Sau Thế vận hội Olympic 2012, một vận động viên Tây Ban Nha sẽ gia nhập chủng viện

Sau Thế vận hội Olympic 2012, một vận động viên Tây Ban Nha sẽ gia nhập chủng viện

                                                                                                   Đinh Lăng

 

WGPSG — Carlos Ballve –vẫn được bạn bè gọi là “Litus”– chơi vai hậu vệ trong đội tuyển khúc côn cầu của Tây Ban Nha đang dự tranh Thế vận hội Olympic London 2012, cho biết: sau khi Thế vận hội kết thúc, anh sẽ gia nhập chủng viện tại Bỉ để trở thành linh mục.

Theo nhật báo El Pais của Tây Ban Nha, dù anh luôn coi mình là một tín hữu, nhưng chỉ mãi đến năm 2005 anh mới nhận thức được tầm quan trọng của Thiên Chúa trong đời sống của mình.

Mùa hè năm đó, mọi sự bắt đầu thay đổi khi anh thi đấu giải vô địch thế giới U21.

Anh nói: “Chúng tôi khởi đầu thật tệ, đến nỗi vào ngày Chúa nhật, tôi đi lễ và giao hẹn với Chúa: Tôi nói với Chúa, nếu Chúa thay đổi chuyện này, tôi sẽ đi Medjugore với cha tôi. Chúng tôi đã làm nên lịch sử. Chưa bao giờ đội U21 giành được một huy chương, và lần ấy chúng tôi xếp thứ ba”.

Ballve đã giữ lời hứa và đi Medjugore. Tuy nhiên, anh nói rằng cuộc sống của anh vẫn chẳng có gì thay đổi. Anh vẫn đi chơi với các cô gái, tiêu tiền như rác, và chẳng hề cầu nguyện”.

Nhưng “có điều gì đó bên trong tôi nói rằng: ‘Litus, bạn đang được tự do làm những gì bạn muốn, nhưng hiện nay bạn chẳng có hạnh phúc’”.

Mặc dù đang là cầu thủ giỏi nhất, anh đã quyết định bỏ cuộc chơi để đi tìm Chúa.

“Tôi nói với Ngài: ‘Con không biết mình đã làm gì sai. Có những điều kỳ lạ đang diễn ra. Con muốn đến thú nhận với Chúa, này con đây, Chúa hãy làm những gì Chúa muốn’”.

Cuộc sống của anh bắt đầu thay đổi, và anh chỉ xin Chúa cho anh thực hiện ước mơ được tham gia Thế vận hội.

Vì thế Ballve gọi thời gian của mình tại Thế vận hội Olympic cho đến nay là “một kinh nghiệm phi thường và quý giá”. Anh nói rằng anh hy vọng “không chỉ giành chiến thắng, nhưng còn lớn lên trong đời sống đức tin, và chia sẻ điều ấy với những người khác nữa từ khắp nơi trên thế giới”.

(CNA/EWTN News, 3-8-2012)

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

trong chiasetinbai@gmail.com

Chợ Trời Ở Pháp

Chợ Trời Ở Pháp
 
                                                                                                         Bích Xuân Paris
 
 
Description: http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/0901ChoTroi3.JPG
Một buổi sáng nắng vàng rực rỡ, tôi chuẩn bị đi một vòng ngoài Chợ Trời cách nhà tôi hơn cây số rưỡi. Đi Chợ Trời cũng có cái thú, đến đó mua thứ gì cũng có, như cái áo thun mới mua ở ngoài Chợ Trời rẽ hơn phân nửa ở tiệm. Nói chung món nào bán ở Chợ Trời cũng rẻ hơn là mua ở tiệm nhất là áo quần, giày dép, mũ, xách cho đến những hàng trái cây, hàng thịt, hàng cá, gà quay và dụng cụ cho phòng tắm, nhà bếp … Hàng bán áo quần là đông khách nhất vì 2, 3 euro một cái nên người mua mặc sức chọn lựa. Những biển hiệu trên áo quần mới này đều bị cắt bỏ hết. Áo quần này những tiệm bán không chạy, cuối cùng bán cho những người chuyên thầu những mặc hàng bị ứ đọng để thẩy ra Chợ Trời.
Description: http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/0901ChoTroi1.JPG
Ở Pháp, thị xã nào cũng có những khu Chợ Trời, 3 ngày mỗi tuần, có nơi 2 ngày. Chợ Trời có nơi vào ngày thứ ba, thứ sáu. Nơi khác, thứ bảy, chủ nhật … Người bán ở chợ bán đủ 3 ngày, có người bán năm, hoặc bảy ngày một tuần, nếu họ có sức khỏe và những khu Chợ Trời khác còn chỗ. Những người buôn bán này không cố định phải bán một chợ mà họ được quyền bán nhiều khu Chợ Trời khác nhau. Chợ Trời có đủ 4 mùa, có điều lạ, dầu cho trời lạnh dưới không độ âm, khách cũng trùm khăn, đội mũ, mang bao tay, áo ấm đi ra Chợ Trời coi hôm nay có thứ gì mới lạ không ?
Description: http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/0901ChoTroi2.JPG
Để giữ chỗ cho cả năm, tháng nghĩ hè người bán ở Chợ Trời vẫn phải trả tiền. Không mua một nơi cố định, người bán sẽ bị đổi chỗ lung tung, chủ chợ chỉ chỗ nào thì lấy chỗ đó, bán buổi nào chủ chợ thâu tiền buổi đó. Chợ đông nhất vào lúc 10 giờ 30 sáng và tan vào lúc 1 giờ chiều.
Trong thị xã tôi ở có 3 khu vực tổ chức Chợ Trời. Khu Chợ Trời tôi đến hôm nay có hai ngày chợ trong tuần, thứ ba và thứ sáu. Khu Chợ Trời này ngay nơi toà đô chính của thị xã. Trong chợ có 8 gian hàng bán trái cây, 9 hàng thịt đủ loại như : dê, thỏ, gà, ngựa … xúc xích khô. 4 hàng cá, 2 gian hàng bánh, hàng thức ăn tươi. Gian hàng trái cây khô, của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, ngoài ra có hơn 50 gian hàng như : hoa tươi, đồ trang sức, vòng vàng giả, mỹ phẩm, kính mắt, áo quần, hàng vải, rideaux …
Description: http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/0901ChoTroi4.JPG
Có những khu Chợ Trời, đậu xe nơi công cộng phải trả tiền dầu là ngày chủ nhật (thứ bảy thì đưọc free, một tuần được đậu xe miễn phí một ngày và lễ). Hầu hết người ta đến Chợ Trời ngày chủ nhật nên không ai để ý, khi ra về mới thấy hàng xe đậu hai bên lề đường đều dính phạt « bươm bướm » xanh trên xe.
Description: http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/0901ChoTroi5.JPG
Vì có ba ngày Chợ Trời nên số người đi làm cho công sở có quyền phụ bán hàng với vợ ngày cuối tuần, nhưng họ không được cấp giấy phép để hành nghề buôn bán vì đã có công việc làm rồi. Sau khi có giấy phép, người bán nộp đơn xin chủ Chợ Trời, chủ chợ sẽ sắp chỗ cho mình, (người buôn không có quyền chọn lựa). Chủ chợ cũng có quyền từ chối món hàng mình muốn đặt bán với lý do trong chợ đã có người bán món hàng đó rồi. Nhưng cũng có nhiều chợ có đến 5,7 gian hàng bán cùng một món. Chủ chợ sắp mỗi gian hàng này ở mỗi góc xa xa. Những người bán kiểu này là bán hàng rong họ đến bán thử, nếu được, lần sau đến bán tiếp, nếu thấy ế họ « chuồn » luôn … Mỗi tuần có 3 ngày chợ, con buôn phải có mặt bán đủ 3 ngày, luật như vậy là để lúc nào chợ cũng có đông người bán.
Description: http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/0901ChoTroi6.JPG
Người bán ở Chợ Trời khi về hưu, không được quyền sang nhượng chỗ bán của mình lại cho ai, nếu có, 2 bên thương lượng với nhau rồi người mua cứ đưa tiền khơi khơi cho người sang lại chỗ. Nhưng người sang chỗ phải xin phép người chủ chợ và đưa bao thư thật đầy cho chủ chợ, lúc đó chủ chợ mới nhắm … mắt để cho người mới này vào chợ tiếp tục bán món hàng vừa được sang lại.
Chủ chợ là người làm việc cho nhóm người thầu, họ có nhiệm vụ trông coi, và sắp xếp chỗ cho giới buôn bán, phần đông chủ chợ là người trong gia đình hoặc bà con với người thầu.
Chợ Trời ai muốn bán gì thì bán, ví dụ : một chợ ba, bốn tiệm gà quay, nhưng có chợ chỉ một người bán gà quay thôi, bởi chủ chợ đã bị người bán gà này đã mua đứt bằng cách hối lộ tiền, nên chủ chợ không cho người khác đến bán món gà nướng nữa. Mỗi lần thâu tiền chợ, lúc nào chủ chợ cũng có tiền « típ » và lúc nào những người bán trong chợ cũng làm chủ chợ vui lòng, chủ chợ mua gì không ai tính tiền.
Một người Việt Nam tên Nam Gà, vì cách ướp gà sả tiêu của ông rất mặn mà thơm, ngon. Tôi tìm ông đến ông. Ông bán 2 loại gà nướng lớn và nhỏ trong hai ngày thứ bảy và chủ nhật. Mỗi ngày ông bán được 200 con. Loại gà nhỏ ông mua vào 2 euro, bán ra 7 euro. Gà lớn nuôi ở nông trại, ông mua một con giá 3,50 euro, bán 13 euro. Ông cho biết cách đây 10 năm chỉ việc xin vào bán gà nướng ở Chợ Trời thôi mà ông phải đưa bao thơ cho chủ chợ trong đó có 2500 euro, một thời gian bán gà quay, ông mua được căn Appartement 40000 euro. Thấy bán gà nướng tiền vào túi dễ dàng, ông xin thêm 4 m² trong một khu Chợ Trời khác để bán gà, và bao thơ lần này nặng ký đến 7000 euro, nhưng chủ chợ từ chối vì trước ông Nam đã có người khác tặng chiếc xe hơi mới keng cho chủ chợ rồi.
Tôi hỏi :
– Chợ Trời có gì đặc biệt mà người ta phải mất tiền để được vào đó, mùa hè thì không sao đến mùa đông lạnh từng khía da …
Ông Nam nói :
– Ừ, vậy đó ! Xin vào bán ở chợ rất khó, mà muốn bán gà nướng còn khó hơn, có nhiều Chợ Trời nằm trong khu giàu, nhất là Paris ở quận 8, 15, và 16 bán cái gì cũng gấp hai, ba lần ở chợ khác, nên phải có bao thư cho chủ chợ …
– Chợ Trời thường xẩy ra những chuyện gì ?
– Thỉnh thoảng cảnh sát vào thình lình để xét giấy tờ, người bán không khai báo sẽ bị phạt ngay như trường hợp của tôi, vợ bị cảm tôi mướn tạm người đứng bán, cảnh sát đến hỏi và tôi bị phạt 1500 euro vì mướn người trái phép.
Ông Nam ngưng nói, móc trong áo ra bao thuốc lá, rút một điếu châm lửa hít một hơi rồi nói :
– Gà quay là món dễ bán nhất ở Chợ Trời, các món khác khuất lại để mua lần sau chứ đói là phải ăn. Gần trưa nghe thơm phức mùi gà nướng nên ai cũng muốn mua …
Ông Nam phì phà khói thuốc vừa nói với lời hằn hộc :
– Chủ Chợ Trời ở đây là thằng mị dân ăn hối lộ đủ mọi cách. Trong chợ trước kia chỉ mình tôi bán gà nướng thôi, tôi đã bao thư cho nó để độc quyền bán gà nướng, nó gật đầu hứa, nhưng lại cho người thứ hai vào chợ bán gà nướng, rồi đến người thứ ba … Bây giờ số gà nướng của tôi bán ra mỗi ngày chỉ được 30, con thôi.
– Ở Pháp mà cũng hối lộ cho chủ chợ vậy sao ! Gà bán ra ít hơn so với lần trước thì có đủ chi phí không ?
Ông Nam gà nói :
– Giới bán buôn ai cũng biết chủ chợ hối lộ mà không dám làm gì, mình thưa nó thì mình cũng mất chỗ để bán. Chủ chợ có đủ quyền hành ở trong tay, vào đây thì phải chịu thôi … Gà bán ít tôi phải xin bán thêm các món khác như : Cơm chiên, chả giò, gỏi cuốn, gà xào với rau cải …
Tôi lại tò mò :
– Gà nướng bán không hết thì làm sao ?
– Gà còn lại thì đem cho bạn bè, cho người bán cá trong chợ, hàng cá bán không hết họ cũng cho tôi. Gà đem về làm gà xào chua ngọt, gà làm cơm chiên để chủ nhật bán tiếp, gà làm thứ khác không xuể thì đem vất đi. Tôi đã biết số khách của mình có bao nhiêu rồi nên gà nướng vừa đủ để bán. Gà dư, gà thiếu có ngày không chênh lệch bao nhiêu.
– Ông có thấy người giàu sang đi Chợ Trời không ?
– Sao lại không, mấy bà nhà giàu cứ đi loanh quanh trong Chợ Trời mua ba các thứ để chùi chân ở trong xe hơi, khăn để chùi nhà, để rửa chén, giày, dép đi trong nhà … Giàu nghèo chi cũng thích ra Chợ Trời ráo !
– Có khi nào con buôn ở trong chợ đánh nhau không ?
– Có chớ.
– Tại sao ?
– Thì bên này lấn qua chổ bên bia vài ba phân là có chuyện …
– Lúc đó thì cảnh sát đến ?
– Không, chủ chợ đến dàn sếp.
– Ngoài mấy chuyện này ra ở Chợ Trời có chuyện gì lạ nữa không ?
– Thỉnh thoảng có khách bị ngất xỉu, có người bị móc túi vậy thôi …
– Mùa đông đứng bán ngoài trời mấy tiếng đồng hồ lạnh buốt chịu sao nổi, và lạnh nhất là ở đâu ?
– Thường thì lạnh nhất là hai lòng bàn chân đến đầu gối, tồi vùng thắc lưng rồi đến hai bàn tay. Phải có máy sưởi để bên cạnh chứ không thì … chết cứng.
Thình lình trời bỗng kéo mây đen, gió thổi ù ù rồi sấm chớp ầm ầm. Cơn mưa to lớn đổ xuống thật nhanh, khách vội vã chạy tránh mưa dưới những cây dù của người chủ hàng trong chợ. Cơn mưa kéo dài 15 phút, tôi đứng tránh mưa dưới cây dù của người bán trái cây nhìn sang bên gian hàng phía trước gian hàng bán áo quần trưng bày trêm sạp. Người đàn ông mặc quần jean, áo jacket hối hả trải tấm dãi dầu trên đống áo quần để tránh những gịot mưa bắn vào.
Tôi đứng nép người vào bên trong, nhưng nước mưa bắn vào hai ống quần bị ướt đẫm. Tôi đưa mắt người bán hàng phía trước, rồi nhìn mặt đường ướt sũng những cơn mưa nặng hạt mà tôi không trù tính là sẽ có mưa.
Trời hết mưa, tôi cảm ơn người bán hàng để tôi tránh cơn mưa. Trên suốt con đường trở về nhà, tôi cứ suy nghĩ hoài về những người bán hàng ở ngoài Chợ Trời hôm nay …
Bích Xuân Paris

Linh mục: Niềm tin – Hy vọng

Linh mục: Niềm tin – Hy vọng

                                                                                                     Phạm Thục

 

 WGPSG — “Đẹp thay bước chân những người loan báo Tin Mừng” (Rm10,15).

Liên tục trong những tháng vừa qua, các giáo phận, dòng tu đã diễn ra nhiều đợt phong chức linh mục. Vào lúc 10g00 ngày 04/08/2012, 13 thầy phó tế của Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam đã được tiến chức, do Đức Giám mục Giáo phận Vinh Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP chủ phong, tại Tu viện Albêtô – Ba Chuông trong niềm hân hoan.

Hầu hết các tân chức đều trẻ, trên dưới 30 tuổi, lứa tuổi tràn đầy sức sống, hẳn sẽ góp phần cho Giáo hội Việt Nam ngày càng trẻ trung, đáp ứng cho nhu cầu mục vụ hôm nay.

Ở đây, tôi xin được ghi nhận cảm tưởng của một vài thành phần dân Chúa về thiên chức linh mục

Những người trẻ kì vọng gì nơi các linh mục?

Tại Việt Nam hôm nay đang dần hình thành một xã hội tiêu thụ, trong đó người trẻ bị cuốn hút vào những giá trị “ảo” xa lạ. Những nền tảng đạo đức truyền thống bị coi là lỗi thời, sinh hoạt gia phong trong gia đình bị xáo trộn, nếp sống xứ đạo bị coi là “một thời đã xa”. Ngày hôm nay, cuộc sống của gia đình Việt Nam, cha mẹ con cái chung một bàn ăn, vừa dùng cơm vừa trao đổi, bàn luận về việc học, về công ăn việc làm, bàn luận về một bài báo, một bộ phim hay một cuốn sách xem ra rất hiếm. Đơn giản vì mỗi người gần như ai cũng có công việc riêng của mình, cha mẹ thì lo tìm kiếm thêm hầu có của ăn, của để; con cái người đã trưởng thành thì lao vào công việc, làm giàu hay tìm kiếm danh vọng; người còn đang đi học thì học lấy học để, học đủ mọi thứ, từ học kiến thức đến học cách giải trí như: chơi game, chat, mail, mode, hiphop…và coi đó là thước đo của một người có trình độ hiểu biết, nhân cách trưởng thành. Người trẻ nói chung có những cách suy nghĩ lạ đời, “tai tiếng” đi gần với “tăm tiếng”, với mục tiêu là thể hiện mình, mong có nhiều người biết đến, cho dù có trái ngược với những gì vẫn được coi là luân thường đạo lý.

Về phương diện tôn giáo, cụ thể là đạo Công giáo chúng ta, hầu như các sinh hoạt về niềm tin chỉ còn quy tụ được thiếu nhi từ 6 đến 14 tuổi, tức là lứa tuổi học sinh cấp I, II. Đây là thời gian mà gia đình nếu có quan tâm đến đời sống đạo thường đưa con đến nhà thờ, vào hội đoàn để qua đó được quý cha, quý thầy, quý soeur hay các anh chị giáo lý viên giúp dạy giáo lý hầu đón nhận bí tích Thánh Thể và Thêm Sức; sau đó là để con tự “bơi” trong dòng sông cuộc đời. Chính vì thế, bước vào tuổi thanh niên, từ 15 tuổi trở lên, người trẻ cảm thấy bơ vơ, dễ bị cám dỗ xa dần đời sống tâm linh. Trong giai đoạn này, nếu được nâng đỡ, huấn luyện về niềm tin, về nhân bản… thì người trẻ sẽ cảm thấy gắn bó với đạo của mình, và ngày càng trở nên xác tín hơn.

Do đó, “Mục vụ giới trẻ” được quan tâm đặc biệt. Các linh mục đã dấn thân, phục vụ đối tượng “tương lai của xã hội và Giáo hội”, một sứ vụ cực kỳ khó khăn. Tuy nhiên, với sức trẻ và bầu nhiệt huyết căng tràn cộng với sự năng động, vui tươi, các ngài đã và đang giúp các bạn trẻ sống viên mãn ơn gọi Kitô hữu trong tinh thần trẻ trung của Đức Kitô. Bởi vì, chính Người đã sống trọn đời trẻ của mình trên dương thế, đã bước vào đời rao giảng khi tròn 30 tuổi.

Bên cạnh đó, khi đồng hành với người trẻ, các linh mục đã nhận ra những ưu tư, khắc khoải của người trẻ để:

– Tìm ra những giải pháp, những lời giải đáp giúp người trẻ đi theo con đường của Đức Kitô.

– Tập cho người trẻ biết làm việc để mưu ích cho mọi người, vì đó là tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa; họ không trở thành xa lạ với chính mình, với anh em đồng loại.

– Truyền thông cho giới trẻ niềm vui, niềm hy vọng có cuộc sống vì mọi người, sống thanh cao, sống có ích; họ dám mạnh dạn đáp lại tiếng gọi của Đức Kitô, không sống khiếp đảm như Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II căn dặn: “Hỡi các bạn trẻ, đừng sợ phải sống thánh thiện”.

Tâm tình của một anh em không tín ngưỡng:

Tôi đã theo dõi hoạt động của các linh mục, tôi thắc mắc linh mục là ai? Và tôi được biết rằng linh mục là hiện thân của Đức Kitô giữa trần đời. Một người như mọi người, nhưng đã thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, Đấng các ngài tôn thờ. Tôi cảm phục linh mục: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, sống giữa thế gian mà không theo thói thế gian. Tôi thích thú nhìn chân dung người linh mục: ung dung tự tại, thênh thang giữa đất trời, chẳng màng danh lợi thú cho riêng mình, chỉ mong gieo “tin yêu vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng” cho người người an bình, hạnh phúc. Lạ một điều! Linh mục lại là đối tượng bị nhiều chỉ trích, chống đối, đàm tiếu, thị phi. Cảm thương thay cảnh “làm dâu trăm họ”…Lạ lùng quá! Dù trăm bề khó khăn thử thách, người người vẫn hiên ngang đáp lại tiếng gọi của trời cao, quả là một huyền nhiệm quá cao sâu của tình yêu dâng hiến.

Tôi yêu linh mục: Giữa một thế hệ gian tà sa đọa, các ngài đã chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời, chỉ đường dẫn lối cho mọi người tìm về Chân-Thiện-Mỹ.

Tôi cần linh mục: Niềm tin yêu – hy vọng – cứu cánh của tôi, của một xã hội đang băng hoại đạo đức và luân lý; giá trị con người bị đồng tiền đảo lộn chi phối. Các ngài có đó thì trật tự vãn hồi, hòa bình thiết lập, tình yêu lên ngôi cho cuộc đời này đáng yêu, đáng sống và sống dồi dào.

Vâng! Quả vậy, linh mục là ân ban của Thiên Chúa cho nhân loại! Trong khi hãnh diện về các ngài, chúng tôi không quên cầu nguyện cho các ngài, vì “Ơn Thánh chứa đựng trong bình sành, dễ vỡ”. Phải! Các ngài cũng là con người yếu đuối, cần sự nâng đỡ của Thiên Chúa, cần sự cảm thông, cộng tác của cộng đồng dân Chúa, để các ngài chu toàn trọng trách được giao phó, theo gương Vị Mục tử nhân lành tối cao là Chúa Giêsu: tận tâm, lo lắng cho đoàn chiên được “sống và sống dồi dào”.

Giờ đây, trần hoàn ơi hãy cùng chúng tôi hát vang ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa: Bài ca tạ ơn con dâng lên Chúa…Tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho đời biết bao kỳ công. Tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho đời biết bao hồng ân… qua tay các linh mục.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

DANH NGÔN THÁNH JOHN MARY VIANNEY (CHA SỞ XỨ ARS)

DANH NGÔN THÁNH JOHN MARY VIANNEY (CHA SỞ XỨ ARS)



 

Về Hỏa Ngục:

Nếu những người trầm luân khốn nạn có được thời giờ mà chúng ta đánh mất, chắc hẳn họ sẽ xử dụng chúng một cách tốt đẹp biết bao!  Nếu họ có được nữa giờ mà thôi, có lẽ nửa giờ ấy sẽ làm cho hỏa ngục vắng tanh.

Về sự tự hiến:

Hạnh phúc thay những tâm hồn có thể nói được với Chúa:  <<Lạy Chúa, con đã luôn luôn thuộc về Ngài!>>.  A!  trao hiến tuổi thanh xuân cho Thiên Chúa là điều tốt đẹp và cao cả biết bao! Đó thật là nguồn vui và nguồn hạnh phúc!

 

Về sự trong sạch:

Chúng ta như những tấm gương bé nhỏ mà Thiên Chúa ngắm mình trong đó. Các con muốn Thiên Chúa nhận ra Người trong một tâm hồn nhơ nhớp thế nào được?

Về sự kiêu căng:

Chúng ta thích những viêc làm của mình được người ta biết đến. Chúng ta vui khi người ta để ý đến các nhân đức của chúng ta; chúng ta buồn khi người ta nhận ra các khuyết điểm của chúng ta. 

Các thánh không như thế:  các ngài lấy làm khổ tâm khi người ta biết đến các nhân đức của mình và hài  lòng khi người ta nhìn thấy những khuyết điểm của mình.

Về đức khiêm nhượng:

Người ta hỏi một vị thánh:  nhân đức đầu tiên là gì, ngài trả lời:<< Đó là đức khiêm nhượng>> _  <<Và nhân đức thứ hai?>> – <<Đức khiêm nhượng>> <<Còn nhân đức thứ ba?>>  – <<Đức khiêm nhượng>>

Về sự chết:

Chúng ta giống như những ụ cát nhỏ mà gió dồn lại trên con đường:  chúng tụ lại trong chốc lát rồi tản mác liền ngay sau đó…  Các anh chị em chúng ta đã chết chỉ còn là một nắm tro tàn.

 Về sự đau khổ:

Thập giá là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho các bạn hữu của Người.

Về lòng từ bi của Thiên Chúa:

Lòng từ bi của Thiên Chúa giống như một thác nước chảy tràn lan:  khi đi qua, nó lôi cuốn theo các con tim…

 Về việc thánh hóa ngày Chúa Nhật:

Ngày Chúa Nhật là tài sản của Thiên Chúa; đó là ngày thuộc về Người, ngày của Chúa.  Người đã tạo dựng tất cả các con ngày trong tuần; Người có thể giữ lại tất cả, nhưng Người đã ban cho các con sáu ngày và chỉ giữ lại ngày thứ bảy.

 

Các con có quyền gì chạm đến cái không thuộc về các con?  Các con biết rằng của trộm cướp khong bao giờ sinh lợi.  Ngày mà các con lấy của Chúa cũng sẽ khong sinh lợi cho các con.  Cha biết hai phương thế rất chắc chắn để trở nên nghèo túng:  đó  là làm viêc ngày Chúa Nhật và lấy của kẻ khác.

CGM

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Lời Thầm: Cái Chết

Lời Thầm: Cái Chết

                                                                                LM. Vũ Xuân Huyên

1- Cái chết là một thất bại đối với những người đã chọn trần thế làm quê hương, nhưng là một chiến thắng đối với những người đã chọn quê trời làm quê hương.

2- Người ta sinh ra để chết ở đời này. Và chết ở đời này để sinh vào đời sau.

3- Ta thường nhìn cái chết như là tận cùng của cuộc đời này mà quên rằng sự chết cũng là khởi điểm của cuộc đời sau, nên sinh ra buồn rầu chán nản.

4- Sự sống vĩ đại, nhưng sự chết còn vĩ đại hơn, vì nó đưa ta đến sự sống.

5- Chết là đi vào “mùa Đông hy vọng” để đón chờ một “mùa Xuân phục sinh”.

6- Nhiều người tin rằng:  Chết là hết. Tin Mừng Phục sinh là câu trả lời của Chúa cho riêng họ: Không, chết chưa phải là hết, đúng hơn mới thực sự bắt đầu. Chúa Kitô sống lại trước, ta sẽ sống lại sau.

7- Người Kitô hữu có hai quê hương: quê hương đời này và quê hương đời sau. Họ có thể tạm chấp nhận sống vô quê hương đời này, nhưng không thể chết vô quê hương đời sau.

8- Chết không phải là kết thúc đời này, nhưng là hoàn tất đời này.

9-Ai không chuẩn bị chết, thì cái chết của họ, dù lúc nào đi nữa, cũng vẫn là cái chết “bất đắc kỳ tử”.

10- Tập chết mỗi ngày cũng là một cách sống tốt.

LM. Vũ Xuân Huyên

****************************************

Lạy Chúa,

Đứng trước cái chết, con cũng run sợ như ai

Vì con chưa thấy sẵn sàng để gặp Chúa.

Cả cuộc đời con, con đã lo toan rất nhiều,

Nhưng điều quan trọng nhất là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy

Thì con lại chưa làm gì cả.

Con thật dại khờ khi nghĩ rằng con sẽ có đủ thời gian,

Con sẽ làm được điều đó bất cứ lúc nào con muốn.

Nhưng sự thật là con chưa bao giờ tự làm chủ được sự sống của mình

Làm sao con lại dám cho mình cái quyền làm chủ được sự chết?

Ngày nào đó con đến trước mặt Chúa

Không biết Chúa có nhận ra con hay không,

Hay là Chúa bảo “đi cho khuất mắt Ta, hỡi phường gian ác”

Lạy Chúa là Chúa Tạo Vật,

Con xin Chúa sự khôn ngoan

Để sống trọn vẹn giây phút hiện tại

Trong ân nghĩa của Chúa

Để rồi ngày nào đó con đi gặp Chúa,

Sẽ không như hai người xa lạ

Nhưng là hai người rất thân quen.

Lúc đó, Chúa sẽ gọi con bằng tên rất trìu mến

Và giang đôi tay đón con vào lòng.  Amen!

*******************

Nguồn http://www.ngocthach.com/lmvuxhuyen.html

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Phép lạ Thánh Thể Hay Chúa cũng vào tù để ở với chúng tôi

Phép lạ Thánh Thể
Hay Chúa cũng vào tù để ở với chúng tôi

                                                                                                Vũ Huy Thiện

                                                                                                      nguồn: thanhlinh.net

Thánh Tư Ðen năm ấy (1975) đưa đến sự sụp đổ hoàn toàn chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nó đã đẩy chúng tôi vào trại giam mà họ mệnh danh “Trại cải Tạo”. Cái tên nghe thấy hấp dẫn, mà thực chất lại là những trại tù khổ sai không hơn không kém, để giam giữ những người thuộc chế độ VIỆT NAM CỘNG HÒA, đặc biệt là các Sĩ quan trong quân đội VNCH, trong đó có tôi, một sĩ quan thuộc binh chủng Pháo Binh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh.

Sau khi đưa gia đình về miền quê nội, tại Cái Sắn Rạch Giá, bị đưa vào Khám lớn Rạch Giá ngay đầu tháng 5 năm 1975…

Sau những ngỡ ngàng và bàng hoàng vì mọi sự đã đổi thay gần như trái ngược hẳn…ăn uống thiếu thốn, chỗ ở chật chội và bẩn thỉu, những đêm dầu tiên không kiếm được chỗ nằm, tôi phải trải tấm chiếu nhỏ ngoài sân để ngủ (khám Lớn Rạch Giá là thế đấy…những ai đã từng vào đây năm 75 chắc hẳn phải nếm mùi ngủ ngoài sân…).

Vừa nằm xuống, tôi đã thiếp đi lúc nào không rõ, mãi tới gần sáng giật mình thức giấc, thân xác mệt nhừ, mà tai thì chỉ thấy những tiếng thở dài não nuột, những tiếng sột soạt lăn qua lăn lại vì ngủ không được của các bạn đồng cảnh ngộ, lòng tôi quặn đau, đau vì nước mất nhà tan, vợ con nheo nhóc, còn bản thân thì lao tù khổ aỉ! Sự tủi nhục như càng chồng chất bội phần vì đám cán bộ được chỉ định công tác “cải tạo” các cựu quân nhân Cộng Hòa, đã quá ngu dốt và thất học, hầu hết nhưng tên cán bộ CS chỉ có một trình độ kiến thức thấp kém ngoài sự tưởng tượng của những người đang bị chúng “lên lớp.”

Thế rồi tôi được chuyển xuống Cần Thơ mấy tháng sau đó và năm 76 ra Bắc.

Trên đường ra Miền Bắc Xã Hội chủ Nghĩa họ nhốt chúng tôi chật cứng trên chiếc tàu chở hàng hóa hay súc vật…Ðây là một chuyến hải trình mà trên đời có lẽ chưa ai có thể tưởng tượng được!! (Cái cảnh lao tù này đã có nhiều người cùng cảnh ngộ mô tả khá chính xác, thiết nghĩ ở đây chúng tôi không dám nói thêm…)

Quen dần với cuộc sống thiếu thốn về thể chất, về tinh thần tuy bớt nhớ nhà, nhưng lúc này hình như mọi người đều quay về với Ðấng Thiêng Liêng, vì thế đôi lúc chúng tôi không còn cảm thấy sợ hãi nữa, và đã tổ chức những phong trào quyên góp quà cáp… để tặng quà Giáng Sinh cho những tù nhân nghèo khổ nhất – những người không có thăm nuôi của gia đình, không phân biệt tôn giáo. Chính những hoạt động này mà Anh Nguyễn Lý Tưởng hiện là Chủ bút Báo Hiệp Nhất, đã từng bị “còng” (biệt giam) nhiều ngày… Hơn nữa, chúng tôi thường xuyên dậy Giáo Lý cho những người muốn tìm hiểu.

Do đó nhiều buổi lễ rửa tội đã được diễn ra ngay trong trại tù cộng sản, từ cấp Tướng, cấp Tá, cũng như những người thuộc tầng lớp hành chánh và chính trị, có nghĩa là nhiều người đã tìm thấy Chúa, thuộc đủ mọi tầng lớp,… Thầy Sáu vĩnh viễn Vũ thành An cũng nằm trong trường hợp này do chính cụ Trần Khắc Khoan đổ nước rửa tội … nói đến đây chúng tôi xin được chúc mừng Thầy đã mạnh tiến và xin Chúa luôn gìn giữ Thầy hồn an xác mạnh để mạnh tiến hơn nữa hầu phục vụ Chúa và Giáo Hội.

Sau nhiều năm “đói” – không có Linh Mục trong trại nên không hề có Mình Thánh Chúa – hầu như mọi người đều cùng một ao ước được rước Thánh Thể, thế là một ý nghĩ thoáng hiện trong tâm trí tôi : “Mình phải xin gia đình gửi Mình thánh Chúa trong kỳ thăm nuôi sắp tới”.

Hôm ấy, một ngày đẹp trời, tên cán bộ gọi tên tôi và báo có người thăm nuôi!! Tôi cầu xin: “Lạy Chúa, chớ gì vợ con đem được Chính Mình Chúa cho chúng con!!”

Vừa thấy vợ tôi trong căn phòng khách của trại tù, nhiều năm chưa được gặp, giờ đây trông nàng già đi vì vất vả, thay chồng nuôi con, lại phải nuôi cả chồng nữa, như hôm nay đây. Lòng trí tôi thổn thức như bay bổng trên mây…đây rồi, vợ tôi, người mà tôi hằng nhớ thương đây rồi… tôi ngây người trong ít phút không nói ra được lời nào… Nhất là khi được cho biết có đem theo Mình Thánh Chúa đựng trong một hộp sữa Guigoz đầy, nên tôi quá mừng mà chẳng còn thiết đến những thức ăn vợ tôi mang theo; vì thế vợ tôi hơi ngạc nhiên khi thấy thái độ của tôi khác hẳn với những người thăm bên cạnh mà nàng thấy trước mắt, họ ăn lấy ăn để mà chẳng màng gì tới vợ con vì đã thèm khát lâu ngày.

Hết thời gian thăm nuôi, phải trở vào trại giam. Quá băn khoăn và hồi hộp khi nghĩ đến những tên công an sẽ xét, họ xét thật kỹ, làm sao dấu được hộp đựng Mình Thánh Chúa bây giờ đây!!!

Tôi chỉ còn biết thầm thĩ cầu xin: “Lạy Chúa, con bất lực không bảo vệ Chúa được! Vậy xin Chúa tự bảo vệ lấy Mình Chúa”. Như có một sức mạnh, tôi không cảm thấy lo lắng nhưng mạnh dạn đi vào phòng khám xét.

Khi lấy đồ ra để bị khám xét, tôi đặt tất cả mọi thứ dưới nền nhà, nhưng riêng hộp đựng Mình Thánh Chúa tôi mạnh dạn đặt ngay trên bàn trước mặt tên cán bộ công an. Cho tới bây giờ, tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại bình tĩnh thế!!

Tên công an lục lọi khám xét đủ mọi thứ, ngay cả tube kem đánh răng chúng cũng thọc que vào ngoáy để đảm bảo không có gì trong đó, người tôi chúng sờ soạng nắn bóp đủ nơi từ vạt áo cho tới mọi nơi. Thế nhưng hộp đựng Mình Thánh Chúa thì hình như chúng không hề thấy nên không đụng chạm tới.

Một tên nói: “xong rồi, anh đi vào”.

“Lạy Chúa! Con cám ơn Chúa đã che mắt những tên công an này”.

Lòng tôi hân hoan vì Chúa đã làm phép lạ tỏ tường để tự bảo vệ Mình khỏi bị hai tên công an cộng sản hành hạ Chúa, nếu chúng thấy.

Chỉ mừng trong ít phút, tôi lại băn khoăn, làm thế nào tránh khỏi bọn chúng khi mà hàng tháng chúng đi khám xét nơi ngủ của từng người tù, trong khi chúng tôi đi lao động bên ngoài trại. Nghĩ thế, tôi lo lắng, nhưng chỉ còn biết phó mặc Chúa, tôi thầm cầu xin rằng: “Ðây chính là Thân Mình Chúa, chúng con cần có Chúa, nhưng xin Chúa tự lo lấy Thân Chúa chứ con biết làm sao bây giờ”.

Chiều hôm đó, tôi lấy một miếng ván mỗi bề gần hai tấc làm bệ, một bề tựa cột nhà còn bề kia tựa vào tường, tôi dùng hai cái khăn mặt nhỏ che hai bên còn lại. thế là tôi có một “nhà tạm” dã chiến cho Chúa rồi đó! Với Hòm chầu tạm này Chúa đã ở với chúng tôi khá lâu… Từ đó về sau tôi thường thầm cầu nguyện: ”Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì ước ao có Chúa ở cùng, mà chúng con đã đem Chúa vào để ở tù chung với chúng con! Xin Chúa tha thứ cho chúng con!!”

Kính thưa qúy vị và các bạn, quả đây lại là một phép lạ nữa! phép lạ này kéo dài khá lâu, nghĩa là từ đó cho tới khi chuyển trai và đến khi hết Minh Thánh thì chúng tôi được tha về…

Vâng, tôi tin thực sự là phép lạ, vì như chúng tôi trình bày ở trên, tôi không hề cất dấu chỗ nào kín đáo, mà để ngay nơi đầu giường cạnh cây cột nhà, thế mà nhiều lần xét nhà, xét phòng nhưng họ vẫn không bao giờ đụng chạm tới Chúa được…

Hơn nữa từ khi có Mình Thánh Chúa, mỗi Chúa Nhật, vào khoảng tám giờ tối, tất cả các anh em công Giáo trong buồng đều tụ tập lại, ngồi quây quần chung quanh hộp đựng Mình Thánh Chúa để cùng nhau dâng lễ và rước Mình Thánh Chúa. (Những ai đã từng sống tại Trại Hà Tây thuộc Đội Rau xanh và Đội Gạch thì đã chứng kiến những buổi lễ này.) Chắc Qúy vị cũng biết rằng trong trại tù cộng sản vấn đề ăng ten – danh từ để chỉ những chỉ điểm viên, chỉ điểm cho bọn cai tù, chỉ điểm cho bọn cai tù, họ báo cáo mọi hành vi của các tù nhân đi bán rẻ lương tâm, cam thân phận làm “ăng ten,” – nó nhiều như rươi ấy. Làm gì mà chẳng báo cáo cho tụi cai tù cơ chứ! Hoặc giả chúng tôi chỉ thực hiện một lần, hay một tháng thì không nói, đàng này cứ mỗi tuần và kéo dài cả hàng năm tụi công an vẫn chưa hề bao giờ đả động tới vấn đề này. Nói rằng chúng không biết lại càng vô lý, vì Mình Thánh của chúng tôi hình dáng vẫn y như Minh Thánh trong các nhà thờ (không ngụy trang). Trường hợp điển hình chứng tỏ chúng biết rất rõ thế nào là Mình Thánh Chúa, anh bạn chúng tôi, trước đó có đem theo một miếng nhỏ Mình Thánh và anh bọc trong miếng vải có giây để đeo nơi ngực, tụi công an nó khám được và anh đã bị còng nơi nhà kỷ luật, đó là trường hợp anh Đỗ Tiến Đức, hiện ở Houston Texas. Ðược chứng kiến phép lạ, nhưng tôi vẫn ôm ấp cho riêng mình hơn hai chục năm nay, tuy có vài lần thổ lộ với những người thân. Do đó, tôi thường thấy nỗi băn khoăn, bứt rứt trong lòng vì tôi đã không loan truyền để Vinh Danh Chúa Giêsu Thánh Thể. Nên hôm nay tôi nguyện xin Chúa rằng: “Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con đã đưa Chùa vào tù ở chung với chúng con! Và trong thời gian đó Chúa đã phải tự bảo vệ cho chính Thánh Thể Chúa…Vậy giờ này con viết ra để mọi người cùng tôn vinh Thánh Thể Chúa và thấy rằng Chúa sẵn sàng làm phép lạ cho kẻ Tin và xin Người.

Hồi ký của người tù tên Vũ Huy Thiện

Hoa Kỳ cảnh báo Trung Quốc về Biển Đông

Hoa Kỳ cảnh báo Trung Quốc về Biển Đông

 VOA

Ông Kenneth Lieberthal, Giám đốc Trung tâm Trung Quốc thuộc Viện Brookings

03.08.2012

Chính phủ Hoa Kỳ hôm thứ Sáu cảnh báo Trung Quốc tránh có thêm động thái nhằm siết chặt kiểm soát trong vùng biển Nam Trung Hoa đang có tranh chấp, mà Việt Nam gọi là Biển Đông; giữa lúc có thêm căng thẳng tại khu vực này.

Trong thông cáo báo chí cùng ngày, Bộ Ngoại giao Mỹ lưu ý Trung Quốc về chuyện có thêm khu cảnh bị và đưa thêm giới chức dân sự đến bãi cạn Scarborough, và sử dụng các rào cản ngăn không cho tàu của nước ngoài đến.

Trong thông cáo, quyền phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Patrick Ventrell nhấn mạnh việc Bắc Kinh nâng cấp mức quản lý hành chính tại thành phố Tam Sa và lập khu cảnh bị tại đây đi ngược lại với các nỗ lực hợp tác ngoại giao nhằm giải quyết những cách biệt và rủi ro làm leo thang căng thẳng trong khu vực.

Thông cáo dường như là dấu hiệu cho các nước Đông Nam Á thấy Hoa Kỳ tiếp tục theo dõi các diễn biến trong khu vực.

Tuy nhiên, theo lời ông Kenneth Lieberthal, chuyên viên về Trung Quốc tại viện nghiên cứu Brookings và là một giới chức dưới thời cựu Tổng thống Clinton, việc chính phủ Mỹ nêu đích danh Trung Quốc trong lúc có mấy nước Đông Nam Á đòi chủ quyền tại vùng này, có thể làm Bắc Kinh nghĩ rằng Washington đang siết chặt an ninh tại đây để hạn chế sự bành trướng của Trung Quốc. Ông nói tiếp:

“Rất có thể Trung Quốc sẽ xem cảnh báo này không cần thiết, và xác nhận các quan tâm của họ rằng Hoa Kỳ đang năng nổ tìm cách đứng về phe các nước Đông nam Á để chống lại họ.”

Tại Washington, giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết:

“Lập trường Hoa Kỳ tôi cho là cũng không có gì mới mẻ so với từ trước đến giờ là không tìm cách can thiệp vào những tranh chấp nếu đó là giữa hai quốc gia, giữa Trung Quốc và một quốc gia đặc biệt nào. Họ chỉ quan tâm đến quyền lợi của họ như hàng hải tự do trong vùng và không muốn thấy có chiến tranh nên nếu có tranh chấp thì giải quyết bằng con đường hòa bình. Nói cách khác Hoa Kỳ làm áp lực để ASEAN bây giờ ngồi lại với nhau để thành hình một giải pháp tập thể của toàn vùng ASEAN. Hoa Kỳ cho rằng nếu ASEAN không bảo được nhau như trường hợp tại Kampuchia vừa rồi thì Trung Quốc cứ lấn tới thôi.”

(Nguồn: Los Angeles Times, Bộ Ngoại giao Mỹ)

KINH CẦU CHO GIA ÐÌNH

KINH CẦU CHO GIA ÐÌNH

  Lạy Chúa Giê-su, chúng con xác tín rằng, hôn nhân và gia đình là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, công trình của yêu thương, khôn ngoan và thánh thiện.  Chúng con tin rằng, Chúa muốn và Chúa luôn ban ơn, để hôn nhân được hạnh phúc trong sự duy nhất và bền bỉ, trong việc truyền sinh và phát huy sự sống.

 Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương mà nâng hôn nhân lên hàng Bí tích.  Xin Chúa cho các đôi vợ chồng sống trung thành với nhau, cho cha mẹ biết ý thức trách nhiệm giáo dục con cái, cho con cái biết vâng phục và yêu mến cha mẹ.  Xin Chúa làm cho các thế hệ trẻ, tìm được nơi gia đình sự nâng đỡ chắc chắn cho giá trị làm người của họ, và được trưởng thành trong chân lý và tình thương.

 Lạy Thánh Gia Na-da-rét, là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức,  trong hiền hoà, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình, thành mối an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình, đều được thăng tiến, để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Giáo Hội.

 Xin Ba Ðấng luôn hiện diện trong gia đình chúng con, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi lo âu cũng như lúc hy vọng, khi sinh con cũng như lúc có kẻ qua đời, để khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống, chúng con luôn luôn chúc tụng Chúa, cho đến ngày được sum họp với Ba Ðấng trong Nước Trời.

  Amen.

Thánh Gioan Maria Vianey

Thánh Gioan Maria Vianey

Tác giả: Trầm Thiên Thu

 

Hồi thiếu niên, tôi được biết Thánh Gioan Maria Vianney qua các tập truyện hạnh các thánh, và tôi đã rất “ấn tượng” với vị thánh “không giống ai” này. Việc Chúa làm quá kỳ lạ! Quả thật, “điều gì là không thể với loài người thì vẫn có thể đối với Thiên Chúa” (x. Mt 19:26).

Ngày 4-8 hằng năm là lễ Thánh Gioan Tẩy giả Maria Vianney (1786-1859), cha sở họ Ars (curé d’Ars), bổn mạng các linh mục. Ngài là người sống khiêm nhường và thánh thiện khác thường.

Ngài dâng mình vì vinh danh Thiên Chúa và cứu các linh hồn. Ngài chấp nhận phải thánh thiện từ nhỏ, và điều đó đã hoàn tất nơi ngài. Mọi lời ngài nói ra đều được nói bằng tâm tình sùng kính. Thành công của ngài khó ai có thể bắt chước. Ảnh hưởng của ngài không thể bỏ qua, và kết quả không thể tranh luận.

Mẹ của Thánh Gioan Vianney là một phụ nữ rất sùng đạo, bà cho con trai biết đạo rất sớm. Thánh Gioan Vianney nói: “Tôi mắc nợ mẹ tôi, các nhân đức của mẹ tôi dễ dàng đi vào lòng con cái, và con cái sẵn sàng làm những gì được nhìn thấy”. Ngài có bản chất tốt, với đôi mắt xanh và tóc nâu. Về sau, ngài nói: “Khi tôi còn nhỏ, tôi không biết điều xấu. Tôi quen như thế nơi tòa cáo giải, từ miệng của các hối nhân”.

Sau nhiều gian truân, Thánh Gioan Vianney mới được chấp nhận trở thành linh mục. Lúc 20 tuổi, ngài rất khó khăn để học làm linh mục. Mathias Loras, có thể là người thông minh nhất của ngài trong chủng viện, được phân công giúp ngài học, và cũng rất nóng tính. Một hôm, hết chịu nổi khả năng của Gioan Vianney, Mathias Loras (12 tuổi) đã bạt tai Gioan Vianney trước mặt các chủng sinh khác. Mathias Loras thấy nóng mặt, nhưng cậu vẫn quỳ xuống trước mặt Gioan Vianney để xin lỗi. Mathias Loras có một trái tim vàng. Gioan Vianney cảm thấy buồn và bật khóc, rồi ôm lấy Mathias Loras đang quỳ dưới chân mình. Việc này bắt đầu một tình bạn khăng khít. Mathias Loras về sau làm nhà truyền giáo tại Hoa Kỳ, rồi làm giám mục giáo phận Dubuque, nhưng không bao giờ quên kỷ niệm xưa.

Thánh Gioan Vianney là người có cách nhìn vượt qua mọi trở ngại và có những hành vi tưởng chừng như không thể. Ngài khao khát làm linh mục, nhưng ngài phải cố vượt qua sức học yếu kém của mình, không đủ điều kiện vào chủng viện.

Ngài không học nổi tiếng Latin nên buộc ngài phải dừng bước. Nhưng mơ ước làm linh mục trong ngài khiến ngài tự tìm thầy dạy riêng. Sau thời gian dài vật lộn với sách vở, ngài được thụ phong linh mục.

Lúc còn là chủng sinh, Gioan Vianney học rất chậm. Một ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Tuy đã cố hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì”?

Gioan Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3.000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?”.

Và “con lừa” Gioan Vianney đã làm nên trò trống là làm rạng danh Thiên Chúa và mưu ích cho Giáo hội. Cùng với Catherine Lassagne và Benedicta Lardet, ngài lập La Providence (Chúa quan phòng), một nhà dành cho các cô gái. Ngài tín thác Thiên Chúa sẽ ban các điều cần cho tinh thần và thể lý của những người coi nhà “Chúa Quan Phòng” là nhà của mình.

Những việc “bất khả thi” luôn ám ảnh ngài. Tài mọn, học kém, nhưng ngài vẫn được “đặc cách” thụ phong linh mục năm 1815. Sau 3 năm ở Ecully, ngài được bổ nhiệm về xứ Ars. Khi quản nhiệm xứ Ars, ngài gặp nhiều người lạnh nhạt và sống khá thoải mái. Ngài muốn giúp họ ăn chay nghiêm ngặt và ngủ ít ban đêm: Một số quỷ chỉ có thể bị xua đuổi bằng việc cầu nguyện và ăn chay.

Lm Gioan Vianney cố gắng đạt được điều mà nhiều linh mục ước muốn, nhưng đó là điều khó. Không thể làm trong một sớm một chiều, mà phải kiên nhẫn thay đổi từng chút. Đây là một xứ nhỏ nhưng “rắc rối” đủ chuyện. Khi đến nơi, Lm Gioan Vianney quỳ xuống hôn đất và cầu nguyện. Hành động đặc biệt này đã được Chân phước GH Gioan Phaolô II noi gương mỗi khi ngài đến nơi nào đó. Thánh Gioan Vianney nói: “Nếu một linh mục không muốn mất linh hồn, thì ngay khi giáo xứ gặp rắc rối, linh mục đó phải vượt qua mọi toan tính của con người, không sợ bị khinh thường và bị thù ghét. Linh mục đó không cần phải biện hộ, dù bị sát hại. Mục tử muốn làm sứ vụ thì luôn phải cầm gươm trong tay. Chính Thánh Phaolô đã nói với giáo đoàn Corintô: Phần tôi, tôi rất vui lòng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi vì linh hồn anh em. Phải chăng vì yêu mến anh em nhiều hơn mà tôi được yêu mến ít hơn?”. (*)

Trong các bài giảng đầu tiên, Thánh Gioan Vianney đã phản đối các thói hư tật xấu của dân xứ Ars: Báng bổ, nguyền rủa, coi thường ngày Chúa nhật, tụ tập ăn nhậu và múa hát ở các quán xá, những bài hát trơ trẽn và ăn nói tục tĩu. Ngài nói: “Quán xá là cửa hàng của ma quỷ, là trường học của hỏa ngục, là thị trường buôn bán các linh hồn, là nơi làm tan vỡ các gia đình, là nơi làm cho sức khỏe bị hao mòn, là nơi xảy ra các cuộc cãi vã và giết người”.

Thánh Gioan Vianney không bao giờ nghĩ xứ Ars sẽ thay đổi cho đến khi có 200 người sống theo Mười Điều Răn của Chúa, Sáu Điều Răn của Giáo hội và hoàn tất nhiệm vụ trong cuộc sống. Điều này có đòi hỏi quá nhiều để đổi lấy Nước Trời?  Chúa Giêsu nói: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16:26; Mc 8:34; Lc 9:22). Nếu chúng ta hỏi họ làm gì trong ngày Chúa nhật, có thể họ sẽ trả lời:  “Tôi bán linh hồn cho ma quỷ và đóng đinh Chúa Giêsu… Tôi đã được tiền định xuống hỏa ngục…”.  Đó có thể là lời được nói ra hoặc chỉ được nói thầm trong lòng!

Thánh Gioan Vianney phải mất 10 năm mới có thể thay đổi dân xứ Ars. Không còn làm việc ngày Chúa nhật, nhà thờ càng ngày càng đông người, không còn say xỉn. Cuối cùng, các quán rượu đóng cửa vì không có khách, và các cuộc cãi vã trong gia đình cũng hết. Lòng chân thật trở nên tính cách chung. Thánh Gioan Vianney viết: “Xứ Ars không còn là xứ Ars nữa”, vì cả xứ đã thay đổi tận gốc rễ. Cả xứ Ars trở nên một cộng đoàn đạo hạnh. Ngài vui mừng dạy giáo lý cho trẻ em và dạy chúng làm bổn phận.

Thánh Gioan Vianney thánh hóa mình trong công việc và luôn sống trong thế giới siêu nhiên, nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ của một con người và một linh mục. Ngài nói: “Thật tốt đẹp biết bao khi làm mọi việc đều kết hiệp với Thiên Chúa nhân lành! Hồn tôi ơi, hãy can đảm! Nếu ngươi làm việc với Thiên Chúa, ngươi sẽ thực sự làm việc, và Ngài sẽ chúc lành cho công việc. Ngươi sẽ bước đi và Ngài sẽ chúc lành cho những bước chân. Mọi thứ đều được ghi công. Hãy dâng mọi đau khổ nhỏ lên cho Chúa. Tốt đẹp biết bao nếu biết dâng mình, dâng ngày, dâng mọi sự cho Chúa!”.

Trong thư an ủi người anh em họ là Lm Chalovet, Thánh Gioan Vianney viết: “Tôi vội viết những dòng này để nói anh đừng bỏ đi, dù có những thử thách mà Chúa muốn anh chịu đựng. Hãy can đảm! Nước Trời đủ để làm phần thưởng cho anh. Hãy nhớ rằng ma quỷ trong thế giới này muốn giành lấy các Kitô hữu tốt lành. Anh đang trong hành trình tử đạo. Nhưng phúc thay nếu anh là người tử đạo vì bác ái! Đừng để mất triều thiên vinh hiển đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: ‘Phúc cho ai chịu bách hại vì Ta’. Xin chào tạm biệt. Hãy kiên trì và chúng ta sẽ gặp lại nhau trên Nước Trời… Hãy can đảm lên, hỡi người anh em! Chúng ta sẽ sớm thấy Thiên đàn vinh quang. Sẽ không còn thập giá cho chúng ta! Thật là thiên phúc! Chúa Giêsu đã yêu chúng ta quá nhiều và Ngài sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc!”.

Từ nhỏ, Thánh Gioan Vianney đã yêu mến Đức Mẹ. Khi là linh mục, ngài luôn cố gắng truyền bá lòng sùng kính Đức Mẹ. Các gia đình trong xứ Ars đều có tượng Đức Mẹ trước nhà, và trong nhà nào cũng có ảnh Đức Mẹ với chữ ký “M. le Curé” (Cha sở Maria, tức là Lm Gioan Maria Vianney). Năm 1814, ngài cho dựng tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm tại nhà thờ xứ. Tám năm trước đó, ngày 1-5-1836, ngài đã dâng xứ Ars cho Đức Mẹ Vô Nhiễm. Những ngày lễ Đức Mẹ, giáo dân rước lễ rất đông, và nhà thờ không bao giờ vắng người. Chiều các ngày lễ Đức Mẹ, không ai muốn bỏ lỡ các bài giảng của ngài về Đức Mẹ. Người nghe rất phấn khởi khi nghe ngài nói về sự thánh thiện, sức mạnh và tình yêu của Đức Mẹ.

Giáo dân xứ Ars nói với nhau: “Cha xứ của chúng tôi luôn làm những điều ngài nói và thực hiện những điều ngài giảng. Không bao giờ thấy ngài nghỉ ngơi thoải mái”. Ngài ăn chay nghiêm ngặt, đến nỗi chỉ còn da bọc xương. Ngài ngủ ít, mà chỉ nằm trên chiếc chiếu giản dị, và việc ăn uống của ngài cũng rất sơ sài, có khi chỉ là mấy củ khoai. Thánh Gioan Vianney đọc sách nhiều, và thường đọc hạnh các thánh. Ngài ấn tượng với cách sống thánh thiện của các thánh, ngài muốn chính ngài và người khác cũng noi theo những tấm gương đạo đức đó. Cách sống của ngài khiến chúng ta phải thẳng thắn tự xét mình rất nhiều!

Ngài nói: “Nếu chúng ta không là thánh bây giờ, thật bất hạnh cho chúng ta, vì thế mà chúng ta phải nên thánh ngay bây giờ. Trong lòng chúng ta không có tình yêu thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể làm thánh”.

Từ năm 1827, bắt đầu có nhiều người đổ về xứ Ars. Khách hành hương đến từ Pháp, Bỉ, Anh và từ Mỹ châu. Động lức chính của khách hành hương là muốn xưng tội với vị thánh sống và nghe lời khuyên của cha sở thánh thiện của xứ Ars. Tất cả là hồng ân Chúa, việc Chúa làm, chứ ngài không bao giờ xía vào chuyện riêng của người khác. Ngài hoàn toàn không tò mò, thọc mạch, hoặc chỉ trích giáo dân. Cũng như Thánh Giám mục Phanxicô Salê, ngài có biệt tài “thấy những cái mà người khác không thấy”. Khi giải tội, ngài thực sự thương yêu các hối nhân, đến nỗi ngài thường khóc ngay tòa giải tội. Người ta hỏi sao ngài khóc thì ngài trả lời: “Tôi khóc vì bạn không khóc”.

Người ta nói rằng “phép lạ vĩ đại của cha sở xứ Ars là tòa cáo giải”, vì ngài giải tội suốt ngày suốt đêm. Cũng có người nói rằng “phép lạ vĩ đại nhất của cha sở xứ Ars là hoán cải tội nhân”. Một hôm, có người tới xưng tội, người này chỉ đến nhà thờ vào ngày lễ Giáng sinh và Phục sinh. Thánh Gioan Vianney hỏi: “Ông xưng tội bao lâu rồi?”. Người này trả lời: “Bốn mươi năm rồi”. Ngài ngạc nhiên: “Bốn mươi năm?”. Người này nói: “Dạ, đúng là bốn mươi năm”. Và rồi người đàn ông này đã trở lại và chết tốt lành.

Ngày 4-8-1859, Lm Gioan Vianney trút hơi thở cuối cùng để về với Chúa. Ngài làm cha sở xứ Ars được 41 năm. Ngài được Giáo hội phong thánh năm 1925. Ngày nay, mỗi năm có hơn 500.000 lượt người đến thăm giáo xứ nhỏ bé Ars để kính viếng thi-hài-không-hư-nát của một Đại thánh nhân của Giáo hội Công giáo. Cuộc đời Thánh Gioan Vianney là câu chuyện dài về sự thánh thiện và đức khiêm nhường, ngài có trí thông minh kém cỏi nhưng rất thông minh về Thiên Chúa. Ngài chỉ thành công khi trở thành linh mục, ngài đã hoán cải cuộc đời rất nhiều tội nhân và ảnh hưởng mọi lớp người.

Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn giải hòa người ta với Thiên Chúa. Có những ngày ngài giải tội khoảng 12 giờ vào mùa Đông, và 16 giờ vào mùa Hè. Ngài không hề nghĩ tới việc nghỉ hưu. Khi nhiều người biết đến ngài, ngài dành thêm thời gian để phục vụ Thiên Chúa, thậm chí ngài có ít thời gian để ngủ vì thường xuyên bị ma quỷ “quấy rầy”.

Ngài sinh tại Dardilly và qua đời tại Ars, Pháp. Ngài được ĐGH Piô X phong chân phước, và được ĐGH Piô XI phong thánh. Ngài được tôn phong là bổn mạng các linh mục, nhưng nhiều linh mục chưa thực sự noi gương ngài để trở thành khí cụ như Ý Chúa!

Cuộc đời Thánh Gioan Vianney đã hoàn tất theo Ý Chúa: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45).

Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Chân phước Mẹ Teresa Calcutta ghi một bảng chữ ở phòng áo nhà nguyện thế này: “Xin các linh mục hãy dân thánh lễ sốt sắng như thánh lễ đầu tiên và như thánh lễ cuối cùng”. Mẹ Teresa rất sâu sắc và thánh thiện, vì cử hành thánh lễ là cử hành bí tích, rất quan trọng!

Thánh Gioan Vianney đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm!

Lạy Thánh Gioan Vianney, xin cho chúng con biết noi gương thánh thiện của ngài, và xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con để chúng con có thể mau mắn hoán cải và sống theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).

TRẦM THIÊN THU

(*) 2 Cr 12:15.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

I-NHÃ, CON NGƯỜI TÌM KIẾM

Thánh Inhaxiô Loyola

I-NHÃ, CON NGƯỜI TÌM KIẾM  

                                                                                      Nguyễn Cao Siêu, SJ

1/  I-NHÃ, con người tìm kiếm thế gian

I-nhã, suốt đời là con người tìm kiếm, và tìm kiếm hết mình.  Ba mươi năm đầu, ngài tìm kiếm vinh hoa thế gian, thích được tiếng tăm lẫy lừng, thích những cuộc so gươm và mang trong mình ước mơ chinh phục một tiểu thư khuê các.

I-nhã muốn tử thủ khi quân Pháp ào ạt bao vây thành Pamplona.  Ngài thú tội với người bạn đồng đội, điều đó cho thấy ngài sẵn sàng chết để bảo vệ thành.  Hẳn I-nhã coi chuyện chưa đánh đã hàng là một điều nhục nhã, không hợp với khí phách nam nhi.  Sau sáu giờ nã pháo vào thành, một viên đại pháo đã làm gãy chân mặt của I-nhã.  Thế là kết thúc việc chiếm thành, và khởi đầu một cuộc chinh phục của Thiên Chúa.

 

I-nhã đâu có dễ bỏ những mộng ước thế tục.  Điều ngài quan tâm là cái chân đau của mình.  Vết thương nơi chân phải mổ lần thứ hai khiến ngài suýt chết.  Nhưng khi chân đã lành, thì I-nhã lại đau khổ vì thấy mình chân thấp chân cao, làm sao mà khiêu vũ (!).  Chính ngài thú nhận: “Khi các xương đã liền, thì xương dưới đầu gối chồng lên xương kia nên chân đã bị ngắn lại, có một cục xương lồi ra rất khó coi.  Vì đã quyết tâm theo hư danh trần gian, nên ông hỏi bác sĩ xem có thể cưa cục xương đó không.  Họ trả lời có thể cưa được, nhưng đau đớn hơn gấp bội (vì không có thuốc mê).  Tuy nhiên, ông đã quyết chịu đau để thực hiện ước muốn của mình.”

I-nhã đã tìm kiếm thế gian một cách nghiêm chỉnh và say mê.  Ngài chấp nhận trả giá để được những gì thế gian ca tụng: sắc đẹp, tài năng, danh vọng…

Thời gian dưỡng thương là thời gian I-nhã nóng ruột trở lại với cung đình, nhưng Thiên Chúa đã biến nó thành thời gian hồng phúc.  Tình cờ người chị dâu đưa cho ngài cuốn sách “Cuộc đời Đức Kitô” và cuốn “Hạnh các Thánh”.  Gương các thánh tạo nên một âm vang lớn trong lòng ngài.  Có một thúc đẩy mạnh mẽ mời gọi ngài bắt chước các thánh: sống khắc khổ, đi viếng Đất Thánh, nhịn ăn, đánh tội.  Khi nghĩ đến những việc đó, I-nhã thấy lòng bừng lên một niềm vui kéo dài, khác với thứ niềm vui hời hợt, mau qua khi ngài nghĩ đến những chuyện thế gian phù phiếm.  I-nhã bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc về quãng đời quá khứ của mình, và thấy cần phải làm việc hãm mình đền tội.

I-nhã đã đi vào con đường hoán cải.  Có biết bao điều cần cho một cuộc hoán cải, những điều xem ra tình cờ hay rủi ro: một thất bại, một cuốn sách, một vết thương làm cho không đi lại được…  Viên đạn đại bác đã làm I-nhã gãy chân và dừng chân.  Chỉ khi dừng chân, I-nhã mới có thể thấy quá khứ và định hướng lại cuộc đời.
Trở lại là tiếp tục tìm kiếm một điều khác xưa.  Không tìm kiếm danh thơm tiếng tốt cho mình, nhưng vinh quang cho Thiên Chúa, không tìm phục sự vua Tây Ban Nha, nhưng tìm phục sự vua Giêsu.  Từ đây, Chúa Giêsu trở nên trung tâm của đời I-nhã.

 

Lạy Cha,
Sống là tìm kiếm!
Mỗi người theo điều mình đang mãi mê kiếm tìm.
Chúng con tự hỏi mình đang tìm kiếm gì, tìm kiếm ai?
đâu là hướng đi, đâu là lý tưởng đời mình?

Chúng con thấy rằng những giá trị của thế gian
chiếm chỗ lớn trong những ước mơ của chúng con.
Tiền bạc, danh vọng, khoái lạc, quyền lực
vẫn là những điều làm chúng con ngây ngất say mê.
Cha vẫn không có chỗ cao nhất trong cuộc đời của chúng con.

Lạy Cha, xin ban cho chúng con ơn hoán cải như I-nhã.
Xin đánh thức chúng con khỏi cơn mê.
Xin làm cho chúng con tỉnh ngộ để nhận ra giá trị đích thực.
Xin dạy chúng con biết kiếm tìm Cha,
vì chỉ có Cha mới thật sự đong đầy
những ước mơ sâu kín của chúng con,
và cho chúng con được hạnh phúc viên mãn.

 

2/  I-NHÃ, con người tìm kiếm Thiên Chúa


Từ khi được ơn hoán cải, I-nhã trở thành con người tìm kiếm Thiên Chúa.  Ngài không thấy hết con đường Thiên Chúa muốn dắt ngài đi, chính vì thế ngài tự nhận mình là một người lữ khách, rong ruổi trong cuộc hành trình kiếm tìm ý Chúa cho đời mình.
      Sau khi hoàn toàn bình phục, I-nhã lên đường đi Đất Thánh như lòng Ngài ao ước.  Ngài dứt khoát muốn ở lại đây vì lòng ngài yêu mến vùng đất chính Chúa Giêsu đã sống và vì muốn giúp đỡ các người chưa biết Chúa.  I-nhã nói với cha Giám Tỉnh dòng Phanxicô ở Bêlem rằng: ngài đã “nhất quyết rồi và sẽ không đổi vì bất cứ lý do nào, cũng không sợ bất cứ lời đe dọa nào…”  Lúc ấy, cha Giám Tỉnh mới cho I-nhã biết ông không được ở lại Đất Thánh, bất tuân sẽ bị tuyệt thông.  I-nhã thấy ngay là “ý Chúa không muốn mình ở lại Đất Thánh.”  Ngài chấp nhận từ bỏ mơ ước của mình để đón lấy ý Chúa. Mơ ước là cần thiết, nhưng thực tế cũng là nơi Thiên Chúa ngỏ lời.  I-nhã đã để cho Chúa dẫn mình đi vào lối của Chúa, xuyên qua thực tế của cuộc sống.
    “Sau khi thấy rõ ý Chúa không muốn ông ở lại Giêrusalem, người lữ khách luôn luôn cầm trí suy nghĩ xem phải làm gì bây giờ, và ông thấy mình nghiêng về việc đi học một thời gian để có thể giúp đỡ các linh hồn.” Giúp đỡ các linh hồn đã là mối bận tâm của I-nhã ngay từ khi hoán cải.  Nhưng bây giờ, ngài thấy mình cần phải đi học, học để giúp đỡ người khác một cách hiệu quả hơn.  Tuy vậy, I-nhã vẫn chưa ý thức đủ về tầm quan trọng của việc học.  Vừa học ngài vừa cho linh thao, dạy giáo lý, gặp gỡ thiêng liêng.  Chính vì thế ngài đã gặp nhiều khó khăn từ phía giáo quyền. I-nhã bị buộc học bốn năm mới được giảng dạy giáo lý, mới được giúp người ta phân biệt khi nào thì phạm tội trọng, khi nào phạm tội nhẹ.
    Chính sự cấm đoán của giáo quyền đã khiến I-nhã học tập một cách nghiêm túc hơn.  Ngài chấp nhận hy sinh việc tông đồ, chỉ đi xin trợ cấp vào mùa hè, và điều độ trong việc cầu nguyện.  I-nhã đã miệt mài học tập trong bảy năm trời để cuối cùng tốt nghiệp Đại học Paris lúc 44 tuổi.  Việc học chỉ là phương tiện phục vụ, nhưng lại là phương tiện cần thiết, nên được I-nhã trân trọng và theo đuổi đến cùng.
Trong thời gian học tập ở Paris, nhờ Linh thao, I-nhã đã quy tụ được những người bạn cùng chí hướng.  Họ muốn sống nghèo và độc thân để phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội.  Cả nhóm đã hứa sau khi tốt nghiệp sẽ cùng nhau đi Đất Thánh và ở lại đó làm việc tông đồ.  Nhưng một lần nữa, đó không phải là ý Chúa.  Chẳng có chuyến tàu nào dám đi Đất Thánh trong thời gian ấy, vì có xung đột giữa Venise và người Thổ Nhĩ Kỳ, nên cả nhóm đã đi Roma, tự nguyện dâng mình cho Đức Thánh Cha định liệu.  Đức Thánh Cha đã sai các bạn cựu sinh viên, nay đã là những linh mục, đi khắp nơi làm việc tông đồ.  Trước nguy cơ nhóm bị tan rã và tình bạn bị mai một, I-nhã và các bạn đã quyết định lập một dòng tu mới trong Giáo Hội, dòng mang Tên Chúa Giêsu.

Tay Chúa đã dẫn đưa I-nhã từ chiếc giường bệnh ở Loyola đến với căn phòng của vị sáng lập Dòng Tên tại Roma.  Ai có thể ngờ được việc Thiên Chúa dẫn đưa ngài qua những biến cố may rủi của cuộc sống?  

 

Chẳng có gì nằm ngoài kế hoạch của Thiên Chúa.  Thiên Chúa dùng mọi sự để đưa ta đi vào con đường của Ngài, con đường bất ngờ, con đường khác với những gì ta dự tính.  Nếu chúng ta chấp nhận tìm kiếm ý Chúa qua những biến cố của cuộc sống, nếu chúng ta không bắt Chúa phải phục vụ cho dự tính của mình, thì cuộc đời chúng ta có cơ may thành tựu như cuộc đời của thánh I-nhã.

 

Nguyễn Cao Siêu, SJ

Thánh Alphonsô Maria Liguori, Giám mục, Tiến sĩ Hội thánh

 Thánh Alphonsô Maria Liguori, Giám mục, Tiến sĩ Hội thánh

                                                                                              Ngày 1/8:

 

Thánh Alphongsô Maria Liguori sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples và là con trưởng trong 7 anh em. Ngay từ trong nôi, Ngài là giáo điểm tập hợp ân huệ đáng mơ ước như trí thông minh, danh giá, tài sản, thiên khiếu nghệ thuật và một tấm lòng đại độ. Trong khi đó người mẹ rất đạo hạnh nghĩ rằng: Các ân huệ tốt đẹp nhất sẽ chẳng có giá trị gì nếu không hướng về Chúa. Người lãnh nhiều phải trả nhiều.

Như vậy ân phúc kỳ diệu nhất mà Alphongsô nhận được chính là giáo huấn của người mẹ. Alphongsô học tiếng Hylạp, tiếng Latinh, tiếng Pháp và toán. Ngài say mê âm nhạc và hội họa. Là một con người có chí. Alphongsô gây ảnh hưởng tốt đối với chúng bạn. Bằng sự trong trắng tế nhị và lòng đạo đức của mình.

Alphongsô thành công rất sớm. 17 tuổi Ngài đậu bằng tiến sĩ luật khoa cả về giáo luật lẫn dân luật và đã bắt đầu hành nghề luật sư. Khả năng hùng biện của Ngài hứa hẹn một tương lai tươi sáng. Nhưng tuổi trẻ cũng có cớ dẫn Ngài tới lỗi lầm với hậu quả bi thảm, năm 1723 trong một vụ kiện, Ngài biện hộ với một giọng nói hùng hồn. Lý lẽ vững chắc, làm cho cả tòa án phải ngỡ ngàng tán thưởng. Nhưng khi vừa dứt lời, đối thủ ôn hoà vạch ra một lỗi nhỏ mà Ngài không nhận thấy. Chính lỗi nhỏ đó đã tiêu hủy luận chứng lẫn danh tiếng của Ngài.

Thất bại, Alphongsô rất đau buồn và đã đóng cửa phòng hai ngày liền. Ngài suy nghĩ và tự hỏi rằng: Đây không phải là lời mời gọi của Chúa hay sao…? Bỏ nghề, Ngài nói: “Ôi thế gian, ta đã biết ngươi. Hỡi pháp đình, ngươi sẽ không còn gặp ta nữa”

Ngài tìm đường sống và dấn thân cho công cuộc bác ái. Một ngày kia, đang khi thăm viếng các bệnh nhân trong một nhà thương, Ngài nghe hỏi: Ngươi làm gì ở thế gian này? Nhìn chung quanh Ngài không thấy ai, nhưng Ngài vẫn nghe hỏi một lần nữa. Vào một nguyện đường dâng kính Đức Mẹ từ bi gần đó, Ngài hứa sẽ gia nhập dòng giảng thuyết và làm Linh mục. Đặt thanh gươm trên bàn thờ Ngài nói: Lạy Chúa này con đây, xin hãy làm nơi con điều đẹp lòng Chúa. Con là gì và con có chi, con xin hiến dâng để phụng sự Chúa.

Nghe tin này cha Ngài giận dữ nói: con quyết bỏ nghề, bỏ cả vị hôn thê của con sao? Ngài đã trả lời rằng: đối với Chúa chẳng có hy sinh nào gọi là quá lớn lao cả. Ngài cương quyết giữ ý định và cha Ngài không thèm nhìn đến Ngài nữa. Năm 1726, Ngài thụ phong Linh mục.

Thánh nhân rao giảng khắp vương quốc Naples. Cha Ngài giận dữ quyết không chịu nghe. Ngày kia ông vào một thánh đường, đúng lúc con ông đang thuyết giảng. Thoạt đầu ông giận dữ, nhưng rồi dần dần ông mềm lòng. Ơn Chúa đã đến nhờ lời giảng dạy của con ông. Kết thúc giờ phụng vụ ra về, ông nói: Con tôi đã làm cho tôi được biết Chúa.

Suốt đời, thánh Alphongsô không những chỉ nỗ lực trong công việc tri thức mà còn lo tiếp xúc với dân chúng. Ngài thích việc ngồi tòa hơn là việc nghiên cứu. Ngài mang đặc điểm của một Linh mục truyền giáo. Thành quả của Ngài thực hiện được chính là dòng Chúa Cứu Thế, thành lập tại Scala tháng 11 năm 1732. Dầu cho từ đầu, hội dòng đã bị phân rẽ thành hai phe và thánh Alphongsô phải khởi đầu lại, với hai người bạn, nhưng hội dòng cũng khởi sự tốt đẹp và phát triển. Dòng được chuẩn nhận ngày 21 tháng 2 năm 1749.

Năm 1548 thánh nhân xuất bản bộ thần học luân lý, được Đức Giáo hoàng Bênêdictô XIV phê chuẩn và gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp.

Năm 1762 Đức Giáo hoàng Clementô XIV đặt Ngài làm Giám mục cai quản địa phận Agata. Ngài nỗ lực thăng tiến lòng đạo đức trong điạ phận, khởi sự từ viêc canh tân hàng giáo sĩ. Năm 1775 Ngài được Đức Giáo hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm để về sống trong dòng tại Nocera.

Những năm cuối đời, thánh Alphongsô đã trải qua rất nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Dầu trong “đêm tối của linh hồn” Ngài vẫn không nao núng và luôn kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: “Ai cầu nguyện sẽ được cứu thoát, ai không cầu nguyện sẽ tự luận phạt”. Cuối cùng Ngài tìm được bình an và qua đời năm 1787.
Thánh Alphongsô Maria Liguori đã nêu gương cho chúng ta về đời sống hy sinh, hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa. Xin cho mỗi chúng ta cũng biết noi gương Ngài quảng đại dâng hiến cho Chúa tất cả những gì chúng ta có. Để Thiên Chúa thực hiện kế hoạch của Ngài ngang qua cuộc đời của ta.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi