TUỔI GIÀ, KHI THIẾU MỘT NGƯỜI BẠN ĐỜI

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều

Trong cuộc sống, nhất là khi về già, một trong những điều quan trọng nhất, đó là có cho mình một người bạn đời. Nếu người ta không may, vì mộ lý do nào đó, ví dụ như ly hôn, hay một trong hai người kia ra đi quá sớm, mà phải sống cuộc đời còn lại một mình đơn lẻ, thì quả là một điều bất hạnh.

Bởi vì, người bạn đời là một trong những yếu tố quan trọng, để quyết định cho bạn có một cuộc sống trong quãng thời gian còn lại, hạnh phúc và viên mãn kể cả khi bạn nghèo, thậm chí nó còn giúp cho bạn kéo dài thêm tuổi thọ.

Thật vậy, các bạn thử nghĩ xem, khi con người ta bắt đầu bước sang cái tuổi xế chiều, với những năm tháng của cuộc đời, mà phải sống trong cô đơn và im lặng, thì sẽ buồn như thế nào.

Đến bữa ngồi ăn một mình, và tối đến đi ngủ cũng một mình, đêm đêm khi tỉnh giấc, nhìn sang bên cạnh cũng chẳng có ai, sáng sáng tỉnh dậy, cũng vẫn chỉ một mình…thì đó là một điều đáng sợ và buồn tủi.

Cuộc đời này, người sống bên bạn lâu nhất, không phải là bố mẹ và con cái, cũng không phải anh em hay bạn bè, càng không phải là đồng nghiệp hay người yêu, mà chính là người bạn đời. Đấy mới thực sự là người duy nhất chung sống bên bạn suốt đời.

Bạn bè, dù có chân thành đến mấy, cũng không thể ở bên bạn mãi mãi. Bố mẹ, dù có tốt đến mấy, cũng không thể sống với bạn cả đời. Con cái, có thân thương là vậy, cũng không thể sống mãi bên cạnh bạn, rồi cũng có lúc chúng vỗ cánh bay đi, để có một cuộc sống riêng.

Anh em, dù có là máu mủ ruột thịt thân tình, cũng không thể ở bên bạn mỗi ngày, cũng không thể chăm sóc bạn những khi “Tối lửa tắt đèn”. Chỉ có vợ chồng, người mà ta vẫn thường gọi là bạn đời, mới có thể chung sống và bên bạn lúc sớm chiều.

Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi khi nhìn thấy những cụ ông, cụ bà với mái tóc bạc phơ, dắt tay nhau từng bước đi bộ trên đường, tôi rất ngưỡng mộ.

Lúc đó, tôi mới hiểu được rằng, con người ta có được những khoảnh khắc hạnh phúc như vậy, họ đã phải cùng nhau trải qua không biết bao nhiêu những sóng gió gian truân của cuộc đời, để rồi, họ vẫn còn ở bên nhau, tay nắm tay, và cùng nhau đi nốt quãng đời còn lại, cho đến hết cuộc đời của mình.

Đừng vì một điều gì trong cuộc sống, mà đánh mất đi người vợ hay người chồng của mình, người mà hằng ngày vẫn hết mực yêu thương mình nhất. Vì suy cho cùng, họ mới chính là người sẽ ở lại bên bạn, và sống với bạn trong cuộc đời này.

Chính vì thế, hãy thật trân trọng người bạn đời của mình, và trân trọng những gì mình đang có khi còn có thể !!!

Sưu tầm


 

 Hoa Kỳ Đe Dọa Đánh Thuế 245% Lên Hàng Trung Quốc: “Quả Bóng Ở Sân Bắc Kinh”

Ba’o Dat Viet

April 16, 2025

WASHINGTON – Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung lại nóng rực sau khi Tòa Bạch Ốc đêm 15 Tháng Tư công bố một sắc lệnh hành pháp mới từ Tổng Thống Donald Trump, trong đó cảnh báo mức thuế lên tới 245% sẽ được áp dụng với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, như một động thái đáp trả chính sách trả đũa gần đây từ Bắc Kinh.

Sắc lệnh này không chỉ khởi động cuộc điều tra an ninh quốc gia về các nguồn tài nguyên quan trọng, mà còn làm rõ lý do vì sao Trung Quốc là quốc gia duy nhất bị loại khỏi danh sách tạm hoãn áp thuế trong khi hơn 75 quốc gia khác đang tích cực đàm phán thương mại với Mỹ.

Theo Tòa Bạch Ốc, Bắc Kinh đã trả đũa bằng cách tăng thuế lên hàng hóa Mỹ đến 125%, nhằm đáp lại mức thuế 145% mà Mỹ áp đặt trước đó. Không những thế, Trung Quốc còn đình chỉ xuất khẩu một loạt tài nguyên chiến lược, bao gồm gali, germani, antimon – những nguyên liệu có vai trò sống còn trong các ngành công nghệ cao và quân sự.

Trong tuần qua, Trung Quốc tiếp tục gây sức ép bằng cách ngưng xuất khẩu kim loại đất hiếm nặng và nam châm đất hiếm, khiến các ngành công nghiệp then chốt của Mỹ như sản xuất ô tô, hàng không vũ trụ, chip bán dẫn và quốc phòng đứng trước nguy cơ thiếu hụt nguồn cung nghiêm trọng.

“Trung Quốc hiện phải đối mặt với mức thuế lên tới 245%, điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử thương mại giữa hai nước,” tuyên bố từ Tòa Bạch Ốc cho biết. Dù vậy, chi tiết cụ thể về loại hàng hóa bị áp mức thuế này vẫn chưa được công bố.

Trong khi các nước khác phản ứng với chiến lược thương mại “Nước Mỹ trên hết” bằng cách tìm kiếm các thỏa thuận song phương với Washington, thì Bắc Kinh lại chọn cách im lặng trước lời đề nghị đàm phán từ phía Mỹ và tiếp tục gia tăng sức ép.

Về phía Trung Quốc, chính quyền Bắc Kinh lên tiếng kêu gọi Mỹ “ngừng gây áp lực” nếu thực sự muốn đối thoại, đồng thời tuyên bố sẵn sàng đương đầu với bất kỳ cuộc chiến thương mại nào. “Chúng tôi không sợ,” tuyên bố từ Bộ Thương Mại Trung Quốc khẳng định.

Tuy nhiên, phía Mỹ lại cho rằng mọi quyết định giờ đây phụ thuộc vào Trung Quốc. Thư ký báo chí Tòa Bạch Ốc Karoline Leavitt tuyên bố:

“Quả bóng đang ở trong sân Trung Quốc. Họ phải đi bước trước nếu muốn có thỏa thuận. Chúng ta không cần họ, họ cần chúng ta.”

Với tuyên bố cứng rắn này, căng thẳng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới tiếp tục leo thang, đặt ra những hệ lụy tiềm ẩn đối với chuỗi cung ứng toàn cầu, thị trường tài chính, và các ngành công nghiệp chiến lược từ Mỹ đến châu Á. Câu hỏi lúc này là: Liệu Bắc Kinh sẽ lùi bước, hay sẵn sàng lao vào cuộc đối đầu thuế quan tốn kém không có hồi kết?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một tỉ người Tầu

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

Ba’o Dan Chim Viet

15/04/2025

Gần hai năm trước, tôi có một bài báo ngắn được phổ biến trên trang Đàn Chim Việt. Mãi đến cuối tháng rồi, vẫn còn có đôi vị “độc giả” gửi lời bình luận. Xin đơn cử một: “Ông Nội – says (20/09/2014 at 15:12): Nơi đây – Có được mấy con vện vàng 3 khoang, sủa theo bồi bút Tàu gian họ Tưởng này?”

Đây là lần gần nhất, chứ không phải là duy nhất – kể từ khi ông Hồ Quang Lợi, Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội, tổ chức nhóm chuyên gia đấu tranh tham gia bút chiến trên internet – tôi bị qúi vị “chuyên gia đấu tranh” buộc tội là… “Tàu gian!”

Sự cáo buộc này, nói nào ngay, không hoàn toàn vô cớ vì tôi nói được tiếng Hoa. Chỉ tiếc là vốn liếng Hoa Ngữ của tôi vô cùng giới hạn, vỏn vẹn chỉ có mỗi một câu thôi: “Bỉ ngộ dách mánh mìn báo.”

Đó cũng là câu ngoại ngữ đầu đời tôi học được từ một phụ nữ Trung Hoa. Có hôm, bà rụt rè đến xin mẹ tôi cho được để nhờ trước cửa nhà một cái thúng bán bánh mì vào buổi sáng.

Bên trong cái thúng này là một lò than be bé, với xoong xí mại đặt bên trên, cùng với vài chục ổ bánh mì nho nhỏ. Bánh mì xí mại giá hai đồng. Một đồng chỉ có bánh mì không rưới thêm nước thịt, kèm mấy cọng dưa chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt đỏ au.

Bà cụ không rách rưới nhưng trông rất lôi thôi và tàn tạ: bộ quần áo xẩm lùi xùi, cái nón cói cong vành (hẳn là phải mang từ cố quốc) bao quanh một khuôn mặt già nua, buồn bã và cam chịu.

Dù mỗi sáng tôi chỉ mua một đồng bánh mì thôi (dách mánh mìn báo) nhưng luôn luôn được bà ưu ái cho (thêm) một viên xí mại, kèm theo một nụ cười hiền… miễn phí.

Thế là mỗi sáng tôi có dư ra được một đồng. Đồng bạc còn lại, tôi mang “nộp” ngay cho bà cai trường – người có một mẹt hàng khiến cho tất cả những đứa trẻ con (con nhà nghèo) như tôi đều phải thèm thuồng: me ngào, cóc và xoài xanh ngâm nước đường, mức dừa, kẹo cau, đậu phụng, bánh qui, quả mác mác, quả sim hay say chín…

Tôi suýt chết cái tên là “Tiến bánh mì xí mại” thì bà cụ đột ngột qua đời. Từ đó, thỉnh thoảng, trong xóm vẫn còn có tiếng rao (“loong sữa pò, de chai, pao pán hông”) của cụ ông nhưng nghe yếu hẳn ớt và buồn bã hơn nhiều.

Hình ảnh những người khách trú trong trí tưởng ấu thời (xa xôi) của tôi, xem ra, hoàn toàn khác xa với của qúi vị “thương lái” Trung Quốc ngày nay – ở Việt Nam:

Từ việc mua đuôi trâu, móng trâu, rễ hồi, ốc bươu vàng tới việc sẵn sàng thu mua phế liệu, đỉa, cá cơm với giá cực cao – những hành động tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại ẩn chứa những dụng ý sâu xa của lái thương Trung Quốc…

Thâm độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao “trên trời”, đẩy từng đoàn “đồng tặc” lùng sục chặt trộm dây đồng từ các đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia. Sau đó là thu mua cáp quang phế liệu với mức giá trên trời.

Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp quang viễn thông, thì dân chúng mới “ngã ngửa” ra mục đích sâu xa của chúng là phá hoại con đường huyết mạch thông tin của Việt Nam…

Tôi chưa bao giờ có dịp gặp gỡ những vị “thương lái TQ” có ý đồ “thâm độc” và “phá hoại” như thế nhưng lại có dịp tiếp xúc (qua sách vở) với nhiều người Tầu khác: Lão Tử, Khổng Tử, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Mạnh Hạo Nhiên, Kim Thánh Thán, Lỗ Tấn, Ba Kim, Kim Dung, Lâm Ngữ Đường, Mặc Ngôn, Trương Hiền Lượng, Lưu Hiểu Ba, Dương Kế Thằng…

Tam Giáo (Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo) ở Việt Nam có đồng quy hay không là điều mà tôi hoàn toàn không “bảo đảm,” và cũng không dám lạm bàn nhưng tôi biết chắc chắn là cá nhân mình – đôi lúc – có hơi bị quân tử Tầu (chút xíu) là do ảnh hưởng của Khổng Phu Tử và… Kim Dung!

Cũng không ít lúc tôi trở nên… “thoát tục” (và văng tục: “Đ…má, tao đéo care cái con cặc gì ráo trọi”). Thái độ sống “vô vi” này, không chừng, tôi bị lây từ Lão Trang. Chắc là hai thằng chả chớ còn ai vô đây nữa?

Bởi vậy, thỉnh thoảng, quí vị dư luận viên vẫn gọi tôi là “Tầu Tưởng” (tưởng) cũng không trật chi nhiều – dù tôi chưa đến Trung Hoa bao giờ và vẫn ao ước có dịp được sống ở đất nước này (vài ngày) cho biết.

May mắn sao, tháng rồi, tôi vớ được cuốn Đèn Cù của ông Trần Đĩnh. Tác giả có cơ hội đi “du học” ở tuốt bên Tầu, nhiều năm, và chuyện ông kể về dân tộc này cứ khiến tôi cứ suy nghĩ mãi:

Bữa ấy tôi đang đọc báo chữ to gần Da Xan Ting – Đại thiện đình (Nhà ăn lớn). Một sinh viên Trung Quốc đến bên tôi. Trắng, đẹp, kính trắng, mắt hiền.

– Xin lỗi, anh là lưu học sinh Việt Nam?

– Vâng, còn anh ala Thượng Hải? (ala tiếng Thượng Hải là chúng ta, chúng tôi).

– Tôi là… (anh nói tên nhưng tôi không nhớ), muốn nói chuyện một ít với anh, có được không?

Anh nhờ tôi chuyển cho sứ quán Việt Nam một thư đề nghị Bắc Việt Nam hãy tôn trọng hiệp định Genève, đình chỉ đưa quân và vũ khí vào trong Nam cũng như rút lực lượng đã phi pháp cài lại từ 1954.

– Làm gì có chuyện ấy nhỉ?

Hoàn toàn bị xúc phạm, tôi vừa ngớ ra ngạc nhiên vừa khó chịu. Anh đốt đảng anh thôi chứ lại định đốt cả đảng tôi nữa ư?

– Có, đài nước ngoài thường xuyên lên án, tố cáo Bắc Việt Nam.

– Sao anh tin những thứ ấy?

– Đọc các đại tự báo đây anh có tin không?

Tôi quay đi và nói:

– Tôi không chuyển thư anh được vì bận và vì ý kiến của anh thiếu cơ sở.

Nhưng từ hôm ấy, tôi bỗng cứ lởn vởn nghĩ ta có vi phạm hiệp định Genève thật không? Chả lẽ ta chính nghĩa lại bội ước? Chả lẽ bản chất ta hòa bình lại thích chiến tranh?

Lúc ấy thật tình tôi không biết đảng có phương án kế hoạch cài cán bộ và quân lính ở lại miền Nam cũng như tiến hành nghiên cứu ngay từ đầu hình thế bờ biển để sau này lập “đội thuyền không số” có cơ sở ở huyện Thuỷ Nguyên. v.v…

Tuần sau tình cờ tôi gặp anh “Thượng Hải” ở gần Đại lễ đường. Anh đi với một cô gái trăm phần trăm Shang hai gu niang, Thượng Hải cô nương. Cô gái nhìn tôi như có ý hỏi anh bạn đi bên: “Cha từ chối đưa thư đấy phải không?”

Không nghe thấy nhưng tôi cáu – đinh ninh cô gái nói nei jia huo, thằng cha kia. Cùng lúc thấy cô gái rất đẹp. Picasso có lẽ lấy mẫu kiểu tóc đuôi ngựa ở cô gái thanh tú này.

Chẳng hiểu sao tôi rẽ ngoắt luôn. Tức. Không, có cả ghen vớ ghen vẩn.

Khi chống phái hữu, nhiều giáo sư, sinh viên bị đưa đi, tôi có ý tìm anh “Thượng Hải”. Không thấy nữa. Nghĩ cô gái Thượng Hải nếu không xuống nông thôn lao động cải tạo – để bị người ta cưỡng hiếp, chửa hoang và treo cổ chết – thì chắc phải bỏ học và bỏ cái đuôi ngựa “văn hoá đồi truỵ phương Tây”, tôi bỗng bồn chồn cùng ân hận lạ lùng.

Tôi chưa hiểu với tôi những ông thày sống động đầu tiên chỉ ra con đường và cách thức đấu tranh cho dân chủ chính là làn sóng “phái hữu” trong đó có anh sinh viên cùng cô bạn gái xinh đẹp của anh. Sau này trong gian nan phải chịu đựng tôi mới nhận ra hình ảnh của họ càng đậm nét trong tôi.

Nhưng tại sao anh sinh viên đeo kính trắng lại chọn tôi để nhờ chuyển thư phản đối ta “phạm pháp” đưa súng ống, binh lính vào Nam? Anh đọc thấy gì ở trên mặt tôi. Một hừng sáng nào đó ư? Một kiểu Nàng Kiều với Đạm Tiên ngày Thanh Minh.

Tôi còn một bạn học, người Nam Kinh. Lúc “phái hữu” lên tiếng, anh từng bảo tôi:

– Chắc cậu cũng biết truyện “cô gái quàng khăn đỏ?” Chúng ta đấy. Cũng quàng khăn đỏ cả mà. Hỏi bà ơi, tại sao tai bà to thế? Bà nói: Để bà nghe thấu bọn phản động chúng nó thì thào. Thế sao mắt bà sáng thế? À, sáng mới thấy được chỗ chúng nó ẩn nấp. Còn răng? Sao răng bà to thế? Răng bà to để ăn thịt những đứa khỏe thắc mắc về bà… như cháu. Ăn luôn.

Tôi hỏi anh:

– Người Trung Quốc nghĩ như cậu có nhiều không?

– Zen ma shuo ya? Nói sao nhỉ? Một nửa đi. Nhưng nửa kia có loa ở mồm và có súng trên tay.  (Trần Đĩnh. Đèn Cù, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Đó là “một nửa nước Trung Hoa” khi mới rơi vào tay đám cộng sản Tầu. Cho tới khi xẩy ra biến cố Thiên An Môn thì tôi tin rằng không phải là một nửa mà có đến ba phần tư dân số nước này đã trở nên “phản động.”

Đến sáng nay, 30 tháng 9 năm 2014, South China Morning Post đi tin:

“Hàng chục ngàn người đang chiếm lĩnh đường phố, đòi hỏi Bắc Kinh phải cải cách dân chủ.” Bây giờ thì tôi tin rằng bốn phần năm người Tầu cũng đang muốn thoát Trung (cộng) y như tuyệt đại đa số dân Việt hiện nay.

Hồng Kông 2014. Ảnh: Dickson Lee. Nguồn: South China Morning Post

Nói cách khác là dân Việt có một tỉ người Tầu đồng cảnh nhưng dường như không mấy ai để ý đến điều này – trừ nhà báo Lê Phú Khải. Ông nói chắc (như bắp) thế này đây: “Bắc Kinh sợ nhất cái gì?…Sợ nhất Việt Nam dân chủ. Vì, Bắc Kinh giống hệt Hà Nội: Đang ngồi trên kho thuốc nổ.”

Chế độ đảng trị độc tài ở Trung Quốc đã tạo ra những mâu thuẫn đối kháng trong lòng nó và không có cách nào hóa giải được…

Một Việt Nam cải cách chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền lúc này là tiếng sét ngang tai đối với độc tài đảng trị ở TQ. Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng triệu trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.

Chữ “triệu” trong đoạn văn thượng dẫn được cho in đậm vì tôi tin rằng ông Lê Phú Khải viết lộn nên xin phép được viết lại: “Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng tỉ trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.”

Chúng ta nên ứng xử khôn ngoan hơn với một tỉ đồng minh (cùng khổ) đang sống kề bên


 

MỘT LẦN TẶNG, MUÔN LẦN TRAO – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Này là mình Thầy!”.

“Người khôn ngoan không coi trọng món quà của người yêu cho bằng tâm tình của người tặng. Chúa Giêsu vừa là người yêu, vừa là người tặng! Độc đáo hơn, món quà Ngài tặng chính là mình Ngài. Không chỉ một lần, Ngài tặng trao mỗi ngày! Một lần tặng, muôn lần trao!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý nghĩa Thánh Lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh có thể được tóm gọn trong hai từ: “Tự Hiến!”. Vì yêu thương đến cùng các môn đệ và những ai sẽ dõi bước theo Ngài, Chúa Giêsu đã tự hiến đến ‘ba lần’ vào hai buổi chiều cuối đời; nhưng không chỉ ‘ba’, Ngài tự hiến đến ‘n’ lần, muôn lần! Bởi lẽ, mỗi ngày, trên các bàn thờ, Ngài tiếp tục tự hiến cho đến tận thế. Ngài quả là một món quà ‘một lần tặng, muôn lần trao!’.

Chính trong bữa tiệc yêu thương mà người Do Thái phải cử hành hằng năm – bài đọc một – Chúa Giêsu tự hiến khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Cũng trong bữa tối đó, Ngài tự hiến dưới hình thức của ăn của uống khi cầm lấy bánh rượu thiết lập Bí tích Thánh Thể – thiết lập chức Linh mục – “Hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Thầy!”, “Hãy nhận lấy mà uống, này là Máu Thầy!”. Trong thư Côrintô hôm nay, Phaolô viết, “Mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết!”.

Như vậy, khi cúi xuống rửa chân các môn đệ hay khi cầm bánh rượu là chính Thịt Máu Ngài để trao cho họ, Chúa Giêsu đã tiên liệu một món quà ít trừu tượng hơn, thiết thực hơn mà Ngài sẽ trao vào ngày hôm sau: một thân xác rách bươm đỏ một màu máu trên thập giá. Vì thế, chỉ trong hai ngày Tuần Thánh đầu tiên ấy, Ngài đã tự hiến chính mình đến ba lần. Và còn hơn thế! “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!”; với các Linh mục của Ngài, mầu nhiệm đức tin đó còn được cử hành liên lỉ trên các bàn thờ. Qua Bí tích này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tự hiến phục vụ lẫn nhau. Khi chúng ta phục vụ nhau, Ngài tiếp tục phục vụ mỗi người; và qua chúng ta, Ngài phục vụ những người khác trên toàn thế giới, nhất là những ai đang thiếu thốn. Bởi đó, Món Quà Giêsu không chỉ được trao một lần, ba lần, nhưng liên lỉ trao đến tận thế!

Anh Chị em,

“Này là mình Thầy!”. “Chúa Giêsu muốn ở lại với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể và chúng ta trở thành nhà tạm của Chúa, mang Chúa theo với chúng ta. Rửa chân, cử chỉ này là điều kiện để vào Vương Quốc. Vâng, để phục vụ mọi người. Nếu tôi không để Chúa là ‘tôi tớ’ của tôi, không để Chúa rửa sạch tôi, giúp tôi lớn lên, tha thứ cho tôi, thì tôi sẽ không vào Vương Quốc. Và cả chức Linh mục nữa. Hôm nay tôi muốn gần gũi với tất cả Linh mục từ những người mới được thụ phong cho đến Giáo hoàng. Tất cả chúng ta đều là Linh mục. Chúng ta được Chúa xức dầu để cử hành Bí tích Thánh Thể, được xức dầu để phục vụ” – Phanxicô. Thánh Thể nuôi dưỡng phục vụ; phục vụ, hiện thực hoá Thánh Thể. Hãy để Thứ Năm Tuần Thánh; hãy để Thánh Thể dạy chúng ta tự hiến như Ngài mỗi ngày, chết cho mình, khiêm nhường phục vụ tha nhân và yêu như Ngài đã yêu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, nhờ việc tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con, ước chi Thánh Thể Chúa biến đổi con mỗi ngày nên ‘một Giêsu khác!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Phúc Âm: Ga 13, 1-15

“Ngài yêu thương họ đến cùng”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, con Si-môn, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Si-môn Phê-rô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giê-su đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phê-rô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giê-su bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phê-rô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giê-su nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.

Ðó là lời Chúa.


 

CHỌN LỰA NGÀN VÀNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”.

“Quả là một sự dữ khi mắc đầy lầm lỗi, nhưng sẽ là một sự dữ lớn hơn khi đầy lầm lỗi mà không nhận ra!” – Pascal.

Kính thưa Anh Chị em,

Qua Tin Mừng hôm nay, ý tưởng “một sự dữ lớn hơn” của Pascal lộ rõ nơi con người Giuđa, “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”. Giá mà Giuđa thừa nhận tội mình để ăn năn thống hối, thì quả đây là một ‘chọn lựa ngàn vàng!’.

Vậy mà đến phút này, Giuđa vẫn không nghĩ mình phản bội! Không ai biết điều gì diễn ra trong tâm trí ông lúc đó; nhưng rõ ràng, ông đã phản bội! Nhưng xem ra Giuđa không mảy may tự vấn lương tâm; có lẽ ông đã quá lún sâu trong ý định nộp Thầy nên ông phủ nhận nó, một phủ nhận chết chóc! “Phủ nhận” có nghĩa là “Tôi thậm chí không biết mình đang nói dối!”. Phải chăng vì quá tham tiền, phải chăng vì quá hụt hẫng bởi tham danh khi Thầy mình chọn con đường trị vì bằng khiêm nhu phục vụ… Vì thế, Giuđa đắm chìm trong tội và sa lầy trong đó đến nỗi không thể thừa nhận với chính mình, chứ đừng nói thừa nhận với người khác; rằng, ông đang nói dối và chuẩn bị phản Thầy.

Đây là một bài học quan trọng. Tội lỗi không bao giờ là điều thú vị khi nhìn vào nó; phải hết sức can đảm mới có thể đối diện nó! Nếu Giuđa thực sự thú nhận những gì ông sắp làm; hoặc nếu ông sấp mình dưới chân Chúa Giêsu, trước các bạn đồng môn, nói cho Thầy và anh em biết toàn bộ sự thật, thì có lẽ, hành động lương thiện này đã cứu được linh hồn và mạng sống ông. Điều này rất khó vì đau đớn và sĩ diện, nhưng nếu vượt qua, thì đó là một chọn lựa sáng suốt nhất, một ‘chọn lựa ngàn vàng!’.

Có lẽ chúng ta không ở vào thời điểm mà tội lỗi có thể dẫn đến phản bội Chúa Giêsu như Giuđa; nhưng mỗi người đều có thể tìm thấy một số loại hình phản bội của mình. Với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Linh, bạn và tôi hãy tìm khám phá một số ‘nếp tội’ hoặc một thói quen xấu vốn đã hình thành nơi bản thân. Hãy gọi tên nó; và quan trọng hơn đem nó đến cho Chúa Giêsu! Đây là một khám phá tuyệt vời nếu chúng ta dũng cảm đối mặt với một tội ‘đầu nậu’ nào đó. Điều này cho phép bạn bóc trần tội mình; chiến thắng nó, để khám phá sự tự do mà Chúa Phục Sinh muốn bạn trải nghiệm!

Anh Chị em,

“Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”. Câu hỏi này hẳn đã làm cho trái tim Chúa Giêsu tan nát. “Và câu chuyện kết thúc thế nào? Ma quỷ là một người trả lương kém: hắn không phải là một người trả lương đáng tin cậy. Hắn hứa hẹn mọi thứ, cho bạn thấy mọi thứ và cuối cùng, bỏ bạn lại một mình trong tuyệt vọng để tự treo cổ mình!” – Phanxicô. Đừng để ma quỷ thắng bạn. Lòng thương xót Chúa lớn hơn tội chúng ta vạn lần, đến nỗi nếu hiểu được nó, không ai cần phải tiếp tục chối nhận tội mình. Hãy có cho mình một ‘chọn lựa ngàn vàng!’. Chúa Giêsu sẵn sàng “nâng đỡ sự nhọc nhằn”, Ngài “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” – bài đọc một. An ủi biết bao khi chúng ta hiểu được điều này! “Lạy Chúa, đây giờ phút thi ân; vì ơn cả nghĩa dày!” – Thánh Vịnh đáp ca. Tuần Thánh, tuần Thiên Chúa thi ân!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, vẫn còn kịp! Xin giúp con dám sấp mình trước toà Cáo Giải ngay hôm nay; ở đó, Chúa đang đợi để ôm lấy con. Và đó là một chọn lựa quý hơn ngàn vàng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

********************************************************

 Thứ Tư Tuần Thánh

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 26,14-25

14 Khi ấy, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế 15 mà nói : “Tôi nộp ông Giê-su cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.” Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. 16 Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.

17 Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giê-su : “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu ?” 18 Người bảo : “Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy : “Thầy nhắn : thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy.” 19 Các môn đệ làm y như Đức Giê-su đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua.

20 Chiều đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. 21 Đang bữa ăn, Người nói : “Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người : “Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao ?” 23 Người đáp : “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. 24 Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người : thà nó đừng sinh ra thì hơn !” 25 Giu-đa, kẻ nộp Người cũng hỏi : “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao ?” Người trả lời : “Chính anh nói đó !”


 

Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (Ga 15:13)

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới! Ước mong bạn mãi mãi gắn liền với Chúa để được bình an. 

Thứ 4, TT, 16/4/2025

TIN MỪNG: Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế mà nói: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.” Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. (Mt 26:14-15)

SUY NIỆM: Sống ở đời này cái gì cũng có cái giá của nó. Cái giá của chần chừ chính là mất mát. Cái giá của thành công chính là đã trải qua nhiều lần thất bại. Cái giá của sự giàu có chính là kiệt sức, thiếu thốn về tinh thần. Cái giá của một người tử tế là chính những thử thách họ phải phấn đấu hằng ngày. Vậy còn cái giá của tình yêu là gì, nhất là tình yêu hiến mạng cho người mình yêu? Có phải là đau khổ và cái chết?

Đức Giê-su đã phải trả giá cho Tình Yêu dành cho con người bằng chính mạng sống của mình, dù Ngài biết rằng Tình Yêu ấy đang bị phản bội bởi chính tội lỗi, bởi sự thờ ơ và vô tâm của con người. Hôm nay, bạn được mời gọi biết ăn năn hối lỗi vì đã phản bội Tình Yêu ấy, để nhận ra mình luôn được yêu thương và để biết sống thế nào cho xứng đáng với Tình Yêu ấy.

LẮNG NGHE: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (Ga 15:13)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin ban sức mạnh cho con để con quyết tâm không phạm tội xúc phạm đến tình yêu lớn lao của Chúa.

THỰC HÀNH: Nghiền ngẫm Kinh Ăn Năn Tội để hối lỗi về những tội lỗi bạn đã xúc phạm đến tình yêu của Chúa dành cho bạn. 

From: Do Dzung

**********************

Còn Tình Yêu Nào Như Tình Chúa Giêsu

Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất. (Is 49:6b) – Cha Vương

Ước mong bạn cảm nhận được nguồn ánh sáng hy vọng từ Thiên Chúa là Đấng không bao giờ bỏ rơi bạn. Ngày Thứ 3 Tuần Thánh bình an nhé.

Cha Vương

Thứ 3, TT, 15/4/2025

TIN MỪNG: Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất. (Is 49:6b)

SUY NIỆM: Bạn đã bước vào Tuần Thánh và hướng đến 3 ngày trọng thể “Tam Nhật Thánh” (Sacred Triduum), Tin Mừng trích từ Sách Isaia mô tả người Tôi Trung. Chính Người sẽ là ánh sáng cho muôn dân; lòng tín trung của Người sẽ chiếu tỏa vinh quang và ơn cứu độ của Thiên Chúa cho mọi dân tộc. Chúa Giêsu là Người Tôi Trung và qua Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Người sẽ mang ánh sáng của ơn cứu độ đến tận cùng trái đất. Trước những bất ổn của thế giới, những khoảnh khắc đen tối và đau khổ nhất của cuộc đời, những phản bội nhẫn tâm trong các mối quan hệ… là người Ki-tô hữu, bạn hãy nhớ rằng những đen tối của cuộc đời này rồi cuối cùng sẽ kết thúc trong vinh quang và cuộc sống mới trong Chúa Ki-tô!

LẮNG NGHE: Vì lạy CHÚA, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy THIÊN CHÚA, chính Ngài là Đấng con tin tưởng  ngay từ độ thanh xuân. Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ, con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi.  (Tv 71:6-7)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là Đấng đầy lòng thương xót qua Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Sự Phục Sinh xin giúp con biết quay về bên Chúa để được thông phần vào nguồn ánh sáng và sự sống lại của Người.

THỰC HÀNH: Mỗi ngày trong Tuần Thánh này, bạn dành thời gian tạo bầu khí lắng đọng, bình tâm để lắng nghe tiếng Chúa vang vọng từ đáy lòng.

From: Do Dzung

***************************

Chúa Chăn Nuôi Tôi – Lm Duy Thiên 

“‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’.

Le Thanh Hoang Dan

Copy FB Nguyễn Tuấn

“‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’.

Hôm qua là một ngày lịch sử, vì Amanda Ngọc Nguyễn trở thành nữ phi hành gia gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ.

Amanda (tên tiếng Việt là Ngọc) sanh năm 1991 tại California. Ba của cô là Nguyễn Minh Tú và má là Tăng Ngọc Lan, là ‘thuyền nhân’ tị nạn, gốc Bạc Liêu.

Amanda là một học sinh xuất sắc và có khả năng lãnh đạo. Tốt nghiệp trung học hạng thủ khoa (Valedictorian) và được các đại học lừng danh (như UCLA, Stanford, Barkeley, Harvard, v.v.) sẵn sàng cấp học bổng. Amanda quyết định chọn Harvard, vì đó là mục tiêu cô đặt ra và phấn đấu lúc còn ở bậc trung học. Chuyện kể rằng, trong phòng riêng, cô viết trên bảng trắng những lời tự rèn luyện và tự giữ kỉ luật để sao cho vào được Đại học Harvard.

Ở Harvard, Amanda theo đuổi chương trình cử nhân [tạm dịch] Văn chương và Khoa học (Bachelor of Arts and Science) và tốt nghiệp năm 2013. Trong thời gian theo học ở Harvard, Amanda cũng tiếp tục là một ‘hiện tượng’. Học giỏi, viết văn hay, hoạt động xã hội tích cực là những đặc tính của cô gái trẻ.

Ở tuổi 19, Amanda đi du lịch ở Bangladesh. Ở đó, gặp chuyện bất bình, Amanda giúp truy tố một người đàn ông đã giết cháu gái mình vì đứa cháu bị hiếp. Cô sáng lập ra nhà để nuôi 500 trẻ mồ côi ở Kenya. Điều phi thường là tất cả những việc đó cô làm được trong lúc ở tuổi sinh viên!

Ngay sau khi tốt nghiệp năm 2013, Amanda được nhận vào làm ‘intern’ (thực tập sinh) tại trung tâm không gian NASA và đồng thời làm việc cho trung tâm vật lí thiên văn Harvard–Smithsonian Center for Astrophysics. Amanda có thời gian làm người liên lạc viên tại Toà Bạch Ốc cho Bộ Ngoại giao Mĩ. Thật ra, ngay từ lúc ở Harvard cô đã có ý tưởng nghiên cứu về vũ trụ và làm phi hành gia.

Nhưng giấc mơ phi hành gia bị gián đoạn sau một biến cố quan trọng trong đời xảy ra vào năm 2013. Năm đó, cô bị một tên sinh viên con nhà rất rất giàu hiếp trong kí túc xá ở Massachusetts. Lúc đó Amanda chưa truy tố kẻ tội phạm ra toà vì nghĩ rằng mình chưa đủ tài chánh và tài nguyên để ra toà mà có thể kéo dài nhiều năm.

Cảnh sát cho biết rằng luật pháp Massachusetts cho phép cô có thời gian 15 năm để truy tố kẻ tội phạm. Nhưng trong thời gian đó, nạn nhân phải cứ 6 tháng làm thủ tục để gia hạn bộ ‘rape kit’ (pháp y chứng). Sau 6 tháng mà không có gia hạn thì pháp y chứng sẽ bị huỷ bỏ (và nạn nhân khó truy tố kẻ tội phạm)!

Sau khi nói chuyện với nhiều nạn nhân khác, Amanda nhận ra sự vô lí của luật pháp và quyết định phải thay đổi bộ luật bất công đó.

Năm 2014, Amanda quyết định sáng lập hiệp hội RISE (Đứng Lên) để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của nạn nhân bị hiếp. Năm 2016, qua sự bảo trợ của Thượng nghị sĩ Jeanne Shaheen, Amanda đưa dự luật vào Quốc Hội Mĩ và được Hạ Viện cũng như Thượng Viện thông qua.

Tháng 10/2016 Tổng Thống Barack Obama chánh thức kí đạo luật Sexual Assault Survivors’ Rights Act, và đến nay, đạo luật này đã được thông qua ở 25 tiểu bang, yêu cầu chánh phủ phải minh bạch trong quá trình xét nghiệm nạn nhân bị hiếp.

Năm 2016 Amanda nghỉ việc ở Bộ Ngoại giao để dành toàn thời gian cho việc điều hành tổ chức RISE.

Amanda được trao rất nhiều giải thưởng danh giá ở Mĩ và trên thế giới. Trong danh sách giải thưởng có giải Heinz Award về chánh sách công, “Time 100 Next”, “Forbes 30 under 30”, và Nelson Mandela Changemarker Award. Năm 2019, cô được đề cử giải Nobel Hoà Bình.

Khi nghe tin được tuyển chọn làm phi hành gia bay vào vũ trụ, Amanda viết trên trang truyền thông xã hội rằng ‘Là những thuyền nhân tị nạn, gia đình tôi nhìn lên những vì sao để tìm đường đến tự do’ (‘As boat refugees, my family looked to the stars to guide their way to freedom’) và nói với má cô rằng ‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’ (‘You crossed the ocean so I can touch the sky.’)”

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo


 

CHUYỆN ĐỜI Ở HÀNH LANG BỆNH VIỆN…- Tác giả : Trần Linh

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều 

Tác giả : Trần Linh

Khi mẹ nằm truyền, mình đi ra ngoài và hỏi thăm người đàn bà mà mình thấy đã ngồi đó rất lâu:

– Trễ rồi sao cô chưa về?

– Cô chưa có tiền đóng để mua dây, mua…vì mai tới ngày chạy thận.

– Cô đóng nhiêu ạ?

– 260 đồng. Sáng nay cô lấy 100 tờ vé số, bán được 50 tờ, còn 50 tờ nhờ bà kia bán mà chắc chưa hết nên chưa đưa tiền qua….

…Cô ở một mình, tối trải ghế bố ngủ ngoài kia, cả ngày đi bán vé số kiếm tiền trị bệnh.

– Để con đi đóng cho cô nha.

– Con giỡn chơi hà.

Mình vào phòng tìm y tá hỏi thăm. Bạn í ngạc nhiên:

– Ủa, cô Hường không có người thân mà. Chị quen gì với cô?

– Chị không quen, nhưng chị muốn đóng cho cô ấy. Một tháng cô hết bao nhiêu em hén?

– Dạ, một tháng 2,5 triệu. Chị đóng một tháng luôn hay mấy trăm ngàn thôi?

…..

Mình suy nghĩ, vì mình chỉ đưa mấy triệu để lo cho mẹ, nếu đóng cho cô mà lỡ Bs nói đóng thêm gì cho mẹ thì không đủ. Thế là, mình đi hỏi xem mẹ còn gì phải đóng tiền,  bạn nói không…Mà mình còn thẻ nữa.

– Em ơi, chị đóng luôn cho cô ấy 2 tháng. 5 triệu nha.

Bạn y tá ngạc nhiên nhìn mình, hỏi lại có đúng không. Mình gật đầu. Bạn cho tờ giấy đóng tiền, thế là mình vội chạy đi đóng ở dãy nhà khác – kịp để về chăm mẹ.

Ôi trời, mình không tưởng tượng được khi đưa biên lai cho cô ấy. Cổ đâu tin, đọc đi đọc lại tên mình xem có đúng không, rồi đọc số tiền…Là thiệt rồi, cổ thốt lên vậy…

…Rồi cổ khóc, khóc ngon ơ như có gì chất chứa trong lòng, nay được tuôn ra ngoài – người đàn bà bán vé số mang bệnh mà không có người thân – 2 tháng tới đây, chắc vơi đi khó nhọc nhiều lắm!

Rồi cũng trên dãy hành lang ấy, có cô kia đã níu tay mình:

– Cô ơi, đỡ tui dậy đi vệ sinh được không? Bị mệt và choáng nên tui không ngồi lên được.

– Cô không có ai đi cùng à?

– Con tui nó bận hết rồi, tui đi một mình.

Thế là mình đỡ cô dậy, dìu cô đi. Vào nhà vệ sinh, ngay cả quần cô cũng không kéo nổi. Mình lại loay hoay giúp cô, đứng đó cho cô nắm vào tay vì ngồi không vững.

Cô đi xong, mình chùi rửa sạch sẽ cho cô rồi dìu ra ngoài. Cô nói, sáng giờ chưa ăn gì, muốn đi mua mà không bước được.

Thế rồi mình lại chạy đi, mua 2 hộp sữa Ensure mang về cho cô 1 hộp, cô vé số 1 hộp. Mình nói, cô đưa số điện thoại con của cô, con gọi.

Cô đọc số, mình gọi và nghe giọng con trai.

– Em ơi, mẹ em yếu lắm, em vào lo cho mẹ.

Giọng bên kia gắt lên:

– Đã vào đó là có bác sĩ, y tá, không ai lo hay sao mà đưa số cho chị gọi.

– Ủa em, dù có ai đi nữa thì mẹ em cũng phải có người nhà chứ.

– Chiều tối xong việc mới vào được, chị chuyển máy cho mẹ tôi đi.

Mình muốn chửi ghê trời, nghe cái giọng điên hết cả người, nhưng rồi sợ cổ buồn, nên thôi.

– Tui có 2 đứa con, một trai, một gái. Trai có vợ rồi, còn gái thì chưa lập gia đình. Tụi nó bận lắm, muốn nhờ cũng khó.

…Rồi cô lại nói mình dìu nằm xuống ghế, đợi khỏe tí rồi tui ra phòng cấp cứu.

Lòng mình xót xa quá đỗi, chạy vội vào canh chừng mẹ:

– Cha mi, đi đâu nãy chừ để mẹ trông.

…Mình ỏn ẻn, nói con đi nhiều chuyện ở ngoài kia. Mẹ mệt, nhưng mẹ cười rất tươi…Mình nhìn mẹ – rồi lại nghĩ đến những người đàn bà nơi góc hành lang bệnh viện…

     Có vào viện mới hiểu lòng con cái …

Tác giả : Trần Linh


 

ĐỀ TÀI VỀ ĐÀ NẴNG CUỐI THÁNG 3,1975 – BS PHÙNG VĂN HẠNH

 BS PHÙNG VĂN HẠNH

Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975 được nhiều người viết. Tác giả bài viết dưới đây, Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh, một đàn anh thân thương và tài giỏi, từng hướng dẫn các SV Nội Trú năm thứ Sáu của ĐH YKH thực tập môn chỉnh hình tại Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Đà Nẵng. Bs. Phùng Văn Hạnh tốt nghiệp YK Saigon năm 1961, cùng năm với quý thầy Phùng Hữu Chí, Vũ Công Thưởng, Nguyễn Văn Tự, và với Bs. Vĩnh Toàn (anh đầu của Vĩnh Chánh).

Bs. Phùng Văn Hạnh bị CS bắt vào tù 12 năm vì chỉ trích chế độ CS. Sau khi được về nhà năm 1988, Bs. Hạnh vượt biên liền trong cùng năm, và được tàu Pháp của nhóm Médecins Sans Frontières (trên tàu có sẵn Bs. Lê Trang Châu đi cứu người vượt biển) vớt ngoài Biển Đông, định cư tại Montreal năm 1989. Tại cộng đồng này, Bs. Phùng Văn Hạnh là một khuôn mặt hoạt động tốt đẹp trong Văn Bút Hải Ngoại và trong các hội đoàn chống cộng. Dưới văn danh Khánh Giao, Bs, Phùng là tác giả của nhiều sách và thơ, như Tình Yêu Hiện Sinh, Một Kiếp Người, Một Hạt Đậu Hai người Khiêng, Quê Hương, Nhật Ký Một Bạn Tù…

Bs. Phùng Văn Hạnh từng hiện diện 2 lần tại Đại Hội YKH HN. BBT chọn đăng “Đà Nẵng Những Ngày Cuối Tháng 3 1975”, như một tưởng nhớ đến một người Thầy kính mến, một Đàn Anh tận tụy truyền dạy y khoa cho các thế hệ đàn em và một chiến sĩ chống Cộng nặng tình với quê hương. Bs. Phùng Văn Hạnh tạ thế tháng 11, năm 2021, tại Montreal.

                           ***

Đà Nẵng những ngày cuối tháng Ba 1975

 Sau khi thỏa hiệp Paris ký kết, Mỹ xuống thang chiến tranh. Dân sự bị thương cũng giảm. Các bác sĩ AMA giảm dần. Ban mê Thuột rồi Pleiku mất. Cao nguyên di tản. Quảng trị, Thừa thiên mất. Những ngày cuối tháng ba, 1975, Đà- nẵng đầy người chạy giặc. Cộng sản có biết tại sao mà lắm người sợ họ thế? Ông bác tôi đã từng nếm mùi trại giam cộng sản, đã đứng tim chết khi nghe cộng sản trở lại. Cha tôi cũng thế. Lính khắp nơi ùn về đầy đường. Tôi gặp một tiểu đội Địa phương quân. Họ vẫn còn kỷ luật lắm. Anh tiểu đội trưởng đi đầu, súng mang trên vai. Các đội viên đi hàng một, mũi súng chúc xuống đất. Chắc họ từ một đồn nhỏ ở ngoại ô vào thành phố. Mắt họ buồn và sợ sệt. Họ đi mất hút ở cuối đường. Có súng nổ lẻ tẻ. Xe tăng, súng ca-nông bỏ lại trên đường phố. Dân sự di tản từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, ngủ trên lề đường

 Một thiếu phụ gia tài chỉ là đôi thúng gánh trên vai. Trong mỗi thúng là một em bé 2 đến 4 tuổi. Rất nhiều gia đình đã đi bộ vượt đèo Hải vân 20 km đường dốc núi. Bên Sơn Chà xe nhà binh nghẹt đường. Ngoài bờ biển, bến cảng mọi người ùn ra tìm ghe để có thể ra tàu lớn đậu ngoài khơi. Gia đình tôi lên phi trường. Lúc gần đến, gặp cả đoàn xe cộ của một ông tướng sư đoàn cũng chạy giặc, phải tránh ra bên đường, nhường cho họ qua. Ngay cổng phi trường, xe dân sự sắp hàng dài hai bên đường. Chỉ đi bộ vào cổng. Một ký giả ngoại quốc chận tôi lại phỏng vấn. Tôi đã nói gì, bây giờ chẳng nhớ. Song một người bạn ở Thụy sĩ lúc đó có thấy tôi xuất hiện trên truyền hình. Máy bay hàng không dân sự đã ngừng bay. Một nhóm người thiện chí đứng ra liên lạc với Saigon. Họ tổ chức ra máy bay trong trật tự. Có hai chuyến cất cánh suông sẻ. Song Việt cộng bắt đầu pháo kích vào phi trường. Mọi người tìm chỗ núp, rồi ùn ùn rời phi trường vì Saigon cho biết là máy bay không ra nữa. 

Chúng tôi đi bộ về nhà. Nửa đường gặp xe của một nha sĩ bạn. Anh ta chở gia đình tôi về đến nhà. Súng lính vất lại, nghẹt cả đường cống sâu trước nhà. Vào nhà, vợ tôi chia cho mỗi đứa con một xách áo quần và một ít tiền. Tất cả quì xuống trước bàn thờ Chúa. Nhà tôi dặn: “đang loạn lạc như thế nầy, chúng ta có thể bị ly tán. Nếu may ra các con đi chung với nhau, nhớ đứa lớn che chở đứa bé. Anh em nhớ yêu thương nhau”. Thấy cảnh đau lòng, tôi rời nhà lên bệnh viện, định phi tang những bài viết chống cộng mà tôi bỏ lại ở văn phòng, trong ấy có một bài đả kích Hồ chí Minh. Vào hành lang, thấy người ta nằm la liệt. Kẻ thủng bụng, ruột lòng thòng. Người bể đầu, gãy tay chân, băng quấn sơ sài, đẫm máu. Một bạn giáo sư trung học, ôm chầm lấy năn nỉ:

“vợ tôi bị bắn thủng ruột đã 6 giờ rồi, chưa được ai chăm sóc”. Lúc ấy nhà thương không còn một bác sĩ nào cả. Tôi ghé văn phòng làm việc trống trơn, huỷ diệt bức thư điều trần, đưa kế sách cứu miền Nam, và những bài báo chống Cộng do tôi viết. Tôi xé nhỏ, bỏ vào nhà cầu và dội nước. Xong tôi vào khu giải phẫu. May sao nhân viên còn tại chỗ một nửa. Tôi cho mang vợ người bạn vào mổ. Sau đó các ca khác lại tuần tự mang vào. Chiều hôm đó BS Phạm văn Lương vào phòng mổ thăm tôi. Tôi hỏi sao không lo trên BV Duy Tân mà xuống đây. Ông y tá trưởng nói nhỏ vào tai tôi là BS Lương nay làm thị trưởng, đi thị sát BV toàn khoa đó. Sau nầy tôi mới biết là BS Lương được tỉnh hội Phật Giáo đưa lên làm thị trưởng Đà-Nẵng trong những ngày cuối tháng ba, 1975(đài BBC có loan tin).

Một mình mổ đến chiều hôm sau thì ông y tá trưởng gõ cửa phòng mổ và nói: “có ông sĩ quan cách mạng nói bác sĩ hãy ngừng mổ cho dân sự, và mổ cho các chiến sĩ cách mạng bị thương”. Hỡi ôi, thế là cộng sản đã vào thành phố! Tôi nói với ông y tá trưởng là cứ ca nào nặng thì đem vào trước, không phân biệt dân sự, cách mạng. Đó là va chạm đầu tiên mà sau này tôi bị kiểm điểm là có lập trường nhân đạo chung chung, không có quan điểm cách mạng. Chừng 10 ngày sau, thì các bác sĩ cách mạng ở trên núi xuống tiếp thu bệnh viện. Lúc đó các ca cấp cứu đã giải quyết xong. Cả khu giải phẩu nhận giấy khen của Ủy ban quân quản Đà-nẵng là đã có công trong sự ổn định y tế thành phố.

Các bác sĩ bị kẹt lại dần dà đến nhận việc và được gọi là lưu dung. Xưa kia đi làm hơi tùy tiện vì đôi khi phòng mạch tư nhiều khách. Nay ai đến cũng đúng giờ. Bắt đầu là giao ban, toàn thể bác sĩ họp lại với bác sĩ giám đốc để trình bày phiên trực ngày hôm trước, nghe chỉ thị mới và phê bình những thiếu sót nếu có. Cách làm việc nặng phần trình diễn, phí phạm thì giờ. Sau giao ban, đi khám bệnh phòng rồi đi mổ những ca lên chương trình từ cuối tuần trước. Có điều đặc biệt là bác sĩ cách mạng chuồn đâu mất lúc 10 giờ sáng. Tìm không ra. Sau này hỏi ra mới biết đó là thói quen đã có tự ngoài Bắc. Vì sáng không ăn, hoặc ăn ít nên 10 giờ đói, phải tìm chỗ kín nằm nghĩ. Có một bác sĩ thuốc mê đã được đào luyện ở Tiệp khắc, được nhân viên phòng mổ cho ăn xoài. Anh ta trầm trồ khen ngon hết lời vì chưa bao giờ nếm thử trái cây ngon như thế. Một anh khác kể là ngày Tết được chia bồi dưỡng một gói tiêu nhỏ. Về nhà rủi làm đổ. Phải thắp đèn lên kiếm từng hạt. Họ nói ở ngoài Bắc nghe tuyên truyền là trong Nam cực khổ lắm. Bây giờ mới tỉnh ngộ. Vào Saigon chơi về, họ khoe là như ra ngoại quốc. Nói là phồn vinh giả tạo, song toàn là đồ thiệt đẹp và tốt.

Những ngày đầu tháng tư, 1975, các bác sĩ VC trên núi về, tiếp thu TTYTDK Đà-Nẵng và Bệnh viện Đức. Họ chỉ lo về hành chánh, chứ chuyên môn thì đợi các bác sĩ Hà-Nội vào. Về giải phẫu thì họ chỉ đứng xem Vài người tỏ ra hiếu học, vào phụ mổ với các bác sĩ lưu dung. Tôi nhớ có Bác sĩ cấp bực Đại úy, vào phụ tôi để tái tạo một ống chân vỡ nát vì mìn. (Hắn ta là bác sĩ riêng cho thầy cũ Tám Trinh, nay đổi tên Nguyễn xuân Hữu, Phó bí thư đảng bộ Liên khu V. Phải mất ba giờ và nhiều cố gắng mới giữ được cái chân. Cuối ca mổ, đáng lý nói: ca này khó ác liệt, tôi tự nhiên buông câu nói theo thói quen: ca này khó ác ôn côn đồ Việt Cộng. Anh ta nhìn tôi không nói gì. Các y tá quanh tôi đều sửng sốt. Không biết anh ta có báo cáo gì không. Song sau này không thấy ai nhắc đến chuyện đó.

Trong suốt hơn một năm làm việc với CS, tháng ngày cũng qua nhanh, vì rất bận rộn. Những ngày đầu, mổ liên miên để giải quyết xong nhiều ca cấp cứu, Những tháng kế tiếp là mổ cho dân quê trở về làng khai khẩn nhưng đồng ruộng bỏ hoang trong chiến tranh, vướng phải mìn hay đạn ca- nông chôn dưới đất. Giải phẫu tái tạo tiếp theo cho những tật nguyền do vết thương chiến tranh gây ra. Ngoài ra nào giao ban, nào học chính trị mỗ tuần vài lần. Làm việc trong không khí u uất, vì nghe lắm lời phi lý, ngu xuẩn của bọn cán bộ, lắm chế độ hà khắc, kiểm soát tư tưởng, việc làm, những tranh cải lý thuyết v.v..

Bất hạnh thường không đến một mình. Đã buồn bực vì phải kẹt ở lại với CS, lại càng buồn thêm vì sự ra đi của người cha thân yêu. Ngày tôi chở vợ con lên phi trường để di tản, tôi đã năn nỉ cha mẹ tôi cùng đi, nhưng cha tôi một mực từ chối vì ông đã bị bại hai chân từ ba năm nay, hậu chứng xuất huyết não, và phải di chuyển trên xe lăn. Ông không muốn là gánh nặng cho tôi. Mẹ tôi thì chỉ chịu đi khi cha tôi cùng đi, vì bà phải săn sóc cha tôi tật nguyền. Khi chúng tôi không di tản được, từ phi trường trở về, hai ông bà đã khóc sướt, và lo cho tương lai chúng tôi. Hai ngày sau cha tôi chết êm thắm. Ông đã bị đứng tim trong giấc ngủ. Buổi sáng mẹ tôi mang sửa lại cho ông uống, thì thấy ông nằm bất động, tay chân lạnh ngắt. Cũng như bác tôi, cha tôi vì sợ quá, tim già đã ngưng đập khi nghĩ đến những hình phạt khủng khiếp trong tù CS. Mặc dù mới trải qua một cuộc đổi đời chưa hết bàng hoàng, tôi vẫn tổ chức ma tang thật chu đáo, với rất nhiều bà con thân thuộc theo linh cữu ra nghĩa địa. Tôi phải mướn nhiều xe ca, trong khó khăn hiện tại. Cha ơi, xin yên nghỉ bằng an trong nước Chúa.

Lúc say sưa làm việc những năm chiến tranh, theo lời khuyên của một bác sĩ Mỹ, tôi gom góp hồ sơ các ca chữa thương với đầy đủ phim, ảnh, ghi chú theo dõi. Ông cho tôi một máy ảnh, và tôi thuê một thợ chụp ảnh phụ tá cho tôi chụp hình bệnh nhân trước và sau khi mổ, diễn tiến bệnh khi nằm tại nhà thương và tái khám. Hồ sơ được lưu trữ trong một căn phòng lớn của bệnh viện. Tôi định khi nào rảnh rổi sẽ viết bài, dựa trên nhận xét lâm sàng để rút ra những kết luận hữu ích. Hai tháng sau khi cộng sản vào, thấy rảnh, tôi xuống phòng lưu trữ hồ sơ thì thấy các hộc trống trơn. Hỏi ra mới biết là tổ nhà bếp trên núi xuống nấu cơm cho bệnh nhân, vì thiếu củi đun, nên lấy hồ sơ nhóm lửa. Bao nhiêu tâm huyết đổ sông. Xưa kia nhà thầu cung cấp cơm nước cho bệnh nhân. Họ đâu có nấu nướng trong bệnh viện.

Tôi có nhiều giấc mơ đơn giản. Song đều thất bại. Lúc còn hoạt động trong đoàn Sinh viên công giáo, có đọc thuyết “Kinh tế và nhân bản” ( economie et humanisme) của cha Lebret, có dự định cùng các bạn đồng chí hướng lập những đoàn thiện chí gồm nhiều chuyên viên về thôn quê chia sẻ đời sống của nông dân. Bác sĩ lo chữa bệnh, truyền bá vệ sinh. Kỹ sư nông nghiệp, cơ khí, chăn nuôi, tìm cách nâng cao sản xuất. Tổ chức hợp tác xã, tiếp xúc với công ty ngoại quốc, tìm thị trường, vốn đầu tư..mong cho dân giàu, nước mạnh. Song khi ra trường, thì chiến tranh tràn lan, thôn quê không còn an ninh. 

Cuối năm 1974, thấy tình hình miền Nam sắp có nguy cơ rơi vào tay Việt cộng, mà trí thức thì chơi mạt chược và trùm chăn quá nhiều, định đi khắp các tỉnh, diễn thuyết, kết hợp những người thiện chí, cố nổ lực tối đa để trong sạch hoá bộ máy chính quyền, tất cả mọi người có thể cầm súng được phải chia phiên nhau ra trận. Không có nạn con ông cháu cha. Trí thức phải xuống xã ấp, phá vòng vây nông thôn bao vây thành thị. Chính phủ tuyên bố tình trạng quốc gia lâm nguy, đóng cửa Trung học và Đại học. Đưa người qua Mỹ diễn thuyết hầu giành hậu thuẫn dân Mỹ. Nếu cần cầu viện Tây âu. Sắp xếp các ý tưởng, trình bày trong một bức thư điều trần gửi quốc hội và tổng thống với đề tài “Tổ Quốc lâm nguy, đề nghị biện pháp giải cứu”. Giáng sinh 1974, tôi vào Sài-gòn, đưa thư điều trần cho bạn bè xem, song không ai hưởng ứng, vì họ đoan chắc với tôi là Mỹ sẽ không bỏ miền Nam. Sau đó tình hình Miền Nam suy sụp quá nhanh. Tuy thế lúc Việt cộng vào, đã có người muốn lập công, đưa cho chúng tài liệu, nên bị hạch hỏi. Phải làm kiểm điểm vài lần, nhận có nêu lên vấn đề, song chưa phổ biến sâu rộng. Cuối cùng muốn viết vài bài về chuyên môn mình cũng không được, vì tài liệu đã bị đốt cháy ra tro.

Khi sang Canada, đi Mỹ chơi gặp một đồng nghiệp cũ ở Bệnh viện Đà-nẵng, nay hành nghề ở Westminster, Cali. Anh ta nói với tôi: “người chống cộng có hệ thống như anh, thì lại kẹt ở lại. Còn lè phè như chúng tôi, thì lại thoát. Oái ăm thiệt!”

Kể ra cũng tại số mình long đong, chạy trời không khỏi nắng. Tôi đã bỏ lỡ nhiều dịp may: năm 1973, cộng đồng người Hoa ở Đà-Nẵng muốn có một nhà thương riêng cho họ, nên dạm hỏi tôi có muốn bán dưỡng đường của tôi với giá 20 triệu. Vì đang làm ăn phát đạt tôi từ chối. Nếu tôi chịu bán, tôi sẽ trích ra độ một triệu, mua thông hành cho cả gia đình, lấy cớ đi Mỹ học rồi ở lại luôn. Một bác sĩ bạn tôi đã ra đi như thế.

Cuối 1974, nhân có người cháu, Đại uý lái phi cơ trực thăng, đóng ở Cần thơ, chuyển về không đoàn I. Anh ta nhờ tôi xin về xưởng sửa chữa trực thăng, vì thấy đi bay, có nhiều hiểm nguy. Nhờ quen biết tôi đã thoả mãn cho anh ta. Nhận thấy miền Nam sắp mất, tôi bảo anh ta sửa chữa thật tốt một trực thăng, đổ đầy nhiên liệu, sẵn sàng chở gia đình anh ta với gia đình tôi đi Sài gòn hoặc Thái Lan, khi Đà- Nẵng có nguy cơ mất. Hôm 27-03-75, vì quen biết với gia đình Giám đốc Hàng không Việt Nam Đà-Nẵng, chúng tôi được họ mời chia xẻ một chuyến bay chót đặc biệt dành riêng cho gia đình họ. Trong khi chờ đợi máy bay từ Sài-gòn ra, tôi đến thăm người cháu gần đó, để xin ít nước uống cho các con tôi, vì đêm qua ra đi vội vã quên mang nước theo. Vào nhà tôi thấy gia đình nó chuẩn bị lên trực thăng mà tôi đã dặn để dành cho việc tẩu thoát, nếu Đà-Nẵng mất. Nó nói: “con có điện thoại lại nhà dượng, kêu dượng lên đi, nhưng không ai trả lời. Thế bây giờ dượng đi với chúng con?”. Tôi từ chối vì cho rằng đi máy bay tiện lợi hơn là trực thăng. Tôi trở lại với gia đình và ra sân bay, vì máy bay đã đáp xuống ở một chỗ hẹn trước. Nhưng chuyến bay ấy bị quân nhân phi trường tước đoạt. Cảnh súng bắn đì đoàng, người đạp lên người, chen lấn lên máy bay, làm cả hai gia đình chúng tôi đứng xa mà ngó. Cuối cùng máy bay cất cánh có cả người đeo tòn teng vào bánh xe, rụng rơi dần. Cùng lúc ấy, đạn pháo Việt cộng nổ gần phi đạo chúng tôi hoảng hốt dắt díu nhau chạy. Sau này gặp lại ở Mỹ, nó tiếc hùi hụi là hôm đó trực thăng nó trực chỉ Sài-gòn mà không có gia đình ông dượng ân nhân, có sáng kiến hay.

Cơ hội chót là ngày 29-03-75 vẫn còn một bác sĩ Mỹ, môn đồ Quaker, sang Đà-Nẵng làm từ lâu, với tư cách cá nhân, và anh ta không chịu di tản, chỉ ưng ở lại làm việc truyền đạo, chia ngọt bùi với bệnh nhân khu bài lao. Máy bay từ hạm đội Mỹ không ngại hiểm nguy đáp xuống trên nóc bệnh viện Việt Đức. Hai lính Mỹ vào mời bác sĩ ấy ra đi, nhưng anh ta một mực từ chối. Khi thấy tôi đi ngang qua, anh ta kéo tôi vào và năn nỉ tôi đi theo trực thăng ra tàu hạm đội Mỹ. Nhưng lúc ấy gia đình tôi không có mặt ở đó và tôi không muốn ra đi một mình, nên cũng từ chối. Nếu ngày ấy tôi ra đi. Sang Mỹ trở lại nghề và phát đạt, sẽ có phương tiện bảo lãnh cho gia đình qua sau, chậm lắm là vài năm sau và thoát đi tù cải tạo 12 năm. Nhưng đó chỉ là nếu, thực tế thì bi thảm vô kể.

 Bác sĩ Phùng Văn Hạnh


 

Chính quyền Trump cắt $2 tỷ tài trợ đại học Harvard vì bất tuân các yêu cầu

Ba’o Nguoi-Viet

April 15, 2025

CAMBRIDGE, Massachusetts (NV) – Tối Thứ Hai, 14 Tháng Tư, chính quyền liên bang loan báo quyết định đóng băng hơn $2 tỷ ngân sách tài trợ cho đại học Harvard University sau khi nhà trường tuyên bố không chấp nhận các yêu cầu do chính quyền Tổng Thống Donald Trump đưa ra, kể cả việc kiểm tra quan điểm của sinh viên, NBC đưa tin.

Lực Lượng Đặc Nhiệm Hỗn Hợp Chống Chủ Nghĩa Bài Do Thái thuộc chính quyền Trump công bố các quyết định cắt ngân sách trong một tuyên bố nêu rõ “các trường đại học danh giá nhất Hoa Kỳ đang có những suy nghĩ quyền hành độc lập đáng lo ngại.”

Trường đại học thuộc khối Ivy League sẽ bị chính quyền Trump cắt nguồn tài trợ $2.2 tỷ cũng như “hợp đồng trị giá $60 triệu kéo dài nhiều năm.”

Bức tượng John Harvard trong sân trường đại học Harvard University ngày 17 Tháng Ba, 2025 ở Cambridge, Massachusetts. (Hình: Scott Eisen/Getty Images)

Cũng trong Thứ Hai, Harvard University bác bỏ các yêu cầu do chính quyền Trump đưa ra.

“Harvard University sẽ không từ bỏ quyền độc lập hoặc các quyền hiến định,” nhà trường cho biết trong một tuyên bố trên X hôm Thứ Hai. “Harvard, cũng như các trường đại học tư thục, sẽ không để chính quyền liên bang thao túng.”

Tòa Bạch Ốc gửi cho các viên chức nhà trường một “danh sách gồm có các yêu cầu đã cập nhật và mở rộng,” cảnh cáo nhà trường phải tuân thủ nếu muốn “chính quyền liên bang tiếp tục tài trợ,” Viện Trưởng Alan M. Garber cho biết trong một bức điện thư gửi cho cộng đồng Harvard.

Chính quyền Trump đề ra 10 yêu cầu nhằm giải quyết tình trạng bài Do Thái trong nhà trường, trong đó không cho sinh viên quốc tế nhập học nếu có tư tưởng “thù địch với các giá trị và thể chế tại Hoa Kỳ.” Chính quyền cũng muốn một đơn vị thứ ba thanh tra các chương trình liên quan tới “vấn nạn bài Do Thái hoặc thể hiện hành động thao túng ý thức hệ.”

Chính quyền cũng yêu cầu lập tức dẹp bỏ tất cả các chương trình và sáng kiến dính dáng tới đa dạng, công bằng và hòa nhập DEI, kể cả trong chính sách tuyển mộ và chiêu sinh. Chính quyền còn yêu cầu Harvard thực hiện các chính sách “dựa trên năng lực” nhằm thế chỗ DEI.

Garber cho biết đây là các yêu cầu “chưa từng xảy ra,” đồng thời lên án dã tâm “kiểm soát cộng đồng Harvard” bằng cách dò xét quan điểm của sinh viên, giáo sư và viên chức.

Trong một bức thư gửi cho chính quyền Trump, các luật sư cho biết Harvard University “cam kết chống lại chủ nghĩa bài Do Thái và các hành động cố chấp trong cộng đồng nhà trường” nhưng cũng nói rằng các yêu cầu do chính quyền đưa ra “là hành vi xâm phạm quyền tự do của trường đại học vốn được Tối Cao Pháp Viện công nhận từ lâu.”

Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Harrison Fields công kích Harvard trong một tuyên bố và không có dấu hiệu cho thấy chính quyền sẽ nhân nhượng.

“Tổng Thống Trump đang nỗ lực Gầy Dựng Giáo Dục Đại Học Vĩ Đại Trở Lại bằng cách chấm dứt tình trạng bài Do Thái tràn lan và bảo đảm tiền thuế của người đóng thuế liên bang không góp phần tiếp tay cho nạn kỳ thị chủng tộc nguy hiểm hoặc bạo lực dính dáng tới kỳ thị chủng tộc tại Harvard,” Fields cho biết.

Chính quyền Trump cũng đưa ra những yêu cầu tương tự dành cho các trường đại học khác theo kế hoạch chống vấn nạn bài Do Thái cũng như các lối suy nghĩ mà chính quyền không đồng tình.

Tháng Ba vừa qua, đại học Columbia University đồng thuận với một danh sách có chín yêu cầu từ chính quyền Trump, gồm có lệnh cấm sinh viên đeo khẩu trang tại các cuộc biểu tình, tuyển mộ 36 viên chức an ninh mới cho nhà trường có năng lực bắt giữ sinh viên và bổ nhiệm một viên chức cao cấp đứng đầu lãnh vực học thuật (provost) mới nhằm giám sát khoa Nghiên Cứu Trung Đông, Nam Á và Phi Châu.

Chính quyền Trump còn cắt $400 triệu nguồn tài trợ liên bang dành cho nhà trường, cáo buộc Columbia University “dửng dưng trước tình trạng quấy rối dai dẳng nhắm vào sinh viên Do Thái.” (TTHN)