TÔI THEO ĐẠO TRỜI

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

1. Đạo Trời là gì ?
Đạo Trời là lòng tin tưởng một vị linh thiêng, tự hữu, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên Trời; Đấng ấy gọi nôm là Ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, tùy tiếng nói của mỗi dân tộc.
2. Tại sao nhận biết có Trời ?
Nhìn vào vũ trụ bao la, tinh vi huyền diệu, tôi nhận rằng phải có bàn tay
tác tạo…
Ta xem một chiếc đồng hồ,
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng Chí Tôn sinh thành.
Con chim nó hót trên cành,
Nếu trời không có, có mình làm sao ?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình ?
Trời là gốc của vạn vật “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư )
3. Những ai tin tưởng có Trời ?
Có thể nói rằng hầu hết nhân loại tin tưởng có Trời. Tính tự nhiên của con
người, khi gặp nguy biến, đều kêu Trời ! Ca dao bình dân có bài:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nuớc tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm…
4. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không ?
Đạo Trời chung cho mọi nước, mọi thời. “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư ); Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống “Minh Đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên” ( Khổng Tử ).
5. Làm thế nào biết được Đạo Trời ở nơi mỗi người ?
Trời ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho ta biết
đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta
lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời. “Tri
Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa” ( Biết Đạo Trời thì ăn ở theo nhân nghĩa –
Khổng Tử )
6. Mỗi người phải giữ Đạo Trời thế nào ?
Phải cố gắng tìm cho thấy rõ Đạo Trời. Phải lấy Đạo mà hướng dẫn đời sống –
theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo lý làm trọng – phải nhớ luật
của Trời làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ bị phạ “Thiên vọng khôi khôi, sơ
nhi bất lậu”. ( Lưới trời rộng, thưa mà không lọt đâu ).
7. Bình thường, người ta thờ Trời như thế nào ?
Mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà để thờ Trời và Ông Bà Tổ Tiên; có
người xây trụ ở ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy; thỉnh thoảng dâng hương
nến, hoa quả để tỏ lòng tri ân.
8. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau như thế nào ?
Trời là gốc, là cha mẹ sinh thành, thì phải coi mọi người là anh chị em với
nhau và cư xử như một đại gia đình nhân loại, lấy tình thương mà bao bọc.
9. Đạo Trời có từ bao giờ ?
Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người có trí khôn biết suy luận, biết
hướng về Trời, biết xem ý Trời thế nào mà hành động.
10. Ý Trời thế nào ?
Ý Trời là lương tri, lương tâm, Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn.
11. Đạo Trời đưa người ta đến đâu ?
Đạo Trời đưa người ta về tới Trời. Trời là nguồn hạnh phúc vô cùng vô biên
mà lòng người khao khát.
12. Sống đạo Trời có dễ không ?
Dễ hay khó là tại mỗi người. E dè thì khó. Cương quyết thì dễ. Sống theo luơng tâm, làm lành lánh dữ. “Vi thiện tối lạc” ( làm lành thì rất vui ). “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” ( Nguyễn Bá Học ).
13. Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào ?
Có ba loại: Một là ngay ở trong mình. Đó là tính mê nết xấu, dục vọng đê
hèn… Hai là thế tục cám dỗ lôi cuốn đi vào sa đọa trụy lạc. Ba là Xa-tan ác
quỷ, luôn tìm hại con người.
14. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên ?
Phải tự tu tỉnh và kêu cứu kịp thời:
a. Tự tu là sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình
b. Tự tỉnh là tỉnh táo đề phòng, tránh xa những cạm bẫy do thế tục giương lên
để bắt mình
c. Kêu cứu kịp thời và xin Trời hộ giúp để Xa-tan ác quỷ không hại được mình.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó là lúc nào cũng vững như kiềng 3
chân. “Trời giúp kẻ tự giúp”.
Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn.
15. Xa-tan ác quỷ ở đâu ra và mưu hại con người đến thế nào ?
Nó là một loài do Trời sinh ra, rồi vì tự kiêu tự đại mà phản bội với Trời,
nên nó muốn phá việc của Trời, và không muốn cho con người trở về với Trời, vì
như thế thì Trời được vinh hiển và con người được hạnh phúc thật. Xa-tan không
làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn dụ dỗ con
người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu Xa-tan là đi đến chỗ
tự sát và đồng khổ cực với nó sau này mãi mãi.
16. Có ai thắng được Xa-tan ác quỷ chưa?
Các bậc thánh nhân lấy Đạo Trời làm lẽ sống, luôn cậy dựa quyền năng của
Trời, bền chí quyết giữ Đạo dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được
Xa-tan.
17. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố như thế nào ?
Lịch sử Đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì Đạo Trời là đường lối để Trời đi
xuống với nhân loại bằng cách tác tạo nên ta, và cũng là đường lối để nhân loại
ta đi lên với Trời, đó là trở về nguồn chơn phúc vô biên mà ta khát vọng.
Đạo Trời được công bố bằng ba hình thức:
Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người khi sinh ra. Đến tuổi
khôn người ta nhìn thấy trong lòng mình ý nghĩa thế nào là lành, thế nào là dữ,
đâu là phúc, đâu là tội, và khi làm trái lương tâm thì người ta thấy bứt rứt
sầu khổ.
Hình thức thứ hai là đi vào lịch sử thực sự. Trời chọn một dân tộc, giao cho
sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về Đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ
từ bỏ những tà thần mà Xa-tan đã bày đặt ra để lừa dối con người. Hình thức thứ
hai này đã được thực hiện trong lịch sử dân Do Thái. Đạo luật của Trời xưa chỉ
in trong lòng người thì đã được in vào bia đá trên núi Xi-nai và trao cho thủ
lĩnh Mô-sê đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1.250 năm trước
Công Lịch.
Hình thức thứ ba tiếp tục lịch sử thực sự. Đó là việc Trời cử một Ngôi vị
giáng trần, nhập thể làm một Con Người để sống với con người chúng ta, trực
tiếp nói với nhân loại đường lối của Đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời yêu
thương ta như Cha yêu thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông hiệp
với Trời. Ngôi vị Trời giáng trần đây chính là Đức Giê-su Ki-tô mà thân thế và
sự nghiệp đã được lịch sử ghi nhận rõ ràng – và sự giáng trần của Ngài đã dựng
nên một cái mốc phân chia lịch sử làm hai giai đoạn:
– Trước Ngài ( BC ): Tính từ Ngài lui về trước.
– Sau Ngài ( PC ): Tính từ Ngài cho tới nay.
Và cũng từ ngày Đức Giê-su Ki-tô di vào lịch sử nhân loại, Đạo Trời được sáng
tỏ và mang thêm một tên mới là Ki-tô Giáo.
18. Việc Đức Giê-su Ki-tô đến có lợi gì cho nhân loại ?
Lợi rất nhiều, rất lớn, rất cần thiết:
a.    Chính nhờ sự hy sinh của Ngài, nhân loại được Chúa Trời ( Thiên Chúa ) nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên Quốc nếu trung thành.
b.    Nhờ lời giáo huấn và gương sống của Ngài, ta biết được gốc ngọn của mình, biết được lẽ sống chân chính, biết được đường lối trở về với Chúa Trời.
c.    Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại lại được giao hòa với Chúa Trời.
d.    Nhờ quyền năng, biểu hiện trong cuộc sống lại ( Phục Sinh ) của Ngài, cũng là nhờ Chúa Thánh Thần, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của bè lu Xa-tan, để tiến tới Quê thật là Nước Trời.
Ai theo Đức Giê-su Ki-tô thì được sống hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đồng nhất với Đức Giê-su Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần, trở nên con chí ái của Cha trên Trời.
19. Sự nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô còn tiếp tục trong nhân loại bằng cách nào ?
Vì Đức Giê-su Ki-tô là một Ngôi Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngài về Trời. Nhưng sự nghiệp của Ngài cần phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã lập một hội đoàn để duy trì, phổ biến những chân lý về Đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị Xa-tan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.
Hội đoàn mà Đức Giê-su Ki-tô để lại, đó là Hội Thánh, do các Tông Đồ kế tiếp nhau coi sóc. Vị Tông Đồ Trưởng gọi là Giáo Hoàng, là thủ lãnh thay mặt Chúa Giê-su lãnh đạo Hội Thánh. Thánh Phê-rô là vị Giáo Hoàng đầu tiên do chính Chúa Giê-su chỉ định; và vị Giáo Hoàng hiện tại, vừa mới về Trời, là Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị, vị Giáo Hoàng thứ 265, coi sóc hướng dẫn Hội Thánh từ năm 1978 đến năm nay, 2005.
20. Muốn học hỏi gia nhập Đạo Trời ( Đạo Thiên Chúa ), ta có thể căn cứ vào đâu và ta đến với ai ?
Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ gần hai ngàn năm nay ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bộ sách Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước ( Đạo Trời do Ông Mô-sê và các Ngôn Sứ ghi chép trước Chúa Giáng Sinh ) và phần Tân Ước ( Đạo Trời do chính Chúa Giê-su và các môn đệ đầu tiên ghi chép ): Là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa tới nay. Nước nào cũng có Thánh Kinh, có sách Giáo Lý in bằng tiếng nước ấy, nên việc học hỏi Đạo đuợc dễ dàng. Còn việc gia nhập Đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu.
Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triễn bất chấp mọi trở lực, khiến con số giáo hữu ngày nay đã tới hàng tỷ người.
Xưa kia chỉ biết kêu Trời,
Ngày nay lại biết Chúa Trời là Cha.
Trần gian chưa phải là Nhà,
Thiên Đàng vĩnh phúc mới là chính Quê.
Chữ rằng “Sinh ký tử quy”,
Nghĩa là: “Sống gởi thác về đời sau”.
21. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, danh thơm tiếng tốt rồi, mà khi gặp Đạo Trời, lại tin theo ?
Vì Đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai. Vả lại
giữ Đạo có phải cốt cho được danh thơm tiếng tốt ở đời này đâu, nhưng là cốt
làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời là Đấng sinh thành dưỡng dục và thưởng
phạt người ta sau này. Vì thế khi gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn toàn trọn
vẹn thì không thể không theo cho được.
Đức Giê-su đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người
chỉ gặp thấy có một lần, nên ai khôn ngoan thật đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém
cỏi để sắm cho bằng được thứ ngọc hảo hạng ấy. Những thứ ngọc khác đây có thể
coi là luân lý tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử,
Tuân Tử, Mặc Tử, Lão Tử ở Trung Hoa; như Socrate, Platon, Aristote ở Hy Lạp,
như Đức Thích Ca ở Ấn Độ… đã theo luơng tâm thực hiện và phổ biến được phần
nào trong lúc sinh thời, đó là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời.
Bởi thế khi chính Đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự
giáng trần của Đức Giê-su Ki-tô, Con Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả
đương nhiên chấm dứt, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời là chỗ có Chân
Lý hoàn toàn và Thiện Mỹ viên mãn vậy.
22. Đạo Trời đối với Đạo Ông Bà Tổ Tiên thế nào ?
Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời
sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử
dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng từ giã cõi trần mà về tới Trời rồi,
“sinh ký tử quy” là thế.
Đằng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta,
nên hiếu nghĩa là theo hướng Trời sắp đặt, nhưng không nên dừng lại ở tổ tiên
mà phải đi xa hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính
đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài, còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc nối
trung gian mà thôi.
23. Có người nghĩ rằng theo Đạo Trời thì không cúng thực phẫm đồ dùng cho ông bà để ông bà đói khổ, vì thế mà có người tuy mến Đạo Trời, vẫn chưa dám trở lại. Nghĩ thế có đúng chăng ?
Lòng thương nhớ ông bà đã quá cố là việc tốt, nhưng nghĩ rằng vong linh ông
bà còn cần cơm gạo bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì
linh hồn thiêng liêng không cần vật chất như xác, nhưng cúng quảy thực phẩm như
một nghi lễ để kính nhớ thì tốt. Việc hiếu nghĩa ta có thể làm là thành khẩn
cầu xin với Trời mở lượng hải hà: nhất xá vạn xá, cho ông bà vào hưởng phúc với
Trời sớm ngày nào hay ngày ấy, đó là thiết thực và cần cấp hơn hết.
Bên Công Giáo có việc cầu nguyện cho ông bà hằng ngày; mỗi năm lại dành hẳn
một tháng để toàn thể thế giới hợp ý thỉnh nguyện cho nữa. Ngoài ra, các ngày
kỷ niệm, tuần ba tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm, giáp năm, hay giỗ đầu, giỗ
năm của gia đình nào thì gia đình nấy hoặc cả Họ Đạo cùng đọc kinh cầu nguyện
cho nữa. Cũng có thể tổ chức bữa ăn giỗ để phát huy tình cảm gia đình và gia
tộc. Xét thế, theo Đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên.
24. Có người biết Đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống dễ dãi, ngại chịu khó, nên chưa dám trở lại Đạo. Nghĩ thế có được chăng ?
Đạo lý tối đại, sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chớ có phải là cứu cánh của con người đâu. Ta nên biết, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời, sao ta lại quên vị Đại Ân Nhân của ta là Trời. Nếu ta muốn sống bừa bãi ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là ta tự giảm giá và tự đặt mình vào tình trạng nguy cấp luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – và chết rồi phải bị phán xét ngay lúc ấy, hối cũng không kịp.
Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết,
Việc lành dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết…
PHỤ LỤC:
Ý kiến của những người trở lại Đạo Thiên Chúa:
1.   Ông Lục Trưng Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ có biết đạo Ông Bà Tổ Tiên, sau đã gặp được Đạo Công Giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường Đạo, đã hiến thân làm Linh Mục. Ông nói: “Ơn Cứu Độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Ki-tô đã dạy và đã cho chúng ta hưởng thụ để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên Trời”. ( x. The Ways of Confucius
and of Christ )
2.   Ông Ngô Gia Lễ, tri phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam ta, vì tiếp xúc với người Công Giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã học sách Phúc Âm, đã nhận được tính cách siêu việt của Đức Ki-tô, Con Trời giáng thế, ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Ki-tô. Ông nói: “Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Ki-tô không phải chỉ là một nhân vật khác thường, Ngài chính là con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc Âm”. ( x. Ông Tổ Đạo Công Giáo )
3. Ông Trịnh Sùng Ngộ, giáo sư triết học Đại Học Honolulu, nước
Huê Kỳ, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh ra trong
gia đình thấm nhuần tư tưởng Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật Giáo. Sau khi ông trở
lại ông đã giúp nhiều bạn hữu biết Đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên
dịch Thánh Kinh và Kinh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: “Thiên Chúa Giáo là
Đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo dó không phải của
Âu Châu hay của Á Châu, không cũ không mới. Tôi cảm thấy Đạo đó tiềm ẩn ở trong
tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo là những đạo tôi đã
hấp thụ khi sinh trưởng. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với
Đức Ki-tô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Ki-tô để ở luôn với
Ngài thật là vui sướng vô biên. Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay
sự sống động và bản thể của tôi đuợc đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội
Thánh Chúa Ki-tô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn
nguyện” ( x. Par delà l’Est et l’Ouest ).
4.   Ông Mashaba, một học giả Ấn Độ, sau 20 năm tìm tòi suy luận
về Ấn Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo, Ba-la-môn Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa
Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Thần Đạo ( của người Nhựt Bổn ), Tin Lành Giáo, ông
đã phân tích như sau: “Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi
Giáo Tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo
khía cạnh đó. Bởi thế, có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt
dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời,
công bình bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa
Giáo, vì Đạo này xây dựng cho con người một cuộc đời biết xả thân vì tình yêu
thương”.
Tưởng nhớ ông bà tổ tiên
Chương trình đơn giản khi cầu nguyện với tổ tiên bất cứ dịp nào:
1.   Thắp hương đèn trên bàn thờ
2.   Làm dấu hình Thánh Giá
3.   Nguyện Kinh Lạy Cha
4.   Nguyện: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”.
5. Dâng lời nguyện với tổ tiên: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại…, hôm nay nhân ngày…, chúng con thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hòa thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn…”
Nghi thức Lễ Cưới ở gia đình:
Ngày nay việc tổ chức đám cưới tại gia đình có thể diễn tiến theo nhiều dạng rất khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp thông thường nhất vẫn là: sau Lễ Hôn Phối, nhà gái tổ chức mừng vu quy, và sau khi đón dâu về nhà, nhà trai tổ chức chúc mừng Lễ Thành Hôn. Nghi Lễ Vu Quy dưới đây cử hành khi nhà trai đến nhà gái đón dâu; nghi Lễ Thành Hôn cử hành khi cô dâu được đưa về nhà chồng. Nếu diễn tiến theo các cách khác, xin tùy nghi ứng biến.
A. Nghi thức Lễ Vu Quy:
Vị chủ hôn bên nhà trai, chú rể và họ hàng từ nhà trai tới nhà gái, dừng lại
ngoài cổng. Đại diện vào báo cho nhà gái ra đón mời vào. Rồi nghi thức như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời, giới thiệu lễ vật.
2. Nhà gái đáp lời chấp thuận và xin đưa lễ vật đến bàn thờ gia tiên để làm lễ.
3. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn. ( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
4. Chú rể và cô dâu vào chào cha mẹ và họ hàng bên vợ.
5. Uống nước hoặc ăn tiệc.
6.   Cuối giờ, chủ hôn nhà trai xin đón dâu, nhà gái đáp lời ưng
thuận…
B. Nghi thức Lễ Thành Hôn:
Đoàn đưa dâu về nhà trai, nhà trai mời vào. Người mẹ chồng đón con dâu vào
phòng nghỉ một lát rồi ra Lễ Gia Tiên. Nghi thức Lễ Gia Tiên như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời chào mừng và mời tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ.
2. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn.( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
3. Cô dâu chú rể chào cha mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
4. Uống nước hoặc ăn tiệc.
5.   Cuối cùng, vị chủ hôn nhà gái gởi gắm, nhà trai giã từ.
Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn:
1. Vị chủ hôn nói đại ý: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức
ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc nêu tên gia đình anh chị X… ) sinh
hạ được người con gái ( hoặc con trai ) là… và đã giáo dục cháu nên nguời.
Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu… Chúng con xin đưa hai cháu
đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ
lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ
tiên và vinh Danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được
trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên, chu toàn các trách
nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý của Chúa Trời”.
2. Cô dâu chú rể niệm hương: ( Một người đốt nhang sẵn và đưa cho cô dâu chú
rể, cả hai cùng vái 4 vái ).
3. Cô dâu chú rể thắp nến.
4. Vị chủ hôn tiếp lời: “Giờ đây chúng ta hướng đến Thiên Chúa là nguồn gốc
trên cùng của mọi gia tộc. Xin Ngài lấy tình Cha mà che chở gia đình mới…
“Lạy Cha chúng con…”
5. Đọc Lời Chúa: ( Ga 2, 1 – 11 )
6. Cô dâu và chú rể cùng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã đến trong
tiệc cưới Ca-na, ban ơn lành cho đôi bạn mới và gia đình hai bên. Nay qua Bí
Tích Hôn Phối, Chúa cũng đã đến trong gia đình chúng con, chúng con xin dâng
lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con, mỗi người trong gia
đình và họ hàng hai bên, và toàn thể ân nhân bạn hữu. Xưa Chúa đã biến đổi nước
thành rượu, ngày nay xin Chúa biến đổi tình yêu thương bé nhỏ giới hạn của
chúng con thành tình yêu thương bao la và nồng thắm của Chúa. Xin cho gia đình
chúng con biết tôn vinh Chúa, đem lại hạnh phúc cho nhau và niềm an ủi cho mọi
người. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời. Amen”.
7. Kết thúc: Hát Kinh Hòa Bình hoặc một bài khác thích hợp…
Lm. NGUYỄN QUANG DUY, DCCT,

Gx. Long Hưng, Gp. Vĩnh Long, năm 2000, theo “Sứ Vụ Loan báo Tin Mừng”

Lễ Giỗ

Lễ Giỗ

ĐÂU PHẢI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ BỎ ÔNG BÀ

Hình chỉ mang tính minh họa

Được anh bạn mời dự tiệc giỗ (đám giỗ), tôi hơi ngạc nhiên vì gia đình anh là người theo đạo Công giáo. Theo lời mời, 10giờ sáng tôi có mặt ở Đất Thánh (nghĩa địa) của một xứ đạo ở ngoại thành , nhìn những ngôi mộ đẹp được trồng nhiều hoa cảnh như để làm ấm lòng linh hồn người đã khuất. Theo anh, tôi đến trước ngôi mộ có ba nấm mồ,  có khoảng 20 người đang đứng tước ngôi mộ ấy để cầu nguyện. Tôi nghe tiếng cầu nguyện của cụ ông 89 tuổi: Lạy Chúa, hàng năm cứ đến ngày này, chúng con gồm bốn đời, ông , con, cháu, chắt lại về đây, để nguyện xin Thiên Chúa thương đến linh hồn tổ tiên ông bà nội ngoại chúng con, đã ra đi trước chúng con, và nay đang được hưởng Vinh Quang Nước Chúa. Chúng con cũng xin Thiên Chúa qua lời cầu bầu của tổ tiên ông bà, ban cho chúng con được ơn trung thành với Chúa, tin yêu phó thác vào Chúa, như ông bà chúng con đã từng tin yêu phó thác,
để sau này chúng con cùng được hưởng Nhan Thánh Chúa với ông bà chúng con trên
Thiên Đàng. Niệm hương và dâng kính những lẵng hoa tươi để tỏ lòng kính nhớ ông
bà cách thành kính.

Anh bạn tôi chia sẻ: Trước đây, thắp hương (nhang), cúng hoa quả trên bàn thờ ông
bà được coi là của tôn giáo bạn, người công giáo không thắp hương, nên có thể
có sự hiểu lầm là:  không kính nhớ tổ tiên ông bà. Ngày nay, nhận thấy việc thắp hương hay cúng hoa quả là nghi lễ  của người á đông (trong đó có Việt Nam) , rất tốt, rất hay, nên giáo hội đã đồng ý để giáo dân làm việc này. Chúng ta còn làm những việc hữu ích khác như: giúp người già qua đường (hay hành động tương tự) với tâm tình kính nhớ ông bà là hành động đầy ý nghĩa, cầu nguyện cùng ông bà là cách tưởng nhớ thiết thực nhất.

Bây giờ tôi đã hiểu, những lời đồn, đoán trước đây là theo đạo Chúa (Công giáo) là bỏ ông bà là hoàn toàn sai sự thật. Tôi còn biết thêm, ngoài lễ giỗ theo ngày người quá cố mất, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cón chọn ngày mùng hai tết là ngày kính nhớ tổ tiên ông bà còn sống hay đã chết và ngày 2/11 hàng năm là ngày cầu cho các linh hồn ông bà, cha mẹ, anh chị em cùng tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, đất nước, dân tộc vv… Trong mười điều răn của Đức Chúa Trời, điều răn thứ tư ghi rõ: Thảo kính cha mẹ (ông bà, cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã khuất). Mến Chúa yêu người tóm gọn trong  mười điều răn, ba điều răn đầu dạy ta thờ Thiên Chúa, bảy điều răn sau dạy ta yêu người, thảo kính cha mẹ đứng đầu bảy điều răn sau.

Theo anh về nhà, đã có khá nhiều khách mời (Anh em bạn bè hàng xóm) đến dự. Trong nhà, bàn thờ Thiên Chúa để nơi trang trọng nhất, có hoa tươi, đèn nến cháy sáng, tôi còn
thấy bàn thờ tổ tiên ở phía dưới bên phải, trên bàn thờ này hoa tươi, quả tươi, cùng hương thơm từ lư hương bay ra thơm ngát.

Một vị lớn tuổi chia sẻ: Chúng ta cần phân biệt Thờ và Kính. Đối với Thượng Đế chúng ta chỉ có một chữ Thờ, đối với ông bà hay các vị đáng kính, chúng ta chỉ có một chữ Kính.
Việc thờ kính đôi khi chúng ta lầm lẫn. Nhiều tiếng vỗ tay đồng ý với vị khách
lớn tuổi kia.

Tổ chức tiệc giỗ cũng là đề tài bình luận, việc này tuỳ vào hoàn cảnh gia đình và phong tục địa phương, (Nhiều địa phương tổ chức tiệc trà, bánh ngọt vào buổi tối rất hay) không nên hiểu là không làm tiệc giỗ là không kính nhớ ông bà và ngược lại .

Theo lời kể của một người bạn

Đỗ Thế kỷ

Maria Thanh Mai gởi

Bầu cử tổng thống Mỹ có thể dẫn đến kết cục bất thường

Bầu cử tổng thống Mỹ có thể dẫn đến kết cục bất thường

Dân biểu Diana Degette đi bỏ phiếu sớm trong bang Colorado
01.11.2012                                    nguồn: VOA
Cuộc đua vào Tòa Bạch Ốc giữa hai ông Obama và Romney xít xao đến độ có thể dẫn đến kết cục bất thường.
Nhà lãnh đạo nước Mỹ trong 4 năm kế tiếp có thể được chọn mà không cần có nhiều
phiếu phổ thông hơn đối thủ.
Một kết cục khác có thể xảy ra, là Quốc hội phải nhảy vào để quyết định ai là
tổng thống và phó tổng thống.
Theo luật bầu cử, kết quả sẽ không được định đoạt bằng số phiếu cao nhất mà ứng
cử viên thu được ở khắp nước Mỹ.
Thay vào đó, ông Obama hoặc ông Romney có thể được bầu bằng cơ chế cử tri đoàn
đã có từ hai thế kỷ qua, có thể nói một cách đơn giản rằng mỗi tiểu bang ảnh
hưởng lên kết quả bằng số dân trong tiểu bang.
Hai ông phải cố làm thế nào có đủ 270 phiếu cử tri đoàn trong số 538 phiếu trên
cả nước. 7 tiểu bang nhỏ nhất, mỗi tiểu bang có 3 phiếu cử tri đoàn, tiểu bang
đông dân nhất, California, có 55 phiếu.
Giáo sư Stephen Wayne của trường đại học Georgetown, chuyên nghiên cứu
các tổng thống Mỹ, nhắc lại có 3 lần tổng thống kém phiếu phổ thông nhưng thắng
phiếu cử tri đoàn, nên đã chiếm được Tòa Bạch Ốc. Lần mới đây nhất là năm 2000,
Thống đốc George W. Bush thắng khít khao Phó tổng thống Al Gore.
Giờ đây, khi mà các cuộc thăm dò cho thấy hai ông Obama và Romney hầu như ngang
ngửa nhau, giáo sư Wayne nói rằng rất có thể người thắng cuộc là người không có
nhiều phiếu phổ thông.
Một kịch bản khác cũng có thể xảy ra trong năm nay là hai ông Obama và Romney
mỗi người nhận được 269 phiếu cử tri đoàn bằng nhau, một chuyện chưa từng xảy
ra. Trong trường hợp này, Hiến pháp Hoa Kỳ qui định rằng Hạ Viện sẽ chọn tổng
thống.
Nếu chuyện này thành hiện thực, ông Romney có nhiều lợi thế, vì Hạ Viện bây giờ
có nhiều người thuộc đảng Cộng hòa.
Và cũng theo Hiến pháp, Thượng Viện có nhiệm vụ chọn phó tổng thống. Trước tình
hình phe Dân chủ chiềm đa số tại Thượng Viện hiện nay, các Thượng nghị sĩ có
thể chọn đương kim Phó tổng thống Joe Biden, và như vậy nước Mỹ sẽ có một tổng
thống Cộng hòa và một phó tổng thống Dân chủ.

Cảm nhận về chứng nhân Đức Kitô

Cảm nhận về chứng nhân Đức Kitô

Tác giả: Lê Thiên

nguồn: vnfa.com

Theo Giáo lý Công giáo (GLCG) số 1253, Bí tích Thánh tẩy(tức Bí tích Rửa tội) là “bí
tích đức tin… Đức tin cần có để được rửa tội chưa phải là đức tin hoàn hảo và trưởng tành, nhưng là một khởi đầu cần được phát triển. Hội Thánh hỏi người dự tòng hay người đỡ đầu: “Con xin gì cùng Hội Thánh Chúa?” Và họ trả lời: “Con xin đức tin.”

Như vậy rõ ràng việc xin gia nhập đạo Chúa đối với người trưởng thành là một sự tự nguyện xuất phát ý chí tự do của con người. Do đó, chúng tôi xác tín rằng, tất cả những người trưởng thành lãnh nhận Bí tích Rửa tội đều là những người ý thức về sự tự do và quyền lựa chọn của mình. Có vị gia nhập Công giáo ở tuổi thanh niên như linh mục
Nguyễn Hy Thích, lm Bửu Dưỡng. lm Nguyễn Viết Chung; có vị cao tuổi hơn như nhà khoa học NASA Gs Nguyễn Xuân Vinh, Gs Vũ Quốc Thúc, nhà thơ Hà Thượng Nhân….Riêng những người trẻ trong nước đang can đảm đấu tranh cho nhân quyền, dân quyền và quyền lên tiếng bảo vệ chủ quyền quốc gia như Tạ Phong Trần, Hoàng Vi, Huỳnh Thục Vy, Trịnh Kim Tiến… cả nước đều biết, họ đã vượt lên trên sự sợ hãi thế nào để gia nhập Công giáo, tôn giáo đối tượng hàng đầu của chủ nghĩa và chế
độ cộng sản.

“Người trộm lành”

Người tín hữu Công giáo đều đọc và nhớ câu chuyện “người trộm lành” trong sách Tin Mừng. Cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu là hai kẻ gian phi. Một người buông lời nhục mạ, thách thức Chúa  Giêsu, trong khi người thứ hai nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Anh thứ hai khôngđồng ý với thái độ hồ đồ thách thức của anh thứ nhất, nên trách: “Cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này [Chúa Giêsu] đâu có làm gì trái!” Rồi anh thứ hai thưa với Đức Giêsu: “Lạy Đức Giêsu, khi vào ước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!” Chúa đáp lời anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 39-43).

Một kẻ gian phi chỉ một lời thống hối vào giờ cuối đời đã được Chúa khoan dung tha thứ và đón nhận!

Giang hồ người Việt trở thành Thánh tử đạo

Lịch sử đạo Công giáo tại Việt Nam cũng đã chứng kiến ơn hối cải hi hữu của một tay giang hồ: Thánh Phaolô Hạnh, một trong số 117 Thánh Tử đạo Việt Nam.

Hạnh sinh tại Tân Triều, tỉnh Biên Hòa khoảng năm 1827. Lớn lên, Hạnh cùng hai người anh đến Chợ Quán, Sài Gòn để buôn bán. Dư luận đồn đại nhiều điều xấu về anh. Chẳng hạn, trong làm ăn buôn bán, anh gần gũi với những tay chuyên lường gạt, bắt chẹt những người cô thế cô thân yếu thế. Hình như có thời anh đã từng cầm đầu một băng cướp.

Một lần kia, chứng kiến một thiếu phụ nghèo khổ bị bọn đàn em bóc lột không thương tiếc, anh Hạnh không thể cầm lòng bèn ra uy “đàn anh” can thiệp, buộc chúng phải trả lại tài sản đã cướp giật cho nạn nhân, dù anh biết trước cáchhành xử hào hiệp của mình sẽ mang lại
hậu quả không lường theo luật giang hồ.

Quả nhiên, đám du đãng tố cáo Hạnh là người theo đạo “Gia tô” (đạo Kitô), và vu khống anh làm tay sai cho thực dân Pháp. Tại nơi pháp đình cũng như trước mặt các quan, anh Hạnh dứt khoát không nhận mình làm tay sai cho Pháp, nhưng lại tự nhận mình là Kitô hữu dù anh chưa hẳn là người Công giáo. Anh bị đánh đòn và tra tấn dã man, bị buộc từ chối mình là Công giáo, nhưng không gì lay chuyển được anh, trừ gương can đảm chịu chết
vì đạo của những bạn tù đã cảm hóa sâu sắc tâm hồn anh Hạnh khiến anh tự nguyện
đón nhận ơn Bí tích Rửa tội ngay trong phòng giam. Anh khẳng khái tuyên xưng: “Tôi là Kitô hữu, không bao giờ tôi chối đạo”.

Ngày 28.05.1859, anh Phaolô Hạnh bị trảm quyết tại Chí Hòa khi vừa tròn 32 tuổi. Hơn một thế kỷ sau, ngày 19/6/1988, Giáo Hội long trọng tuyên phong Phaolô Hạnh là Thánh trong 117 Thánh Tử đạo Việt Nam.

Sử gia Rodriguez so sánh cuộc đời thánh Phaolô Hạnh với cuộc đời “CÁNH HOA TÍM NGÁT HƯƠNG” : (Martyrologio Oriental Tr. 253-255)

“Có những hoa tím mọc dại bên đường, cho đến ngày có khách bộ hành đi ngang dẫm nát, nó mới tỏa hương thơm. Phaolô Hạnh quả là bông hoa bị che khuất bên vệ đường Giáo Hội,
cho đến khi bị vò nát trong cuộc bách hại, mới tỏa ra hương thơm ngát khiến chúng ta phải lâng lâng ngây ngất”.

GLCG số 1258 nêu rõ: “Hội Thánh luôn xác tín rằng những người chịu chết vì đức tin mà trước đó chưa được rửa tội, thì coi như đã được thanh tẩy , vì đã chết cho Đức Kitô và với Đức Kitô. Dù không là bí tích, rửa tội bằng máu , cũng như ước muốn được rửa tội , vẫn mang lại hiệu quả của bí tích Thánh Tẩy.”

Như vậy, giả sử Thánh Phaolô Hạnh chưa nhận lãnh Bí tích Thánh Tẩy mà đã sẵn sàng đổ máu vì đạo, thì việc phong thánh cho ngài cũng xứng hợp thôi.

Ta thấy một kẻ gian phi được Chúa chấp nhận cùng vào Nước Trời với Chúa, và một tay gian hùng được Giáo Hội tôn vinh là thánh đồng hàng với bao nhiêu giám mục, linh mục, tu sĩ, thầy giảng và giáo dân đạo đức thánh thiện, thì việc hoán cải của bất cứ thành phần nào trong xã hội cũng là điều bình thường đối với Thiên Chúa và cả dưới mắt đức tin của
người Kitô hữu.

Nhân đây, xin mạo muội ghi nhận đôi nét về ơn trở lại của 2 người Việt Nam vào đầu thế kỷ 21 này để bổ sung vào danh sách những vị đã gia nhập Công giáo mà nhà văn Trần Phong Vũ nêu danh tánh trong Thư ngỏ của ông “Nhân đọc bài viết của ông Nguyễn Đăng Khoa,” đăng tải trên DCVOnline ngày14/10/2012.

Ông Ngô Khắc Tỉnh, cựu Tổng trưởng Giáo Dục VNCH

Theo nhân chứng Nguyễn Phúc Hậu (năm nay 80 tuổi), người đã nhiều năm phụ trách Lớp Giáo lý dự tòng tại Nhà thờ Saint Maria Goretti ở San Jose thì vào khoảng năm 2004 (không nhớ chính xác), cựu Bộ trưởng Ngô Khắc Tỉnh khi nằm bệnh viện và di chuyển bằng xe lăn đã xin gia nhập đạo Công giáo. Đây không phải là ước muốn bất chợt của cụ Tỉnh, mà là một ước nguyện đã từng được cụ cưu mang từ thuở mài đũng quần ở trường Trung học Công giáo Thiên Hựu (Providence), Huế, thời thập niên 1940.

Vào ngày nhận Bí tích rửa tội, cụ Ngô Khắc Tỉnh nhờ y tá đẩy xe lăn từ giường bệnh tới nguyện đường trong Bệnh viện thật sớm và Cụ một mình âm thầm cầu nguyện hầu như suốt buổi sáng trong khi chờ đợi giờ đón nhận Bí tích Rửa tội. Đến ngày 12/11/2005, Cụ Ngô Khắc Tỉnh lìa đời.

Người ta đọc thấy trong PHÂN ƯU của một số cựu học sinh đồng trường Thiên Hựu (Providence) với Cụ lời “cầu nguyện cho hương hồn bạn được sớm về Nước Chúa.” Ban phân ưu cũng cho biết “Lễ tại Nhà Thờ St Patrick 389 E Santa Clara St. San Jose.” Trên PHÂN ƯU, không thấy nêu tên thánh người quá cố. (Xin xem phóng ảnh đính kèm dưới đây). Dù sao, PHÂN ƯU đã xác nhận cụ Ngô Khắc Tỉnh là Công giáo. Nhân chứng Nguyễn Phúc Hậu cùng gia đình hiện vẫn định cư tại San Jose, California.

Nhạc sĩ tài danh Lê Mộng Bảo

Người Việt Nam sinh trưởng trong nước trước năm 1975, từ già tới trẻ, hầu như không ai không nghe danh nhạc sĩ tài hoa Lê Mộng Bảo (1923-2007) với những bản nhạc bất hủ của ông cùng nhà xuất bản nhạc Tinh Hoa & Tinh Hoa Miền Nam lừng danh trước năm 1975 mà ông là linh hồn.

Vào một ngày khoảng năm 2005, Ông Nguyễn Phúc Hậu đón nhận một cụ bô lão quắc thước xin vào học Lớp Giáo lý Dự tòng. Đến ngày chuẩn bị lễ ban Bí tích Thánh Tẩy, theo gợi ý của ông Hậu, cụ nhạc sĩ Lê Mộng Bảo đã cùng người bạn Đinh Phúc, kẻ viết lời, người soạn nhạc, cống hiến bản “Tân Tòng Ca.” Bản Tân Tòng Ca lập tức được nhạc sĩ Hải
Triều hòa âm và điều khiển hợp xướng, nghe rất thánh thiêng và có sức tác động
linh đạo mạnh mẽ.

Thời gian dài sau đó, ông Nguyễn Phúc Hậu không còn dịp liên lạc với Cụ Lê Mộng Bảo, cho đến ngày 08/10/2007, đọc báo, nghe đài, mới hay tin Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo vừa từ trần do đột quỵ. Ông Hậu không có cơ may đi chào biệt cụ Bảo lần cuối, nên không rõ tang lễ của cụ
được gia đình tổ chức thế nào.

Thomas More Nguyễn Chí Thiện

Trường hợp nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cũng na ná như vậy. Nếu ông đã bày tỏ khát vọng gia nhập đạo Công giáo và giả sử ông vĩnh viễn ra đi khi chưa kịp nhận lãnh Bí tích Rửa tội, ông vẫn được nhìn nhận là thành phần của Hội Thánh và là con cái Chúa vì đã có lòng ước
ao
gia nhập vào hàng ngũ con cái Chúa (xin xem GL số 1258 dẫn trên).

Qua những ơn trở lại điển hình trên và căn cứ vào lời dạy của GLHT Công giáo, chúng tôi tin chắc nhà thơ Nguyễn Chí Thiện trước khi lìa đời đã tự do nói lên nguyện ước gia nhập Công giáo khi đang nằm bệnh viện. Một tuần lễ sau, nhà thơ từ trần ngày 02/10/2012.

Tin chắc cả linh mục Cao Phương Kỷ lẫn nhà văn Trần Phong Vũ, Bs Trần Văn Cảo hay bất cứ người Công giáo nào, chẳng ai làm cái chuyện lén lút trẻ con “để cải đạo” cho ông Nguyễn Chí Thiện! Các vị đều am hiểu lẽ đạo lẽ đời tường tận chín chắn. Các vị thông hiểu và tuân giữ luật Hội Thánh về quyền tự do thưa “Xin đức tin” của một người trưởng thành bày tỏ ước vọng gia nhập Công giáo. Sự bày tỏ ước muốn gia nhập Công giáo của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện chắc chắn đã xảy ra vào một lúc nào đó mà nhà văn Trần Phong Vũ, bạn thân của ông là nhân chứng, để ông Vũ kịp thời mời linh mục Cao Phương Kỷ đến giúp ông Nguyễn Chí Thiện hoàn thành ước vọng của ông trước khi nhắm mắt lìa đời ngày 02/10/2012.

Về viêc Nguyễn Đăng Khoa viết bài gây lên mối ngờ vực đối với trường hợp nhà thơ Nguyễn Chí Thiện gia nhập Công giáo, tôi cho rằng có thể ông Khoa cố tình xuyên tạc, không phải chỉ để đánh phá, triệt hạ uy tín một vài nhân vật Công giáo mà còn nhằm bôi nhọ và kết án
chính đạo Công giáo. Tuy nhiên, nói như nhà văn Trần Phong Vũ, cũng có thể Nguyễn
Đăng Khoa lầm do không hiểu gì về Công giáo. Vì vậy cùng với nhà văn Trần Phong
Vũ, chúng ta lặp lại lời Đức Giêsu trên Thập giá: “Lạy Cha! Xin tha tội cho họ vì họ lầm, không biết.”

Chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Ông Thiện thâm trầm, ít nói, nhưng vẫn giữ phong cách hài hước nhẹ nhàng tế nhị.

Lần đầu gặp nhau, chúng tôi tự giới thiệu tên cho nhau. Ông Thiện cười xuề xòa:

– Bác  nhẹ hơn tôi đấy!

– Vâng! Tôi nhỏ con, làm sao so với cụ!” Tôi đáp.

Ông Thiện lại cười:

– Tớ trùng tên với bác, nhưng mà nặng!” Ý ông Thiện muốn nói ông là “Thiên
nặng Thiện!”

Rồi ông Thiện lại bảo:

– Chưa là Dân Trời (Lê Thiên) như bác, chưa “thiện” nổi, mạo nhận mình là “Thiện”đấy
thôi.

– Tôi hỗn hơn cụ nhiều, dám mạo nhận mình là dân Trời, nên Trời đọa!”

Ông Thiện nắm tay tôi:

– Thế thì chúng mình cùng hướng Thiện để hướng Thiên nhé!

Vui đùa là vui đùa! Tôi không có ý cường điệu hay phóng đại cái giai thoại vui đùa giữa chúng tôi theo cảm nhận chủ quan của mình. Nhưng bây giờ, sau khi Nguyễn Chí Thiện “quy tiên”, những lời vui đùa của nhà thơ lại văng vẳng bên tai tôi làm tôi xúc động bồi hồi: “Chưa là dân trời, chưa thiện” hay “hướng thiện để hướng thiên!” Tôi tự
thầm hỏi: Phải chăng nhà thơ đã bộc lộ ý tưởng tìm tới Thiên Chúa?

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ra đi, nhưng tinh thần và hình ảnh “ngục sĩ” Chí Thiện sống mãi trong lòng người Việt quốc gia chân chính yêu Tổ quốc, yêu Dân tộc, chống bè lũ bán nước, cái bè lũ mà ông Nguyễn Chí Thiện đã nhận rõ chân tướng từ khi ông hãy còn rất trẻ, sống
“giữa lòng địch,” nằm trong bàn tay gian ác của họ.

Từng bài thơ, từng câu thơ trong tập thơ HOA ĐỊA NGỤC của ông đều nhắm thẳng vào đầu địch mà bắn! Quân thù căm giận ông! Cầm tù ông 27 năm, hành hạ bức bách ông, quyết hại ông bằng mọi cách có thể, họ vẫn chưa thỏa nỗi căm hận đè nặng họ. Nhưng rồi họ đã chẳng làm gì được ông! Với tất cả những nhà đấu tranh cho dân chủ, dân quyền và nhân quyền trong nước, nhà cầm quyền CSVN dẫu dùng đủ những biện pháp hèn hạ, đê tiện và
độc ác nhất cũng chẳng lung lay được ý chí và tinh thần đấu tranh kiên cường của các nhà yêu nước ấy.

Trong niềm nhớ thương, quý mến và trân trọng người “ngục sĩ” can trường, chúng ta thành tâm cầu cho linh hồn Thomas More Nguyễn Chí Thiện sớm hưởng vinh quang
muôn đời. Bên cạnh đó, chúng ta không quên tiếp nối công việc của ông “phơi bày cho thế giới thấy niềm đau đớn khôn cùng của cả một dân tộc đang bị áp chế và đầy đọa(*)” (* Trích bản dịch thư của nhà tho Nguyễn Chí Thiện gửi ra bên ngoài năm 1979, viết bằng tiếng Pháp.)

qua việc nghiền ngẫm và quảng bá rộng rãi tập thơ HOA ĐỊA NGỤC – “một tập thơ mang
đầy máu và nước mắt – phản ánh một thế giới trong đó con người Việt Nam, vốn hiền lành là thế, đã vì một ý-thức-hệ ngoại-lai biến thành con vật với chính đồng-loại,đồng-bào.” (Lời Nhà Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ).

Lê Thiên

Sandy và Sơn Tinh, sự khác biệt giữa hai thể chế

Sandy và Sơn Tinh, sự khác biệt giữa hai thể chế

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

2012-11-01

Hai cơn bão Sandy đánh vào Mỹ và Sơn Tinh đổ vào Việt Nam cho thấy sự khác nhau quá xa giữa hai chính phủ về cách ứng phó với bão và ứng xử đối với người dân.

AFP

Huỷ bỏ tất cả chương trình vận động tranh cử Tổng thống Obama cho họp khẩn cấp các bộ quan trọng hầu có kế hoạch sơ tán và cấp cứu dân chúng

Có phải hai thể chế dân chủ pháp trị và chuyên chế đảng trị đã bộc lộ sự khác biệt về quan điểm quá xa nhau hay không?

Hai cơn bão ập vào Việt Nam và Hoa Kỳ gần như cùng thời gian đã mang lại khá nhiều sự so sánh mặc dù trên thực tế mức thiệt hại khá khác xa nhưng nếu tính theo hoàn cảnh của hai nước thì gần như Việt Nam không thua kém gì đất nước giàu nhất thế giới này bao nhiêu.

Về sinh mạng, Mỹ đông dân hơn gấp ba lần Việt Nam nên con số nhân mạng của Việt Nam cao hơn hẳn: Sandy làm Mỹ chết 50 người trong khi Sơn Tinh giết chết 32 người Việt Nam. Cơ sở vật chất của Mỹ được biết tới giờ này là đã thiệt hại hơn hai tỷ, trong khi Liên hiệp quốc chính thức công bố chỉ riêng tỉnh Nam Định mức thiệt hại là 45 triệu đô la cùng với hơn 20 ngàn căn nhà hư hại nặng và 19 ngàn héc ta hoa màu không thể thu hoạch. GDP hai nước đã kéo lại khoảng cách này gần hơn với các con số.

So sánh về thiệt hại người và của giữa hai đất nước khó thể công bằng và chính xác, tuy nhiên nếu sự khác nhau được nhìn qua lăng kính xã hội cũng như hoạt động của chính phủ để đánh giá sự ứng phó của hai nước trong cùng thời điểm thiên tai xảy ra thì hoàn toàn có thể.


Chỉ ít giờ sau cơn bão, bóng của chiếc Air Force One, chiếc chuyên cơ đặc biệt của tổng thống Mỹ đã xuất hiên tại những vùng bị đánh phá nặng bởi Sandy ở New Jersey

Chỉ ít giờ sau cơn bão, bóng của chiếc Air Force One, chiếc chuyên cơ đặc biệt của
tổng thống Mỹ đã xuất hiên tại những vùng bị đánh phá nặng bởi Sandy ở New
Jersey…

Thiệt hại vật chất và nhân mạng sau thiên tai là điều không thể phiền trách cho ai. Tuy nhiên khi thiên tai xảy ra, người đứng đầu một đất nước được dân chúng và cộng đồng thế giới nhìn vào khả năng ứng xử, sự quan tâm của chính phủ đối với an nguy của dân chúng và nhất là phương pháp tiếp cận người dân để chia sẻ với họ những cơn đau mất tài sản,
người thân luôn là yếu tố hàng đầu của một chính quyền dân cử.

Trách nhiệm cụ thể của chính phủ Mỹ

Khi cơn bão Sandy được các cơ quan khí tượng cung cấp chính xác đường đi cùng với dự kiến mức tàn phá của nó thì ngay lập tức chính phủ Obama đã có kế hoạch đối phó và theo dõi mọi diễn tiến của cơn bão từng bước một. Tổng thống Obama chừng như không giờ phút nào thoát khỏi tai mắt của truyền thông Mỹ. Nhất cử nhất động của ông được nhìn một cách
có thể nói là soi mói, do đó Tổng thống tự biết rằng đây là cơ hội cho ông tùy thuộc tốt hay xấu đối với sự nghiệp chính trị sắp tới của mình.

Việc đầu tiên là ông bỏ tất cả chương trình vận động tranh cử để về ngay Nhà Trắng chỉ huy đối phó cơn bão thế kỷ. Sáng ngày Thứ Hai, ngày người ta đánh giá cơn bão sẽ chính thức tàn phá miền Đông Hoa Kỳ, từ phòng họp của Nhà Trắng với những Bộ trưởng các Bộ An ninh Nội địa, Bộ Năng lượng, Bộ Giao thông Vận tải, cũng như Giám đốc Trung tâm bão lụt quốc gia …

 

Đang lúc bão Sơn tinh  cấp 14 đổ bộ vào các tỉnh miền Trung thì quốc hội vẫn nhóm họp như bình thường...

Đang lúc bão Sơn tinh cấp 14 đổ bộ vào các tỉnh miền Trung thì quốc hội vẫn nhóm họp
như bình thường …(baoquangngai)

Tổng thống Obama xuất hiện trên truyền hình báo cho dân chúng biết chính phủ của ông
làm gì, thực hiện tới đâu và biện pháp đưa ra có kết quả như ý muốn hay không.
Một trong những điều ông gửi tới người dân không phải là thông báo ngân sách sẽ bỏ ra bao nhiêu để giúp đỡ cho những người thiệt hại nhưng ông mang tới cho dân chúng Hoa Kỳ một sự ấm áp khi tỏ ra lo lắng cho sự sống còn của họ, những người dân đang cận kề cái chết. Ông kêu gọi họ như người thân trong gia đình và với lời lẽ thiết tha ông thật sự làm cho nước Mỹ tươi tỉnh sau nhiều ngày u ám:

“Một trong những điều mà tôi muốn gửi tới quý vị ngày hôm nay là xin làm ơn nghe những gì mà cơ quan có trách nhiệm tại địa phương của quý vị thông báo cho quý vị làm. Khi họ nói quý vị phải di tản thì làm ơn di tản, đừng chần chừ, đừng thụ động một chỗ và đừng thắc mắc về những gì mà họ chỉ dẫn cho quý vị. Bởi vì đây là một trận bão
nghiêm trọng và khả năng tàn phá của nó có thể gây chết người rất lớn.”

Họ làm việc dưới sự theo dõi của người dân

Toàn bộ nội các của chính phủ Obama hầu như ai cũng có việc để làm. Những cuộc họp qua video liên tục ghi nhận những điều cần cập nhật và dân chúng thấy rõ tất cả những cơ quan này làm việc ra sao, trách nhiệm tới đâu và điều gì cần bổ xung, sửa đổi. Hàng ngàn cơ
quan truyền thông tập trung vào cơn bão, việc vận động bầu cử trong những ngày áp chót xem như không cần thiết đối với truyền thông nữa. Khi một nhà báo hỏi Tổng thống Obama liệu cơn bão có ảnh hưởng đến việc vận động tranh cử của ông hay không câu trả lời của ông rất ngắn gọn và ý nghĩa:

“Tôi không lo lắng tới việc cơn bão có ảnh hưởng gì đối với việc tranh cử. Điều tôi lo lắng bây giờ là sự ảnh hưởng của những gia đình nạn nhân, là những phản hồi đầu tiên của họ. Tôi lo ngại ảnh hưởng tới nền kinh tế và hệ thống giao thông của nước Mỹ. Cuộc bầu cử
tự nó sẽ tiến hành mọi chuyện vào tuần tới.”

Dân chúng Quảng Bình được lệnh sơ tán đến khu vực an toàn. Theo Vietnamnet

Dân chúng Quảng Bình được lệnh sơ tán đến khu vực an toàn. Theo Vietnamnet

Và Việt Nam, với những lo toan khác…

Trong khi nước Mỹ được điều hành và quan tâm bởi một chính phủ như thế còn Việt nam thì sao?

Trong những ngày bão tố, quốc hội nhóm họp với những đề tài to lớn và không một câu một chữ nào nhắc nhở bên trong nghị trường rằng cơn bão đang tấn công người dân bên ngoài.

Có ba vị đứng đầu cả nước nhưng không thấy ai chính thức sử dụng truyền thông đại chúng để nhắc nhở và chia sẻ nỗi lo toan của người dân. Vài cán bộ cấp tỉnh lên tiếng than vãn tình hình sau bão sẽ gặp khó khăn cần trung ương giúp đỡ. Báo chí loan tin bão như một mẩu
tin mà tính thời sự chỉ ngang tầm với tin áo ngực Trung Quốc có vật lạ đang làm phụ nữ Việt Nam lo lắng. Tệ hơn nữa, cơ quan có trách nhiệm đối phó với bão lại tập trung vào câu hỏi có nên đổi tên bão hay không vì Sơn Tinh là một vị thần Việt Nam không thể đại diện cho sự tàn phá, chết chóc.

Những khác biệt lớn

Tồng thống Mỹ có thể vì sự nghiệp chính trị của mình mà tận lực trong việc chống thiên tai nên phải sát cánh với dân. Nếu không thực hiện điều dân mong mỏi thì chức Tổng thống không thể vào tay cho dù là Cộng Hòa hay Dân Chủ.

Việt Nam không có thông lệ này vì tất cả lãnh đạo không được dân bầu mà do đảng chọn. Đảng cộng sản quyết định mọi sự kể cả cho phép ai trong ba người cao nhất được đến với dân vào lúc dân cần như một hình thức lấy điểm, tùy thuộc vào vị thế và ảnh hưởng chính trị của người ấy có được chọn trong nhiệm kỳ sắp tới hay không. Cơn bão Sơn Tinh tới Việt Nam rất không đúng lúc khi Bộ chính trị phải đối phó với cơn bão nội trị nặng nề và
khó khăn hơn Sơn Tinh rất nhiều.

Người dân tự hỏi tại sao lãnh đạo lại tiếc với dân một chuyến đi khi chắc chắn sẽ mang lại rất nhiều kết quả. Cho dù chuyến đi ấy sẽ gây khó chịu cho một nhóm người nhưng hài lòng cho cả nước thì cũng đáng để được thử thách. Cho tới khi người dân hiểu được những khó khăn của lãnh đạo thì người ta lo rằng sự chịu đựng bão tố, thiên tai cùng những nhức nhối của sự vô cảm sẽ vượt khỏi lũy tre già mang tên nhẫn nhục và cam chịu.

Chọn hạnh phúc đời sau

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
1-11-2012
Chọn hạnh phúc đời sau
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Công Đồng Vatican II dạy: «Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được
Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo
con đường của mỗi người» (GH 11§3).
Ở đời người ta vẫn cho rằng: hạnh phúc là giầu sang, là phú quý, có nhà cao cửa
rộng, có vợ đẹp con khôn, có quyền lực, có tiền để hưởng lạc mọi thú vui trần gian . . . Chính vì lẽ đó, người ta sẵn sàng làm mọi sự để đạt được những thứ ấy. Đôi khi họ bất chấp mọi thủ đoạn, họ dùng mọi phương tiện, mọi mưu kế để theo đuổi hạnh phúc trần gian. Có khi vì những hạnh phúc thông thường ấy, họ không ngần ngại hy sinh, gian nan, kể cả bỏ người thân để kiếm tìm. Thông thường họ vẫn nghĩ đó là chuyện nên làm và cần phải làm để tồn tại trong thế giới đầy thị phi này.

Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giê-su về hạnh phúc hoàn toàn ngược lại với cách
suy nghĩ của thế gian. Hạnh phúc của Chúa Giê-su không phải nằm trong cái chúng
ta nắm lấy mà là ở trong cái chúng ta cho đi. Không phải ở trong điều chúng ta
tìm cách thoả mãn, hưởng thụ mà hệ tại ở việc chúng ta sống tự chủ bản năng,
sống thanh thoát với đam mê. Không phải ở trong việc chúng ta tìm sự nhàn rỗi
hay trốn tránh trách nhiệm mà quan yếu là dám đối diện với sự thật, để bảo vệ
cho sự thật, bảo vệ cho công lý, cho dù có vì đó mà tù đầy hay thiệt thòi . . .

Có lẽ, thế gian vẫn cho những ai sống điều này là điên rồ. Thế gian đến rồi đi. Hiện hữu rồi mất đi. Họ nghĩ rằng cuộc sống trần gian là để hưởng thụ nên tìm  mọi cách để hưởng thụ kẻo chết là hết như có người đã từng nói: “Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau”.  Họ lao vào cuộc đời tìm kiếm danh lợi thú để thoả mãn lòng tham của mình. Vâng, nếu chết là hết thì không cần ăn ngay ở lành, không cần làm việc lành phúc đức, không cần “trồng cây hạnh ở đời”. Chết là hết thì hãy cố gắng tranh thủ mà hưởng lạc kẻo uổng phí cuôc đời. Nhưng, thực ra chết không phải là hết. Ngoài sự sống trần gian này chúng ta còn có một sự sống hoàn hảo hơn. Nơi đó là trọn vẹn. Con người  không cần phải bon chen, không phải lo hưởng thụ vì đã tròn đầy hạnh phúc.

Chúa Giê-su khi đề ra các mối phúc, Ngài hướng con người tới hạnh phúc trường
tồn. Ngài dẫn dắt con người vượt qua hạnh phúc tạm để đạt được hạnh phúc vĩnh
cửu. Cuộc đời này người ta ví tựa như cuộc sống của bào thai, một cuộc sống tăm
tối trong bụng mẹ chỉ là cuộc sống tạm bợ ngắn ngủi trong 9 tháng 10 ngày. Cuộc
sống ấy không chỉ kéo dài tới đấy là hết, mà toàn bộ cuộc sống ấy là để chuẩn bị
cho một cuộc sống khác dài hơn gấp bội, có thể tới 90 năm. Cũng vậy, người kitô
hữu quan niệm rằng đằng sau cuộc sống ngắn ngủi này là cả một đời sống vĩnh cửu
dài vô tận. Vì thế, người kitô hữu – những kẻ theo Đức Giêsu – tuy sống trong
thế giới này nhưng tâm hồn vẫn hướng về một thế giới khác tốt đẹp hơn, rộng lớn
hơn, lâu dài hơn rất nhiều.

Hôm nay, mừng lễ các thánh nam nữ ở trên trời là lời khẳng định có đời sau của
niềm tin ky-tô hữu chúng ta. Các thánh là những người đã vượt qua niềm vui mau
qua để tiến vào niềm vui bất diệt. Các ngài đã sống một cuộc đời không chọn
vinh hoa phù vân nhưng chọn Chúa làm gia nghiệp. Các ngài đã sống một cuộc đời
tự chủ bản năng để không vì danh lợi thú mà bán rẻ lương tâm, mà đánh mất nhân
phẩm con người. Các ngài đã trung kiên làm chứng cho sự thật, và bảo vệ công lý
cho dù có thua thiệt đời này, nhưng các ngài đã chiếm trọn đời sau.

Xin chư vị các thánh cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta biết sống theo
tin mừng, biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là giá trị trần gian mau qua. Xin
nhờ lời bầu cử của các ngài xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan và lòng
dũng cảm để sống theo thánh ý Chúa. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

1-11-2012
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
Công Đồng Vatican II dạy: «Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được
Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo
con đường của mỗi người» (GH 11§3).
Lạy Chúa con xin hợp với cả triều thần thánh tung hô Chúa! Thánh, Thánh, Chí Thánh!
Chính Chúa dạy chúng con phải nên Thánh, nên trọn lành như Cha trên trời. Xin cho chúng con được bền gan theo chân Chúa gọi, nên Thánh cuối thời, làm con yêu dấu, và làm tông đồ của Trái Tim phép tắc từ bi Mẹ.
Vì ơn trọng đại này, xin Chúa ban cho nhiều người tội lỗi được ơn trở lại và sống thánh thiện. Amen!
Nihil Obstat Rev. Barnabas M. Thiệp, CMC
1 Tháng Mười Một
Lễ Các Thánh

Ngày lễ đầu tiên trong lịch sử để vinh danh các thánh là ngày tưởng niệm “các
vị tử đạo” được cử hành vào đầu thế kỷ thứ tư. Vào đầu thế kỷ thứ bảy, sau làn sóng trộm cắp đột nhập các hang toại đạo, Ðức Giáo Hoàng Boniface IV đã cho thu lượm khoảng 28 toa đầy những hài cốt và chôn cất lại bên trong đền Pantheon, là đền thờ các thần của người La Mã, và ngài thánh hiến đền thờ này như một đền thờ Kitô Giáo. Theo sử gia của Giáo Hội là Bede Ðáng Kính, đức giáo hoàng có ý định rằng “việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay  cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng thờ ma quỷ” (Về Việc Tính Toán Thời Giờ)
Nhưng việc thánh hiến đền Pantheon, cũng như ngày kính nhớ đầu tiên các vị tử đạo xảy
ra vào tháng Năm. Nhiều Giáo Hội Ðông Phương vẫn kính nhớ các thánh vào mùa
xuân, hoặc trong mùa Phục Sinh hoặc ngay sau lễ Hiện Xuống.
Tại sao Giáo Hội Tây Phương cử hành lễ này vào tháng Mười Một thì không ai hiểu.
Người ta chỉ biết vào năm 800, thần học gia Alcuin người Anglo-Saxon cử hành lễ
này vào ngày 1 tháng Mười Một, và người bạn của ông là Arno, Giám Mục của
Salzburg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ chứ chín, Giáo Hội La Mã đã
chấp thuận ngày lễ này.

Lời Bàn
Ðầu tiên lễ này để kính nhớ các vị tử đạo. Sau này, khi Kitô Hữu được tự do tín ngưỡng, Giáo Hội đã dùng ngày lễ này để tỏ lòng kính trọng những người thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, được coi là thánh thì chỉ cần một tiêu chuẩn là được nhiều người công nhận, ngay cả việc chấp thuận của vị giám mục cũng được coi là bước sau cùng để đưa vào niên lịch Giáo Hội. Việc phong thánh bởi đức giáo hoàng lần đầu tiên xảy ra vào năm 973; ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính thánh thiện. Bây giờ, lễ các thánh để kính nhớ các vị thánh vô danh cũng như nổi danh.
Lời Trích
“Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi
chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình
mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế…
Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO: NHÂN VỊ VÀ NHÂN QUYỀN

NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG
GIÁO: NHÂN VỊ VÀ NHÂN QUYỀN

Lm. Ernest Nguyễn văn Hưởng

nguồn: Conggiaovietnam.net

1. Nhân vị và nhân phẩm theo cái nhìn chung của nhân loại

Người ta thường hiểu con người là con vật có lý trí. Và câu chuyện trong dân gian Việt nam cũng hiểu như thế (chuyện Con cọp và người nông phu). Khi muốn hạ giá người nào,
người Việt Nam chúng ta đưa về con vật: Ăn như heo…

Nhân vị:

Khi nói tới nhân vị chúng ta thường hiểu mỗi cá nhân của xã hội loài người là một nhân vị, là chủ thể của quyền lợi và nghĩa vụ. Nhân vị dành cho con người nên phải hiểu đó là cá nhân có ý thức và tự do. Vì thế mỗi cá nhân phải được đối xử bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, không phân biệt phái tính, chủng tộc, v.v…Nhân vị không biệt lập nhưng hướng về nhân vị khác, thông hiệp với nhân vị khác.

Nhân phẩm:

– Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người.

(Trích từ bài TÔN TRỌNG NHÂN PHẨM trên mạng);

– Nhân phẩm chính là những giá trị phản ánh và tạo nên phẩm chất của từng cá nhân. Mỗi con người đều có những giá trị nhất định.

– Người có nhân phẩm là người có danh dự và sẽ được cộng đồng xã hội tôn trọng và đánh giá cao. Người tự đánh mất nhân phẩm, danh dự của mình sẽ là người bị cộng đồng coi thường và đánh giá thấp;

– Người biết tôn trọng nhân phẩm là người có lòng tự trọng, biết đấu tranh và có thái độ
không đồng tình với những hành vi xâm hại hoặc chà đạp lên nhân phẩm của người
khác và của bản thân.

2. Con người theo cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo

2.1 Con người được Thiên Chúa tạo dựng

Nhân vật chính của toàn bộ đời sống xã hội là chính con người. Con người nên và phải luôn luôn là chủ thể, là nền tảng và là mục tiêu của đời sống xã hội (số 106). GHXHCG triển khai nguyên tắc: Con người có phẩm giá bất khả xâm phạm (số 107). Con người có phẩm giá của một ngôi vị, có khả năng biết mình, làm chủ mình và tự nguyện hiệp thông với người khác (số 108).

Khởi đi từ điều mọi người công nhận, Giáo hội cho biết con người được kêu gọi để có tương quan với Thiên Chúa. “Thực vậy, con người không lầm lẫn khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ trụ vật chất, và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của thiên nhiên, hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi con người quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu nầy, ở đó Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (GS 14).

Cũng trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” (GS) Giáo hội không trả lời câu hỏi Con
người là gì ? Theo kiểu cổ điển: “Con người là một hữu thể có trí khôn, gồm có xác và hồn”, nhưng Giáo Hội hướng về Kinh thánh: “Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa” (GS 12), “có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất để cai trị và xử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa”.

Cũng khởi đi từ Kinh thánh, Giáo hội khai triển chiều kích xã hội: “Nhưng Thiên Chúa đã
không tạo dựng nên con người cô độc: Bởi vì từ khởi thủy Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ (St 1,2-7). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người sẽ không thể sống và phát triển tài năng của mình” (GS 12).

Con người có bản tính xã hội vì con người không thỏa mãn khi sống với thảo mộc, và sự
xuất hiện của người nữ làm thỏa mãn nhu cầu đối thoại liên vị (số 110). Con người liên hệ với những người khác như những người được giao cho sự sống của người khác (số 112). Vì mang tính xã hội nên con người hưởng dùng của cải với trách nhiệm, chứ không được tự do khai thác cách tùy tiện và ích kỷ (số 113).

2.2 Vết thương của tội nguyên tổ

Tội nguyên tổ làm con người mất đi sự thánh thiện và công chính nguyên thủy (số 115), tạo một vết thương nằm nơi sâu xa nhất của con người. Hậu quả của tội là sự tha hóa (xa rời Thiên Chúa và với chính mình, với người khác và thế giới chung quanh) (số 116). Giáo lý về tội nguyên tổ cho biết tội mang tính phổ quát, có nền tảng rất quan trọng. Giáo lý đó mời gọi đừng ở lại trong tội, đừng xem nhẹ tội, cũng đừng đổ lỗi cho người khác. Tuy nhiên không được tách rời giáo lý về sự phổ quát của tội với ý thức về sự phổ quát của ơn cứu độ (số 120).

2.3 Con người được cứu độ

Người kitô hữu nhìn thấy vực sâu của tội nhưng luôn nhìn trong ánh sáng hy vọng do Đức Kitô mang lại (số 121). Nhờ Đức Kitô chúng ta được hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi
(số 122). Theo Tân ước toàn thể thụ tạo cùng với nhân loại đều chờ đợi Đấng Cứu Chuộc.

2.4 Con người đa dạng

“Giáo huấn Xã hội Công giáo tìm cách chỉ ra những khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm con người: con người phải được tìm hiểu “trong sự thật toàn vẹn của mình, từ sự
hiện hữu của bản thân con người cho đến chiều hướng cộng đồng và xã hội
”,
với sự quan tâm đặc biệt sao cho giá trị của con người được mọi người sẵn sàng nhìn nhận” (số 126).

– Tính thống nhất của con người: Thống nhất hồn xác, cả hai bản tính kết hợp thành
bản tính con người.

– Con người bước ra khỏi mình để hướng về Đấng Vô biên và và để hướng đến người khác. Con người độc nhất không thể sao chép và không thể xâm phạm. Từ đó đưa tới việc tôn
trọng nhân phẩm: Không thể lấy con người làm bàn đạp để thực hiện dự án, mà trái lại dự án là để phục vụ con người.

– Con người tự do hướng về điều tốt là một trong những dấu hiệu chứng tỏ con người giống Thiên Chúa (số 135).

– Mọi người đều bình đẳng vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa, “Không có Do Thái hay Hy Lạp, không có nô lệ hay tự do, không có nam hay nữ, vì
tất cả anh em đều là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28; x. Rm 10,12; 1 Cr 12,13; Cl 3,11).

– Con người là hữu thể xã hội (xem bên trên).

3. Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

3.1 Giáo hội với bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Giáo hội đánh giá cao bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Giáo hội ghi nhận “giá
trị tích cực của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền,
được Liên Hiệp Quốc chấp nhận ngày 10-12-1948, và được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II coi như “một cột mốc thực sự trên con đường tiến bộ đạo đức của nhân loại”. Tôn trọng con người là tôn trọng quyền con người (Nhân quyền). Xác định và công bố các quyền của con người, là một trong những cố gắng quan trọng nhất nhằm đáp ứng cách hữu hiệu những đòi hỏi tất yếu của phẩm giá con người (số 152).

3.2  Vài nhận xét về bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Vài lưu ý về bản Tuyên ngôn :

–   Công nhận nhân phẩm của tất cả con người trong đại gia đình nhân loại và
những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ là nền tảng của tự
do, công lý và hòa bình
trên thế giới.

–         Xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ.

–         Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp.

–          Cácquốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc
tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.

–      Dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

4. Học Thuyết Xã Hội về quyền con người

4.1 Nguồn gốc quyền con người

Thật ra, nguồn gốc các quyền con người nằm ngay trong chính phẩm giá của mỗi một con người.…(số 153). Những quyền này mang những đặc tính “phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng”.

Phẩm giá này đã được nhận thức và lĩnh hội trước tiên là nhờ lý trí. Nền tảng tự
nhiên của các quyền này càng trở nên vững chắc hơn khi, nhờ ánh sáng siêu nhiên, người ta nhìn nhận rằng phẩm giá của con người đã được Đức Giêsu Kitô đón nhận và cứu chuộc qua sự nhập thể, qua cái chết và sự sống lại của Người.

4.2 Bản liệt kê Quyền con người của Giáo hội

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II lập một danh sách các quyền ấy trong Thông điệp entesimus Annus: “quyền được sống, một phần không thể thiếu trong quyền ấy là quyền của đứa trẻ được lớn lên trong bụng mẹ ngay từ khi thụ thai; quyền được sống trong một gia đình hợp nhất và trong một môi trường luân lý giúp phát triển nhân cách của đứa trẻ; quyền được phát huy trí thông minh, được tự do tìm kiếm và hiểu biết sự thật; quyền được chia sẻ công ăn việc làm để sử dụng các nguồn lực vật chất của trái
đất cách khôn ngoan, và quyền được lấy từ việc lao động những phương thế để trợ giúp bản thân và những người lệ thuộc vào mình;quyền được tự do lập gia đình, quyền có con và dạy dỗ con qua việc thực hiện hành vi tình dục một cách có trách nhiệm. Theo một nghĩa nào đó, nguồn gốc và tổng hợp các quyền này chính là quyền tự do tôn giáo, được hiểu như quyền được sống theo sự thật của đức tin và phù hợp với phẩm giá siêu việt của một con người” (Số 155).

4.3 Quyền lợi và nghĩa vụ

Liên kết hết sức chặt chẽ với đề tài quyền lợi là vấn đề nghĩa vụ của con người: “Trong xã hội loài người, quyền của người này là nghĩa vụ cho hết những người khác: Cụ thể là nghĩa vụ phải nhìn nhận và tôn trọng quyền ấy” (số 156).

4.4 Khoảng cách giữa chữ viết và tinh thần

Thực tế rất đáng buồn là các quyền ấy đã bị xâm phạm, với đủ loại chiến tranh và bạo lực, nhất là những cuộc diệt chủng và lưu đày tập thể, việc mở rộng gần như trên toàn thế giới những hình thức chưa từng thấy của sự nô lệ như buôn người, bắt trẻ em làm lính, bóc lột người lao động, buôn bán ma tuý trái phép, mãi dâm.

Có một khoảng cách giữa “chữ viết” và “tinh thần” của nhân quyền, vì người ta chỉ nhìn nhận các quyền này một cách hết sức hình thức (Số 158). Chính Giáo Hội cũng cảm thấy nhu cầu phải tôn trọng công lý và các quyền con người ngay trong hàng ngũ Giáo Hội (số 159).

5. Thay cho lời kết

Giáo hội bận tâm rao giảng tin mừng nên “Đẩy mạnh công lý và hoà bình, đưa ánh sáng và men Tin Mừng thâm nhập mọi lĩnh vực của xã hội con người, đó luôn luôn là mục tiêu Giáo Hội ra sức nhắm tới khi thi hành mệnh lệnh của Chúa”.

Giáo Hội dấn thân trong công tác mục vụ này theo hai hướng: bằng cách công bố những nền tảng Kitô giáo của nhân quyền và bằng cách tố giác những sự vi phạm các quyền này338. Dù sao, “công bố bao giờ cũng quan trọng hơn là tố giác, và không thể tố giác mà quên công bố, vì có như thế việc tố giác mới chắc chắn và có động cơ cao cả”w

(Trích tập san Giáo huấn Xã hội Công giáo số 2)

VÌ SAO TÔI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

VÌ SAO TÔI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

Maria Nguyễn Thị Xuân
nguồn: ubmvgiadinh.org

Những người quen thân tôi đều biết rằng tôi là người mới làm lễ quy y theo
Đạo Phật cách đây khoảng hơn 2 năm. Nói là theo Đạo Phật nhưng thật ra tôi
yêu mến và cảm thấy gần gũi với Đức Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều hơn và cũng nhờ
vậy mà cuộc sống của tôi đã trở nên vui vẻ và hạnh phúc hơn những năm về
trước, vì tôi cảm nhận được sự khác biệt giữa một cuộc sống có Đạo của ngày
hôm nay và đời sống không có Đạo của ngày hôm qua.

Nhưng gần đây (cuối  năm 2004) tôi và 2 đứa con tôi đã bắt đầu theo học chương trình giáo lý căn bản của Công Giáo tại Nhà Thờ Saint Jane Frances tại North York (Canada). Hai đứa con tôi, đứa con trai 17 tuổi và đứa con gái 14 tuổi đã được rửa tội hôm lễ Phục Sinh ngày 26/3/2005. Còn tôi thì chuẩn bị về Việt Nam rửa tội vào
tháng 8/2005.

Lý do tôi về Việt Nam rửa tội là vì dòng họ nội ngoại 2 bên nhà tôi từ bao đời nay, tôi là người đầu tiên theo đạo Công Giáo. Vì thế tôi muốn nhân cơ hội này đưa cả nhà
tôi ở đây về VN để giới thiệu cho gia đình 2 bên biết thêm về Thiên Chúa và ước nguyện rằng cơ hội này sẽ là ngọn Lửa thiêng soi sáng tất cả mỗi tấm lòng mọi người trong gia đình và là chiếc cầu nối liền giữa gia đình tôi cùng Thiên Chúa.

Có rất nhiều người đã hơi ngạc nhiên vì tôi chỉ trong một thời gian ngắn đã tin chắc chắn vào Thiên Chúa và việc theo Đạo “ào ạt” của mọi thành phần trong gia đình chúng tôi, nên đã hỏi tôi rằng “nguyên nhân nào đã khiến chúng tôi có một đức tin mãnh liệt và chắc chắn vào Thiên Chúa như vậy? Chúng tôi đã thấy gì và đã cảm nhận được gì nơi Thiên Chúa? Có phải chăng chúng tôi đã miệt mài đi tìm Chúa bấy lâu nay và ngày hôm nay chúng tôi đã tìm gặp Ngài hay là chính Ngài đã tìm gặp chúng tôi, những con chiên thất lạc tự bao đời.”

Đọc hồi nãy tới chừ mà chẳng nghe tôi nhắc tới chữ “chồng”, chắc các bạn nghĩ rằng tôi là “single mom” hả? Không phải đâu, cũng may còn có một người chịu khó lấy tôi làm vợ nên tôi cũng có chồng như ai, nhưng khổ nỗi là khi lấy nhau thì ổng mạnh ù và 4 năm nay thì ổng bịnh triền miên đau khổ, bịnh té lên, té xuống, bịnh đến nỗi mà nhìn lên trời chẳng thấy trời, nhìn xuống đất không thấy đất, nhìn chung quanh chẳng thấy ai và nhìn lại chồng mình cũng chỉ thấy có bịnh mà thôi. Đúng là bịnh đến độ không còn thấy trời trăng mây gió gì cả, mà đâu phải mấy cái bịnh tầm thường như đau đầu, sổ mũi mỗi mùa, mỗi năm vẫn thường xảy ra ở cái xứ lá phong này, mà là bịnh ung thư gan ngặt nghèo mà ai nghe tới cũng rùng mình rởn tóc gáy. Ai đã mang vào thân thì cơ hội sống được 5 năm chỉ có 5% mà thôi (theo cancer therapy guide xuất bản năm 2003). Nhưng cái khổ là chồng tôi đâu có phải chỉ bị ung thư gan 1 lần mà thôi đâu, chỉ trong vòng 3 năm rưỡi thôi, ổng đã bi bệnh ung thư gan tái phát đến 6 lần, tất cả là 9 cái khối u (tumors), cái lớn nhất là 13.5 cm và cái nhỏ nhất là 1.5cm.

Bệnh ung thư gan của chồng tôi tái phát lần thứ 6 vào cuối tháng 10 năm 2004. Khối u lần này phát triển rất nhanh và kỳ lạ: trong vòng 6 ngày mà phải ra vào phòng cấp cứu đến 4 lần. Sau nhiều lần thử nghiệm và xét nghiệm thì các Bác Sĩ tại bệnh viện
Princes Margaret tại Toronto đã báo cho chúng tôi biết là “sorry nothing we can do”. Khi biết bệnh không còn cách chữa trị, họ chuyển chồng tôi qua một Bác Sĩ khác để thí nghiệm một loại radiation mới ra đang còn trong thời kỳ thí nghiệm ở giai đoạn 1 (phase 1 clinical), nhưng người bác sĩ thực hiện cuộc thí nghiệm này đã đi vắng, 3 ngày sau mới trở lại bệnh viện. Vì thế chúng tôi phải về nhà chờ đợi 3 ngày sau sẽ trở vào bệnh viện cho họ thử thuốc.

Sau khi về đến nhà thì có một người bạn đem đến tặng cho chồng tôi một chai nước Thánh có hình Đức Mẹ Lộ Đức và có kể cho chúng tôi nghe sơ sơ về Đức Mẹ và từ đó do một sự đánh động vô cùng mãnh liệt đã dẫn đưa chúng tôi đến một quyết định không suy nghĩ là đi Lourdes ở bên Pháp để cầu nguyện với Đức Mẹ Lộ Đức (vì nếu có suy nghĩ thì không thể đi được, và đi có thể sẽ chết trên đường đi). Chỉ có một
ngày đi, một ngày ở và một ngày về.
Chúng tôi chỉ có một ngày ở với Đức Mẹ mà may mắn thay lại đúng vào ngày lễ lớn mỗi năm chỉ tổ chức một lần của các người dân miền núi. Có 3 vị Hồng Y chủ lễ, hơn 100 Giám Mục và soeurs, khi chúng tôi lần mò ra tới hang đá (Grotto) nơi Đức Mẹ hiện ra thì người ta đã vây quanh và đầy nghẹt cả mọi nơi. Chúng tôi cố len lỏi một hồi mà chẳng tới đâu, quay đầu nhìn về hướng hang đá cũng không thể nhìn thấy tượng Đức Mẹ đâu cả. Trải qua bao nhiêu khó khăn muốn đến tận nơi để dâng lời cầu nguyện với Mẹ mà bây giờ đứng xa như vậy làm sao mà cầu nguyện với Mẹ được. Tôi buồn và thất vọng vô cùng nên nhìn về phía hang đá mà khấn rằng “Lạy Mẹ, chồng con bịnh hoạn từ xa
đến đây tìm Mẹ mà bây giờ đứng xa quá không nhìn thấy Mẹ, xin Mẹ thương xót
cho chồng con vào bên trong được không!”.

Lạ lùng thay chưa đầy mấy phút sau thì bỗng một người đàn bà người Pháp đang giữ trật tự tại đó đến dắt chồng tôi vào bên trong và cho ngồi sau lưng các vị Giám Mục và đối diện với tượng Đức Mẹ nơi hang đá. Khi chồng tôi vào được bên trong thì tôi
vui mừng lắm. Nhưng mừng chưa xong thì lại lo lắng vô cùng, vì chồng tôi sức
khoẻ rất yếu nếu có việc gì ai lo cho ảnh đây! Vì thế chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp tục cầu nguyện. Tôi lại tiếp tục thì thầm với Mẹ “Mẹ ơi! Mẹ cho con vào trong để con có thể nhìn thấy chồng con được không Mẹ ?.”…

Chỉ vài phút sau thì lại có một người giữ trật tự dắt tôi vào bên trong khu Thánh Lễ có ghế ngồi đàng hoàng, tuy ở đây không gần chồng tôi lắm, nhưng nhìn từ xa tôi có thể thấy thấp thoáng bóng dáng của chồng tôi. Được như vậy đã là may lắm rồi, vì
trong khu Thánh Lễ chỉ ưu tiên cho những bệnh nhân đi xe lăn và những người
bệnh nằm trên băng ca hoặc những ai có bổn phận thi hành Thánh Lễ mà thôi. Vì
số ghế chỉ có vài trăm mà số người lại đến mấy ngàn người. Sau khi xảy ra những việc nầy tôi mới thấy thế nào là sự mầu nhiệm của sự cầu nguyện và ngay lúc nầy lòng tôi đã cảm thấy gần gũi với Đức Mẹ và Chúa hơn bao giờ hết.

Tối hôm đó ngày 7/11/2004 cũng là tối cuối cùng tại Lộ Đức (Lourdes), tôi cứ lang thang quanh khu nhà thờ cầu nguyện và suy niệm về sự mầu nhiệm cuả  đức tin và lòng thương xót mà Mẹ đã ban cho tất cả những ai đang khốn khổ mà có lòng tin đến đây cầu xin cùng Mẹ và nhất là lòng thương xót mà Mẹ đã ban cho tôi ngày hôm nay.

Trời đã bắt đầu vào mùa Đông, mà Lourdes là miền núi nên vào ban đêm trời lạnh dữ lắm, nhất là vào lúc nửa đêm. Nhìn quanh khuôn viên nhà Thờ rộng lớn bao la không còn một bóng người, nhìn lại hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra chỉ còn lại một bà cụ già đang quỳ gối, hai tay lần chuỗi mân côi, bà dùng hai đầu gối già nua quỳ trên
sàn đá lạnh buốt và lê từng bước nặng nề, chậm rãi nhưng cương quyết van xin
một điều gì đó vô cùng thành khẩn và tự tin.

Nhìn vào Đức Tin của bà cụ, cõi lòng tôi tự nhiên lòng dâng một niềm tin mãnh liệt vô bờ bến và tôi tiến dần về phía hang đá dưới chân tượng Đức Mẹ, nơi chồng tôi đang cúi đầu, hai tay ôm lấy vách đá lòng sụt sùi dâng lời cầu nguyện. Tôi yên lặng
một lát rồi đặt một tay lên vách đá và tay kia đặt trên đôi vai gầy guộc đang
run run vì xúc động của chồng tôi, tôi vô cùng đau khổ và xót xa cho số phận
của chồng tôi, cõi lòng tôi bỗng vỡ ra từng mảnh, những dòng nước mắt từ
trong linh hồn tôi đang tuôn ra. Tôi như chìm vào một không gian vô tận và
tôi bắt đầu cầu nguyện, những lời cầu nguyện bây giờ không phải bằng trí óc
hay con tim mà là những lời cầu nguyện từ trong linh hồn đang hoà tan vào
trong nước mắt dâng lên Mẹ.

“Mẹ ơi! chồng con đã bị bệnh quá ngặt nghèo đã không còn cách chữa trị, chúng con đến đây để cầu xin với Mẹ và chỉ biết một lòng cậy trông vào Mẹ mà thôi, xin Mẹ vì
lòng xót thương cầu bầu cùng Chúa Giêsu cứu lấy chồng con, CUỘC ĐỜI CÒN LẠI,
CON NGUYỆN XIN THEO MẸ ” và đây chính là lời nguyện ước giữa tôi và
Thiên Chúa.

Đến nửa đêm trời trở nên lạnh hơn, chúng tôi tạ ơn Mẹ ra về.

Trên đường về, chúng tôi ghé lại bên dòng suối mà năm xưa Đức Mẹ đã biến thành dòng nước thánh và đã chữa lành biết bao bệnh nhân có Đức Tin đến đây cầu xin cùng Mẹ. Chồng tôi đứng lại, dâng lời cầu nguyện và uống nguyên một chai nước thánh rồi đi thẳng một hơi về khách sạn mà không cần sự giúp đỡ của tôi, cái lưng cũng không còn khom khom như ngày hôm qua nữa. Tôi vô cùng kinh ngạc nhưng chẳng dám nói gì, cứ âm thầm quan sát mọi việc.

Thật đúng là “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở
cho” (Lc 9, 10)

Chiều hôm đó khi về tới nhà tại Mississauga, Ontario, Canada, chồng tôi đang loay hoay đem bức tượng Đức Mẹ đặt trên bàn thờ, còn tôi đang lăng xăng sửa soạn bữa ăn tối thì ngay lúc đó đứa con trai của tôi chạy xuống ôm lấy vai tôi mà hỏi rằng
“Mẹ ơi khi nào con rửa tội?”.

Tôi kinh ngạc vô cùng vì cả nhà tôi chưa có ai học Giáo lý bao giờ và cũng chưa có ai nói với nó việc theo Đạo Công giáo. Tôi hơi sững sờ một chút nhưng trong lòng rộn rã một niềm vui vì tôi biết rằng ơn Chúa đang đổ xuống nhà tôi. Tôi quay lại và
nói với con trai tôi rằng “Nếu con muốn được rửa tội để theo Chúa thì con phải đi học lớp giáo lý trước cái đã”. Con tôi đồng ý và mấy hôm sau thì chúng tôi liên lạc với Cha Giuse Phạm Ngọc Tuấn, nhờ sự nhiệt tình và lòng thương mến đến gìa đình chúng tôi, cha đã sắp xếp mọi thứ và mấy tuần sau thì cả gia đình chúng tôi theo học khóa Giáo Lý vừa qua và 2 đứa con của tôi đã nhận Bí Tích rửa tội vào đêm Lễ Vọng phục Sinh ngày 26/3/2005.

Còn phần tôi như đã thưa ở trên, tôi phải “rán” mà dời lại đến tháng 8 về Việt Nam rửa tội, mục đích là đem Tin Mừng về chia sẻ cùng gia đình hai bên và với ước nguyện rằng, nhân cơ hội nầy Chúa sẽ thương xót mà đánh động mỗi tâm hồn trong gia đình hai bên và ước mong một ngày nào đó, những tâm hồn này sẽ quay về với Chúa. Tôi xin bạn hãy cầu nguyện cho gia đình tôi thật nhiều để những lời nguyện ước của tôi sẽ trở thành sự thật.

Mấy tháng nay gia đình chúng tôi đang sống trong mầu nhiệm của Đức Tin và hồng ân của Thiên Chúa, qua hình ảnh Đức Mẹ và sự mầu nhiệm của biến cố nầy tôi đã thấy gì nơi Thiên Chúa? Và cuộc đời tôi biến đổi ra sao?

Viết đến đây tôi lại nhớ đến một người bạn trong “Chương trình Thăng tiến Hôn nhân Gia đình” tuần vừa qua đã mời tôi đến dự một buổi họp mặt hàng tháng tại
Liên Gia 12 và bài Thánh kinh được chia sẻ hôm đó lại là bài dụ ngôn nói về
“Nước Hằng Sống” và Chúa đã ví “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì chôn giấu laị, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.” (Mt 13, 44.)

Càng suy niệm tôi càng cảm thấy như đây là một lời nhắn nhủ mà Chúa đã dành riêng cho tôi, mà Mẹ là NGƯỜI đã âm thầm chỉ cho tôi kìa là Nước Hằng Sống và tôi phải làm gì để có được Nước Trời này đây ! Lạy Chúa, con thật chẳng có gì xứng đáng để bán, để mua, con chỉ có cuộc đời còn lại nầy và mỗi ngày trôi qua là một ngày
con xin dâng lên Mẹ và Chúa.

Đến bây giờ thì bạn đã biết vì sao tôi theo Đạo Công Giáo rồi phải không?

Tôi kể lại câu chuyện nầy là để Vinh Danh và tạ ơn Đức Mẹ Lourdes, Người đã đưa tôi về với Chúa và cũng để cảm ơn:

Cha Giuse Phạm Ngọc Tuấn, người đã hướng dẫn và dìu dắt tôi qua những đoạn đường, những khúc quanh của cuộc hành trình đức tin mà lòng tôi nhiều khi như mơ hồ lạc mất Chúa.

Cảm ơn tất cả các anh chị em trong Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình và nhất là anh chị em trong liên gia 10, đã cầu nguyện cho chúng tôi trong suốt thời gian qua.
Cảm ơn Thầy Lân Thầy Hoàng và Soeur Hà đã hướng dẫn gia đình tôi qua lớp Giáo Lý khóa 2004-2005 và tất cả quý vị trong ban Mục Vụ Cộng Đoàn Việt Nam ở North York, Canada.

Và xin đặc biệt xin chân thành cảm ơn mẹ đỡ đầu Theresa-Maria T. Hương và nhất là anh Toản, người đã chia sẻ buồn vui mỗi ngày với chúng tôi và cũng là người đã dìu dắt 2 chúng tôi trong suốt hành trình chuyến đi Lourdes đầy nước mắt hồng ân nầy.

Maria Nguyễn Thị Xuân

Một toa thuốc rất hay cả về tinh thần lẫn thể xác.

Một toa thuốc rất hay cả về tinh thần lẫn thể xác.

Chúng ta cùng nhau tập dùng thử:

I. Sức khỏe :

Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) định nghĩa: “Sức khỏe là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất và hoàn cảnh, chứ không phải là một tình trạng không có bệnh tật hay tàn tật”

II. Bí quyết trường thọ:

1. Chấp nhận với những gì mình đang có

2. Thích nghi với hoàn cảnh của mình

3. Điều chỉnh để đạt được điều mong muốn

III. Phòng ngừa bệnh tật:

1. Không vui quá – hại tim

2. Không buồn quá – hại phổi

3. Không tức quá – hại gan

4. Không sợ quá – hại thần kinh

5. Không suy nghĩ quá – hại tỳ

6. Xua tan hoài niệm cay đắng bằng – tha thứ và lãng quên

7. Với người cao tuổi – tránh tranh luận hơn thua

IV. Thức ăn & uống trong ngày:

Một củ hành: chống ung thư

Một quả cà chua: chống tăng huyết áp

Một lát gừng: chống viêm nhiễm

Một củ khoai tây: chống sơ vữa động mạch

Một trái chuối: làm phấn chấn thần kinh, bớt lo âu, chống táo bón, giảm được béo

Một quả trứng hay ít thịt nạc: chống suy dinh dưỡng

Uống 1 đến 2 lít nước mỗi ngày: giải độc cơ thể

V. Triết lý của người Trung Hoa hiện đại:

1. Một Trung tâm là – sức khỏe

2. Hai Tí: một tí thoải mái, một tí nhiệt tình

3. Ba Quên: quên tuổi tác, quên bệnh tật, quên hận thù

4. Bốn Có: có nhà ở, có bạn đời, có bạn tri âm, có lòng vị tha

5. Năm Phải: phải vận động, phải biết cười, phải lịch sự hòa nhã, phải biết nói chuyện, và phải coi mình là người bình thường

VI. Bảo Sinh Thái Ất Chân Nhân:

1. Ít nói năng để dưỡng – Nội khí

2. Kiêng sắc dục để dưỡng – Tinh khí

3. Bớt ăn hăng mạnh để dưỡng – Huyết khí

4. Đừng nhổ nước bọt để dưỡng – Tạng khí

5. Chớ giận hờn để dưỡng – Can khí

6. Chớ ăn quá độ để dưỡng – Vị khí

7. Ít lo lắng để dưỡng – Tâm khí

8. Tránh tà tâm để dưỡng – Thần khí

1. Hãy dành thì giờ để suy nghĩ: Đó là nguồn sức mạnh

2. Hãy dành thì giờ để cầu nguyện: Đó là sức mạnh toàn năng

3. Hãy dành thì giờ cất tiếng cười: Đó là tiếng nhạc của tâm hồn

4. Hãy dành thì giờ chơi đùa: Đó là bí mật trẻ mãi không già

5. Hãy dành thì giờ để yêu và được yêu: Ưu tiên Tạo Hóa ban

6. Hãy dành thì giờ để cho đi: Một ngày quá ngắn để sống ích kỷ

7. Hãy dành thì giờ đọc sách: Đó là nguồn mạch minh triết

8. Hãy dành thì giờ để thân thiện: Đó là đường dẫn tới hạnh phúc

9. Hãy dành thì giờ để làm việc: Đó là giá của thành công

10.Hãy dành thì giờ cho bác ái: Đó là chìa khóa cửa Từ Bi

10 câu hỏi cho Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tác giả: Đạt Lai Lạt Ma

Dịch giả: Phạm Thu Hương

Tạp chí Time đã phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma tại thành phố New York vào tháng 5 năm 2010 với bài “10 Câu hỏi đến Đức Dalai Lama “.
1. Câu hỏi: Ngài đã bao giờ cảm thấy tức giận hoặc điên tiết chưa? Kantesh Guttal, Pune, ẤN ĐỘ
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Ồ, có chứ, tất nhiên rồi. Tôi là người mà. Nói chung, nếu một người không bao giờ tức giận, thì tôi nghĩ có điều gì đó đã sai. Anh ta bị hâm hâm trong đầu rồi.
[Cười lớn.]
2. Câu hỏi: Làm thế nào mà ngài luôn lạc quan và trung thực khi có quá nhiều thù ghét trên thế giới vậy? Joana Cotar, FRANKFURT, ĐỨC.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Tôi luôn nhìn một sự kiện nào đó từ góc nhìn rộng lớn. Luôn có vấn đề nào đó, chết chóc nào đó, hành động tàn sát hoặc khủng bố nào đó hoặc bê bối ở mọi nơi,
mọi ngày. Nhưng nếu bạn nghĩ toàn bộ thế giới là như vậy, thì bạn đã sai. Vì trong 6 tỷ người, những người gây rối chỉ là số ít.
3. Câu hỏi: Vai trò đặt ra cho ngài đã thay đổi ra sao kể từ khi ngài lần đầu tiên trở thành Đức Đạt Lai Lạt Ma? Andy Thomas, CARMARTHEN, WALES, ANH QUỐC.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Tôi trở thành Đạt Lai Lạt Ma không dựa vào tự nguyện. Dù tôi có nguyện vọng hay không, tôi [cũng phải nghiên cứu] triết học Phật giáo như một tăng sinh bình thường trong các tu viện lớn. Cuối cùng tôi nhận ra mình phải có trách nhiệm.
Thỉnh thoảng có khó khăn, nhưng nơi nào có thử thách, nơi đó lại thực sự là một cơ hội để phục vụ được nhiều hơn.
4. Câu hỏi: Ngài có thấy khả năng hòa giải nào với chính phủ Trung Quốc trong cuộc đời ngài không? – Joseph K.H. Cheng, MELBOURNE, ÚC.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Có chứ, có khả năng. Nhưng tôi thấy kinh nghiệm quá khứ đã cho thấy điều này không dễ dàng chút nào. Có nhiều người bảo thủ, cái nhìn của họ rất hạn hẹp và thiển cận. Họ không nhìn vấn đề một cách toàn diện. Tuy nhiên, người dân bên trong
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã có sự tiếp xúc rộng hơn với thế giới bên ngoài. Càng ngày càng có nhiều tiếng nói bất bình trong nhân dân, đặc biệt là trong giới trí thức. Những điều này sẽ thay đổi – điều đó sẽ phải xảy ra.
5. Câu hỏi: Làm thế nào chúng tôi có thể dạy con cái chúng tôi không được nổi giận? – Robyn Rice, GRAND JUNCTION, COLORADO, MỸ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Trẻ em luôn nhìn vào cha mẹ. Cha mẹ nên bình tĩnh hơn. Bạn có thể dạy con bạn rằng bạn đang đối diện với rất nhiều vấn đề nhưng bạn phải phản ứng những vấn đề đó với một tinh thần bình tĩnh và lý trí. Tôi luôn có cái nhìn này về hệ thống giáo dục hiện đại: chúng ta dành sự quan tâm cho phát triển não bộ, thế nhưng về sự phát triển lòng tốt thì chúng ta rất ỷ lại.
6. Câu hỏi: Ngài đã bao giờ từng nghĩ mình là một người bình thường thay vì là một Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa? – Grego Franco, MANILA, PHI LUẬT TÂN,
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Có chứ, khi còn trẻ. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy, “Ôi, thật là một gánh nặng. Mình mong sao mình được là một người Tây Tạng vô danh. Khi đó, mình sẽ được tự do hơn.” Nhưng sau đó tôi nhận ra vị trí của mình là một cái gì đó hữu ích cho những người khác. Hiện nay tôi cảm thấy hạnh phúc rằng mình là Đạt Lai Lạt Ma. Đồng thời, tôi chẳng bao giờ cảm thấy mình là người có chút đặc biệt. Như nhau – chúng ta tất cả đều như nhau.
7. Câu hỏi: Ngài có nhớ Tây Tạng không? Pamela Delgado Córdoba, AGUASCALIENTES, MEXICO.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Có chứ. Văn hóa Tây Tạng không những thích hợp với cổ xưa mà còn thích hợp với thế giới ngày nay. Sau khi quan sát các vấn đề bạo lực, chúng tôi thấy rõ văn hóa Tây Tạng là văn hoá của lòng từ bi và bất bạo động. Ngoài ra còn khí hậu nữa. Ở
Ấn Độ trong suốt mùa mưa, thời tiết quá ẩm ướt. Khi đó, tôi rất nhớ [Tây Tạng].
8. Câu hỏi: Ngài nói gì với những người sử dụng tôn giáo như là một cái cớ để bạo lực hoặc giết người? Arnie Domingo, THÀNH PHỐ QUEZON, PHI LUẬT TÂN.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Có những người sùng đạo, vô tội bị lôi kéo bởi một số người có quan tâm khác hẳn. Quan tâm của họ không phải là tôn giáo mà là quyền lực hay đôi khi là tiền bạc. Họ lợi dụng niềm tin tôn giáo. Trong trường hợp như vậy, chúng ta phải phân
biệt được: những [điều ác đó] không sinh ra bởi tôn giáo.
9. Câu hỏi: Ngài đã bao giờ thử mặc quần chưa? – Ju Huang, STAMFORD, CONNECTICUT, MỸ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Khi trời rất, rất lạnh. Và đặc biệt vào năm 1959, khi tôi chạy trốn, tôi có mặc quần dài, như người dân mặc. Vì thế, tôi có kinh nghiệm rồi.
10. Câu hỏi: Ngài có tin thời gian của ngài tại đây trên trái đất này đã là một thành công? – Les Lucas, Kelowna, British Columbia, CANADA.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Hmmm. Điều đó tương đối thôi. Thật quá khó để nói. Mọi cuộc sống con người đều gồm một phần thất bại và một phần thành công.
Hết.