THÂN TÌNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Lạy Cha chúng con!”.

Mọi người đều cần sự công nhận cho thành tích, nhưng ít ai nói rõ thất bại của mình! Một cậu bé thưa, “Ba ơi, chơi phi tiêu! Con ném tốt, ba sẽ la lên, ‘Tuyệt!’; và con thích nhất, mỗi khi con ném trật, ba cười rồi hét, ‘Gần trúng!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Gần trúng!’, thân tình làm sao! Lời Chúa hôm nay cho thấy điều Thiên Chúa muốn chúng ta có trong tương quan với Ngài – một sự ‘thân tình’ giữa Cha với con, giữa bạn với bạn!

Trước hết, cuộc tranh luận ‘thân tình’ giữa Thiên Chúa và Giôna, một kẻ vừa được cứu – và một lần nữa – được sai đi Ninivê. Đến nơi, thấy bao điều xấu xa, Giôna giận dữ và xin được chết đi nếu Chúa tha cho thành. “Lòng thương xót là sẵn sàng bước vào cơn hỗn loạn của người khác!” – James F. Keenan. Chúa phân trần, “Ngươi nổi giận như thế có lý không?”. Ngài cho một cây thầu dầu mọc lên, che nắng cho ông; sau đó, sai một con sâu cắn ngang, cây khô héo, “Ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó… Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê?”. Giôna phải học biết Ngài, Đấng “chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” – Thánh Vịnh đáp ca.

Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho thấy sự ‘thân tình’ đó khi dạy các môn đệ kinh Lạy Cha. “Khi bạn thưa lên ‘Lạy Cha’, tai của Thiên Chúa chạm xuống môi bạn!” – Anrê Bessette; “Nhiều điều đã xảy ra tức khắc, bây giờ và sau đó, chỉ bởi một lời ‘Lạy Cha’ cất lên từ trái tim!” – Têrêxa Ávila; “‘Lạy Cha’, một lời cầu nguyện khi linh hồn tôi cằn cỗi đến nỗi không có một suy nghĩ nào đáng giá!” – Têrêxa Lisieux. Trong Thánh Lễ, Linh mục mời dân Chúa đọc kinh Lạy Cha, “Chúng ta dám nguyện rằng”. Đó là một lời mời ‘khá liều lĩnh’ khi con người dám thưa lên với Chúa một danh xưng quá đỗi ‘thân tình!’.

Chúa Cha muốn chúng ta táo bạo như Giôna, mạnh dạn như Chúa Giêsu khi dám gọi Ngài là Cha, là bạn, hầu đến bên Ngài với sự tự tin của một em bé. Em bé không sợ; đúng hơn, nó có niềm tin rằng, cha mẹ yêu chúng dù chúng thế nào! Cả khi có lỗi, chúng biết, chúng vẫn được yêu. Đây phải là ý thức căn bản khởi đầu cho mọi giờ, mọi phút, mọi nơi khi chúng ta bắt đầu cầu nguyện! “Những lời cầu nguyện táo bạo làm vinh danh Thiên Chúa, và Thiên Chúa tôn vinh những lời cầu nguyện táo bạo!” – Mark Batterson.

Anh Chị em,

“Lạy Cha chúng con!”. Cầu nguyện không chỉ là nói cho đủ, mà là ở lại cho sâu với một Thiên Chúa không xa cách, nhưng ‘thân tình’ như người Cha chơi phi tiêu khen đứa con, như hai người bạn ngồi trách nhau. Đừng quên, trong cuộc sống, Chúa vẫn gieo những ‘cây thầu dầu’ – đôi khi là niềm vui, thử thách, mất mát. Chúng mọc lên rồi héo đi, không để làm khổ, mà để dạy chúng ta tin cậy hơn, yêu mến hơn, và bám vào Ngài hơn chứ không vào những bóng mát chóng qua. Ở đó, bạn và tôi học biết Ngài là Thiên Chúa, là Thầy, là bạn và là một người Cha muốn uốn nắn chúng ta theo cách của Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con thường ‘ném trật’, Chúa thường vờ khen. Chúa biết, chính trong những trầy trật ấy, con mới chạm được vào lòng thương xót dịu dàng của Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

****************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên, Năm Lẻ

Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,1-4

1 Khi ấy, Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” 2 Người bảo các ông : “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói :

“Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,

Triều Đại Cha mau đến,

3xin Cha cho chúng con

ngày nào có lương thực ngày ấy ;

4xin tha tội cho chúng con,

vì chính chúng con cũng tha

cho mọi người mắc lỗi với chúng con,

và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”


 

Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Cha Vương

Mến Chúc Bạn và gia đình một ngày bình an trong Chúa và Mẹ nhé. Hôm nay 7/10 Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Như Cha Thánh Pio khuyên: “Hãy yêu mến Đức Mẹ và hãy lần chuỗi Mân Côi, vì Kinh Mân Côi là vũ khí chống lại sự dữ của thế giới hôm nay.” Mời bạn hãy cầm lấy vũ khi’ để chống lại sự dữ nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 07/10/2025.  t7 – 23

         Ngày 7 tháng 10  năm 1571 đạo binh Công Giáo đã chiến thắng quân Hồi, toan xông vào xâm chiếm nước Ý, tại vùng Lepante. Đức Giáo Hoàng Piô thứ V đã từ điện Vatican thị kiến trận chiến này. Để ghi nhớ ơn ấy Ngài đã lập lễ “Đức Bà Thắng Trận” ( Notre Dame de la victoire), sau đổi thành lễ Đức Bà Rất Thánh Mân Côi, và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Đức bà phù hộ các giáo hữu. Cầu cho chúng con.”

         Hai năm sau , năm 1573, Đức Giêgôriô XIII muốn đặc biệt kính nhớ chiến thắng Lepane, đã truyền mừng lễ Mân Côi trọng thể vào Chúa Nhật đầu tháng 10, tại các nhà thờ có hội Mân Côi và bàn thờ kính dâng Đức Mẹ Mân Côi.

         Năm 1716, Đức Clêmentê XI truyền mừng lễ Đức Bà Mân Côi trọng thể trong khắp Giáo Hội, để kính nhớ ơn chiến thắng tại vịnh Belgrade nhờ việc giáo hữu lần hạt Mân Côi kính xin Đức Mẹ. Năm 1888, Đức Lêô XIII quyết định nâng lễ Mân Côi lên bậc “ kép hạng nhất” (Dup lex primae classis) mừng ngày 7 tháng 10 và kính trọng thể Chúa Nhật đầu tháng 10.

        Ngày 2-2-1974, Đức Phalô VI trong tông huấn “ Tôn Sùng Đức Maria” ( Marialis Cultus) vẫn nhìn nhận lễ Mân Côi mừng ngày 7 tháng 10 vì lý do chính lễ này là sự tham dự mật thiết của Đức Maria vào những mầu nhiệm Chúa Kitô, mà kinh Mân Côi là điển hình. (MC 8)

       Đến năm 1913, thì lễ này được đức Pio X định vào ngày 7-10 mỗi năm. Tước hiệu “Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu” được thêm vào trong kinh cầu Đức Bà từ đó. ( Nguồn: mạng—mancoichihoa)

       Tôi tớ Chúa (tu sĩ) Joseph Kentenich nói: “Kinh Mân Côi là phương dược hiệu nghiệm cho thời hiện đại. Kinh Mân Côi sẽ ảnh hưởng lên những biến cố của thế giới hơn bất cứ những cố gắng ngoại giao, và cũng có tác động lên đời sống công cộng hơn tất cả mọi cố gắng của bất cứ tổ chức nào.” Vậy hôm nay mời Bạn cộng tác với mình hãy chạy đến Mẹ Maria qua Kinh Mân Côi nhé để cầu nguyện cho cho nền hòa bình trên trên thế giới.

   Sau đây là 15 điều Đức Mẹ đã hứa, qua thánh Dôminicô, cho những ai siêng năng đọc kinh Mân Côi

Mời bạn đọc và coi đây là một lời mời khẩn thiết “hãy chạy đến Mẹ!” trong thời gian sáo trộn này nhé:

1- Những ai đọc kinh Mân Côi sẽ nhận được những ơn cao cả.

2- Mẹ hứa sẽ phù trợ đặc biệt, và ban nhiều đặc ân cho những ai đọc kinh Mân Côi.

3- Kinh Mân Côi sẽ là áo mã giáp chống lại hỏa ngục, phá tan các ngụy thuyết.

4- Kinh Mân Côi là phương tiện thánh hóa các linh hồn.

5- Linh hồn nào đến với Đức Mẹ bằng kinh Mân Côi, sẽ không bị hư mất.

6- Ai đọc kinh Mân Côi sẽ không bị rủi ro, chết bất đắc kỳ tử.

7- Những ai tôn sùng Kinh Mân Côi sẽ được chịu các phép bí tích trong giờ

chết.

8- Ai mộ mền chuỗi Mân Côi, khi lâm tử sẽ được chia sản nghiệp trên thiên

đàng.

9- Mẹ sẽ cứu khỏi luyện ngục cho những ai siêng năng đọc kinh Mân Côi.

10- Con cái trung thành với kinh Mân Côi, sẽ được hưởng vinh quang trên trời.

11- Nhờ lần hạt Mân Côi, Mẹ sẽ ban cho hết những gì mình xin.

12- Những ai truyền bá chuỗi Mân Côi, được Mẹ giúp đỡ trong những lúc khó khăn.

13- Những ai truyền bá chuỗi Mân Côi, được cả thiên quốc cầu bầu khi sống và khi chết.

14- Những ai đọc kinh Mân Côi đều là con cái Mẹ và anh em với Chúa Giêsu.

15- Tôn sùng chuỗi Mân Côi là dấu chắc chắn được ơn cứu rỗi.

From: Do Dzung

**********************

Ave Maria Trăng Từ Bi

Nhân viên “ăn cắp” đồ ăn của công ty-Truyen ngan HAY

KimTrong Lam

Nhân viên “ăn cắp” đồ ăn của công ty

Một quyết định tưởng chừng đúng…

Tôi là giám đốc vận hành của chuỗi thức ăn nhanh Sabor Express ở trung tâm thành phố. Năm năm qua, tôi quản lý mọi thứ rất chặt chẽ: từ kho bãi, nhân viên cho đến từng con số thất thoát. Tất cả vận hành trơn tru như một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ.

Cho đến một buổi sáng tháng Ba.

— Thưa ông Ramírez, tôi có chuyện phải nói, — Carlos, giám sát ca đêm bước vào, mặt nghiêm trọng. — Chuyện của Marta.

Marta Villanueva. 42 tuổi, mẹ đơn thân, làm việc năm năm không một sai sót, luôn đúng giờ.

— Marta thì sao? — tôi hỏi.

Carlos đặt điện thoại lên bàn. Trên màn hình là đoạn camera: Marta lén cho đồ ăn vào túi lớn, ánh mắt thấp thỏm nhìn quanh.

— Tôi thấy cô ấy làm ba đêm liền, — Carlos nói. — Toàn là gà rán, hamburger, khoai tây chiên… những đồ thừa của ca.

Một cơn thất vọng và tức giận trào lên trong tôi. Sự phản bội luôn đau hơn khi nó đến từ người mình tin tưởng.

— Gọi cô ấy đến gặp tôi trước ca ngày mai.

Hôm sau, Marta ngồi trước mặt tôi, hai bàn tay đặt lên đầu gối, mắt nhìn xuống. Chỉ một đêm mà trông cô ấy như già đi cả chục tuổi.

— Marta, cô biết vì sao mình ở đây chứ? — tôi cố giữ giọng lạnh lùng.

Cô khẽ gật đầu, mắt ướt.

— Chúng tôi đã kiểm tra, số liệu không khớp. Giờ thì rõ rồi.

— Thưa ông, tôi có thể giải thí—

— Không cần, — tôi cắt ngang. — Camera đã ghi lại. Cô biết rõ đây là hành vi ăn cắp.

Marta bật khóc:

— Tôi xin ông, tôi cần công việc này. Tôi còn các con…

— Ai mà chẳng cần làm việc, Marta. Nhưng thế không có nghĩa là được ăn cắp. Cô có biết công ty mất bao nhiêu vì những việc này không?

— Nhưng đó chỉ là đồ ăn sắp vứt đi mà…

— Điều đó không quan trọng! — tôi quát. — Đồ ăn còn ở đây là của công ty, cho đến khi bỏ thùng rác. Đây là lý do cho thôi việc ngay lập tức. Thu dọn đồ đi.

Marta đứng dậy, nước mắt chảy dài:

— Cầu Chúa phù hộ cho ông, — cô thì thào rồi bước ra.

Trong cuộc họp nhân viên, tôi tuyên bố:

— Marta Villanueva đã bị cho thôi việc vì ăn cắp hàng hóa.

Có tiếng xì xào, vài người gật gù.

— Làm đúng đấy sếp, — Roberto, bếp chính nói. — Phải nghiêm với loại chuyện này.

— Chuẩn, — Sandra, thu ngân tiếp lời. — Nếu bỏ qua một lần thì sẽ loạn hết.

Tôi cảm thấy yên tâm. Mình đã làm đúng.

Ba ngày sau, Rosa, một nhân viên ca đêm, tìm gặp tôi, mắt đỏ hoe:

— Ông Ramírez, tôi cần nói về Marta.

— Quyết định đã xong rồi, Rosa.

— Xin ông nghe tôi một lần.

Cô đưa điện thoại: một bức ảnh Marta trong bộ đồng phục, đang phát đồ ăn cho trẻ em ở một mái ấm.

— Marta làm tình nguyện ở nhà ăn San Francisco. Tất cả đồ ăn cô ấy mang đi đều là phần công ty định bỏ. Cô ấy đem cho trẻ em nghèo, những gia đình không có gì để ăn.

Tim tôi như chùng xuống.

— Sao cô ấy không xin phép?

— Cô ấy đã xin, cách đây nửa năm. Ông đã từ chối. Ông nói nào là luật, nào là thủ tục…

Hình ảnh lờ mờ hiện lại trong đầu tôi: hôm ấy Marta nói chuyện, tôi vừa nghe vừa gõ máy tính, rồi buông một tiếng “không được đâu”.

— Nhưng cô ấy vẫn tiếp tục…

— Vì cô ấy nói: “Nếu phải chọn giữa tuân theo quy định và để một đứa trẻ đi ngủ với cái bụng đói, tôi sẽ chọn đứa trẻ.”

Đêm đó tôi trằn trọc. Ba giờ sáng, tôi tìm trang Facebook của San Francisco.

Ở đó, Marta cười tươi, phát thức ăn cho trẻ em và người già. Những lời cảm ơn viết dưới ảnh:

“Nhờ chị Marta mà chúng tôi không bao giờ thiếu bữa.”

“Chúa phù hộ người phụ nữ luôn đem cơm cho chúng tôi mỗi tối.”

Sáng hôm sau, tôi gọi ngay phòng Nhân sự:

— Tôi muốn hủy một quyết định sa thải.

Tôi đến tận nhà Marta. Căn hộ cũ, tầng năm không thang máy.

Marta mở cửa, ánh mắt hoảng sợ:

— Ông Ramírez, tôi không trở lại làm—

— Marta, tôi đến để xin lỗi. Và mời cô quay lại. Với mức lương cao hơn.

— Gì ạ?

— Tôi cũng đã bàn với giám đốc khu vực. Từ nay, Sabor Express sẽ chính thức quyên góp đồ ăn thừa cho mái ấm San Francisco. Hợp pháp, có giấy tờ đầy đủ. Và cô sẽ phụ trách chương trình này.

Marta ôm mặt khóc nấc:

— Tôi… tôi không biết nói gì.

— Cô chỉ cần nói đồng ý.

Thứ Hai, tôi lại họp nhân viên:

— Tuần trước tôi nói Marta bị đuổi vì ăn cắp. Hôm nay, tôi phải thú nhận: chính tôi mới là kẻ đã lấy mất của cô ấy. Lấy mất công việc, lấy mất phẩm giá, và suýt nữa là cả cơ hội giúp đỡ những người đói khổ.

Cả phòng im phăng phắc.

— Số đồ ăn mà cô ấy “lấy cắp” là để đem cho trẻ em, người già, những gia đình không có gì. Marta đã dám làm vì lương tâm mạnh mẽ hơn quy định của tôi.

Tôi dừng lại. Rồi nói rõ:

— Marta sẽ quay lại hôm nay. Và tôi mong mọi người chào đón cô ấy như cô ấy xứng đáng.

Cửa mở. Marta bước vào. Tràng pháo tay vang lên, ban đầu còn lác đác, rồi ngày càng lớn dần.

Sáu tháng sau. Chương trình quyên góp được nhân rộng sang nhiều chi nhánh. Công ty nhận giải thưởng về trách nhiệm xã hội. Nhưng quan trọng nhất: nhà ăn San Francisco nuôi được hơn 200 người mỗi ngày.

Còn tôi, tôi học được một bài học: làm lãnh đạo không chỉ là giữ luật, mà còn là biết khi nào phải đặt tình người lên trên luật.

Mỗi lần thấy Marta bước ra với những túi thức ăn nay in logo công ty, tôi lại nhớ tới sai lầm của mình. Và thầm cảm ơn vì đã kịp sửa chữa.

Bởi những gì chúng tôi định bỏ đi không chỉ là thức ăn.

Đó còn là cơ hội để thay đổi cuộc đời một ai đó.

St


 

“Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi”

“Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi”.

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

Anh em thân mến, miễn là Ðức Kitô vẫn được rao giảng, đó là điều làm tôi vui mừng, và tôi sẽ còn vui mừng mãi. Vì chưng tôi biết rằng nhờ lời cầu nguyện của anh em, và nhờ ơn Thánh Thần của Ðức Giêsu Kitô giúp sức, điều đó sẽ đưa tôi đến ơn cứu độ, theo sự tôi chờ đợi và hy vọng, tôi sẽ không hổ thẹn chút nào, trái lại tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng như mọi khi, và giờ đây, dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi.

Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em.

Một khi tin tưởng điều đó, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ lưu lại với tất cả anh em, để anh em được tấn tới và được hân hoan trong niềm tin, ngõ hầu anh em vì tôi mà được tràn đầy hiên ngang trong Ðức Kitô, bởi tôi trở lại với anh em một lần nữa.

https://www.giaophanlongxuyen.org/TaiLieu/gkpv/2022.10/tn30%20t7bd.htm

21 tổ chức quốc tế thúc giục CSVN trả tự do cho Phạm Đoan Trang

Ba’o Nguoi-Viet

October 6, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Hai mươi mốt tổ chức quốc tế thúc giục các chính phủ trên thế giới áp lực buộc chế độ Hà Nội trả tự do vô điều kiện cho nhà tranh đấu, blogger Phạm Đoan Trang.

Các tổ chức này cùng đứng tên chung trong một bản kêu gọi gửi cho cộng đồng thế giới, gồm cả các chính phủ, vận động họ cùng đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN chấm dứt đàn áp bà Phạm Đoan Trang nhân dịp bà bị bỏ tù đã năm năm.

Logo của các tổ chức quốc tế thúc CSVN trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang nhân dịp bà bị bỏ tù đã năm năm. (Hình: CPJ)

Bà Phạm Đoan Trang, 47 tuổi, bị Công An CSVN bắt ở Sài Gòn ngày 6 Tháng Mười, 2020, đưa về giam tại Hà Nội. Hơn một năm sau, ngày 14 Tháng Mười Hai, 2021, bà mới bị đưa ra tòa kết án chín năm tù. Bà bị giam tại nhà tù An Phước thuộc tỉnh Bình Dương, nay khu vực này bị sáp nhập vào thành phố Sài Gòn.

Trước khi bị bắt, bà là một trong những blogger, nhà báo độc lập nổi tiếng tại Việt Nam. Các bài viết, phân tích thời sự xã hội rất sắc sảo của bà trên mạng xã hội được hàng trăm ngàn người theo dõi. Bà cũng là tác giả của một số quyển sách nổi tiếng như “Chính Trị Bình Dân,” “Cẩm Nang Nuôi Tù,” “Phản Kháng Phi Bạo Lực,” “Báo Cáo Đồng Tâm,”…

Bà từng được chính phủ Mỹ qua Bộ Ngoại Giao vinh danh là một trong những “Phụ Nữ Can Đảm” trên thế giới năm 2022 vì bà cổ võ nhân quyền, sự bình đẳng pháp luật cũng như quyền tự do phát biểu chính kiến tại Việt Nam. Bà từng bị Công An CSVN hành hung, đánh đập rất dã man nhiều lần đến mang thương tật nhưng không hề sợ hãi hay chùn bước trước bạo lực cường quyền.

Bà là một trong những sáng lập viên của tờ Luật Khoa tạp chí. Báo này hiện vẫn xuất bản trên mạng dù bà đang ở tù. Nhờ dùng ngòi bút đấu tranh không ngừng nghỉ, bà được tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF), Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) và một số tổ chức quốc tế khác vinh danh và trao tặng giải thưởng vì vận động quyền tự do báo chí, phát biểu.

Người ta thấy trong số 21 tổ chức đứng ra vận động đòi trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang có RSF, CPJ, PEN Ameriaca, PEN International, VCHR, AI (Amnesty International), Freedom House, Vietnam Human Rights Network…

“Bà Phạm Đoan Trang bị bỏ tù chỉ vì những gì bà làm trong tư cách của một nhà báo để rồi bị giam giữ tù đày trong những điều kiện sống tồi tệ,” lời kêu gọi của 21 tổ chức quốc tế viết.

Bà Phạm Đoan Trang tại phiên tòa sơ thẩm ngày 14 Tháng Mười Hai, 2021. (Hình: VNExpress)

Lời kêu gọi gửi cộng đồng quốc tế của 21 tổ chức viết rằng: “Bản án rất nặng mà CSVN áp đặt cho bà Phạm Đoan Trang cũng không thể xóa bỏ được cuộc đấu tranh cho tự do báo chí và quyền tự do thông tin tại Việt Nam.”

Bởi vậy “sau năm năm bị cầm tù, việc công nhận lòng can đảm phi thường và tinh thần làm báo nghiêm túc của bà quan trọng hơn bao giờ hết. Đã đến lúc cộng đồng quốc tế gia tăng áp lực để CSVN phải trả tự do cho bà.”

Trong khi bà còn bị giam giữ, họ kêu gọi cộng đồng quốc tế buộc CSVN phải bảo đảm sự an toàn, không được khủng bố tinh thần, đồng thời phải để bà được chữa trị đầy đủ các thứ bệnh và thương tật tại các cơ sở y khoa độc lập cũng như tham vấn với các luật sư riêng được bà lựa chọn.

Không những đòi trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang, các tổ chức trên còn kêu gọi cộng đồng quốc tế áp lực đòi CSVN thả tất cả các tù nhân luông tâm hiện cũng đang bị cầm tù như bà tại Việt Nam. (NTB) [kn]


 

KÍNH KÍNH MỪNG TRONG THÁNG MÂN CÔI-Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Tháng Mười, Tháng Mân Côi, chúng ta thấy một hình ảnh truyền thống tuyệt đẹp về Ðức Bà Mân Côi, một tay bồng Chúa Giê-su Hài Ðồng, còn tay kia thì trao Tràng Chuỗi Mân Côi cho thánh Ða-minh, chứng tỏ rằng kinh Mân Côi là một phương thế được Ðức Mẹ ban cho nhân loại qua thánh Đa-minh, để con cái Chúa nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một hơn. 

Ma-ri-a đầy ơn phúc 

“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc” là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường đọc.  Nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gáp-ri-en chào Đức Ma-ri-a lúc truyền tin: “Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Ê-li-sa-bét: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giê-su con lòng Bà gồm phúc lạ.” 

Những lời của sứ thần Gáp-ri-en và của bà Ê-li-sa-bét trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Mẹ.  Đồng thời, Giáo hội thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.”

 Quả Phúc Giê-su 

Hằng ngày, khi đọc lại lời chào của thiên thần và lời chào của bà Ê-li-sa-bét chúng ta khám phá ra Quả Phúc nơi cung lòng Đức Mẹ là Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể làm người.  Đây chính là hoa trái mà tiên tri I-sai-a đã báo trước: “Ngày đó, chồi non Đức Chúa cho mọc lên sẽ là vinh quang và danh dự, và hoa màu từ ruộng đất trổ sinh sẽ là niềm hãnh diện và tự hào” (Is 4,2).  Người Con ấy thuộc miêu duệ Abraham, đã xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít, được đầy tràn Thần Khí Chúa.  Thiên Chúa đã đặt nơi Người muôn phúc lành và muôn dân nhờ Người mà được chúc phúc, như có lời chép: “Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61,11). 

Kinh Kính Mừng trong Tháng Mân Côi 

“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc.” “Mẹ đầy ơn phúc” (Lc 1, 28), vì từ đời đời Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế và gìn giữ Mẹ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, nên nơi Mẹ không có chỗ cho tội lỗi.  Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Ga 1,14).  Chúng ta cũng được kêu gọi lắng nghe Chúa nói và đón nhận ý Chúa vào trong cuộc đời Mẹ để trở nên người có phúc như Mẹ. 

Đức Chúa Trời ở cùng Bà 

Chúng ta ca tụng Đức Ma-ri-a là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần chào.  Phúc của Mẹ thật cao vời khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: “Em thật có phúc” (Lc 1,42).  Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng.  Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy đầy ơn phúc. 

Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa.  Nhưng Thiên Chúa ở cùng Đức Mẹ một cách độc nhất vô nhị.  Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Ðền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa loài người.

 Điều đã xảy ra nơi Đức Mẹ Đồng Trinh khi có Thiên Chúa ở cùng, thì cũng xảy ra nơi chúng ta trong mức độ tâm linh.  Chúng ta đón nhận Lời Chúa bằng con tim vui vẻ, chân thành và biết đem ra thực hành.  Chúa Giê-su đã cư ngụ nơi lòng Mẹ, Người cũng đến và ở trong những ai yêu mến và tuân giữ lời Người, đón rước Người khi chịu lễ.  Thế nên Giáo Hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: “Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà” để tôn vinh Mẹ.

 Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ 

Phúc nơi Mẹ trổi vượt hơn hết mọi người nữ vì Mẹ đã đầu tư vốn liếng cả cuộc đời cho thánh ý Thiên Chúa.  Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Ma-ri-a là người hạnh phúc hơn hết vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa. 

Phúc của Mẹ thật khôn ví, vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.  Mẹ có phúc vì Mẹ đã tin như lời bà Ê-li-sa-bét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45). 

Và Chúa Giê-su Con lòng Bà gồm phúc lạ 

Ở mức độ tự nhiên, Mẹ đón nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi dâng hiến máu thịt mình cho Con Thiên Chúa để Người được hình thành nơi Mẹ. Xét về mặt thiêng liêng, Mẹ đón nhận ân sủng và đáp lại điều đó bằng đức tin của mình”. Về điều này thánh Au-gút-ti-nô giải thích rằng: Đức Trinh Nữ “trước hết đã thụ thai trong tâm hồn và sau là trong cung lòng Mẹ. Mẹ đã thụ thai trước là đức tin và sau là Thiên Chúa”.

 Bằng việc đón nhận hài nhi Giêsu để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Thánh Tử, Đấng là Hồng Phúc ngay trong lòng mình.  Mẹ trở nên người gồm phúc lạ.  Mẹ có phúc vì được làm Mẹ Đức Giêsu.  Mẹ của chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người (x. Ga 1,14; Mt 1,23).  Mẹ hạnh phúc hơn vì đã trở thành môn đệ Chúa, như lời Chúa Giêsu Con Mẹ đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). 

Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời 

Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời.  Chỉ Thiên Chúa là Ðấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.  Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Ðức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.  Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Ðức Giêsu, nhưng chính Chúa Giêsu lại mời gọi ta làm mẹ của Người: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). 

Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử 

Hành trình tiến về quê Trời của Đức Maria đã bắt đầu “từ tiếng thưa “vâng” ở Nazareth, khi đáp lại lời của Sứ thần Gabriel, người đã loan báo cho Mẹ biết ý muốn của Thiên Chúa.  Và thực sự là như thế, mỗi khi chúng ta thưa “xin vâng” theo ý Thiên Chúa là chúng ta tiến một bước về quê Trời, tiến về cuộc sống vĩnh cửu.”  Chúng ta hãy phó thác cho Đức Ma-ri-a cuộc sống hiện tại và tương lai.  Chẳng có gì Ðức Ma-ri-a được hưởng mà chúng ta lại không được dự phần.  Amen. 

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

From: Langthangchieutim


 

 Người Việt Đi Nước Ngoài – Người Buôn Gió

Kimtrong Lam

Người Buôn Gió.

Đất nào sinh ra tôi

Mẹ hiền nào nuôi thân tôi

Miền nào nuôi thân tôi

Mà giờ này tôi xa rồi

Quê Hương Bỏ Lại là nhạc phẩm mà các ca sĩ hải ngoại di tản theo dạng thuyền nhân sau năm 1975 thường trình bày gây xúc động kiều bào vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Nội dung nhạc phẩm trải nỗi lòng của những người tị nạn rời xa quê hương, họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và không hẹn ngày trở lại.

Hơn 30 năm sau, nhiều người trong số họ đã trở về từ Khánh Ly, Chế Linh đến các ca sĩ trẻ hơn như Mạnh Quỳnh, Phi Nhung.

Nhưng làn sóng người Việt rời xứ sở ra đi ngày một nhiều hơn, sự ra đi của họ không bi tráng như những thuyền nhân trước kia, họ ra đi trên những chiếc máy bay với một lịch trình cho cuộc sống trước mắt ở xứ người đã được sắp xếp chu đáo bởi các công ty tư vấn, dịch vụ định cư.

Ngày nay trên đường phố quanh khu Bolsa của Nam Cali, thủ phủ của cộng đồng người Việt tị nạn nhan nhản những tấm biển quảng cáo cho dịch vụ định cư, du học, việc làm. Có rất nhiều gia đình quan chức cộng sản đã tìm đến Hoa Kỳ định cư theo diện đầu tư như gia đình Nguyễn Công Khế. Một nữ tổng biên tập một tờ báo ở Việt Nam là Hồ Thu Hồng với cái tên gọi là Beo Hồng cũng đã có mặt trên đất Mỹ từ lâu, tổng biên tập tờ báo Vietnamnet đình đám một thời là Nguyễn Anh Tuấn cũng như Beo Hồng, gia đình Tuấn hiện đã sinh sống tại Mỹ.

Trước mắt các bạn đã thấy ba tổng biên tập của ba tờ báo lớn Việt Nam, những tờ báo hàng ngày vẫn ca ngợi đảng và chính phủ Việt Nam đem lại tăng trưởng, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân, họ đã đưa gia đình đến nơi mà tờ báo của họ từng miệt thị, chửi bới thậm tệ để sinh sống. Những người kế cận họ lại điệp khúc khen chế độ Việt Nam , chửi Mỹ và đánh đấm kiếm tiền đưa gia đình sang Mỹ.

Vô vàn các nghệ sĩ, ca sĩ Việt Nam bằng cách nào đó như kết hôn, hợp đồng lao động đã kiếm cho mình được tấm thẻ xanh trên đất Mỹ.

Bây giờ tôi thường xuyên nhận được tin nhắn hỏi về việc định cư tại châu Âu. Một chủ nhà hàng lớn trong chuyến du lịch đến châu Âu, vốn là người quen cũ, ông ta hẹn tôi uống cà phê và bày tỏ ý định tìm cách định cư tại châu Âu. Dự định của ông là mua nhà bên Hy Lạp với giá khoảng 250 ngàn Euro, chính phủ Hy Lạp đang khủng hoảng về tài chính, họ có chính sách bán nhà và cấp giấy định cư cho những người nước ngoài đến mua nhà. Người mua nhà ở Hy Lạp có giấy tờ đi lại trong khối Schengen tức đi lại trong 27 nước Tây Âu, với giấy tờ này người ta có thể sống và làm việc tại bất kỳ nước nào, miễn có việc làm và nuôi được bản thân không xin trợ cấp.

Rẻ hơn nữa là Latvia, với khoảng 150 nghìn Euro mua nhà bạn có thể sở hữu được tấm giấy phép như vậy.

Còn ở Đức thì giá đắt hơn, một gia đình có thể phải mất đến vài trăm ngàn để làm một dự án kinh doanh, nhà hàng, công ty tạo việc làm để đưa cả một gia đình đi.

Đỗ Liên, đại sứ danh dự Việt Nam ở Châu Phi, chủ hãng bảo hiểm AAA khi xưa nay đang cùng chồng sau sở hữu một nhà hàng lớn ở ngay trung tâm Berlin. Liên cùng chồng sau là Toàn và các con cái đã sống ở đây vài năm, họ vẫn đi đi về về Việt Nam điều hành việc làm ăn ở nhà. Quán của vợ chồng Toàn Liên sau vài năm mở để đưa cả gia đình sang, hiện đã sang bớt cổ phần cho Quán Ngon. Số tiền vợ chồng Toàn Liên chuyển sang đầu tư đến hàng triệu Euro, riêng phần bếp đã vài trăm nghìn. Có đến hàng trăm, đó là con số tôi có thể biết về những người Việt Nam đầu tư sang Châu Âu để kiếm giấy tờ hợp pháp sinh sống ở châu Âu như vậy.

Ở Hung ngày càng nhiều người Việt hơn, với 60 nghìn euro cho gia đình 4 người và thêm khoảng 100 ngàn euro mua nhà, cả gia đình 4 người đã có giấy tờ. Trước đây Hung còn có chính sách nếu ai mua trái phiếu chính phủ khoảng 3-400 trăm ngàn euro gì đó sẽ được cấp thẻ xanh vĩnh viễn, chương trình này chấm dứt rất nhanh bởi người Trung Quốc nhanh chóng ùa đến. Sau ba năm trở lại Hung, trên con phố đi bộ đắt nhất của thủ đô Hung, bên dòng Đa Nuyp thơ mộng. Những con người từ xứ Tô Châu đã tìm đến đây để sống với một môi trường trong sạch, an toàn không ô nhiễm và đầy bạo lực như quê hương họ.

Đại sứ quán Hung ở Việt Nam không đủ người để giải quyết hàng đống hồ sơ xin mua nhà, xin tạm cư của người Việt.

Ở Hung mua nhà không bị hỏi tiền ở đâu ra, miễn là bạn mua nhà hay bất động sản ở Hung thì bạn có cầm vali tiền mặt đều được chấp nhận. Hình như sau bao nhiên năm gì đó bạn mới được bán đi.

Đấy là những người có tiền, những người ít tiền hơn họ chọn cách ra đi bằng đường du lịch sang Nga và trốn đường rừng vào Ba Lan, Lát Vi A rồi sang đến Đức, nơi có cộng đồng đông đảo người Việt đang sinh sống, những đồng bào cùng miền quê với họ sẽ giúp họ tìm việc làm và đợi thời gian tích luỹ số tiền sẽ hợp pháp hoá giấy tờ trên cơ sở điều luật nhân đạo của Đức như kết hôn, nhận bố, nhận con. Rất nhiều cô gái trẻ người Việt mặt non choẹt đẩy xe nôi trên đường phố Berlin. Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Năm sau cô sinh đứa thứ hai, một người đàn ông Việt chưa có giấy tờ nhận là bố đứa trẻ, anh ta sẽ được giấy tờ và trợ cấp. Với cách thức như thế, càng ngày càng nhiều nam nữ thanh niên Việt Nam tìm đến nước Đức qua con đường trốn từ Nga sang. Từ năm ngoái ở Ba Lan có kiểu những người Việt đi du lịch sang Châu Âu, sẽ đến Ba Lan tìm một công ty dịch vụ làm giấy tờ chứng nhận họ có hợp đồng lao động ở Ba Lan, giá chỉ 2 ngàn euro là có một giấy tạm cư 2 năm tại Ba Lan. Đây là những nghèo khổ, ở quê hương họ không có việc làm, không có tương lai. Họ phải vay mượn, cầm cố đất đai cho những đường dây đưa người lậu để mong đến được nước Đức đổi đời.

Canada và Úc là những nước dễ nhập cư nếu như bạn có hợp đồng lao động. Một phụ nữ có hai đứa con nhỏ , chị kiếm được hợp đồng làm chăm sóc người già ở Canada, thế là chị và hai đứa con giờ ở Canada đã 5 năm. Một thằng em tôi quen trên Facebook, mới ngày nào còn la oai oái việc thanh toán tiền thi công của đối tác chậm ở Việt Nam, nay thấy ung dung đưa ảnh đang ăn hải sản bên Úc với con cua to đùng và gật gù khen ngon và rẻ hơn quê hương có mấy ngàn cây số ven biển của mình.

Những người ra đi sau này họ vẫn đi đi về Việt Nam để kiếm tiền bởi những quan hệ quan chức và các mối quan hệ làm ăn của họ vẫn đang hái ra tiền ở Việt Nam.

Một dự án hàng trăm triệu, hàng tỷ USD ở Việt Nam được thực hiện, tiền vốn chính phủ vay của nước ngoài, nhà thầu nước ngoài được phép thi công, các quan chức Việt Nam được nhà thầu lại quả trung bình 15%. Hãy hình dung chỉ cần dự án 100 triệu là có 15 triệu đủ để cả chục gia đình quan chức Việt Nam có tiền mua đất đai và giấy tờ định cư ở nước ngoài.

Những dự án đó phá hoại môi trường, gây ô nhiễm không khí, đẩy người dân vào cảnh mất đất và giao thông chật chội, hỗn loạn, khiến người dân Việt Nam luôn chất chứa sự uất ức mà chính họ không hiểu nguyên nhân. Sự uất ức đấy tích tụ và thành những hành động tiêu cực khi gặp việc, có thể họ trộn chất độc hại vào thức ăn để bán kiếm lời để lại mối hoạ ung thư tràn lan, hoặc họ rút dao ra đâm nhau khi có chuyện xích mích, hay đường sá và phương tiện với tỉ thứ trong đầu người dân khiến mạng sống con người có thể chấm dứt trong tích tắc trên đường.

Nhưng những người hái khế ưu tú đã có phương án của họ, ra đi để tránh cho gia đình mình phải chịu chung những mối lo như thế ở Việt Nam, quê hương chỉ là nơi họ hái khế phục vụ gia đình mình.

Và càng nhiều những người ra đi như dạng hái khế (không phải người nghèo đi trốn lậu) theo dạng đầu tư như trên, họ để lại đàng sau càng nhiều ô nhiễm môi trường, xã hội loan lạc, bệnh tật ở quê hương Việt Nam.

Người Buôn Gió.


 

 Vực Mắt – Cổ Ngư

Kimtrong Lam

 Vực Mắt –

Cổ Ngư.

Cho tôi lại nhà trường,

Bao nhiêu là người thương,

Không ai thù ai oán,

Ai cũng bảo tôi ngoan…

Kỷ niệm – Phạm Duy

Văng một cái. Thằng bé bật đầu vào bảng, chúi nhào. Má phải và một mảng tóc bệt phấn, nhức buốt. Má trái hằn đỏ dấu tay, bỏng rát. Nó nhìn lên, nước mắt đổ trào. Vì đau, có. Vì ức, nhiều phần hơn. Ðôi mắt lạnh của frère Tuấn, sau cặp kính trắng, khúc xạ qua làn nước mắt mờ mịt, như lồi hẳn ra, ngó xuống đầy vẻ đe doạ. Nó nghe giọng frère nói, vang âm âm giữa những tiếng o o của màng nhĩ:

– Nhật, đứng lên! Em có nhận tội ăn cắp bút của bạn không? Còn chối nữa không?

Nó có ăn cắp đâu mà nhận! Ðứa nào chơi ác, nhét cây Pilot của thằng Ðức ngồi bàn đầu vào cặp nó lúc ra chơi. Ðầu giờ học, sau khi đọc xong kinh «Kính mừng», cả lớp vừa được phép ngồi xuống, nó đang loay hoay lôi cuốn tập giáo lý bìa xanh dương ra thì thằng Ðức mếu máo lên khai mất bút. Thế là frère Tuấn dốc cặp từng đứa một ra khám xét. Thế là nó bị lôi lên đứng trước lớp, lãnh một cái bạt tai nháng lửa sau khi một mực lắc đầu kêu oan. Nó muốn chồm lên, muốn gào lên, nhưng những tia nhìn lạnh băng phóng xuống từ độ cao của tấm áo chùng đen như ghim chặt nó vào bục gỗ. Tay chân nó cứng ngắc. Không điều khiển được nữa, dù bên tai vẫn văng vẳng tiếng rít: «Nhật! Ðứng lên! Tôi bảo đứng lên! Ðứng lên!» Thằng bé bất lực nhìn đôi kính trắng càng lúc càng gần, trương nở, phình to ra như một bầu thủy tinh khổng lồ, rồi úp chụp lên nó. Trọn vẹn.

Hơn hai mươi năm, đến sáng nay Nhật mới chợt hiểu vì sao mình lại có ác cảm với những người đeo kính trắng. Giấc mơ như con ác thú, lâu lâu lại trồi lên từ tiềm thức, khạc những tia lửa đỏ quạch, rồi chìm sâu xuống, nằm phục ở đó. Không làm sao Nhật xua đuổi nó đi được, dù đã hơn một ngàn lần, anh tự nhủ: Phải quên, phải rộng lượng, phải biết tha thứ. Dù thằng bạn chơi ác sau đó đã xanh lè mặt đứng ra nhận tội. Dù frère Tuấn sau đó đã ngỏ lời xin lỗi. Cảm xúc, như nhát chém quá mạnh tay vào thân gỗ non, giữ nguyên dấu vết giữa những vòng tròn tăng trưởng. Không cách gì bôi xoá đi được! Nhật khổ sở loay hoay với nó suốt thời niên thiếu. Càng lớn, sự trỗi dậy của con quái vật càng thưa dần, nhưng giấc mơ không vì thế mà bớt đi kịch tính. Có những lần, Nhật thấy mình vẫn bé nhỏ, yếu đuối như ngày nào. Vài lần khác, Nhật cảm nhận mình lớn hơn, đã đủ sức giơ cánh tay lên để chống trả lại, nhưng mỗi khi chạm phải những tia nhìn loáng lạnh sau lần kính trắng, anh lại bị hất đi thật mạnh, thật xa, vọt qua khỏi cửa lớp, ra tới hành lang để rồi ngã chúi xuống cái khoảng không đen ngòm phía dưới. Ðen như tấm áo chùng của frère Tuấn!

Trừ một lần, anh thấy mình đứng bật được dậy và bỏ chạy thật nhanh về nhà, đằng sau có người đuổi dồn. Anh có đủ thì giờ để đóng gấp, khoá kín tất cả cửa chính, cửa sổ rồi cuộn tròn người ôm đầu khóc tấm tức trước khi bước chân kẻ lạ sầm sập ào đến. Kẻ lạ? Frère Tuấn? Anh không thấy được mặt kẻ đuổi theo sau lưng. Chỉ biết đã thót tim mừng rỡ khi tiếng gà gáy báo sáng rộn rã vang lên bên tai. Giấc mơ ấy đến khoảng một tháng sau khi Nhật gặp lại frère Tuấn. Ở ngoài đời hẳn hòi. Giữa ban ngày ban mặt chứ không phải trong cơn ác mộng. Chiều thứ Ba. Rạp xi-nê Văn Hoa Ða Kao. Sau khi nát cả người vì chen lấn mua cho bằng được tấm vé xem phim «Nạn hồng thuỷ» của Ba Lan, Nhật thở phào, chìa phần cùi cho người soát vé. Anh bước qua rào cản, hân hoan nghĩ đến những giây phút thoải mái sắp hưởng, bỗng giật mình quay ngoắt lại. Tia mắt ấy. Phải rồi, tia mắt ấy, dáng dấp ấy. Frère Tuấn! Người soát vé quay đi bận rộn với công việc của mình. Nhật bước vào phòng tối, mắt loáng thoáng những áo quần trắng lốp của người Thổ, những tiếng hò hét công thành, tiếng gào thét thảm thương của kẻ cô thế. Lửa cháy loang màn ảnh, đốt đỏ lòng Nhật. Anh nhấp nhổm trên ghế. Nửa phim. Nghỉ giải lao. Ðèn bật sáng. Nhật đẩy cửa lao về phía người soát vé. Anh gọi:

– Frère!

Người đàn ông quay đầu lại. Không có đôi kính trắng, nhưng đúng là frère Tuấn. Nhật bước như chạy đến, nhưng khi khoảng cách chỉ còn độ một thước, anh đột ngột dừng lại, ngượng nghịu:

– Frère còn nhớ con không?

Lúc tiếng «con» buột ra khỏi miệng như một phản xạ tự nhiên, Nhật mới nhận thấy thói quen cũ vẫn còn bám rễ sâu lắm nơi anh. Ðôi mắt người đàn ông nheo nheo:

– Tôi nhận ra em từ nãy. Nhật phải không?

Nhật vui như khi nhận được lá thư có kèm vài tấm hình hiếm hoi của thằng bạn thân từ Canada gửi về. Anh lúng búng:

– Con… Em đâu có ngờ còn gặp lại frère. Trường giải thể, em đứt gần hết liên lạc với thầy cô, bạn bè cũ. Em có nghe nói các frère còn giữ lại được một dãy lầu để ở, nhưng ngại, không dám vô thăm.

Nhật bỗng nhiên liến thoắng. Niềm tự tin bất ngờ kéo vọt anh lên cao hơn, vạm vỡ hơn người đàn ông gầy gò tóc hoa râm đứng trước mặt.

– Tôi… Tôi xin ra khỏi dòng lâu rồi em ạ! Bây giờ tôi có gia đình, con cái như mọi người. Ðừng gọi tôi là frère nữa, gọi là… anh, được rồi. Còn em, dạo này thế nào?

Cuối cùng thì từ lối xưng hô «frère-con» khi xưa, cả hai chấp nhận chuyển sang gọi nhau «thầy-em» cho phù hợp với tình thế mới, và cũng để những cái tai tò mò vểnh dọc vểnh ngang chung quanh bớt chú ý. Nhật rút mấy điếu thuốc Hoa Mai lẻ trong túi áo ra mời. Thầy Tuấn ra dấu từ chối.

– Em đang học lớp mười hai, nhưng nản lắm. Lý lịch như em thì đậu đại học một phần trăm mà đậu «nghĩa vụ quân sự» tới chín mươi chín phần trăm lận thầy ơi! Mấy thằng bạn cùng lớp em vượt biên quá trời! Thà gặp hải tặc Thái Lan mà còn mong có ngày qua tới Mỹ, còn hơn là xách súng đi làm «nhiệm vụ quốc tế cao cả» để rồi bị tụi Pôn Pốt đòm cho một phát, lôi về làm mắm bồ hóc nhai nhóp nhép với nhau!

– Em ăn nói cẩn thận. Giữa chốn đông người…

– Tụi em hết ngán rồi, thầy ơi! Giờ chính trị còn đứng lên cãi tay đôi với «mấy ổng mấy bả» nữa mà!

Tia nhìn của thầy Tuấn loáng lên một cái. Nhật lạnh người. Tấm áo chùng đen lướt thướt. Ngày trước…

– Em… Em nhớ hồi đó thầy đeo kiếng…

– Ờ, ờ, tôi mới làm vỡ tuần trước, chưa kịp thay.

Thầy lại sĩ diện hão rồi! Nhật nhớ đến đôi kính cận dày cộm đã ám ảnh mình bao nhiêu năm nay. Cận nặng như vậy mà cả tuần không có kính, chắc chắn là thầy Tuấn đang kẹt tiền. Như Nhật. Như tất cả những người đang sống vật vờ không tương lai chung quanh đây. Que sera, sera! Hôm nay có tiền, mua năm điếu thuốc, uống ly cà-phê, xem cuốn phim mới ra. Ngày mai hết tiền, nhịn. Vài ba tháng nữa đi nghĩa vụ, tính sau. Biết đâu ông bà già lại xoay sở chạy vạy cho một chỗ lên tàu vượt biên? Những người nhanh chân đã tót đi từ lâu. Bọn chậm chân ở lại được xếp vào ba hạng: Ngu-Nghèo-Nhát. Ngu vì cả tin vào những khẩu hiệu nền đỏ chữ vàng giăng mắc khắp nơi. Nghèo vì thiếu «chỉ», thiếu «cây» chèo chống ra đi. Nhát vì sợ sóng to gió lớn, hải tặc và cá mập, cá… nhà táng! Có ai mà muốn ngồi vào chiếu «Ngu», thường thì đành nhận chiếu «Nhát», còn đại đa số đem chữ «Nghèo» ra mà dán lên to tướng trên đầu. Người nghèo thời nào cũng khổ, nhất là sau những năm «đổi đời» này. Thầy Tuấn «đổi đời», bỏ dòng, lấy vợ sinh con. Anh hai, anh ba, anh tư «đổi đời», bỏ vợ con, bỏ thành phố, vào tù, phá rừng làm rẫy. Thành phố «đổi đời». Người Sài Gòn nhìn nhau không còn nhận ra quen lạ. Hàng xóm mười nhà có đến ba, bốn chủ mới. Người ta đi. Người ta đi. Người ta đi. Ði «học tập». Ði «kinh tế mới». Ði «vượt biên». Một tháng trời, bạn bè cùng lớp thiếu đi chục đứa. Ðủ thứ lý do: bệnh hoạn, về quê, thăm nuôi thân nhân… Trừ lý do thật. Dường như người ta đã quên nói lên sự thật ở thời buổi này. Bệnh truyền nhiễm. Có lẽ, thầy Tuấn cũng đang mắc phải.

– Nhật này… Tôi muốn hỏi em một chuyện.

– Dạ, thầy?

– Em còn giận tôi không?

Nhật nhớ ngay đến vị thế nằm của mình trong giấc mơ. Dán cứng người như con thạch sùng bị đóng đinh vào bục gỗ. Ở dưới thấp. Rất thấp. Và hứng chịu những tia nhìn từ vòi vọi cao ném xuống, phóng xuống, lao xuống tới tấp, đâm nát võng mô.

– Dạ…

– Tôi cứ hối hận mãi đã quá mạnh tay với em. Tôi ghét nhất thói trộm cắp. Em hiểu không? Lúc biết em bị oan, tôi trăn trở mất ngủ mấy đêm, cứ nhắm mắt lại là thấy những dấu tay của tôi lằn đỏ trên má em. Nhưng với cương vị giám học lúc đó, tôi không thể gặp em xin lỗi trực tiếp được. Tôi có gửi thư đến cho cha mẹ em. Ông bà cụ có nói cho em biết không?

– Dạ không, thầy!

– Vậy thì, em bỏ lỗi cho tôi nhé! Dù có trễ mất mấy năm, nhưng gặp được em nói lời xin lỗi, tôi cũng an lòng.

– Không… không sao, thầy. Chuyện cũ bỏ qua, thầy. Mà… thầy cô lúc này đủ sống không?

Thầy Tuấn nhúc nhích đôi môi. Thoáng một nụ cười.

– Nhờ ơn Chúa, cũng tạm vắt mũi đút miệng em ạ. Vợ tôi may gia công, ít ra cũng đỡ bấp bênh hơn cái nghề soát vé này. Con gái lớn của tôi sang năm vào cấp một. Chú út vẫn còn nhà trẻ. Chúng tôi yên phận, chỉ mong sao nuôi nấng, giáo dục các cháu thành nhân, giữ được đạo gốc, thương người, kính Chúa.

Nhật có cảm tưởng như đang được nghe lại những lời giảng giờ giáo lý. Hai tay khoanh trên  bàn ngồi thật ngoan. Mắt nhìn như bị thôi miên vào những di động của bóng áo chùng đen. Và chiếc cổ nhựa trắng, trông xa vểnh như hai chiếc răng thỏ vẩu. Và đôi kính cận sáng loá… Ðèn rực lên. Cửa bật mở. Dòng thác người ùa ra, ồn ào cười nói bình phẩm chửi thề. Gần quầy bán vé, thêm một đám đánh lộn, gấu ó nhau vì chen lấn giành chỗ. Cái đuôi rồng rắn kéo dài suốt mặt tiền rạp xi-nê chờ suất tới bắt đầu rậm rật chuyển động. Nhật hiểu nên chấm dứt cuộc đối thoại ở đây.

– Chắc thầy sắp bận việc. Chào thầy, em về. Tuần tới rảnh, em mời thầy đi uống cà-phê, nghe thầy!

Nhật không giữ đúng lời hứa. Anh Tư trốn trại học tập về sau đó hai ngày, kéo Nhật vượt biên bằng đường bộ, băng qua Cam-pu-chia đến Thái Lan. Bị thổ tả dọc đường, tưởng mười phần chết chín. Anh Tư cõng cái phần xác rũ liệt của Nhật mà băng đồng, vượt rừng. Cái phần xác thối khắm, xụi lơ và nhẹ hổng. Còn cái phần hồn, đã nhiều lúc bay lãng đãng tận đâu đâu. Vừa may đến trại tiếp cư, người bác sĩ Mỹ với thuốc men và những chai nước biển hiện ra, gõ chiếc đũa thần thông cứu mạng kẻ hấp hối. Rồi cũng qua. Sau trận mê sảng, Nhật quên đi nhiều lắm. Trí nhớ như muốn cắt đứt hẳn với quá khứ. Trừ những giấc mơ về frère Tuấn. Nhật cố gắng nghĩ rằng tiếng chân người sầm sập đuổi theo mình trong giấc mơ lần đó là của công an biên phòng, của bộ đội Việt Nam, của Khờ-me Ðỏ, của ai ai đó chứ nhất định không phải của frère Tuấn, người đàn ông gầy gò tóc hoa râm anh gặp lần cuối đứng soát vé ở rạp Văn Hoa. Nhưng…

Hơn hai mươi năm, đến sáng nay Nhật mới chợt hiểu vì sao mình lại có ác cảm với những người đeo kính trắng. Khi chiếc contact lens trợt khỏi đồng tử, rơi xuống mặt báo, Nhật còn cố dướn mắt đọc cho hết những dòng chữ đã bắt đầu nhoè nhoẹt.

Phê-rô

Nguyễn Văn Tuấn

Cựu sư huynh dòng Lasan

Vừa từ trần tại Sài Gòn ngày .. tháng .. năm ….

Hưởng dương 56 tuổi

Tang lễ sẽ được…

Chiếc contact lens còn lại cũng vừa kịp trôi.

Cổ Ngư

PARIS 06.1999


 

Tại sao Chúa Giêsu tỏ ra quan tâm đến các bệnh nhân nhiều đến thế? – Cha Vương

Dù bạn đang ở trong bất cứ hoàn cảnh nào hôm nay, hãy luôn nhớ rằng, Chúa không bao giờ bỏ rơi bạn đâu. Hãy vững tin vào Ngài luôn nhé, mọi sự rồi sẽ ổn thôi bạn ạ.

Cha Vương

Thứ 2: 06/10/2025.  t6-23

GIÁO LÝ: Tại sao Chúa Giêsu tỏ ra quan tâm đến các bệnh nhân nhiều đến thế? Chúa Giêsu đến trần gian để bày tỏ cho thấy tình yêu của Chúa. Người có mặt khi chúng ta đặc biệt bị đe dọa sợ hãi: khi ta bệnh tật Chúa muốn cứu chữa ta cả xác lẫn hồn, Người mời gọi ta tin nơi Người và nhận ra rằng Nước Chúa đang đến. (YouCat, số 240)

SUY NIỆM: Đôi khi ta cũng phải mắc bệnh tật để ý thức rằng: mọi người đều cần đến Chúa dù là có bệnh tật hay không. Bởi vì ta được sống là nhờ Người. Vì thế các bệnh nhân và các tội nhân thường có bản năng đặc biệt ham muốn điều cốt yếu là được sống còn. Ngay thời Tân ước, chính những bệnh nhân là những người tìm cách đến gần Chúa Giêsu; họ cố gắng tìm cách chạm đến Chúa vì có một sức mạnh phát xuất từ Người, và Người chữa lành cho mọi người (Lc 6,19). 

   Giữa sự xấu hơn của thế giới Kitô giáo và sự tốt hơn của

thế giới ngoại giáo, tôi luôn chọn thế giới Kitô giáo vì thế giới Kitô giáo dành một chỗ cho những người không bao giờ có thể có được chỗ đó trong thế giới ngoại giáo: đó là những người bệnh tật, ốm đau, già nua và yếu đuối, và họ được một điều còn tốt hơn là một chỗ: đó là được tình yêu thương đối với những người mà trong thế giới ngoại giáo và không có Thiên Chúa, người ta đã coi và vẫn còn coi họ là vô ích vô dụng. (Heinrich Boll—1917 – 1985, văn gia

Đức), (YouCat, số 240 t.t.)

❦ Người bệnh tật cảm nghiệm được các sự việc tốt hơn mọi người khác. (Reinold Schneider—1913-1958, văn sĩ người Đức)

LẮNG NGHE: Đức Giê-su đáp lại họ rằng: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. (Lc 5:31)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, trong hoàn cảnh đau đớn, ốm đau, bệnh tật, già nua và yếu đuối xin đừng để con ngã lòng mà quên đi lời Chúa hứa: “Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho anh em được nghỉ ngơi bồi dưỡng.”

THỰC HÀNH: Mỗi khi đau đớn hãy hết lòng khẩn nài và thốt lên: Lạy Chúa xin ở bên con luôn mãi.”

From: Do Dzung

*************************************

XIN BÊN CON CHÚA ƠI – Jb. An Ninh I Ca sĩ Tuyết Mai

 CHUỔI HẠT MÂN CÔI VỚI THÁNH NỮ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

 

Sinh hạ trong 1 gia đình đạo đức năm 1874. Lúc 4 tuổi, mồ côi mẹ. Các chi săn sóc thay thế mẹ. Lúc lên 14 tuổi, chị xin vào dòng kín Camelo ở Lisieux. 9 năm tu trong dòng là gần 9 năm bị bệnh liên tục. Nhìn thấy sự yếu đưối của mình, chị hoàn toàn phó thác cho tình yêu Thiên Chúa, như 1 con nhỏ trong cánh tay của mẹ nó. Chị qua đời năm 1897. 28 năm sau, được tôn phong hiển thánh năm 1925. Danh tiếng của chị lan toả cùng trái đất. Do đó mà nhà dòng kín Lisieux trở nên trung tâm hành hương lôi kéo rất nhiều người. Ngày nay bà được Hội Thánh chỉ định làm quan thày các xứ truyền giáo. Khi phong thánh cho thánh Nũ Teresa Hài Đồng Jesu, ĐGH Pio Xl đã nói: Công nghiệp bà thánh Teresa cũng không thua kém công nghiệp Thánh Phanxico Xavier, đả sang phương đông giảng đạo. Thánh nữ Teresa Hài Đồng Jesu là 1 vị thánh rất nhỏ, mà lại rất lớn. Nhỏ là vì Bà chỉ vào tu trong dòng kín Lisieux có 9 năm, thì bà qua đời năm 1897, cũng tại dòng kín Lisieux. Rất lớn, là bà có ý chí chinh phục những người ngoại trở về với Thiên Chúa.

Bà hằng ước ao được sang phương đông, tu tại 1 nhà dòng kín nào đó, để cầu nguyên cho các người ngoại được sớm nhận biết Chúa chân thật. Cho nên bà đã có ý nguyện xin cho được sang Đông Dương, vào tu trong 1 nhà dòng kín ở Hà nội, để được cầu nguyên. Nhưng ước vọng không thành, vì bệnh lao phổi của Bà càng ngày càng trở nên trầm trọng. Bà đã có những đức tính hết sức cao quý tuyệt vời, đó là hy sinh, hãm mình , nhịn nhục. Thánh nữ Teresa có 2 đức tính đạo đức căn bản nhất, là: Yêu mến Thánh Thể, và sùng kính Đức Mẹ Mân Côi. Trong cuốn sách” Saints to Remember” của Giáo Hội Hoa kỳ có nói về Bà như thế này:”…Her great devotions were to the Blessed Sacrament and to Our Lady, who once appeared to her in a grave sickness…” ( 1 sự tận hiến vô cùng cao cả là cho Thánh Thể Chúa Jesu, và cho Đức Trinh Nữ Maria tước hiệu Mân Côi, có 1 lần Đức Mẹ đã hiện ra với chị, trong lúc chị đau nặng).

Tiểu sử của Thánh Nữ thì rất nhiều và cũng rất dài. Ở đây chúng tôi chỉ minh chứng 1 điều duy nhất là thánh nữ đã rất mộ mến chuỗi Mân Côi. Mỗi khi chầu Thánh thể, ở lặng 1 mình, hay là nằm trên giường bệnh, Thánh Nữ thường lần hạt kính Đức Mẹ. Cuộc sống của Thánh Nữ rất đơn sơ, giản dị, cho đến nỗi khi Thánh Nhân qua đời, thì 1 chị dòng đã nói: Không biết Teresa sau khi chết rồi, nhà dòng biết lấy tài liệu gì đáng giá, để ghi vào sổ nhà dòng, và tiểu sử của chị. Nhưng sau khi bà qua đời rồi, người ta mới khám phá ra bà chính là 1 nhà tu học đại tài, đã viết những tư tưởng tu học rất cao siêu. Cho nên, Hội thánh đã phong cho Bà phẩm hàm : Tiền sĩ Hội Thánh. 1 nữ tu nhỏ bé, gần 9 năm bị bệnh, mà được phong Tiến sĩ Hội Thánh thì phải biết như thế nào rồi! Đây cũng lại là 1 phép lạ điển hình, chứng tỏ khi bà còn sống đã năng lần chuỗi Mân Côi, cho đến nỗi Bà coi mỗi một kinh kinh mừng khi bà đọc lên kính Đức Mẹ, là 1 bông hồng thơm tho dâng lên cho Mẹ. Do đó, mà trước khi bà từ giã cõi đời, bà đã để lại 1 câu nói bất hủ sau đây: “Je passerai au ciel, à faire pleuvoir des roses sur la terre..” ( khi tôi về thiên đàng, tôi sẽ làm mưa hoa hồng xuống trên mặt đất này). Và qủa thật, sau khi bà qua đời, đêm ấy bà đã làm 1 phép lạ cả thể là cho mưa hoa hồng xuống đầy sân nhà dòng kín Lisieux. ( hoa hồng tức là hoa Mân Côi : Rosary) .

Hãy bắt chước thánh nữ để được hãm mình chịu khó chịu bệnh tật cho nên.

Vì trong sách dẫn đàng nhân đức có nói: Không có 1 công phúc nào ở trên thế gian này đền tội hữu hiệu cho bằng chịu bệnh tật cho nên, vì lòng kính mến Chúa, và chia sẻ những khổ đau mà Chúa Jesu đã chịu trên thánh giá.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu