn chịu nín lặng trong cảnh góa bụa, ngay sau ngày cưới, như lúc đình chiến 1954. Họ cũng không cắn răng và nuốt nước mắt, trước cảnh gia đình tan nát (chỉ vì chả may thuộc bên thua cuộc) như sau Đại Thắng Mùa Xuân 1975 nữa.

Những người vợ tù bây giờ đã cùng chồng tích cực nhận lãnh vai trò “tác nhân,” thay vì chỉ nhẫn nhục “cam chịu lịch sử” như lớp người đi trước, dù họ vẫn bị đe dọa và sách nhiễu thường xuyên:

Công an Thanh Hóa dọa bắt luôn vợ Bùi Văn Thuận

Vợ TNLT Trương Minh Đức bị câu lưu, tước hộ chiếu

Ông Trịnh Bá Phương bị ép cung: “Không nhận tội vợ sẽ bị bắt”

Vợ nhà báo Lê Trọng Hùng bị từ chối thăm gặp chồng

Công an Hà Nội gây khó dễ việc tiếp tế cho nhà hoạt động Trương Văn Dũng đang bị tạm giam

Gia đình tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Túc bị nhiều công an bao vây

Gia đình tù nhân lương tâm khiếu nại việc đối xử thô bạo, nhục mạ bởi quản giáo

Thân nhân đi thăm tù bị đánh đập

Chính sách thô bạo và ti tiện cố hữu của nhà đương cuộc Hà Nội, xem ra, không có chút tác dụng nào đáng kể. Phản ứng và cách hành xử của những người vợ tù hiện nay, thế hệ sinh trưởng trong lòng cách mạng, đã hoàn toàn khác trước.

Xin ghi lại dăm ba trường hợp, theo thứ tự abc, để rộng đường dư luận :

Bùi Huệ, phu nhân của TNLT Dũng Vova: “Đến nay Vova được sự ủng hộ và quý mến của không ít các bà con, anh em cùng lý tưởng. Nó giống như vị ngọt của cà phê đã trải qua cái đắng.”

Đỗ Lê Na, phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng: “Tôi cũng muốn cho người dân ở trong nước, đặc biệt là những gia đình đấu tranh, một số gia đình thì cũng còn e ngại trong việc người thân của mình bị bắt bớ, có những gia đình không dám thẳng thắn lên tiếng, thì tôi muốn qua cái câu chuyện của gia đình mình để cho mọi người biết rằng là cái quyền lên tiếng để chống lại áp bức bất công – đó là quyền của mỗi người, và nếu chúng ta làm đúng thì chúng ta sẽ không có gì phải sợ hãi họ cả.”

Trịnh Nhung, phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận: “Cháu/em là vợ của anh Thuận, luôn tự hào về anh, ủng hộ và tin tưởng rằng anh không làm gì sai cả, nên sẽ luôn đồng hành cùng anh trên con đường khó khăn phía trước.”

Đỗ Thu, phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương: “Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Tôi nghĩ họ sẽ không để yên cho tôi đâu.”

Nguyễn Thị Ánh Tuyết, hôn thê của TNLT Đỗ Nam Trung: Sau này Trung về chắc chắn chúng tôi sẽ thực hiện nốt những việc còn dang dở, mà chúng tôi đã có những dự tính cho tương lai của hai đứa. Và tôi cũng sẽ kể cho Trung nghe rất nhiều về những tháng ngày đã xa cách này, tôi đã nhớ Trung biết bao nhiêu…”

Lê Bích Vượng, phu nhân của TNLT Nguyễn Lân Thắng: “Bốn tuần. Ba mươi ngày. Một tháng. Nghe nói tóc anh bạc nhiều. Nghe nói anh gầy đi. Nghe nói anh già đi đến vài tuổi. Uh. Không sao. Mọi người luôn bên anh – Như anh đã có mặt ở những vùng đất khó khăn, những khi bão lũ, thiên tai, nhân hoạ … tàn phá.”

Không chỉ thân nhân mà bằng hữu, hàng xóm, láng giềng cũng thế. Thái độ của họ đối với những TNLT của chế độ hiện hành hoàn toàn đã khác. Hình ảnh, biểu ngữ, cùng những bó hoa rực rỡ và bia bọt tràn lan khi mọi người chào đón Phạm Thanh Nghiên, Cấn Thị Thêu, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh (như những vị anh thư hay anh hùng của thời đại) đã khiến cho cư sỹ Phạm Nguyên Trường cảm thán: “Trong nước CS mà đón tù chính trị về vui vẻ như thế này thì thời gian tồn tại của chế độ có thể kéo dài bao lâu?”

Ơ hay, cái ông này hay nhỉ? ̣Sao đã tu tại gia (và đã muốn gác bỏ chuyện thế sự ngoài tai) mà vẫn còn “bao la” thế? “Thời gian tồn tại của chế độ còn có thể kéo dài bao lâu” nữa là chuyện của “các đồng chí lãnh đạo ở trên,” chứ việc gì mình phải bận tâm!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một gia đình nông dân

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

14/05/2025

Tôi vốn chả thiết tha hay mặn mà gì lắm với chuyện văn nghệ/văn gừng nên hoàn toàn không quan tâm chi đến những điều tiếng eo sèo, quanh mấy câu thơ (“hơi quá tân kỳ”) của Nguyễn Quang Thiều.

Theo Wikipedia, tiếng Việt, đọc được vào hôm 21 tháng 7 năm 2021: “Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi.”

Thảo nào mà Nguyễn Quang Thiều thường xuất ngoại, và hay viết về những chuyến đi. Năm tháng mà Nguyễn Quang Thiều sống ở nước ngoài, có lẽ, ít hơn thời gian tôi ngồi lê la trong mấy cái bar rượu (nơi xứ lạ) nên đọc mấy trang du ký của ông không thấy có chi là hào hứng lắm.

Cũng theo Wikipedia: “Nguyễn Quang Thiều được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo là tờ An Ninh Thế giới cuối thángCảnh Sát Toàn Cầu.”

Đã là một quan chức trong chế độ toàn trị, lại làm báo Cảnh Sát với một ông tướng công an (rất nhiều tai tiếng) nên thỉnh thoảng Nguyễn Quang vẫn bị chê trách là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, khách quan mà xét thì khó có thể phủ nhận được rằng ông là một người cầm bút có tài (và cũng rất có tâm) khi viết về cuộc sống ở nông thôn.

Hãy xem qua đôi đoạn (“Thư Của Đứa Con Những Người Nông Dân”) đã được đăng nhiều kỳ trên trang Vietnamnet:

“Cảnh làm ruộng của những người nông dân của mấy chục năm trước kia và bây giờ chẳng khác nhau chút nào. Có khác thì chỉ khác một điểm. Đó là người nông dân đi sau đít con trâu mấy chục năm trước kia hiện ra trong ảnh đen trắng còn người nông dân bây giờ vẫn đi sau đít trâu nhưng là trong ảnh màu rực rỡ….”

Trong những tấm “ảnh mầu rực rỡ” này, Nguyễn Quang Thiều tìm ra được nhiều con số rất “kinh hoàng” – theo như nguyên văn cách dùng từ của chính ông:

“Khi tiếp xúc với những người nông dân, tôi thường xuyên hỏi về tổng thu nhập mỗi tháng của một khẩu trong một gia đình họ là bao nhiêu. Dù rằng tôi biết họ đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả nhưng tôi vẫn kinh ngạc khi nghe một con số cụ thể:

‘Tổng thu nhập một tháng trên một khẩu của chúng tôi là 40.000 đồng …’ 40.000 đồng có giá trị như thế nào lúc này. Đó là giá của 2 bát phở, giá của 4 lít xăng, giá của hai xuất cơm trưa văn phòng, giá của một cuốc xe ôm trên đoạn đường 10km, giá của hơn một bao thuốc lá 555, giá của 3 ly cà phê…Tôi biết sẽ có rất nhiều người không thể tin rằng tổng thu nhập hàng tháng của một khẩu trong hầu hết những gia đình nông dân lại chỉ với một con số ‘kinh hoàng’ như thế.”

Nhà văn Nguyễn Khải còn cho biết thêm đôi ba sự việc còn “kinh hoàng” hơn thế nữa:

“Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay.”

Dù “dở nhiều hơn hay,” làng quê Việt Nam vẫn tồn tại nhờ vào vô số những nông dân “đội sương nắng bên bờ ruộng sâu, vài ngàn năm đứng trên đất nghèo ” để nuôi nấng cho cả dân tộc này được sống “no lành” – theo như lời (Tình Ca) thắm thiết của Phạm Duy.

Câu hỏi đặt ra là liệu giới nông dân còn vẫn có thể tiếp tục “đứng” mãi như thế thêm bao lâu nữa, trước tình trạng nông thôn đang bị bức tử một cách thảm thương như hiện cảnh? Bi kịch mới nhất của giới nông dân Việt Nam vừa được RFA tường trình:

“Vụ án hai nhà hoạt động vì quyền đất đai là ông Trịnh Bá Phương và bà Nguyễn Thị Tâm bị cáo buộc tội danh ‘phát tán tài liệu nhằm chống nhà nước’ đã kết thúc giai đoạn điều tra vào hôm 15 tháng 6 năm 2021…

Bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương, cho biết, gia đình chồng của cô có tổng cộng ba người bị bắt giữ, bao gồm ông Phương bị công an Hà Nội bắt giam một năm về trước – chỉ bốn ngày sau khi bà sinh con…

Luật sư Lê Văn Luân, người bào chữa cho cả hai nhà hoạt động thì cho hay trên Facebook cá nhân rằng, cả bà Nguyễn Thị Tâm và ông Trịnh Bá Phương đều bị đề nghị truy tố theo khoản 2, Điều 117 Bộ Luật Hình sự với khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù giam.”

FB Vũ Quốc Ngữ cho biết thêm: “Từ đầu năm đến nay, an ninh Việt Nam bắt giữ ít nhất 13 người theo cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ hoặc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ,’ và kết án 14 người cũng theo hai tội danh trên với mức án từ 4 năm đến 15 năm tù giam.”

Cả hai tội danh thượng dẫn đều rất mơ hồ – nếu chưa muốn nói là hàm hồ – chỉ để che đậy cho những sự thực (phũ phàng) liên quan đến việc tranh chấp đất đai ở xứ sở này:

Hiến pháp 1959 vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai” như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…

Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Chính cái được mệnh danh là “chế độ công hữu” này đã sản sinh ra vô số những “vụ cướp ngày” từ mấy thập niên qua:

“Chỉ đến thời đại của Internet và đặc biệt là mạng xã hội, những vụ cướp đất đầy tai tiếng mới được phơi bày, luôn luôn đầy bạo lực, máu, nước mắt, và tù tội. Những cái tên đất, tên làng đã đi vào… lịch sử cướp đất: Tiên Lãng, Văn Giang, Đồng Tâm, Dương Nội, Thủ Thiêm, và nhiều nữa… (Đoan Trang, Trịnh Hữu Long. “Chính Trị Việt Nam: Một Thập Kỷ Nhìn Lại.” Luật Khoa Tạp Chí 30/12/2009).

Tác giả Đỗ Thúy Hường tóm gọn:

“Luật ngày càng rườm, dài. Nhưng ‘tim đen’ của luật lại rất đơn giản. Nó nằm ở nội hàm của từ ‘quản lý’… Chỉ bằng một câu viết trên giấy ‘Đất đai (về hình thức) là sở hữu toàn dân, (nhưng thực chất) do nhà nước toàn quyền quản lý’… Thế là, lập tức 50-60 triệu nông dân đang có ruộng, phút chốc biến ngay thành tá điền của đảng.”

Phải cần thêm bao nhiêu dân oan, bao nhiêu mảnh đời bầm dập, và bao nhiêu gia đình nông dân tan nát nữa để cái nhà nước hiện hành có thể “hoàn thiện CNXH ở Việt Nam vào cuối thế kỷ này” ?


 

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Phùng Cung

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

11/05/2025

Những người không uống rượu thường (hơi) buồn bã. Tôi ít khi giao du với họ. Ông Nguyễn Mộng Giác là một người như thế. Bởi thế, trong suốt thời gian ông ấy còn sống độc thân (tại chỗ) chúng tôi chỉ ngồi lâu được với nhau – đằm thắm và tương đắc – chỉ độ mươi lần.

Có lần, ông Giác có tâm sự chi buồn và (chắc) buồn ghê lắm. Thoáng thấy tôi, đương sự mừng ra mặt, lật đật lôi đâu ra một chai rượu to đùng, và hào sảng rót ngay ra hai ly đầy ắp.

Sau vài lần cạn ly đầy (rồi đầy ly cạn) thì nhà văn Nguyễn Mộng Giác (bỗng) biến thành một… nhà thơ. Ông cao giọng đọc thơ Phùng Quán :

Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất…

Rồi trầm giọng bình thơ Khoa Hữu :

“Thơ không còn là món trang điểm đua tranh sức chói lọi nơi cung đình. Thơ không còn là món đưa cay trong những cuộc say túy lúy. Thơ không còn là cái áo giáp cho ngươì ta phùng xòe trước đám đông và che dấu những thân thể suy nhược. Thơ không còn là khẩu hiệu cho những cuộc biểu dương lực lượng… Thơ là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho những người thất thế từ đó đứng lên làm lại cuộc đời…” (*)

Coi: mới hết có nửa chai mà thằng chả đã “xỉn” hết biết luôn! Thay vì nói rằng “tiền là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho những người thất thế từ đó đứng lên làm lại cuộc đời…” thì Nguyễn Mộng Giác nói lộn thành “thơ”. Ở đâu mà ra cái thứ thơ văn bảnh bao và ngon lành (quá cỡ) như vậy, cha nội?

Tôi cũng thường xuyên uống quá chén, và nói quá lời như thế, nên chả bao giờ bận tâm đến những câu phát ngôn (ẩu tả) theo kiểu đó. Tưởng đâu là nghe qua rồi bỏ, và sẽ quên luôn, như thường lệ. Tưởng vậy mà không phải vậy.

Hôm rồi, từ Canada, chị Lâm Thu Vân ghé qua California và có cho tôi tập Truyện Và Thơ của Phùng Cung (**). Tôi đọc gần hết đêm, rồi thức luôn tới sáng chỉ vì (chợt) nhớ lại những câu thơ mà Nguyễn Mộng Giác đã lớn tiếng ngâm nga mấy năm về trước :

Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất…

Bữa rượu hôm ấy, không chừng (dám) tôi say chớ không phải là ông Giác. Nhận là mình uống say, hay viết dở, là điều (hơi) khó đối với rất nhiều người – trong số đó có tôi. Dù vậy, xem xong thơ Phùng Cung tôi không chối được rằng :

Sứ mệnh thơ ơi
Trong sáng tuyệt vời!

Thơ quả đã giúp cho Phùng Cung sống sót, sau những năm dài tù ngục, và là chỗ dựa cho những người thất thế (như ông) đứng lên làm lại cuộc đời.

Và cuộc đời te tua, tả tơi, bầm dập của Phùng Cung cũng khiến tôi thốt nhớ đến những người cầm viết khác – cùng thời với ông – những kẻ đã dựa vào thơ văn chỉ để kiếm chút công danh, hay bổng lộc.

Theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi, sở dĩ ông Trần Thanh Mại được mời về làm cột trụ ở Viện Văn Học là nhờ vào công lao chống… Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy nhiên, trong cuốn Trần Thanh Mại Toàn Tập (nxb Văn Học 2004) người ta đã không thấy có in lại những bài viết đấu tranh quyết liệt và nẩy lửa này.

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã nhắc đến sự “thiếu sót” đó với (đôi chút) mỉa mai :

… toàn tập chỉ là những gì còn ‘ăn khách’ được với hôm nay? Còn những ‘miếng xấu hổ’ ‘khạc chẳng ra nuốt chẳng vào’ thì thôi, đành theo ý ai đấy giấu nhẹm đi để người ta quên đi một thời người cầm bút phải thoá mạ nhau túi bụi ‘cho vừa lòng bề trên’ … Có lẽ như thế cũng là cách xử sự hữu lý chăng?

Giời ạ! Tưởng sao chứ như thế thì có gì đâu là lạ. Trước đó 20 năm, năm 1984, người ta cũng đã chứng kiến cách “xử sự cho vừa lòng bề trên” (gần như thế) trong Tuyển Tập Xuân Diệu :

Nếu khi khai sinh, nhiều bài thơ của ông có lời đề tặng ở bên cạnh như Đi thuyền tặng Khái Hưng, Đây mùa thu tới tặng Nhất Linh, Vô biên tặng Hoàng Đạo thì trong công trình mà ông đích thân tham gia chuẩn bị là Tuyển tập Xuân Diệu ở trên vừa nói, những giây mơ rễ má đó được ông xoá sạch.

Sợ liên lụy vì những người bạn cũ, trong các tài liệu chính thức, chẳng hạn, tiểu sử bản thân, đề ở đầu Tuyển tập Xuân Diệu (mà đọc kỹ thấy đúng giọng ông, tức do ông tự tay viết ra) nhà thơ giấu biệt chuyện mình đã từng là một thành viên của Tự lực

Và có lẽ chịu sự chi phối của ông – những lời năn nỉ thiết tha – nên các tài liệu nghiên cứu về ông, các giáo trình đại học viết về văn học trước 1945, hoặc trong Từ điển văn học in ra năm 1984, chuyện này cũng được lờ đi hoàn toàn.

Đúng là Xuân Diệu chưa kịp viết hồi ký. Nhưng giá có viết nữa, thì chắc ông không định viết tiểu sử như ông có thực, mà sẽ chỉ viết tiểu sử của ông như nó nên có, như ông bạn đọc biết”. (Vương Trí Nhàn, Cây Bút Đời Người, Phương Nam Corp., 2002, 319 -320).

Xuân Diệu đã không có dịp “đẽo gọt đời mình cho vừa với lịch sử” nhưng Tố Hữu thì có. Cuối đời, ông ấy đã cố “đẽo” mình theo hình ảnh… Bụt! Những lời tâm sự của Tố Hữu – trước khi nhắm mắt – nghe (rất) đôn hậu, thiết tha và (vô cùng) thương cảm :

– Tôi đặc biệt cảm ơn nghệ sĩ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính xác và chân thành của anh bốn mươi năm trước đây đối với thơ tôi.

– Tôi khâm phục tài năng và ý chí của nghệ sĩ Đặng Đình Hưng. Đối với tôi, cuộc đời anh Hưng là một bài giảng cao cấp về niềm tin ở sự thật.

– Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học. Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần khẳng định được vị trí tiên phong của đội ngũ trí thức cách mạng kiệt xuất và hùng mạnh…

– Văn Cao là một trong những nhạc sĩ lớn nhất…

– Quang Dũng là một trong những cánh chim đầu đàn của nền thơ cách mạng Việt Nam thế kỉ 20.

– Sau Quang Dũng và Hoàng Cầm, Trần Dần cũng là cây bút hạng nặng…

– Ngoài ra, phải kể đến Hữu Loan, Lê Đạt và Phùng Quán, ba nhà thơ ba vẻ khác nhau nhưng cùng sâu sắc, nóng bỏng tính chiến đấu không kém phần lãng mạn.

– Nhà văn Phùng Cung cũng cần phải được minh oan cùng với truyện ngắn Con ngựa già của chuá Trịnh. Cần lắm. Con ngựa già của chúa Trịnh chỉ là con ngựa già của chúa Trịnh mà thôi, không có ẩn ý gì xấu như bốn mươi năm trước đây một số người lầm tưởng…

(Nhật Hoa Khanh, “Gặp Tố Hữu Tại Biệt Thự 76 Phan Đình Phùng, 2004, không ghi nhà xuất bản)

Mô Phật! Cuối cùng Tố Hữu đã buông đao, sau khi đã làm cho vô số cuộc đời bị “rạn vỡ, bị ruồng bỏ và bị lưu đầy” – nếu nói theo lời Phùng Quán. Và đó chỉ là những chuyện nhỏ, những hiện tượng lẻ tẻ và cá biệt của văn học thời “cách mạng.”

Ở bình diện tập thể, còn nhiều vụ đáng ngại hơn nhiều. Xin đơn cử một thí dụ :

Trong cuốn Lịch Sử Và Văn Hoá Việt Nam, Những Guơng Mặt Trí Thức, tập Một, do Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân và Tạ Ngọc Liễn sưu tầm và biên tập, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội xuất bản năm 1998, các soạn giả đã chọn ra 71 nhân vật mà họ vinh danh là những trí thức Việt Nam tiêu biểu trải qua 770 năm lịch sử, với 9 thời đại và thời kỳ (Trần, Hồ, Lê, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Nguyễn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa V.N.)”.

Nhưng nhìn vào danh sách là chúng ta thấy ngay sự ăn gian của những người làm sách: trong suốt 720 năm (1225 – 1945) họ chỉ chấm có 38 nhân vật tức 53%. Ðó là Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Tuệ Tĩnh, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi, Triệu Thái, Lê Thánh Tông, Lê Sĩ Liên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Lê Qúi Ðôn, Lê Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, P Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Võ Trường Toản, Phan Huy Chú, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Ðình Chiểu, Phạm Thuật Duật, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Quang Bích, Lương Văn Can, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn An Ninh, và Phạm Tuấn Tài.”

“Trong 50 năm sau cùng (1945 – 1995), họ đưa ra một số lượng khổng lồ là 33 nguời, tức 47 %. Trong số 33 tên, chỉ trừ giáo sư Hoàng Xuân Hãn sống ở Pháp, còn lại 32 tên không ai khác hơn là những đảng viên cao cấp của Ðảng Cộng Sản Việt Nam và những nguời phục vụ chế độ cộng sản. Ðó là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát….” (Trần Anh Tuấn, “Khi Chính Trị Chi Phối Văn Hoá,” Khởi Hành Aug. 1999).

Theo truyền thống, những người độc quyền lãnh đạo cũng sẽ là những kẻ độc quyền đi vào lịch sử. Truyền thống này được giữ vững suốt từ thời phong kiến đến… nay, ở Việt Nam. Nó chỉ chấm dứt khi bắt đầu có hiện tượng viết… chui. Phùng Cung là một trong những người làm thơ chui như thế.

Khi cố “đẽo gọt” đời mình cho thành một “thi sĩ bồ tát” (chắc chắn) Tố Hữu đã không biết rằng chân dung, cũng như chân tướng, của ông đã được “tạc” xong – vào năm 1972, tại trại biệt giam Bảo Thắng, Lào Cai – bởi Phùng Cung :

Tội nghiệp nhà thơ!
Bơ vơ một nẻo
Hết móc ruột moi gan
Lại réo tên chỉ mặt
Bởi không biết sống
Nên không biết chết
Nửa thế kỷ
Bị lưu đầy
Trong cõi tung hô.

Tương tự, khi quí vị lãnh đạo đảng CSVN chen lấn để đi quá giang (cho bằng được) vào lịch sử – có lẽ – không ai ngờ rằng nhân cách và trình độ trí thức của họ cũng đã được Phùng Cung ghi nhận từ lâu, trước đó :

Đất nước tôi
Triền miên bất hạnh
Tụi mặt dầy – tay bẩn
Tim rắn – lời cừu
Văn hoá lớp hai
Điều hành cuộc sống

Đám “văn hoá lớp hai” này (chắc) “chưa bao giờ nhìn kỹ vào những nấm mồ hay để cả một buổi tối nhìn lên bầu trời thăm thẳm, lấp lánh những ngôi sao im lặng… Bởi vì bất kỳ ai trò chuyện với các nấm mồ, đối thoại với các vì sao đều sẽ tốt hơn, nâng cao được nhân bản, giảm đi sự tàn ác, bất công với đồng loại. Họ đều sẽ hiểu cái phù du, cái vô nghĩa lý của kiếp người” [Bùi Ngọc Tấn, Chuyện Kể Năm 2000 (Toronto: Thời Mới, 2000), 279].

Phùng Cung cũng đã nhiều lần ngước nhìn như thế, với nỗi băn khoăn tương tự :

Tôi đứng trong đêm
Ngửng đầu nhìn cao xa
Vọng hỏi
Có phải nước mắt con người
Đằm đằm dội xuống
Mà trên thiên cầu
Bao vì sao xao xuyến đổi ngôi.

Tôi (trộm) nghĩ thêm rằng nếu chợt có lúc “nhìn kỹ vào những nấm mồ hay để cả một buổi tối nhìn lên bầu trời thăm thẳm, lấp lánh những ngôi sao im lặng” thì “tụi mặt dầy tay bẩn” (rất có thể) cũng sẽ thôi làm những chuyện lố lăng, kịch cỡm – như đẽo gọt đời mình, hay cố chen chân (cho lọt) vào lịch sử.

(*) Nguyễn Mộng Giác, ed. Thơ Khoa Hữu. California: Văn Học, 1977.

(**) Truyện Và Thơ Chưa Hề Xuất Bản. Phùng Cung. California: Văn Nghệ, 2003.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chùa Xưa Người Cũ 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

05/05/2025

Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ: “Một thứ phật giáo theo định hướng XHCN còn quái dị hơn kinh tế thị trường định hướng XHCN

 Tôi không có duyên lắm với những người phụ nữ cầm bút, đặc biệt là những cô hay những bà làm thơ, kể cả Bà Huyện Thanh Quan. Vấn đề hoàn toàn chả phải vì lý do cá nhân, hay tư tiêng gì ráo. Điều không may chỉ vì tôi gặp nữ sỹ hơi quá sớm, thế thôi!

Thuở ấy, thuở mười ba mười bốn, tôi mới bước chân vào trung học mà đã giáp mặt với nàng thơ rồi. Có hôm, tôi vừa hối hả rời sân bóng đá (chạy vào phòng học) mồ hôi chưa kịp ráo lưng, đã nghe vị thầy phụ trách môn Việt Văn trầm giọng đọc bài Thăng Long Hoài Cổ:

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn chau mặt với tang thương…

Tôi vừa cắm cúi ghi chép, vừa khuých tay thằng ngồi cạnh:

– Cuộc hý trường là cuộc gì?

– Không biết.

– Thăng Long ở đâu vậy?

– Ai biết!

Thằng bạn chung bàn của những ngày xưa thân ái đã xa xôi và phôi pha ấy (nay) chả hiểu đã lưu lạc phương nào, sống chết ra sao? Còn tôi, sau cái cuộc hý trường (1975) thì lâm vào cảnh đời tha phương cầu thực và tha hương cho mãi đến bây giờ.

Chiều qua, ở một góc trời xa, tôi tình cờ đọc lại một truyện ngắn (“Mái Chùa Xưa”) của Võ Hồng và mới chợt hiểu (thấm thía) thế nào là nỗi niềm hoài cổ:

Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm…, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm.

Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hò màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò… Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.

Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, của Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp…

Trải qua cuộc chiến giằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau, hiên trước.

Cuối cùng “cuộc chiến giằng co” rồi cũng đến lúc kết thúc, hoà bình được tái lập. Chùa chiền nhiều nơi được trùng tu với qui mô lớn, đạt kỷ lục thế giới bởi những quần thể tu viện mênh mông và những pho tượng phật khổng lồ. Đây đều là những công trình tập thể, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều thành phần xã hội – theo nhận xét của T.S. Nguyễn Xuân Diện:

“Để tạo thành được những Chùa Bái Đính, Chùa Ba Vàng, Chùa Tam Chúc, Chùa Yên Tử như hiện nay, phải hội đủ ba mặt: Chức sắc Phật giáo + Chính quyền huyện đến tỉnh sở tại + Đại gia. Thiếu một trong ba thì không thể nào vẽ ra được các khu kinh doanh như vậy.”

Sau khi đã “vẽ” xong “các khu kinh doanh như vậy” thì vấn đề kế tiếp là điều hành, quản lý. Đây là giai đoạn cần sự “can thiệp” của Chính Quyền Trung Ương và Bộ Nội Vụ, với những ban ngành “có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”

Phương thức tổ chức này được nhập khẩu (nguyên con) từ nước bạn Trung Hoa Vỹ Đại:

“Tất cả các nhóm tôn giáo dựa trên đức tin ở Trung Quốc, bao gồm 41 viện nghiên cứu Phật giáo trên toàn quốc, đều được Ban Tôn giáo Chính phủ [State Administration of Religious Affairs] giám sát.” (“The decline and fall of Chinese Buddhism: how modern politics and fast money corrupted an ancient religion.” South China Morning Post, Sep. 21, 2018 translated by Hoàng Kim Bảo).

Chỉ có điều hơi khác là ta “can thiệp” rất vụng về và “giám sát” quá sống sượng nên đã gây rất nhiều điều tiếng:

– Từ Thức: “Qua cửa BOT của chùa VN ngày nay, người ta bước vào thế giới ma quái của oan hồn, của ‘vong’ ngất nghểu, ra rả đòi tiền như nặc nô đòi nợ.”

– Nguyễn Văn Tuấn: “Thuở đời nay nhà sư đã xuất gia mà ăn thịt chó, uống tiết canh, hút thuốc lào, uống rượu Tây, say xỉn bí tỉ. Đó không phải là nhà sư nữa (chưa nói đến bậc chân tu), mà là dân ‘giang hồ’ rồi.”

– Đặng Văn Sinh: “Có những hòa thượng vốn là nhân viên công lực hàm cấp cao tót vời, khoác áo cà sa trụ trì ở những chùa lớn theo dõi nhất cử nhất động của giới tăng ni phật tử.”

– Mạnh Kim: “Những gì đang diễn ra khiến diện mạo Phật giáo ngày càng bi thảm là kết quả của chính sách ‘nhuộm đỏ’ Phật giáo, trong lớp áo ‘Đạo pháp và Dân tộc’ ra đời từ đầu thập niên 1980.”

– Vương Trí Nhàn: “Ngày Phật đản… Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.”

Những vị sư “có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng nào đó” – đôi lúc – vẫn tưởng rằng mình đang ở giữa mặt trận nên đã phát biểu như một chiến sĩ (thực thụ) khiến công luận không khỏi bàng hoàng: “Chúng ta phải quyết tâm xây dựng quân đội nước ta mạnh như là quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.”

Bây giờ thì còn tìm đâu ra một ngôi chùa nhỏ bé, nghèo nàn nhưng thân thiết như chùa Châu Lâm trong ký ức tuổi thơ của Võ Hồng:

Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, của Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm…

Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mới thầy tụng kinh cầu an.

Mười năm một lần, ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất tắt mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới.

Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi và cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.

Những vị tu sĩ “mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chõ, mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy” cũng đều đã biệt tăm/biệt tích.

Những người muôn năm cũ

Hôn bây giờ ở đâu?