S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Giải giới

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

20/11/2024

Ngày 31 tháng 10 vừa qua, RFA hân hoan thông báo: “Trại giam số 6 đồng ý mở cửa ‘chuồng cọp’, hai TNLT dừng tuyệt thực sau 21 ngày”. Danh từ “chuồng cọp” trong bản tin thượng dẫn khiến tôi nhớ đến một bài báo cũ (“Ký Ức Những Ngày Ở Địa Ngục Trần Gian”) xuất hiện hồi đầu năm nay, trên báo Nhân Dân, hôm 01/05/24.

Ký giả Dung Trần tường thuật:

Ngày bị đày ra Nhà tù Côn Đảo cùng nhiều chiến sĩ cách mạng khác, bà Phan Thị Bé Tư chưa tròn 20 tuổi… Có dịp về thăm lại Nhà tù Côn Đảo (huyện Côn Đảo, Bà Rịa – Vũng Tàu), đứng trước những chuồng cọp, trại giam, bà Tư không cầm được nước mắt. Nơi đây, mấy chục năm trước đã giam cầm hàng nghìn chiến sĩ cách mạng và đặt ra rất nhiều chế độ hà khắc. Là nữ tù chính trị nhưng bà Tư cùng các dì, các chị chưa ngày nào được nương tay.

Phụ nữ nhưng 52 ngày không cho tắm, bữa ăn thì toàn mắm thối, khô mục, gạo mốc, xin chút muối chúng cũng không cho. Đến nước uống mà chúng tôi phải giấu trong đáy quần, khi chúng phát hiện được thì đánh đập dã man”.

Chuyện kể của bà Phạm Thị Bé Tư (“phải giấu nước uống trong đáy quần”) khiến tôi nhớ đến cách chống khát của tù nhân ở trại kiên giam (A – 20 Xuân Phước) qua lời của một nhân chứng khả tín và khả kính:

Trời Tháng Giêng ở thung lũng tử thần lạnh như có ai cầm dao cắt vào da, nhất là khi trời vào tiết Xuân, gió hiu hiu làm lay động hàng dừa trong sân trại. Cái lạnh thiên nhiên cộng với việc thiếu đường và chất béo từ 9 năm qua khiến cho buổi sáng ngày 30 Tết Nguyên Ðán năm 1984 trở thành buổi sáng không thể nào quên được trong đời.

Chân tay anh em chúng tôi gần như tê liệt. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng đứng như trời trồng trước cửa biệt giam số 5 khi ngài được trật tự mở còng cho đi tắm và làm tổng vệ sinh buồng giam. Một tu sĩ Công Giáo nhỏ con, lanh lẹ như một con sóc, nổi tiếng hùng biện và can trường như ngài mà chỉ mới hơn 3 năm bị cùm trong xà lim, thân xác không khác gì người tù Do Thái trong các trại tập trung của Ðức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ Hai…

Linh Mục Vàng đứng lên được nhưng không thể nào bước đi được… Tôi cho ca nước của mình múc một ca, uống hết một nửa, một nửa đưa cho Linh Mục Vàng.

 Ngài uống hết rồi múc thêm một nửa ca nữa. Tôi hỏi ngài:“Bố vẫn còn khát hả?” Ngài trả lời:“Uống phòng xa.” Ðộng từ “phòng xa” anh em chúng tôi dùng để chỉ thời kỳ bị nhục hình bằng chính sách 2 muỗng cơm, hai muỗng nước, hai muỗng muối khi chúng tôi bị nhận chìm vào cơn khát của những người đi trong sa mạc nên mỗi khi bị gọi ra “làm việc” phải xin uống cho thật nhiều nước trước lúc bị dẫn trở lại buồng giam rồi đái ra để uống cho đỡ khát. (Vũ Ánh. Thung Lũng Tử Thần. Westminster, CA: Người Việt Books, 2014).

Uống nước giải để sinh tồn không phải là chuyện lạ lùng chi, đối với những kẻ đang chết khát. Dấu nước uống trong đáy quần mới là việc ly kỳ! Sự hoang tưởng của bà Phạm Thị Bé Tư cũng khiến tôi liên tưởng đến câu chuyện tù đầy (cũng rất hoang đường, và trở thành huyền thoại) của một phụ nữ khác: bà Phạm Thị Chiều, phu nhân của nhà thơ Giang Nam.

Nhà báo Trần Đăng, báo Thanh Niên, cho biết:

Bà chính là “cô du kích” trong bài thơ Quê hương nổi tiếng của Giang Nam, từng lay động nhiều thế hệ những người yêu thơ suốt 53 năm qua.

 “Cô du kích” trong bài thơ với tiếng cười “khúc khích” và đôi mắt “đen tròn” đã bị “giặc giết em rồi quăng mất xác”, còn bà Chiều thì vẫn gắn bó với nhà thơ Giang Nam đến tận hôm nay.

Sở dĩ có sự “vô lý” trên là do nhầm lẫn từ một nguồn tin của cơ sở trong thành báo ra. Nhà thơ Giang Nam nhớ lại: “Tôi và nhà tôi có cảm tình với nhau từ khi còn ở chiến khu Đá Bàn (Khánh Hòa) trong kháng chiến chống Pháp. Mãi đến năm 1955 chúng tôi mới cưới nhau.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ mỗi lúc một khốc liệt, để tránh sự bố ráp của kẻ thù, tổ chức phân công cả hai chúng tôi vào hoạt động tại Biên Hòa. Chẳng bao lâu sau, vợ và con gái tôi bị địch bắt giam tại nhà tù Phú Lợi.

Giữa năm 1960, tôi nghe tổ chức thông báo rằng vợ con tôi bị địch sát hại trong nhà tù này. Quá đau đớn, trong một buổi tối ở rừng, tôi đã viết xong bài thơ Quê hương. Sau này tôi mới biết, thông tin trên là do nhầm lẫn.

Nhờ chút nhầm lẫn này mà Giang Nam trở nên nổi tiếng, qua mấy câu thơ được truyền bá, và xưng tụng (bởi cả một guồng máy tuyên truyền) khiến nhiều người nhớ:

Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Nhà thơ thêu dệt chuyện “giặc bắn em rồi quăng mất xác” cho thêm phần lâm ly (bi đát) còn nhà nước thì dựng đứng ra “vụ thảm sát Phú Lợi” để làm “phông bạt” cho một màn kịch tuyên truyền:

  • Ngô Nhật Đăng: “Năm 58, ở miền Bắc có một sự kiện gây xúc động sâu sắc, đó là vụ ‘Đầu độc ở nhà tù Phú Lợi’, ‘Chính quyền Ngô Đình Diệm đã bỏ thuốc độc vào thức ăn, làm chết 4 ngàn tù nhân’. Đến năm tôi lên 6, 7 tuổi vẫn còn được nghe kể về nó, các cuộc mít-tinh đông đảo ở quảng trường Nhà hát lớn, ở nhà Đấu xảo, hàng chục ngàn người đầu chít khăn tang khóc ròng, thanh niên chích máu viết đơn xin vào Nam chiến đấu vv… Ở trường chúng tôi được học bài thơ ‘Thù muôn đời muôn kiếp không tan’ của Tố Hữu. Sau 75 mới biết, vụ này là bịa đặt, có mấy người ăn phải thức ăn thiu, bị ngộ độc thực phẩm, ông Diệm phải cho xe chở đi cấp cứu, thế là thành chuyện… “
  • Thái Bá Tân: “Tháng Năm năm Bảy Bảy/ Tôi đến nhà tù này/ Một khu nhà hoang vắng/ Xung quanh cỏ mọc dày/ Hỏi thì người ta nói/ Đó là chuyện tầm phào/ Không hề có chuyện ấy/ Không có thảm sát nào/ Vậy là những ngày ấy/ Chúng tôi, lũ học sinh/ Đã uổng công bỏ học/ Để tham gia biểu tình/ Khóc cho cái không có/ Căm thù cái hư vô”.
  • Nguyễn Đình Cống: “Tôi chỉ là người chứng kiến, tự mình không điều tra nghiên cứu như Thái Bá Tân. Thấy thông tin trái ngược nhau, nêu ra để các bạn tham khảo và suy nghĩ”.

Ti tiện, hèn hạ, lừa lọc, dối trá, bạc ác … đều là thuộc tính căn bản (và bất biến) của chế độ toàn trị hiện hành. Chớ còn phải “tham khảo” hay “suy nghĩ” cái con bà gì nữa! Ngay đến người quen (xa gần) của những tù nhân lương tâm mà còn bị sách nhiễu đủ điều, nói chi đến chính kẻ đang bị giam cầm.

Ngoài việc bị vu cáo rồi kết án hàng chục năm giam cầm, những tù nhân lương tâm (và thân nhân) còn phải ghánh chịu thêm một thứ “hình phạt bổ sung” nữa – theo như cách dùng từ của RFA: “Đại đa số họ bị chuyển đi thi hành án tù ở nơi xa gia đình. Người có gia đình ở miền Bắc thì bị chuyển vào trại giam ở miền Trung hay miền Nam, còn người ở miền Nam thì bị chuyển đi thi hành án ở miền Trung hoặc miền Bắc”.

Đó là chưa kể đến những chuồng cọp trong trại giam vừa bị phá vỡ vào tháng mười vừa qua, sau nhiều cuộc tuyệt thực dài ngày của tù nhân. Qua FB, bà Đỗ Thu (phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương) cũng đã phổ biến lời “cảm ơn chân thành” của những người trong cuộc:

Hiện tại chúng tôi đã kết thúc đợt tuyệt thực tập thể sau 3 tuần, sức khỏe chúng tôi đang dần hồi phục. Một lần nữa chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các bạn. Hẹn các bạn khi chúng tôi ra khỏi nhà tù nhỏ này, chúng tôi tin với sự quyết tâm và ý chí chúng ta sẽ gây dựng một Việt Nam dân chủ thịnh vượng, thượng tôn pháp luật và quyền con người. Phá bỏ nhà tù lớn đã giam hãm tư tưởng và tiềm năng phát triển của dân tộc Việt Nam trong nhiều thập kỉ qua.

Tôi đọc xong lời cảm ơn thượng dẫn mà đỏ mặt. Sao những người đang bị tù đầy    (những TNLT) thì vẫn quyết tâm sẽ “phá bỏ nhà tù lớn đang giam hãm tư tưởng và tiềm năng phát triển của dân tộc Việt,” còn vô số những kẻ đang ở bên ngoài song sắt lại đều “tự giải giới” (self disarm) ráo trọi như vậy – hả Trời? Bộ quê hương, đấ́t nước, xứ sở này chỉ của riêng họ hay sao?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hoàng Thị Minh Hồ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

05/11/2024

Cái gì chớ “nửa cái bánh mì” thì tui ăn đều đều, còn “nửa sự thực” thì tới bữa rồi mới được thưởng thức qua bài viết (“Người Đàn Bà Tặng Hơn 5.000 “Lượng Vàng Cho Cách Mạng) của nhà báo Hoàng Thùy, trên trang Vnexpress:

“Hơn 90% số tiền buôn vải được vợ chồng bà Hồ dùng để ủng hộ cách mạng. Có khi trong nhà không sẵn tiền mà đúng lúc cách mạng cần, bà sẵn sàng bán phá giá vải để gom đủ tiền đưa cho cán bộ.

Ở tuổi 97, bà Hoàng Thị Minh Hồ vẫn giữ nét đẹp của người phụ nữ Hà Nội gốc: Gương mặt phúc hậu, nước da trắng, giọng nói ấm áp và thái độ điềm đạm. Trong ngôi nhà số 34 Hoàng Diệu (Hà Nội), nơi bà sống cùng hai con trai, hai chiếc huân chương độc lập hạng nhất được đặt nơi trang trọng nhất. Bà cho hay, đó là phần thưởng cao quý mà nhà nước dành tặng người chồng quá cố Trịnh Văn Bô và bà vì những đóng góp to lớn cho cách mạng.

Giữ giọng chậm rãi, bà Hồ kể, ngôi nhà số 48 Hàng Ngang của bà trước kia là tiệm vải Phúc Lợi, thuộc loại lớn nhất Hà Nội thời bấy giờ. Có điều kiện dư dả, hai ông bà thường xuyên làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo. Thấy vậy, cán bộ Việt Minh đã đến nhà vận động ông bà đi theo cách mạng. Việt Minh khó khăn, không có tiền ra báo, bà đã ủng hộ 8 vạn rưỡi tiền Đông Dương. Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang cũng được chọn làm trụ sở hoạt động của cách mạng…

Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang được xây theo kiểu nhà ống cổ, gồm 4 tầng. Tầng một là cửa hàng vải Phúc Lợi nổi tiếng khắp vùng. Khách đến mua đông đúc, xung quanh lại tấp nập người qua lại nên được chọn làm nơi ở cho Bác Hồ cùng những nhà lãnh đạo cách mạng từ chiến khu trở về…

33 ngày Bác ở nhà bà (từ 24/8 đến 27/9), bà đều trực tiếp chỉ đạo nhà bếp nấu ăn phục vụ Người. Sau đó, hai vợ chồng bà thay nhau bê lên. Vào 9h hằng ngày, bà thường bê cháo và hoa quả lên cho Bác. Một hôm bà đang định quay gót thì Bác hỏi “Cô tên gì?”. Sau khi bà trả lời, Bác lại nói “Cô còn trẻ mà đã có cơ đồ sự nghiệp, có chồng con, tiền bạc. Cô chẳng có gì khổ cả”.

Nghe vậy bà Hồ khẳng khái nói:“Cháu vẫn có một điều khổ, đó là nỗi nhục mất nước”. Bác cười: “Vậy thì kiên trì và nhẫn nại nhé!”

Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh … vong gia thất thổ! Đó là nửa phần sự thực còn lại của câu chuyện mà nhà báo Hoàng Thùy đã không kể kết, hay nói một cách không mấy lịch sự là ông ấy “nhất định dấu biến đi cứ y như là mèo dấu cứt” vậy. Phần nửa sự thực này chỉ được công luận biết đến qua tác phẩm (Bên Thắng Cuộc) của một nhà báo khác, Huy Đức:

“Năm 1954 từ nơi tản cư trở về, gia đình ông Trịnh Văn Bô không còn một căn nhà nào để ở, cho dù trước đó, ông sở hữu biệt thự nổi tiếng 48 Hàng Ngang và nhiều dinh thự khác như 34 Hoàng Diệu, 24 Nguyễn Gia Thiều, 56-58 Tràng Tiền… Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân Việt Nam nổi tiếng giữa thế kỷ 20. Cha ông, ông Trịnh Văn Đường và cha vợ ông, ông Hoàng Đạo Phương, đều là những nhà nho cùng thời với cụ Lương Văn Can, từng đóng góp rất nhiều cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.

Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ là bà Hoàng Thị Minh Hồ, trong 10 năm, kinh doanh thành công, đưa tài sản của hãng tơ lụa Phúc Lợi tăng lên 100 lần so với ngày thừa kế hãng này từ cha mình. Tơ lụa do Phúc Lợi sản xuất được bán sang Lào, Campuchia, Thái Lan, được các thương nhân Pháp, Anh, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm.

Từ năm 1944, gia đình ông nằm trong sự chú ý của những người cộng sản. Ngày 14-11-1944, hai vợ chồng ông bà cùng người con trai cả đồng ý tham gia Việt Minh. Vài tháng sau, ông bà đã mang một vạn đồng Đông Dương ra ủng hộ Mặt trận Việt Minh và từ đó, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở thành một nguồn cung cấp tài chánh to lớn cho những người cộng sản. Đến trước Cách mạng tháng Tám, gia đình ông đã ủng hộ Việt Minh 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương đương 212,5 cây vàng. Khi những người cộng sản cướp chính quyền, ông bà Trịnh Văn Bô được đưa vào Ban vận động Quỹ Độc lập(298).

Ngày 24-8-1945, khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng đều đã ở hoặc qua lại ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Ba đêm đầu Hồ Chí Minh ngủ trên giường của ông bà Trịnh Văn Bô, sau đó, ông xuống tầng hai, ngủ trên chiếc giường bạt còn các nhà lãnh đạo khác thì kê ghế da hoặc rải chiếu ngủ. Ở tầng trệt, cửa hàng vẫn hoạt động bình thường, ngay cả bảo vệ của Hồ Chí Minh cũng không xuống nhà để tránh gây chú ý. Mọi việc ăn uống đều do bà Trịnh Văn Bô lo, thực khách hàng ngày ngồi kín chiếc bàn ăn 12 chỗ…

Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Trịnh Văn Bô theo Chính phủ Kháng chiến lên Việt Bắc còn vợ ông thì mang 5 người con, trong đó có một đứa con nhỏ, cùng với mẹ chồng lên “vùng tự do” Phú Thọ. Những năm ở đó, từ một bậc trâm anh, thế phiệt, bà đã phải cuốc đất trồng khoai và buôn bán để nuôi con. Năm 1955, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở về Hà Nội. Ông bà tiếp tục xoay xở và bắt đầu phải bán dần đồ đạc cũ để nuôi sống gia đình. Lúc này, toàn bộ biệt thự, cửa hàng đều đã bị các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc chia cho cán bộ nhân viên ở. Lúc đầu, Nhà nước “mượn” sau tự làm giấy nói gia đình xin hiến, nhưng cụ bà Trịnh Văn Bô bảo: “Tôi không ký”.

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó.

Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên người Hà Nội không còn nhiều. Trong trường chủ yếu là sinh viên con em cán bộ thuộc thành phần cơ bản từ Nghệ An, Thanh Hoá… những người xếp sinh viên Hải Phòng, Hà Nội vào thứ hạng chót. Chị tôi vào Đại học Bách Khoa, năm 1959, phải đi lao động rèn luyện một năm trên công trường Cổ Ngư, con đường về sau Cụ Hồ đổi thành đường Thanh Niên, và sau đó là lao động trên công trường Hồ Bảy Mẫu”.

Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được. 

Sở dĩ tôi loay hoay gần tiếng đồng hồ để ráp hai bài báo (thượng dẫn) với nhau vì bên dưới bài của tác giả Hoàng Thùy có vị độc giả, quí danh là Lê Tùng,  đã cảm khái ghi lại dòng chữ phản hồi như sau: “Đọc bài viết, tôi cảm phục gia đình bác quá. Đó là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chúng cháu.”

“Thế hệ trẻ chúng cháu” cần một tấm gương, chứ không phải là một mảnh gương vỡt bởi những ông nhà báo bất lương, và bất trí  – cỡ như ông Hoàng Thùy hoặc Ngọc Niên, thuộc Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam (*). Mồm miệng họ thì lúc nào cũng xoen xoét nói đến “sự thực” và “lương tâm chức nghiệp” mà suốt đời cầm bút luôn chỉ viết phân nửa sự thực thôi.

(*) Xin đọc thêm phóng sự “Đi Tìm Sự Thật Về Nhà Thờ Của Gia Đình Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng Ở Kiên Giang ” của Ngọc Niên, trên trang Thanh Niên Online, vào hôm 29 tháng 12 năm 2012.


 

Ký Túc Xá – Tưởng Năng Tiến

Kimtrong LamLƯƠNG VĂN CAN K 76.

Tưởng Năng Tiến

– 30 tháng 10, 2024

“Sau khi đỗ tiểu học, tôi thi vào trung học. Những bạn của tôi ở từ các tỉnh tới, nói nhiều giọng khác nhau: Quảng – nam, Quảng -ngãi, Thừa -thiên, Bình – thuận, Ban- mê- thuột… Sau mỗi kỳ nghỉ Tết mỗi kỳ nghỉ Hè, lũ bạn đi học mang theo quà địa phương của mình. Bạn Quảng-nam mang theo khoai lang khô và bánh tổ, bạn Quảng-ngãi mang theo đường phổi, bạn Phan-thiết mang theo nước mắm nhĩ, còn rim mức, kẹo mè, bánh in, bánh cốm thì gần như không ai không có…

Ngoài những bạn học người kinh, ký túc xá còn nhận những học sinh người Rhadé, những Y Bliêng, Y Phơm, Y Bih, R’om Rock, Nay Phin… Họ đồng phục kaki vàng và trao đổi trò chuyện với chúng tôi bằng tiếng Pháp… Những buổi chiều trong sân trường, Y Phơm hay biểu diễn môn bắn ná cho chúng tôi xem và mách rằng: “Thằng Y Bliêng đó, nó giầu lắm. Nhà nó có năm con voi và nhiều con trâu…

Ở ký túc xá ăn, học, ngủ đều đúng giờ giấc nhưng khi thích chúng tôi vẫn lén nhẩy rào hay chun rào ra phố xem xi-nê…” (Võ Hồng. Người Về Đầu Non. Sài Gòn: Văn, 1968).

Nhà văn Võ Hồng sinh năm 1922. Hình ảnh những bạn học sắc tộc Rhadé của ông, hồi đầu thập niên 30 (“đồng phục kaki vàng và trò chuyện bằng tiếng Pháp”) ngó bộ bảnh bao thấy rõ và nghe cũng hơi có vẻ hoang đường!

Hơn một phần tư thế kỷ sau, tôi mới chào đời. Đây cũng là thời điểm mà người Pháp đang buộc phải rời khỏi VN. Khi tôi bắt đầu chương trình trung học, vào đầu thập niên 1960, ở Đà Lạt, bạn cùng lớp cũng có nhiều người thiểu số nhưng không ai biết một chữ tiếng Tây nào ráo trọi. Chúng tôi trò chuyện, tất nhiên, đều bằng tiếng Việt.

Các bạn người Thượng nhà ở rất xa, tận quận Đơn Dương hoặc Lạc Dương, cách trường đến vài chục cây số. Họ đều sống trong ký túc xá, ở cuối đường Hoàng Diệu, gần thác Cam Ly.

Từ đây, nếu không có xe đạp, và muốn xem chiếu phim – ở rạp Ngọc Lan, Ngọc Hiệp, Hoà Bình – phải đi bộ hơn cả giờ đồng hồ. Vé vào cửa cho trẻ em tuy không mắc lắm nhưng vẫn là một số tiền lớn đối với lũ trẻ con. Chúng tôi thường chỉ chơi đá banh, hay bóng rổ, tại sân trường. Hai môn thể thao này không tốn đồng nào, và rất hợp với tính hiếu động của đám học trò.

Tôi thân với K’Bien, H’ Bri, và Ya Ram. Ba anh đều lớn hơn tôi vài tuổi, đều rất khoẻ mạnh, và đều luôn luôn hơi có vẻ ngơ ngác như ba chú nai tơ giữa sân trường. Chúng tôi bao giờ cũng ở cùng phe, trong bất cứ cuộc chơi nào, và luôn luôn là phe… thắng cuộc.

Trong việc học tập chúng tôi vẫn ở cùng phe nhưng là phe thất bại. K’Bien, Ya Ram và H’ Bri không phải là những học sinh xuất sắc. Tôi cũng vậy. Cả ba anh đều siêng năng, chịu khó làm bài. Tôi thì chăm chỉ… “cóp” lại của cả ba. Họ chả bao giờ được điểm cao. Tôi, tất nhiên, cũng thế!

Thỉnh thoảng tôi có ghé ký túc xá của K’Bien, Ya Ram và H’ Bri chơi. Đây là một toà nhà lớn, kiến trúc mô phỏng theo kiểu Nhà Rong ở Tây Nguyên nhưng cột chống xây bằng những trụ ciment hình vuông và lợp mái đỏ au.

Ba anh đều không có phòng riêng nên chúng tôi hay tha thẩn vào rừng, đốt một đống lửa nhỏ (theo thói quen của người miền núi) rồi ngồi quanh tán dóc. Nói cho chính xác thì chỉ có mình tôi tán (dóc) K’ Bien, H’ Bri, và Ya Ram chỉ chăm chú nghe, thỉnh thoảng mới điểm chuyện bằng những nụ cười hiền lành hay thích thú.

Món quà tôi mang đến cho bạn thường là kẹo Nougat và bốn điếu thuốc lá hiệu Ruby Queen. Gía bán lẻ của loại thuốc này, vào thời điểm đó, là 3 đồng 4 điếu. Thiệt là vừa vặn.

Rồi tôi bỏ học ngang để đi… Tây nhưng đi không tới. Có người hàng xóm, quê ở Tân Châu (Châu Đốc) nói với tôi rằng nhà ông ấy sát cạnh biên giới. Từ đó, có thể “bò”qua Cao Miên dễ dàng như chui rào qua nhà hàng xóm. Tôi sẽ bị bắt và bỏ tù vì tội nhập cảnh bất hợp pháp. Thời gian giam giữ ngắn thôi, và khi được phóng thích, tôi có thể xin họ trục xuất mình… qua Pháp! “Vì Cao Miên là một quốc gia trung lập nên em xin đi đâu cũng được.”

Tôi không đủ khôn ngoan để hỏi xem: tại sao thể chế của một quốc gia trung lập lại cho phép nhà cầm quyền trục xuất người nhập cảnh bất hợp pháp, qua một nước thứ ba (dễ dàng) như ném đồ vào thùng tác như vậy? Tôi cũng không rõ tại sao mình lại có “nhu cầu” phải … đi đến tận bên Tây lận?

Tôi chỉ nghe ông Cung Trầm Tưởng nói lại là “Trời mùa Đông Paris, suốt đời làm chia ly,” nên háo hức muốn ghé (qua) coi chơi cho biết – thế thôi. Vậy là tôi chôm hai lượng vàng của mẹ để thực hiện chuyến đi (giang hồ vặt) đầu đời.

Chúng tôi đến Châu Đốc khi ngày vừa tắt nắng. Từ đây, về tới nhà ông hàng xóm – ở Tân Châu – phải đi bằng đường thủy. Ngay khi vừa ngồi trên trên chiếc tắc ráng, lênh đênh trên sông Cửu, tôi đã hình dung ra ngay cảnh… Thuyền Viễn Xứ của Phạm Duy:

Chiều nay sương khói lên khơi

Thùy dương rũ bến tơi bời

Làn mây hồng pha ráng trời

Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người

Nhìn về đường cố lý

Cố lý xa xôi

Đời nhịp sầu lỡ bước

Bước hoang mang rồi …

Quay lại hướng làng

Đà Giang lệ ướt nồng

Mẹ già ngồi im bóng

Mái tóc tuyết sương

Mong con bạc lòng …

Mẹ tôi, may mắn, không đến nỗi phải mong con đến “bạc lòng.” Chuyến thăm nhà của ông hàng xóm thành công tốt đẹp nhưng giấc mộng hải hồ của tôi thì không. Sau vài ngày sum họp gia đình – mời bà con láng giềng, anh chị em, chú bác nhậu không ngừng (và tưng bừng) để mừng đoàn tụ – vào một đêm tối trời ổng dắt tôi ra hè sau, chỉ tay vào khoảng không, nói bâng quơ:

“Đó, cứ theo hướng này đi chừng tới sáng là qua tới bên bển. Có điều tui nghe nói lúc này tình hình hơi căng thẳng nên chú em phải thận trọng chút xíu.”

Để minh hoạ cho “tình hình hơi căng thẳng” giữa hai quốc gia Miên/Việt – thỉnh thoảng – một quả hỏa châu lại loé sáng trong đêm, cùng với những tràng đạn nổ vu vơ ở xa xa. Tôi lạnh cẳng nên đổi ý.

Sau khi tiêu sài đến đồng bạc cuối cùng của hai lượng vàng vừa bán vài tuần trước, tôi thất thểu trở về… mái nhà xưa. Bố mẹ tôi mừng còn hơn tìm lại được một… viên kim cương thất lạc! Tôi cũng trở lại trường cũ nhưng thầy hiệu trưởng, rõ ràng, không mừng vui gì cho lắm. Ổng quyết định cho tôi thôi học vì vắng mặt nhiều ngày không xin phép: “Trường chớ bộ chợ sao mà trò muốn tới giờ nào thì tới.”

Từ đó, tôi không bao giờ có dịp gặp lại những người bạn cũ. Tính tôi lại chóng quên nên hình ảnh của K’Bien, Ya Ram và H’ Bri cứ nhạt nhoà dần rồi biến mất luôn không biết tự lúc nào.

Gần nửa thế kỷ sau, khi tóc đã điểm sương – có bữa – tôi tình cờ chợt nhìn thấy lại những gương mặt quen thuộc, trông y như những người bạn cũ của mình, vào thưở ấu thời, qua một thiên phóng sự bằng hình. (Sự Học Ở Vùng Sâu Vùng Xa) của nhóm phóng viên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần.

Tôi biết hoàn cảnh sống không sáng sủa của những đồng bào thiểu số ở đất nước mình dưới chế độ mới nhưng không thể hình dung ra được là con cháu của K’Bien, Ya Ram và H’ Bri … phải chịu cực khổ đến thế chỉ vì mong muốn được cắp sách đến trường – theo như nguyên văn lời tường thuật của bài báo thượng dẫn:

“Chúng tôi đến xã Mường Lý khi địa phương này đang mùa giáp hạt. Xã hiện có gần 300 học sinh tiểu học, THCS phải trọ học tại trường – đông nhất huyện. Bữa ăn trưa của các em Vàng A Sự, Vàng A Tu, Vàng A Mỵ ở căn lều trống hoác cạnh Trường THCS Mường Lý chỉ có cơm với muối trắng, chan nước lạnh.

Mỗi tháng em phải về nhà hai lần lấy gạo – Sự kể – Tụi em tự kiếm thức ăn, đứa nào nhà khá thì có thêm một, hai chục ngàn mỗi tháng để mua vài con cá khô, đậu phụ cải thiện. Ở nhà bố mẹ và các em vẫn phải ăn độn ngô, sắn, bạn em nhiều đứa không đủ gạo ăn. Nhưng chúng em chỉ có con đường học thôi.”

Thầy Nguyễn Văn Hà, Trường THCS Mường Lý, kể: ‘Cuối tuần, thầy trò chúng tôi lên rừng đào măng, hái rau dại, trứng kiến để các em cải thiện bữa ăn.’ Sống ở lều tạm, thầy trò ở đây còn lo mùa mưa thì lũ quét, lũ ống hất lều xuống sông Mã, mùa khô thì nguy cơ cháy rình rập, bởi các túp lều làm bằng tre, nứa lợp lá, nằm sát nhau rất dễ bắt lửa.”

Nhìn hình ảnh những ký túc xá ở Việt Nam, bây giờ, khiến tôi liên tưởng đến quãng đời học trọ của nhà văn Võ Hồng (hồi đầu thế kỷ trước) mà muốn ứa nước mắt:

“Sau khi đỗ tiểu học, tôi thi vào Trung học. Những bạn của tôi ở từ các tỉnh tới, nói nhiều giọng khác nhau: Quảng – nam, Quảng -ngãi, Thừa -thiên, Bình – thuận, Ban- mê- thuột… Sau mỗi kỳ nghỉ Tết mỗi kỳ nghỉ Hè, lũ bạn đi học mang theo quà địa phương của mình. Bạn Quảng-nam mang theo khoai lang khô và bánh tổ, bạn Quảng-ngãi mang theo đường phổi, bạn Phan-thiết mang theo nước mắm nhĩ, còn rim mức, kẹo mè, bánh in, bánh cốm thì gần như không ai không có…

Ngoài những bạn học người kinh, ký túc xá còn nhận những học sinh người Rhadé, những Y Bliêng, Y Phơm, Y Bih, R’om Rock, Nay Phin… Họ đồng phục kaki vàng và trao đổi trò chuyện với chúng tôi bằng tiếng Pháp… Những buổi chiều trong sân trường, Y Phơm hay biểu diễn môn bắn ná cho chúng tôi xem và mách rằng: “Thằng Y Bliêng đó, nó giầu lắm. Nhà nó có năm con voi và nhiều con trâu…

Ở ký túc xá ăn, học, ngủ đều đúng giờ giấc nhưng khi thích chúng tôi vẫn lén nhẩy rào hay chun rào ra phố xem xi-nê… ”

Người lính Pháp cuối cùng rời khỏi Việt Nam vào ngày 28 tháng 4 năm 1956. Hơn nửa thế kỷ đã qua nhưng chính sách cai trị hà khắc, và chủ trương ngu dân của chủ nghĩa thực dân, vẫn còn để lại ít nhiều căm phẫn trong tâm khảm của dân tộc Việt. Mai hậu, chúng ta cần phải “bao lâu” mới có thể quên được hết những tội ác (tầy trời) mà chủ nghĩa cộng sản đã gây ra trên đất nước này?


 

Lê Hữu Minh Tuấn – Tưởng Năng Tiến

Ba’o Tieng Dan

Tưởng Năng Tiến

19-10-2024

Tiếng Việt không ít những thành ngữ (ví von) liên hệ đến đặc tính của nhiều con vật hiền lành và quen thuộc: Ăn như heoăn như mèo, nhát như cáy, gáy như dế, khóc như ri, lủi như trạch, chạy như ngựa, bơi như rái, khỏe như voi, hỗn như gấuchậm như rùa, lanh như tép, ranh như cáo, câm như hến …

Dù có trải qua thêm hàng ngàn hay hàng triệu năm tiến hóa, và thích nghi để sinh tồn chăng nữa – có lẽ – sóc vẫn cứ nhanh, sên vẫn cứ yếu, cú vẫn cứ hôi, lươn vẫn cứ trơn, đỉa vẫn cứ dai, thỏ vẫn cứ hiền, cá vẫn cứ tanh, chim vẫn cứ bay, cua vẫn cứ ngang (thôi) nhưng hến thì chưa chắc đã câm đâu nha.

Tôi xém hết hồn/ hết vía khi xem bộ phim tài liệu (Secret World of Sound) mới được Netflix trình chiếu lần đầu, vào hôm 25 tháng 2 năm 2024 vừa qua. Ai mà dè chúng ta lại có thể nghe được tiếng dậm chân của kiến, tiếng đập bụng của ong, như một phương cách để thông tin cho đồng loại. Người ta còn thu âm được tiếng đồng ca của cá, và ngay cả đến tiếng kêu réo của đám sấu con (phát ra từ trứng) để báo cho cá sấu mẹ biết là chúng sắp tách vỏ chào đời.

Loài hến (dám) chả câm đâu đấy?

Với kỹ thuật hiện đại và những thiết bị tân kỳ (cameras and laser vibrometers) mai mốt, không chừng, chúng ta cũng sẽ nghe được cả tiếng của giống hến luôn. Trong thế giới động vật (dường như) chả loài nào hoàn toàn câm nín cả, con thú nào cũng có nhu cầu và khả năng tương giao bằng âm thanh, chẳng qua là thính giác của chúng ta quá kém nên không nghe được đấy thôi. Họa hoằn mới có trường hợp cá biệt. Ở Việt Nam, có một giống chim bỗng dưng lại hoàn toàn nín bặt – theo như lời tâm sự buồn phiền của một nhà giáo (và nhà báo) từ đất nước này:

“Đêm trong núi lạnh, ngồi nói chuyện với anh Hoàng Tuấn Công. Về những cánh rừng đã mất. Anh Công hỏi mình, ở đây giờ còn (chim) cuốc không. Mình nói còn, thi thoảng vẫn thấy chúng lủi nhanh qua những bờ bụi. Có nghe thấy tiếng chúng kêu không? Không.

– Ừ, cuốc giờ không còn kêu nữa.

Bỗng giật mình, đúng rồi, đã bao lâu mình không nghe tiếng cuốc dù vẫn thấy chúng đây đó nơi chân đồi đồng bãi… Chúng lủi đi và sống trong im lặng. Rừng đã hết, con người có mặt khắp nơi cùng súng và bẫy rập. Cuốc phải ngậm chặt miệng để giữ lấy sinh mạng, vì tiếng kêu là lời mời gọi tử thần. Đó là một bước “tiến hóa” oan nghiệt…

Chim cuốc còn đó mà tiếng cuốc đã chôn vào u tịch mang mang. Không có cái chết nào đáng sợ hơn thế, không sự hủy diệt nào thảm khốc hơn thế, khi một giống loài phải từ bỏ tiếng gọi đồng loại và tiếng gọi nhân tình của mình trong lau lách mù tăm”. (Thái Hạo –  “Chim Cuốc Không Còn Kêu Nữa”. Tiếng Dân – 15/02/2022).

Tình trạng “đáng sợ” và “thảm khốc” này không chỉ xảy ra riêng với chim chóc. Với loài người cũng thế, lắm kẻ cũng đang phải sống trong nín lặng (“phải ngậm chặt miệng để giữ lấy sinh mạng”) chả khác gì muông thú cả. Dưới chế độ hiện hành ở Việt Nam, tiếng nói của người dân (kể cả những tiếng kêu cứu hay kêu thương thảm thiết) đều có thể bị nhà cầm quyền suy diễn là hay quy chụp là “tuyên truyền chống nhà nước” và trừng phạt nặng nề.

Ngày 6 tháng 1 năm 2021, Tạp Chí Luật Khoa ái ngại loan tin: “Ba mươi bẩy năm tù cho ba nhà báo tự do. Chỉ sau nửa ngày nghị án, tòa đã tuyên nhà báo Phạm Chí Dũng mức án 15 năm tù, nhà báo Nguyễn Tường Thụy và nhà báo Lê Hữu Minh Tuấn cùng mức án 11 năm tù. Ngoài án tù, cả ba người còn bị tuyên phạt ba năm quản chế. Các mức án được đưa ra cho tội danh ‘làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’ theo Khoản 2, Điều 117, Bộ luật Hình sự”.

Chúng tôi đã có dịp đề cập đến nhà báo Nguyễn Tường Thụy (và hy vọng sẽ có bài viết về T.S Phạm Chí Dũng trong tương lai gần, nếu sức khỏe cho phép) nên những dòng chữ còn lại của trang sổ tay hôm nay xin được ghi thêm đôi lời về thành viên trẻ nhất của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam: Lê Hữu Minh Tuấn (LHMT) sinh ngày 20 tháng 3 năm 1989.

Tạp Chí Luật Khoa cho biết: “Ông Tuấn bị bắt tạm giam vào ngày 12/6/2020, khoảng ba tuần sau khi công an bắt giữ ông Thụy. Lúc bị bắt, ông Tuấn đang theo học bằng cử nhân thứ hai của mình tại trường Đại học Luật Hà Nội. Trước đó, Tuấn tốt nghiệp cử nhân khoa học lịch sử tại Đại học Đà Nẵng.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát cho rằng, ông Tuấn đã tham gia điều hành Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam từ tháng 8/2014. Ông bị cáo buộc đã viết sáu bài báo có nội dung xúc phạm uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, danh dự lãnh đạo của các cấp chính quyền. Tương tự như cáo buộc đối với ông Dũng và ông Thụy, Viện Kiểm sát cũng không nói rõ đó là những bài viết nào”.

Có lẽ chỉ cần 1 bài báo không viết theo chỉ đạo, và phổ biến ngoài lề là đã “xúc phạm uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, danh dự lãnh đạo của các cấp chính quyền” rồi, chớ cần chi tới 6 bài. Tội danh chính của LHMT và đồng nghiệp là đã phạm vào điều tối kỵ (taboo) của chế độ hiện hành: “Đã tham gia điều hành Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam”.

Facebook Anh Dung Lam buồn bã kết luận: “Việt Nam vừa mới bỏ tù ba nhà báo của Hội Báo Chí Độc Lập. Tất cả những gì có liên quan đến hai chữ Độc Lập đều từ từ đưa vào chốn lao ngục vài chục năm trở lên”.

Chắc hẳn LHMT cũng biết cái giá của sự “độc lập” trong chế độ hiện hành nhưng ông còn chọn lựa nào khác, như đã từng khẳng định: “Những người ngồi tù vì lên tiếng có thể chưa phải là giới tinh hoa về học thức và địa vị xã hội, nhưng họ chính là mầm mống xây dựng một xã hội văn minh, đạo đức, dân chủ, và tự do hơn … 

Bởi họ, những người bị giam cầm chỉ có đúng một mong muốn lan toả tinh thần phá bỏ sự tự nguyên giam cầm của đại đa số người dân trong một nhà tù của xã hội. Khi tư duy, ý chí, nhu cầu về quyền tự do con người bị co hẹp, run rẩy trước quyền lực nhà nước. Thế nên con số tù chính trị vượt lên trên 200 con người vừa là bi kịch của xã hội, nhưng lại là hồng phúc thực sự của một đất nước trong tương lai”.

Vâng, đúng thế. Bởi không có sự hy sinh cao cả như thế thì dân Việt biết trông vào đâu để vẫn còn có thể giữ được chút niềm tin về tương lai của dân tộc và đất nước! Tuy thế, hiện trạng suy kiệt sức khỏe LHMT vẫn khiến cho bất cứ ai cũng phải xót xa và vô cùng quan ngại:

– Tổ Chức Phóng viên Không Biên giới (RSF): “Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế tăng cường áp lực đối với chính phủ Hà Nội cho ông Tuấn được tạm tha vì lý do y tế cũng như bảo đảm ông này được trả tự do trước khi quá muộn”.

– Tổ Chức Giám Sát Nhân Quyền (HRW): “Việc Lê Hữu Minh Tuấn thực hiện quyền của mình lẽ ra không nên bị coi là tội phạm. Do vậy, nếu ông chết trong tù thì chính quyền Việt Nam phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc hủy hoại tính mạng của ông và những thiệt hại sau đó đối với gia đình ông”.

Trong khi thiên hạ đang tìm kiếm mọi phương cách để có thể nghe ra sự bí mật trong thế giới âm thanh của muôn loài (kể cả côn trùng) thì LHMT bị đồng loại bịt miệng và giam cầm cho đến chết chỉ vì ông đã khẳng khái lên tiếng:

“Tôi và những người như tôi nào đòi hỏi một cuộc cách mạng bạo lực như những nhà lý luận Marxist chỉ ra dù đang đứng trong một xã hội tồn tại quá nhiều kẻ hở bất công, phi lý, bất bình đẳng. Tôi và những người như tôi chỉ đòi hỏi quyền tự do, cái quyền được ghi chễm chệ trong điều 25 hiến pháp nhà nước”!


 

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tiên – Hà Giang

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

13/10/2024

Trước khi “tập kết ngược” (trở lại miền Nam) vào năm 1962, Nguyên Ngọc có thời gian lang thang ở cao nguyên Đồng Văn – Mèo Vạc. “Mùa Hoa Thuốc Phiện Cuối Cùng” là chuyện viết về người thật việc thật, nơi vùng giới tuyến (Việt/Hoa) này.

“Đây cũng là một truyện ngắn hay của ông. Cô gái Mèo Vàng Thị Mỹ ở với bố trên những đỉnh núi cao quanh năm mây phủ. Ở đó nếu có khách tới nhà thì chỉ là thú rừng thôi. Cô bé thấy thèm người. Rồi ông bố cho cô đến với người.

Đó là một phiên chợ. Cơ man nào là người. Ông bố bán thuốc phiện, một thứ vàng đen, mong giúp con gái đổi đời. Nhưng bị trả quá rẻ, ông không bán. Thế rồi dọc đường trở về, bố con ông bị bọn người đó chặn lại. Chúng cướp không số thuốc phiện rồi bắn chết ông.

Cô bé may mà thoát chết. Rồi cô được một bà goá đem về nuôi. Năm 13 tuổi, cô bị gả chồng. Chồng cô là thằng bé mới 7 tuổi, con lão chúa đất. Ngày về nhà chồng, cô khóc nhiều lắm. Khóc vì không được cô độc sống giữa các vách núi. Cô lại phải đến với người.

Ở nhà chồng, cô bỗng nhận ra bố chồng là một tên dã thú đã giết bố cô. Thế là cô bỏ trốn. Bây giờ thì cô sợ phải gặp người. Cứ thấy làng, thấy người là cô tránh. Cô đi lang thang rồi lạc vào rừng. Hoang mang và đói lả, cô ngồi thụp xuống bên hang đá, thiếp đi. Rồi cô chợt bừng tỉnh khi thấy trong hang lại có tiếng người.

Thế là cô bé lại vùng dậy chạy. Nhưng không còn sức chạy nữa. Cô lại phải gặp người. Không phải người thú mà người cách mạng. Chính người cách mạng đó đã cứu cô. Rồi cô gặp Đảng. Đảng chỉ cho cô đường đi, nước bước. Đảng bảo phải bỏ cây thuốc phiện. Nó chính là nguồn gốc mọi nỗi đau khổ của người Mèo. Phải phá bỏ cây thuốc phiện trồng ngô sắn. Rồi Nguyên Ngọc còn để cô Vàng Thị Mỹ nói với đồng bào Mèo nguyên văn như thế này: ‘Ngày xưa, người đối với người coi nhau như thú dữ, bây giờ có Đảng, có chính phủ, có Cụ Hồ, người với người mới tin nhau, giúp nhau như thể anh em một nhà vậy. Đó là bản chất của Chủ nghĩa xã hội đấy, bà con ạ…”  (Trần Đăng Khoa. Chân Dung Và Đối Thoại. NXB Thanh Niên: 1998).

Với thời gian, cái “bản chất của Chủ Nghĩa Xã Hội đấy” – mỗi lúc – được “bà con”  nhận thức rõ ràng hơn. Năm 1991, Nguyên Ngọc có dịp quay lại Hà Giang. Vẫn cảnh cũ, người xưa nhưng nỗi lạc quan của nhà văn thì đã hoàn toàn tan biến:

Phiên chợ Mèo Vạc nghèo và buồn. Phải nói thật điều này thôi: không bằng 30 năm trước. Không còn những chõ xôi vàng rực, chỉ nhìn đủ thèm. Không còn những gói hoàng tinh (mà ở đây người ta gọi là voòng chính) mỡ màng chất đầy các củi tấu.

Không còn những chú lợn béo ụ được dòng dây vào cổ, người bán người mua thách và mặc cả ầm ĩ… không còn thấy cảnh các đôi trai gái say mèm, người con trai cầm khèn vừa nhảy lò cò vừa thổi, người con gái cầm ô xanh đỏ hát dìu dặt Tu tè chí dù mưng, rồi dìu nhau vào các hốc đá tiếp tục cuộc tình đắm đuối cho đến tối mịt… Mới trưa chợ đã vãn. Không gì bộc lộ rõ rệt đời sống của người dân bằng cái chợ… (Nguyên Ngọc. “Trở Lại Mèo Vạc”).

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng “buông một tiếng thở dài” tương tự khi bước chân đến cái cao nguyên đá dựng này: “Người ta nói, đi qua một khu chợ sẽ biết đời sống của cư dân ở đó. Mình tin điều đó. Và nhìn món hàng bày trước mặt những người phụ nữ vùng cao, mình hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời…”

Những sản phẩm mà Nguyễn Ngọc Tư “nhìn” được ở chợ Hà Giang hồi mười năm trước (“nụm nịu một hai nải chuối, co ro vài ba bó củi”) hay hình ảnh những em bé H’Mong đang ngồi vật vạ (bên mấy mớ rau rừng) ngày nay giúp cho kẻ ở miền xuôi “hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời…” của đồng bào nơi mạn ngược.

Vấn đề của họ cũng không chỉ giới hạn vào “nồi cơm” hay “căn bếp.” Những cuộc nổi dậy liên tiếp (vào những năm 2001, 2004, và 2011) cho thấy sự bất ổn và khủng hoảng trầm trọng trong cuộc sống của người dân bản địa tại Việt Nam, ở rất nhiều nơi.

Phóng viên  Thanh Trúc (RFA) tường thuật: “Từ một thập niên trở lại đây, vì thường xuyên bị sách nhiễu và gây khó dễ trong cuộc sống, nhiều người H’mong, phần lớn đi đạo Tin Lành và thường tụ họp để thờ phượng Chúa như họ kể, từ Điện Biên, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang… vượt biên giới sang Lào rồi tìm đường sang Thái Lan xin tị nạn.”

Kể từ “Mùa Hoa Thuốc Phiện Cuối Cùng”, cho đến khi xẩy ra cuộc Chiến Tranh Biên Giới Việt – Trung (Sino -Vietnamese War) nhà đương cuộc Hà Nội – dường như – không hề có bất cứ một dự án hay hành động thiết thực nào để để giúp đỡ người H’Mong cả.

Hệ quả, hay hậu quả, nhãn tiền: “Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc.” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. NXB Văn Nghệ: 2000).

Thêm gần nửa thế kỷ đã qua, và những “chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” – xem chừng – mỗi lúc một thêm tệ hại. Người H’Mong vẫn bị bỏ mặc cho chính quyền địa phương áp bức hay dầy xéo. Công luận đã từng biết đến tên tuổi những quan chức “khét tiếng” ở Hà Giang (Sầm Đức Xương, Nguyễn Trường Tô, Triệu Tài Vinh, Vũ Trọng Lương) và vô số tệ trạng nơi đây.

“Thật sự chưa có con đường ra cho cái cao nguyên đá kỳ dị này” là nguyên văn lời của Nguyên Ngọc, cùng nỗi “ấm ức” của ông:.

Ba mươi năm trước, người H’mông chuyên trồng loại cây đắt giá nhất, kỳ ảo nhất, say đắm nhất trên đời này: cây thuốc phiện.

Bây giờ thuốc phiện bị cấm rồi. Thay bằng cây ngô. Trồng ngô ở đây, thì chết đói.

Trồng thuốc phiện – thì hư hỏng. Hư hỏng cả xã hội.

Làm sao?

Cuộc nổi phỉ và cuộc tiễu phỉ ác liệt năm 1959, với tất cả sự đan chen vô cùng phức tạp của các mưu đồ chính trị lớn và nhỏ, trong nước ngoài nước… đều dính líu chằng chịt đến chuyện trồng cái cây gì trên bụm đất nhỏ xíu còn sót lại giữa các hốc đá nham nhở nơi này.

 Trồng cây gì?

Câu hỏi chừng đơn giản vậy mà đẫm máu, mà chi phối khắc nghiệt số phận hàng vạn con người, từng số phận con người, từng chặng đường số phận mỗi con người…

Tôi liều mạng bục ra một câu hỏi kỳ thực vẫn ấm ức từ lâu:  Hay trở lại cây thuốc phiện?

“Trở lại” e đã muộn. Bây giờ thì chất gây nghiện có thể chế tạo bằng nhiều thứ hoá chất chứ không nhất thiết phải cần đến nhựa của hoa Anh Túc nữa. Và “xã hội thì hư hỏng” hết rồi. Ma túy đã được vận chuyển (theo đơn vị tấn) đi khắp mọi nơi:

Cái ảo vọng của Tố Hữu về tình hữu nghị (bên ni biên giới là mình/bên kia biên giới cũng tình quê hương) cũng đã tan vỡ từ lâu. Sớm muộn gì thì “bọn bành trướng Bắc Kinh” cũng sẽ “tràn sang” lần nữa thôi, trong khi “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì vẫn cứ tiếp tục xô đẩy người dân về phía kẻ thù!

Chả phải vô cớ mà tiếng nói của Nguyên Ngọc bỗng trở nên tiếng cú: “Chế độ này thế nào cũng sụp đổ. Nhưng không biết nó sẽ sụp đổ theo kịch bản nào?” Kịch bản nào cũng được vì ngày nào mà cái chính thể hiện hành còn tồn tại thì cả nước Việt sẽ không có lối ra, chứ chả riêng chi vùng cao nguyên Đồng Văn – Mèo Vạc. 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Thúy Hạnh

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

07/10/2024

Khi chưa bị bắt, và bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần – có lần – Nguyễn Thúy Hạnh kể lại một câu chuyện hơi tếu táo (“Chuyện Một Người Bất Đồng Chính Kiến”) nhưng nghe rồi tôi lại thoáng buồn buồn:

Bác tên là Nguyễn Thế Đàm, người từng hai lần bị tống vào hoả lò cũ và hoả lò mới, rồi hai lần bị đẩy vào trại tâm thần, Trâu Quỳ và Thường Tín.

“Tôi khẳng định ông ấy bị điên. Cả thế giới người ta thấy mà lặng im ko nói, chỉ một mình ông ấy nói ra, thế chả là điên thì là gì?”Giám đốc bệnh viện tâm thần thời đó đã nói vậy khi vợ bác khăng khăng chồng mình ko bị điên.

Vậy bác Đàm “nói” cái gì? Đó là những truyền đơn nhằm vào ông Hồ, mục đích để ông Hồ ko còn là thánh, trong đó thường gọi ông Hồ là “ngu Hồ”, và rằng chủ nghĩa Mác là phản động…

Thời những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước mà đi rải truyền đơn hạ bệ lãnh tụ, lại còn viết đủ cả tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại của mình vào truyền đơn rồi đi phát tận tay từng người thì quả đúng là vuốt râu hùm.

Bởi vậy bác “lên đồn xuống phủ không biết bao nhiêu lần” … Thật cảm phục lớp người đi trước, giữa đêm đen đặc quánh thời bấy giờ, cả một xã hội mê ngủ, thật vô cùng quý giá…

Chúng tôi miên man nghe những giai thoại về “gã khùng” mà bác gái kể. Trên giường, bác Đàm bỗng cựa mình, nói rõ ràng:

– Lão Hồ làm hại dân!

Mọi người cười xoà, gần đất xa trời vẫn quyết ko tha cho người ta.

Bác Đàm mắc bệnh hiểm nghèo, có lẽ sắp đến lúc đi gặp người bạn đồng chí hướng Hoàng Minh Chính. Nằm trên giường, bác lúc tỉnh táo lúc mê. Ngôi nhà như cái chòi đơn sơ ở một ngách nhỏ phố Ngọc Khánh.

Lựa lúc bác tỉnh táo, tôi nói thật chậm:

”Bác ạ, những hạt giống mà ngày ấy bác Thanh Giang, Hoàng Minh Chính, tướng Trần Độ, và bác cùng những người đi trước gieo đã mọc thành cây và nay đã ra hoa kết trái. Giờ đây có hàng ngàn người xuống đường biểu tình. Những người “điên” như bác ngày một đông lên, làm những việc ít ai dám làm, nói những điều ít ai dám nói. Số ít bảo họ điên, nhưng ngày càng nhiều người vinh danh họ, họ đã ko còn đơn độc. Que diêm ngày đó các bác đốt lên đã trở thành những ngọn nến”.

Nguyễn Thúy Hạnh (NTH) đã không quá lời khi xác quyết rằng “những người ‘điên’ ngày một đông lên, làm những việc ít ai dám làm, nói những điều ít ai dám nói”.

Ngày 6 tháng 5 năm 2022, VOA ái ngại loan tin: “Nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh bị đưa vào viện tâm thần … Bà Hạnh là nhà bất đồng chính kiến mới nhất được biết đã bị nhà chức trách đưa vào viện tâm thần trong thời gian tạm giam chờ xét xử. Các trường hợp trước đây là nhà báo độc lập Lê Anh Hùng, bị bắt từ 7/2018 …”

Đã nhắc đến “các trường hợp trước đây” thì (tưởng) cũng nên thêm đôi ba tên tuổi nữa, cho nó đầy đặn và đầy đủ:

  • Trịnh Bá Phương bị bắt hôm 24 tháng 6 năm 2020, chuyển sang Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương Số I vào ngày 22 tháng 3 năm 2021.
  • Phạm Thành bị bắt hôm 21 tháng 5 năm 2020, chuyển sang Viện Pháp Y Tâm Thần hôm 25 tháng 11 năm 2020.

Tất cả những nhân vật thượng dẫn đều bị kết tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (theo Điều 117, khoản 1-Bộ luật Hình sự năm 2015) và đều được gửi vào … nhà thương ráo trọi.

Sao kỳ vậy ?

Hổng kỳ lạ gì lắm đâu! Ở đâu cũng vậy thôi mà. Bên Tầu hay bên Nga cũng thế:

“Dùng bệnh  lý tâm thần để trấn áp chính trị chiếm một vị trí quan trọng trong chính sách tại Trung Hoa Lục Địa. Vấn đề này vẫn không ngớt gây ra các tranh cãi trong giới y khoa tâm thần quốc tế. Các vụ ‘tâm thần’ ở Trung Cộng hiện nay còn cho thấy có mức tràn lan hơn cả ở Liên Xô hồi thập niên 1970, 1980. Bệnh tâm thần thường xuất hiện trong các vụ bắt bớ những người ‘kiến nghị’, những nhà hoạt động nhân quyền, giới vận động thành lập nghiệp đoàn độc lập, các thành viên phong trào Pháp Luân Công, và cả những dân oan ở các tỉnh dám đi khiếu kiện quan chức địa phương.”

Political abuse of psychiatry in China is high on the agenda and it has produced recurring disputes in the international psychiatric community. The abuses there appear to be even more widespread than they were in the Soviet Union in the 1970s and 1980s and they involve the incarceration of ‘petitioners’, human rights workers, trade union activists, members of the Falun Gong movement, and people who complain about injustices that have been committed against them by local authorities. (“Political Abuse of Psychiatry”. Wikipedia. 2024).

Chỉ có chút khác biệt là ở VN thì không chỉ những nhân vật bất đồng chính kiến mà ngay cả các đồng chí (nhưng không đồng lòng) cũng đều có thể bị bỏ vô nhà thương điên tuốt luốt:

Tôi về cơ quan miền Nam báo Lao Động đúng lúc phóng viên Trương Đăng Lân phát hiện chuyện trù dập rất man rợ ở Tổng cục Cao su: Đầu năm 1985, đoàn thanh tra nhà nước đến thanh tra Tổng cục Cao su, phát hiện nhiều “phi vụ” mua bán, ăn chia bất hợp pháp mà đầu mối quan trọng là Công ty Phục vụ Đời sống do tổng cục trưởng trực tiếp chỉ đạo.

Đoàn thanh tra dành nhiều thời gian làm việc riêng với Ngô Văn Định phó giám đốc công ty này. Ông Đỗ Văn Nguyện, ủy viên Trung ương Đảng, tổng cục trưởng Tổng cục Cao su được mật báo là Ngô Văn Định đã bị đoàn thanh tra khuất phục, đã cung khai nhiều việc làm sai trái mà người chịu trách nhiệm cuối cùng chính là ông. Đỗ Văn Nguyện nghĩ cách vô hiệu hóa bản kết luận của đoàn thanh tra dựa vào lời khai của Ngô Văn Định. Ông ta cho rằng cách tốt nhất là phải biến Ngô Văn Định thành bệnh nhân tâm thần!

Vậy là một kế hoạch cưỡng bức định được tổ chức tỉ mỉ: Trước hết, trưởng ban y tế Tổng cục Cao su, bác sĩ Đoàn Huỳnh làm tờ trình chi tiết gửi lên Tổng Cục trưởng, kể ra rất nhiều hiện tượng điên khùng của Ngô Văn Định … Căn cứ đề nghị của trưởng ban y tế, ngày 18-5-1985, tổng cục trưởng Đỗ Văn Nguyện ký quyết định tổ chức đưa Ngô Văn Định đi Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa. (Tống Văn Công. Đến Già Mới Tỉnh. Người Việt, CA: 2016).

Đồng chí mà còn bị cất vô dưỡng trí viện cho khuất mắt (và yên chuyện) thì xá chi đến cái đám đồng bào, nhất là những người không chỉ bất đồng mà còn ngang nhiên thể hiện chính kiến của mình bất kể mọi sự đe dọa hay sách nhiễu của lực lượng công an – như Lê Anh Hùng, Phạm Thành, Trịnh Bá Phương hay NTH.

Chỉ có điều phiền là bà Hạnh bất ngờ lâm trọng bệnh, theo tin của RFA vào hôm 01/25/2024: “Nhà hoạt động Nguyễn Thuý Hạnh mắc ung thư giai đoạn hai khi đang điều trị tâm thần bắt buộc.”

Ngay sau đó, cũng theo RFA: “Hơn 200 người ký kiến nghị thư đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho nhà hoạt động Nguyễn Thuý Hạnh … Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, tập hợp những nhân sĩ – trí thức tên tuổi, đề nghị nhà cầm quyền Việt Nam với tinh thần tôn trọng Nhân quyền và chính sách Nhân đạo, hãy giao trả bà Nguyễn Thúy Hạnh về gia đình để có điều kiện chăm sóc và điều trị tốt hơn”.

Sự kiện này nhắc nhớ bản của BBC phát đi ngày 26 tháng 6 năm 2017: “Lưu Hiểu Ba, người Trung Quốc từng đoạt giải Nobel Hòa bình, đã được đưa đến bệnh viện với lý do nhân đạo sau khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư gan giai đoạn cuối.” Ông lìa đời, vài tuần sau đó, vào hôm 13 tháng 7.

Có lẽ vì căn bệnh hiểm nghèo của NTH chưa “đến giai đoạn cuối” nên mọi “kiến nghị” và “đề nghị” của người dân Việt, đối với nhà đương cuộc Hà Nội, đều chỉ như … “nước đổ lá khoai” thôi!

Tuy mạng sống hiện đang rất mong manh, NTH vẫn rất an nhiên tự và tại (Thân dẫu tan vùi trong cát bụi/ Mộng còn gửi lại với trời xanh) như những câu thơ mà bà đã viết trong Viện Pháp Y Tâm Thần Trung Ương, và vừa được phu quân Huỳnh Ngọc Chênh – trên FB – vào hôm 08/02/2024 vừa qua.

Xem ra thì NTH xem cái chết cũng chả ra cái đinh gì sất cả! Tôi thật hãnh diện vì đã được sống cùng thời với một vị anh thư như bà. Chỉ có điều (hơi) áy náy là những kẻ vô tích sự như tôi lại thường sống rất lâu, và cũng rất nhiều!


 

Chó Má & Thuế Má – Tưởng Năng Tiến/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

October 5, 2024

Tưởng Năng Tiến/SGN

Nhà báo Cù Mai Công vừa lên tiếng nhắc nhở đồng nghiệp (“Ráng Xài Tiếng Việt Cho Đúng, Xài Bậy, Dân Họ Cười Cho”) vào hôm 6 Tháng Chín vừa qua.

Ông dùng tựa một bản tin của báo Dân Trí (“Hai Kịch Bản Siêu Bão Yagi Tác Động Đến Đất Liền”) như một thí dụ tiêu biểu:

“Trong toàn bộ các tự điển tiếng Việt xưa nay, ‘kịch bản’ nguyên nghĩa là bản viết cho một vở kịch, sau có thể mở rộng thành văn bản, bản thảo về nội dung cho một phim truyền hình, quảng cáo, phim ảnh, gameshow…

Dù mở rộng thì đây vẫn là một từ dành cho một sản phẩm do con người làm ra (nhân tạo). Nó khác hoàn toàn với mưa, gió, bão… – một hiện tượng tự nhiên.

(Hình: Tác giả cung cấp)

Rõ ràng đây là một từ dùng sai …”

Sai “bậy” kiểu đó (và chỉ cỡ đó thôi) kể như là chuyện nhỏ và là chuyện vẫn xẩy ra hàng ngày ở khắp mọi nơi, chứ chả riêng chi Dân Trí. Tờ báo này, tuy thế, có lẽ là cơ quan truyền thông “bậy” nhất (và “bậy” lắm) vì cái chuyên mục: “Tấm Lòng Nhân Ái.”

Nói là “bậy” nhất vì kêu gọi giúp đỡ cho những cá nhân đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn là chuyện bình thường (khá phổ biến) nhưng chắc không đâu thực hiện một cách vô cùng bài bản, cẩn thận, và hết sức chu đáo như trang Dân Trí cả. Mọi trường hợp đều có bài vở chi tiết, hình ảnh sống động (và mã số đính kèm) cùng lời kêu gọi quyên góp, với những hướng dẫn rất tỉ mỷ về cách thức:

Mẹ già 70 tuổi tần tảo nuôi con tai biến, ước có căn nhà che nắng mưa

Cảm thương người phụ nữ 24 năm không nhìn rõ mặt chồng, con

Bé gái 10 tháng tuổi đầu chiếm nửa trọng lượng cơ thể, mẹ nghèo cầu cứu

Nữ sinh 1 tay người Dao cầm 500 ngàn đồng vượt 300km với giấc mơ đại học

Xót xa cảnh người chị ở vậy chăm em gái mù lòa

Mẹ ung thư qua đời, cô gái trẻ bế tắc khi bố tâm thần, em bại não

Kêu gọi tình tương thân, tương ái là việc nên làm nhưng chuyên nghiệp và công phu như báo Dân Trí (cơ quan ngôn luận của Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã Hội) thì e lại là chuyện khác. Xin xem qua đôi ba trường hợp:

Tình cảnh mẹ già nuôi con mất khả năng lao động vì tai biến, và cần một nơi che nắng che mưa cần được trợ giúp thiết thực, và dài hạn từ Bộ Lao Động & Xã Hội (BLĐ & XH) chứ không thể chỉ trông đợi vào lòng hảo tâm của bá tánh.

Tương tự, bé gái 10 tháng tuổi, bị bệnh úng thủy, đầu to bất thường (chiếm một nửa trọng lượng cơ thể) thì nơi mà người mẹ nghèo cần “cầu cứu” cũng là BLĐ & XH, chứ không phải là độc giả bốn phương.

Mọi trường hợp thượng dẫn đều là những công dân lão hạng, những người bệnh tật hay khuyết tật, hoặc những đứa bé thơ… Tất cả đều thuộc thành phần thua thiệt, cần được trợ giúp bởi một cơ quan thẩm quyền với chính sách và tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch, về mọi mặt: thực phẩm, tiền mặt, chăm sóc y tế… Chứ thiên hạ không có khả năng, và bổn phận phải thực hiện những điều này vì họ đã đóng thuế rồi.

Đến đây thì dù lười vẫn phải ghi thêm đôi lời liên quan đến chuyện thuế/phí ở VN, từ những nhân vật có thẩm quyền:

-Đại biểu Lê Minh Chuẩn: “So với thu nhập bình quân đầu người chỉ ở mức trung bình của khu vực nhưng tỷ lệ thu cao hơn đang khiến mỗi người dân Việt Nam phải gánh chịu khoản thuế và phí trên GDP gấp 1,4 đến 3 lần so với các nước khác. Tỷ lệ huy động thuế, phí đối với doanh nghiệp ở Việt Nam lên tới 39,4% lợi nhuận, tức là làm 10 đồng nộp thuế gần 4 đồng.”

-Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: “Một quả trứng chịu 14 loại phí, một con lợn chịu 51 loại phí… Không nước nào có chuyện này. Về thuế – phí, Việt Nam vô địch.”

VN, rõ ràng, cũng “vô địch” về khoản vô trách nhiệm hay đem con bỏ chợ.  Cung cách này đang được những cơ quan truyền thông (điển hình là Dân Trí) tận tình lấp liếm, bao che, và cổ vũ. Tờ báo này vừa hớn hở đi tin:

Sáng 5/9, hòa chung không khí ngày tựu trường của cả nước, 86 học sinh tại điểm trường Thành Lợp, Trường Tiểu học Tân Thành 2, xã Tân Thành (Thường Xuân, Thanh Hóa) dự lễ khai giảng ở ngôi trường khang trang do báo Dân Trí tài trợ.

Thấu hiểu những khó khăn, vất vả, thực hiện sự phân công của Đảng ủy Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, năm 2023, báo Dân Trí đã kêu gọi bạn đọc và các nhà hảo tâm tài trợ hơn 430 triệu đồng để khởi công xây dựng thêm phòng học, tu sửa lại ngôi trường khang trang, sạch đẹp.”

Qua hôm sau (hôm 6 tháng 9 năm 2024) họ lại hân hoan loan tin tiếp:

“Đại diện báo Dân trí, chính quyền các địa phương tiếp tục trao tặng gần 300 thẻ BHYT đến học sinh tại Thanh Hóa và Nghệ An. Ông Đỗ Văn Chung, Trưởng Phòng GD&ĐT huyện Như Xuân phát biểu:

“Chúng tôi rất vui khi được báo Dân trí tặng 200 thẻ BHYT. Đây là việc làm ý nghĩa, tạo động lực cho nhà trường, học sinh, phụ huynh, nhất là các gia đình khó khăn không thể mua thẻ BHYT cho các con. Chúng tôi trân trọng, cảm ơn bạn đọc báo Dân trí đã gửi đến học sinh của huyện món quà quý giá.”

Tôi sống qua nhiều nơi (Âu cũng như Á) nhưng chưa thấy đâu mà mầm non của đất nước phải lại phải “mua thẻ BHYT” cả. Tôi cũng không hiểu tại sao chính quyền các địa phương ở Việt Nam lại có thể trơ tráo mang “tặng” những món quà không phải của họ mà chả có chút ngượng ngập (hay ngượng ngùng) chi ráo.

Ngoài việc trường kỳ kêu gọi sự đóng góp của độc giả, tôi chưa bao giờ thấy một bài viết nào của báo Dân Trí (cơ quan ngôn luận của Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã Hội) đề cập đến vai trò và trách nhiệm của cái “bộ” này cả. Thế thuế má được dùng vào chuyện chi, và cái nhà nước hiện hành “cướp chính quyền” để làm chi (?) hay chỉ để trở thành một bọn cướp ngày!

(Hình: Tác giả cung cấp)

Chắc chắn, không ở nơi đâu (từ hơn nửa thế kỷ qua) mà người dân bị thôi thúc và ép buộc đóng góp công sức, cũng như xương máu, cho hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác – như ở Việt Nam. Cũng không nơi đâu mà giới cầm quyền hoàn toàn vô trách nhiệm như ở xứ sở này.

Việt Nam, có lẽ, là quốc gia duy nhất mà “lòng hảo tâm” được dùng thay cho một đạo luật về an sinh xã hội để qui định (hẳn hòi) mọi thứ phúc lợi đối với những công dân lão hạng, những người phế tật, những thương binh/ liệt sĩ và thân nhân của họ.

Đất nước này, xem ra, cũng là nơi duy nhất mà người dân có thể bị cầm tù (thay vì xử phạt) với tội danh trốn thuế – dù đến Trời chắc cũng không thể biết là bọn chó má đã xử dụng thuế má của người dân đóng góp ra sao, từ gần hai phần ba thế kỷ qua?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Võ Nguyên Giáp

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

03/10/2024

Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua  nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.

Niềm tự hào và hãnh diện này, tiếc thay, đã không nhận được sự đồng tình chia sẻ bởi tất cả mọi người. Nhà văn Nguyễn Khải là một trong những người như thế: “Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận.”

Ông nhà văn nói đúng nhưng (tưởng) cũng nên nói thêm là những kẻ bại trận sau Thế Chiến Thứ II, ở khắp mọi nơi – chắc chắn – không đâu và không ai phải trải qua một cuộc sống thảm hại, khốn cùng như người dân ở Điện Biên hiện tại:

  • Hà Nội Mới: “Lội sông đến trường, 7 học sinh ở Lai Châu bị nước cuốn trôi”.
  • Tuổi Trẻ : “Vào mùa lũ, các thầy cô giáo, học sinh ở bản Sam Lang (Điện Biên) phải chui vào túi nilông và nhờ người biết bơi kéo qua suối”.
  • Soha News: “Ngày hôm nay (3/4) trên mạng xã hội đã xuất hiện một bức ảnh rất cảm động về một em bé được cho là ở Điện Biên. Bức ảnh đã lột tả rất chân thực về nỗi kham khổ của trẻ em nghèo. Tuy tuổi đời còn rất nhỏ (khoảng 3,4 tuổi – PV) nhưng đứa bé đã sớm phải xuống ruộng để mò cua bắt ốc…”

*******

Tuổi thơ là một thành quả đặc thù thế kỷ XX. Trước đó, nhân loại phải dồn hết nỗ lực vào việc mưu sinh nên trẻ con chỉ là một người lớn thu nhỏ (miniature adult) với trách nhiệm đè nặng lên vai gần như bố mẹ. Nhân loại đã bước vào thế kỷ 21 nhưng một số người dân ở Điện Biên thì dường như đang đi thụt lùi. Một số khác, tuy đang bước tới nhưng lại nắm bắt những “phó sản văn minh” của thời đại mới – theo Điện Biên TV :

“Trong những năm qua, Điện Biên luôn được xác định là địa bàn trọng điểm, phức tạp về ma túy ở cả 3 khía cạnh: mua bán, vận chuyển và tàng trữ trái phép chất ma túy… Lực lượng chức năng Công an tỉnh đã phát hiện, bắt giữ 962 vụ với 1.158 đối tượng. Tang vật thu giữ 79,625kg thuốc phiện, 13.379 viên + 71,5g ma túy tổng hợp, 77,98g cần sa, 8,9kg quả thuốc phiện, hơn 9 tỉ đồng, 141.500 USD, 04 xe ô tô, 417 xe máy, 729 điện thoại cùng nhiều tang vật khác.”

Báo Điện Biên Phủ  còn trích dẫn lời của quan chức bầy tỏ sự âu lo về sợ nghèo đói ở địa phương này vì tính lười biếng của người dân:

“Bên cạnh những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo, cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Điện Biên còn đặc biệt quan tâm đến việc tìm ‘thuốc’ cho ‘bệnh lười’ đang tồn tại trong không ít người dân.”

Không chỉ lười mà dân chúng nơi đây còn “ẩu” nữa nha. Trong khi qúi vị lãnh đạo đang tìm “những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo” (nên chưa kịp làm cầu) thì họ đã liều lĩnh chui vào bao ni lông hay bơi qua sông để đến trường nên mới bị nước cuốn trôi oan mạng!

Tên tuổi một danh nhân rất tăm tiếng (và tai tiếng) được găn liền với địa danh Điện Biên là tướng Võ Nguyên Giáp, người từ trần vào hôm 4 tháng 10 năm 2013. Trong một cuộc phỏng vẫn dành cho báo Tin Nhanh Việt Nam, khi được hỏi về việc “về việc chọn con đường mang tên Đại tướng,” nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết:

“Có người đặt vấn đề, đổi tên những con đường đã có tên thành tên Đại tướng. Điều này nên hết sức tránh, nhất là việc những tên phố cũ cũng rất ý nghĩa, đáng lưu danh. Còn nếu là đường mới thì cũng phải xứng tầm với Đại tướng. Đây cũng là bài toán không dễ vì trên thực tế chúng ta chưa chuẩn bị gì cả.”

Nói nào ngay thì dù có “chuẩn bị” chăng nữa cũng rất khó mà chọn một con đường để “xứng tầm với Đại tướng” vì mọi nẻo đường ở Việt Nam, hôm nay, đều nhan nhản tội ác cùng với tệ đoan xã hội và sự bất an:

  • Tiền Phong : “Xôn Xao Chợ  Mãi Dâm đường Điện Biên Phủ”
  • An Ninh Hải Phòng :“Cướp Giật Có Súng trên phố Điện Biên Phủ”
  • An Ninh Thủ Đô : “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh”
  • Người Đưa Tin : “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng”
  • An Ninh Thủ Đô : “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh”
  • VietNamNet :“Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ”
  • An Ninh Thủ Đô :“Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng”
  • Người Lao Động : “Xe Buýt Lại Tông Người Trên Đường Lê Duẩn”
  • Lao Động : “Xuất Hiện Hố Tử Thần Trên Đường Trần Quốc Hoàn”
  • Dân Trí : “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh”

Đọc mà ớn chè đậu. Biết còn chỗ nào “xứng tầm” với ông Đại Tướng Điện Biên đây, hả Trời? Thôi thì đành chọn đường Điện Biên Phủ, thuộc phường Đa Kao, Sài Gòn – nơi cắt băng khánh thành khai mạc quán ăn McDonald’s đầu tiên ở Việt Nam. Nó không những đắc địa mà còn mang nhiều ý nghĩa lịch sử lớn nữa.

Tập đoàn hàng ăn McDonald’s giữa thành phố H.C.M quang vinh, nằm trên một con đường mang tên V.N.G, sẽ nhắc nhở mọi người không bao giờ quên được máu xương của hàng triệu binh sĩ (dưới quyền) mà Đại Tướng đã “hy sinh” cho công cuộc cuộc chống đế quốc Mỹ xâm lược vừa qua.

Theo Báo Mới ghi nhận (và in đậm) như sau:

“Giá một chiếc burger cỡ lớn làm nên thương hiệu của McDonald’s có tên là Big Mac sẽ có giá 85.000 đồng. Mức giá này tương đương với gần 4 USD, thấp hơn so với tại Mỹ tuy nhiên lại cao hơn so với nhiều nước trong khu vực như Singapore, Indonesia, Philippines hay Malaysia.”

Em bé Điện Biên, hôm nay, chắc phải mò cua bắt ốc nguyên tháng mới đủ tiền để mua một cái Bic Mac của McDonald’s. Thảo nào mà giữa kèn trống trong “quốc tang” dành cho Đại Tướng, vẫn xen lẫn những tiếng đời dị nghị: “Năm triệu người thiệt mạng để Ông khai sinh ra một chính quyền. Nhưng chính quyền của Ông lại tồi tệ hơn những chính quyền mà Ông đã khai tử.” 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trường Chinh

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

26/09/2024

Tôi tình cờ đọc được một bài viết thú vị (“Kiêu Ngạo Nhận Vơ”) của blogger Hà Hiển, với câu kết khá bất ngờ:

“Từ năm 1954 đến 1975, đúng là ‘ta’ đã chiến thắng được ‘hai đế quốc to’ cùng với được hơn chục nước trên thế giới đã đi theo con đường mà Lê nin đã chọn, tức theo CNCS, từ đó các Cụ nhà mềnh thấy CNCS ‘oách’ quá, cứ đà này cả thế giới gần 200 nước sẽ theo CNCS hết sạch, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin sẽ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác rồi tiến lên giải phóng cả Hoa Kỳ, Ý, Đức, Anh, Pháp …abc… thoát khỏi ách bóc lột của CNTB …hu hu…!!!

Từ những nguyên nhân trên các Cụ lớn nhà mềnh mới sinh ra thói ‘Kiêu ngạo cộng sản’ tuy không tốt nhưng có cái để …kiêu ngạo, nhưng các cụ nối ngôi sau này chẳng có cái gì lận lưng để mà ‘kiêu ngạo’ cả. Chỉ là ăn theo thôi! Nên đúng là… ‘kiêu ngạo vì những cái không phải của mình’ hay còn gọi là ‘kiêu ngạo cộng sản!’ Sau Cụ Trường Chinh, nếu có thì chỉ là ‘kiêu ngạo nhận vơ!’ mà thôi!”

Nhận xét thượng dẫn về “Cụ Trường Chinh” khiến tôi chợt nhớ đến công trình biên soạn rất công phu (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Tác giả đã dành nguyên một chương (chương 10, tập I) cho ông Trường Chinh, nhân vật được coi là đã đặt nền móng cho chính sách “đổi mới” và được mô tả như một vị thánh tử vì đạo:

“Trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của mình.”

Cách nhìn của những người ngoại đạo, hay đã bỏ đạo (cộng sản) lại hoàn toàn khác.

– Nguyễn Minh Cần:

“Sau khi Lê Duẩn chết, Trường Chinh lên làm TBT. Ông vốn là một ‘lãnh tụ’ nổi tiếng ‘giáo điều.’ Ngay cái biệt hiệu của ông cũng nói lên đầu óc sùng bái họ Mao… Cũng trên cương vị TBTĐCSVN, hồi những năm 50, Trường Chinh đã lãnh đạo cuộc cải cách ruộng đất CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức (CĐTC) Ở NÔNG THÔN MIỀN Bắc rập khuôn theo hình mẫu trung quốc đã đem lại vô vàn tai hoạ cho nhân dân.” (Nguyễn Minh Cần. Đảng Cộng Sản Việt Nam. Arlington, VA: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2016).

– Vũ Thư Hiên:

“Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp của Roger Garaudy. Ðọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh. Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville.

Tiếp đó là sự phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông, trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay …” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. 2sd ed. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1997).

Riêng trong lãnh vực thi ca thì Trường Chinh hoàn toàn không bị tai tiếng gì ráo trọi. Ông sáng tác mình ên, không “mượn” câu chữ nào – nửa chữ cũng không – bất kể là của Tây hoặc của Tầu. Thơ của Trường Chinh, với bút hiệu Sóng Hồng, chỉ có chút khuynh hướng (và hơi hướng) Mạc Tư Khoa thôi:

Hỡi thi sĩ! Hãy vươn mình đứng dậy!
Thời rượu nồng, đệm gấm đã qua rồi.
Thôi thôi đừng khóc gió với than mây,
Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ.
Dùng thi khúc mà lạnh lùng soi tỏ
Những bệnh căn xã hội đã tràn đầy;
Cùng công nông vun xới cuộc tương lai
Ðã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ.

(Ngoại thành Hà Nội, tháng 6-1942)

Hơn 40 năm sau, sau khi kêu gọi giới thi sĩ “cùng công nông vun xới cuộc tương lai,” đến năm 1986 (vào lúc cuối đời, chả hiểu sao) bỗng Anh Cả Trường Chinh đổi ý:

“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày.

Trường Chinh cau mày khó tin – bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế – nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Tiếc rằng ông không “tỉnh” được lâu. Chỉ hai năm sau, năm 1988, Trường Chinh đột ngột từ trần. Thôi thế cũng xong. Cuối cùng, rồi ông cũng thoát. Thoát khỏi cái XHCN do chính ông đã dụng công xây đắp nhưng giai cấp công nhân thì không. Họ kẹt: kẹt lớn, kẹt lắm, và (chắc chắn) sẽ kẹt luôn – nếu chế độ hiện hành vẫn tiếp tục tồn tại.

Báo Vietnamnet ái ngại cho hay: “Lương tối thiểu mới đáp ứng hơn 1/3 nhu cầu tối thiểu.” Và đó là mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, chớ giới công nhân thì còn tệ hơn thế nữa!

Thế họ sống làm sao?

Thưa họ “ăn thịt mình để sống” – như nguyên văn lời Phó Viện Trưởng Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, PGS-TS Lê Bạch Mai:

“Những khảo sát của viện năm đó cho thấy chất lượng bữa ăn của công nhân không khác gì hai chữ “tồi tệ” khi trong khẩu phần ăn chỉ có 12% protein (chất đạm), 16% chất béo…

“Khi năng lượng khẩu phần ăn không đủ thì (cơ thể) phải sử dụng nguồn năng lượng dự trữ của mình. Khi đó khối cơ của người lao động bị bào mòn, bị lấy đi hằng ngày… và họ rơi vào thực trạng ‘như ăn thịt mình …’ Họ chưa chết đói. Nhưng sẽ đói đến lúc chết”.

Bản thân ông Trường Chinh (đôi khi) cũng đói, theo như lời của trưởng nam Đặng Xuân Kỳ – nguyên Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương:

“Ông cụ tôi ra ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (T. Đĩnh, trang 208).

Chung cuộc, may thay, ông Trường Chinh cũng đã cứu được chính mình. Ông qua đời vì tai nạn chứ không phải vì bị đầu độc – như rất nhiều đồng chí khác.

Nghĩa tử là nghĩa tận. Tôi đang không rảnh (lắm) và cũng chả thấy có chút hứng thú gì khi phải đụng chạm gì đến một người… đã chết. Vấn đề, chả qua, vì chẳng đặng đừng – như “lời trăng trối” của triết gia (ngoại đạo) Trần Đức Thảo:

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, để vĩnh viễn không cho phép nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy.

Nạn cộng sản sẽ chắc chắn sẽ qua. Chúng ta khó mà có thể tái thiết đất nước và xây dựng một tương lai ổn định nếu không nhìn cho thật rõ về quá khứ.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Đoàn Tầu Vét

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

23/09/2024

Khi được hỏi “âm thanh của hai chữ hoà bình gợi lên điều gì cho ông,” nhà thơ Viên Linh đã trả lời rằng:

Tiếng máy xình xịch của xe hoả, khói phun trắng xoá đường rầy, để tôi có thể làm như Tản Đà, chán Sài gòn thì nhẩy tầu ra Hà Nội. Chán Hà Nội thì nhẩy tàu vô Nam. Và dừng lại chiếc ga xép nơi tôi đã ra đời, đã chơi đùa với con tầu sắt suốt thời niên thiếu: ga Đồng Văn” (Nguyễn Nam Anh. “Đi Xa Với Viên Linh.” Văn Mar. 1972).

Thuở ấy, thi sĩ của chúng ta còn trẻ – rất trẻ, rất đỏm dáng (trong cách ăn mặc, cũng như ăn nói) và cũng rất ngây thơ về thời cuộc. Sự ngây thơ của ông, công tâm và khách quan mà nói, chính là nét dễ thương (chung) của rất nhiều người dân sống ở miền Nam – vào thời điểm đó.

Trước đó không lâu, Trịnh Công Sơn cũng đã mường tượng ra một viễn ảnh thanh bình (làm say đắm lòng nguời) một cách hồn nhiên và… thơ ngây không kém: “Một đoàn tầu đi nhả khói ấm hai bên rừng …”

Gần nửa thế kỷ sau, sau khi đất nước hoà bình và thống nhất, trong một bức thư ngỏ của Tiến sĩ  Trần Đình Bá gởi cho ông Nguyễn Hữu Bằng (Tổng Giám Đốc Công Ty Đường Sắt VN) có đoạn như sau:

“Đường sắt Việt Nam (ĐSVN) tụt hậu hơn thời nô lệ (trước 1945)… Có trực tiếp đi lại bằng đường sắt mới thấy hết cảnh nhếch nhác, tệ hại, khủng khiếp của tình trạng ĐSVN hiện nay. Nào là chỗ ngồi chật như nêm, bán hàng rong lên xuống toa tàu như đi giữa chợ, bán hàng ăn uống trên tàu quá dở, giá cắt cổ, khách hàng đứng nằm la liệt trên toa, xe bán hàng của tàu kéo qua, kéo lại không biết bao nhiêu lần trong một ngày, tình trạng say xỉn, đánh bài ngay trên toa tàu thường xuyên diễn ra, thái độ phục vụ đanh đá, vô văn hóa của nhân viên trên tàu, … và rất nhiều những hình ảnh xấu trên các đoàn tàu mà ai cũng có thể nhìn thấy”.

Qua một bài viết khác (“Tại Sao Trẻ Con Ném Đá Lên Tầu”) độc giả còn được biết thêm nhiều chi tiết rất lạ lùng, và ngại ngùng, khác nữa khiến không ít người vỡ mộng về những “đoàn tầu thống nhất” của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn.

Tầu hoả Việt Nam trông đã không mấy hiện đại, lại còn bị bọc lưới thép ở các ô cửa sổ trông chẳng khác nào những nhà tù di động. Mà bọc lưới thép, thì bọn trẻ con không ném đá nữa, chúng ném thứ khác có thể lọt qua lớp lưới, như bùn, nước bẩn, thậm chí cả phân người.”

Qua khảo sát, người ta vỡ lẽ ra rằng nạn ném đá lên tầu không phải là trò đùa vô bổ của đám trẻ con vô ý thức. Đó là những hành động có ý thức, trả đũa việc tầu hoả gây ra tai nạn làm thiệt hại về người và của, trả đũa những hành động khách đi tầu vứt rác và chất thải xuống hai bên đường, trả đũa việc tầu hoả gây ra tiếng ồn và làm ô nhiễm môi trường…

Như thể để trả lời cho công luận (nói chung), trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo chí, Tổng Giám Đốc Công Ty Đường Sắt VN, ông Nguyễn Hữu Bằng tuyên bố: “Chúng tôi luôn xác định phải đi tắt đón đầu, phải làm một tuyến đường sắt hiện đại ngang bằng thế giới.

Nói cách khác, theo như ông Bằng thì cứ bỏ mẹ nó mấy đoạn đường sắt cổ lỗ sĩ (cùng với mấy chuyện phiền phức, lặt vặt đi kèm – đại loại như thái độ phục vụ đanh đá và vô văn hóa của nhân viên, chỗ ngồi chật như nêm, bán hàng rong lên xuống toa tàu như đi giữa chợ, tình trạng say xỉn, đánh bài ngay trên toa, hoặc chuyện trẻ con ném đất đá và cứt đái lên tàu) qua một bên để “đi tắt đón đầu, làm một tuyến đường sắt hiện đại ngang bằng thế giới” – cho nó khỏi nhức đầu và… tiện việc sổ sách.

Khỏe!

Đề xuất này của ông Nguyễn Hữu Bằng tuy không được Quốc Hội chấp thuận nhưng lại được sự đồng tình và nhất trí (cao) của mọi giới quan chức, ở Việt Nam – theo thông tin của Báo Pháp Luật :

“Dự án đường sắt cao tốc Hà Nội-TP.HCM (ĐSCT Bắc-Nam) đã được trình tại kỳ họp thứ bảy QH khóa XII nhưng không được QH thông qua do lo ngại về tính hiệu quả cũng như làm tăng gánh nặng nợ nần cho quốc gia… Tuy nhiên, mới đây, Bộ Giao thông Vận tải, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã khởi động lại dự án trên.”

Cái “tuy nhiên” ngang xương (và ngang hông) này được ông Tổng giám đốc Công ty tư vấn Đầu tư và Xây dựng (đơn vị lập dự án thuộc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam) giải thích với báo giới rằng “Quốc Hội không thông qua chứ không phải bác.”

Miệng người sang, rõ ràng, có gang có thép! Q.H có thông qua hay không chỉ là chuyện nhỏ, nếu chưa muốn nói là … đồ bỏ!

Còn mối bận tâm về ngân khoản, nợ nần để thực hiện dự án thì đã được (nguyên) Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng – một người sang khác, và sang hơn nhiều – trình bầy chi li, rành mạch, cặn kẽ, và rốt ráo tự lâu rồi :

“Với đà tăng trưởng hiện nay, đến 2020, GDP sẽ đạt gần 300 tỷ USD; 2030 là 700 tỷ USD; 2040 đạt 1.200-1.400 tỷ USD và đến 2050 sẽ gấp đôi số đó. GDP bình quân đầu người đến 2050 dự kiến lên 20.000 USD, thay vì mức hơn 1.000 USD hiện nay. Nếu cứ lấy ngưỡng an toàn vay nợ là 50% GDP, đến 2020, Việt Nam có thể vay 150 tỷ mà vẫn an toàn… Với mức vay nợ như vậy, chúng ta có thể làm được… Tôi yên tâm. Yên tâm rằng phải làm… “

Theo như cách tính toán của ông Hùng thì Việt Nam hội đủ điều kiện để có thể vay tiền làm (đến) hai Dự án ĐSCT Bắc/Nam, nếu thích, chứ đâu phải một. Tôi còn nghe có người bàn rằng: “Cứ làm luôn cả hai để chạy song song cho nó thêm phần nhộn nhịp, và khiến cho đám trẻ con quê mùa – sống hai bên đường – bị rơi vào tình trạng phân tâm, không biết ném đá vào đâu nữa.”

Tất nhiên, đó chỉ là một cách nói vui chứ vấn đề này đã được ông Nguyễn Đạt Tường, Phó Tổng giám đốc Tổng Cty Đường sắt Việt Nam, đặt ra và giải quyết ổn thoả rồi. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Pháp Luật & Xã Hội, ông hân hoan và lạc quan tuyên bố: “Tránh đầu tư không có tầm nhìn… Còn đối với tình trạng trẻ ném đá lên tầu, tôi tin 15 năm nữa dân trí của chúng ta sẽ khác.”

Tầm nhìn của ông Phó Thủ Tướng, và Phó Tổng giám đốc Tổng Cty Đường sắt – rõ ràng – hơi xa (quá) nên khiến nhiều người e ngại và ái ngại! Tác giả Nguyễn Quang Thân lên tiếng, khuyên can đừng đánh cược tương lai:

“Chúng ta coi kiến nghị của nhiều trí thức và nhân sĩ là nghiêm túc và có trách nhiệm, cần được xem xét cũng với tinh thần tương xứng. Bởi vì đây không còn là chuyện lời lỗ một dự án. Đây là sự tồn vong của đất nước và con em chúng ta, không từ một ai, mai sau.”

Nhận định dè dặt của ông Nguyễn Quang Thân, tiếc thay, không phù hợp với đường lối và chủ trương truyền thống (đi tắt đón đầu) của những người Cộng Sản Việt Nam. Gần hai phần ba thế kỷ qua, họ vẫn mang tương lai của cả dân tộc này ra đánh cược đều đều. Lần nào họ cũng thắng và nhân dân thì luôn luôn đại bại. 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Buồn

Viet Ba’o

31/05/2024

Người Việt rất hay buồn. Họ buồn đủ chuyện, đủ thứ, đủ cách, đủ kiểu, đủ loại và buồn dài dài: buồn chồng, buồn vợ, buồn con, buồn chuyện gia đình, buồn chuyện nước non, buồn chuyện tình duyên, buồn trong kỷ niệm, buồn tình đời, buồn nhân tình thế thái, buồn thế sự đảo điên, buồn tàn thu, buồn tàn canh gió lạnh …  Đó là chưa kể những nỗi buồn buồn lãng xẹt: buồn trông con nhện giăng tơ, buồn trông cửa bể chiều hôm, buồn trông nội cỏ rầu rầu, buồn trông con nước mới sa …

Lúc nào và ở đâu dân Việt cũng đều có thể buồn được cả (ngoại ô buồn, thành phố buồn, đô thị buồn) và họ luôn luôn buồn quá mạng, buồn dữ dội, buồn thê thảm, buồn da diết, buồn thảm thiết, buồn tê tái, buồn miên man, buồn mênh mông, buồn man mác, buồn nát tâm tư, buồn rười rượi, buồn nẫu ruột, buồn muốn chết, buồn muốn khóc, buồn thấy mẹ, buồn tận mạng, buồn quá xá, buồn quá trời, buồn thỉu buồn thiu, buồn hết biết luôn …

Nói tóm lại là người Việt buồn muôn thuở, buồn quanh năm, buồn suốt tháng, bất kể ngày đêm: ngày buồn tênh, đêm buồn tỉnh lẻ, khuya phố thị buồn, chiều chủ nhật (cũng) buồn … Toàn là những nỗi buồn ngang, buồn bất chợt, buồn vô cớ, buồn vào hồn không tên, buồn mà không hiểu vì sao mình buồn nhưng họ đều buồn thiệt và buồn lắm lận.

Chỉ có nỗi buồn về mùa màng thời tiết thì dân Việt mới nêu rõ nguyên do và ghi khá rõ – từ lâu – qua những câu lục bát rất nhịp nhàng, và khá điệu đàng:

Buồn về một nỗi tháng giêng
Con chim, cái cú, nằm nghiêng thở dài
Buồn về một nỗi tháng hai
Đêm ngắn, ngày dài, thua thiệt người ta
Buồn về một nỗi tháng ba
Mưa rầu, nắng lửa, người ta lừ đừ
Buồn về một nỗi tháng tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn về một nỗi tháng năm
Chửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêu

Riêng tôi thì vì đã quá già (có ngủ nghê gì được mấy đâu) nên đêm dài lắm. Nghe tiếng “gà gáy, chim kêu” còn mừng là đằng khác. Bởi thế, tôi chả hề phiền hà gì “về nỗi tháng năm”. Có buồn chăng – chả qua – chỉ vì chút dư âm của tháng tư (thôi) nhưng cứ buồn hoài và buồn quá.

Ngoài chút phiền lòng vì “nắng lửa, lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn”, tôi còn buồn lòng không ít vì cả nước chợt ồn ào và náo nhiệt một cách giả tạo và gượng gạo. Khắp nơi bỗng đều đỏ rực một mầu, ngó mà ớn chè đậu:

–         Rực rỡ cờ hoa chào mừng 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam

–         Họp mặt kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

–         Treo cờ và khẩu hiệu tuyên truyền kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước

–         Giao lưu văn nghệ chào mừng kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước

–         Triển lãm ảnh kỷ niệm 49 năm ngày giải phóng miền Nam  

–         Sôi nổi hoạt động chào mừng Kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước   

Thiên hạ, xem ra, không được “sôi nổi” gì cho lắm:

–         Thái Hạo: “Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau’ còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen”.

–         Nguyên Tống: “Cùng là anh em nòi giống Việt, đánh nhau đến tan cửa nát nhà rồi ăn mừng mãi cái ngày đó thì làm sao mà hoà giải dân tộc được?!”

–         Nguyễn Hữu Vinh: “Quan sát hiện tượng này, người ta có cảm giác rằng đảng giống như một con nghiện. Nhân tố gây nghiện ở đây là bạo lực, là hình ảnh của sự tàn bạo, sự giết chóc để thỏa mãn bản chất bạo lực của Đảng của Giai cấp vô sản chuyên nghề lật đổ và cướp từ chính quyền cho đến lợi ích, tài sản.”

–         Nguyễn Thông: “Kiểu kỷ niệm, diễu hành, phô trương như này, xưa chỉ thấy ở đám phát xít Đức, về sau rõ nhất ở Triều Tiên … Hãy sống với thế giới văn minh chứ đừng mãi man rợ cờ phướn như thế.”

–         Phạm Quang Trung“Anh em đánh nhau một trận rồi thôi, cười khì…đàng này đã 50 năm rồi mà vẫn tiệc tùng ăn mừng chiến thắng! Vậy là sao ta!?”

Câu hỏi thượng dẫn khiến tôi nhớ đến chuyến viếng thăm tiểu bang Hawaii của TT Nhật bản Shinzo Abe, và bài diễn văn ông đọc vào ngày hôm sau (26 tháng 12 năm 2016) tại Trân Châu Cảng. Xin trích dẫn đôi đoạn, theo bản văn của dịch giả Nguyễn Quốc Vương:

Đấy là nơi tôi đã cúi đầu mặc niệm. Nơi đang khắc tên những người lính đã mất… Mỗi người lính đều có bố có mẹ lo lắng cho mình. Họ cũng có người vợ yêu thương và người yêu. Và có lẽ họ cũng có cả những đứa con mà họ đang háo hức với sự lớn lên từng ngày của chúng.

Tất cả những tâm tư ấy đã bị cắt đứt. Khi nghĩ đến sự thật nghiêm trọng ấy và cảm nhận sâu sắc nó, tôi đã không thể thốt nên lời. Hỡi những linh hồn, xin hãy ngủ yên! Tôi, với tư cách là đại diện cho quốc dân Nhật Bản đã thả hoa xuống biển nơi những người lính đang an nghỉ với cả tấm lòng thành…

Tôi, với tư cách là thủ tướng Nhật Bản, xin được gửi lời chia buồn chân thành mãi mãi tới linh hồn của những người đã bỏ mạng ở mảnh đất này, tới tất cả những người dũng cảm đã bỏ mạng bởi cuộc chiến tranh bắt đầu từ đây và cả linh hồn của vô số người dân vô tội đã trở thành nạn nhân của cuộc chiến tranh.

Tấn thảm kịch của chiến tranh sẽ không bao giờ được lặp lại.Chúng tôi đã thề như thế. Và rồi sau chiến tranh, chúng tôi đã xây dựng nên quốc gia tự do, dân chủ, tôn trọng pháp trị và duy trì lời thề bất chiến một cách chân thành.

Khi chiến tranh kết thúc, lúc Nhật Bản trở thành cánh đồng cháy trụi mênh mông và khổ sở trong tận cùng của nghèo đói, người đã không hề ngần ngại gửi đến thức ăn, quần áo là nước Mĩ và quốc dân Mĩ. Nhờ những tấm áo ấm và sữa mà quý vị gửi đến mà người Nhật đã giữ được sinh mệnh tới tương lai…

Và rồi nước Mĩ cũng đã mở cho Nhật Bản con đường trở lại cộng đồng quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của nước Mĩ, chúng tôi, với tư cách là một thành viên của thế giới tự do đã được hưởng thụ hòa bình và sự phồn vinh.

Tấm lòng khoan dung rộng lớn, sự giúp đỡ và thành ý như thế của quý vị đối với người Nhật chúng tôi, những người đã từng đối đầu quyết liệt như kẻ địch đã khắc sâu trong lòng ông bà, bố mẹ chúng tôi. Cả chúng tôi cũng sẽ ghi nhớ điều đó. Cả con cháu chúng tôi cũng sẽ kể mãi và không thể nào quên…

Đã 75 năm sau trận “Trân Châu cảng”. Nhật Bản và nước Mĩ, những nước đã tham dự cuộc chiến tranh tàn khốc trong lịch sử, đã trở thành hai nước đồng minh gắn bó với nhau mạnh mẽ và sâu sắc hiếm có trong lịch sử…  Thứ gắn kết chúng ta chính là “sức mạnh của hòa giải”, the power of reconciliation, thứ do lòng khoan dung mang lại.

Người Nhật và người Mỹ không đợi đến ngày nay mới quyết định “bỏ đi sự thù hận và nuôi dưỡng tình bạn”. Ngay sau khi Thế Chiến Thứ II vừa chấm dứt, họ (kẻ thắng/người thua) đã nắm tay nhau để tạo nên “sức mạnh của tinh thần hòa giải” và sự “khoan dung” gần trăm năm nay.

Chiến tranh VN cũng đã chấm dứt 49 năm (rồi) nhưng không biết đến bao giờ thì Bên Thắng Cuộc ở đất nước này mới thôi việc đình đám/cờ xí/tiệc tùng ăn mừng chiến thắng, thôi kỳ thị, và thôi kích động hận thù để hòa giải và hòa hợp với Bên Bại Cuộc?

Trương Nhân Tuấn trả lời: “Tôi có thể kết luận (mà không sợ sai lầm) rằng đảng và nhà nước CSVN chưa bao giờ có chủ trương về hòa giải (hay HG&HH DT). Hòa giải-réconciliation” là hành vi chỉ có ở những dân tộc văn minh”.

Nghe thế có buồn không?

Buồn chớ và buồn muốn khóc luôn, buồn như chưa bao giờ buồn thế, buồn như không còn ai có thể buồn hơn được nữa. Buồn từ ngã bẩy, ngã ba buồn về.

Tưởng Năng Tiến


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Bứt Phá & Đột Phá

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

19/09/2024

Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ : “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”

Ông Phúc, may thay, đã rời khỏi chính trường. Điều không may là vị thủ tướng đương nhiệm cũng đang làm cho nhiều người bất an (không ít) vì những câu phát ngôn cũng ly kỳ không kém:

Blogger Trân Văn (VOA) nhận xét:

“Nếu ông Nguyễn Xuân Phúc – tiền nhiệm của ông Chính – thường xuyên khuyến khích các ngành, các địa phương trở thành… ‘đầu tàu’ … ông Chính – nhân vật kế nhiệm – lại rất yêu… ‘đột phá’. Không chỉ động viên các ngành, các địa phương… ‘đột phá’, ông Chính còn khuyên các doanh nghiệp ngoại quốc đầu tư vào Việt Nam (FDI) tham gia ‘đột phá’ nếu muốn phát triển. Thậm chí ông Chính còn đề nghị những quốc gia khác nên cùng Việt Nam… ‘đột phá”!

Tôi e là tác giả đoạn văn thượng dẫn có hơi quá lời khi khẳng định rằng Phạm Minh Chính “rất yêu đột phá”! Nói nào ngay, cả nước (tất cả mọi địa phương, ngành nghề, ban bệ, đoàn thể, tổ chức, quan chức …) đều bứt phá rầm rầm và đột phá lia chia chứ đâu có riêng chi ông thủ tướng.

 

Tuy thường xuyên “bứt phá” và “đột phá” nhưng nước Việt nhất định không nhúc nhích, hay nói cho chính xác hơn là “không chịu phát” – theo như cách nói mỉa mai và giễu cợt của những chuyên gia Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF): “Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển”!

FB Nhân Thế Hoàng bàn thêm:

“Nguyên nhân chính được đưa ra cho tình trạng ‘không chịu phát triển’này là do tham nhũng, theo điều tra thì để kiếm 1 đồng lợi nhuận, doanh nghiệp cần phải bỏ 1,02 đồng tiền bôi trơn. Hiểu nôm na là bạn còng lưng thức khuya, dậy sớm để nấu tô bún bán chẳng hạn, bạn muốn lời 5000 đồng/1 tô thì bạn phải nộp hơn 5000 đồng cho cha dân phòng nằm vắt dái ngủ khi không làm gì cả, nó chỉ có cái quyền duy nhất là quản lý cái vỉa hè bạn đang bán bún mà thôi.

Đây cũng là lý do mà quy mô doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhỏ, so với 10 năm trước đây thì quy mô của doanh nghiệp Việt Nam hiện tại đã giảm chỉ còn một nửa. Đó, làm kinh tế kiểu ngược đời như vậy thì bảo sao Việt Nam không mãi nghèo nàn, lạc hậu, ăn rồi xách cái bát lân lê các nước để ăn xin cho được”.

Thảo nào mà không ít lời ta thán:

  • Nguyễn Đình Bin: “Tình hình Đảng và đất nước vẫn đã và đang tiếp tục diễn biến ngày càng tồi tệ, tới mức báo động thực sự nghiêm trọng, chưa từng xảy ra bao giờ” .
  • Đoàn Bảo Châu: “Các tập đoàn nhà nước thua lỗ bao nhiêu nghìn tỷ đồng, thay vì thành những nắm đấm thép thì biến thành những móng thép cào cấu vào ngân sách. Về những công nghệ cả thế giới đang nhau lên để làm chủ như máy tính lượng tử, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học… thì mù tịt nhưng cứ thích ba hoa kiểu bà cán bộ nói sẽ áp dụng AI vào loa phường.

Về chủ quyền, rõ ràng mình đang khai thác dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, thằng hàng xóm nó ho một cái, lập tức phải co vòi, dừng hoạt động, đền bù cho đối tác nước ngoài.

Về những giá trị phổ quát của nhân loại như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, nhân quyền thì lẹt đẹt cuối bảng. Hiền lành như những nhà hoạt động môi trường mà còn bị bắt tới 6 người, giờ không còn tổ chức dân sự nào để giám sát cam kết của Việt Nam về chuyển đổi năng lượng với quốc tế…”

  • Nguyễn Văn Lục: “Trên trời không còn tiếng chim bay, cá dưới nước không có chỗ lội. Thú rừng cạn kiệt. Rừng môi sinh bị khai phá, hủy diệt. Con người Việt Nam hôm nay ra sao. Đó là một cuộc cạnh tranh sinh tồn như thời nguyên sơ để sống còn”.
  • Song Phan: “Chưa có giai đoạn lịch sử nào của Việt Nam mà người dân phải đi làm mướn khắp nơi trên thế giới, thậm chí phải trốn chui, trốn nhũi trong container ngột ngạt, lạnh giá để có chỗ làm mướn ở nước ngoài; gái VN phải chịu nhục trần truồng để người nước ngoài lựa làm vợ…”

Đã đến non nước này rồi nên T.S Mạc Văn Trang đành chơi bài ngửa, khỏi xa gần/úp mở gì nữa ráo: “Quên mẹ nó mấy cái Mác Lê, đuôi XHCN đi, không lướng vướng vào mấy cái đó sẽ tư duy thực tiễn, bứt phá được”. Đúng thế. Cứ chui đầu vào cái rọ cộng sản rồi lại loay hoay hết “bứt phá” đến “đột phá” thì có khác chi là “múa tay trong bị”.

Vấn đề, tuy thế, rất không giản dị vì VN là một quốc gia Đảng trị mà lòng dân và ý Đảng lại hoàn toàn trái ngược. FB Võ Xuân Sơn cay đắng:

“Chúng tôi, người dân Việt nam, đâu có ai muốn cái mô hình ‘đặc biệt nhất thế giới’, mô hình không chịu phát triển. Nhưng họ, những kẻ không muốn đất nước này phát triển, những kẻ chỉ muốn trục lợi cá nhân, làm giàu cho cá nhân mình, cho gia đình mình bằng cách ăn cắp tiền của dân, đục khoét ngân sách, vắt cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, làm mất khả năng phát triển của cả nền kinh tế nước nhà, chỉ có những kẻ đó là muốn duy trì cái mô hình quái gở như vậy mà thôi”.

Vậy thì đâu còn lựa chọn nào khác là phải lật đổ “họ” thôi. Nếu không thì cả dân tộc này có thể sẽ bị nguy cơ bị diệt vong, chớ mong chi đến chuyện phát triển mà nói chuyện “bứt phá” (hay “đột phá”) làm chi – cho má nó khi!