Đừng đợi đến khi cha mẹ chỉ còn hai chiếc vali trong tay mới nhận ra ta đã quên dạy con điều quan trọng nhất – biết trân quý những người từng vì mình mà từ bỏ cả đời.
Chiều muộn hôm đó, trong cái lạnh giá len lỏi từng khe cửa, tôi bất ngờ được hai đứa con trai đến thăm.
Một đứa là bác sĩ, đứa kia là kỹ sư. Cả hai đều thành đạt, giỏi giang và có chỗ đứng vững chắc trong sự nghiệp.
Chưa đầy một tuần trước, tôi vừa mất đi người vợ yêu dấu – tình yêu lớn nhất đời tôi. Bà ra đi mang theo một phần hồn tôi, để lại tôi ngơ ngác, trống rỗng, như thể ý nghĩa cuộc sống đã vỡ vụn ngay dưới chân.
Chúng tôi ngồi quanh bàn, trong căn phòng khách đơn sơ của ngôi nhà nhỏ – nơi giờ chỉ còn mình tôi sống.
Cuộc trò chuyện nhanh chóng chuyển sang tương lai của tôi. Một cảm giác buốt lạnh chạy dọc sống lưng.
Chúng bắt đầu bàn đến việc đưa tôi vào viện dưỡng lão.
Tôi gượng người ngồi thẳng, cố giải thích rằng tôi không sợ cô đơn, cũng không sợ già yếu.
Nhưng hai đứa vẫn kiên quyết, với cái giọng giả vờ quan tâm.
Chúng bảo nhà chúng gần biển, rộng rãi nhưng… không đủ chỗ cho tôi ở. Cả hai đều thế.
Chúng nói về công việc bận rộn, về vợ con chúng bận bịu, về các cháu đang học hành không có thời gian thăm tôi. Cuộc sống đầy ắp những lo toan, chúng bảo vậy.
Tôi gợi ý thuê người giúp việc. Nhưng chúng, với lý lẽ rành mạch của giới chuyên môn, bảo phải thuê ba người cho ba ca. Và tất nhiên, phải khai báo đầy đủ. Mà thời buổi này, ai còn kham nổi?
Tôi không muốn bị thuyết phục. Tôi không chịu nổi cảnh bị “đưa đi”.
Nhưng rồi một đề xuất khác lại đến: bán nhà.
Tiền bán đủ để lo chi phí viện dưỡng lão – và như thế, ai cũng “nhẹ lòng”. Chúng nói vậy.
Tôi gật đầu. Không phải vì đồng tình. Mà vì kiệt sức. Tôi không còn sức để chống lại sự lạnh lùng ấy nữa.
Tôi im lặng. Tôi không nhắc đến những đêm thức trắng lo học phí cho chúng, những chuyến du lịch vợ chồng tôi huỷ, những bữa ăn tối từ chối, cái xe cũ mãi không thay…
Tất cả chỉ để tụi nó không thiếu thứ gì.
Nhưng giờ nhắc lại thì để làm gì?
Tôi lặng lẽ xếp đồ. Cả đời người gói gọn trong hai chiếc vali. Chỉ hai chiếc vali.
Tôi bước đi, về một nơi xa hơn, buốt giá hơn – viện dưỡng lão. Xa con cháu, xa cả những ký ức.
Và trong vòng tay lạnh lẽo của cô đơn, tôi hiểu: tôi đã dạy chúng kiến thức, cho chúng bằng cấp, tài sản…
Nhưng tôi đã không dạy chúng điều quan trọng nhất – lòng biết ơn.
Lỗi cũng là ở tôi.
Chúng ta cứ nghĩ yêu thương là cho đi vô điều kiện, là đáp ứng mọi thứ. Nhưng tình yêu thực sự còn là dạy dỗ, là đặt giới hạn, là hướng con biết giúp đỡ, biết chia sẻ, biết gánh vác trách nhiệm trong gia đình.
Biết ơn không tự nhiên mà có. Nó cần được dạy, được gieo trồng.
Bắt đầu từ sự tôn trọng, từ lòng nhận biết công lao của cha mẹ – những người từng hy sinh cả chính mình.
Một ngày nào đó, con cái chúng ta cũng sẽ già.
Và chúng cũng sẽ mong được đối xử bằng tình yêu và nhân phẩm.
Thứ đó không thể mua.
Chỉ có thể gieo từ bây giờ.
Vậy thì, hãy nuôi dạy con bằng cả tình yêu và những giá trị vững bền. Nhưng cũng đừng quên gắn kết chúng bằng sợi dây thiêng liêng của lòng biết ơn.*
Kinh Thánh tường thuật câu chuyện các môn đệ của Chúa Giêsu không thể trừ được một con quỷ. Khi họ hỏi Chúa Giêsu tại sao lại như vậy, Ngài trả lời có những con quỷ không thể trục xuất bằng lời cầu nguyện. Con quỷ Chúa Giêsu nói đến trong chuyện này đã nhập vào một người câm điếc.
Tôi muốn nêu tên một con quỷ khác có vẻ cũng không thể bị trục xuất bằng lời cầu nguyện, đó là con quỷ luôn phá hoại các mối liên hệ cá nhân, gia đình, cộng đồng và Giáo hội của chúng ta bằng hiểu lầm và chia rẽ, làm chúng ta mãi mãi khó khăn trong việc hiệp thông mang sự sống đến cho người khác.
Chúng ta cần lời cầu nguyện đặc biệt nào để trục xuất con quỷ này? Đó là lời cầu nguyện thinh lặng chung, gần giống với lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker.
Lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker là gì?
Tôi xin nói qua về lịch sử Quaker: Quaker là một nhóm các giáo phái Tin Lành, với các thành viên gọi nhau là giáo hữu, nhưng họ thường được gọi là Quaker vì một tuyên bố lừng danh của nhà sáng lập George Fox (1624-1691). Chuyện kể rằng trước mặt một vài quan chức chính quyền đang cố uy hiếp ông, ông cầm quyển Kinh Thánh lên và nói: Đây là lời của Thiên Chúa, hãy run rẩy đi! (run rẩy = quake).
Với những người Quakers, nhất là ở thời kỳ đầu, việc cầu nguyện chung của họ chủ yếu là ngồi lại với nhau trong thinh lặng, chờ Thiên Chúa phán với họ. Họ thinh lặng ngồi, chờ quyền năng Thiên Chúa đến và cho họ điều gì đó mà họ không thể tự đem lại cho mình, cụ thể là sự hiệp thông thực sự để cùng nhau vượt lên các chia rẽ đang chia cách họ. Dù họ ngồi riêng từng người, nhưng lời cầu nguyện của họ là chung một cách triệt để. Họ ngồi đó như một thân thể duy nhất, cùng nhau chờ Thiên Chúa cho họ sự hiệp nhất mà họ không thể tự đem lại cho mình.
Có lẽ đây là việc mà tín hữu Kitô giáo chúng ta có thể thực hành hôm nay, khi thấy mình bất lực trước sự chia rẽ ở khắp nơi (trong gia đình, giáo hội và đất nước)? Suy cho cùng, tín hữu Kitô chúng ta là một cộng đồng trong Thân thể Chúa Kitô, một cơ thể hữu cơ duy nhất, và khoảng cách vật chất không thật sự phân chia chúng ta được, vì thế có lẽ tín hữu Kitô chúng ta nên bắt đầu cầu nguyện thường xuyên, ngồi lại với nhau trong thinh lặng của phái Quaker, như một cộng đồng, thinh lặng ngồi đó, cùng nhau chờ đợi, chờ Thiên Chúa đến và cho chúng ta sự hiệp thông mà chúng ta không không đủ sức để mang lại cho mình.
Về mặt thực tế, làm thế nào để được như vậy? Tôi xin đề nghị: mỗi ngày, chúng ta dành một thời gian để ngồi thinh lặng, một mình hoặc lý tưởng nhất là với người khác, trong một thời gian cố định (15 hoặc 20 phút), với dự định trước hết không phải là nuôi dưỡng sự mật thiết với Thiên Chúa (như trong việc suy niệm riêng), nhưng ngồi với nhau trong sự hiệp thông với tất cả mọi người trong Thân thể Chúa Kitô (và với tất cả những ai thiện tâm ở khắp nơi) để xin Thiên Chúa đến và cho chúng ta sự hiệp thông vượt lên chia rẽ.
Đây cũng có thể là một nghi thức mạnh mẽ cho hôn nhân và gia đình. Có lẽ một trong những liệu pháp chữa lành nhất trong hôn nhân chính là hai người thường xuyên ngồi lại với nhau trong thinh lặng, xin Thiên Chúa cho họ điều mà họ không thể tự cho mình, cụ thể là hiểu nhau vượt lên căng thẳng của cuộc sống hằng ngày. Tôi nhớ hồi nhỏ, gia đình tôi lần hạt chung với nhau mỗi tối, và nghi thức này cũng có hiệu quả như lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, xoa dịu các căng thẳng tích tụ trong ngày, làm gia đình chúng tôi bình an hơn.
Tôi gọi đây là lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, nhưng có nhiều dạng suy niệm và chiêm niệm khác nhau cũng có cùng ý này. Chẳng hạn Thánh Eugene de Mazenod nhà sáng lập Dòng Hiến sĩ đã để lại cho chúng tôi lời cầu nguyện gọi là Hương nguyện Oraison. Ý nghĩa của việc cầu nguyện này là: các Hiến sĩ phải sống với nhau trong cùng một cộng đoàn, nhưng chúng tôi là Hội dòng trải rộng trên 60 quốc gia trên thế giới. Làm sao chúng tôi có thể hiệp thông với nhau bất chấp khoảng cách?
Bằng lời cầu nguyện Oraison. Thánh Eugene khuyên chúng tôi dành nửa tiếng mỗi ngày để ngồi trong thinh lặng, một thời gian để không chỉ hiệp thông với Thiên Chúa, mà còn hiệp thông với mọi Hiến sĩ trên toàn thế giới. Cũng giống như lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, đây là lời cầu nguyện mà mỗi người ngồi một mình, trong thinh lặng, nhưng hiệp thông, xin Thiên Chúa hình thành nên sự hiệp thông nối kết mọi khoảng cách và khác biệt. Khi Chúa Giêsu nói có những con quỷ không thể bị trục xuất bằng lời cầu nguyện, là Ngài đang nói về chuyện này. Có lẽ con quỷ được nhắc đến cụ thể nhất chính là con quỷ hiểu lầm và chia rẽ. Chúng ta đều biết mình bất lực thế nào trong việc trục xuất nó. Ngồi lại với nhau trong thinh lặng chung, xin Thiên Chúa làm cho chúng ta một điều vượt quá sức chúng ta, như vậy có thể trừ đi con quỷ hiểu lầm và chia rẽ.
Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc – Cựu Thống Đốc ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, nhà kinh tế học và chính khách VNCH, người góp phần quan trọng trong việc đào tạo môn kinh tế học tại trường Đại học Luật khoa và Trường Hành chính Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa – vừa qua đời tại Paris ngày 22 Tháng 11/2021, hưởng thọ 102 tuổi.
Theo thông báo của gia đình, thánh lễ cầu nguyện cho giáo sư Vũ Quốc Thúc sẽ được cử hành ngày 25 Tháng 11/2021 tại Giáo xứ Việt Nam ở Paris; lễ hỏa táng được cử hành ngày 1 Tháng 12/2021.
Gia đình Giáo sư Vũ Quốc Thúc vốn không phải là Kitô hữu, ông đã đón nhận đức tin vào Chúa, gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012. Theo trang vncatholic thì:
“Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.
Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng “Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Saigon, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng”.
Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói : « Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh».
Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.
Xin Chúa đón nhận linh hồn Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc sớm hưởng nhan thánh Chúa.
Tôi đã về lại Toronto – Canada bình an sau 3 tuần lang thang ở Mã Lai và Nam Dương, chủ yếu là đi thăm các hòn đảo từng là nơi tạm trú của thuyền nhân Việt Nam. Tạ ơn Chúa, cảm ơn mọi người, tôi đã được học hỏi thêm về tình người, về quê hương và tin rằng nhờ thế có thể sống tốt hơn.
Âm vang câu hát “Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương, Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác. Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong” vẫn còn vang vọng trong lòng. Số là mỗi khi thắp hương cầu nguyện trước mộ phần các thuyền nhân xong, chúng tôi đều hát và thấm thía hơn bao giờ hết nỗi đau qua những nốt nhạc này.
Lịch trình thăm viếng của nhóm chính thức bắt đầu vào thứ Hai 28 tháng 4, 2025, nhưng 3 anh em Toronto chúng tôi đã ra phi trường từ 24 tháng 4. Đi sớm mấy ngày để ghé thăm thành phố Kuala Lumpur và nghỉ ngơi. Chuyến bay dài gần 21 tiếng, cộng thêm giờ phải tới sớm, giờ chờ chuyển tiếp máy bay nên tổng cộng lượt đi và về hết khoảng 60 tiếng đồng hồ. Ôi chuỗi thời gian dài ớn quá là ớn. Mà khi tới nơi rồi cũng có yên đâu, suốt ngày thường xuyên chúng tôi phải ở trên xe bus, xe van, trên tàu lớn, tàu nhỏ hoặc máy bay nhỏ… “Thôi rồi còn chi đôi mông tôi!” Ba tuần lúc nào cũng bồng bềnh chênh vênh, nên mỗi khi được đặt 2 chân xuống mặt đất thì thấy thật là hạnh phúc! Giá mà Elon Musk chế xong được cái ống chui tọt vào là tới nơi thì hay biết mấy.
Nhớ lại cách đây gần 10 năm, khi đó ông xã còn sống, chúng tôi có đi hành hương châu Âu với nhóm nhà thờ, mà tôi là một trong những người tỉnh táo để giúp các bác lớn tuổi hơn kéo hành lý, trả lời họ hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu, ngày mai sẽ làm gì. Thế mà bây giờ tôi lại chính là một trong những “bác” lớn tuổi đó, tức là cần người giúp di chuyển vali, cần người trả lời hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu hoặc ngày mai sẽ làm gì. Rõ chán!
Bây giờ xin được xuống câu vọng cổ chia sẻ lý do tôi tham dự chuyến đi này. Trong nhóm có các anh chị không biết vượt biên là gì nhưng vẫn hăng hái tìm về nguồn, cũng có các anh chị dù không phải trong ban tổ chức, mà vẫn tham dự nhiều lần chỉ để thắp hương cầu nguyện ở các mộ phần – thật là cao cả, cũng có một số em trẻ đi theo cha mẹ. Riêng tôi thì thú thật xem qua chương trình chẳng lấy gì làm hào hứng. Gì đâu mà ngày nào cũng đi thăm nghĩa trang, mà tôi biết thời tiết ở các nơi này rất nóng, lại phải trèo đèo lội suối ở các nơi đầy muỗi mòng, khỉ ho cò gáy theo đúng nghĩa đen. Hơn nữa, thời gian cuối tháng Tư 2025, tôi muốn ở nhà để giúp tổ chức 50 năm Quốc Hận tại tòa thị sảnh Toronto và quốc hội Ottawa – đây là truyền thống chúng tôi chưa vắng mặt năm nào. Tôi lại đã đóng tiền cọc để đi du thuyền qua Âu Châu chơi với nhóm bạn, rồi công ty tôi đang làm cũng khó cho phép vắng mặt liên tục 3 tuần…. Đủ thứ lý do tại, bị, thế mà cuối cùng tôi cũng được đi với nhóm, thật là một điều quá vui mừng. Nghĩ lại nếu không đi, tôi sẽ hối tiếc nhiều lắm.
Tôi đã thực hiện dùm ý nguyện của ông xã. Khi đi qua các hòn đảo kỷ niệm nơi anh từng đặt chân đến, tôi đã thở phào thầm nghĩ “Mission Completed”. Rất buồn là ông xã – anh Nguyễn Ngọc Duy – mới qua đời cách đây 7 tháng vì bệnh phổi lúc 65 tuổi. Từ nhiều năm nay, lúc nào anh cũng ước ao về thăm lại đảo Air Raya rồi trại tị nạn Galang, nơi tôi và anh đã gặp nhau, nhưng lần nào cũng có trở ngại. Những ngày cuối đời anh lại nhắc tới trại tị nạn nhiều hơn, nên tôi rán đi dùm anh dù biết đi một mình sẽ rất buồn.
Bây giờ xin kể sơ về chuyến hành trình. Nhóm có 233 người ghi danh đi thăm các đảo ở 3 nước Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân. Có người chỉ đi một quốc gia rồi về, tôi và một số đông thì đi 2 nước, còn lại khoảng 50 người thì đi cả 3 nơi. Số người tập trung đông nhất ở một thời điểm là trên 100 người. Thật là khẩu phục tâm phục ban tổ chức, nào là đón tiếp hướng dẫn ở từng chặng đường, lo xe, lo khách sạn, giúp vé máy bay, rồi đặt thức ăn, sắp xếp chương trình khoa học và ý nghĩa. Sau chuyến đi chắc hẳn họ già hơn nhiều vì căng thẳng lo lắng.
Riêng cái chuyện sắp hàng đi vệ sinh cũng là vấn đề lớn. Tôi đã nói đùa khi người thứ 100 “xả nước cứu thân” xong, là đã đến lúc người số 1 cần đi nữa rồi! Các vùng hẻo lánh này nhà vệ sinh rất ít, có nơi còn là loại cầu tiêu xưa, nghĩ lại còn rét dù trời nóng hừng hực! Thế nhưng chúng tôi luôn tận dụng thời gian sắp hàng mà trò chuyện rôm rả, mang bánh trái ra mời mọc nhau nên cũng thấy bớt chán. Nhớ quá những cây cà-rem do thầy Tấn Phước đãi. Nhóm thường đi bằng 2 xe bus lớn và một xe van nhỏ, hôm đó thầy mua kem cho mọi người, nhưng 1 xe bị lạc nên xe của chúng tôi phải ăn dùm hai phần. Trời nóng mà ăn kem vừa mát vừa ngọt vừa thơm mùi sầu riêng thì không gì thích thú bằng. May mắn hơn xe chúng tôi lại có cha Phạm Quang Hồng ở Úc đi cùng, nên lúc nào cũng tràn đầy tiếng cười, mà cũng hại não lắm vì cha hay đố những câu khó quá!
Nhóm lại có Youtuber Trương Minh Quân với channel TmQ nổi tiếng, lúc nào chương trình cũng được livestream với 40 ngàn người xem. Tôi ở trại mà bạn bè Toronto thường xuyên gởi video thâu từ TmQ cho xem, nhắc là đã thấy Hân ở phút số mấy trong youtube. Vấn đề xài tiền cũng khá rắc rối, tới Mã Lai phải xài tiền Mã, tới Nam Dương phải xài tiền Indo, nhưng nhóm thì có người tới từ Mỹ, có người tới từ Canada, Phần Lan, Úc…. nên chả chục thứ tiền đủ màu đủ loại, đổi qua đổi lại cũng khá nhức đầu!
Ngoài ban tổ chức là nhóm anh em bên Úc như anh chị Sơn-Anh, anh chị Minh-Thanh và bác sĩ Ken, còn có cô Heidi (Hay Đi!), cô Ngọc Ân, anh Long, bố con anh Chính và vài nhân vật rất đặc biệt. Từ khi ghi danh thì chúng tôi đã thường xuyên nhận được bản tin với nhiều chi tiết hữu ích từ anh Sơn. Cháu Ken ở Cali là một nam bác sĩ cao ráo giỏi giang, tấm lòng hy sinh yêu người không biết dùng chữ gì để diễn tả. Một cậu trẻ khác là Jammy sinh ra ngay tại Bi Đông, đi với nhóm lần này là lần thứ 2. Được biết lần đầu Jam đi thì hiểu tiếng Việt rất ít cần thông dịch, nhưng lần này tiếng Việt của cháu đã rất khá. Jam đẹp trai vui vẻ, ai cũng muốn làm mai gả con gái, cháu gái cho. Vào đúng sinh nhật của Jam trong tháng 5, cháu đã tìm cách để được về đứng ngay bệnh viện xưa – nơi Jam sanh ra để chụp hình và “thu thập năng lượng”. Vài cháu khác đi với cha mẹ, nhưng cũng rất hòa mình không tỏ vẻ khó chịu hay bị ép uổng gì cả. Chúng tôi mừng lắm vì có giới trẻ tham gia. Trong nhóm có ít nhất 4 anh, chị không biết trại tị nạn là gì, vì không phải là thuyền nhân, chân nhân hay phi nhân. Họ rời Việt Nam từ 30 tháng 4, 1975 nhưng vẫn muốn tìm về nguồn cội, lịch sử. Một vài anh chị cũng đã tham dự các chuyến này nhiều lần, còn nhớ được đường đi trèo đèo lội suối để đi thăm đầy đủ các khu bia mộ. Ai nấy đều quá chân thành, dễ thương, chăm sóc an ủi nhau… thật là cảm động và quý giá. Tôi vốn bi quan, thường cho rằng người tốt trên đời này không còn bao nhiêu, nhưng qua hành trình này tôi mới cảm nghiệm được “bông hoa còn đẹp, lòng chưa thấm mệt” (thơ Phạm Thiên Thư).
Bây giờ tôi xin sơ lược về lộ trình. Mọi người đã tập trung tại địa điểm đầu tiên là phi trường số 2 Kuala Lumpur – Mã Lai để cùng đi xe bus thăm nghĩa trang đầu tiên tại Terengganu. Sau đó ngày nào cũng thăm viếng nhiều khu mộ tập thể hoặc mộ cá nhân không bỏ sót khu vực chôn cất nào như Kuantan, Dungun, Kota Baru, Besut, Cherang Ruku, Panji, sau đó thăm Romping, Endau, Mersing… Đặc biệt nhóm đã thắp hương trước ngôi mộ tập thể chôn xác nhiều người, trong đó có vợ và con của MC & nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn.
Ban tổ chức cũng sắp xếp để mọi người được viếng mộ các vị đại ân nhân như ông Alcoh Wong, ông Heng… Quý ông này là một trong những người Trung Hoa ở Mã Lai đã bỏ công sức và tình yêu nhân loại để tìm vớt xác, chôn cất rất nhiều thi thể thuyền nhân Việt trôi dạt vào bờ biển Mã Lai hơn 40 năm trước. Ông Wong và thân hữu cũng đã in một cuốn sách tài liệu với chi tiết lịch sử, bản đồ, tên họ của các thi thể mà họ chôn cất. Ban tổ chức đã liên lạc trước với thân nhân của ông Wong, ông Heng và mời họ đi ăn chung với nhóm để tỏ lòng biết ơn. Bà Wong vẫn còn sống và đã giúp rất nhiều trong việc đặt khách sạn, nhà hàng… Bà từng là chủ tịch hội phụ nữ Trung Hoa ở Mã Lai, tuy sức khoẻ kém nhưng luôn có mặt với nhóm. Một người em trai trong gia đình ông Wong khi phải vớt xác người chết chìm trên biển, đã chịu sốc tâm lý nên phải phát nguyện cạo đầu, cầu nguyện. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để nói hết lòng khâm phục và biết ơn những đại ân nhân này, được bắt tay họ tôi rưng rưng nước mắt.
Sinh hoạt chính tại Mã Lai là cuộc hội ngộ tại đảo Bi Đông, nơi từng có hằng trăm ngàn người Việt Nam tạm trú trong khi chờ đi định cư ở quốc gia thứ ba như Mỹ, Úc, Canada, Pháp… Đúng ngày Quốc Hận lần thứ 50 là 30 tháng 4, 2025, nhóm đã có một buổi lễ thật ý nghĩa ngay tại bờ biển Bi Đông, cùng Chào Cờ hát quốc ca Việt Nam Cộng Hòa và tôi được hân hạnh đọc phút Mặc Niệm trong buổi lễ. Sau đó nhóm đi vòng quanh biển với lời cầu nguyện của thầy Tấn Phước và cha Quang Hồng, cùng đốt nến, giấy vàng mã, hương trầm cầu nguyện cho người đã khuất và cho quê hương Việt Nam. Tối hôm đó và nhiều đêm sau, nhóm luôn có các buổi hội ngộ tâm sự, ca hát, đốt lửa trại thật cảm động. Đây cũng là cơ hội cho mọi người thi thố tài năng – nào là ngâm thơ, đơn ca, hợp ca với tiếng đàn guitar và kèn harmonica sống động, cũng như dàn Karaoke khá tốt.
Điều mắc cười là tôi vốn khó ngủ, nên xin trả thêm tiền để có phòng riêng tại các khách sạn, thế mà khi ở Bi Đông, không có khách sạn phải ngủ ngoài lều, có lều tới 20 người, thì tôi lại ngủ ngon hơn hết. Có người gọi Bi Đông là Bi Đát, thật không sai với bao câu chuyện bi thương đáng nhớ, chẳng hạn câu nói luôn được lưu truyền “Tình Bi Đông có list thì dông”, tức là tình cảm yêu thương chỉ là tạm bợ, khi được lên list đi định cư thì mọi hứa hẹn liền chấm dứt.
Ngôi chùa tên là Từ Bi còn sót lại vừa có nghĩa là từ bi bác ái, vừa cũng có nghĩa là từ Bi-Đông mà có. Các người đi trước đã kể lại vài câu chuyện tâm linh khá hi hữu, như chuyện ngay sau khi phái đoàn thăm viếng khu mộ tập thể, thì hoa vàng bỗng rộ nở rất nhiều, hoặc một đàn bướm vàng mấy trăm con bỗng xuất hiện bay lượn ngay trên các ngôi mộ, mà theo dân địa phương thì khu này rất ít khi thấy bướm. Một ông người Hoa giúp việc trùng tu các ngôi mộ đã mua vé số với số tàu của người tị nạn, thì đã trúng độc đắc. Ông đã trích ra một phần tiền trúng để bỏ vào quỹ trùng tu. Cũng có nhiều chuyện ly kỳ khi người chết báo mộng để gia đình tìm ra thi hài, hoặc cho biết mộ bị nứt hay tên họ trên tấm bia đã bị khắc sai…
Nhóm cũng đã được tận mắt nhìn bức tượng “ông già Bi Đông” mà thương xót cho những mảnh đời kém may mắn, phải tìm sự sống trong cái chết.
Chúng tôi cũng được đi thăm một quán cà-phê sang trọng nằm dọc theo bờ biển, thuộc khách sạn 5 sao làm từ chiếc thuyền tị nạn mà họ đã mua của Liên Hiệp Quốc. Bảng khắc ghi chú các chi tiết về Boat People rất rõ ràng cảm động.
Vào 2 tháng 5, 2025 nhóm đã rời Mã Lai để cùng đi tới Nam Dương bằng phà qua đảo Batam, mà chúng tôi gọi là Bà Tám cho dễ nhớ. Indonesia là mục tiêu chính mà tôi muốn thăm viếng, vì tôi và ông xã đã từng ở đó. Chúng tôi thăm viếng nghĩa trang thuyền nhân Việt Nam, nhà bảo tàng, nhà thờ Công Giáo, chùa Quan Âm, miếu Ba Cô, bãi biển Galang…Tiếc là rất nhiều di tích ở khu Galang 1 đã bị xóa mất sau gần 50 năm, chẳng hạn các địa điểm như văn phòng Cao ủy, Ban điều hành trại, Trung tâm huấn nghệ, Youth Center, tòa soạn báo Tự Do, đạo quán Hướng Đạo, đồi Nhà thờ, bệnh viện ICM …. đã không còn nữa.
May mắn là ở Galang 2, chính quyền Indo đã cho trùng tu, làm museum với nhiều ảnh chụp, mô hình, đền thờ Mẹ Maria và bản đồ Việt Nam rất lớn. Đặc biệt có 14 chặng đàng Thánh Giá của Chúa Giesu làm trên 14 con tàu tị nạn vừa to vừa đẹp để thu hút du khách. Chúng tôi đi xe bus hoặc thuyền qua các đảo nhỏ như Letung (gọi theo tiếng Việt là Lê Tùng), Air Raya, Keramut, Tarempa, biển Padang Melang, khu phố shopping Nagoya… Chúng tôi được ban tổ chức sắp xếp đến tận nơi thăm viếng, tặng quà cho các cô nhi viện, trường học, nhà dưỡng lão… thật là cảm động. Các em học sinh tiểu học tại 4 trường mà chúng tôi ghé thăm đều mặc đồng phục thật đẹp để chào đón khách, ca hát rất dễ thương. Các em và dân địa phương đều rất hiền lành, khuôn mặt lộ ra nét chân thành đáng mến, không thấy trộm cắp lừa lọc, không ai phải đề phòng kẻ gian, đời sống thật là an bình.
Tại Galang chúng tôi được đi ngang cầu tàu, nơi từng có bảng để chữ “Cửa ngõ của Tự Do và Tình Người”. Người ta cũng có câu “Galang tình xù”, nhưng tình cảm của tôi và anh Duy thì may mắn thay không bị xù! Chúng tôi quen nhau ở Galang, thề hứa và đám cưới ở Cali sau 3 năm rời khỏi trại tị nạn. Tôi đi Cali mang quốc tịch Mỹ, còn anh đi Toronto mang quốc tịch Canada. Một người họ Nguyễn, một người họ Trịnh, tuy có phân tranh nhưng sống với nhau 40 năm ở Toronto tạm ổn cho tới khi anh mất vì bệnh phổi. Cầu tàu này là nơi đưa tiễn của biết bao người. Nhớ làm sao những lon coca cola, những ly milo sữa đá, những chai bia, những bao thuốc lá hiếm hoi … Chúng tôi cũng rất xúc động khi đi ngang khu vực được gọi là “Con đường Máu” – nơi các thuyền nhân Galang đã từng phải xuống đường biểu tình. Gần 20 người đã phải tự sát khi bị cưỡng bức hồi hương vì không đủ tiêu chuẩn tị nạn. Quân đội Indonesia đã từng phải vùng vũ lực để can thiệp. Chúng tôi cũng được thăm 2 ngôi mộ của “Romeo và Juliet”, là đôi nam nữ trẻ đã phải tự vẫn vì gia đình hận thù không cho cưới nhau sau khi đã vượt biên thành công. Cũng có một số ngôi mộ của những người ăn cháo rắn bị trúng độc chết, hoặc uống rượu pha cồn nên cháy ruột mà qua đời, thật là buồn và đáng tiếc vì đã thoát được Việt Nam nhưng vẫn không đến được đất định cư.
Nhóm cũng dành thời gian viếng Miếu Ba Cô dưới tàng cây bồ đề to lớn tại Galang 2. Câu chuyện được kể lại là có hai cô gái bị hải tặc xâm hại nên rất mặc cảm, đau khổ. Người Việt lúc đó lại không ý tứ, hay xầm xì chỉ trỏ, 2 cô lại không đủ bằng chứng pháp lý để được nhận đi định cư. Giọt nước làm tràn ly khiến hai chị em cùng quyết định treo cổ trên cây là khi họ bị vu oan ăn cắp chiếc bóp của nhân viên Cao ủy. Nghe nói có 1 cô gái khác vì ghen tức với sắc đẹp của cô em, mà cô em này lại được con trai người chủ tàu yêu thương, nên chính cô gái này đã lấy cái bóp bỏ vào phòng đổ oan cho 2 chị em. Ngày 2 chị em quyên sinh trước lúc họ được chấp nhận đi định cư chỉ một ngày.
Chúng tôi cũng nghe nhắc lại câu chuyện thương tâm của 12 cô gái Việt bị cướp biển hãm hại, bọn quỉ dữ trói 12 cô khỏa thân lại thành một chùm rồi thả trôi trên biển. Người ta chỉ thấy 11 xác, nhưng vì có nút thòng lọng thứ 12, nên tin là đã có 12 nạn nhân xấu số. Tôi vốn mít ướt nên khóc sướt mướt khi nghe chuyện, và thắc mắc bọn ác độc bắt các cô cưỡng hiếp đã đành, nhưng sao lại phải bỏ công cột xác lại thả trôi? Câu trả lời là bọn này có lẽ mắc bệnh bạo dâm, muốn cảm giác mạnh, muốn chơi trò ma quỉ! Ôi lòng dạ con người, ôi đau khổ và hệ lụy sinh ra từ cộng sản, làm sao tả hết những đau thương nhục nhã, làm sao để xóa bỏ nỗi đoạn trường từ những câu chuyện vượt biên.
Xin lỗi nãy giờ kể toàn chuyện buồn, tôi xin thay đổi kể vài chuyện nho nhỏ vui hơn. Ngoài đi thăm bia mộ, chúng tôi cũng được đi tắm biển vài lần. Có một khu vực gọi là “Water of God” là nơi biển rất vắng, thuộc loại đặc biệt được bảo tồn với nước trong xanh và san hô thật đẹp. Một vài anh chị hơi ngần ngại vì con thuyền đưa nhóm đi tới khu này hơi nhỏ, áo phao cấp cứu lại cũ kỹ nên quyết định về lại khách sạn. Tôi thì thầm nhủ cứ liều, chết thì về với anh Duy lo gì! Nhưng số tôi cũng lớn nên đã trở về toàn mạng, mang theo một bụng nào là nước dừa tươi, nào là cá biển mực nướng thơm ngon được dân địa phương phục vụ ngay tại bãi biển. Cũng được biết trái thanh long và rau muống trên các vùng đất Nam Dương là do người tị nạn Việt Nam mang tới, và dân địa phương rất trân trọng loại giống mới này.
Tôi cũng đi thăm viếng các ngôi chùa, đền thờ Hồi giáo lớn, 2 lần được đi xe ôm dạo phố. Một lần do cô Indo làm bếp tại Homestay cho quá giang đi chợ chung. Lần khác 4 chị em chúng tôi trả tiền đi vòng quanh đảo Tarempa chung với nhau bằng xe hai bánh, xem thác 7 tầng. Cảnh chiều trên đảo vắng thật đẹp với sương mờ bảng lảng, nhưng có một đoạn dài ông tài xế bị lạc, trời lại tối nên tôi khá lo sợ. Không rõ bác tài lạc đường hay ông ta cố ý đem tôi đi bán! Nhưng nghĩ lại nếu cần bán, chắc họ đã chọn các cô gái trẻ đẹp, loại ốm yếu sắp về hưu như tôi thì đâu có ai mua. Nghĩ vậy nên tôi yên tâm, và may mắn thay chúng tôi đã trở về không suy xuyển gì!
Tôi lại được một thời gian dài không phải đi làm, ngày 3 bữa thịnh soạn không phải nấu ăn thật là sung sướng, nhưng báo hại bị lên mấy ký, lại thêm bị muỗi và rệp cắn nên rất “mập mình”. Tôi tên Hân, nếu nặng thêm tức là thêm vào dấu nặng, thì từ “Hân” hoan sẽ trở thành “Hận” thù, thật không nên nặng thêm tí nào!
Điều thú vị trong chuyến đi hầu như ai cũng khóc, cũng mít ướt kể cả các anh to con, râu ria tướng tá nhìn rất “ngầu”. Ừ nhỉ, nhắc tới kỷ niệm, mất mát và biệt ly ai mà cầm lòng cho được. Trên các con tàu và các nơi dừng chân, chúng tôi đều có những lá cờ Vàng Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới. Nhóm lại treo thêm 4 lá cờ lớn là cờ Indo, cờ Mã Lai, cờ Phi Luật Tân và Việt Nam ở các sinh hoạt chính nên nhìn rất trang trọng và ấm cúng.
Chúng tôi cũng nhắc tới những đêm Noel ở nhà thờ Galang, người ta đốt hai hàng đuốc dọc theo đường đồi, tạo ra hình ảnh rất đẹp. Chúng tôi nhớ tới Linh Mục Dominici và Mục Sư Flemming, cả hai đều giỏi tiếng Việt và giúp người tị nạn rất nhiều. Ngày mới tới Galang được nhóm Tin Lành phát cho mỗi người một túi bánh kẹo và sách vở chúng tôi rất quý. Riêng cha Dominici thì khá thân với chúng tôi. Hồi đó bạn bè nói anh Duy là con cưng của cha Dominici. Quả vậy, anh Duy từng là đoàn trưởng Đoàn Thanh Niên Công Giáo, suốt ngày lo làm chuyện xã hội như sửa đường đi, giúp xây phòng tắm kín đáo hơn, giúp tổ chức picnic, văn nghệ… Các bác già thuộc Hội đồng Giáo xứ xin tiền làm công tác có khi bị từ chối, nhưng nếu anh Duy gặp cha Dominici trình bày kế hoạch sinh hoạt cho giới trẻ, thì cha đồng ý ngay. Riêng tôi cũng có duyên may được nhận làm việc cho báo quán Tự Do ở Galang với lương tháng khá cao. Tôi cũng được may mắn trúng giải thi thơ năm 1981, với bài thơ “Nước Mắt Yêu Thương” mà chị Ánh Linh đã diễn ngâm lại trong buổi đốt lửa trại.
Cha Dominici giúp chuyển thư của trại viên cho thân nhân, bênh vực người tị nạn bị hà hiếp, sáng lập báo Tự Do, viết cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi” và nhiều bài báo rất ý nghĩa. Bài này dài quá rồi tôi xin được nói về cuốn sách của cha trong một dịp khác. Ngày cha mất vì ung thư ruột già, chúng tôi ở Toronto có tổ chức lễ cầu nguyện và tri ân tại 2 nhà thờ ở Toronto, người không Công Giáo cũng tham dự khá đông và rất cảm động. Chúng tôi cũng từng được cơ hội đi “Tĩnh Tâm” với cha ở tại Toronto, hiểu rằng chính bản thân Chúa Giêsu cũng từng phải đi sang Ai Cập tỵ nạn. Cha đang được đề cử để phong chức Chân Phước trong đạo Công Giáo.
Chúng tôi về lại Toronto an toàn vào khuya ngày 14 tháng 5, 2025, trong khi nhóm vẫn tiếp tục đi thăm Phi Luật Tân. Cho tới bây giờ trong Whatsapp Group, chúng tôi vẫn luôn thường xuyên nhận được hình ảnh, video, sáng tác nhạc, chia sẻ tâm tình để ân tình còn mãi, và đặt hy vọng vào những lần gặp gỡ khác trong tương lai.
Khép lại chuyến trở về quá khứ để hiểu rõ thêm thân phận thuyền nhân và hoàn cảnh người tị nạn, sống lại một lần nữa với kỷ niệm, tôi thấy mình quá may mắn và thật lòng trân trọng khoảng thời gian này. Tôi nhủ lòng đừng quên những hy sinh mà thế hệ người tỵ nạn Việt Nam trước đó đã gánh chịu – để mang lại đời sống tự do và dân chủ cho các thế hệ sau.Xin đặc biệt tri ân ban tổ chức và từng người trong nhóm, nhất là hai anh Nhỏ và Kiệt trong nhóm Toronto đã giúp tôi trong suốt đoạn đường. Tôi lại càng hiểu rõ hơn giá trị của Tự Do, càng biết mình phải cố gắng hơn nữa để góp phần trao ra, học gương hy sinh dù chỉ với những việc và tâm tình đơn sơ nhất. Vài người bạn rủ tôi vận động xin thêm ít tiền để nhóm gia đình Bi Đông có thêm chi phí mà tu sửa mồ mả, làm thêm các di tích của thuyền nhân. Tôi chưa biết mình sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ góp tay dù những việc bé nhỏ nhất. Xin tri ân tận đáy lòng, và cũng không quên cảm ơn ông xã đã phù hộ cho tôi có một chuyến đi thật ý nghĩa và bình an.
Một ngày tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần nhé.
Cha Vương
Thứ 2: 9/6/2025
TIN MỪNG: ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?” (St 3:9)
SUY NIỆM: Trong truyền thống Công giáo, chúng ta gọi Mẹ Maria là “E-và mới”, Mẹ đã giúp hàn gắn lại mối rạn nứt nguyên thuỷ của A-đam và E-và. Khi ăn trái cấm/bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa, con người trở nên xa lạ đến mức phải sợ hãi chạy trốn Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người đã mất tất cả, mất đi sự công chính thánh thiện nguyên thủy, mất đi chính nguồn hạnh phúc đích thực của mình là Thiên Chúa. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn đi tìm kiếm con người. Ngài gọi con người và hỏi “Ngươi ở đâu?”
Thiết tưởng rằng Chúa vẫn tiếp tục hỏi câu hỏi này với mỗi người chúng ta, khi chúng ta lang thang trong cuộc sống bị tách biệt khỏi Chúa bởi tội lỗi.
Nếu Chúa gọi bạn hôm nay: “Con đang ở đâu vậy?” Mời bạn hãy tìm câu trả lời cho câu hỏi này mà xác định mối thân tình giữa tâm hồn bạn với Chúa đang ở mức độ nào.
LẮNG NGHE: Nhưng điều Ta truyền cho chúng là: Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc. (Gr 7:23)
CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, ở đâu có tội lỗi thì tình thương của Chúa ngày càng dâng trào. Xin giúp con biết sống thánh thiện trước mặt Chúa và đối với anh chị em trong cuộc sống hằng ngày.
Đến Coupvray – một ngôi làng cách Paris khoảng 50km – du khách gặp một ngôi nhà hơn 200 tuổi, nơi một cậu bé mù từ ấu thời đã chào đời. Ở đó, trong khu vườn, một cô bạn đã từng tặng cậu bé một quả thông; lướt những ngón tay trên quả thông, cậu có một ý tưởng! Nhiều năm sau, một bảng chữ cái gồm các chấm nổi trên giấy ra đời. Người mù có thể đọc! Cậu bé ấy là Louis Braille – người tạo một khác biệt cho thế giới.
Kính thưa Anh Chị em,
Trong Tin Mừng hôm nay, khi nói “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian!”, Chúa Giêsu muốn bạn và tôi – như Braille – làm một điều gì đó tương tự! Ngài muốn chúng ta mang ánh sáng Kitô – chính Ngài – đến tận những góc tối của thế gian, những chân trời xa thẳm của nó để chiếu sáng, để ‘tạo một khác biệt!’.
Chúa Kitô là ánh sáng, nơi Ngài không có bóng tối; Ngài “đã không vừa là “có”, vừa là “không”, nhưng nơi Người chỉ toàn là “có”; mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người” – bài đọc một. Chính điều này cho phép chúng ta trở thành ánh sáng cho thế giới, một thế giới vốn tốt đẹp, nay hỏng hóc bởi tội lỗi, suy vi theo nhiều cách, móp méo theo nhiều kiểu. Thế giới đó phải thấm nhuần cuộc sống của chúng ta đến mức chúng ta cảm nhận gần như tự động toả sáng rực rỡ. Chúa Kitô đã không ngần ngại ‘đầu tư tốt’ nơi chúng ta – ân sủng, tình yêu và Thánh Thần – để từ đó, sai chúng ta đến với bao con người Ngài muốn cứu chuộc. Chúng ta phải là những hạt giống chắc chắn của sự hiệp nhất, hy vọng và ơn cứu độ cho thế giới.
Bằng cách nào? Bằng cách sống trong ánh sáng Chúa Kitô – âm thầm nhưng đầy sức mạnh – toả lan Ngài qua từng hành động hiến dâng, yêu thương và tha thứ của mình. Một khi Chúa Kitô sống động trong chúng ta, chúng ta sẽ toả ra niềm vui và sự bình an, sự bình tĩnh và niềm tin, lòng tốt về mặt đạo đức và sự quyết tâm. Sống theo cách này, chúng ta sẽ không phải ‘áp đặt’ Phúc Âm lên một ai; thay vào đó, ánh sáng Chúa Kitô sẽ chỉ đơn giản là toả sáng và trở thành hải đăng hy vọng cho những ai chúng ta gặp gỡ.
Anh Chị em,
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian!”. Là ánh sáng cho trần gian có nghĩa là thông qua các công việc thương xót và yêu thương, bắt đầu với những ai gần gũi chúng ta nhất, chúng ta chiếu sáng Chúa Kitô. “Mỗi Kitô hữu là một ngọn đèn mà Chúa Kitô muốn thắp sáng, để nơi nào họ hiện diện, nơi đó ánh sáng âm thầm của Ngài có thể chạm đến những linh hồn đang lạc hướng!” – Elisabeth Leseur. Ánh sáng này còn là lửa của Thánh Thần đang cháy bên trong chúng ta, chiếu sáng thế giới chung quanh bằng chân lý, lòng nhân từ và vẻ đẹp của Thiên Chúa. “Linh hồn được chiếu sáng bởi Thiên Chúa như một tấm kính trong suốt đón lấy ánh sáng mặt trời – càng trong sạch, ánh sáng càng rực rỡ!” – Gioan Thánh Giá. Chính ánh sáng của Chúa Kitô – không phải của chúng ta – ‘tạo một khác biệt’ cho môi trường, cho thế giới.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, gọi con, Chúa đã ‘mạo hiểm’ ‘tạo một khác biệt’ trong thế giới khi không ngại ‘đầu tư tốt’ trên con; thật tốt! Đừng để con làm kỳ vọng của Chúa ‘leo lét!’”, Amen.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. Mt 5,13-16
13 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
14 “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15 Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16 Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”
Ảnh vệ tinh cho thấy các phi cơ TU 95 ở căn cứ không quân Irkutsk, Nga bị drone của Ukraina phá hủy, ngày 04/06/2025.via REUTERS – MAXAR TECHNOLOGIES
Một tuần sau khi dồn dập không kích Ukraina trong ba ngày với cường độ cao chưa từng có tính từ khi nổ ra chiến tranh, với hơn 900 drone và vài chục tên lửa, gây nhiều thiệt hại nhân mạng cho đối phương, tuần này đến lượt Nga liên tiếp hứng chịu tổn thất vật chất khi bị Ukraina tấn công trên nhiều mặt trận, từ các căn cứ không quân sau trong lãnh thổ, cầu Kerch nối sang Crimée, cho đến hãng chế tạo máy bay danh tiếng Tupolev.
Sau 1 năm rưỡi bí mật chuẩn bị, Ukraina hôm 01/06/2025 đã tiến hành chiến dịch táo bạo « Mạng nhện », phóng hơn 100 drone tiêu diệt 1/3 số chiến đấu cơ mang tên lửa hành trình của Nga đang đậu tại nhiều căn cứ quân sự xa xôi của Nga, từ vùng Mourmansk, gần Bắc Cực, cho đến tận miền đông Siberie. Đây được xem là chiến dịch tấn công sâu nhất của Kiev vào lãnh thổ của kẻ thù từ khi Ukraina bị Nga xâm lược.
Chỉ hai ngày sau, đến lượt cầu Kerch nối từ Nga sang bán đảo Crimée bị Ukraina tấn công với khoảng 1,1 tấn thuốc nổ cài dưới một trụ cầu. Dẫu cầu không sập, nhưng vụ tấn công vào cây cầu không chỉ là biểu tượng cho sự thâu tóm Crimée của Nga, mà còn là tuyến đường chiến lược của Matxcơva, một lần nữa cho thấy quân đội Ukraina có khả năng và nguồn lực để tiến hành các hoạt động làm suy yếu kẻ thù. Trả lời báo Pháp Le Monde qua điện thoại, dân biểu Oleksandr Merezhko, người đứng đầu Ủy ban đối ngoại của Quốc Hội Ukraina, khẳng định đây là một thông điệp Kiev gửi tới Putin, rằng Nga đang ở trong tình thế dễ bị tổn thương hơn họ nghĩ, nhằm gây áp lực khiến Matxcơva phải đàm phán nghiêm túc hơn với Kiev.
Từ Kiev, thông tín viên Emmanuelle Chaze ngày 03/06 giải thích thêm về ý nghĩa vụ tấn công cầu Kerch :
« Đây không phải là lần đầu tiên các lực lượng của Ukraina tìm cách phá hủy cây cầu này, mà là lần thứ 3 kể từ năm 2022. Tình báo Ukraina cho biết lần này hơn một tấn thuốc nổ TNT đã được đặt và kích nổ phía dưới trụ cầu.
Thách thức đặt ra cho Ukraina là rất lớn, bởi vì cây cầu này cho phép Matxcơva chuyển quân, thiết bị hạng nặng và đạn dược từ Nga đến bán đảo Crimée và sau đó đi dọc theo đường chiến tuyến tại vùng bị chiếm đóng ở miền đông lãnh thổ Ukraina. Phá hỏng cầu Crimée sẽ ngăn chặn việc vận chuyển này của quân Nga và khiến các đội quân Nga ở miền đông giảm các cuộc tấn công chống quân đội Ukraina.
Trong khi Nga mô tả hành động phá cầu là khủng bố, Kiev khẳng định đã hoạt động đúng theo khuôn khổ luật của luật chiến tranh, không gây ra thương vong cho dân thường.
Cây cầu vẫn còn đó, nhưng vụ tấn công này của Ukraina cho Nga và các đồng minh của Ukraina thấy rằng, kể cả sau hơn 3 năm chống chọi với cuộc chiến xâm lược trên mọi mặt trận và đang phải chịu áp lực rất lớn dọc theo chiến tuyến, Kiev vẫn có thể chứng tỏ họ có nhiều sáng kiến về quân sự ».
Chưa dừng ở đó, hôm 04/06, tình báo Ukraina lại thông báo đã tấn công tin tặc vào hãng chế tạo máy bay nổi tiếng Tupolev của Nga và lấy được nhiều dữ liệu quan trọng của nhà sản xuất này. Hãng Tupolev đặc biệt nổi tiếng với các oanh tạc cơ tầm xa có thể mang theo vũ khí hạt nhân, ví dụ Tupolev-95 và Tupolev-160, thuộc lực lượng răn đe hạt nhân trên không của Nga. Nhiều thông tin mật của Tupolev đã bị Kiev đăng tải lên các mạng xã hội.
Đến ngày 06/06, quân đội Ukraina khẳng định trong đêm đã oanh tạc thành công 2 căn cứ không quân của Nga, nhắm trúng ít nhất 3 kho nhiên liệu của đối thủ.
Có lẽ khi có những hành động tấn công táo bạo làm Nga « mất mặt » như vậy, Kiev cũng hiểu sẽ sớm phải hứng chịu đòn trả đũa gay gắt của đối phương. Quả thực, không phải chờ lâu, trong đêm 05 rạng sáng 06/06, Nga đã ồ ạt oanh tạc Ukraina bằng drone và tên lửa đạn đạo. AFP cho biết tại Kiev, ít nhất 4 người thiệt mạng. Ngoài thủ đô Kiev, có 9 vùng khác trên cả nước bị Nga tấn công (Volyn, Lviv, Ternopil, Kiev, Soumy, Poltava, Tcherkassy, Tcherniguiv, Khmelnytsky). Tổng cộng, theo Phòng không Ukraina, Nga đã phóng 407 drone tấn công và drone mồi bẫy, cùng 45 tên lửa.
Sau 3 năm điều quân đi xâm lược nước láng giềng, giờ đây chính quyền Nga xem chiến tranh Ukraina là « một vấn đề liên quan đến sự tồn vong, một vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, an ninh, tương lai của chúng tôi và con cháu chúng tôi ».
“Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình!”.
“Trong những ngôi nhà vắng bóng người cha, thái độ của người mẹ và mức độ bảo vệ của bà đối với người con dường như là chìa khoá cho sự phát triển của một đứa trẻ. Thời điểm quan trọng nhất là từ 30 tháng tuổi đến 5 tuổi và giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên. Đó là ngôi nhà ngọt ngào nhất của một đời người!” – Turnbull, tâm thần học.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa ngày lễ “Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh” nói đến sự ‘ngọt ngào’ đó và nó vẫn ‘ngọt ngào’ cả trong những hoàn cảnh cay đắng nhất. Dưới chân thập giá, Gioan đón Mẹ Chúa Giêsu về; ông viết, “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình!”.
Ghi lại hình ảnh thánh thiện của Maria dưới chân thập giá, Gioan cho thấy Mẹ không chạy trốn trong sợ hãi, không choáng ngợp bởi nỗi đau, không hờn dỗi trong sự ‘tự thương hại’. Không! Mẹ đứng đó với tình yêu và sức mạnh của một người mẹ tận tụy, chu đáo và trung thành. Trong giờ phút cận kề cái chết, Chúa Giêsu quay sang Mẹ và trao phó Gioan cho sự chăm sóc của Mẹ. Hành động trao phó Gioan cho Mẹ, Mẹ cho Gioan là biểu tượng trao phó tất cả các tín hữu cho sự chăm sóc ‘ngọt ngào’ của Mẹ – vì thế, Maria là Mẹ Hội Thánh.
Sự ‘ngọt ngào’ của ngôi nhà Hội Thánh đưa chúng ta về sự ‘ngọt ngào’ của Địa Đàng; ở đó, cũng có một bà mẹ, nhưng nó đã bị đánh mất – bài đọc một. May thay, Maria, người mà lời hứa ‘tiền Tin Mừng’ ám chỉ – Evà mới – đã trả lại sự ấm áp cho ngôi nhà nhân loại nay được cứu chuộc; và Hội Thánh, Giêrusalem mới trở nên thành được chúc phúc, “Thành của Thiên Chúa hỡi, thiên hạ nói bao điều hiển hách về thành!” – Thánh Vịnh đáp ca.
Người mẹ là người ban sự sống. Hãy nghĩ đến người mẹ tinh thần mà bạn có trên thiên đàng! Và với tư cách là mẹ, Maria sẽ không từ chối bất cứ điều gì có lợi cho bạn. Và dẫu sự vuốt ve của Mẹ không phải về mặt thể xác, nhưng sâu sắc hơn nhiều; Mẹ vuốt ve bằng sự dịu dàng của ân sủng khi bạn cầu nguyện, khi bạn hướng về Mẹ mỗi khi cần. Maria ban cho bạn ân sủng từ cạnh sườn Chúa Kitô khi Ngài tuôn đổ những giọt máu và nước cuối cùng từ thập giá như nguồn mạch của lòng thương xót. Mẹ sẽ xót thương và không dè giữ. Nhiều đứa trẻ coi mẹ chúng là điều hiển nhiên, không hiểu hết chiều sâu tình yêu của mẹ nó. Cũng vậy với Maria, chúng ta sẽ không hiểu hết tình yêu của Mẹ và những ‘công việc làm mẹ’ liên tục cho chúng ta mãi cho đến khi bạn và tôi gặp Mẹ trên thiên đàng.
Anh Chị em,
“Người môn đệ rước bà về nhà mình!”. Vậy ngôi nhà linh hồn của bạn có bóng dáng Mẹ Maria không? Hôm nay, hãy suy ngẫm về việc Mẹ luôn ở bên cạnh bạn trong mọi thời khắc. Hãy biết, Mẹ luôn ở đó trong niềm vui và nỗi buồn của bạn, khi bạn phải cám dỗ và đấu tranh, những lúc bối rối và cả khi sáng suốt; hãy biết, Mẹ có đó, sẵn sàng ban tặng mọi món quà tinh thần tốt lành khi bạn cần nhất. Mẹ là người mẹ luôn ‘ngọt ngào’ và Mẹ xứng đáng với tình yêu và lòng biết ơn của bạn!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, nếu ngôi nhà linh hồn con vắng bóng Mẹ, hôm nay con xin rước Mẹ về! Đừng để con là ‘đứa mồ côi!’”, Amen.
Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh Thứ Hai sau Lễ Hiện Xuống
Đây là con của Bà. Đây là mẹ của anh.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.(Ga 19,25-27)
25 Khi ấy, đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : “Thưa Bà, đây là con của Bà.” 27 Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
Ghi chú của tác giả: Loạt bài viết này chia sẻ những kết quả sơ bộ của một nghiên cứu độc lập, tập trung vào chủ đề hòa hợp dân tộc trong ba khía cạnh: hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp. Con số 100 tượng trưng cho trăm trứng từ bào thai của mẹ Âu Cơ. Một trăm người Việt tuổi từ 25 đến 99, từ đủ mọi nẻo đường của cuộc sống đã góp tiếng nói vào dòng chảy của những câu chuyện này. Những phần trong ngoặc kép là lời của nhân vật. Tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp tình cờ và không chính xác.
Trong những bài viết trước, các ý kiến cho rằng hàn gắn dân tộc bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ (bài 3, bài 4, bài 5, bài 6), bối cảnh lịch sử (bài 7) và đứt gãy văn hóa (bài 8).
Bài viết kỳ này tập trung vào giả thiết cho rằng quá trình hàn gắn khó khăn vì mất mát của hai bên quá lớn.
Trong dự án này, có nhiều cuộc nói chuyện mà 90% thời gian được dùng để kể lại nỗi đau, đến mức sau đó chính tác giả cũng phải tìm trợ giúp tâm lý. Từ khóa quay lại nhiều nhất là “bị hiếp” và “bị giết.” Sự tàn phá ấy quá lớn khiến ai cũng bị dày vò để tìm lý do biện minh cho hận thù. Quá khứ mất mát trở thành một phần cơ bản của cuộc đời. Thậm chí nếu được chữa lành thì hy sinh bỗng trở thành “vô nghĩa.”
Ta đã mất mát quá nhiều, hận thù là chính đáng
Nhà văn Đỗ Kh. từng miêu tả cuộc sống của những cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại như những “ốc đảo của quá khứ. Cách hai thế kỷ và 10.000 cây số, người Việt vẫn tin rằng số phận long đong trốn chạy của Kiều chính là số phận của họ.”
Thoạt tiên, họ “bỏ chạy vào Nam sau cải cách ruộng đất.”
“Lần thứ hai là khi họ sợ sẽ bị “tắm máu sau ngày thống nhất.”
Không có “tắm máu,” nhưng “người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo.” “Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc. Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn.”
“Cuộc sống bế tắc.” “Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm ăn.”
“Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột, bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học, dù điểm thi rất cao: ‘Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ hội?’ Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là ‘con ngụy’, rồi dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi vào một cái tủ tối và bỏ đi.”
Thế nên “gia đình tôi liều mình trốn chạy.” Khi ấy “vượt biên là tội phản quốc. Nếu bị bắt có tiền cũng 2-3 năm, không tiền 10 năm tù.” “Vụ tàu Việt Nam Thương tín là kinh khủng nhất. Những người trên đó tự nguyện hồi hương vì tin là chính phủ khoan hồng. Nhưng về tới Nha Trang là bị dồn lên xe bít bùng. Ai cũng vào tù. Nhỏ nhất là một đứa bé 7 tuổi. Tù ít nhất 9 tháng. Trung tá Trần Đình Trụ ở tù tới 13 năm.”
Nhưng người ta vẫn trốn. “Ở Vũng Tàu sáng nào cũng thấy xác người vượt biên trôi.” Ngày ấy dân miền Nam bảo nhau: “Một là con nuôi mẹ. Hai là mẹ nuôi con. Ba là con nuôi cá.”
Bởi trên những chuyến tàu ấy là địa ngục trần gian. “Có người phải ăn chay cả đời, phải đi tu, phải vào trại tâm thần vì đã chứng kiến, hoặc phải tự mình ăn xác chết để cầm hơi.”
Trẻ em miền Nam trong một trại tị nạn ở Vũng Tàu vào cuối tháng 4/1975
Gặp hải tặc Thái Lan, “đàn ông thì nó bẻ răng lấy vàng. Còn phụ nữ nó hiếp.” “Có bé bị hiếp mới mười hai tuổi.” “Có cô bị hiếp nhiều lần trong khi bị bắt phải chứng kiến anh trai mình bị chặt làm ba khúc.”
“Có cô bị xâm hại nhiều đến mức vết thương hôi thối lựng một góc lán. Lại còn dính thai đôi. Mà thai lại bị dị tật. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc cầm mã tấu bắt chồng và bốn đứa con đứng xem. Người chồng là một nông dân chất phác. Anh nói mấy cái bào thai không có tội. Thôi để chúng ở lại với vợ chồng tôi.”
Ở trại tị nạn Songkhla, “ai cũng nhớ ngày xác của 11 cô gái trẻ bị trói cổ vào nhau, không mảnh vải che thân, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Đến giờ ở đó vẫn còn cái am, thờ một cái thuyền đã mục. Một bà già mộ đạo đã hương khói cho nó suốt 17 năm.”
Trên khắp các trại tị nạn, “hàng trăm nấm mồ tập thể đã được dân địa phương chôn cất.” “Riêng đảo Koh Kra có 3.000 xác người nằm lại.”
Rồi “mỗi trại lại là một thế giới đau thương thu nhỏ.” “Thoát chết rồi nhưng khắp trại là những người rách rưới lang thang, miệng lẩm bẩm, thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc lóc thảm thiết.” “Có những cô gái mỗi lần nhìn thấy biển là lăn đùng ra, mắt trợn ngược”. Có những đôi vợ chồng “không thể nhìn mặt nhau khi chăn gối,” “phải tắt đèn.” Nhiều cặp “chia tay nhau,” “rồi người vợ treo cổ vào hôm kỷ niệm ngày cưới vì không thể vượt qua được ký ức bị hãm hiếp.”
“Biển trở thành một tấm lưới, bủa vây cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai.”
“Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển/ Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi/ Những năm trước bao người ngon miệng cá/ Thì sá gì thêm một xác cong queo” – (Du Tử Lê).
“Sau chấn thương bao giờ người ra cũng cần thời gian phục hồi. Nhưng điều đó không xảy ra với người Việt tị nạn. Chưa qua cái này thì cái kia đã đến. Khi vừa đặt chân đến quê hương mới, nhu cầu sống sót lập tức chiếm vị trí ưu tiên. Mai con mình có cơm ăn không?” Quần quật cho đến khi ngẩng đầu lên thì những “nỗi đau đã kịp kết tinh thành tính cách.”
“Hôm ấy tôi tới đám tang một thuyền nhân. Mọi người đau buồn khóc lóc. Rồi bỗng có một ông đứng lên. Nói hùng hồn quá trời. Ông chửi chính quyền, chửi cộng sản. Ông nói văng cả nước miếng. Người già gật gù nhưng đám trẻ thì có đứa bỏ về. Lúc đó tôi sốc, nhưng giờ nghĩ lại thấy thương đứt ruột.”
Càng đau càng không muốn tha thứ. Hận thù phải tiếp tục để “nỗi đau không bị vô nghĩa,” để ta không “phản bội lại chính mình.” “Mình đã mất mát quá nhiều, mình phải hận thù.” “Ngày ‘quốc hận’ là ngày mà nỗi đau trở thành danh tính.”
“Nhưng cứ hận thù thế này thì sống tiếp sao đây?”
Hòa giải với nỗi đau trở thành một mâu thuẫn tâm lý khiến “người ta kiệt sức.”
Một em bé miền Nam Việt Nam trong trại tị nạn Pendleton ở California vào năm 1975
Ta đã mất mát quá nhiều. Cái giá phải trả hẳn là chính đáng
Với bên “thắng cuộc,” mất mát là bằng chứng để khẳng định nó đã được đánh đổi cho một điều thiêng liêng. Đó là sự “thống nhất Bắc Nam,” là “Mỹ đã cút và ngụy đã nhào.”
Vậy nên với nhiều người, nhắc lại nỗi đau là để khẳng định tính chính danh của những gì mình từng làm, khẳng định rằng quá khứ của mình vẫn còn giá trị. “Hòa giải đồng nghĩa với việc chấp nhận mình sai, mất mát đó không còn cao cả nữa mà bỗng thành ra vô ích.”
Tuy nhiên, điều cao cả ấy ở mức độ cộng đồng, còn sự hy sinh thì lại ở tầng cá thể. Để dung hòa được khoảng cách đó không dễ dàng.
“Ở hải ngoại, người ta gắn kết bởi nỗi đau trong quá khứ. Ở trong nước, người ta gắn kết bởi vinh quang trong dĩ vãng.”
Nhưng “người chiến thắng cũng đau chứ, chỉ có điều đó là nỗi đau của những anh hùng.” “Nó phải được gói ghém trong màu vinh quang,” bởi chiến tranh không phải là những câu chuyện buồn. Nó là “sử thi và tráng ca.”
Có rất ít không gian cho những chấn thương hậu chiến, nơi kẻ chiến thắng được “quyền đau đớn,” được quyền “hoang mang,” được quyền “tự chất vấn,” được quyền “nhận ra mình sai đúng ở đâu,” và quan trọng nhất là được quyền “trợ giúp để chữa lành.”
“Mẹ hay kể chuyện đang ăn cơm thì bị đánh bom. Cô bạn của mẹ mới vừa cầm bát ngồi đây. Bom nổ đùng một cái. Thân đã ở trên cây. Đầu vướng cành trên cao. Chân vương cành dưới thấp. Mẹ thường chửi bới cậu (em trai mẹ) một cách tàn nhẫn. Rằng mày không đi chiến đấu. Cả nhà này chỉ mình tao hy sinh. Chúng mày ở hậu phương ăn sung mặc sướng… Cái sai nhất của cậu là mày dám sướng. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ cười thành tiếng. Cả đời cho đến khi chết, nỗi đau của mẹ không có câu trả lời thỏa đáng.”
“Gia đình tôi chia đôi theo cuộc chiến quốc-cộng. Sau 75, bác vượt biên đi nước ngoài. Bố ở lại. Khi bác về thăm, bố bảo: ‘Việt Kiều nhưng cũng mất nước’. Bố lúc nào cũng uẩn ức, giận dỗi, mâu thuẫn rất khó hiểu. Rồi tôi nhận ra là bố luôn muốn đi. Hóa ra bố ghen tị. Bố không có sự tự hào của người ở lại. Bố bị mắc kẹt trong việc cố gắng lý giải nỗi đau của mình.”
“Cô (chỉ tác giả) nói ba cô lúc sắp chết mới sám hối khi nhìn thấy ma quỷ đúng không? Ba tôi lúc còn sống đã sám hối rồi. Đó là khi ông biết về tù cải tạo, về đánh tư sản, về thuyền nhân. Tuyền là những thứ mà ông cho rằng mình phần nào có lỗi.”
“Bố tôi 5 lần là dũng sĩ diệt Mỹ. Khi bố mất, tôi tìm thấy những huy chương ấy gói kín, để sâu trong tủ. Bố chỉ ghét Mỹ thôi. Bố không bao giờ nhắc tới những huy chương này, vì bố phải giết cả đồng bào mình. Nên ông giấu đi. Các cựu chiến binh đi hội nghị đeo đầy ngực, nhưng bố không bao giờ. Bố bảo người ta cũng yêu nước giống mình, chỉ có điều lý tưởng của người ta giống Mỹ.”
“Bố tôi rất ghét bọn trẻ trâu khi chúng nó tự hào ầm ĩ trên mạng. Kể lại chuyện thắng Mỹ thắng Pháp, Đại Việt thần thánh nọ kia với sự kiêu hãnh như thể chính chúng nó lập công. Trong khi chúng không hề biết mùi máu là gì.
Tự hào về chiến tranh bây giờ toàn bọn trẻ con quen chơi game bắn nhau. Người thực sự cầm súng họ không kiêu hãnh kiểu như thế. Bố bảo lũ oắt con có giỏi thì tự mình thành công đi. Rồi tha hồ mà tự hào. Đừng có yêu nước bằng máu của bọn tao.
Bọn trẻ ranh ấy không hiểu rằng, những ai đã giết người, dù chính nghĩa đến đâu, thì rất khó nhắc lại mà trong lòng không tý gợn. Viết ra được những câu kiểu như ‘Dưới kia chúng nó đang cười. Cười đi nhé, chúng bay ơi, rồi chết!‘ thì chỉ có mấy ông nhà thơ. Ra chiến trường đi, không bao giờ còn viết được thế.”
“Những người thực sự đi qua chiến tranh mà chưa hóa đá với nỗi đau, họ viết như Bảo Ninh cơ. Họ cũng sống như Bảo Ninh luôn.
Cái hôm sống sót trở về nhà, Bảo Ninh đã đi lên cầu thang rất khẽ để không đánh động đến hàng xóm. Cả nhà cũng ôm nhau rất khẽ. Bởi vì ngay phòng bên cạnh là một gia đình có con trai không trở về.”
Thế nên “bố không muốn chết cùng với những tấm huy chương. Bố không muốn chết rồi vẫn thành đồ trang sức. Cả đời bố là chiến binh, nhưng ảnh đám ma của bố không mặc áo lính. Trên bàn thờ, bố mặc áo trắng.”
Cụ Nguyễn Thị Phải, người được phong Mẹ Việt Nam anh hùng ở Sóc Trăng, có 4 người con trai đối đầu nhau ở hai chiến tuyến
“Có lần tôi xem triển lãm thấy bức ảnh mẹ Thứ ngồi bên cái mẹt có bày bát hương và 9 cái bát không. Mẹ có 9 người con là liệt sĩ.
Tôi không hiểu nếu gặp nhau, mẹ Thứ sẽ nói gì với mẹ Phải?”
Mẹ Nguyễn Thị Phải có ba người con chết trận. Trong một cuộc tấn công, anh Năm và anh Bảy ném lựu đạn vào đồn địch nơi anh Tư cố thủ. Khói súng tan, hai em trai soi đèn đi tìm xác anh trai.
Anh Năm và anh Bảy được phong liệt sĩ. Anh Tư chết không danh hiệu. Mẹ Phải được phong “Mẹ Việt Nam anh hùng.”
“Bao năm qua, mẹ đã sống như thế nào với nỗi đau ấy? Mẹ có cảm thấy mình là anh hùng không?”
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/ Một trăm năm đô hộ giặc Tâу/ Hai mươi năm nội chiến từng ngàу.
Gia tài của mẹ, một rừng xương khô/ Gia tài của mẹ, một núi đầу mồ” – (Trịnh Công Sơn).
Play video, “Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng”, Thời lượng 6,45
06:45
Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng
Sau 1975, Việt Nam không thực sự có một chương trình hòa giải. Thậm chí hận thù còn được “tạo mới” bởi các “chính sách sai lầm.” Điều này khiến người Việt thiếu một không gian chung “để cùng nhìn lại, cùng nhận lỗi và cùng tha thứ. Những vết thương vẫn rỉ máu trong im lặng. Nó truyền đời từ này sang đời khác, từ cá nhân sang cộng đồng.”
“Có lần tôi thấy một em bé 8 tuổi trên ti vi khóc vì ‘con thương Bác Hồ quá’.
Tại sao một đứa nhóc chưa từng gặp Bác, thậm chí ông bà nó cũng không đủ già để có thể gặp Bác, mà nó vẫn có thể khóc một cách rất chân thành vì nhớ Bác?”
Có lẽ chúng ta ai cũng như em bé ấy, “kế thừa cả một đại dương của kiêu hãnh và sợ hãi, của yêu mến và căm thù.” Chúng ta lớn lên với một gánh non sông nặng đầy quá khứ.
Cho nên “chiến tranh không chỉ diễn ra hai lần, trên chiến trường và trong ký ức như nhà văn Nguyễn Thanh Việt nói. Nó sẽ còn tiếp diễn mãi.” Mỗi người, mỗi gia đình, mỗi thầy cô, mỗi nhà lãnh đạo, mỗi thế hệ lại “thêm vào những ý nghĩa mới.”
Như “một bức tường liên tục được vẽ bồi lên những hình graffiti mới.”
Dù “bức tường quá khứ” không thể thay đổi, nhưng “tương lai chính là những hình vẽ mới” ấy. Hòa giải là cho phép bức tường được (1) đa nguyên sự thật với những mảng màu đối lập nhau; (2) dựa trên một nền tảng nhân văn, không sỉ nhục nhau trên tường, không trừng phạt người vẽ; (3) không đổ lỗi cho cả một cộng đồng.
Bức tường quá khứ sẽ tồn tại mãi. Nhưng ý nghĩa của nó có thể thay đổi để trợ giúp cho một tương lai cộng sinh, hòa hợp.
Hình vẽ trên tường của bạn có hiệu ứng gì? Nó khiến người ta “dừng lại để ăn năn và chiêm nghiệm”? Hay nó khiến họ sùng kính đến mức muốn “đóng lên đó một cái bàn thờ,” hoặc giận dữ muốn “…đái vào chân tường cho bõ ghét”?
Di truyền biểu sinh xuyên thế hệ
Chúng ta không chỉ kế thừa tổn thương qua ký ức mà còn qua con đường sinh học (transgenerational epigenetics).
Sau sang chấn, các gien (DNA) thay đổi cách hoạt động. Sự biến đổi đó có thể di truyền lại và biểu hiện ra bệnh tật, hành vi, cảm xúc cho vài thế hệ về sau. Các nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này được thực hiện với thế hệ thứ 2 và thứ 3 của nạn nhân diệt chủng và nạn đói gây ra bởi Đức Quốc xã.
Khi còn trong bụng, bào thai nhận tín hiệu từ cơ thể mẹ để “hiểu” về thế giới bên ngoài. Nếu đó là trải nghiệm đau buồn, tín hiệu ấy sẽ nói với bào thai rằng: “Thế giới ngoài kia đầy cạm bẫy. Con hãy chuẩn bị tinh thần”.
Bào thai tiếp nhận thông tin, các gien lập tức thay đổi cách làm việc. Một số gien ngừng hoạt động. Một số gien kích hoạt hết cỡ. Cơ chế sinh học chuẩn bị sẵn sàng cho một thế giới bất ổn. Như một căn nhà mà các ô cửa được đóng mở một cách chiến lược để tồn tại như một pháo đài. Bào thai phát triển theo hướng lấy “phản vệ” làm phương châm sống.
Khi sinh ra, thế giới có thể không còn tệ như trí nhớ sinh học lưu giữ. Tuy nhiên, cơ thể đã hoàn thiện, pháo đài đã khởi động.
Bé lớn lên có thể dễ bị rối loạn tâm lý, căng thẳng, tăng cân, béo phì, tim mạch, tiểu đường… Kể cả khi chất lượng cuộc sống tốt lên thì cuộc đời của một người như thế vẫn tiếp tục gửi tín hiệu sinh học tới cho bào thai thế hệ tiếp theo. Hiệu ứng này chỉ giảm dần qua vài thế hệ chứ không mất hẳn.
Và tất nhiên, tín hiệu sinh học sẽ tệ hơn nếu sinh ra cơ thể đã phản xạ như một pháo đài, mà cuộc sống xung quanh vẫn đầy hận thù. Sinh học cộng hưởng với môi trường sẽ tạo thành vô thức cộng đồng, tác động đến lối sống, tư duy và căn tính dân tộc.
Ở Việt Nam, các thế hệ sau 75 “không trực tiếp bắn giết, không bị tù cải tạo, bị đói, bị mất mát,” bị “phản bội,” bị “bội tín,” bị “trả thù.” Họ có lẽ còn không hề biết điều đó từng xảy ra với gia đình mình.
Nhưng họ vẫn có thể kế thừa “cảm giác sợ hãi, nghi kị, lo âu, u uất, rối loạn cảm xúc, phản xạ cực đoan.” Họ có thể dễ mắc bệnh mà không ý thức được tại sao, hoặc sẽ gán cho nó những lý do nhất thời.
Rất có thể đây là một phần “trầm tích sinh học” của bao thương đau mà người Việt đã trải qua, khiến cái “cơ thể còi cọc của chúng ta luôn xù lông lên với cả thế giới.”
Nếu ta không thực sự hàn gắn dân tộc, chặn lại cỗ xe di truyền ấy, hậu quả sẽ là một vòng xoáy với nhiều thế hệ mang trong mình “khuyết tật,” là “hàng núi tiền đổ vào chữa bệnh,” là sự “suy giảm năng suất sáng tạo,” là sự tụt hậu sinh học của cả dân tộc khi phải chạy đua với một “cơ thể bạo bệnh.”
Nạn đói Hà Lan (Dutch famine) di truyền lại cơ chế sinh học cho vài đời kế tiếp, khiến con cháu họ dễ mắc bệnh béo phì, tim mạch, tiểu đường, và thần kinh
Cùng gọi tên nỗi đau
Ở nhiều xã hội hậu chiến, hòa giải được hiểu là “khép lại quá khứ,” “đừng nói nữa.”
Nhưng nếu “khép lại” mà không “ghi nhận” thì chỉ là đóng băng xung đột. Nỗi đau không được gọi tên sẽ biến thành nghi ngờ, oán giận. Nỗi đau cần được thừa nhận trước khi có thể chuyển hóa. Đó là nguyên tắc cốt lõi. “Ta không thể chữa lành những gì ta không thể gọi tên” (James Baldwin).
Tuy nhiên, chữa lành nỗi đau cá nhân khác với những sang chấn cộng đồng. Rất khó có thể “dùng trị liệu, gặp bác sĩ tâm lý, đi thiền, đi tu để tự chữa lành trong không gian riêng tư.”
“Một người lính có thể được trị liệu tâm lý, sống hạnh phúc trong gia đình. Nhưng nếu xã hội xung quanh vẫn phủ nhận nỗi đau của họ thì cuộc chiến ấy không bao giờ kết thúc.”
“Chấn thương cộng đồng thì phải được chữa lành trong cộng đồng. Người ta phải cùng nhau làm điều đó. Họ phải được chứng kiến. Họ phải không đơn độc. Chỉ như thế thì ký ức mới được ‘rã băng’.”
Hòa giải không cần công lý?
Một số nhân vật nhắc tới chương trình “Như chưa từng có cuộc chia ly” như một ví dụ hiếm hoi từ truyền thông chính thống.
“Cứ nghe thấy giọng Thu Uyên là tôi khóc.” “Thật kỳ diệu khi nỗi đau có thể hàn gắn đến vậy. Bởi nó không phán xét. Người ta đau, nhưng không đổ lỗi cho nhau.”
Ở Như chưa từng có cuộc chia ly, những người “bị chính sử gạt ra ngoài được phục hồi phẩm giá trong tư cách người cha, người mẹ, người con chứ không còn bị rút gọn thành kẻ địch.” Ở chiều ngược lại, “những anh hùng được phép trở thành người thường, với tất cả sự yếu đuối, tổn thương và sai lầm của họ.”
“Nó dùng nỗi đau chung để tái tạo ký ức (reconstructed memory), khiến đau thương sau khi được ghi nhận có thể mang một ý nghĩa khác.”
“Nó cũng bám vào một kết cấu vững chắc của văn hóa Việt Nam. Đó là gia đình. Người Việt vốn nặng gánh máu mủ, chỉ cần một tý tình nghĩa chân thành là có thể bỏ qua cho nhau.”
Tuy nhiên, Như chưa từng có cuộc chia ly cũng nhận được nhiều góp ý.
“Tôi muốn thấy những câu chuyện đa dạng hơn, liên quan nhiều hơn đến phía bên kia, đến tù cải tạo, đến thuyền nhân. Ví dụ, trên mạng có rất nhiều diễn đàn nhỏ lẻ tìm người thân thất lạc sau khi vượt biển và ở trại tị nạn.”
“Cái lỡ cỡ của Như chưa từng có cuộc chia ly là nó chuyển hóa chấn thương tập thể thành những chuyện riêng tư, chữa lành theo logic tân tự do (neoliberalism), bắt cá nhân phải tự chịu trách nhiệm thay vì hệ thống phải sửa sai.” “Nó từ chối đối thoại chính trị, từ chối chạm vào gốc rễ của lịch sử. Và cũng tức là từ chối mở đường cho công lý.”
(Nhân vật minh họa bằng nghiên cứu Collective wound, private healing của Nguyen-Thu Giang).
“Người ta có thể kết nối bởi nỗi đau và không đổ lỗi cho nhau. Nhưng cái hệ thống đã gây ra nỗi đau thì không thể bị tảng lờ đi.”
“Có điều trong bối cảnh bây giờ, những cuộc đối thoại như thế cũng đã là tốt lắm rồi.”
Trong bộ phim tài liệu Hành trình thống nhất của VTV, một gia đình có nhiều anh em ở cả hai chiến tuyến được chia sẻ câu chuyện riêng của họ; phía sau lưng họ là di ảnh của những người thân, không đứng cùng chiến hào nhưng ngồi chung một bàn thờ
Vai trò của lãnh đạo trong ‘công lý ghi nhận’
Trong quá trình hàn gắn, ghi nhận sai lầm là một bước công lý căn bản, có sức mạnh khôi phục niềm tin lớn hơn bất kỳ hành động bồi thường vật chất nào.
“Ở Việt Nam, sự ghi nhận ấy phải đến từ người lãnh đạo.”
Thứ nhất là yếu tố “tập quyền chính trị và tôn sùng cá nhân” khiến cho “tiếng nói của lãnh đạo trở thành cái thẻ bài,” thành “tín hiệu an toàn” để người dân “được bảo vệ khi bước vào không gian và quỹ đạo của sự thật.”
Thứ hai là tại Việt Nam, đối tượng cần hòa giải là giữa chính quyền với nạn nhân của những “chính sách sai lầm sau 75.” Tiếng nói của lãnh đạo đặc biệt quan trọng vì nó đại diện cho chính quyền.
“Sau cải cách ruộng đất, tất cả nồi, niêu, xoong, chảo, lúa, gạo, quần áo đều bị cướp sạch. Đến cái cánh cửa cũng bị tháo.” “Nhà có 15 người thì 11 người chết. Hai đứa trẻ con bị làng đuổi ra gò. Ăn trộm sắn vì đói. Nuốt sống ngộ độc. Rồi cũng chết.”
“Nhưng mà họ cũng chỉ kể lại thôi. Không có sự căm thù ngùn ngụt trong giọng nói. Không đầy uất hận như kể về những gì diễn ra ở miền Nam sau ‘giải phóng’.”
“Tại sao ư? Tại Bác Hồ xin lỗi.”
“Hàng nghìn người chết thảm trong những tòa án nông dân man rợ. Người bị bắn đầu tiên là một phụ nữ đã nuôi giấu lãnh đạo Việt Minh như con cái trong nhà, đã hiến hàng trăm lượng vàng cho cách mạng (địa chủ Cát Hanh Long). Thương đau ngút ngàn. Oan thấu trời xanh. Thế mà sau khi Cụ Hồ xin lỗi, bao nhiêu người lại tiếp tục gửi con đi bộ đội.”
“Sau này có ông Kiệt. Ông nói một câu trong dịp 30/4/2005 là sự kiện này triệu người vui, triệu người buồn. Tổ chức rình rang ít thôi. Vậy mà người ta nhớ mãi, thương yêu ông mãi. Giá có thêm nhiều ông Kiệt.”
“Giờ có ông Tô Lâm cũng mạnh. Ông chỉ nói một câu Sài Gòn từng là ‘hòn ngọc viễn đông’ là người miền Nam trút được nhiêu bao uất ức.” “Phải ghi nhận miền Nam thực lòng như thế thì dân Nam mới khôi phục lại lòng tin.”
“Cái sức mạnh của người lãnh đạo trong một cơ chế tập quyền nó khủng khiếp lắm. Chưa cần đến chính sách. Chỉ cần một câu của lãnh đạo là đủ tạo bước ngoặt, tiết kiệm hàng thập kỷ nỗ lực của dân đen.” “Như một đàn số 0, lãnh đạo tốt là con số 1 đứng trước dãy số 0 đó.”
“Lãnh đạo dở thì chắc là… dấu phẩy.”
Bà Nguyễn Thị Năm (tức Cát Hanh Long), người có công với cách mạng nhưng đã bị đem ra đấu tố và bị xử bắn đầu tiên trong Cải cách Ruộng đất; Bên phải là hình ông Hồ Chí Minh khóc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 1 (29/12/1956-25/1/1957) khi nói về sai lầm trong Cải cách Ruộng đất
Mỗi nỗi đau là một nhịp cầu
Một điều thú vị là trong nghiên cứu này, khá nhiều bạn trẻ cảm nhận được nỗi đau cộng đồng thông qua những tổn thương cá nhân.
“Hồi cấp 2, tôi từng bị bắt nạt. Cô giáo bảo nếu nhận lỗi thì cô sẽ tha. Nhưng cô không giữ lời. Tôi cứ thế lớn trong sự bạo hành của bạn học và người lớn.
Khi vào Nam sinh sống và nghe câu chuyện của người nơi đây, tôi thấy họ cũng có những tổn thương y như mình. Tôi và những cựu binh đều là nạn nhân của bạo lực tinh thần. Nếu như không có những tổn thương trong quá khứ, chưa chắc tôi đã nhìn ra nỗi đau của họ. Chưa chắc tôi đã có thể nối những đau thương của mình với trải nghiệm của cả dân tộc.”
“Hồi năm nhất tôi đi học ở Mỹ. Trong trường có treo cờ vàng. Tôi viết thư đòi hạ cờ.
Khi ấy, tôi có ý tốt. Tôi muốn họ thôi hận thù. Tôi muốn họ phải đồng ý với tôi. Rằng, thôi đi, đau nó vừa thôi. 18 tuổi tôi chỉ nghĩ được đến thế.
Sau này, mắt tôi cứ kém dần đi. Mơ ước làm tiến sĩ của tôi tan tành. Tôi sống nhiều năm với nỗi đau của một người tật nguyền và trầm cảm.
Lúc đấy bỗng nhiên tôi tìm thấy kinh Địa Tạng. Đọc xong tôi cứ khóc mãi. Tôi bắt đầu hiểu rằng ai cũng có nỗi đau riêng. Mình không phải họ, sao bắt họ hết đau?
Thế nên tôi bắt đầu biết thương. Không yêu, mà thương. Yêu hơi ích kỷ. Nhưng trong cái thương thì có cái đau. Khi mình thương, mình chấp nhận nỗi đau là một phần để vỗ về, an ủi.”
Play video, “Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam”, Thời lượng 18,04
18:04
Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam
Mỗi người giữ một chút tử tế
Dù chính quyền được xác định là chịu trách nhiệm chủ yếu trong tiến trình hòa giải, nhiều nhân vật vẫn cho rằng “hàn gắn dân tộc cũng là nghĩa vụ của một người tử tế.”
“Trước khi chết, ba của cô (tác giả) đã sám hối, vì ông nhận ra mình giết nhiều người quá.
Nhưng làm sao để khoảnh khắc ấy xảy ra sớm hơn mà không cần phải viện đến sức mạnh của cái chết?”
“Tôi chọn trở thành người tốt khi có thể. Tôi chấp nhận là một kẻ xám xịt, trắng không ra trắng, đen không ra đen. Nhưng tôi ý thức được rằng mình không muốn bị đen tuyền, bị tha hóa. Khi nào tốt mà không hại đến bản thân thì phải tốt.”
“Tôi dặn mình phải giữ chút liêm sỉ nghề nghiệp. Tôi không bao giờ dùng từ ‘ngụy’, ‘giải phóng’, ‘lưu vong’, ‘phản động’. Nếu lỡ mồm thì xin lỗi ngay. Hàng chục năm làm biên tập, không bài báo nào qua tay tôi mà có dính những từ đó.”
“Bố tôi tự hòa giải bằng sử ký và văn học chấn thương. Bố đọc Chuyện ba người, Nỗi buồn chiến tranh, Bên thắng cuộc, Gia đình, Tôi là con gái của cha tôi, Hai bên chiến tuyến, Tổ quốc ăn năn, Đèn cù, Đêm giữa ban ngày, Giải khăn sô cho Huế, Mùa hè đỏ lửa… Bố chia sẻ cho bạn bè. Bố kể cho tôi nghe.”
“Tôi xem ti vi cùng con.” “Thỉnh thoảng tôi kể cho con một câu chuyện ngược lại để thách thức đầu óc phản biện của con.”
“Hồi trẻ tôi nghĩ mình phải đi khỏi Việt Nam để không bị chết chìm trong sự ngu si của thiên hạ. Nhưng giờ tôi kệ. Nếu chết ngộp thì chết ở đây. Kỳ lạ thế. Máu hỏng thịt hỏng, nhưng là máu thịt mình. Mình có phần mình, nên xã hội này mới thế.
Hiểu được vậy thì sẽ không thù hận nữa. Hiểu được vậy thì sẽ thương cả những kẻ ngu si. Hiểu được vậy thì mới thấy trách nhiệm của mình.
Hiểu được vậy thì sẽ không còn hỏi ‘Chuông nguyện hồn ai?’
Bởi chuông nguyện chính hồn nhà ngươi đấy. Biết không?“
Mời quý vị đón đọc phần tiếp theo
Bài 10: Có thực mới vực được đạo – di sản kinh tế
Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai là chuyên gia đào tạo trong lĩnh vực ứng dụng Khoa học Não bộ vào Giao tiếp-Quản trị đa văn hóa và Phát triển năng lực cá nhân. Đây là một phần trong loạt bài viết về nghiên cứu hòa hợp dân tộc của tác giả.
HAGERSTOWN, Maryland (NV) – Khoảng 200 người họp bên ngoài tiệm Nail Palace and Spa ở Hagerstown, Maryland, hôm Thứ Tư vừa qua để bày tỏ ủng hộ bà Mộng “Melissa” Tuyền Thị Trần, bà chủ tiệm bị Cảnh Sát Di Trú (ICE) bắt giữ tháng trước, theo báo The Herald-Mail hôm Thứ Sáu, 6 Tháng Sáu.
Trong buổi họp cộng đồng, ban tổ chức kể với người tham dự về nỗi khổ của bà Tuyền trong lúc bị ICE giam giữ. Hôm đó, bà cũng bất ngờ xuất hiện thông qua điện thoại video từ nơi bà bị giam ở tiểu bang Washington.
Gia đình bà Mộng “Melissa” Tuyền Thị Trần. (Hình: Facebook Bring Melissa home)
Người tham dự vỗ tay, reo hò ủng hộ bà Tuyền, cảm động nhất là cảnh con trai 19 tuổi của bà vừa khóc vừa cầm máy điện toán có hình ảnh bà đang nói chuyện để mọi người có thể nhìn thấy và nghe giọng bà.
Sau đó, mọi người bắt đầu cùng nhau hô vang “Đưa bà Melissa về.”
Trước đó ba ngày, bà Tuyền lần đầu tiên gọi điện thoại cho con kể từ khi bị ICE bắt giữ hôm 12 Tháng Năm, theo thông tin được cung cấp tại buổi họp cộng đồng bên ngoài Nail Palace hôm Thứ Tư.
Bà Tina Nash, bạn của gia đình bà Tuyền, giúp thành lập nhóm #BringMelissaHome (Đưa Bà Melissa Về), nhóm tổ chức buổi họp cộng đồng đó và có trương mục trên Facebook.
Nhóm này mở chiến dịch viết thư hối thúc giới chức liên bang xem xét trường hợp của bà Tuyền và cho phép bà trở về Hagerstown. Họ còn mở trang GoFundMe để hỗ trợ chi phí pháp lý và bù thiệt hại tài chính mà gia đình bà có thể gặp phải. Họ cũng bán áo thun và vòng đeo tay để lấy tiền giúp đỡ gia đình bà.
Từ tị nạn tới làm chủ cơ sở thương mại
Bà Tuyền, 43 tuổi, và chồng, ông Dũng “Danny” Hoàng, mở tiệm Nail Palace trong thương xá Long Meadow gần 22 năm nay. Trong thời gian đó, họ quen biết nhiều bạn bè và có nhiều khách hàng trung thành.
Bà Nash và chồng, ông Bernie Semler, luật sư địa phương, tự nhận họ là bạn của gia đình bà Tuyền.
Trong buổi họp hôm Thứ Tư, ông Semler cho hay ông thích tiệm của bà Tuyền vì họ “tử tế.”
Bà Tuyền, cùng với cha mẹ và ba người anh, trở thành người tị nạn vào năm 1993, ông Semler kể. Ban đầu, họ tới Philippines tị nạn khoảng chín tháng. Sau đó, họ qua Mỹ hợp pháp và được cấp thẻ xanh, theo thông tin mà ông Semler và bà Nash chia sẻ hôm Thứ Tư cũng như ban tổ chức công bố trên Facebook.
Bà Tuyền bị bắt khi ra trình diện ICE ở Baltimore, Maryland, hôm 12 Tháng Năm, ông Semler cho biết.
Kể từ đó, bà bị giam ở Louisiana, Arizona, và mấy tuần qua, ở vùng Tacoma, tiểu bang Washington, theo bà Laura Kelsey Rhodes, luật sư của bà Tuyền ở Rockville, Maryland.
Thông qua máy điện toán con trai bà đang ôm, bà Tuyền nói: “Tôi chỉ muốn cám ơn quý vị ủng hộ và mọi thứ.”
Bà cho hay bà cảm thấy có phước vì được cộng đồng ủng hộ “và cầu nguyện cho tôi và gia đình.”
Con trai bà Tuyền cầm máy điện toán có hình ảnh bà nói chuyện qua video. (Hình: Facebook Bring Melissa home)
Vụ án hình sự năm 19 tuổi dẫn tới trường hợp bà Tuyền bị trục xuất
Mấy tuần qua, bà Nash đăng chuyện bà Tuyền bị bắt lên Facebook và ông Semler tuyên bố họ cố gắng minh bạch trong vụ này. Bà Tuyền từng nhận tội đại hình ăn cắp ở Virginia năm 19 tuổi.
Trong cuộc phỏng vấn hôm 5 Tháng Sáu, Luật Sư Rhodes giải thích bản án dành cho bà Tuyền chủ yếu là “án treo” và bà được phép ra ngoài đi làm trong thời gian thụ án. Bà cũng nộp tiền bồi thường.
Theo bà Rhodes và người ủng hộ bà Tuyền, bà Tuyền ăn cắp tiền của chủ. Bà Rhodes nói, theo bà biết, bạn trai bà Tuyền lúc đó là chủ mưu vụ ăn cắp và gây áp lực cho bà.
Nhưng kể từ khi bà Tuyền ra trình diện ICE mỗi năm tới nay, không có “vấn đề” nào, ông Semler cho hay trong buổi họp hôm Thứ Tư. Bản “post” của #BringMelissaHome trên Facebook cho biết bà Tuyền không thanh minh gì cho hành vi của bà.
Không lâu sau khi gặp ông Dũng năm 2003, bà Tuyền bị ICE bắt giữ do vụ ăn cắp đó và bị giam sáu tháng, theo bà Rhodes và người ủng hộ bà Tuyền. Vì bà từng bị kết tội hình sự, ICE xin được lệnh trục xuất bà, nhưng thời đó, Việt Nam không nhận người bỏ nước ra đi trước năm 1995. Do đó, bà Tuyền được thả ra, với điều kiện mỗi năm phải trình diện ICE.
Bà Tuyền lập gia đình với ông Dũng. Họ có bốn đứa con. Họ mua nhà và sinh sống ở Hagerstown, theo ông Semler và bà Nash.
Ông Semler không phải luật sư di trú nhưng ông cho hay ông từng giải quyết hàng ngàn vụ án hình sự suốt sự nghiệp của ông.
“Ai cũng nói luật là luật” cho tới khi họ hoặc con cái họ gặp chuyện, ông Semler cho biết.
“Không phải chúng tôi thanh minh. Bà ấy đã ngồi tù,” ông Semler nói.
Khoảng 200 người họp bên ngoài tiệm Nail Palace and Spa của bà Tuyền ở Hagerstown, Maryland, hôm 4 Tháng Sáu để bày tỏ ủng hộ bà. (Hình: Facebook Bring Melissa home)
Ông Semler nói với báo The Herald-Mail rằng ông có xem hồ sơ vụ ăn cắp nghiêm trọng của bà Tuyền, vụ án mà bà nhận tội năm 2001. Ông cho hay ông không thấy câu chữ nào thông báo cho bà biết rằng nhận tội sẽ ảnh hưởng tới tình trạng di trú của bà.
Hiện nay ở Maryland, mỗi khi nhận tội, bị cáo được thông báo có thể tình trạng di trú của họ bị ảnh hưởng.
Ông Semler tuyên bố họ sẽ đấu tranh để bà Tuyền được xét xử đúng thủ tục.
Trường hợp bà Tuyền bị trục xuất có thể mất nhiều tháng mới giải quyết xong
Trường hợp của bà Tuyền có thể mất nhiều tháng, theo Luật Sư Rhodes. Một trong những kết quả có thể xảy ra là giữ nguyên hiện trạng, tức là bà Tuyền phải trình diện ICE mỗi năm.
Bà Tuyền không được nhập quốc tịch Mỹ do bị kết tội ăn cắp “nghiêm trọng,” bà Rhodes giải thích. Điều đó cũng khiến bà bị ICE theo dõi, mặc dù ICE chưa bắt giữ người nào bị kết tội như vậy.
Bà Rhodes cho hay bà đang theo đuổi nhiều con đường trong trường hợp bà Tuyền.
Ông Dũng cũng bắt đầu làm đơn xin thẻ xanh mới cho bà Tuyền vì họ là vợ chồng mà ông là công dân Mỹ, theo bà Rhodes. Con đường đó có thể sẽ không ngăn cản bà Tuyền nhập quốc tịch vì bà bị kết tội đã hơn 15 năm.
Luật Sư Rhodes cho hay bà lạc quan dè dặt, nhưng vụ này sẽ mất thời gian. (Th.Long) [qd]