Thánh Phêrô Canisius

Thánh Phêrô Canisius

(1521- 1597)

21 Tháng Mười Hai


Cuộc đời đầy năng lực của Thánh Phêrô Canisius phải đánh đổ bất cứ ấn tượng nào cho rằng cuộc đời của các thánh thì nhàm chán. Thánh nhân đã sống 76 năm với một nhịp độ không thể nói gì khác hơn là phi thường, ngay cả trong thời đại thay đổi mau chóng của chúng ta. Là một người được Thiên Chúa ban cho nhiều tài năng, thánh nhân là gương mẫu tuyệt hảo của một người sống cho phúc âm đã phát triển tài năng vì Thiên Chúa.

Ngài là một trong những khuôn mặt quan trọng trong giai đoạn cải cách của Giáo Hội Công Giáo ở nước Ðức. Vai trò của ngài thật quan trọng đến nỗi ngài thường được gọi là “vị tông đồ thứ hai của nước Ðức” mà cuộc đời của ngài thường được sánh với cuộc đời của Thánh Boniface trước đây.

Mặc dù thánh nhân thường cho mình là lười biếng khi còn trẻ, nhưng sự biếng nhác đó không được lâu, vì khi 19 tuổi ngài đã lấy bằng cử nhân của một đại học ở Cologne. Sau đó không lâu, ngài gặp Cha Peter Faber, người môn đệ đầu tiên của Thánh Ignatius Loyola (Y Nhã), và cha đã ảnh hưởng ngài nhiều đến nỗi ngài đã gia nhập Dòng Tên khi vừa mới được thành lập.

Trong giai đoạn này ngài đã tập luyện được một thói quen mà sau này trở thành nếp sống của cuộc đời ngài — không ngừng học hỏi, suy niệm, cầu nguyện và sáng tác. Sau khi thụ phong linh mục năm 1546, ngài nổi tiếng qua công trình soạn thảo các văn bản của Thánh Cyril Alexandria và Thánh Leo Cả. Ngoài khuynh hướng suy tư về văn chương, thánh nhân còn hăng say trong việc tông đồ. Người ta thường thấy ngài đi thăm bệnh nhân và người bị tù đầy, ngay cả khi ngài được giao cho các trách nhiệm khác mà đối với nhiều người để chu toàn công việc ấy cũng đã hết thì giờ.

Năm 1547, thánh nhân được tham dự vài khoá họp của Công Ðồng Triđentinô, mà sau này các sắc lênh của công đồng ấy được giao cho ngài hiện thực hóa. Sau một thời gian được bài sai việc giảng dạy ở trường Messina của Dòng Tên, thánh nhân được giao cho sứ vụ truyền giáo ở Ðức — cho đến mãn đời. Ngài dạy tại một vài trường đại học và góp phần chính yếu trong việc thiết lập nhiều trường học và chủng viện. Ngài viết sách giáo lý giải thích đức tin Công Giáo cho những người bình dân để họ dễ hiểu — một công việc rất cần thiết trong thời ấy.

Nổi tiếng là vị rao giảng, thánh nhân thường lôi cuốn giáo dân đến chật cả nhà thờ qua tài hùng biện của ngài về Phúc Âm. Ngài còn có tài ngoại giao, và thường làm
người hòa giải giữa các bè phái tranh chấp. Trong các thư từ ngài để lại (tất
cả đến tám bộ) người ta thấy các lời lẽ khôn ngoan của ngài khi khuyên nhủ
người dân thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội.

Trong thời gian ấy, ngài cũng viết các lá thư bất thường chỉ trích các vị lãnh đạo
trong Giáo Hội — tuy nhiên luôn luôn với một tâm tình đầy yêu thương, và thông
cảm.

Năm 70 tuổi, thánh nhân bị liệt, nhưng ngài vẫn tiếp tục rao giảng và viết lách với
sự trợ giúp của một thư ký cho đến khi ngài từ trần vào sáu năm sau đó, ngày
21-12-1597.

Lời Bàn

Nỗ lực không mệt mỏi của Thánh Phêrô Canisius là một gương mẫu thích hợp cho những ai muôán góp phần canh tân Giáo Hội hay cho sự thăng tiến ý thức luân lý trong chính phủ hay trong thương trường. Ngài được coi là một trong các vị sáng lập ngành báo chí Công Giáo, và rất có thể là gương mẫu cho các ký giả hay thông
tín viên Công Giáo. Các người trong lãnh vực sư phạm có thể nhìn thấy ngài như
một đam mê muốn truyền lại chân lý cho thế hệ mai sau. Dù chúng ta có nhiều khả
năng để cho đi, như Thánh Phêrô Canisius đã từng làm, hoặc không có tài cán gì
để đóng góp, như bà goá trong Phúc Âm (x. Luca 21:1-4), điều quan trọng là cho
đi tất cả những gì chúng ta có. Chính trong phương cách ấy mà thánh nhân đã trở
nên gương mẫu cho mọi Kitô Hữu trong thời đại thay đổi nhanh chóng này mà chúng ta được kêu gọi đến trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian.

Lời Trích

Khi được hỏi là ngài có làm việc quá sức hay không, Thánh Phêrô Canisius trả lời,
Nế u bạn có nhiều việc phải làm thì với sự trợ giúp của Thiên Chúa bạn sẽ
có thì giờ để thi hành tất cả những điều ấy.

Maria Thanh Mai gởi

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (19)

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (19)

1:55 Sáng 21/12/12

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (21.12.2012) – Sàigòn – Cần Giờ
16/10/1990

Anh Lan mến,

Chúng ta mừng đầy tháng bị quản chế và lưu đày. Tôi nhớ ngày “lên
xe hoa” có 5 công an làm “phù rể” đưa về Duyên Hải “hưởng tuần trăng mật với
Nhà nước” trong 3 năm. Mình chào mọi người, nụ cười trên môi và lòng đầy hân
hoan, như các tông đồ bị tên vua bù nhìn Hêrôđê tống giam vì danh Chúa Kitô.

Nhân dịp này, tôi đọc lại lời thú nhận của mục sư Martin Niemoller
mà lòng mình vừa vui vừa buồn. vì các vị lãnh đạo tôn giáo đã thiếu can đảm như
mục sư. Nhưng mục sư đã sám hối, đã thú nhận sự hèn nhát của mình. Còn các vị
của ta trong Giáo hội của ta thì chưa! Mục sư nói:

“Lúc bọn đức Quốc xã bắt đầu bỏ tù những người cộng sản, tôi đã im
lặng, vì tôi không phải là người cộng sản. Tôi tiếp tục giữ im lặng, khi người
ta bắt giam những người xã hội dân chủ, vì tôi không phải là người xã hội dân
chủ. Khi người ta bắt bớ người công giáo, tôi cũng không phản đối, vì tôi không
phải là người công giáo. Và lúc họ giam tôi, thì ở nước Đức, không còn tự do và
nhạy cảm để phản đối” (Temps nouveaux, 10/9/1990)

Khi người cộng sản bị bắt giam và bị tra tấn, anh em ta đã lớn
tiếng phản đối bằng những cuộc xuống đường, thăm nuôi tù chính trị, viết bài
trên tạp chí Đối Diện, bị đưa ra tòa biết bao lần và tôi với tư cách chủ nhiệm,
bị lên án năm năm cấm cố và báo Đối Diện bị đóng cửa vĩnh viễn.

Sau ngày chế độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập ở miền Nam, anh em
ta cũng đã phản đối những vi phạm nhân quyền mà vì thế, anh bị quản chế tại
gia, còn tôi bị đày ra Duyên Hải và quản chế tại xã Cần Thạnh.

Như vậy là chúng ta đã thực thi chức năng ngôn sứ của người Kitô
hữu và đã không im lặng trước bất công của bất cứ chế độ nào. Đó là niềm vui và
hãnh diện của anh em ta. Hãnh diện chứ không tự kiêu, tự mãn, ví đó cũng là ân
huệ của Chúa, đó là sức mạnh của Thánh Linh. Nhưng đồng thời cũng là nỗi buồn
của chúng ta, buồn trước “sự im lặng đáng sợ” của những vị lãnh đạo trong Giáo
Hội. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội, cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo Hội
được sức mạnh của Thánh Linh, hầu đủ can đảm phá “sự im lặng đáng sợ” kia.

Thái độ của nhà văn Soljnitsyne cũng trong ý hướng trên. Khi
Gorbatchev trả lại quốc tịch lại cho nhiều nhân vật đã bị lên án một cách bất
công bằng cách phao vu cho họ những tội như phản quốc, vợ nhà văn đã nói: “Bao
lâu Viện Kiểm sát LX chưa từ bỏ điểm chính để buộc tội ông là phản quốc và bao
lâu Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao chưa nói lên rõ ràng thái độ của họ với sắc
lệnh ngày 13/2/1974 về việc trục xuất ông Soljnitsyne, thì không có vấn đề trả
lại quốc tịch cho ông”.

Hôm công an thành phố xuống Duyên Hải làm việc với tôi và đọc nghị
quyết lần thứ hai của ủy ban Nhân dân Thành phố, tôi đã có nói với họ, cũng như
anh đã nói trên Sài Gòn với CA ngày 16/5/1990, là tôi không chấp nhận lý do đưa
ra và để đày và quản chế tôi: họ vu cáo tôi vi phạm an ninh quốc gia, chia rẽ
tôn giáo… Soljnitsyne đã không chấp nhận sự khoan hồng, khi người ta trả quốc
tịch cho ông mà chưa nhìn nhận ông ấy vô tội. Khi trả lời cho công an như trên,
chúng ta cũng có một lập trường như Soljnitsyne.

Gửi lời thăm chị Thanh Vân và hôn bé Lan Chi, bé Châu. Hôm chị
xuống cùng bạn bè thật vui, nhất là đối với “Incident Nguyễn Viết Khai”. Chắc
chị đã kể cho anh nghe. Lại một kích thích tố! Anh em cầu nguyện cho nhau.

 

Lm. Chân Tín


(NKNNL 1990-1991, trang 134-135)

QUĂNG CHÀI,

QUĂNG CHÀI,

Một mẻ chài quăng nhấp nhoáng rơi,
Dấy động tôm cua cá hụt hơi,
Thuyền con bé tẹo mênh mông nước,
Lắc lẻo đòng đưa khéo vẻ vời…
Quanh năm xứ lạ trên đầu sóng,
Bến cũ làng xưa nước đục trong ?
Mưa dầm nắng đội sương che phủ,
Vất vả nông sâu chẳng nản lòng…
Bến đổ thuyền neo sớm nghĩ ngơi,
Vá lưới nhâm nhi ngẫm sự đời,
Bao giờ vượt được cơn nước lũ,
Cuộc sống bình an lại thảnh thơi…
Liverpool.21/12/2012.
Song Như.
Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.
Kính chúc Giáng Sinh vui vẻ và Năm Mới hạnh phúc.

Hoa Kỳ chuẩn bị hợp tác quân sự với Miến Điện

Hoa Kỳ chuẩn bị hợp tác quân sự với Miến Điện

DR

Trọng Thành
nguồn: RFI

Theo AFP hôm qua 19/12/2012, một giới chức quốc phòng cao cấp của Mỹ cho biết Washington dự định bước đầu hợp tác quân sự với Miến Điện, nhằm cổ vũ làn sóng cải cách của tân chính quyền Miến Điện. Việc hợp tác quân sự song phương sẽ được tiến hành « từng bước một ».

Giới chức Mỹ xin giấu tên tuyên bố : « Chúng tôi ủng hộ chủ trương : Một mối quan hệ quân sự thận trọng và có trọng điểm, là tích cực đối với các cải cách tại Miến Điện ». Giới chức quân sự Mỹ giải thích thêm, hợp tác quân sự với chính quyền Naypyidaw sẽ diễn ra trong một« tương lai gần ». Mỹ sẽ hỗ trợ Miến Điện trong các hoạt động phi tác chiến như tập huấn quân y, trợ giúp nhân đạo, cũng như hỗ trợ cải cách bộ máy quản lý quốc phòng.

Mới đây, hai viên chức Lầu Năm Góc đã tới Miến Điện trong đoàn công du của Bộ Ngoại giao Mỹ để thảo luận về khả năng hợp tác giữa hai nước.

Hồi tháng 10/2012, Washington cho biết sẵn sàng mời Miến Điện tham gia cuộc tập trận tại Thái Lan, giữa Hoa Kỳ và các nước đồng minh, vào năm tới 2013 với tư cách quan sát viên.

Quan hệ song phương Hoa Kỳ – Miến Điện hoàn toàn thay đổi về chất, kể từ khi chính quyền gồm những cựu quân nhân theo đường lối cải cách lên thay thế tập đoàn quân sự vào đầu năm 2011. Quan hệ nống ấm giữa hai bên được đánh dấu đặc biệt với chuyến công du của tổng thống Barack Obama tới Miến Điện vào ngày 19/11/2012, tức là chỉ một tuần sau khi ông tái đắc cử. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Mỹ đương nhiệm đặt chân tới quốc gia Đông Nam Á này.

Thánh Elizabeth ở Áo & Thánh Ðaminh ở Silos

Thánh Elizabeth ở Áo
(1554 – 1592)
20 Tháng Mười Hai
Là con gái của Hoàng Ðế Maximilian II nước Ðức, Elizabeth kết hôn với Vua Charles IX của Pháp khi mới 15 tuổi. Bốn năm sau ngài đã thành góa phụ, trở về Vienna, nhất định không tái hôn.
Thánh nữ là một gương mẫu cho tất cả mọi người. Ðời sống của ngài thật đơn giản, luôn cầu nguyện, siêng đến nhà thờ, tham dự các buổi nguyện ngắm. Trong khi cố tránh con mắt dòm ngó của công chúng, ngài gia nhập Dòng Ba Phanxicô, phục vụ bệnh nhân trong các nhà thương hoặc ở nhà, tiếp tế thuốc men cho những người có nhu cầu. Nhiều ngày thứ Năm, ngài mời những người nghèo đến ăn cùng bàn với ngài để tưởng nhớ bữa Tiệc Ly.
Ngài thường thi hành những công việc hèn mọn ở tu viện Thánh Clara Nghèo Hèn mà ngài giúp thành lập, ở đó ngài nấu ăn cho người nghèo. Cũng như Cha Thánh Phanxicô, ngài lo lắng đến việc duy trì giáo hội. Ngài giúp đỡ cho việc giáo dục người trẻ trong ơn gọi tu trì để phục vụ Giáo Hội.
Thánh Elizabeth từ trần khi ngài khoảng 38 tuổi, sau khi đã hoàn tất quá nhiều công việc để vinh danh Thiên Chúa và vì lợi ích cho người dân. Nhiều phép lạ đã xảy ra tại ngôi mộ của ngài.
20 Tháng Mười Hai
Thánh Ðaminh ở Silos
(c. 1073)
20 Tháng Mười Hai
Ðaminh sinh vào đầu thế kỷ mười một và là cậu bé chăn cừu Tây Ban Nha ở dưới chân rặng Pyrênê. Chính trong thời gian này Ðaminh dần dà yêu quý việc cầu nguyện. Không bao lâu ngài trở thành một tu sĩ thật tốt lành. Ðaminh được bầu làm tu viện trưởng và đã đem lại nhiều thay đổi tốt đẹp.
Tuy nhiên, một ngày kia, quốc vương Garcia III của Navarre, Tây Ban Nha, cho rằng một số đất đai tu viện là của ông ta, nhưng tu viện trưởng Ðaminh từ chối không trao lại cho nhà vua. Ngài nghĩ rằng, thật không đúng để trao cho nhà vua những gì thuộc về Giáo Hội. Quyết định này đã làm nhà vua tức giận. Ông ra lệnh Thánh Ðaminh phải rời bỏ vương quốc của ông. May mắn thay, Thánh Ðaminh và các tu sĩ lại được đón nhận bởi một ông vua khác, là Ferdinand I của Castile. Ông này để cho thánh nhân sử dụng một tu viện cũ, là tu viện St. Sebastian ở Silos. Tu viện này ở một chỗ rất lẻ loi và trong tình trạng thật xiêu vẹo. Nhưng với bàn tay của các tu sĩ, không bao lâu, tu viện đã mang một khuôn mặt mới. Thật vậy, thánh nhân đã biến tu viện này thành một trong những tu viện nổi tiếng nhất ở Tây Ban Nha.
Thánh Ðaminh làm nhiều phép lạ chữa lành ngay khi còn sống và ngài cũng cứu thoát người tín hữu Kitô khỏi tay người Moor. Nhiều năm sau khi từ trần, thánh nhân hiện ra với một bà mẹ, tên là Joan (bây giờ là Chân Phước Joan ở Aza) khi bà đến đền kính thánh nhân để cầu xin một đứa con. Thánh Ðaminh nói với bà rằng Thiên Chúa sẽ gửi cho bà một đứa con trai. Khi người con ấy chào đời, bà đặt tên con là Ðaminh de Guzman. Và người con này trở thành vị đại thánh sáng lập dòng Ðaminh ngày nay.
Thánh Ðaminh ở Silos từ trần ngày 20-12-1073.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Một ngày buồn của nước Mỹ, một bi thảm trong mùa Giáng Sinh

Một ngày buồn của nước Mỹ, một bi thảm trong mùa Giáng Sinh
năm nay

Anthony Lưu Anh Tuấn

12/19/2012
nguồn: Vietcatholic.net

Bao Giờ Mẹ Cho Con Mở Gói Quà Giáng Sinh Hả Mẹ?

Sáng hôm thứ Sáu, tôi phải đi máy bay qua tiểu bang khác có chút việc, chiều
tôi phải bay về lại Cali. Tôi chán cái cảnh đi vào phi trường, qua cửa kiểm tra
an ninh, tôi phải tháo dây thắc lưng, điện thoại, đùm chìa khóa xe, bỏ tất cả
vào cái khay để nó chạy qua cái máy dò đồ, ghét nhất là phải cởi đôi giầy
ra…bỏ vào cái khay…, ôi cảnh trạng sao tệ thế? Cách đây hơn mười năm tôi đi
vào phi trường đâu có phải làm những “thủ tục” như thế này đâu. Tôi
đi qua cái cửa kiểm tra, nó không phát tín hiệu gì có nghĩa là tôi “trong
sạch”, mừng quá! Tôi vừa lụi hụi xỏ chân vào đôi giầy vừa chửi thầm:
“Tổ cha mấy thằng khủng bố!”.

Vào phòng đợi, nhìn đồng hồ còn hơn 40 phú nữa mới tới giờ lên phi cơ, thế là tôi mở Iphone đeo earbuds nghe nhạc và cùng lúc tìm kiếm trên mạng những món đồ ở tiệm nào đang onsale, để cuối tuần sẽ đi mua làm qùa cho gia đình, cho những người thân…Tôi rất trân trọng mùa Giáng Sinh, vì là những ngày lễ được nghỉ cuối năm sau một năm dài bươi chải cho cuộc sống. Là môt thông lệ, anh em trong gia đình tôi mỗi năm thay phiên nhau tổ chức ăn uống, đại khái gọi cho xôm tụ là một “bữa tiệc” cho đại gia đình, có ông bà, bà con và anh chị em tụ tập bên lò sưởi củi, chưng diện bằng những bộ quần áo mặc mùa Đông, tụ lại chụp hình, ăn uống, xong là đi tham dự lễ khuya mừng ngày Chúa Hài Đồng giáng sinh cách đây hơn hai ngàn năm. Sau Thánh lễ thì đại gia đình kéo nhau về nhà quây quần bên cây thông “Giáng Sinh”, xung quanh cây thông có đèn chiếu chớp chớp lung linh, có cả trăm món quà được gói bằng đủ loại giấy màu sắc, quà của ông bà nội cho cháu, quà của cháu cho ông bà, quà cho vợ, quà của vợ cho chồng, quà của anh chị em cho qua cho lại, có cả quà cho con chó Chihuahua…, có gói qùa cũng đắc tiền, có gói qùa chỉ đáng giá 50 xu, vậy mà lúc mở qùa ra…thì vui ơi là vui…Ngày lễ Giáng Sinh, hay còn gọi là lễ Noel, là dịp đại gia đình tôi tụ tập lại, tôi cảm thấy hạnh phúc, vui tuơi và an lành. ..

Ngồi chờ ở phi truờng, tôi nghe nhạc và dán mắt “dạo phố” trên cái iphone trong tay, bổng chợt tôi ngẩn đầu lên thì nhìn thấy đông người tụ lại theo dõi ở các nơi có treo tivi, họ chăm chú theo dõi một tin tức gì đó, khuôn mặt của họ tỏ ra bàng hoàng. Tôi liếc mắt đảo quanh, thâý những người đang ngồi ở những dãy ghế, đang xếp hàng lên máy bay, đang ngồi ở những quày ăn uống, tất cả đều theo dõi tin tức trên tivi, một tin mới xảy ra ở tiểu bang Connecticut, một breaking news – 28 người bị thiệt mạng!, trong số đó có 20 trẻ em dưới 10 tuổi – là học sinh của trường tiểu học Sandy Hook Elementary school, một nguời thanh niên mang súng đột nhập vào truờng…., hàng chữ cứ chạy dài trên tivi, tôi thật bàng hoàng!

Tôi buớc vào trong máy bay, tìm số ghế, ngồi vào ghế lặng thinh nhìn qua cửa sổ, sáng nay thứ Sáu trời có mây đen âm u với những giọt mưa lẻ tẻ…Phi cơ cất cánh, âm thanh phát ra từ động cơ của chiếc phi cơ mà sao tôi nghe như tiếng thét của ai đó. Khi phi cơ bay ở tọa độ cao, nhìn qua cửa sổ thấy mây đen bao phủ, tôi có cảm tuởng như linh hồn của các nạn nhân sáng nay đang bay lơ lững trong không trung, họ như bị bơ vơ lạc lỏng trong mây đen dày đặc và tôi có cảm tưởng như những đứa trẻ đang thét lên hoảng sợ quơ tay tìm kiếm cha mẹ chúng nó trong bầu trời tối đen lạnh lẽo. Tôi cứ suy nghĩ về những nạn nhân, gia định của họ, mùa Giáng Sinh. ..và gia đình nạnh nhân sẽ có còn quây quần ăn uống đón mừng lễ Giang Sinh. Tôi tự hỏi gia đình tôi có còn gói quà cho nhau nếu một nạn nhân sáng nay chính là con của tôi?

Khi những đứa con tôi còn nhỏ, chúng nó mong mở quà Giáng Sinh, chúng nó đếm
từng ngày, mong Thánh lễ Giáng Sinh mau chóng kết thúc để về nhà mở qùa. Những
ngày trước Giáng Sinh, tụi nó hay lê la bên cạnh cây Giáng Sinh ngắm những món
quà, dò xem gói qùa nào có dán tên của nó, tụi nó húi đầu vào nhau lắc lắc gói qùa đóan ông bà, ba mẹ gói cái gì trong đó, có những lúc tôi lén nhìn tụi nó, thấy được tuổi thơ thật vô tư, hồn nhiên…

Chiều đáp chuyến bay trở về nhà, tôi vừa bước vào nhà, cây Giáng Sinh đã lên đèn, con tôi tuy không còn bé nhưng vẫn còn ngây thơ, chúng mừng thấy ba nó về nhà, chúng nó hỏi “Ba có mua qùa Giáng Sinh cho con chưa?”. Câu hỏi của chúng nó tôi cảm thấy sao dể thương quá, vô tư quá! Tôi nhìn cây Giáng Sinh, đèn chớp lung linh, có vài gói quà của ai đó đã bày ở dưới góc cây thông Giáng Sinh.

Tôi nhìn hai đưá con, tôi còn tất cả! Tôi thầm cảm tạ Thượng Đế đã cho tôi có thêm một ngày ấm cúng của mùa Giáng Sinh, đại gia đình tôi sẽ quây quanh bên nhau để mở quà, tiếng cười ngây thơ của con tôi sẽ pha với tiếng cười của ông bà, sẽ nhìn con trẻ tôi vội xé nát bao gói qùa, chạy tới ôm ba mẹ, ôm ông bà.
..

Gia đình tôi thì an lành, nghĩ lại cho gia đình nạn nhân. Những gia đình nạn nhân tại trường tiểu học Sandy Hook Elementary School sẽ có vui hưởng ngày Giáng Sinh năm nay không? Những món qùa dự định mua sẽ có đi mua không? Những món qùa gói cho con họ đang nằm phía dưới cây Giáng Sinh trong nhà của họ sẽ. ..sẽ mãi mãi gói kín?

Sự việc kinh hoàng, một bi thảm xảy ra trong chớp nhoáng. Một người thanh niên
20 tuổi sau khi bắn mẹ chết, tức khắc mang súng tới một trường tiểu học, khoảng
vào lúc 9:30 sáng, đã xông vào các lớp học, chỉ trong khoảng 3 phút bắn chết 26
nguời tại trường học, nạn nhân là thầy cô giáo và 20 học sinh, sau đó người thanh niên ấy tự sát. Thật là kinh hoàng – một hành động đã làm cả nước Mỹ bồi hồi, rung động và đau buồn, đến nổi tổng thống Obama ra lệnh toàn quốc hạ cờ Mỹ xuống một nửa, biến cố là một cái tang cho cả quốc gia Hoa Kỳ.

Những đứa học trò trẻ thơ vừa mới được cha mẹ đưa tới trường trong ngày hôm ấy,
những nụ hôn cha mẹ mới hôn con, mới dẫn con vô lớp và hứa là sẽ quay lại đón
chúng về nhà, thế nhưng chỉ vài chục phút sau, chúng hoảng sợ la hét khi thấy
có người mang súng vào lớp học, chỉ trong phút chốc chúng ngã gục lên nhau, mãi
mãi xa lià cha mẹ của chúng, mãi mãi sẽ không thấy hay sẽ không bao giờ mở được
món quà Giáng Sinh mà chúng đang mong đợi trong mùa Giáng Sinh năm nay. Nghĩ
tới chúng, tôi chỉ biết trách xã hội, chỉ biết cầu nguyện.

“Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Thưa Chúa, 20 đưá trẻ thơ tóc còn xanh lắm, chúng chỉ biết cuời đùa, tuổi của chúng không đủ hiểu “thiện tâm” là gì, nhưng chúng là những đưá trẻ vô tội, con suy nghĩ mãi mà vẫn không hiểu tại sao chúng phải vĩnh viễn ra đi về bên kia thế giới? Tại sao không cho chúng hưởng thêm một mùa Giáng Sinh nữa? Tại sao không cho những đứa trẻ này mở những món qùa Giáng Sinh mà chúng hằng mơ uớc? Chẳng lẻ quà Giáng Sinh của chúng năm nay là những viên đạn ác nghiệt…? Con cũng không hiểu nổi tại sao mùa Lễ Giáng Sinh mà người ta lại chúc “bình an” cho nhau?

“Bao giờ mẹ cho con mở gói quà Giáng Sinh hả mẹ?”…

Xin cầu nguyện cho các linh hồn nạn nhân, xin cầu nguyện cho gia đình nạn nhân.

Dec 15-2012

Chai Dầu Gió Xanh

nurseonairplane.jpg

Chai Dầu Gió Xanh

Võ Quách Thị Tường Vi

(Houston, Texas. USA)

Tôi  là người hành khách cuối cùng bước vào cửa phi cơ của chuyến bay #1490
Singapore Airline với hành trình sẽ đi về Việt Nam qua ngã Mạc Tư Khoa,
Singapore, rồi Tân Sơn Nhất. Cánh cửa phi cơ đóng ngay sau khi tôi đi
vào. Cả một ngày mệt mỏi, chạy đôn chạy đáo, sau khi quyết định sẽ về
Việt Nam lo cho một chương trình y tế và văn hoá giữa các trường đại học
bên Việt Nam và trường đại học nơi tôi giảng dạy; tôi đã đi tìm mua
những món quà hay đồ vật mà tôi nghĩ là những người bà con hay bạn bè
bên nhà sẽ ưa chuộng và thích thú.

Khi  vào đến ghế của mình, tôi lã người, mệt muốn ngất đi được. Thò tay vào
giỏ xách tôi lấy ra chai dầu gió xanh. Tôi nhón ngón tay trỏ vào đầu
chai, chấm một tí dầu và xoa vào hai đầu thái dương của mình. Trong chốc
lát, tôi đã thấy khoẻ lại. Thật cảm ơn chai dầu xanh này, nó đã theo
tôi từ không biết bao nhiêu năm nay rồi, như một người bạn chân thành,
nó lúc nào cũng có ở bên cạnh tôi. Mùi dầu xanh quen thuộc làm tôi chợt
nhớ đến những chuyện cũ năm xưa…

ooOoo

Mẹ  tôi mất khi tôi vừa 16 tuổi, ở cái tuổi đẹp nhất của người con gái. Tôi
nhớ rất rõ nhà tôi lúc ấy ở gần phi trường quân sự Biên Hoà, đêm đêm
tiếng bom đạn pháo kích nghe rất gần. Ban đầu rất sợ, tôi đã tung mền và
trốn dưới …gầm giường và làm mồi cho những con muổi đói mà không biết
rằng với những tấm ván vạc giường mỏng manh đó sẽ không có hiệu quả gì
nếu mà bom đạn vô tình rớt xuống nhà tôi. Riết rồi cũng quen, mỗi lần
pháo kích thì tôi đã không nhảy xuống gầm giường nữa mà vẫn tỉnh bơ nằm
ngủ. Con người ai cũng có số, nếu tới số chết thì ở đâu cũng chết …
Tôi thầm  biện hộ cho cái tính làm biếng của mình như thế.

Rồi  một buổi sáng kia tôi giật mình thức dậy vì một tiếng động thật to. Mở
mắt ra thì thấy trời rất sáng và lổ tai đã ù lên, không nghe gì được
hết. Ngước thẳng lên thì trời ơi … hình như bầu trời trong xanh đang
ngó xuống nhìn ngay tôi và nhà tôi với những bức tường hình như đã bay
đi đâu mất rồi. Tiếng người la khóc và ồn ào chung quanh tôi. Tôi ngồi
dậy thì thấy ba tôi đang ôm mẹ tôi máu chảy đầy người ở nhà bếp, mà mới
ngó qua thì không biết là ở đâu nếu tôi không nhận ra cái tủ đựng đồ ăn
nay chỉ còn 2 chân bị gảy. Ngay giữa nhà bếp thì có một cái hố thật sâu,
khói vẫn còn bốc  bụi hơi nghi ngút. Bên cạnh cái hố này thì con chó Tô Tô của tôi cũng đang rên rỉ với máu chảy đầy người nó. Còn con chó Ki Ki thì đứng lẩn
quẩn kế bên, miệng nó kêu lên những tiếng gầm gừ rên rỉ nghe cũng thảm
thiết lắm. Đây là cặp chó mà ba tôi đã xin về nuôi được chừng 2 năm rồi.

Có  cái gì ươn ướt trên mặt tôi. Thò tay lên vuốt mặt thì bàn tay toàn là
máu. Thì ra tôi cũng bị thương trên trán và nhà của tôi cũng đã bị pháo
kích rồi…

Sau  đó, ba tôi đưa mẹ tôi vào nhà thương Biên Hoà, rồi lại chuyển lên nhà
thương Cơ Đốc ở Phú Nhuận Sài Gòn vì bệnh không thuyên giảm, sau khi 2
tuần ở nhà thương Biên Hoà.

Tôi  ở lại trong nhà thương Cơ Đốc với mẹ tôi, có dịp tiếp xúc với các y tá
điều dưỡng và các vị bác sĩ hằng ngày đến chăm sóc cho mẹ tôi. Và tôi đã
bắt đầu có cảm tình với ngành y sĩ ngay từ dạo đó.

Bệnh  mẹ tôi cũng bớt dần nhưng mẹ không còn khoẻ mạnh như xưa. Mẹ tôi hay
đau lưng, nhức mỏi, người hay mệt và không làm được nhiều việc như lúc
chưa bị thương. Hình như mẹ tôi càng lúc càng yếu dần mà trong đầu óc
non nớt của tôi cũng bắt đầu nhận thức được. Trong túi áo bà ba của mẹ
tôi lúc nào cũng có một chai dầu gió xanh mà mỗi khi đau hay mệt trong
người mẹ thường lấy ra để xoa hay ngửi.

Tôi  thường hay tự hỏi là dầu này có công hiệu hay không, vì nói cho đúng
ra, tôi cũng “sợ” bị bôi dầu này lắm. Mỗi lần sổ mũi nhức đầu, mẹ tôi
hay đè mấy chị em tôi ra mà bôi lên người chúng tôi hay là cạo gió. Trời
ơi, mỗi lần thấy mẹ tôi với chai dầu “mắc dịch” này chúng tôi đã chạy
trốn, mặc cho mẹ tôi kêu tên từng đứa dỗ dành.

Đến  một hôm mà tôi không bao giờ quên được là ngày đó mẹ tôi rất mệt. Khuôn
mặt xanh xao, giọng nói yếu ớt, mẹ tôi sai tôi đi chợ, dặn dò mua thức
ăn rau cải và nhớ ghé qua hàng thuốc mua cho mẹ một chai dầu xanh, vì
chai ở nhà đã sắp hết rồi. Tôi tung tăng đi chợ mua thức ăn như lời mẹ
dặn. Trên đường về đầu óc tôi sao vẫn băn khoăn giống như mình đã quên
một chuyện gì rất quan trọng. Cá cơm kho tiêu, canh cải bẹ xanh nấu tôm,
rau muống xào, chuối tráng miệng … đâu còn quên gì nữa đâu. Khi đến
gần nhà, băng qua cầu Đúc, thì tôi đứng khựng lại vì chợt nhớ ra việc gì
mình đã quên. Tôi đã quên  mua chai dầu xanh cho mẹ tôi rồi! Tôi lật đật chạy vòng lại, đi lên chợ để mua chai dầu. Đường lên chợ sao bây giờ thấy quá xa, tôi chạy hoài
không tới … Rồi sau cùng tôi cũng về đến nhà, nhưng sao nhà tôi lại
đông người như vậy? Các người láng giềng đang bu chung quanh ba tôi. Khi
thấy tôi vào, các em tôi chạy lại nắm tay tôi và khóc. Ba tôi ôm tôi
vào lòng và nói với tôi trong tiếng nất “má con đã chết rồi” …Tôi sững
sờ nhìn chai dầu xanh mà tôi đang nắm chặt trong tay. Tôi đã về muộn
rồi …Mẹ tôi năm ấy chỉ có 38 tuổi mà thôi.

Rồi  từ đó, ở cái tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” của mình tôi đã phải đối đầu
với thật nhiều khó khăn trong cuộc sống. Từ việc nhà, nấu cơm, giặt giũ
đến việc chăm sóc các em, tự lo cho thân mình, và vất vả ngược xuôi lo
việc chi tiêu trong nhà với đồng tiền công chức giới hạn và bấp bênh của
ba tôi. Tôi phải làm rất nhiều việc mà khi còn có mẹ tôi đã không bao
giờ phải bận tâm lo lắng. Và chai dầu này đã theo tôi khắp nơi …dù qua
nhiều dâu bể của cuộc đời, nó vẫn là người bạn đồng hành với tôi từ mấy
chục năm qua.

ooOoo

Nghe  có tiếng thầm thì tôi mở mắt ra. Trước mặt tôi là mấy giáo sư đồng
nghiệp cùng trường và cả đám sinh viên học trò của chúng tôi. Thấy tôi
mở mắt ra cả đám cùng vỗ tay và la lớn:

Chào  mừng giáo sư, chào mừng y sĩ. Chúng em vui lắm vì có cô đi cùng. Thật
là vui quá. Như vậy là chuyến đi này là hoàn toàn mỹ mãn rồi đó.

Donna, một cô học trò của tôi, gốc người Mễ và rất linh hoạt dễ thương hỏi.

– Cô ơi, khi tới Việt Nam, cô có hồi hợp không cô?

Một  em khác hỏi…rồi chúng nó thay phiên mà ôm tôi để chia niềm thương cảm.
Số là cách đây 1 tuần tôi có một tai biến rất to lớn trong đời đến nổi
tôi không biết chắc là có hoàn thành chuyến đi về Việt Nam này hay
không. Chuyến đi này đã có sự chuẩn bị từ lâu rồi. Từ các giáo sư đến
các em sinh viên ai nấy cũng nao nức đợi ngày đi. Còn tôi thì muốn về
Việt Nam để có dịp thăm lại quê hương bạn hữu và cùng đem lại một chương
trình nào đó có lợi ích cho nền y tế của quê nhà. Các sự xếp đặc cũng
đã xong, nhưng nếu tôi không đi thì cũng chắc buồn lắm vì kể như bước
đầu đã không trọn vẹn.  Vào giờ phút cuối, tôi đã quyết định đi nhưng vì mua vé trể, nên không còn chổ để ngồi chung với phái đoàn của mình. Cả đám lăn xăn nói cười
ríu rít. Có đứa thì nghe nhạc, coi TV, có đứa thì bắt đầu ngủ gà ngủ
gật, còn mấy đứa thì rất là kích động ghi chép trong nhật ký những chi
tiết về chuyến đi này hay chụp hình lưu niệm.

Nói  “mấy đứa” cho thân tình chứ thật ra phái đoàn chỉ có 12 em sinh viên là
trẻ, đang học chương trình cử nhân và phần lớn là dưới 30 tuổi. Trong
nhóm này thì có 3 em gốc Việt Nam. Còn bao nhiêu em khác là thành phần
lớn tuổi hơn với kinh nghiệm sống già giặn hơn. Có một em sắp xong y sĩ
và 17 các sinh viên khác trong phái đoàn đang học chương trình tiến sĩ.
Và có 5 em sẽ ra tiến sĩ sau khi trình luận án vào mùa Hè này. Trong
nhóm này thì có 2 em đang hành nghề y sĩ ở Dallas và Houston.

Dù  thầy bằng trò hay trò bằng thầy về tuổi đời nhưng các em rất lễ phép và
rất biết kính trên nhường dưới. Như vậy phái đoàn chúng tôi 33 người
cũng có vẻ rất hùng hậu. Hy vọng chuyến đi này sẽ thành công và không có
gì không hay sẽ xảy ra.

Từ  khi không làm bên bệnh viện nữa, tôi đã nhận làm giảng sư cho trường
đại học này đã được 5 năm rồi. Tôi cũng đã dạy bán thời gian cho trường
mấy năm trước nữa. Thấy không khí dạy học cũng vui vẻ, nhất là tiếp xúc
được nhiều các em sinh viên Việt Nam gồm có các em sinh bên này hay là
du học sinh, nên tôi cũng thích vì có dịp hướng dẫn và khích lệ các em.
Các em sinh viên người Việt hay gốc Á Châu hay thường tìm đến tôi để hỏi
ý kiến hay chỉ để than thở, về việc học hành hay những việc xảy ra
trong đời sống hằng ngày. Và không biết từ bao giờ tôi đã trở thành một
giáo sư hướng dẫn cho các sinh viên gốc Á Châu ở trường đại học này. Tôi thật không ngờ mình lại trở thành một bà thầy “gỏ đầu trẻ” mà khi còn nhỏ tôi không bao giờ mơ
ước để trở thành.

Năm ngoái, tôi có khai giãng một lớp học mà tôi phụ trách dạy về văn hoá, y
học và người Việt Nam. Các sinh viên ghi tên học rất đông: Mỹ có, Việt
có. Các em gốc Việt Nam sau đó lại đến để cảm ơn tôi, vì các em đó đã có
cơ hội để tìm hiểu thêm về nguồn gốc Việt Nam của mình.

ooOoo

Trạm đầu tiên xuống Moscow nghỉ ngơi chừng nửa tiếng thì chúng tôi lại sắp
hàng vào lại máy bay. Cả đám sinh viên vẫn còn hăng hái, tay cầm nhiều
túi quà kỷ niệm và nhộn nhịp bước vào máy bay. Máy bay lại cất cánh lần
nữa. Qua khỏi chuyến này thì tôi lại gần hơn với Việt Nam. Trong lòng
tôi hình dung những bạn bè, trường ốc và những chuyện mà tôi phải làm.
Một cảm giác vừa vui mừng, vừa hồi hộp làm tôi nao nao trong lòng. Tôi
từ từ thiếp đi với những lo nghĩ chập chờn trong đầu óc. Sáng mai là tôi
sẽ có mặt trên quê hương yêu dấu của mình, sẽ có dịp thăm viếng và gặp
gở nhưng nơi mà tôi đã hoạch định chương trình để bắt đầu một cuộc hành trình mới.

Bỗng lờ mờ qua cái loa trên trần mui của phi cơ, tôi nghe có lời của cô
chiêu đãi viên hàng không kêu gọi bằng tiếng Anh qua giọng Tàu lơ lớ:

– Trường hợp cấp cứu!! Trường hợp cấp cứu!! Chúng tôi đang cần một bác sĩ
đang ở trên máy bay gấp. Nếu có ai là bác sĩ xin đứng lên giúp chúng
tôi một tay …

Tôi tỉnh ngủ hẳn, quơ vội cái túi bóp nhỏ và đi lên cabin phía trên, hỏi cô chiêu đãi viên hàng không gần nhất:

– Trường hợp cấp cứu ở đâu vậy? Tôi là Dr. V, tôi sẽ giúp cô.

– Dạ, xin bác sĩ theo tôi. Bệnh nhân đang ở trên cabin hạng nhất phía trên.

Tôi đi theo cô này qua mấy dãy ghế dài đến khu hạng nhất của phi cơ. Những
cái ghế ở khu này rộng rãi hơn và phần lớn các hành khách đang ngủ với
những chiếc khăn che mắt phủ trên mặt cho dễ ngủ.

Bệnh nhân là một thanh niên trẻ, khoảng chừng 28-30 tuổi, đang nằm sóng sượt
trên nền thảm lối đi của phi cơ, cả người co quắp lại như hình con tôm,
hai mắt nhắm nghiền và trên mặt thì có những giọt mồ hôi đã bắt đầu
đọng lại.

– Hello. Tôi là Dr. V và tôi sẽ giúp anh. Chuyện gì đã xảy ra vậy?

– Dạ em đang đau bụng quá, không chịu nổi. Chỉ nằm xuống như vầy mới bớt
một chút. Em bị cách đây gần một tiếng đồng hồ, tưởng là bị sình hơi ai
dè càng lâu càng nặng.

Em tên gì vậy? Tôi hỏi.

– Dạ em tên John. Em là chiêu đãi viên hàng không cho hãng máy bay này và thông thường em làm ở khu hạng nhất này.

Lúc này thì hai học trò y sĩ của tôi là Patti và Mai đã đến. Patti thì cặp
thuỷ đo nhiệt độ, còn Mai thì đo áp suất máu và hỏi về lượng đau của
John.

Tôi hỏi mấy người bạn đồng nghiệp của John:

– Đồ dự trữ cho trường hợp cấp cứu để đâu? Làm ơn đem ra để tôi coi có gì
dùng được không. Và cũng đem thêm mấy cái mền nữa để đắp cho John.

Quay qua mấy em y sĩ tôi bảo:

– Hãy giữ cho John ấm và đừng cho ăn uống gì hết. Có thể cho một vài giọt nước vào môi để giữ môi không bị khô mà thôi.

Dạ, nhiệt độ người của John là 99.8 F. Áp suất là 160 trên 100, nhịp tim 112 và độ đau là 9 trên 10. Mai báo cáo.

– Cảm ơn em. Cứ giữ cho John ấm và lấy áp suất như vậy cứ mỗi 10 phút nhé, hay nếu có sự thay đổi thì cho tôi biết.

Tôi và Patti kiểm soát cái túi cấp cứu mà cô chiêu đãi viên hàng không vừa
mới đem đến. Ngoài những giấy tờ lặt vặt, thì có những thuốc cấp cứu về
tim như Digoxin, Lasix nhưng không còn gì khác. Trong một túi khác cũng
nằm trong cái túi lớn này thì tôi thấy có mấy bịch nước biển se-rum và
những kim cùng dây để chuyền dung dịch này vào cơ thể.

– Patti, em chuẩn bị đồ chuyền dung dịch nếu cần nhé. Không làm ngay bây giờ nhưng nên chuẩn bị trước. Tôi nói.

Tôi khám cho John thì bộ phận nào cũng bình thường nhưng chỉ có đau phía
dưới bụng chổ tay mặt. Tôi chỉ nhấn hơi mạnh một chút thì John đã nhăn
mặt và cố gở tay tôi ra và than là quá đau. Đây có thể là trường hợp đau
ruột dư mà ở trên 50000 mét trên không trung, mình làm được gì, làm sao
bây giờ ?? Tôi suy nghĩ thật nhanh trong đầu mình. Tôi nói với Tim, xếp
của John, là tôi muốn nói chuyện với phi công trưởng của phi hành đoàn
là John bị đau ruột dư và phải cần đưa vào nhà thương để mổ và điều trị
gấp. Tim đi một lát rồi trở lại.

– Thưa y sĩ, phi công trưởng của chúng tôi nói là bây giờ máy bay đang
bay qua lãnh thổ của nước Afghanistan không thể đáp xuống được, mong y
sĩ thông cảm.

Như vậy nước tới là nước nào? Và mình có đáp xuống được không?

– Dạ, để tôi đi hỏi lại phi công trưởng. Tim trở lại lần nữa và nói.

Nước tới là Ấn Độ và việc đáp xuống có thể được, nhưng xin y sĩ xác định lại
việc cần đáp xuống vào lúc ấy, vì hiện thời bây giờ chúng ta phải bay 3
tiếng nữa mới qua khỏi biên giới của Afghanistan. Nếu đáp xuống theo
chuyện cấp cứu thì cũng phiền hà và không biết bao giờ thì mình mới bay
lên trở lại được.

Lúc ấy thì Patti gọi tôi lại:

– Dr. V, áp suất của John là 92 trên 60, nhịp tim 125 và độ đau là 10
trên 10. Em nghĩ là bệnh tình của John đang bị trở chứng đó giáo sư.

Tôi trở lại chổ John nằm thì đúng như lời Patti nói, John đang ở trong tình
trạng trở chứng, máu huyết tuần hoàn bị sụt xuống. Nếu tình trạng này
kéo dài thì rất là nguy hiểm cho tính mạng. Mồ hôi John đang ra nhễ
nhải, dù rằng Mai đang lau mồ hôi cho anh ta và tay chân thì rất lạnh.
Chung quanh John là những đồng nghiệp của anh ta đang quay quần. Ai nấy
khuôn mặt cũng rất là lo lắng. Có mấy người hành khách cũng tò mò hỏi
nhau coi thử có chuyện gì đã xảy ra.

Tôi nói Tim là nên mời hành khách về lại chổ ngồi để chúng tôi có chổ thở và làm việc.

– Bắt đầu chuyền nước biển vào đi, mở wide open rộng ra, giữ cho John ấm. Tôi nói với Patti. Quay qua John tôi bắt chuyện.

– Hi John, em sao rồi, có đau nhiều không?Bây giờ chúng tôi chuyền nước
biển cho em nhé. Mà trước giờ em có bị bệnh gì không? Có bị cao máu,
tiểu đường gì không?

– Dạ em đau quá Dr. V ơi. Em trước giờ khoẻ lắm không có bệnh gì hết.

– John có gia đình vợ con gì chưa?

John gượng cười.

– Dạ chưa Dr V. Nhưng em có bồ rồi và cô ấy đang ở Singapore đó.

– A như vậy thì em phải khoẻ lại cho mau để về gặp bạn đó nha.

Tôi nói đùa với John. Mục đích của tôi là làm John quên bớt cái đau và việc
cấp cứu bây giờ để có thể duy trì được tình trạng để John không bị nặng
thêm. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ một việc.

– John à, tôi có một vị thuốc mà khi nào cần thì tôi lấy ra dùng. Mà nó
giúp tôi rất nhiều, rất là hiệu nghiệm. Nếu em muốn thì tôi sẽ chia sẻ
với em nhé?

John gật đầu lia lịa.

Dạ bây giờ y sĩ có gì thì xin đưa ra cho em dùng. Em đau quá. Em đi đường
bay này thường lắm nên biết là mình sẽ không đáp xuống đây được đâu. Em
lo quá, không hiễu có qua nổi cơn bệnh này không.

Tôi mở cái xách tay nhỏ và lấy chai dầu gió xanh của mình ra và đưa cho John ngửi.

– Đây là chai dầu mà tôi hay dùng. Tôi đi đâu cũng có nó cả và nó rất là
hiệu nghiệm. John dùng thử nhé, nếu chịu được cái mùi hơi mạnh một chút
của nó.

Tôi đưa chai dầu lên mũi của John. John hít một hơi nhẹ và nói.

– Mùi này cũng dễ chịu lắm mà. Em cũng thích lắm.

– OK, như vậy thì tôi xức dầu cho John nhé.

Tôi bôi dầu này vào bụng ở chổ đau của John, vừa làm tôi vừa nói chuyện.
Tôi hỏi chuyện làm, chuyện bạn bè, chuyện đời sống ở Singapore hay Mỹ
như thế nào … Trong lúc nói chuyện thì Mai và Patti vẫn tiếp tục lấy
áp suất và nhiệt độ. John vẫn thích thú kể chuyện về đời mình cho chúng
tôi nghe.

Khoảng chừng một tiếng đồng hồ sau thì Patti báo cáo là áp suất của John đã
lên cao trở lại, khoảng 140 trên 90 và nhịp tim hạ xuống còn 100 nhịp
trong một phút và độ đau thì vẫn không thay đổi, vẫn ở khoảng 8 cho tới
10.

– Như vậy thì tốt quá, em cho nước biển chảy chậm lại một chút đi. Tôi nói chuyện với Patti.

Trong thời gian này thì John có vẻ không thay đổi mấy, sắc diện có phần hồng
hào hơn và tỉnh táo hơn một chút. Tôi khám lại John thì thấy không có gì
thay đổi lắm về phần ruột dư của John.

Tim, người xếp của John, trở lại.

– Thưa y sĩ, bây giờ chúng ta đang bắt đầu vào biên giới Ấn Độ. Chúng tôi
phải làm gì, ngừng lại hay đi thẳng? Nếu ngừng lại thì cũng phải xin
phép và cũng sẽ lâu lắm mà chưa biết chừng nào thì máy bay sẽ được cất
cánh trở lại.

– Sau Ấn Độ thì sẽ tới nước nào? Tôi hỏi.

– Dạ Miến Điện rồi Thái Lan trong vòng 3 tiếng đồng hồ nữa.

– Để tôi nói chuyện với John xong sẽ trả lời câu hỏi của anh.

Tôi trình bày rõ ràng với John về những chi tiết này. John trầm ngâm rồi hỏi lại tôi:

– Y sĩ nghĩ như thế nào, em có thể chịu nổi để về đến Singapore không?

Thật sự ra thì rất khó mà đoán trước cơ thể của John sẽ chuyển động như thế
nào, nhưng tôi nghĩ là sẽ được trong vòng vài tiếng nữa, ít ra thì mình
cũng có thể đến Thái Lan và việc chửa trị ở đó cũng tốt nhất nếu so với
những nơi khác. Tôi trả lời cho John.

– Như vậy thì y sĩ cứ quyết định cho em đi. Tôi quay lại nói với Tim.

– Cứ tiếp tục bay đi. Khi nào gần đến Thái Lan thì cho tôi biết.

Trong suốt mấy tiếng bay tiếp, John và tôi vẫn tiếp tục nói chuyện với nhau,
và tôi vẫn xoa dầu xanh cho John đều đều. Nhiệt độ và áp suất máu của
John vẫn không thay đổi. Chai nước biển vẫn nhỏ giọt đều nhưng chậm hơn
lúc trước vì áp suất của John đã cao hơn. Chúng tôi đã đưa John lên nằm
trên giường trong phòng dành cho phi công. John có vẻ khoẻ hơn lúc ban
đầu một chút.

Khi bay qua biên giới Thái Lan, tôi đã quyết định là không dừng lại nữa vì
từ nước này về Singapore thì chỉ còn một tiếng đồng hồ mà thôi và tình
trạng của John thì thấy không thay đổi mấy. Cả đêm ấy, 3 thầy trò chúng
tôi đã không chợp mắt một chút nào, nhưng vẫn không thấy mệt. Rốt cuộc
thì phi cơ cũng đáp xuống phi trường Singapore. Khi xe cứu thương vào
phi cơ để đưa John đi vào bệnh viện cứu cấp, cậu ấy đã nắm tay tôi và đã
ngập ngừng hỏi tôi:

Em cảm ơn Doctor V và phái đoàn của doctor nhiều lắm vì đã tận tình giúp
em. Em sẽ không bao giờ quên y sĩ V đâu. Chúc y sĩ và phái đoàn thành
công trong chuyến đi này. Nếu được, xin y sĩ cho em xin luôn chai dầu
gió xanh đó, có được không?

Tôi cảm động đến sững sờ và tự nhiên tôi muốn khóc.

Ở trên đời nếu ai cũng có một chai dầu gió xanh để đem theo bên mình làm
hành trang cho cuộc đời, chai dầu gió xanh của mỗi người có thể khác
nhau. Có thể là những kỷ niệm thời ấu thơ, một mối tình đơn phương,
những mối tình trọn vẹn hay không trọn vẹn, một ánh mặt, một nụ cười,
một dáng đi, một tà áo, một câu dỗ dành, bài hát hay một lời thơ … Đôi
khi bất chợt ngửi lại mùi hương thoang thoảng của những chai dầu gió
xanh này làm ta có thể sống lại những kỷ niệm thời xa xưa, mơ về dĩ vãng
trong giây phút để tâm hồn có thể dịu bớt đi một chút nào đó giữa cuộc
sống xô bồ. Những chai dầu gió xanh này, theo ngày tháng, cũng có thể chữa lành cho những vết thương trong lòng của mỗi người.

Trong hành trình dài của mỗi đời người, với những bể dâu gập ghềnh trong cuộc
sống, mà mình còn giữ được chai dầu gió xanh làm bạn đồng hành thì âu
đó cũng là niềm vui và hạnh phúc vậy.

Võ Quách Thị Tường Vi

Đơn Giản và Phức Tạp

Thứ hai, ngày 10 tháng mười hai năm 2012

con duong va ban chan

Khi còn nhỏ thì đơn giản, lớn lên trở nên phức tạp.
Khi nghèo khó thì đơn giản, lúc giàu có trở nên phức tạp.
Khi thất thế thì đơn giản, lúc có địa vị thì trở nên phức tạp.
Tự nhận bản thân đơn giản, đánh giá người khác phức tạp.
Thật ra, thế giới này rất đơn gỉan chỉ có lòng người là phức tạp.
Mà suy cho cùng thì lòng người cũng đơn giản, chỉ có lợi ích chi phối nên con
người mới trở nên phức tạp.
Đời người, đơn giản thì vui vẻ. Nhưng người vui vẻ được mấy người.
Đời người, phức tạp thì phiền não. Nhưng người phiền não thì quá nhiều.
Trong cuộc đời mỗi người đều không thể tránh khỏi những lúc buồn phiền, lo lắng
thậm chí là đau khổ.
Người vui vẻ, không phải là người không có buồn phiền, mà là người không để
cho những nỗi buồn và niềm đau ấy khống chế.
Thật ra, đau khổ không hề đáng sợ, đáng sợ là ngay cả trái tim cũng phản bội
bản thân mà đứng về phía đau khổ.
Muốn quản lý tốt tâm trạng của bản thân thì cần phải quên đi những điều làm
mình không vui, đừng coi trọng những mâu thuẫn, hiểu lầm phát sinh trong cuộc
sống, mà hãy xem đó như là một yếu tố giúp chúng ta mài dũa đời sống tâm linh
của mình vững chắc hơn.
Chỉ có như thế thì nỗi đau khổ của mình như gió thoảng mây trôi mà thôi.
Chuyên mục : Nghệ Thuật Sống
nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi

Chân Phước Anthony Grassi

Chân Phước Anthony Grassi

(1592-1671)

18 Tháng Mười Hai

Anthony mồ côi cha khi lên 10 tuổi, nhưng ngài đã học được nơi người cha sự sùng kính Ðức Mẹ Loreto. Khi còn là học sinh trung học, ngài thường đến nhà thờ của các
cha Oratorian, và gia nhập dòng này khi mới 17 tuổi.

Từng nổi tiếng là một học sinh giỏi, nên không bao lâu ngài được mệnh danh là
“cuốn tự điển sống” trong cộng đồng tu sĩ, ngài có thể hiểu Kinh thánh và thần học cách mau chóng. Trong một thời gian, ngài bị dằn vặt bởi sự quá đắn đo cân nhắc, nhưng cho đến khi cử hành Thánh Lễ đầu tiên, sự bình thản đã chiếm ngự toàn thể con người ngài.

Vào năm 1621, khi 29 tuổi, Anthony bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong nhà thờ ở Loreto. Ngài được đưa vào bệnh viện, và ai cũng nghĩ là ngài sẽ chết. Một vài
ngày sau, khi tỉnh dậy, ngài nhận ra rằng căn bệnh đau bao tử dai dẳng của ngài
đã biến mất. Quần áo cháy nám của ngài được tặng cho nhà thờ Loreto như một kỷ
niệm biến cố lớn trong đời.

Quan trọng hơn nữa, ngài cảm thấy cuộc đời mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Sau đó, hàng năm ngài đều hành hương đến Loreto để dâng lời cảm tạ.

Ngài cũng nổi tiếng là cha giải tội đơn sơ và thẳng thắn, lắng nghe người xưng tội,
và chỉ bảo họ sống phù hợp với lương tâm. Năm 1635, ngài được chọn làm bề trên
Tu Viện Fermo, và được tái đắc cử nhiều nhiệm kỳ cho đến khi ngài qua đời. Ngài
là vị bề trên trầm lặng và hiền từ không biết thế nào là khắt khe. Nhưng quy luật của dòng luôn được ngài duy trì và buộc mọi tu sĩ phải tôn trọng.

Ngài từ chối các chức vụ dân sự ở ngoài xã hội, và dùng thời giờ để đi thăm người
đau yếu, người hấp hối hay bất cứ ai cần đến sự giúp đỡ của ngài. Khi về già, ngài được Chúa ban cho ơn nhận biết tương lai, là một ơn sủng ngài dùng để cảnh giác hay khuyên bảo người khác. Nhưng tuổi tác cũng đem lại nhiều thử thách. Ngài phải chấp nhận sự mất mát các khả năng bên ngoài. Trước hết là khả năng rao giảng, là điều đương nhiên xảy đến khi ngài bị rụng răng. Sau đó, ngài không còn nghe xưng tội được nữa. Sau cùng, sau một lần bị ngã, ngài phải nằm  liệt giường. Chính đức tổng giám mục phải đến ban Mình Thánh cho ngài hằng ngày. Một trong những công việc sau cùng của ngài là hoà giải được sự tranh cãi kịch liệt giữa hai thầy dòng.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi