50 năm sau chiến tranh: Hà Nội vẫn nuôi thù cả những nấm mồ
March 27, 2025
Bài: Najma Sambul / Khiết Văn lược dịch
Đã 50 năm kết thúc chiến tranh, nhưng Hà Nội vẫn giữ sự căm thù với cả binh sĩ tử trận của phía VNCH. Thật khó hiểu khi thân nhân của của những ngôi mộ tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa 4 cải táng hoặc dựng lại mộ cũng gặp vô cùng vàng những điều khó khăn từ ABC News của Úc Châu mới đây đã có phóng sự về điều này, với bài viết mang tựa đề “Người dân miền Nam Việt Nam muốn tìm và chôn cất những tử sĩ trong chiến tranh. Tại sao lại khó khăn đến vậy?” (South Vietnamese want to find and bury their war dead. Why is it so hard?)
Ông Hùng Trần ngập ngừng khi kể lại một ký ức ám ảnh ông trong nhiều thập kỷ, giọng ông run lên vì tức giận và buồn bã.
“Tôi vẫn có thể nhìn thấy khuôn mặt của họ – những người đàn ông đã cùng tôi chiến đấu, những người không trở về nhà. Họ đã chiến đấu, họ đổ máu và họ đã hy sinh vì đất nước”, người đàn ông 73 tuổi, người đã chiến đấu cho phía Việt Nam Cộng Hòa trong Chiến tranh Việt Nam, cho biết.
Nửa thế kỷ sau khi chiến tranh kết thúc, ông Trần và những người khác như ông vẫn đang đấu tranh để tìm kiếm và chôn cất thi thể những người đồng đội đã hy sinh.
“Họ không có mộ. Không có tên. Giống như họ chưa từng tồn tại vậy”, ông nói.
Quỹ Người Mỹ gốc Việt và các thành viên, bao gồm cả Hùng Trần đã làm việc để hồi hương thi thể của những người lính Nam Việt Nam trong nhiều thập kỷ.
Ông Trần, người đã sống ở Úc 40 năm sau khi chạy trốn khỏi Việt Nam với tư cách là người tỵ nạn, cho biết Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa bên ngoài Sài Gòn – nay gọi là Thành phố Hồ Chí Minh – đó là một “nơi linh thiêng” trước năm 1975 đối với người miền Nam.
“Nhưng sau khi cộng sản tiếp quản, họ đã phá hủy nó. Họ đập vỡ bia mộ, đào bới các ngôi mộ và trồng cây để phủ kín đất.
“Mục đích của họ rất rõ ràng: xóa tên chúng ta khỏi lịch sử “, ông Hùng Trần nói.
Ông Hùng Trần (bìa bên phải)
Nhà sử học người Úc Robert Hall, người đã hỗ trợ chính phủ Việt Nam tìm kiếm nơi chôn cất binh lính Bắc Việt và trả lại các hiện vật cá nhân thu được từ chiến trường, cho biết thời gian tìm kiếm hài cốt của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang cạn dần.
“Tình hình vô cùng tồi tệ ngay sau chiến tranh. Các nghĩa trang quân đội Nam Việt Nam đã bị chính quyền cố ý san phẳng”, ông nói.
Mặc dù thời gian đã giúp cho thái độ của Hà Nội dịu đi và đã có tiến triển, Tiến sĩ Hall cho biết “những yếu tố nhạy cảm gia tăng” khiến cho việc tìm kiếm hài cốt trở nên khó khăn hơn.
Đại sứ Việt Nam tại Úc, Phạm Hùng Tâm, cho biết Hà Nội đã cho phép người thân khôi phục và di dời các ngôi mộ của binh lính Việt Nam Cộng Hòa tại các nghĩa trang như Bình An – trước đây là Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa – hiện là nghĩa trang dân sự.
“Hàng ngàn ngôi mộ như thế này đã được người thân trùng tu, nhiều ngôi mộ trong số đó đã được đổ xi măng”, ông Tam nói với ABC News.
Ông cho biết thêm rằng nghĩa trang đã tiến hành các nỗ lực dọn dẹp và tân trang, bao gồm cả việc dựng các bàn thờ bằng đá.
Về thách thức lớn hơn trong việc tìm kiếm hài cốt, ông Tâm cho biết: “Nhiệm vụ tìm kiếm hài cốt của những cá nhân này là rất lớn, đầy thách thức, tốn kém và mất thời gian.
“Thậm chí hàng ngàn liệt sĩ yêu nước (Bắc Việt) của chúng tôi vẫn còn mất tích.”
(Ảnh: VAF)
Thách thức trong việc tìm kiếm những người lính Nam Việt Nam
Theo Trung tâm Phi tiêu của Đại học Columbia, sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, ước tính có khoảng 165.000 binh lính đã được đưa đến các “trại cải tạo” ở Bắc Việt Nam, thực chất đó là những trại tù không án, và không thời gian trả tự do cụ thể.
Ông Hùng Trần, một người sống sót từ một trong những trại tập trung như vậy, mô tả đây là “nơi tra tấn” đối với những người chiến hữu Việt Nam Cộng Hòa của ông.
“Nhiều người chết vì đói, tra tấn hoặc bệnh tật. Họ được chôn cất trong những khu rừng và ngọn núi xa xôi, ngôi mộ của họ không có bia mộ”, ông nói.
“Gia đình họ không có cách nào tìm thấy họ, chứ đừng nói đến việc đưa họ về nhà. ”
Tiến sĩ Hall, một cựu chiến binh người Úc và là giảng viên danh dự tại UNSW Canberra, giải thích rằng việc tìm kiếm hài cốt của những người lính đã hy sinh sau Chiến tranh Việt Nam đặc biệt khó khăn.
“Đối với những người lính Việt Cộng, thi thể của họ thường vẫn nằm lại trên chiến trường”, ông nói.
“Họ không có báo cáo chi tiết hoặc địa điểm chôn cất chính xác như chúng tôi. Trong nhiều trường hợp, họ sẽ báo cáo về các vụ chôn cất một cách mơ hồ — như một đồn điền cao su hoặc một quận rộng hàng ngàn mét vuông.”
Các tổ chức như Quỹ Người Mỹ gốc Việt hơn 50 năm vẫn tiếp tục vận động trả lại hài cốt của những người lính Việt Nam Cọng Hòa cho gia đình họ.
Đến nay đã tìm thấy 504 hài cốt, và còn rất nhiều hài cốt khác đang chờ nhận dạng và trao trả.
Tổ chức này đã khai quật nghĩa trang trại cải tạo Láng Đá ở tỉnh Yên Bái vào năm 2010 và thu thập được 12 bộ xương, trong đó có 11 bộ xương có chứa DNA còn sống.
Một bộ xương người được đặt trước bức ảnh của một người lính Việt Nam Cộng Hòa sau khi khai quật thành công ở Việt Nam (Ảnh: VAF)
Hài cốt của một người lính Nam Việt Nam được tìm thấy vào năm 2006 trong khuôn khổ nỗ lực của Quỹ người Mỹ gốc Việt và một nhóm chuyên gia bao gồm một nhà khảo cổ học. ( Cung cấp: Quỹ người Mỹ gốc Việt – VAF )
Nhà khảo cổ học Julie Martin sau đó đã viết trên một tạp chí học thuật rằng một nhóm đã khai quật bộ xương và phát hiện ra những vật dụng cá nhân như bát gốm và bàn chải đánh răng trong nhiều ngày bất chấp điều kiện đất đai và khí hậu khắc nghiệt.
Nhưng ông Hùng Trần cho biết những nỗ lực vận động của Quỹ người Mỹ gốc Việt với chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam thường chậm chạp và gặp nhiều khó khăn.
Quỹ này đã đề xuất xây dựng lại Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa, nhưng vẫn chưa có hồi đáp từ chính quyền CSVN.
“Chúng tôi không muốn bất kỳ sự phô trương hay chính trị nào, chỉ cần một nơi an nghỉ trang nghiêm,” Ông Hùng Trần cho biết.
Hai người đang dùng xẻng đào đất khô trong khi nhiều người khác đang nhìn theo.
Quỹ Người Mỹ gốc Việt đã thu hồi được 504 hài cốt của những cựu chiến binh Nam Việt Nam sau nhiều thập kỷ làm việc. ( Nguồn: Quỹ Người Mỹ gốc Việt )
‘Hà Nội muốn xóa bỏ chúng tôi’
Hàng năm, các cựu chiến binh Hoa Kỳ và Úc trở lại Việt Nam để tưởng niệm những người đã khuất.
Cựu chiến binh Úc trong Chiến tranh Việt Nam giúp tìm thấy những người lính đã bị chôn vùi từ lâu. Họ thậm chí còn tham gia vào các sự kiện kỷ niệm Trận Long Tân.
Đối với ông Hùng Trần, điều đó làm tăng thêm nỗi đau khi nhìn thấy mà không thể giúp những người đồng đội của mình được yên nghỉ.
“Làm sao những người cộng sản Việt Nam có thể tuyên bố hòa giải với kẻ thù cũ trong khi lại đối xử với chúng tôi – những người có cùng ngôn ngữ, màu da và lịch sử – như kẻ thù?
“Đây là sự tàn ác mà không ai ngoài người Việt Nam có thể thực sự hiểu được”, ông nói.
Nhưng ông Tâm của Đại sứ quán Việt Nam cho biết những người Việt ở nước ngoài, bao gồm cả những thành viên cấp cao của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã được chào đón trở về nước như một phần của nỗ lực hòa giải.
“Chính phủ Việt Nam luôn coi người Việt ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam”, ông nói.
(Ảnh: VAF)
Mặc dù các cựu chiến binh Úc có thể tưởng niệm những người đã ngã xuống ở Việt Nam, nhiều binh lính Việt Nam Cộng Hòa nói họ không bao giờ có được cơ hội như vậy.
Ông Hùng Trần cho biết việc tìm kiếm những người lính Nam Việt Nam mất tích vẫn là cuộc chiến lớn nhất mà ông từng chiến đấu.
“Chúng tôi không còn chính phủ nào đại diện cho chúng tôi nữa. Chúng tôi giống như cát bụi – mọi người đều muốn cuốn chúng tôi đi”, ông nói.
“Nhưng chúng tôi sẽ không ngừng chiến đấu. Những người chiến binh VNCH đó đã hy sinh mạng sống của mình vì điều họ tin tưởng. Họ xứng đáng được ghi nhớ.”
Sức mạnh của sự tha thứ – TRẦM THIÊN THU
TRẦM THIÊN THU
Một trong các khía cạnh tuyệt vời nhất của sự tha thứ là hệ quả tẩy rửa và cao quý, tạo nên tính cách của người tha thứ. Rõ ràng, người ta không chịu tha thứ vì chưa hiểu giá trị cao quý của lòng tha thứ. Người ta ít khi đạt tới đỉnh cao của sức mạnh và sự cao thượng nên khó loại bỏ cơn oán giận, khó tha thứ sai lầm của người khác.
Chắc chắn sự trả thù không thể chấp nhận khi giải quyết xung khắc. Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đưa ra phương pháp tốt nhất mà không cần phải trả thù: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).
Thánh Phaolô cũng khuyên: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người. Anh em thân mến, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì có lời chép: Đức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Trái lại, kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:14-21). Thế nhưng nhiều người lại cho rằng đời sống thực tế phức tạp hơn nhiều, khó có thể yêu thương và tha thứ cho mọi người.
Tuy nhiên, hãy cân nhắc các vụ khủng bố thường xuyên xảy ra và giết người bừa bãi ngày nay, đó là hậu quả của các cuộc xung đột giữa các quốc gia, sự tha thứ là khí cụ rất cần thiết để chữa lành các vết thương của thế giới đầy những thứ rắc rối này. Tha thứ là thách đố lớn vì hòa bình thế giới, tha thứ là điều cấp bách và không thể coi thường. Xã hội luôn cần có hòa bình và tha thứ. Các gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn tu trì, các hội đoàn, các nhóm, các tổ chức, các quốc gia, và cả cộng đồng quốc tế luôn rất cần sự tha thứ để phục hồi các hệ lụy đã bị rạn nứt hoặc bị tách rời
Cựu Ước giới thiệu Thiên Chúa là Đấng “có lòng thương xót và hay tha thứ” (Đn 9:9). Đức Chúa là Thiên Chúa của ân sủng, thương xót không ngừng, và sẵn sàng tha thứ, mặc dù chúng ta “cứng đầu cứng cổ không vâng lệnh Chúa truyền, giả điếc làm ngơ, cũng chẳng thèm ghi nhớ những kỳ công Chúa làm” (Nkm 9:16). Trong Tân Ước, lòng tha thứ được thể hiện bởi Thánh Stêphanô và Thánh Phaolô, nhưng đỉnh cao và kiểu mẫu của sự tha thứ được diễn tả nơi Đức Giêsu Kitô. Trái tim tha thứ là biểu tượng của sự vĩ đại. Chúng ta có mẫu gương về sự chịu đựng, sự tử tế, lòng bác ái và lòng tha thứ mà Thiên Chúa đã tạo ra hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, và chúng ta phải nỗ lực noi gương.
Chúa Giêsu bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị đội vòng gai, bị mỉa mai,… Nhưng Ngài vẫn chịu đựng mọi nhục hình mà con người áp đặt. Khi bị treo trên Thập Giá, Ngài đã nhìn những người lính Rôma bằng ánh mắt nhân từ và bênh vực họ trước mặt Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).
Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng, vô điều kiện, thế thì chúng ta không thể không thương xót và không tha thứ cho nhau!
TRẦM THIÊN THU
(Viết theo DivineMercy.org)
From: NguyenNThu
Sống và yêu – Trầm Thiên Thu
Chị Brittany Maynard, 29 tuổi, được chẩn đoán có khối u ác tính trong não ở giai đoạn 4 từ hồi tháng 4-2014, và bác sĩ nói chị chỉ còn sống thêm trong vòng 6 tháng.
Ngày 1-11-2014, chị sẽ kết thúc cuộc đời với sự trợ tử của bác sĩ bằng phương pháp “an tử” (làm cho chết êm ái). Chị cho biết rằng chị không muốn chị và gia đình chịu nỗi đau khổ vì chứng ung thư não của chị. Chắc chắn đây là tình cảm tốt đẹp khi người ta không muốn những người thân chịu đau khổ, nhưng đó không phải là cách yêu thương!
Các phương tiện truyền thông hết lời ca tụng quyết định của Brittany là can đảm. Thật mắc cười khi các phương tiện truyền thông khen chị dám chết vì không muốn gia đình đau khổ, và kêu gọi những người khác hủy hoại sự sống mà không cần bác sĩ trợ tử. Nhưng các phương tiện truyền thông ca tụng một phụ nữ trẻ mới kết hôn mà lại muốn chết chứ không muốn sống. Các phương tiện truyền thông ca tụng sự chết, dù đó là phá thai, an tử, hoặc trợ tử, họ gọi đó là sự chọn lựa, sự tự do, hoặc sự can đảm. Tuy nhiên, Thiên Chúa cấm chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể là gánh nặng cho người khác vì sức khỏe giảm sút hoặc cần được chăm sóc về y tế.
Sợ hãi là động lực có thật: Sợ những gì ở phía trước, sợ đau khổ, sợ không thể kiềm chế,… Các phương tiện truyền thông và xã hội muốn chúng ta sống trong nỗi lo sợ vì nỗi lo sợ khiến chúng ta phải kiểm soát. Nỗi lo sợ biến chúng ta thành nô lệ dưới chiêu bài của sự tự do, sự can đảm, và sự tự tha thứ cho mình. Nỗi lo sợ xoay chúng ta hướng vào bên trong (tự hướng nội) và làm cho chúng ta tin rằng mình đáng bị thu nhỏ lại.
Chân phước Chiara Luce Badano đã không sống trong nỗi lo sợ mặc dù Chị chịu đau khổ và chết vì chứng ung thư xương rất đau nhức khi còn ở độ tuổi thiếu niên. Thay vì đầu hàng nỗi đau đớn thể lý, Chị đã chịu đựng đau khổ và nhìn cha mẹ thấy Chị chống chọi với bệnh tật. Chị dùng đau khổ để thánh hóa chính mình và những người khác. Chị dùng đau khổ làm phương tiện để hy vọng.
Ngược lại, chị Brittany Maynard lại dùng đau khổ làm phương tiện để tuyệt vọng! Buồn biết bao khi Brittany cho phép bóng tối làm tiêu tan chính mình. Chân phước Chiara được một người bạn đặt cho biệt danh Luce khi Chị gia nhập phong trào Focolare, vì Chị là ánh sáng cho người khác. Chị như ánh đuốc soi sáng trong bóng đêm của cuộc sống này để đi tới Chúa Giêsu và sự sống đời đời.
Các phương tiện truyền thông chẳng bao giờ ca tụng những loại ánh sáng này của con người. Bạn sẽ không bao giờ nghe nói về những con người thầm lặng chịu đau khổ trên đời này, hoặc thời gian kỳ diệu mà họ cố gắng sống tốt, và hôm nay họ vẫn sống vô thường dù ngày mai họ sẽ chết, họ sống như thể là bất tử. Những con người này là những ánh đuốc sáng thực sự trong thế giới này, họ đối diện với bóng tối và tuyên bố: “Mi cứ làm điều tồi tệ nhất! Tôi sẽ không bị hủy diệt”. Những người này sống trọn vẹn tình yêu thương, hoàn toàn biết từ bỏ mình, ngay cả khi họ phải đối diện với tử thần, họ không bao giờ chịu thua sự cám dỗ của nỗi thất vọng, vì họ biết rằng SỰ SỐNG và TÌNH YÊU đáng tận hưởng. Dù sao thì cuộc đời cũng vẫn đáng sống, không đáng chấm dứt.
Bạn sẽ chẳng bao giờ nghe nói về những con người như Ginnie Levin. Chị được chẩn đoán bị ung thư vú, mặc dù cắt cả hai vú và các khối u, chứng ung thư vẫn di căn tới nhiều bộ phận khác trên cơ thể. Chỉ còn ít thời gian ngắn ngủi trên thế gian này, chị muốn dành tất cả cho gia đình. Người bà và người mẹ của chị đã chết vì ung thư, người cha của chị cũng đang phải điều trị ung thư. Ginnie muốn tới thế giới của Walt Disney với gia đình một lần nữa, tạo ký ức vui mừng một lần cuối. Xin mọi người hãy cầu nguyện nhiều cho chị Gennie Levin!
Trong một thế giới ca tụng việc hủy hoại sự sống, chúng ta hãy ca tụng Sự sống. Hãy tạo sự khác biệt trong cách sống của chúng ta hôm nay!
Thánh nữ Teresa Margaret Thánh Tâm Chúa (Dòng Kín Chân Đất, 1747-1770) nói: “Không có gì phải than phiền, tôi sẽ chịu đựng mọi thứ vì yêu mến Chúa, tôi không có gì phải lo sợ”. Chân phước Chiara Luce được an táng với chiếc áo cưới vì Chị sẽ đi gặp Đức Lang Quân là Chúa Giêsu trong cõi trường sinh. Chết lúc mới 19 tuổi vì bệnh trầm kha, nhưng chân phước Chiara Luce vẫn khả dĩ nói: “Tôi không còn lại gì, nhưng tôi vẫn còn trái tim, và tôi có thể yêu thương bằng trái tim đó”.
Chị Chiara Luce Badano sinh ngày 29-10-1971 tại ngôi làng nhỏ Sassello ở Ý quốc, qua đời ngày 7-10-1990 sau một năm đau đớn vì chứng ung thư xương. Chị được Giáo hội tôn phong chân phước ngày 25-9-2010.
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
From: NguyenNThu
Bài giảng thánh lễ Truyền Tin | Đức TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
CHẶNG THỨ 4: Đức Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ – Cha Vương
Phụ nữ Philippines có thẻ xanh ở Mỹ 50 năm, vẫn bị ICE bắt
March 27, 2025 ebo
SEATTLE, Washington (NV) – Gia đình một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm tại đại học University of Washington lên tiếng sau khi bị Cơ Quan Thực Thi Di Trú và Quan Thuế ICE bắt giữ gần đây dù có thẻ xanh.
Lewelyn Dixon, 64 tuổi, thường trú nhân hợp pháp tại Hoa Kỳ trong 50 năm, bị bắt giữ tại phi trường ở Seattle và bị ICE tống giam sau khi viếng thăm quê hương Philippines vào cuối Tháng Hai. Phiên điều trần liên quan tới vụ bắt giữ được ấn định vào Tháng Bảy, nhưng thân nhân đang kêu gọi trả tự do cho Dixon và nói với NBC News rằng bà luôn luôn gắn kết những người trong gia đình lại với nhau.
ICE chưa lập tức trả lời yêu cầu bình luận từ NBC News.
Lewelyn Dixon. (Hình do Melania Madriaga cung cấp)
Lani Madriaga, cháu gái của Dixon cho biết bà đang bị giam tại Trung Tâm Di Trú ICE Khu Vực Tây Bắc ở Tacoma, Washington, tại đó bà kết giao với những người cũng đang bị giam giữ, đồng thời phiên dịch và giúp đỡ họ nói chuyện với luật sư trước khi diễn ra phiên điều trần.
Luật sư đại diện Dixon, Benjamin Osorio, cho biết dường như Cơ Quan Biên Phòng Hoa Kỳ USBP phát giác ra một bản án kết tội bà biển thủ công quỹ từ nhiều thập niên trước trong hồ sơ khi bà quay về Hoa Kỳ, dẫn tới hành động bắt giữ. Dixon từng nhận tội thực hiện hành vi phi bạo lực năm 2000, nhận lệnh bồi thường và phải bị tạm giam 30 ngày, hồ sơ tòa án cho thấy. Dixon hoàn tất bồi thường năm 2019.
Dixon từng làm việc với tư cách thủ quỹ kiêm giám sát hoạt động tại nhà băng Washington Mutual Bank, lúc đó bà “rút tiền mặt từ ngân khố trong tám lần riêng biệt” mà không được nhà băng cho phép, theo thỏa thuận nhận tội của Dixon. Bà rút tổng cộng $6,460.
Dixon chưa từng kể với gia đình về bản án, Madriaga cho biết, và nói rằng đó là “góc khuất u ám nhất” của Dixon.
Và dầu cho Dixon có đủ điều kiện nhập quốc tịch Hoa Kỳ từ lâu, Osorio cho biết, nhưng bà đã hứa với cha mình rằng bà sẽ giữ nguyên quốc tịch Philippines để có thể giữ gìn tài sản và đất đai ở Philippines.
Dixon tới Hoa Kỳ năm bà 14 tuổi, lập tức giúp Madriaga và anh chị em ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người sau khi di cư.
Nhưng khi một người chị em của Madriaga ly hôn và thành một người mẹ đơn thân, Dixon dời qua Washington để phụ giúp săn sóc các cháu và phụ trả tiền mướn nhà. Nhiều năm sau đó, Madriaga cũng ly hôn và cho biết Dixon cũng tiếp tục chung sống để giúp đỡ các cháu.
Trong công việc, Dixon là một nhân viên tận tụy trong phòng thí nghiệm, Madriaga cho biết. Thậm chí ngay trong đêm xuống phi trường, Dixon cũng có lịch làm việc, Madriaga nói thêm. Dixon ngấp nghé dịp kỷ niệm 10 năm phục vụ phòng thí nghiệm, trong thời gian đó bà sẽ được hưởng lương hưu. Thân nhân gia đình đang lo lắng rằng Dixon sẽ mất cả công việc lẫn lương hưu sau khi vắng mặt quá lâu.
Susan Gregg, phát ngôn viên Bệnh Viện University of Washington, không giải thích thêm về trường hợp của Dixon, nhưng cho biết bà làm việc với tư cách kỹ thuật viên xét nghiệm tại bệnh viện này từ 2015.
Madriaga cho biết gia đình bà đang lên tiếng thay cho Dixon và cũng mong mỏi giúp đỡ những người khác tự bảo vệ khỏi tình cảnh tương tự. (TTHN)
Dịu dàng đến kì lạ
Thật đúng những con người thuộc trọn về Chúa, không ngại hôi, không ngại bẩn, không sợ lây nhiễm, chăm sóc người bệnh với cả trí óc và con tim. Cũng chỉ vì một điều: họ thấy Chúa nơi những con người đó.
(Mái ấm Thiên Ân (Hoàng Mai, Nghệ An) nơi cưu mang gần 30 em bại não, tâm thần, tự kỷ, thiểu năng trí tuệ. Các em không tự chủ được hoạt động nên các sơ hầu như phải lo mọi thứ: thay quần áo, vệ sinh, cho ăn. Các sơ cũng làm nhiều công việc để có kinh phí trang trải hàng tháng. Nhiều khi các em lên cơn đập phá đồ đạc, ném chất bẩn khắp nhà, nhưng các sơ vẫn âm thầm dọn dẹp không một lời trách móc.)
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Gia tài của đảng
Tác Giả: Tưởng Năng Tiến –
26/03/2025
Tôi tình cờ vừa được biết thêm (chút xíu) về sinh hoạt của giới thanh niên/sinh viên hiện nay, qua trang mạng của HaNoi University of Industry :
“Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đã tổ chức tham quan, dâng hương tại các ‘địa chỉ đỏ’ – địa danh lịch sử cách mạng tại dải đất miền Trung … Đây là hoạt động vô cùng ý nghĩa của Đại học Công nghiệp Hà Nội trong những ngày tháng tư lịch sử.
Đến với các ‘địa chỉ đỏ’ trong những ngày này, các thế hệ cán bộ, viên chức được trở về với lịch sử hào hùng của dân tộc, cảm nhận sâu sắc hơn sự hy sinh anh dũng, lòng yêu nước và ý chí cách mạng của các thế hệ đi trước.”
Ngay tại Sài Gòn, “những địa chỉ đỏ” cũng đâu có ít. Báo Thanh Niên cho biết :
Bên phải góc đường Hai Bà Trưng – Lý Chính Thắng (TP.HCM) có một “địa chỉ đỏ” của chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đó là quán phở Bình nổi tiếng của vợ chồng ông Ngô Toại (Ngô Duy Ái).
Vì có vị trí chiến lược nên ngôi nhà số 7 Yên Đỗ (Lý Chính Thắng hiện nay) từ năm 1967 đã được chủ nhân cho cách mạng sử dụng làm cơ sở bí mật của Sở Chỉ huy tiền phương phân khu 6, tập kết các chiến sĩ biệt động để trực tiếp tham gia chiến đấu…
Ông Ngô Văn Lập, con trai ông Ngô Toại, nhớ lại: “Khi đó tôi mới 12 tuổi. Từ 20 tháng chạp năm 1968, mỗi khi có ai đến ăn phở đáp đúng mật khẩu theo quy định là tôi đưa họ lên tầng 2 cho các chú cấp cao …
Ngày 16.11.1998, ngôi nhà số 7 Lý Chính Thắng (quán phở Bình) được Bộ Văn hóa trao bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, trở thành niềm vinh dự cho gia đình ông Ngô Toại…Mang mấy tập hồ sơ dày cộp ra bàn, ông Ngô Văn Lập đưa chúng tôi xem bằng khoán điền thổ, trong tờ lược giải ngày 4.8.1967 có ghi rõ việc sang nhượng của chủ cũ cho ông bà Ngô Toại – Trần Thị Mỵ với giá tiền tương đương 3.600 lượng vàng.
Sau này, cả ba anh em tôi đều đi bộ đội, tham gia chiến trường Campuchia. Giải ngũ, tụi tôi về tiếp quản tiệm phở Bình buôn bán cho đến giờ kiếm sống mà không được hưởng chế độ gì. Bao năm qua vất vả, ba hộ gia đình chúng tôi gồm 16 người sinh sống trong khuôn viên quá chật hẹp do dành hết 1 tầng làm khu trưng bày di tích, phải cải tạo bếp ăn cũ ngày xưa để làm nơi trú ngụ.
Tôi bị bệnh nan y không có tiền chạy chữa, mà nhà cửa là di tích quốc gia nên không làm giấy tờ sở hữu hợp pháp để cầm cố ngân hàng vay mượn được. Mỗi khi tôi mang hồ sơ lên phường xin hợp thức hóa đều bị bác vì lý do “nhà đã xếp hạng di tích”, ông Lập bức xúc.
Ông Lập, tất nhiên, không phải là người đầu tiên hay duy nhất “bức xúc” như vậy. Quanh ông thiếu gì những kẻ đồng cảnh ngộ. Cách Phở Bình không xa là một “địa chỉ đỏ” khác – quán Thanh Bò Tơ, của Mẹ Việt Nam Anh Hùng Đỗ Thị Bê, ở Hóc Môn – cũng đang lâm vào trường hợp oái oăm tương tự.
Quán vắng tanh. Hình chụp ghế úp vào bàn (chắc cho đỡ bụi) nhưng vì đây là “di tích quốc gia” nên không sang nhượng được. Trước tình trạng sống dở (chết dở) của chủ nhân, nhà báo Uyên Vũ góp ý :
“Ông Lập cứ xé quách cái quyết định di tích lịch sử đi, đồng thời đập bỏ cái bảng hiệu có ngôi sao vàng to tổ bố chẳng giống ai, rồi cho thuê mặt tiền để người khác kinh doanh những thứ bổ ích và sinh lợi. Chắc chắn ông sẽ có tiền chữa bệnh, có tiền thuê một chỗ khác sống cho thoải mái cuộc đời. Giữ mãi cái vòng kim cô làm gì!”
Rồi ra – có lẽ – cũng sẽ đến lúc chủ nhân của những cái địa chỉ đỏ trên toàn quốc buộc phải hành xử thế thôi (“đập bỏ cái bảng hiệu có ngôi sao vàng to tổ bố chẳng giống ai đi” – mẹ nó, sợ gì?) chứ cứ dính mãi với gia tài của Đảng thì chắc chết, chết chắc.
Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị thượng dẫn nhưng vẫn còn rất băn khoăn về tình cảnh (thê thảm và bi đát hơn nhiều) của vô số những nạn nhân khác, nhất là phụ nữ. Tuy không có bất động sản bị in dấu (sao vàng) nhưng xác thân của chính họ thì đã mang đủ thứ thương tật về thể lý, cũng như tâm lý, không thể xóa nhòa.
Xin nghe qua mẩu chuyện nhỏ sau, về một cựu thanh niên xung phong – quê ở Nga Sơn, Thanh Hoá – đã từng “tình nguyện” phục vụ tại đường mòn Hồ Chí Minh :
Mỏi chân, chúng tôi rẽ vào một khu biệt thự kín cồng cao tường, vườn cây um tùm rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài granito trông sang một vườn hoa nho nhỏ. Mất điện, tiếng máy nổ ầm ì ở trong mỗi biệt thự.
Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo ngồi lên ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang”. Cụ bạn bèn đến bên:
- Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có quen không?
- Không ạ!
- Cô thấy nó đẹp không?
- Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…
Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời dứt khoát, đanh thép này chút nào.
Người phụ nữ nói tiếp:“Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là đều nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh làm gì.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).
François Guillemot còn viết cả một thiên tiểu luận (Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975) về “hàng vạn thân thể phụ nữ bị hủy hoại, tàn phai, tật nguyền, và chao đảo mãi mãi.” Công trình nghiên cứu này đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas (*).
Chúng tôi xin phép ghi lại đôi câu để rộng đường dư luận, cùng với ước mong cũng được xem đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả và dịch giả:
“Họ là những người đi trước mà về sau. Trước những trận đánh, họ luôn luôn đi trước để mở đường, xây dựng chiến tuyến, rồi trực tiếp tham gia chiến đấu, cuối cùng, họ lại chính là những người về sau thu dọn chiến trường, tải thương, chôn cất liệt sĩ.”
“Đối với những cựu TNXP tuổi đời chỉ khoảng 20, việc quay về đời sống dân sự ở quê nhà là rất phức tạp. Sự hy sinh, khắc kỷ, dũng cảm trong những năm tháng chiến tranh tương ứng với thương tật, đớn đau và rối loạn tinh thần trong thời gian hòa bình… Những người này trở thành 5 không, sau khi cha mẹ mất đi: ‘không chồng, không con, không nhà, không chế độ, và độc thân.”
Thực là một “gia tài đồ sộ” mà “đến đời con chắc chắn chưa trả được” – theo như nguyên văn lời của nhà báo và nhà hoạt động xã hội Nguyễn Lân Thắng, trước khi ông bị bắt giam: “Người ta đã phản bội tất cả những gì đã hứa với dân để vun vén cho quần thần, cho gia tộc của họ. Tham nhũng tràn lan, đạo đức băng hoại, tài nguyên kiệt quệ, công nhân làm đĩ, nông dân ăn mày, trí thức hạ mình, tổ quốc lâm nguy, nợ nước ngoài đến đời con chắc chắn chưa trả được”
———————
(*) Chú thích của talawas: François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.
TRỖI DẬY VÀ TRỞ VỀ – TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
Chúa nhật thứ bốn Mùa Chay là điểm giữa của hành trình Mùa Chay, Phụng vụ khích lệ chúng ta: nếu có trải qua những khổ chế hy sinh của Mùa Chay, là vì chúng ta đang hướng về nhà mình, về với Cha, Đấng nhân hậu hằng yêu thương và chờ đợi chúng ta trở về. Quả thực, hành trình Mùa Chay là hành trình trở về, dù phải trải qua hy sinh, nhưng luôn đong đầy niềm vui và hy vọng. Cũng vì lẽ đó mà luật Phụng vụ cho phép các linh mục có thể mặc lễ phục màu hồng trong Chúa nhật này, vì màu hồng biểu thị cho niềm vui và hy vọng. Lễ phục màu hồng như dấu hiệu của niềm vui đi kèm với lời hứa về lễ Phục sinh. Truyền thống cũng gọi Chúa nhật thứ bốn Mùa Chay là Chúa nhật “Laetare,” tiếng La-tinh có nghĩa là “vui mừng.”
Niềm vui trở về trước hết được diễn tả trong Bài đọc I trích sách Giô-suê. Dân Do Thái sau bốn mươi năm lang thang trong sa mạc, nay đã trở về Ca-na-an, mảnh đất mà Thiên Chúa đã hứa cho các Tổ phụ. Gọi là “trở về” vì đây chính là nơi ông Áp-ra-ham và vợ mình là bà Sa-ra đã sống và an nghỉ. Trở về với Ca-na-an, người Do Thái về đất tổ của mình. Chính Thiên Chúa ban cho họ đất này. Họ không còn ăn những sản phẩm nhàm chán trong cuộc lữ hành, nhưng bắt đầu làm nhà định cư và được hưởng những thổ sản của địa phương. Niềm vui của Dân Chúa thật tràn trề khi họ trở về đất hứa.
Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca là một trong những tuyệt tác văn chương của Kinh Thánh. Dụ ngôn ấy vừa nói về lòng nhân hậu bao dung của người cha, vừa nêu bật niềm vui hân hoan của người con đã có thời đi hoang. Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mang ý nghĩa đặc biệt trong Năm Thánh Hy Vọng 2025 này. Từng chi tiết của câu chuyện có thể tìm thấy trong hoàn cảnh cuộc đời của mỗi cá nhân chúng ta. Nói cách khác, mỗi người chúng ta có thể nhận thấy chính mình trong câu chuyện này.
Có thể chúng ta là người con thứ đã có thời lầm lỗi, nay cảm nhận được hậu quả của tội lỗi cũng như sự sa vắng tình thương, nên trỗi dậy để quyết tâm trở về với cha mình. Câu nói của người con thứ: “Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha, và thưa với người rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha….” Phạm tội trước hết là đắc tội với Trời, với Thiên Chúa. Vì Ngài là Đấng dựng nên chúng ta, đồng thời dạy chúng ta sống tốt lành. Phạm tội cũng là đắc tội với những người thân và anh chị em đồng loại, vì tội như một thứ bệnh truyền nhiễm, gây ảnh hưởng tiêu cực nơi môi trường sống và tác hại đến những người xung quanh. Câu tự nhủ của người con thứ nói lên tình liên đới của con người do những hành động tốt hoặc xấu của một thành viên trong gia đình và xã hội.
Có thể chúng ta là người con cả. Quanh năm ngày tháng anh vẫn ở với cha mình. Anh được coi là người hiếu thảo, tận tâm chăm lo giúp đỡ cha trong lúc tuổi già. Nhưng nếu anh hiếu thảo với cha, thì lại ghen tương và cố chấp đối với đứa em ruột thịt của mình. Khi người em trở về, ai cũng vui mừng phấn khởi thì anh lại buồn. Có thể anh buồn vì người em đã làm cho gia đình khốn khổ, đó là cái buồn do sự cố chấp. Cũng có thể anh buồn vì người em trở về sẽ đòi chia gia tài, đó là nỗi buồn do tham lam. Dù vì lý do nào, người cha cũng không chấp nhận. Ông luôn yêu thương cả hai đứa, đứa vẫn chăm sóc ông bấy lâu nay cũng như đứa bỏ nhà ra đi rồi đến lúc phá sản, vì đơn giản ông là NGƯỜI CHA.
Nhân vật chính của dụ ngôn là NGƯỜI CHA. Ông là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giê-su kể dụ ngôn này sau khi những người Pha-ri-siêu và kinh sư xầm xì bàn tán vì thấy những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa và được Người đón tiếp. Đối lại, Chúa Giê-su giảng một chuỗi ba dụ ngôn, gồm dụ ngôn con chiên bị mất; dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất; và dụ ngôn người cha nhân hậu. Thiên Chúa là Cha của những người Pha-ri-siêu, của những người kinh sư và cũng là Cha của những người thu thuế và người tội lỗi. Người không nỡ bỏ một ai, như lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ta sẽ không nhớ lại mọi tội ác nó (kẻ gian ác) đã phạm: nó sẽ sống nhờ việc công chính mà nó đã thực hành! Chúa là Thiên Chúa phán: Có phải Ta muốn kẻ gian ác phải chết, chớ không muốn nó bỏ đàng tội lỗi và được sống ư?” (Ed 18,22-23).
Khi cảm nhận được lòng nhân hậu bao dung của Thiên Chúa, chúng ta hãy trỗi dậy và vững tâm trở về, dù tội lỗi đến đâu. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta: “Ai ở trong Đức Ki-tô, đều là tụ tạo mới!” Nếu chúng ta tự tin và can đảm trở về với Chúa, là vì chúng ta vừa xác tín vào lòng nhân hậu của Ngài, vừa cậy nhờ vào Đức Giê-su, vì “trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Ngài” (Bài đọc II).
Thiên Chúa là Cha, đang giang rộng cánh tay đón chờ các con cái trở về. Xin cho chúng ta được hưởng niềm vui của sự trở về, để nhờ đó chúng ta được vững tin và phó thác, tiếp tục bước đi trong hành trình hy vọng.
TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
From: Langthangchieutim
Thằng lơ xe đò trong văn hóa Miền Nam – Truyen ngan HAY
(Bài rất dài nhưng đọc không uổng. Merci các bạn đã đọc tới sau chót bài!)
Đi xe đò mà không có lơ thì khỏi xuất bến. Anh lơ mang hành lý hàng hóa của khách lên mui, sắp xếp ghế cho khách, dẫn người già lên xe, là cái loa báo hiệu quảng đường khách sắp tới.
Lơ xe có quyền lực ghê lắm, có thể đuổi khách xuống nếu phát hiện đi chui.
Ai đi xe đò Sài Gòn Mỹ Tho sẽ gặp vầy:
“Sắp tới Tân Hương, bà con nào xuống chuẩn bị đồ đạc nghen!”
Ngồi chưa nóng đít là đã tới ngã ba Phú Mỹ, tới Tân Hiệp.
Ai đi xe đò Chợ Lớn Cần Đước sẽ nhớ giọng anh lơ:
“Tới Cầu Ông Thìn bà con ơi! Tới Kế Mỹ rồi.Tới cầu Mồng Gà rồi.
Tới Chợ Trạm bà con cô bác nào xuống chuẩn bị nghen!”
Nhớ cầu Nhị Thiên Đường, nhớ cầu Ông Thìn như răng bà già sắp rụng, nhớ cầu Mồng Gà và cầu Chợ Trạm trong bụi đỏ mù trời!
Nghề lơ xe là một nghề mà người Nam Kỳ nào cũng biết.
Mấy bà già kêu “Thằng lơ”. Mấy em tre trẻ kêu “Anh lơ”. Mấy em học sinh kêu “Chú lơ”.
Thông thường kêu là “Thằng lơ” là hết xi mum.
Đi dê gái, mới tán gái vài câu mấy em chảnh xí một cái: “Cái thứ lơ mà trèo cao, đỉa đòi đeo chưn hạc, xí không thèm!”
Lơ xe tưởng bình dân, ăn mặc lèng xèng vậy chứ là từ tiếng Pháp à!, nó là “Controleur” người soát vé trong tiếng Pháp.
Người Nam Kỳ nhớ chữ leur và biến thành “lơ xe”.
Người Nam Kỳ xưa xài hàng Tây không hà, kêu tài xế là sốp phơ (chauffeur), sốp phơ ôm cái bánh lái kêu là ôm vô lăng (volant).
Khi khách lên xe, anh lơ sẽ dộng vô thành xe nói lớn:
“Bà con cô bác ngồi ngay ngắn, giữ kỹ đồ đạc, xe chuẩn bị đề pa!”
Đề pa tiếng Pháp là départ có nghĩa là khởi hành, rồ máy xe chạy.
“Sài Gòn có bến Chương Dương
Có dinh Độc Lập, có đường Tự Do
Phường Chợ Quán, khóm Cầu Kho
Bến xe Lục Tỉnh, con đò Thủ Thiêm.”
Xin dông dài dẫn về thăm một chút cái bến Miền Nam của chúng ta.
Ở Miền Nam mình, nơi ghe tàu đậu nhiều bên sông kêu là bến, từ bến ghe,bến đò tới bến xe.
Sài Gòn có Bến Nghé, có Bến Thành. Dạt qua Bình Dương Thủ Dầu Một có Bến Cỏ, Bến Củi là nơi bán cỏ cho ngựa ăn và bán củi.
Bến Cát là nơi tập trung ghe chở cát, Bến Súc là nơi buôn bán cây mà thuộc loại lớn, người Nam Kỳ kêu những cây lớn còn nguyên hình là cây súc.
Bến Thế Thủ Dầu Một là cái bến có trạm thâu thuế thuyền bè qua lại kêu là Bến Thuế, lâu ngày dân Bình Dương đọc thành Bến Thế.
Bây giờ chúng ta chạy về hướng Miền Tây.
Qua cầu Bình Điền, Chợ Đệm ta đụng Bến Lức, nơi có khóm nổi tiếng ngon ngọt, phải qua cái cầu khá lớn về dưới
Bến Lức là tên của sông Vàm Cỏ Đông chảy qua khúc này.
Bến Lức là bến sông có nhiều cây lứt và không loại trừ có xuất xứ từ gốc Khmer.
Trong sử Nguyễn, chữ tên Hán Việt của Bến Lức là Lật Giang.
Chúng ta về Mỹ Tho sẽ gặp cầu Bến Chùa, nó là cái bến có cái chùa gần đó, dễ hiểu.
Mỹ Tho là một cái trung tâm về Miền Tây, có ga xe lửa, có cầu tàu lục tỉnh, mọi thứ đều nằm trên Quai Galliéni (bến Trưng Trắc).
Năm xưa quan lớn Phan Thanh Giản từ Huế vể Bảo Thạnh Ba Tri thì phải ghé Mỹ Tho kiếm đò ở vàm sông Bảo Định này rồi lên ghe đâm ngang ra sông Cửa Tiểu và Cửa Đại rồi vô đến sông Ba Lai về Bảo Thạnh.
Thời Nguyễn bến đò nằm mé bên Chợ Cũ, Bến Tắm Ngựa, nằm cuối đường Trịnh Hoài Đức.
Mỹ Tho có cái bến tàu này là trạm sông lớn nhứt về các tỉnh Miền Tây, về Châu Đốc, về Cần Thơ, Cà Mau…..
Bến tàu lục tỉnh Mỹ Tho ngày đêm lúc nhúc người và người, tàu ghe chen chúc, tiếng réo gọi nhau rân trời.
Tại cầu tàu lục tỉnh, ngoài tàu khách còn có ghe thương hồ chất hàng lên chợ Mỹ Tho, lòng vòng đó có nhiều chiếc ghe nhỏ chèo bán đồ ăn, phần đông là những cô còn trẻ, dân Mỹ Tho kêu là “gái bán vàm”.
Và chúng ta qua Bến Tre.
“Bến Tre Bến Tre hỡi!
Có nhớ gã thương hồ
Khua dầm loang nắng đục
Lẩn thẩn sầu bán thơ?”
Có 2 lý giải về Bến Tre:
-Bến Tre xuất phát từ gốc Khmer là Srok Tre với nghĩa là Sóc Tre hay Bến Tre.
-Bến Tre có nguồn gốc Khmer là Sork Kompong Treay nghĩa là xứ bến cá
Xứ này cá đồng nhiều.
Ngày nay vẫn còn các địa danh tên cá như cầu Cá Lóc,nên chữ Sork Kompong Treay cũng nghe có lý.
Trên bờ Rạch Bến Tre có cái chợ Bến Tre.
Khi Pháp thành lập hạt tham biện Bến Tre đã đặt tỉnh lỵ ngay khu vực đất trung tâm của làng An Hội này, cái tên Bến Tre là lấy tên cái chợ Bến Tre này.
Xuống Cần Thơ có Bến Ninh Kiều.
Thời Pháp tên bến này là Quai de Commerce,dân gọi là Bến Hàng Dương. Năm 1958 ông tỉnh trưởng Cần Thơ vì mê bài “Bình Ngô đại cáo”, mê câu “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm-Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm” nên đặt tên là Bến Ninh Kiều.
Thiệt không hiểu nỗi vì sao lại lấy một địa danh có mùi máu tanh ngoài Bắc đặt tên cho một bến sông thơ mộng Cần Thơ?
Đó cũng là sai lầm.
Có lẽ muốn “lạ” hơn Sài Gòn vì Sài Gòn đã có Bến Bạch Đằng, Bến Hàm Tử, Bến Vân Đồn, Bến Chương Dương là tên những trận thủy chiến.
Nhưng Ninh Kiều là câu thơ máu.
Sài Gòn còn có Bến Lê Quang Liêm, Bến Tôn Thất Thuyết, Bến Trần Xuân Soạn, Bến Mễ Cốc, Bến Bình Đông, Bến Bình Tây, Bến Bãi Sậy.
Miền Tây nổi tiếng nhiều kinh rạch, nhiều cầu thì cũng nhiều đò, chỗ ghe rước khách kêu là bến đò.
Rồi chợ cũng cất sát sông,dễ hiểu là cho tàu bè chở hàng hóa lên chợ cho dễ, vậy là sau chợ sẽ có cái bến.
Cái chợ nổi tiếng nhứt Nam Kỳ, giàu có nhứt Lục Tỉnh là chợ Bến Thành, tên thiệt là chợ Sài Gòn, nằm trên cái bến ngay hào thành Sài Gòn xưa.
Bến xe đò Lục Tỉnh đầu tiên là bến xe bên hông chợ Bến Thành.
Chợ Bến Thành Tây viết là“ Le Marche Central”, dân Nam Kỳ kêu là chợ Bến Thành, chợ Sài Gòn hay chợ Mới.
Chợ Mới được hãng Brossard et Maupin xây dựng trên cái ao Bồ Rệt (Marais Boresse) từ năm 1912 đến năm 1914 thì hoàn tất.
Cái chợ nằm giữa bốn cái lộ.
Mặt tiền day mặt về hướng chánh Nam theo Kinh Dịch là con lộ Place Cuniac (Bùng binh Chợ Bến Thành -Công trường Cộng Hòa-Công trường Diên Hồng-Quảng trường Quách Thị Trang).
Mặt bắc chợ là Rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn).
Mặt tây là Rue Schroeder(Phan Châu Trinh).
Phía đông là Rue Viénot (Phan Bội Châu).
Hai con lộ bên hông chợ được Pháp làm bến xe đò lục tỉnh.
Lộ cửa Tây Rue Schroeder (Phan Châu Trinh) là bến xe về Miền Tây. Lộ mé đông Rue Viénot (Phan Bội Châu) là bến xe đò về Miền Đông.
Lúc bấy giờ khu chợ Bến Thành là khu trung tâm Sài Gòn, xế bên có ga xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho thì hành khách từ xe lửa có thể đi bộ qua hông chợ Bến Thành lên xe đò đi các nơi.
Tới những 1940 vẫn còn bến xe hai bên hông chợ Bến Thành.
Sau đó Pháp cho tản bến xe ra khỏi khu vực chợ Bến Thành để giữ văn minh đô thị.
Bến Miền Tây về bến xe Lục Tỉnh Petrus Ký, bến xe Chợ Lớn Bình Tây.
Bến Miền Đông dời về bến xe Nguyễn Cư Trinh, bến xe Nguyễn Thái Học.
Tới những năm 1960 thì chuyển hết về bến xe Petrus Ký.
Rồi thì bến xe Petrus Ký quá tải, xe đi Miền Tây được dời ra Phú Lâm gọi là Xa cảng Miền Tây.
Các hãng xe đò ngày trước ở Sài Gòn rất mạnh, họ chạy xuống Miền Tây, ra Miền Trung, thành ra thuật ngữ “xe đò” vang danh thiên hạ.
Bến xe đò, bến xe lam, bến xe lô.
Xe lô là nói tắt từ “lô ca xông”, tiếng Pháp là location. Đây là loại xe chạy nhanh hơn xe đò, chở ít khách, hàng hóa hơn xe đò.
Xe lô xưa thường của hãng Citroen sản xuất, nó dài, tiêu chuẩn là 7 tới 8 hành khách, nhưng sốp phơ hay nhét trên 10 người cho đủ sở hụi.
Có cả thảy 20 tỉnh ở Nam Kỳ ghép thành vần:
“Gia, Châu, Hà
Rạch, Trà, Sa, Bến
Long, Tân, Sóc, Thủ, Tây, Biên
Mỹ, Bà, Chợ, Vĩnh, Gò, Cần, Bạc. “
Sau thêm Cấp là Vũng Tàu.
Bến xe đò thì không phải tỉnh nào cũng có,nhưng bến xe lam, bến xe lô thì tỉnh nào cũng có.
Tại Lục Tỉnh xưa có rất nhiều bến xe lam.
Mà đi xe lam cũ rất vui, ông lái xe lam phải khởi động bằng cái cây sắt chọt vô cái lỗ đầu xe mà quây nhiều vòng.
Sau thì có xe lam đạp máy tành tạch. Có nhiều khi không nổ máy khách phải hì hụi phụ đẩy.
Xe lam chở nhiều bị nhổng đít, cái đầu chổng lên trời hoài.
Trở lại đề tài “lơ xe”.
Muốn làm lơ xe phải có sức khỏe vì phải trèo lên trèo xuống từ mặt đất lên mui.
Lơ thường đứng hoặc ngồi bẹp dưới sàn vì ghế là của khách đi xe.
Làm lơ xe nhà thường nghèo, vì có nhà giàu nào cho con đi làm cái thứ “lơ xe”.
Tuy nhiên đã có nhiều cuộc tình giữa lơ xe trẻ và nữ hành khách đi xe đò thường, từ gặp rồi quen, giúp bưng đồ riết thương nhau luôn.
Sau 1975 khi cộng sản quản lý Miền Nam kiểu ngăn sông cấm chợ, mấy bà bán đường dài phải o bế ông bán vé xe và ông lơ xe.
Chơi “líp ba ga” với khách thì sẽ có tình thôi.
Trong lịch sử chánh trị thế giới có một ông chủ tịch nước Lào ngày xưa hoạt động nhờ nghề đi lơ xe đò, mà ông này có máu người Việt mới vui !
Hàng ngày không thể thiếu những chuyến xe đò đường dài nối các tỉnh, cũng như không thể thiếu anh lơ xe
Nhiều bà đi bộ ghét lơ xe, bả đi ngoài đường xe đò trờ tới, lơ xe ló cái đầu ra nẹt bả: “Đi đứng gì mà tè le ra đường, muốn ch-ết hả má?”
Bả bực quá chửi lại:
“Ch-ết bà n-ội mày, đồ…cái thứ lơ xe!”
Đúng là cái thứ lơ xe!
( Nhắc mà nhớ, trời ơi sao mà mới như hôm qua vậy cà?)
From: KimTrong Lam
LỢI KHÍ CỦA LỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!”.
McCheyne viết cho Edwards, một tân linh mục, “Xét về độ tinh khiết và sự hoàn hảo của một dụng cụ, bạn sẽ thành công! Tuy nhiên, điều đó không đến từ những tài năng Chúa ban cho bằng việc bạn ‘nên giống Chúa Giêsu’ mỗi ngày! Giống Ngài, bạn trở nên một vũ khí khủng khiếp trong tay Thiên Chúa; bởi lẽ, bạn đã là một lợi khí của Lời!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay tiết lộ, “Việc trở nên một vũ khí khủng khiếp trong tay Thiên Chúa” là điều mà người môn đệ mọi thời phải ao ước! Giêrêmia, thời Cựu Ước; bạn và tôi, thời Tân Ước, chúng ta cần ‘mở miệng’ – nên một ‘lợi khí của Lời’ – nói cho mọi người thông điệp của trời, “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa; Người phán, ‘Các ngươi chớ cứng lòng!’” – Thánh Vịnh đáp ca.
Giêrêmia được gọi, được chọn, được sai đi tường thuật cho dân những gì Chúa nói với ông, “Ngươi sẽ nói với chúng tất cả những điều ấy!”; “Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy!” – bài đọc một. Tin Mừng tường thuật việc Chúa Giêsu trừ một quỷ câm; trước khi được chữa, người câm dường như bị quỷ chiếm hữu hoàn toàn, đến nỗi anh mất khả năng nói; nhưng sau khi được lành, anh nói rành rọt!
Với sự kiện này, chúng ta tự hỏi, rất nhiều người đang rối bời trong cuộc sống; rất nhiều người đang thấy mình đi trên một con đường không lối ra, dẫn đến lầm lạc và huỷ hoại; không chỉ mất khả năng nói, họ còn mất khả năng nghe. Tắt một lời, rất nhiều người cần nghe Tin Mừng! Bạn và tôi vẫn thản nhiên nhìn họ bị trói buộc sao? Vậy điều gì cản trở bạn và tôi nói Lời của Chúa cách cởi mở, trung thực và rõ ràng?
Vậy phải chăng chính chúng ta ít nhiều cũng bị Quỷ Câm ám? Và dẫu không chịu tác động của quỷ ở mức tương tự, chúng ta vẫn thường bị nó cản trở cách này cách khác? Nó thường tìm cách tác động theo hướng khiến chúng ta sợ hãi loan báo Lời cách tự do, chân thành và tức thời; nó luôn áp lực, khiến chúng ta bối rối, do dự mỗi khi có cơ hội. Và dù hiếm khi rơi vào quyền lực của nó hoàn toàn, chúng ta vẫn thường bị nó tác động đến nỗi mất khả năng nói. Đang khi lẽ ra, chúng ta phải nói Lời bất cứ khi nào, với bất cứ ai, ở bất cứ nơi đâu!
Anh Chị em,
“Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!”, đó là sứ điệp chúng ta kêu mời; nhưng trước hết, là sứ điệp gửi cho chính bạn và tôi! Mỗi ngày Chúa Giêsu ban Lời, Ngài mong chúng ta trở thành những môn đệ tín trung biết lắng nghe Lời, được Lời biến đổi, hầu trở nên một ‘Lời Giêsu’ khác. Bấy giờ, trong tay Chúa, chúng ta là một vũ khí khủng khiếp, không phải để gieo tai rắc hoạ nhưng đem cho thế giới bình an và yêu thương! Điều này không tuỳ thuộc vào khả năng Chúa ban nhưng tuỳ thuộc hoàn toàn vào việc chúng ta có nên giống Chúa Giêsu không! Bị quỷ ám, chúng ta không có khả năng nói, không muốn nói; thậm chí, không dám nói… chỉ vì chưa nên giống Chúa Giêsu. Hãy để Ngài chữa lành, sử dụng bạn như một lợi khí thánh – ‘lợi khí của Lời’ – của sự thật và tình yêu!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Giêsu, đừng để con giống ‘một cán bộ’ hay bất cứ ai trừ một mình Chúa. Và như thế con sẽ là một vũ khí khủng khiếp trong tay Chúa!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
FRom: Kim Bang Nguyen
**************************************
Thứ Năm Tuần III Mùa Chay
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
14 Khi ấy, Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. 15 Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.” 16 Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. 17 Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói: “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. 18 Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?… bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. 19 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 20 Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. 21 Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22 Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
23 “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.”