Niềm hạnh phúc

Niềm hạnh phúc

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:53 Sáng 20/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (20.02.2013) – Sài Gòn – Hạnh phúc là gì? Chắc hẳn chẳng ai có một định nghĩa chính xác nhất. Người thì cho thế này là hạnh phúc, người thì cho thế kia là hạnh phúc, người lại cho thế nọ là hạnh phúc. Chẳng ai giống ai, mỗi người đều có quan niệm và cách sống khác nhau!

Có chuyện kể thế này: Người nọ nghe nói có một đạo sư nổi tiếng nên tìm đến hỏi về đạo. Đến nơi, anh thấy trong nhà của vị đạo sư trống trơn, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cuốn sách.

Anh ngạc nhiên hỏi: “Sao nhà đạo sư trống trơn, không có đồ đạc gì cả?”. Đạo sư hỏi lại: “Thế anh có hành lý gì không?”. Anh đáp: “Dạ, có một va-li”. Đạo sư hỏi: “Sao anh có ít đồ vậy?”. Anh đáp: “Vì đi du lịch nên đem ít đồ”. Đạo sư nói: “Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều”.

Một câu nói đầy triết-lý-sống. Chúng ta thường quên rằng mình cũng chỉ là “khách du lịch qua cuộc đời này” – lữ khách trần gian, nhưng lại lầm tưởng mình sẽ ở mãi nơi đây, nên tham lam, ôm đồm, tích trữ quá nhiều đồ vật, tài sản. Đàn bà lo tích trữ đủ loại quần áo, giầy dép, vòng vàng, nữ trang,… Đàn ông lo thu gom đủ thứ máy móc, xe cộ, ti-vi, điện thoại,…

Ở đời, người ta thường cho hạnh phúc là có được cái này hoặc cái kia như nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con ngoan, tài sản, địa vị, chức quyền,…  Thế nên khi chưa có thì người ta muốn có, làm đủ mọi cách để chiếm hữu; có rồi thì người ta sợ mất hoặc xem thường, rồi lại muốn có cái khác “ngon” hơn, nếu không thỏa mãn thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở,… Người ta không bằng lòng với hiện tại, đúng như tục ngữ nói: “Đứng núi này trông núi nọ”.

Cuộc sống thật nhiêu khê và nan giải! Ngược lại, người biết tu thân thì thấy “không có” là niềm hạnh phúc. “Không có” ở đây là do trí tuệ quán chiếu, thấy mọi sự phiền toái đều do ham muốn mà ra. Bởi thế người tu thân không muốn có, nếu đã có rồi thì tập xả ly – nghĩa là đừng “bận lòng” tới nó. Tại sao? Vì những thứ “có” trên thế gian này đều là ràng buộc!

GIAO ƯỚC ĐỂ LÀM GÌ ?

Đức Chúa đưa ông Áp-ram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5). Nghe vậy, ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính. Bất cứ ai thành tâm và tuyệt đối tin kính Thiên Chúa đều được kể là công chính. Rồi Ngài phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu” (St 15:7). Ông liền thưa: “Lạy Đức Chúa, Đức Chúa làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (St 15:8). Ngài phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non” (St 15:9).

Và rồi ông kiếm cho Ngài tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. Sau đó, mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông. Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Những hình ảnh đó cho biết là Thiên Chúa đã nhận lễ vật. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát” (St 15:18).

Giao ước dành cho Tổ phụ Áp-ra-ham cũng là Giao ước dành cho Dân Chúa, tức là chúng ta, vì Thiên Chúa là Chân Lý, là Ánh Sáng, là Điều Thiện, Ngài chỉ có muốn và làm Điều Tốt Lành. Tác giả Thánh vịnh đã vinh hạnh và tin tưởng cất tiếng ca tụng: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1), đồng thời cũng kêu xin và tự khuyến cáo: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: Hãy tìm kiếm Thánh Nhan” (Tv 27:7-8a). Ngài mong muốn chúng ta hoàn thiện (x. Mt 5:48), nhưng Ngài biết chúng ta rất khó hoàn thiện, và Ngài muốn ít ra chúng ta phải biết muốn thực sự hướng thiện. Goethe nhận định: “Toàn thiện là luật của Trời, hướng thiện là lối của người”. Dù chưa hoàn thiện nhưng chúng ta phải biết khao khát sự thiện.

Ngài im lặng, không phải Ngài thử thách chúng ta, vì Ngài biết chúng ta thế nào nên Ngài không cần thử thách, mà Ngài chỉ muốn chúng ta nhận biết mình bất túc và bất trác, nhận biết mình bất lực mà thành tâm và kiên trì cầu nguyện: “Lạy Chúa, con tìm Thánh Nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con” (Tv 27:8b-9). Được Thiên Chúa thực hiện lời hứa thì chúng ta phải biết tạ ơn thật lòng. Đó cũng là niềm hạnh phúc!

Tác giả Thánh vịnh cho biết: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27:13). Đức Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết. Đã hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, nên tác giả Thánh vịnh khuyến khích mỗi chúng ta: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa” (Tv 27:14). Ai biết trông cậy, tin tưởng và yêu mến Chúa thì thật là hạnh phúc!

GIAO ƯỚC ĐỂ NHÂN LOẠI HẠNH PHÚC

Cũng vậy, Thánh Phaolô đã dày kinh nghiệm cả về “bước lầm lạc” lẫn “bước đức tin” nên ngài chân thành tâm sự: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với Thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3:17-21). Thánh nhân nói thẳng thắn và rõ ràng, chẳng úp mở chi. Chỉ vì “cái bụng”, tức là “miếng ăn”, mà người ta có thể sát hại nhau không gớm tay!

Thánh Phaolô tiếp tục nhắn nhủ: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (Pl 4:1). Cầu nguyện liên lỉ là kết hợp với Chúa, đó là việc rất cần thiết đối với mọi người, mọi nơi và mọi lúc: Ăn với Chúa, chơi với Chúa, vui với Chúa, buồn với Chúa, cười với Chúa, khóc với Chúa, làm việc với Chúa, nghĩ với Chúa, viết với Chúa, nghỉ ngơi với Chúa, thư giãn với Chúa, ngủ với Chúa, thức với Chúa,… Như vậy mới là niềm hạnh phúc đích thực!

Trước đó, khi nói về “Triều đại Thiên Chúa gần đến”, Đức Giêsu kết luận: “Trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9:27). Khoảng tám ngày sau, Ngài lên núi cầu nguyện, có đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.

Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà. Bất ngờ có hai nhân vật đàm đạo với Ngài, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Ngài.

Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Ngài rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9:23). Nửa tỉnh nửa mê nhưng ngư phủ Phêrô vẫn thấy “ép-phê” vô cùng. Lạ mà hay. Lâng lâng thế nào ấy. Khó tả lắm! Ông vốn tính nóng như lửa, thẳng như ruột ngựa, có gì “phang” ngay, muốn gì thì làm cho bằng được. Nhưng nói xong rồi mà ông không biết mình nói gì, y như kẻ mộng du vậy. Dù sao thì ông cũng hạnh phúc vì có “cảm giác lạ”.

Ông còn đang nói, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Quái thật! Họ chả biết ất giáp gì ráo trọi. Rồi từ đám mây lại có tiếng phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9:35). “Choáng” thật! Tiếng phán vừa dứt, chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Lạ ghê! Sao thế nhỉ? Ba ông nín thinh, vừa vui mà vừa sợ, vừa thích mà cũng vừa lo. Thế là trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Đừng sống theo điều bạn mơ ước, hãy sống theo điều bạn có thể”. Mơ ước thì vô hạn, con người thì hữu hạn, vì thế mà đừng ảo tưởng, hãy thực tế với khả năng của mình, Thiên Chúa sẽ nâng đỡ và đồng hành với chúng ta. Và rồi chúng ta sẽ được hưởng niềm hạnh phúc đích thực như ba Tông đồ đã được “nếm” trước khi chết.

Lạy Thiên Chúa uy linh, xin giúp chúng con biết tìm kiếm những gì thuộc về Nước Trời, và xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm hạnh phúc ngọt ngào ngay giữa những đau khổ trần gian này. Xin cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

“Mẹo” Tha thứ

“Mẹo” Tha thứ

Trầm Thiên Thu
Cuộc sống thường nhật có bao điều bạn bực mình: Tiếng ồn, thất bại, lo sợ, bệnh tật, cơm áo gạo tiền, thời tiết, nỗi buồn, công việc, tình yêu gia đình, giao tiếp, xóm giềng, học hành, giao thông, thị trường, dịch bệnh… Bạn phải chịu đựng nhiều thứ. Để không cằn nhằn người khác và có thể chịu đựng sự khó tính của người khác, quả thật không dễ chút nào. Vậy làm sao có thể tự giải thoát mình?
Các bậc cha mẹ thường hay chỉ trích con cái. Các chủ nhân luôn trách mắng và nhìn công nhân của mình bằng con mắt xoi mói. Vợ chồng cũng thiếu tôn trọng nhau, ưa áp đặt và nghi ngờ nhau. Các mối quan hệ khác cũng gặp nhiều phức tạp. Họ làm mất lòng nhau bằng nhiều cách. Thậm chí có những vết thương lòng vẫn nhức nhối sau nhiều năm. Giữa chúng ta có nhiều dạng ác cảm, làm những điều ác cho nhau, nói xấu nhau đủ điều, thậm chí là trả thù nhau. Có người còn biết nghĩ lại, hối hận, nhưng có người không hề tỏ ra hối tiếc vì lương tâm đã chai lì.
Cách tốt nhất để thanh thản tâm hồn là luôn chống lại ý nghĩ trả thù, luôn tâm niệm ba chữ “Tôi Tha Thứ” (nguyên tắc 3T). Đó là biện pháp tuyệt vời có thể giúp bạn chịu đựng những gì làm bạn phiền lòng. Tha thứ có giá trị tuyệt đối trong cuộc sống.
Tha thứ không có nghĩa là đầu hàng, chịu thua, chịu lép vế, mà là “bỏ qua”, là CAO THƯỢNG. Robin Casarjian giải thích: “Khi tha thứ, bạn không còn lệ thuộc vào người đã làm bạn đau lòng”. Tha thứ kéo bạn ra khỏi sự giận dữ của người khác và cho phép bạn sống thanh thản.
Nêu sự tha thứ là điều tốt như vậy mà tại sao vẫn có nhiều người tích lũy cơn giận trong lòng? Đó là muốn trả thù để chứng tỏ mình không yếu thế. Chẳng qua là thua kém người khác nên mới hùng hổ lên cơn tức giận. Thế nhưng, chính sự tha thứ mới tạo nên sức mạnh thực sự, kiểu “mưa dầm thấm sâu”. Khi tha thứ, người ta cân nhắc kỹ lưỡng. Dù cho người kia có xứng đáng được tha thứ hay không thì vẫn không thành vấn đề, mà chỉ vì mình xứng đáng tự do. Đây còn là động thái cao thượng của một công tử. Chịu đựng để có thể tha thứ.
Một lý do khác mà chúng ta có thể từ chối tha thứ là cảm thấy bạc nhược hoặc quy phục. Có người cho rằng tha thứ là nhận mình sai và người kia đúng. Nhưng tha thứ không là miễn trừ cơn giận đổ lên người khác mà là “rút dao ra khỏi vết thương”. Tha thứ là “bỏ qua” các lỗi lầm mà người khác đã làm cho mình, nhưng phải “bỏ qua” với cả lòng tự trọng và tôn trọng – kèm theo lòng yêu thương chân thành.
Nhưng cũng có khi người khác không hề biết nỗi đau lòng của bạn mặc cho bạn phải âm thầm chịu đựng. Nếu biết tha thứ, bạn sẽ không phải khổ sở nữa. Tha thứ vẫn hữu ích cho các trường hợp như thất tình, bị hiểu lầm, bị ghen ghét,…
Tha thứ tốt cho cả thể lý lẫn tinh thần. Trong cuốn Anger Kills, tiến sĩ Reddford Williams viết: “Cứ nhớ mãi về nỗi đau quá khứ thì sức khỏe sẽ suy yếu. Đơn giản như nhớ mãi một chuyện bực mình thì bạn sẽ căng thẳng và tim bị ảnh hưởng”. Về tình yêu tan vỡ, đại văn hào R. Tagore nói: “Khôn ngoan gì mà đau khổ mãi vì một người đã mang trái tim họ đi xa!”. Các ý nghĩa tiêu cực cũng có liên quan tới cao huyết áp, động mạch vành và dễ bị chứng bệnh khác. Sống cởi mở và thanh thản có thể làm tăng hệ miễn nhiễm. Chỉ cần một giây để xúc phạm người khác, có khi gây tổn thương trầm trọng, nhưng sự tha thứ lại cần nhiều thời gian. Mới đầu, bạn cảm thấy các tình cảm tiêu cực như tức giận, buồn bã, và xấu hổ. Sau đó bạn biến chúng thành tích cực hoặc làm giảm dần “mức căng”. Đặc biệt là học cách nhìn người khác bằng ánh mắt khác trong sáng hơn. Người hại mình sẽ trở thành yếu thế, bị động, như ngồi trên đống lửa. Người Việt Nam có câu: “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”. Cổ nhân cũng đã minh định: “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu” (Ngậm máu phun người, trước tiên bẩn miệng mình). Chí lý lắm thay!
Có người lại không thể đạt tới chặng cuối của sự tha thứ. Đó là những người bị tổn thương từ thuở ấu thơ, bị sỉ nhục bởi chính những người mà họ yêu thương và tin tưởng – như bị lạm dụng tình dục, bị bạo hành thể lý hoặc tâm lý, bị cưỡng dâm, bị khinh miệt,… Dù không có sự tha thứ trọn vẹn, họ vẫn có lợi nhờ biết tha thứ một phần. Nếu cảm thấy khó tha thứ, hoặc muốn tha thứ mà không biết bắt đầu từ đâu, xin bạn hãy thử áp dụng 7 cách này:
1. Vi mô. Luyện tập tha thứ những lỗi nhỏ của người xa lạ – chẳng hạn bị tính gian mất vài ngàn đồng, bị “chơi gác” một chút… Dần dần, bạn sẽ có thể tha thứ những lỗi lớn hơn một cách dễ dàng hơn.
2. Giải thoát. Tự vượt qua nỗi thất vọng và kiềm chế cơn giận đối với người thân và bạn bè, hoặc những người mà mình tín cẩn. Nhờ vậy, bạn thấy “mạnh mẽ” hơn và rồi bạn cũng sẽ được nhận biết. Bạn vẫn có thể để tình cảm của mình tự do mà không hề giận dữ, không dùng ngôn ngữ hoặc ngữ điệu “khó nghe”, và bạn sẽ không phải hối tiếc về sau.
Phương pháp “hả giận” cũng có hiệu quả – như đấm vào gối bông, bỏ đi chỗ khác, những tuyệt đối không đập phá đồ đạc hoặc “đá mèo, khoèo rế”. Nếu không tức giận tột độ, bạn hãy đọc sách báo. Đừng “giận cá chém thớt” như phóng xe bạt mạng, chửi “đổng” (chửi cho hàng xóm nghe, cho trời đất nghe)… Đó là cách biểu lộ tiêu cực và “hạ cấp”, nên tránh!
3. Chứng minh. Nếu thực sự cần thiết, bạn hãy viết thư hoặc gởi email (nếu ở xa), hoặc gặp trực tiếp để tìm hiểu sự thật bằng cách nói ôn hòa và tích cực xây dựng, chứ không nguyền rủa hoặc chỉ trích “đối phương”. Chẳng hạn, “Tôi cảm thấy…” hoặc “Tôi không hiểu…”. Hãy diễn tả sự ảnh hưởng đối với bạn vì cách xử sự của người kia, đồng thời bày tỏ thiện chí “đàm phán” để có thể giải quyết vấn đề ổn thỏa, gọi là “dĩ hòa vi quý”.
4. Mặc nhiên. Đối với tội loạn luân, cưỡng dâm và các tội phạm khác, nạn nhân có thể tránh né tha thứ trực tiếp, vì việc gặp nhau để “đối chất” sẽ… không an toàn! Thật vậy, không cần “đối diện”. Đó là sự tha thứ mặc nhiên. Người được tha thứ có thể không nhận ra lỗi và không bao giờ biết mình được tha thứ. Ví như người say rượu không biết mình nói gì hoặc nghe gì. Điều quan trọng là bạn đừng để cho cơn giận dữ lộng hành, vì không ai ngu dại đến nỗi căng buồm ra khơi khi trời đang giông tố!
5. Lắng nghe. Nếu đối diện với người làm tổn thương mình, bạn hãy lắng nghe và chỉ nói về những gì bạn đã nghe. Làm như vậy, bạn sẽ bắt đầu có cách nhìn khác và dễ dàng tha thứ hơn. Im lặng và lắng nghe, đó là cửa mở rộng đưa bạn thanh thản bước vào vùng bình yên của sự tha thứ tuyệt vời.
6. Suy tư. “Nhân vô thập toàn”. Con người luôn bất túc và bất trác. Hãy đợi đến lúc lòng mình lắng xuống, chọn khung cảnh yên tĩnh và suy tư. Chắc chắn bạn sẽ đủ sáng suốt để có thể quyết định đúng đắn, không gì tốt hơn là yêu thương và tha thứ. Suy tư là cách hữu hiệu để nhận biết chính mình và thông cảm với những người xung quanh. Đừng bao giờ quên: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”.
7. Hướng thiện. Nhờ hướng tới Chân-Thiện-Mỹ và tương lai, bạn có thể sớm đạt tới “đích” tha thứ. Hai chị em tị nạnh nhau về việc chăm sóc người mẹ bệnh tật. Cô ở gần than phiền về gánh nặng vất vả và hàng ngày phải lo cơm nước và thuốc thang cho mẹ, đích thân làm đủ thứ. Cô ở xa chỉ gửi tiền về, lâu lâu mới đến thăm được. Cô ở gần thì bực tức và luôn gắt gỏng. Cô ở xa thì chỉ biết im lặng và bỏ qua tất cả để giữ tình chị em. Một câu nhịn, chín câu lành. Thời gian là bằng chứng hùng hồn nhất.
Sự hướng thiện sẽ dẫn tới sự tha thứ, và sự tha thứ dẫn tới sự bình an tâm hồn. Sidney Simon nói: “Sự tha thứ làm cho bạn cười nhiều, có thể cảm nhận sâu xa, và trở nên liên kết với người khác nhiều hơn”. Chính sự tha thứ là thần dược mau chữa lành vết thương lòng. Vả lại, chính lúc mình tha thứ là lúc mình được thứ tha.
Tuy nhiên, tưởng cũng nên xác định rằng “tha thứ không có nghĩa là quên”. Có lẽ hơi… “khó nghe” chăng? Không đâu. Chúng ta không thể quên nỗi đau hoặc điều thiệt hại, và cũng không nên quên, vì bị lừa lần một thì không do lỗi mình, nhưng bị lừa lần hai thì do lỗi mình. Chính những “kinh nghiệm đau lòng” đó dạy chúng ta đừng bị lừa thêm lần nữa – còn được gọi là “kinh nghiệm xương máu”. Ở một góc độ nào đó, giống như “một sự bất tín, vạn sự chẳng tin” là vậy. Con chim bị bắn hụt một lần rồi thì nó sẽ khôn hơn.
Không để bị lừa lần nữa và không lừa ai, đó là những người khôn ngoan. Tha thứ là việc khó nhưng vẫn khả thi, càng khó thực hiện thì việc đó càng có giá trị cao. Bị khiêu khích mà không giận thì hoặc là kẻ tiểu nhân, hoặc là người quân tử và cao thượng. Sự tha thứ luôn luôn cần thiết, vì có tha thứ thì mới có thể tái lập hòa bình và bình thường hóa quan hệ – ở mọi cấp độ khác nhau. Đôi khi rất cần một lời xin lỗi!
Chúa Giêsu dạy: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:25), nghĩa là tha thứ mãi mãi. Không tha thứ, đó là người ích kỷ! Xin chúc mừng nếu bạn là người vị tha. Nếu chưa, cố gắng thêm thì rồi bạn sẽ thành công nhờ Ơn Chúa – và chắc hẳn được Thiên Chúa chúc lành và được mọi người khâm phục.
TRẦM THIÊN THU

Anh Nguyễn v. Thập gởi

Cám dỗ

Cám dỗ

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 3:02 Sáng 14/02/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (14.02.2013) – Sài Gòn – Cám dỗ là gì? Từ điển Wikitionary định nghĩa: “Cám
dỗ là khơi dậy lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã”
. Từ điển Từ và Ngữ
Việt Nam (Nguyễn Lân, NXB TPHCM, 1998) định nghĩa: “Cám dỗ là tìm mọi cách
quyến rũ làm việc gì không hay”
.

Dù định nghĩa thế nào thì vẫn cho thấy sự cám dỗ có động lực xấu xa, trái với luân thường đạo lý, mang tính liên đới là gây hậu quả xấu cho chính mình và người xung quanh. Cám dỗ chẳng trừ ai – nam, phụ, lão ấu, dân thường hay người có chức tước. Cám dỗ cũng đa dạng và có nhiều mức độ. Khi suy nghĩ về những cơn cám dỗ của cuộc đời, cụ Tú Xương đã phải “gãi đầu” mà thốt lên:

Một trà, một rượu, một đàn bà

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta

Chừa được thứ nào hay thứ ấy

Có chăng chừa rượu với chừa trà

Can đảm chống lại cơn cám dỗ là điều khó thực hiện, và chừa được tật xấu nào đó cũng thật là nhiêu  khê. Chẳng ai nói mạnh được. Chỉ trong tích tắc cũng đủ người ta phải ân hận cả đời. Và cũng vì thế mà chúng ta cần cảm thông, yêu thương và tha thứ cho nhau.

Về sản phẩm đầu mùa, sách Đệ Nhị Luật cho biết: “Tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh em và đem đặt trước bàn thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Bấy giờ, anh em sẽ lên tiếng thưa trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em rằng: Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi” (Ðnl 26:4-6).
Lúc đó, họ đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ; và Ngài đã nghe
tiếng kêu xin của họ, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức mà họ phải chịu.
Vì thế, chính Đức Chúa đã đích thân dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh
hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng để đưa họ ra khỏi Ai-cập
(Ðnl 26:7-8).

Không chỉ được Thiên Chúa cứu thoát, họ còn được Thiên Chúa ban cho những thứ ngoài sức tưởng tượng: “Ngài đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Ðnl 26:9-10). Đó là động thái của lòng biết ơn, một động thái rất cần thiết trong cuộc sống thường nhật, với cả Thiên Chúa và
với tha nhân.

Tác giả Thánh vịnh mời gọi: “Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91:1-2). Thiên Chúa biết rõ mọi sự, ngay từ trong suy nghĩ, nhưng bổn phận chúng ta vẫn phải chân thành cầu nguyện. Nếu biết tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ có lợi nhiều: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ
giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi
vấp chân vào đá” (Tv 91:10-12)
.

Không chỉ lợi ích về tinh thần mà còn lợi ích cả về thể lý: “Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 91:13). Đó là điều chắc chắn, vì
chính Đức Chúa đã phán hứa: “Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người
nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại lúc ngặt
nghèo có Ta ở kề bên” (Tv 91:14-15)
. Thật là trên cả tuyệt vời!

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10:8). Lời Chúa được Giáo hội coi trọng như Thánh Thể, và cả hai đều đòi hỏi đức tin minh bạch và mạnh mẽ. Thánh nhân giải thích: “Nếu miệng bạn
tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người
sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng,
mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm
10:9-10)
. Như người Việt chúng ta cũng nói: “Có đầy mới tràn”, lòng
có thế nào thì mới nói ra.

Kinh Thánh xác định: “Mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không phải thất vọng” (Rm 10:11). Vì thế, không có sự khác biệt giữa người này với người kia, dân tộc này hay dân tộc nọ, người lượm ve chai hay ông giám đốc, giáo sĩ hay giáo dân,… vì tất cả đều có cùng một
Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Ngài. Tắt một lời: “Tất
cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (Rm 10:13)
. Đó là lời
hứa tuyệt đối!

Thánh sử Luca kể: Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, theo nhân tính, Ngài cũng cảm thấy đói.

Vật chất là một trong những thứ cám dỗ mạnh nhất, đặc biệt là thực phẩm khi người ta đói ngấu. Chẳng vậy mà người ta có thể liều mạng mà cướp giật thực phẩm của người khác và ăn ngấu nghiến, danh dự lúc này cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Điều đó cũng cho thấy bản năng sinh tồn của con người rất mạnh.

Bấy giờ, quỷ nói với Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” (Lc 4:3). Nhưng Đức Giêsu “phang” ngay: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4:4).

Thua keo này, nó bày keo khác. Nó đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó “dụ” Ngài: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc
4:6-7)
. Nhưng Đức Giêsu nói thẳng: “Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái
lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi”
(Lc 4:8)
.

Trong cuộc sống đời  thường chúng ta cũng thường gặp những “bả” vinh hoa và lợi lộc, thế nên kẻ nào “yếu bóng vía” là dính líu vào vụ tham nhũng này, hối lộ kia, hoặc làm giấy tờ khống để lừa bịp và ăn chặn của người khác. Trong các đoàn thể cũng không phải không có “bả” này, vì thế mà người ta hay “lên mặt” vì có chức danh nào đó, vì
thế mà người ta muốn “ra lệnh” hoặc muốn chứng tỏ mình là người “hét ra lửa”.
Ngay trong các giáo phận, giáo xứ, chủng viện và tu viện cũng không loại trừ!
Nói chung, ai cũng muốn mình phải là “số dzách” (số một, number one).

Chưa hết, sau 2 lần thua cuộc, quỷ lại đem Đức Giêsu đến Giêrusalem và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi “khoe mẽ” và “nổ tung” tới chín tầng mây: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4:9-11). To gan thật! Nhãi ranh mà dám thách thức Thiên Chúa.

Và rồi Đức Giêsu nghiêm nghị đáp lại: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4:12). Thế là quỷ cũng đành “bó tay”, hết cách xoay xở hòng cám dỗ Ngài. Nó lủi thủi bỏ đi, nhưng “cay cú” lắm, nên nó vẫn rắp tâm mưu mô ranh mãnh là “chờ đợi thời cơ” (Lc 4:13).

Thế gian, xác thịt, và ma quỷ. Đó là ba kẻ đại thù. Không lúc nào hết những cơn cám dỗ trên đường lữ hành trần gian này. Cám dỗ như những con sóng ngoài biển khơi, không sóng lớn thì sóng nhỏ, không sóng cồn thì sóng ngầm, chứ biển chẳng bao giờ hết sóng, ngay cả những lúc chúng ta thấy biển có vẻ êm ả nhất. Vì thế mà luôn cần phải tỉnh thức và cầu nguyện: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì
tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14:38)
.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn can đảm chống trả mọi chước cám dỗ bất kỳ lúc nào. Xin giúp chúng con luôn tỉnh thức và theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần . Lạy Sư Phụ Giêsu, Ngài đã chiến thắng tất cả để làm gương cho chúng con, xin giúp chúng con hiên ngang và vững bước theo Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Lộ trình sám hối

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:47 Sáng 15/02/13

nguồn: chuacuuthe.com

 

VRNs (15.02.2013) – Sài Gòn – Đây là lời khuyên tâm linh của một vị thánh Tiến sĩ Giáo hội: Thánh Gioan Chrysostom. Đó là 5 lộ trình sám hối. Súc tích và dễ áp dụng. Xin mời bạn dành vài phút để đọc những gì thánh Gioan Chrysostom nói về lộ trình đó.

Có cần liệt kê các lộ trình sám hối? Chắc chắn có nhiều cách, và các lộ trình đó
đều dẫn tới Thiên quốc.

Lộ trình thứ nhấtkết án tội lỗi. Như tiên tri Isaia nói: “Hãy kể tội mình ra, và bạn sẽ được tha”. Và tác giả Thánh vịnh nói thêm: “Tôi đã nói: ‘Tôi sẽ làm chứng chống lại tôi trước mặt Thiên Chúa’, và Ngài đã tha tội cho tôi”. Như vậy bạn cũng phải kết án tội lỗi mà bạn đã phạm. Hãy kết án tội lỗi, và việc đó sẽ biện hộ cho bạn trước mặt Thiên Chúa, vì bất cứ ai kết án tội lỗi mình trót phạm thì lần sau sẽ chậm vi
phạm. Hãy đánh thức lương tâm trở thành người kết án – để khi bạn đến trước Tòa
Công Thẳng của Thiên Chúa thì sẽ không ai đứng lên kết án bạn.

Đó là lộ trình thứ nhất của việc sám hối, nhưng lộ trình thứ nhì cũng không
kém tuyệt vời. Đó là quên sự tổn hại mà kẻ thù đã gây ra cho chúng ta,
là kiềm chế cơn giận, là tha thứ tội lỗi của những người làm nô lệ cùng với
chúng ta. Chúng ta càng làm như vậy thì chúng ta càng được tha thứ tội lỗi: “Xin
tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Kinh Lạy Cha)
.
Thế nên đây là lộ trình thứ nhì dẫn đến việc đền tội. Như Chúa đã nói: “Đúng,
nếu bạn tha thứ cho người khác, Cha trên trời cũng sẽ tha thứ tội lỗi cho bạn”
.

Có nên biết lộ trình thứ ba của việc sám hối? Đó là cầu nguyện: cầu nguyện tha thiết, thành tâm và tập trung, cầu nguyện từ đáy lòng.

Nếu bạn muốn biết lộ trình thứ tư, tôi sẽ nói ngay với bạn: Đó là thực thi bác ái. Đó là sức mạnh vĩ đại.

Cuối cùng, nếu bạn hành động bằng sự khiêm nhường, cách đó không kém hiệu quả như cách loại bỏ chính bản chất tội lỗi. Hãy nhìn vào người thu thuế, không có một
thiện cử nào, thế nhưng ông ấy lại khiêm nhường, do đó mà bao nhiêu tội lỗi của
ông ấy đều được tha bổng. Quá tuyệt vời!

Bây giờ tôi muốn cho bạn biết lộ trình thứ năm của việc sám hối: Sống khiêm nhường.

Đừng nhàn rỗi hoặc lười biếng, nhưng hàng ngày hãy “nâng cấp” các lộ trình này.
Không khó để bước đi trên các lộ trình đó. Nghèo không phải là cớ để không đi
du lịch. Nếu bạn thiếu thốn, bạn có thể làm những việc này: Để dành cơn giận
đữ, đặt sự khiêm nhường trước mặt, cầu nguyện liên lỉ, kết án tội lỗi của mình.
Nghèo không là rào cản – không phải lộ trình sám hối đòi hỏi tiền bạc: Đó là
làm việc bác ái. Hãy ghi nhớ câu chuyện về đồng xu của bà góa.

Bây giờ chúng ta đã biết con đường đúng để chữa lành mọi vết thương, chúng ta hãy
áp dụng các liệu pháp đó. Chúng ta hãy giành lại sức khỏe thật và tin tưởng để
lãnh nhận Thánh Thể. Như vậy chúng ta có thể đến, lòng tràn ngập vinh quang,
đến với vinh quang trong Vương quốc của Đức Kitô, hãy đón nhận niềm vui vĩnh
cửu qua ân sủng, lòng thương xót và lòng nhân hậu của Đức Giêsu Kitô.

Tóm lại, 5 lộ trình sám hối là:

1. Kết án tội lỗi.

2. Tha thứ cho tha nhân.

3. Cầu nguyện liên lỉ.

4. Thực hành bác ái.

5. Sống khiêm nhường.

Mùa Chay đã về. Mục đích của lộ trình sám hối là để chúng ta sẵn sàng lãnh nhận
hồng ân Thánh Thể.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thêm đức Tin Cậy Mến, và xin thánh hóa chúng con!

Lạy thánh Gioan Chrysostom, xin nguyện giúp cầu thay!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Cantuar.blogspot.com)

 

Bảo vệ đức tin trong thế giới chống Kitô

Bảo vệ đức tin trong thế giới chống Kitô

Trầm Thiên Thu
LTS – Năm nay là Năm Đức Tin, chúng ta cần xem lại đức tin của mình cả chiều ngang,
chiều dọc, chiều cao, chiều sâu, chiều dài và chiều rộng. Nhờ đó mà xứng đáng
là môn đệ của Đức Kitô, cả về danh nghĩa và thực tế. Mùa Xuân về, mùa Chay đến,
mỗi người hãy tự suy nghĩ về cách sống của mình – nhất là khi chúng ta gặp
những người chống Kitô giáo. Trên trang GotQuestions.org có đăng cách lập luận
thú vị, xin mời bạn cùng tìm hiểu!
Là Kitô hữu, có hai điều chúng ta có thể làm để ủng hộ Đức Kitô là “sống Lời Chúa” và “nhận biết Ngài”. Chúa Giêsu nói: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:16). Nghĩa là chúng ta phải SỐNG và HÀNH ĐỘNG theo Phúc Âm.
Chúng ta cũng phải  “mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ” (Ep 6:10-17) và thế gian xung quanh chúng ta. Trước hết, Thánh Phêrô khuyên: “Đức Kitô làĐấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3:15). Những gì chúng ta có thể làm là sống và hành động như Đức Kitô, phần còn lại cứ phó thác cho Ngài lo liệu.
Những người phê bình Kitô giáo ngày càng nhiều. Một phần vì có nhiều người không tin Thiên Chúa hoặc không hiểu gì về Ngài. Tuy nhiên, số người chống Kitô giáo tăng cũng do nhận thức. Với nhiều chủ đề, những người coi thường Kitô giáo là những người lớn tiếng nhất trong số những người không có niềm tin tôn giáo.Đại đa số những người không tin đều không đủ sức làm phiền các tín hữu. Một số ít người không có niềm tin Kitô giáo tỏ ra bực tức, lớn tiếng, cay cú và làm ồn ào để làm ra
vẻ đông số hơn.
Lời lăng mạ chủ yếu từ số người ngoại đạo cho rằng các tín hữu là “dốt
nát”,“ngu xuẩn”, “bị tẩy não”, hoặc cho rằng các tín hữu kém thông minh hơn
những người không có niềm tin tôn giáo. Khi một Kitô hữu khéo léo bảo vệ đức tin,
lại bị cho là “tin mù quáng”, “cực đoan”, hoặc “cuồng tín”. Khi họ biết các tín
hữu sống tử tế và yêu thương, người vô thần giống như kẻ ngu si nói: “Làm gì có
Thiên Chúa” (Tv 53:1). Đa số những người không có niềm tin tôn giáo đều không
có lý do riêng để coi các Kitô hữu là tiêu cực, nhưng đôi khi họ nghe nhiều từ
những người chống Kitô giáo cho rằng các Kitô hữu chỉ làm ra vẻ vậy thôi. Họ cần
những tấm gương sống như Đức Kitô để thấy sự thật.
Dĩ nhiên, khi người nào đó nhận mình là Kitô hữu mà không hành động như Đức Kitô, thì đám đông tức giận và lớn tiếng sẽ coi người đó là giả hình. Đây là điều chúng ta đã được cảnh báo: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:11), hoặc: “Vì họ đã không thèm nhận biết
Thiên Chúa, nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất
xứng, lòng họ đầy bất chính, xấu xa, tham lam, độc ác đủthứ; nào là ganh tị,
giết người, cãi cọ, mưu mô, thâm hiểm; nào là nói hành nói xấu, vu oan giá hoạ”
(Rm 1:28-30).
Cách tốt nhất là trích dẫn câu Kinh thánh nói chống lại những người làm như
vậy. Hãy nhắc cho những người vô thần biết rằng chỉ vì ai đó nhận mình là Kitô
hữu, thậm chí nghĩ mình là Kitô hữu, thì cũng chẳng phải người đó là Kitô hữu.
Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi
gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Cứ xem họ sinh
hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng,
làm gì có vả mà bẻ? Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai
” (Mt
7:16 & 20). Rất rõ ràng. Và hãy nói với những người chỉ trích đó rằng “chẳng
ai lại không phạm tội
” (x. Rm 3:23).
Điều quan trọng cần nhớ rằng, dù khéo léo thuyết phục cỡ nào thì cũng không ai
có thể ép buộc người khác tin cái gì mà họ không muốn tin
. Dù đó là chứng cớ hoặc là tranh luận, người ta sẽ chỉ tin cái mà họ muốn tin (x. Lc 12:54-56). Kết tội không là nghề của các Kitô hữu. Chúa Thánh Thần mới kết tội người ta (x. Ga 14:16-17), và tùy họ tin hay không tin. Điều chúng ta có thể làm là cố gắng hết sức để sống như Đức Kitô. Đáng buồn là có nhiều người vô thần đã từng đọc toàn
bộ Kinh thánh chỉ để tìm lý lẽ để chống lại các Kitô hữu, và có nhiều Kitô hữu hầu như không đọc Kinh thánh.
Người ta khó mà kết tội một Kitô hữu nào đó là người tin mù quáng và đáng ghét nếu người đó thể hiện cách sống tử tế, khiêm nhường và trắc ẩn. Khi một Kitô hữu có thể thảo luận, tranh luận hoặc vạch trần chính xác những cách tranh luận trần tục, cái nhãn “dốt nát” không còn thích hợp nữa. Một Kitô hữu đã đọc các bài tranh luận trần tục và có thể lịch sự dẫn chứng các điểm sai sót sẽ giúp“hạ hỏa” các định kiến từ phía những người vô thần. Hiểu biết là vũ khí mạnh, và điều đó bất khả khuất phục khi chúng ta để cho Đức Kitô hướng dẫn chúng ta cách sử dụng.
(Trầm Thiên Thu chuyển ngữ)
BENEDIC AMUS DOMINO – DEO GRATIAS!
Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay,
và như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13)
HN. ThaoNhi

Làm sao không cằn nhằn con cái ?

Làm sao không cằn nhằn con cái ?

Đăng bởi lúc 1:24 Sáng 25/01/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (25.01.2013) – Sài Gòn – Một trong những vấn đề quan trọng trong cách cư xử của cha mẹ đối với trẻ là làm sao không cằn nhằn con cái. Những vết xước trên bàn, những vết bẩn trên tường, những đồ chơi bừa bộn khắp nhà,… Đó là những thứ khiến cha mẹ cảm thấy “nóng gáy”, thế là cằn nhằn hoặc la rầy con cái.

Một cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng cằn nhằn là một trong những “âm thanh” làm người ta “không để ý” nhiều nhất – điều này chắc hẳn cha mẹ cũng đã biết hồi còn nhỏ! Có thể đó là lý do trẻ em có vẻ như đã được “lập trình gen” để có thể làm điều đó rất tự nhiên theo bản năng, như loài cá biết bơi hoặc loài chim biết bay vậy.

Tuy nhiên, cha mẹ có thể ảnh hưởng động thái thách đố này. Cách chúng ta phản ứng khi cằn nhằn con cái và điều chúng ta nói để hướng dẫn con cái có thể tạo nhiều khác biệt khi nhìn cách con cái phản ứng và mức độ “khó chịu” ở chúng.

Nên nhớ rằng nên giảm cằn nhằn theo tỷ lệ nghịch với độ tuổi con cái lớn dần. Cha mẹ luôn phải kiềm chế bản thân, và cố gắng dùng cách nói khéo để dạy con cái ý thức khi làm việc gì đó. Không dễ thực hiện, nhưng cố gắng thì việc gì cũng khả thi.

Đây là 5 “chiến lược” giúp các bậc cha mẹ không cằn nhằn con cái:

1. Tự điều chỉnh. Cha mẹ cần hiểu rằng lời cằn nhằn là lời “không lọt lỗ
tai”. Cần gì cứ nói thẳng đừng lẩm bẩm hoặc nói xiên nói xeo. Khi thất vọng,
con cái cũng lẩm bẩm để người khác nghe thấy. Hãy cho chúng biết ngay đó là
thói xấu. Nếu đó là thói xấu, chính cha mẹ cũng phải tự điều chỉnh để không cằn
nhằn người khác. Trẻ đang độ tuổi phát triển có nhiều thứ phức tạp, vì thế mà
cha mẹ phải cảm thông và hiểu đó là quá trình phát triển tốt ở trẻ.

2. Cân nhắc vấn đề. Trẻ cũng như người lớn, nghĩa là chúng cũng có những
ngày cảm thấy mệt mỏi, nhất là khi việc học căng thẳng và “quá tải”. Những thay
đổi trong sinh hoạt như khi có thêm em bé, chuyển nhà hoặc chuyển trường,… cũng
có thể khiến chúng căng thẳng. Người lớn cũng vậy thôi, vì thế mà nên nhẹ nhàng
giải thích cho chúng hiểu và an ủi chúng. Có thể bảo chúng đi chơi với bạn bè,
đi xe đạp, hoặc cho trẻ cùng làm bếp,… để chúng quên sự căng thẳng.

3. Bình tĩnh. Cố gắng bình tĩnh khi thấy con cái làm điều gì không
vừa ý. Còn trẻ người non dạ, chúng chưa kinh nghiệm nên vụng về và lóng ngóng
là điều tất nhiên thôi, chẳng ai sinh ra mà thông thạo ngay việc gì, dù là
thiên tài cũng vẫn cần được hướng dẫn làm cho đúng phương pháp. Đừng vội chê
trách trẻ, vì chê trách sẽ làm chúng nản lòng, mất tự tin mà nhụt chí. Cứ bình
tĩnh hướng dẫn chúng, rồi sẽ ổn thôi.

4. Kiên nhẫn. Được hướng dẫn tỉ mỉ nhiều lần mà chúng vẫn không làm
được, hãy hướng dẫn lại, nhưng phải “nhấn mạnh” việc tự nỗ lực và tự tin thì
mới có thể thành công. Tuy nhiên, cha mẹ cũng phải xem lại cách hướng dẫn của
mình có rõ ràng và hợp lý hay không. Không có phương pháp thì người tài cũng
hóa vụng về, nhưng có phương pháp thì người thường cũng khả dĩ làm được việc phi
thường.

Lão Tử nói: “Kẻ biết người là người khôn, kẻ biết mình là người sáng”. Giáo dục người là điều cần và khó lắm, nhất là giáo dục con trẻ, nhưng có lẽ giáo dục chính mình mới là điều khó nhất. Thật vậy, “khối cẩm thạch có bị gọt đẽo thì bức tượng mới nên hình nên dáng” (Danh họa Michelangelo). Một câu nói thật chí lý!

TRẦM THIÊN THU

Cuối năm Nhâm Thìn

 

Lòng Chúa Thương Xót tại Giáo xứ Thanh Đa

Lòng Chúa Thương Xót tại Giáo xứ Thanh Đa

Trầm Thiên Thu

1/12/2013                                         nguồn: Vietcatholic.net

TGP SAIGON – Chiều thứ Sáu, 11-1-2013, theo truyền thống tốt lành của giáo hạt Gia Định, các cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) của các giáo xứ trong giáo hạt Gia Định quy tụ về Gx Thanh Đa cùng tôn vinh LCTX. 14 giờ 30, mọi người lần Chuỗi LCTX; đúng “giờ linh” 3 giờ là Thánh Lễ do Lm Đaminh Nguyễn Đình Tân chủ tế.

Tôn kính LCTX là lòng sùng kính của thời đại chúng ta, thời cánh chúng. Khi làm việc sùng kính LCTX, cũng như các việc đạo đức khác, chúng ta cần tự cẩn trọng, vì có thể “quen quá hóa lờn”, lo hình thức và nghi thức mà quên tâm điểm phải là nội tâm chân thành với Thiên Chúa. Yêu thương là điều chúng ta nghe nói hằng ngày, càng cao niên càng nghe nhiều, mà Luật Chúa cũng chỉ có nhiêu đó, thế mà chúng ta vẫn chẳng thực hiện được bao nhiêu. Nói rất dễ, nhưng làm thì chẳng dễ chút nào!

Nhật Ký của Thánh Faustina, số 1541, ghi lại lời Chúa Giêsu: “Hãy khuyến khích
các linh hồn lần Chuỗi LTX mà Ta trao cho con. Chuỗi kinh này làm cho Ta vui
lòng ban cho mọi ơn mà họ cầu xin Ta qua Chuỗi kinh này. Khi các tội nhân lần
Chuỗi kinh này, Ta sẽ làm cho tâm hồn họ đầy sự bình an, và trong giờ chết họ
sẽ là người hạnh phúc”. Điều đó làm tăng lòng tin nơi chúng ta khi lần Chuỗi
LCTX và thêm tín thác nơi Thánh Tâm Thương Xót của Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận
làm người để cứu độ nhân loại.

Thiên Chúa đã nói qua miệng ngôn sứ Êdêkien: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng
cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ
nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non
Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ.
Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương,
Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào
khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed
34:14-6). Rõ ràng Thiên Chúa yêu thương mọi người, không trừ ai, thậm chí con
chiên nào yếu thì càng được Ngài quan tâm chăm sóc, như Thánh Phaolô xác định:
“Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).

Nói đi nói lại cũng vẫn là yêu thương. Tình yêu phát xuất từ Thánh Tâm, lòng
thương xót cũng phát xuất từ Thánh Tâm. Cách gọi khác nhau nhưng vẫn là MỘT:
Tình yêu à Thánh Tâm à LCTX.

Trong bài giảng, Lm Tân cũng nhấn mạnh đến chiều kích yêu thương khi tôn sùng
LCTX. Thánh Gioan là Tông đồ mệnh danh là người-được-Chúa-yêu và được tựa đầu
vào ngực Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly để nghe được nhịp-thổn-thức của LCTX,
thánh nhân nói rõ: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên
Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Thậm chí thánh nhân còn nói “toạc móng heo” hơn:
“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể
yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Nghe mà “nhột gáy” quá!

Thường thì ai cũng chỉ yêu người yêu mình, và không ưa người không ưa mình,
thậm chí ai không theo “phe” mình thì mình cũng “chơi tới bến”. Thế nhưng Chúa
Giêsu bảo rằng làm như vậy thì ai cũng làm được, người tội lỗi và người ngoại
cũng vẫn làm, sống LCTX là phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35).
“Căng” thật đấy!

Nhưng phải là như thế, không thế không được. Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng
ta trước, yêu vô điều kiện, yêu ngay khi chúng ta là những tội nhân khốn nạn và
đáng chết, thậm chí còn chết vì các tội nhân là chính chúng ta. Chắc chắn chúng
ta không yêu thương nhau thì không xong với Chúa đâu, đừng “lẻo mép”! Chính
người đời còn nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong
tình yêu” (Victor Hugo). Chết vì yêu lại là sống vì yêu. Lạ thật!

Yêu thương có liên quan mật thiết với tha thứ. Vĩ nhân Gandhi nói về lòng tha
thứ: “Cách xử thế vàng là biết tha thứ cho nhau”. Chính ông đã nói rằng “Bài
Giảng Trên Núi” (Bát Phúc hoặc Tám Mối Phúc Thật) của Chúa Giêsu là bản tuyên
ngôn độc lập tuyệt vời nhất.

LCTX đã có từ đời đời, chính Đức Maria đã tung hô: “Đời nọ tới đời kia, Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50), nhưng rõ ràng nhất là “giờ
linh” trên đồi Can-vê. Trước đó, quân lính đã đánh giập ống chân hai tội nhân
cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Họ cũng định đánh giập ống chân Ngài luôn,
nhưng thấy Ngài đã tắt thở nên họ không đánh giập ống chân Ngài. Tuy nhiên, một
người lính lại “chơi khăm” mà lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài. Nhân chứng Gioan
cho biết: “Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19:34). Đỉnh cao của LCTX là đó!

Xin “mở ngoặc” một chút. Nhà thờ Thanh Đa có ghi câu: “Hãy mang trong anh em
những tâm tư của Đức Kitô” (Pl 2:5), cả ở ngoài và trong nhà thờ. D(ó là câu
“châm ngôn” dành cho mọi người sống trong năm. Thiết nghĩ đây cũng là cách nhắc
nhở hay, vì sống kết hiệp với Chúa và cầu nguyện liên lỉ là điều rất cần thiết
cho bất kỳ ai.

Nói tới nhà thờ Thanh Đa, tưởng cũng nên nhắc lại “kỷ niệm đẹp” về Mẹ Têrêsa
Calcutta, người sáng lập Dòng Bác Ái Thừa sai. Gx Thanh Đa vùng ven của nội
thành Saigon nhưng đã được đặc ân đón tiếp Mẹ Thánh hai lần ghé thăm. Hiện nay,
nơi hàng ghế đầu của dãy bên trái nơi Nhà thờ Thanh Đa có di ảnh của Mẹ Thánh
nơi Mẹ đã quỳ tham dự Thánh lễ, và luôn có bình hoa tươi để tưởng nhớ Mẹ.

Chân phước Têrêsa Calcutta đến Nhà thờ Thanh Đa lần thứ nhất vào một buổi chiều
đầu tháng 11-1993, cùng đi với Mẹ có nữ tu Nirmala (nay là Bề trên Tổng quyền
Dòng Thừa Sai Bác ái), để tìm hiểu ơn gọi và xin mở cơ sở của Dòng tại đây.
Ngày 21-4-1994, Mẹ Têrêsa Calcutta đến Gx Thanh Đa lần hai, trao đổi với Lm
Đaminh Nguyễn Đình Tân về ý nguyện của Mẹ, Cha Đaminh rất cảm kích vì sự ưu ái
mà Mẹ dành cho giáo xứ và ngài sẵn sàng để ước nguyện của Mẹ thành sự thật. Rất
tiếc, do không được phép từ chính quyền, việc mở cơ sở tại đây vẫn chưa được
thực hiện.

Ngày 5-9-1997, Mẹ đã từ giã cõi đời để về Quê Thật theo tiếng gọi của Chúa,
ngày này cũng là ngày Giáo hội mừng kính Mẹ hằng năm.

Để tỏ lòng tôn kính và tri ân Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày 14-5-2008, tượng đài của
Mẹ Thánh đã được trang trọng khánh thành trong khuôn viên thánh đường, gọi là
LINH ĐỊA TÊRÊSA CALCUTTA THANH ĐA.

Đức khiêm nhường

Đức khiêm nhường

nguồn: thanhlinh.net

Tác giả: Trầm Thiên Thu

(Chúa nhật I TN, năm C – Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa)

Chúa Giêsu hoàn toàn không hề có tội vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn lãnh nhận Phép Rửa. Ngài để cho ngôn sứ Gioan làm Phép Rửa cho Ngài trong dòng sông Gio-đan vì Ngài muốn nêugương khiêm nhường cho chúng ta. Khiêm nhường rất cần cho bất cứ ai, vì khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức.

CAN ĐẢM ĐỂ LÀM GÌ ?

Thiên Chúa phán: “Hãy an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Chúa rất nhân từ, Ngài nói rõ là “an ủi” và “ngọt ngào khuyên bảo” người khác, chứ Ngài không bảo dùng “quyền” mà “hành” người khác, hoặc dùng “mệnh lệnh” mà “trấn áp” người khác. Lời Ngài rất đáng để chúng ta phải tự nghiêm túc xét lại mình.

Có tiếng hô to: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5). Sa mạc là nơi hoang vu, tĩnh mịch, vắng vẻ. Sa-mạc-tâm-hồn cũng rất cần cho chúng ta, đó là những giây phút tịnh tâm, nhất là những buổi tối, hoặc những ngày cấm phòng. Vì khi ở trong “sa mạc”, chúng ta có thể nhận biết mình rõ hơn, và nhờ đó mà có thể mở đường rộng, vạch đường thẳng, san núi đồi, lấp thung lũng, san bằng chỗ gồ
ghề,… để đến với Thiên Chúa và tha nhân.

Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: “Kìa Thiên Chúa các ngươi!” (Is 40:9). Lên cao và nói to, sống đúng sự thật thì không gì phải sợ ai. Chính Đức Kitô vẫn thường xuyên động viên: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc
12:32; Lc 21:9; Ga 6:20).

Tại sao không sợ? Ngôn sứ Isaia cho biết: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:10-11). Muốn “đừng sợ” thì phải có lòng can đảm, muốn can đảm thì phải tập bằng cách tự động viên mình. Hãy hít sâu, nắm chặt hai bàn tay, và thở mạnh,
cảm giác sẽ khác hẳn. Nhưng đừng quên hướng về Đức Kitô.

Hãy tự nhủ như tác giả Thánh vịnh: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!”, và thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1a). Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ rất khác biệt, không như bất kỳ thần thánh nào khác: “Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt, cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang. Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng, điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không. Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió” (Tv 104:1b-3).

Đoàn tùy tùng của Ngài cũng hoàn toàn kỳ lạ: “Sứ giả Ngài là làn gió bốn phương, nô bộc Chúa là lửa hồng muôn ngọn” (Tv 104:4). Các việc Ngài làm vô số và không ai khả dĩ hiểu thấu: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Nhận biết Thiên Chúa để chúng ta có thể đủ niềm tin, nhờ đó mà có thể can đảm hơn.

Không sinh vật nào lại không nhờ ân lộc Ngài trao ban: “Này đại dương bát ngát mênh mông, nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng, hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn” (Tv 104:25). Ngài không chỉ ban cho những điều cần thiết mà còn ban cho những điều vượt ngoài tầm tay của chúng ta, thậm chí Ngài ban cả những điều mà chúng ta chưa biết mở miệng xin: “Ngài ban xuống, chúng lượm về, Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước” (Tv 104:28). Thế mà nhân loại vẫn vô ơn, bạc nghĩa. Ngay chính chúng ta – những người vinh hạnh làm con cái Ngài – cũng vẫn thường xuyên bội bạc, làm được điều gì nhỏ nhoi đã tưởng mình tài giỏi mà dám vênh vang tự đắc, coi khinh người khác. Chúng ta chỉ là “số không” mà cứ tưởng mình là “cái rốn của vũ trụ”. Đó là ảo tưởng, là kiêu ngạo!

CAN ĐẢM ĐỂ KHIÊM NHƯỜNG

Nhà toán học Pythagore nói rất chí lý: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”. Là một bác học danh tiếng cả thế giới mà ông thấy vẫn chẳng là gì. Hoặc như Thánh Thomas Aquinas, Tiến sĩ Giáo hội, thông minh xuất chúng và viết nhiều sách giá trị, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae), thế mà ngài lại nói: ngài khiêm nhường cho biết: “Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác”. Còn khi người ta hỏi: “Làm thế nào để được cứu độ?”, Thánh Thomas trả lời ngắn gọn: “Phải khiêm nhường”.

Một hồng ân hiển nhiên mà chúng ta luôn cần thiết là không khí, nhưng chúng ta lại không coi đó là đại ân, hoặc cho đó là điều “dĩ nhiên”, là chuyện tự nhiên. Tác giả Thánh vịnh phân tích cặn kẽ: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Thế thì sao lại dám kiêu
ngạo chứ?

Thánh Phaolô nói rõ: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Ngài đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Ngài, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Như vậy, chắc chắn người-hăng-say-làm-việc-thiện là người-của-Chúa, vì Chúa là Đấng từ bi, nhân hậu, và giàu lòng thương xót.

Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, Ngài đã “biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại” (Tt 3:4).

Thánh Phaolô “nói toạc móng heo”, không hề úp mở: “Không phải vì tự sức
mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Ngài thương xót, nên
Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh
và đổi mới”
(Tt 3:5). Rõ ràng chúng ta chẳng có thể viện cớ gì để mà biện
hộ cho thói kiêu căng của mình. Tất cả là Hồng ân – Hồng ân nối tiếp Hồng ân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7).

Trình thuật Tin Mừng được Thánh sử Luca kể ngắn gọn nhưng súc tích: Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!

Nghe vậy, ông Gioan trả lời thẳng với mọi người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3:16). Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là con người khiêm nhường với câu nói nổi tiếng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Không đáng cởi quai dép chứ đừng nói chi “xách dép”.

Là người đời, nhưng F. Engels cũng đã biết nhận xét tinh tế: “Trang bị quý giá của con người là sự khiêm tốn và tính giản dị”.

Thánh Luca cho biết rằng khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu
phép rửa, và đang khi Ngài cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống
trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là
Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3:22). Chính Chúa Cha đã
công khai xác nhận Đức Giêsu Kitô là Con Yêu Dấu, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Quá
minh nhiên, không còn gì khả nghi nữa!

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết sống khiêm nhường và yêu thương để có thể đến với Chúa qua tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Tận dụng thời gian Chúa dành cho bạn

Tận dụng thời gian Chúa dành cho bạn

TRẦM THIÊN THU

Năm cũ qua, năm mới tới. Chúng ta không biết năm mới sẽ ra sao, và nhiều người không biết dùng 365 ngày như thế nào.

Khi còn trẻ, Lm Marcos Gonzalez, quản xứ Thánh Gioan Chrysostom ở Inglewood (California, Hoa Kỳ) đã thấy chiếc đồng hồ lớn có khắc chữ “Tempus Fugit” ở phía trên.

Lm Marcos Gonzalez cho biết: “Khi tôi hỏi mẹ tôi điều đó là chữ gì, mẹ tôi nói là THỜI GIỜ TRÔI QUA. Tôi ngạc nhiên và hỏi nghĩa là gì. Bà nói: ‘Cuộc đời ngắn ngủi, hãy dùng mỗi ngày cho tốt’. Từ đó, tôi luôn ghi nhớ”.

Lời khuyên đó là lời nhắc nhớ chúng ta mỗi khi năm mới khởi đầu. Tận dụng thời gian Chúa dành cho chúng ta phải là ưu tiên số một.

Lm James Kubicki, Dòng Tên, người phụ trách trang web ApostleshipOfPrayer.org, nói: “Điều quan trọng nhất đối với chúng ta là nhận biết rằng thời gian là điều quý giá nhất mà chúng ta có, chúng ta sống trong thời gian, thế nên khi chúng ta sử dụng thời gian là chúng ta dùng điều quý giá nhất”. Chúng ta nên tự vấn: “Tôi có đang dùng thời gian đúng như Chúa muốn không?”

Lm Jay Finelli, quản xứ Thánh Linh ở Tiverton, R.I., quản lý trang iPadre.net, nói: “Khi chúng ta trẻ, chúng ta nghĩ mình còn nhiều thời gian. Nhưng thời gian như cát, nó rơi qua các kẽ ngón tay của chúng ta”.

Mặc dù kỹ thuật có thể dùng làm công cụ để học tập, truyền bá Phúc âm và giao tiếp, chúng ta cũng có thể lãng phí thời gian vào các thiết bị hiện đại. Sự thật là nếu chúng ta không nghỉ ngơi và sống cầu nguyện và cân nhắc xem điều gì Chúa muốn, chúng ta chỉ để cho ngày tháng trôi qua mà không dùng thời gian đúng Ý Chúa.

Tác giả Thánh vịnh đã cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (90:12). Chúng ta cần nhìn vào cuộc đời mình trước, nhất là đời sống tâm linh. Chúng ta đang làm gì cho cuộc đời mình để sống với Thiên Chúa và Đức Kitô? Dành thời gian cho Chúa phải là ưu tiên. Nhưng chúng ta lại thường đặ Ngài ở cuối cùng. Chúng ta thực sự nên dành thời gian cho Chúa vì chúng ta muốn dùng thời gian cho Ngài vì sự sống đời đời.

Dành thời gian cho Chúa là thế nào? Pia de Solenni viết nhận xét trên trang PiadeSolenni.com thế này: “Đó là làm cho Thánh lễ là trung tâm của đời sống. Chúng ta nên coi Thánh lễ là trung tâm điểm và là kiểu mẫu cho cuộc đời mình. Bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chúng ta nên coi đó như diễn biến trong Thánh lễ. Nếu chúng ta có một ngày tồi tệ hoặc một ngày hạnh phúc, chúng ta có thể coi đó là
đau buồn hoặc vinh quang trong Thánh lễ. Cuộc sống và Thánh lễ không là hai thế
giới riêng biệt”.

Lm Finelli đề nghị thêm những cách dành thời gian sống với Chúa Giêsu, chẳng hạn như đọc Kinh thánh, lần Chuỗi Mân Côi, lần Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót, đọc sách hạnh các thánh, đọc sách đạo đức,… Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là tấm gương sáng về việc dùng thời gian một cách khôn ngoan, “Con Đường Nhỏ” của Chị là một triết lý sống.

Đó là cách làm mọi thứ, dù là việc nhỏ nhất, nhưng vẫn làm vì yêu mến Thiên Chúa. Theo đó, chúng ta cũng sử dụng thời gian như vậy. Mọi khoảnh khắc trong cuộc đời chúng ta nên sống vì yêu mến Thiên Chúa. Việc gì cũng trở nên có giá trị nếu làm vì yêu mến Chúa, vì Nước Trời, vì sống đức tin: Cầu nguyện, làm việc nhà, mưu sinh, học
tập, vui chơi, giải trì, nghỉ ngơi, ngủ,…

Chúng ta có thể sống trong sự thánh thiện, và chúng ta sẽ càng ngày càng nhận biết qua mỗi khoảnh khắc quý giá mà chúng ta có để dâng lên Thiên Chúa.

Lm Gonzalez cho biết: “Lúc cuối đời, nhiều người đã hối tiếc vì không cầu nguyện đủ, không dành đủ thời gian cho Chúa, không dành thời gian cho con cái, cha mẹ hoặc người thân. Đó là những điều hối tiếc vì chúng ta không dùng đúng thời gian mà Chúa dành cho mình.

Ngày hôm nay, ngay lúc này, hãy nhìn lại chính mình và cố gắng khắc phục trước khi quá muộn: Thời gian thắm thoắt thoi đưa, nó đi đi mất chẳng chờ đợi ai. Thiên Chúa vẫn đang kiên trì chờ đợi chúng ta, hãy dành thời gian cho Ngài.

Bậc đáng kính Giám mục Fulton Sheen (tác giả viết nhiều sách hay) khuyên: “Không bao giờ chúng ta không có thời gian để suy niệm; người ta càng ít nghĩ về Thiên Chúa thì càng có ít thời gian cho mình. Thời gian để làm điều gì đó tùy vào cách chúng ta đánh giá. Suy nghĩ là cách xác định việc dùng thời gian; thời gian không khống chế
chúng ta suy nghĩ! Vấn đề tâm linh không bao giờ là vấn đề thời gian, mà là vấn
đề suy nghĩ. Không đòi buộc nhiều thời gian để chúng ta nên thánh, mà chỉ cần yêu mến nhiều”.

JOSEPH PRONECHEN

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Đầu năm Dương lịch – 2013

Maria Thanh Mai gởi

Năm mới tâm linh

Năm mới tâm linh

TRẦM THIÊN THU

Năm hết, Tết đến, ai cũng lo “đổi mới” bề ngoài, vậy cũng cần lắm đối với mọi người về việc “canh tân” đời sống tâm  linh trong năm mới. Hãy tập thói quen canh tân đời sống tâm linh, và hãy dạy trẻ em đổi mới tâm hồn ngay từ tuổi nhỏ.

Một năm mới bắt đầu, một khởi sự mới cũng bắt đầu. Do đó, đừng chỉ đặt ra các quyết định bình thường như giảm cân, bỏ hút thuốc, bớt say xỉn, bớt lải nhải, bớt độc đoán, bớt chuyên quyền, bớt ích kỷ, cố gắng ngoan ngoãn, cố gắng học tập,… Cũng đừng đặt ra các mục đích quá lớn hoặc xa vời, mà hãy đặt ra các mục đích đơn giản và thiết yếu, nhất là cố gắng cải thiện mối quan hệ với Thiên Chúa. Đây là vài cách khả thi:

1. Canh tân đời sống cầu nguyện

Cầu nguyện luôn cần thiết, vì Chúa Giêsu dạy: “Hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41). Có thể đó là việc đơn giản, cũng có thể phức tạp, nhưng không dễ thực hiện trong một sớm một chiều. Hãy cố gắng siêng năng hơn trong việc cầu nguyện hằng ngày. Nhiều người có quyết định này nhưng lại mau thất bại, vì họ muốn nhảy vọt ngay từ bước đầu tiên. Nếu bạn đã từng không thường xuyên cầu nguyện, bây giờ muốn cầu nguyện nhiều ngay thì rất khó. Hãy  bắt đầu tập bằng cách cầu nguyện mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy, dù là bạn cầunguyện khi bạn đang đánh răng. Hãy bắt đầu dành cho Chúa mỗi sáng 5 phút. Rồi dần dần bạn cố gắng thêm 2, 3 hoặc 5 phút nữa. Bạn sẽ mau cảm thấy thích thú tâm sự với Chúa trước khi làm bất cứ điều gì. Đừng lo phải nói gì với Ngài, cứ hướng tâm hồn lên với Ngài, bạn cứ nói chuyện với Ngài bất cứ điều gì, hoặc có thể chỉ im lặng chiêm ngưỡng Ngài. Bạn sẽ thấy kết quả kỳ diệu.

2. Đọc trọn bộ Kinh thánh

Tập cho quen đọc Lời Chúa cũng là một quyết định quan trọng trong năm mới đối với mỗi Kitô hữu. Có nhiều kế hoạch cho việc đọc Kinh thánh để có thể đọc trọn bộ Kinh thánh trong một năm. Hãy quyết định đọc Kinh thánh mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Có thể bạn không đọc hết bộ Kinh thánh, nhưng có thể dùng cả năm để tập trung vào các chủ đề đặc biệt hoặc các vấn đề liên quan đời sống mà bạn muốn Thiên Chúa giúp bạn cải thiện. Hãy lập một “kế hoạch” về Kinh thánh, và quyết tâm thực hiện trong năm mới.

3. Giúp đỡ người khác

Qua Kinh thánh, Thiên Chúa mời gọi chúng ta làm việc thiện. Có nhiều cách giúp đỡ người khác, nhất là giúp đỡ người nghèo: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Chi tiêu là việc cần thiết, nhưng đừng lãng phí. Tiết kiệm có lợi cho bản thân và gia đình, đồng thời cũng để có thể giúp người khác một cách thực tế. Hãy coi việc giúp đỡ người khác là một phần trong hoạt động của cuộc đời bạn trên cuộc lữ hành trần gian. Đa số các giáo xứ đều có các hoạt động “ngoại khóa”, hoặc bạn có thể tham gia các hoạt động từ thiện của giáo xứ, của hội đoàn, của trường học, của xã hội,… Có rất nhiều người cần sự giúp đỡ của bạn, việc giúp đỡ người khác là cách tốt để sống đức tin, sống yêu thương, làm gương sáng, và chúng tỏ mình là người có niềm tin vào Thiên Chúa.

4. Sinh hoạt giáo xứ

Đa số các giáo xứ đều có các hội đoàn hoặc nhóm sinh hoạt việc đạo đức (Dòng Ba Đa-minh, Cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, Hội Con Đức Mẹ, Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm, Hội cầu nguyện, Hội các Bà mẹ Công giáo, Ca đoàn, Lễ sinh, Thiếu nhi Thánh Thể, Giáo lý viên, lớp Giáo lý, lớp Kinh thánh,…). Hãy tham gia các sinh hoạt chung trong giáo xứ dành cho lứa tuổi của mình. Nhiều nhóm sinh hoạt gặp nhau hằng tuần hoặc hằng tháng, các cuộc họp mặt này là cách tốt để tạo sự thân thiện với nhau, tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong sinh hoạt hằng ngày và sinh hoạt tâm linh.

5. Khiêm nhường phục vụ

Một trong các vấn đề khó khăn đối với các Kitô hữu là chuyện phục vụ, đó là quá trình rất cần thiết: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Ai cũng được người khác phục vụ, bằng cách này hoặc cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, vì thế chúng ta cũng phải biết phục vụ người khác. Tuy nhiên, Chúa Giêsu dạy là phải phục vụ, nhưng phục vụ trong khiêm nhường: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10).

6. Đọc sách thiêng liêng

Hãy dùng cách nào đó có lợi cho bạn, có thể là việc đọc sách thiêng liêng như đọc các sách đạo đức hoặc hạnh các thánh, miễn sao cách đó giúp bạn phát triển trên đường nhân đức. Các dòng tu thường có giờ đọc sách thiêng liêng, giáo dân ít có người có thói quen tốt lành này. Tốt nhất vẫn là đọc Kinh thánh. Đọc Kinh thánh là giao tiếp với Thiên Chúa, là phần thiết yếu của mọi người trong đời sống Kitô hữu, vì Kinh thánh là Lời Chúa, mà Lời Chúa thì chính xác đến độ “một chấm, một phẩy cũng không sai” (x. Mt 5:18) . Đọc sách là thời gian tĩnh lặng, giúp tâm hồn lắng đọng, có thể thấy rõ mình hơn.

7. Sống Đức Tin

Bạn đã loan truyền Phúc âm bao nhiêu lần cho bạn bè hoặc gia đình? Truyền giáo không phải đi xa tới nơi này, nơi nọ, mà có thể là truyền giáo ngay trong gia đình, cho bạn bè, cho láng giềng, thậm chí là tái truyền giáo cho chính mình bằng cách sống thể hiện đức tin. Nếu có điều kiện thì làm như Thánh Phanxicô Xaviê, không thì hãy bắt chước “bông hoa nhỏ” Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Sống đức tin là gieo hạt yêu thương, làm nảy mầm bác ái, bảo vệ công lý, tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Cứ  hiểu nhân quyền một cách đơn giản là “quyền sống của con người” để cảm thấy không “nặng nề”. Cứ hành động, đừng lo đến kết quả, như Thánh Phaolô nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1 Cr 3:6-7).

8. Hiểu và cảm thông lẫn nhau

Trong hàng tỷ chiếc lá chẳng có hai chiếc lá giống nhau. Con người cũng vậy. Mỗi người là một cá thể với trình độ và hoàn cảnh sống khác nhau, như tục ngữ nói: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Vì thế người này cần chịu đựng người kia, cảm thông lẫn nhau, hiểu và tha thứ cho nhau. Đó là Luật Yêu Thương của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Còn Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng mắc nợ gì ai ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Cuộc sống nhiêu khê, nhiều vấn đề phức tạp, khó tránh khỏi xung đột. Ngay cả cha mẹ và con cái cũng vẫn xung khắc, ngay cả vợ chồng cũng vẫn bất đồng ý kiến, ngay cả trong các dòng tu cũng vẫn xảy ra tranh chấp. Vấn đề là khiêm nhường, hiểu biết và cảm thông.

9. Giúp người khác sống đạo đức hơn

Nghe chừng đơn giản nhưng lại cần nhiều can đảm mới có thể giúp người khác sống đạo đức hơn – nói chung, và siêng năng tham dự các giờ phụng vụ tại nhà thờ – nói riêng. Giúp người trong gia đình hoặc bạn bè cùng tôn giáo đã là khó, huống chi với người khô khan đạo hạnh. Thậm chí có những người sẽ cho là bạn “lên mặt đạo đức” hoặc “lên lớp” họ. Khó lắm, thế nên phải tế nhị và khéo léo lắm. Tuy nhiên, việc giúp người khác sống đạo đức hơn là nhiệm vụ truyền giáo chung: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).

Năm Quý Tỵ, năm con Rắn, xin chúc mọi người năm mới hạnh phúc và thánh thiện, khôn ngoan như con Rắn chứ đừng xảo quyệt như con Rắn. Việt ngữ khó diễn tả “hết ý” như Anh ngữ: HAPPY NEW YOU and HOLY NEW YOU. Thiết nghĩ đó là một cách nói và là lời chúc hay với bất kỳ ai.

TRẦM THIÊN THU

Giao thừa Tết Dương lịch 2013

Maria Thanh Mai gởi

Niềm tin người ngoại đạo

Niềm tin người ngoại đạo

Trầm Thiên Thu
Giáng Sinh luôn có điều gì đó kỳ diệu mà người ta khó có thể diễn tả một cách trọn vẹn. Theo thiển ý của tôi, điều kỳ diệu đó rất có thể là NIỀM TIN. Vì niềm tin vô hình và trừu tượng nên khó nhận biết, khó nhận biết nên khó diễn tả. Ngay cả những người không có niềm tin tôn giáo hoặc vô thần cũng vẫn có niềm tin, nhất là khi người ta cảm thấy bất lực, đành thúc thủ, người Công giáo gọi niềm tin đó là Đức Tin.
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (1) không là người Công giáo nhưng vẫn ảnh hưởng “điều
kỳ diệu” của Lễ Giáng Sinh, bằng chứng là ông đã viết ca khúc “Lạy Chúa, con là
người ngoại đạo”.
Tuy là người ngoại đạo, nhưng ông xác định: “Lạy Chúa tôi, con người không đạo,
nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Ca khúc này được viết trong thời chiến tranh tại
Việt Nam, ông đã thổ lộ với Đức Chúa về thực tại lúc đó: “Con nghe trong đêm
Việt Nam tối tăm, những mìn bom hoen dấu”. Chỗ nào cũng thấy dấu đạn, mìn,
bom,… Đáng sợ thật! Không ai làm gì được. Và ông thắc mắc: “Lạy Chúa trên cao
Chúa ở nơi nào?”. Không chỉ người ngoại đạo “thắc mắc” mà chính những người
mang danh Kitô hữu cũng đã có những lúc “thắc mắc” như vậy khi gặp vấn nạn mà
Ông Trời vẫn im lặng!
Tuy có vẻ “mơ hồ” như vậy, nhưng ông vẫn tin: “Lạy Chúa tôi, tuy người không
đạo, nhưng yêu nhớ lắm nhạc chuông khuya”. Ông không nói rõ, mà ông chỉ nói
theo cách diễn tả của một nhạc sĩ rằng ông “yêu và nhớ nhạc chuông khuya”. Nhạc
chuông khuya không phải nhạc chuông điện thoại reo lúc đêm khuya, mà đó là
“chuông nhà thờ đổ vang lúc cử hành Thánh lễ đêm Giáng Sinh”. Nhiều năm trôi
qua, ông đã quen và thấy nhớ tiếng chuông đó.
Vì thấy thiếu cái gì đó, ông lại hướng tâm lên Đấng mà ông tin: “Khi con bơ vơ
chắp tay nguyện cầu cho người thương còn xa mãi xa, mà suốt đêm dài ánh sáng
chưa qua”. Người thương mà ông cầu nguyện cho có thể là người yêu, người thân,
hoặc chính những người Việt ở khắp đất nước bốn ngàn năm văn hiến này.
Bản thân ông cũng là một binh sĩ thời chiến, nhưng ông hoạt động trong lĩnh vực
tâm lý chiến, ông mô tả một thực tế đau thương: “Xác người nào trôi sông, quay
đầu về biển Đông, những bước chân nào đi, có khi không trở lại. Đứa nhỏ ngồi ôm
em, không còn nghe đạn nổ, một người phơi tóc bạc, đếm thầm 20 năm”. Chiến
tranh là thế, có người đi mà không hẹn ngày về, đứa bé ngồi ôm đứa em chết trên
tay, cha mẹ già chờ con mòn mỏi đến nỗi tóc bạc phơ màu thời gian. Gia cảnh
buồn biết bao!
Những điều thực tế đó cho thấy con người hoàn toàn bất lực, do đó mà người ta
phải tin tưởng trọn vẹn vào một Đấng-Ngự-Trên-Cao. Ông bày tỏ
niềm-tin-của-người-ngoại-đạo: “Chúa ơi, Chúa ơi, con người không đạo, nhưng tin
Chúa giúp đời thương đau”. Không ai có thể cứu giúp cuộc đời đầy đau thương
này, ngoại trừ Thiên Chúa. Và rồi ông dẫn chứng: “Như con tin trong một lần đã
lâu, những hờn đau thu ngắn, để đám mây hồng âu yếm giăng ngang”.
Rõ ràng đã có lần ông tin Đấng-Ngự-Trên-Cao, rồi ông được giảm bớt đau khổ, và
lại còn được “đám mây hồng âu yếm giăng ngang” – tức là ông thực sự cảm thấy sự
bình an trong tâm hồn. Vậy là Thiên Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của ông, và đó
cũng chính là phép lạ dành cho ông – một con người thương nước, thương dân, và
luôn khao khát hòa bình.
Khi NS Trần Thiện Thanh chưa đi định cư tại Hoa Kỳ, tôi có dịp gặp ông 2 lần
tại Saigon, khi ông đi hát ở mấy tụ điểm ca nhạc, những nơi mà tôi sinh hoạt về
âm nhạc. Ông rất bình dị và hay cười, điều đó chứng tỏ ông là người có tâm hồn
tốt lành. Thiết tưởng, cuộc sống của NS Trần Thiện Thanh rất gần với Thiên
Chúa, vì ông là người-ngoại-đạo-có-niềm-tin-vào-Chúa.
Nói về niềm tin, hẳn có nhiều người biết bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo
Tím” của Thi sĩ Kiên Giang (2). Bài thơ nổi tiếng này đã được một nhạc sĩ phổ
nhạc và cũng khá phổ biến. Thi sĩ Kiên Giang cũng có niềm tâm sự của một
người-ngoại-đạo-có-niềm-tin. Khổ thơ cuối của bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên
Áo Tím” được ông kết bằng một lời cầu nguyện chân thành:
Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!
Ngay cả những người ngoại đạo cũng phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi,
huống chi những người đã và đang có niềm tin vào Thiên Chúa, biết tín thác vào
Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế từ trời sinh xuống gian trần.
Kinh thánh cũng cho biết một số người ngoại đạo mà lại liên quan niềm tin tôn
giáo. Trên đường lên Can-vê, Chúa Giêsu đã được ông Simon vác đỡ Thập giá. Ông
Simon là người ngoại đạo thuộc xứ Kyrênê (Lc 23:26).
Và rồi một hôm, khi Đức Giêsu vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội
trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm
liệt ở nhà, đau đớn lắm”. Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó”. Viên đại đội
trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói
một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8:5-8). Chúa Giêsu đã khen đức tin
của viên đội trưởng, rồi Ngài nói thẳng: “Từ phương đông phương tây, nhiều
người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước
Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó
người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8:11-12).
Thánh sử Luca kể: Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa
hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, có mười người phong hủi
đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ
lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:13). Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình
diện với các tư tế”. Vì hồi đó, bệnh nhân phong nào cũng bị coi là ô uế. Đang
khi họ đi thì họ được sạch. Phép lạ nhãn tiền. Thấy mình được khỏi thì một
người trong số họ liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta
sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Mà anh ta lại là người Samari, tức là
người ngoại đạo. Thấy vậy, Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều
được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh
Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17:17-18). Rồi Người nói với
anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17:19).
Người ngoại đạo không chỉ có đức tin mạnh và còn biết trở lại để tạ ơn Chúa sau
khi được ơn. Còn 9 người có đạo lại “qua cầu rút ván”, phủi tay là xong, không
hề biết tạ ơn.
Lại một người ngoại đạo khác biết thể hiện đức tin qua việc yêu thương và giúp
đỡ người khác: Có một người trên đường đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc
đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi,
để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, một thầy tư tế đi qua con đường ấy,
trông thấy nạn nhân, nhưng ông ta tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một
thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy nạn nhân nhưng cũng tránh qua bên kia mà đi.
Sau đó, một người Samari kia đi ngang qua chỗ ấy, cũng thấy nạn nhân, và thấy
chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, băng bó vết thương cho người ấy, rồi đặt
người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy
ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có
tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” (Lc 10:35).
Người ngoại đạo mà sống đức tin cụ thể như vậy đó. Còn những người có chức vụ
và quyền hành trong Giáo hội lại nhẫn tâm làm ngơ, giảng hay mà làm không hay.
Chúng ta mệnh danh là Kitô hữu nhưng cũng chỉ là cái “mác”, là “nhãn hiệu”,
hành động có khi còn trái ngược! Những người hoạt động Lòng Chúa Thương Xót và
Giáo huấn Xã hội Công giáo cũng chưa thực sự khá hơn. Đức tin bị mai một hay đã
chết?
Chúa Giêsu hỏi: “Trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã
bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10:36). Lúc đó, người thông luật trả lời: “Chính
là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (Lc 10:37a). Đức Giêsu bảo
ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10:37). Lời này cũng là lời
Chúa Giêsu nói riêng với mỗi chúng ta.
Thánh sử Gioan nói: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nổi đã ban Người Con
Một, để ai tin nhận Người Con đó thì sẽ không phải chết nhưng được sống muôn
đời” (Ga 3:16). Tin bằng môi miệng thì ai cũng tin được, tin bằng hành động cụ
thể mới là điều Chúa muốn. Vậy mà nhiều người ngoại đạo đã làm được. Bạn có
thấy xấu hổ không?
Ngay đêm Chúa Giáng Sinh, một Ánh Sao Lạ xuất hiện trên bầu trời Belem. Những
người tai to mặt lớn, chức quyền cao sang đã tìm những chuyên gia cắt nghĩa lời
ngôn sứ, nhưng họ chỉ như vịt nghe sấm, miệng chữ A và mắt chữ O. Tới khi những
người ngoại đạo từ phương xa tới và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở
đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng
tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2). Vua Hêrôđê lúc đó mới tá hỏa tam tinh!
Tại Belem năm ấy, tại nhiều nơi ngày nay cũng đã và đang có những người thốt
lên lời cầu nguyện chân thành như NS Trần Thiện Thanh: “Lạy Chúa, con là người
ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao”.
Trầm Thiên Thu

Chính tình yêu là một tặng phẩm hoàn hảo

 

Chính tình yêu là một tặng phẩm hoàn hảo

Trầm Thiên Thu

Hai tuần trước lễ Giáng Sinh, tôi rời khu ngoại ô với một ít bạn bè để rảo quanh các đường phố Los Angeles. Tôi vừa đi vừa hát nhỏ: “Chuông leng keng, chuông leng keng, chuông giáo đường âm vang…”. Nhưng tôi không thấy những đứa trẻ cười và người qua lại, nụ cười ẩn giấu sau nụ cười”.

Tôi gặp hàng trăm người vô gia cư, những con nghiện tụ tập chỗ này chỗ nọ. Họ
xách theo những chiếc bịch ni-lông chứa các vật dụng thường, trong khi những
dãy nhà, những người mua sắm tranh thủ về nhà từ các cửa tiệm.

Không có gì mang vẻ ngày nghỉ. Tôi mong chờ Chúa can thiệp và nhắc nhớ tôi về
mùa lễ hội.

Qua ngày thứ hai của hành trình, người hướng dẫn mời chúng tôi nhìn ngắm khu
Metro Kidz. Chúng tôi theo chiếc xe đẩy phát bữa trưa, được vẽ những hình nghệ
thuật thánh graffiti, khi xe vòng quanh khu nhà nghèo. Âm nhạc âm vang từ những
chiếc loa và kéo theo hàng trăm trẻ em tới một hẻm cụt tĩnh lặng. Đủ lứa tuổi,
từ chập chững tới thiếu niên, chúng ùa theo. Mọi người cùng phát quà cho chúng.

– Em nào muốn chơi trò chơi?

– Con, con. – Một đứa trẻ nói với giọng tự tin.

– Để con, để con. – Cả đám đồng thanh hô theo.

Niềm vui lan tỏa và tôi mỉm cười.

– Được rồi. Chúng ta sẽ chơi và có thưởng. Tôi muốn kể chuyện Giáng sinh. Bao
nhiêu người đã từng nghe chuyện về Hài nhi Giêsu?

Hầu như mọi cánh tay đều giơ lên. Tôi ngồi bắt chéo chân giữa những đứa trẻ nói
cười khúc khích, có một đứa bé bò vào lòng tôi và ngủ ngon lành. Có gì đó chạm
vào cạnh sườn tôi. Quay lại tôi thấy một bé gái xinh xắn có mái tóc xoăn. Bím
tóc có chiếc kẹp hình cầu vồng đa sắc. Đôi mắt sáng và to. Tôi hỏi:

– Chào con. Tôi là Sandy. Con tên gì?

Nó có vẻ bẽn lẽn, mắt nhìn xuống đất, nói nhỏ:

– Con tên Erika.

– Con bao nhiêu tuổi? – Vừa hỏi tôi vừa đặt tay lên vai nó.

Erika vừa cười vừa nói:

– Con 5 tuổi.

– Con muốn chơi hả?

Nó nắm tay tôi, lắc đầu và nói:

– Không.

– Được rồi. Chúng ta ngồi xem nha.

Phần thưởng là đồ ăn, đồ chơi và sách được trao cho những em dự thi. Người
thắng nhận phần thưởng và giơ cao lên cho mọi người thấy.

Chúng nói với nhau:

– Xem bạn có gì nè!

Cuối cùng, đến lúc nghe truyện Giáng sinh và học những câu kinh thánh mới.

– Nghe đây! Chúng ta có vài phần thưởng nữa. Lắng nghe cho kỹ và trả lời nha
các con!

Ngồi giữa những đứa trẻ nghèo ở đường phố Los Angeles, Tôi rất vui và hạnh
phúc. Tôi nghe truyện về hai cha mẹ phải ở trong chuồng bò vì không còn quán
trọ cho họ. Tôi cảm thấy đứa bé ngủ trong lòng tôi như đứa trẻ được bọc trong
khăn và bú mẹ.

Erika lắng nghe câu chuyện đêm vọng Giáng sinh và nhích tới một chút. Nó chăm chú
nhìn và kiên nhẫn chờ phần thi.

– Hôm nay là câu kinh thánh trong thư thánh Giacôbê 1:17. Tôi sẽ đọc và các con
lặp lại nha. Mỗi món quà tốt đẹp và hoàn hảo đều đến từ Chúa Cha.

– Mỗi món quà tốt đẹp và hoàn hảo đều đến từ Chúa Cha. – Các em đồng thanh lặp
lại.

– Cảm ơn con đã lắng nghe. Con được nhận phần thưởng.

Erika giơ cao món quà gói giấy đỏ. Tôi chú ý mặt nó ngời sáng và miệng cười
tươi. Các em khác mở quà của mình ra xem, nhưng Erika không mở quà. Nó nhìn đứa
bé ngủ trong lòng tôi, rồi nó nói nhỏ vào tai tôi:

– Hôm nay con có quà Giáng sinh cho em con rồi.

Không biết đó là món quà gì, nó trao quà cho em nó. Tôi cảm động và rơi nước
mắt. Tấm lòng của Erika như Chúa Giêsu vậy. Mới 5 tuổi nhưng nó biết yêu thương
là món quà hoàn hảo, và tặng phẩm tốt nhất là biết yêu thương người khác.

(Chuyển ngữ từ Chicken Soup for the Soul)

Trầm Thiên Thu