GIA ĐÌNH VÀ TƯƠNG LAI NHÂN LOẠI

GIA ĐÌNH VÀ TƯƠNG LAI NHÂN LOẠI

Lễ Thánh Gia

__________________________________

Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Sau những huy hoàng chói lọi của Lễ Giáng Sinh, chúng ta lại cùng Giáo Hội ăn
mừng Lễ Thánh Gia. Lễ Thánh Gia mời gọi người tín hữu suy niệm về mầu nhiệm đời
sống, đặc biệt là ân sủng gia đình, một tặng phẩm mà Thiên Chúa đã ban cho nhân
loại.

Bài phúc âm hôm nay (Lc 2: 41-52) kể lại câu chuyện chúa Giêsu lúc còn niên
thiếu. Đây là mẩu chuyện duy nhất và đặc thù của Tân Ước. Tuy nhiên thánh Luca
cũng làm cho độc giả hồi hộp lo sợ mà ngạc nhiên về những lời Đức Giêsu nói ở
giai đoạn sơ khởi của cuộc đời chúa Giêsu. Chuyện kể rằng “cha mẹ Người hàng
năm vẫn đi về Jerusalem vào ngày Lễ Vượt Qua” (Lc 2:41
) theo truyền thống
đạo đức, tinh thần luật của Israel .

Lúc ấy chúa Giêsu đã lên 12 tuổi, theo phong tuc thì Người cũng theo cha mẹ đi
Jerusalem (2:42). “Khi trở về thì cậu bé Giêsu ở lại Jerusalem mà cha mẹ
không biết”(2:43).
Mệt mỏi tìm kiếm suốt 3 ngày trời không thấy, cuối cùng
thì “ kiếm ra được Chúa ở trong đền thờ, đang ngồi giữa những thầy dạy, lắng
nghe họ và đặt những câu hỏi với họ
” (2:46).

Những lời lạ lùng của chúa Giêsu nói với cha mẹ lúc kiếm được Người xem ra đã
làm khựng lại nỗi vui mừng của mẹ Maria và ông Giuse. “Bố mẹ đi tìm con làm
chi vậy? Bố mẹ không biết rằng con phải ở nhà của Cha con hay sao?”
(2:49).
Câu này cũng có thể diễn nghĩa thế này: “Con còn có nhiều việc phải làm của
Cha con .”
Cả hai cách diễn nghĩa, chúng ta đều hiểu rằng Chúa Giêsu ám chỉ
Thiên Chúa là Cha Người. Tình Cha Con Thiên Chúa và sự vâng lời ý nguyện của
người Cha trên trời phải ưu tiên hơn những ràng buộc của gia đình nơi trần thế.

Bỏ qua biến cố này, toàn thể thời kỳ thơ ấu và thiếu niên của chúa Giêsu theo
như Tin Mừng, đều qua đi trong âm thầm lặng lẽ. Đó là thời kỳ“ẩn dật”, được
thánh Luca tóm tắt bằng hai mẩu văn như sau: “Đức Giêsu đi xuống với bố mẹ
và trở về Nazareth , và vâng phục các ngài
(Lc 2:51); và Người lớn lên
từ từ cùng với sự khôn ngoan và ân phúc trước mặt
Thiên Chúa và
người đời”(Lc 2:52).
Trong thời gian này, câu chuyện thời thơ ấu lúc kết
thúc cũng như lúc khởi đầu, đều nằm trong khung cảnh đền thờ Jerusalem .

Qua Tin Mừng, chúng ta biết được là Chúa Giêsu đã sống trong chính gia đình của
Ngưòi, trong nhà ông Giuse là cha và mẹ là bà Maria là mẹ, những người có bổn
phận giúp đỡ và che chở Người, huấn luyện từ từ cho Người theo nghề thợ mộc.
Dân chúng trong thành Nazareth thì vẫn coi Người là “con ông thợ mộc”(Mt
13:55).

Khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy, dân chúng theo Người đã rất ngạc nhiên:“Ông này há không phải là con ông thợ mộc và bà Maria hay sao?”(Mc 6:3). Ngoài mẹ Người ra thì thiên hạ nói những người sống ở Nazaretth chunh quanh đó là anh chị em bà con Người. Thánh sử Mac cô đã nói: Có những người bà con tìm cách ngăn cản Đức Giêsu hoạt động giảng thuyết (Mc 3:21) vì hiển nhiên họ không thấy nơi Người có gì khả dĩ có thể chứng minh bước khởi đầu cuộc đời hoạt động mới của Người. Họ nghĩ rằng Đức Giêsu cũng giống như bất cứ một người Do Thái nào khác và do đó phải sống cuộc sống bình thường thôi.

TRƯỜNG HỌC NAZARETH

Những lời Đức Thánh Cha Phaolo VI tuyên bố ở Nazareth ngày 5-1-1964 về ý nghĩa
mầu nhiệm Nazareth và Thánh Gia rất đáng cho chúng ta suy niệm. Những giá trị
tuyệt vời của gia đình Nazareth như sự yên lặng, cuộc sống và việc làm trong
gia đình là những yếu tố đặc biệt chúng ta phải để ý và noi theo.  Ngài
nói:

“ Nazareth là một trường học, ở đó chúng ta có thể khám phá ra được vẻ tươi đẹp của cuộc sống của Chúa và hiểu được Tin Mừng của Người. Ở đây, chúng ta có thể quan sát và suy niệm về cách thức Con Thiên Chúa xuống thế làm người nó sâu xa và ý nghĩa biết mấy, cho dù vẫn đầy dẫy những ẩn ý ở bên trong.

“ Và từ từ chúng ta có thể học hỏi để bắt chước Người. Ở đây chúng ta có thể học cách thể hiện xem Chúa Kito thực sự là ai. Và ở đây, chúng ta có thể cảm nghiệm và để ý đến những điều kiện và hoàn cảnh xung quanh đã ảnh hưởng đến cuộc sống của Người ở trần thế  này như: không gian, thời gian, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, ……Tóm lại, tất cả những gì mà chúa Giêsu đã dùng để cho cả thế giới biết đến Người. (….)

“ Trước tiên, chúng ta học hỏi về sự yên tĩnh của gia đình Nazareth . Chúng ta phải ở trong một khung cảnh nhiều người đang cãi lộn nhau rất ồn ào náo nhiệt thì mới cảm nghiệm được sự yên tĩnh nó êm đềm lắng đọng như thế nào! Sự yên tĩnh của Nazareth sẽ chỉ cho chúng ta cách thức chiêm nghiệm trong thinh lặng và an bình, suy tư trong
tình trạng thần trí lắng đọng, và mở rộng tâm hồn lắng nghe tiếng nói khôn ngoan của Chúa và lời khuyên của những thầy dạy đích thực. Nazareth có thể dạy cho chúng ta biết giá trị của sự học hỏi và sửa soạn, của chiêm nghiệm, của đời sống tinh thần có tổ chức, của sự yên lặng cầu nguyện mà chỉ có Thiên Chúa biết mà thôi.

“Thứ hai, chúng ta học hỏi về đời sống gia đình. Nazareth là mẫu mực phải có của mọi gia đình. Nazareth thể hiện cho chúng ta rõ ràng tính thánh đức và vững bền của gia đình, đồng thời nêu gương sáng về những nhiệm vụ căn bản của gia đình trong xã hội
như là một cộng đồng tình yêu và chia sẻ, nó tuyệt mỹ ở chỗ có những vấn đề đặt
ra và được giải quyết thỏa đáng. Tóm lại nó là một cấu trúc toàn hảo để nuôi dưỡng con trẻ- và như vậy, nó là bất khả thay thế.

“Sau cùng, ở Nazareth , nơi nhà con ông thợ mộc, chúng ta có thể học hỏi đuợc nhiều điều ở công việc làm và những kỷ luật cần có của nó. Cha muốn đặc biệt nói đến những chân giá trị của những việc làm đó –có đòi hỏi thì cũng có phần thưởng- để trân trọng nó một cách thích đáng. Cha muốn nhắc nhở mọi người là chuyện đi làm nó cũng có cái giá trị phẩm giá của riêng nó. Ngoài ra, không đi làm không có nghĩa là đuờng cùng rồi. Tuy nhiên vì cái giá trị và tính tự do của việc làm, đi làm không phải chỉ vì vị trí của việc làm trong hệ thống kinh tế, như người ta nói, mà đúng ra còn vì cái mục đích phục vụ của công việc làm.”

NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA NGÀY NAY

Ngày nay, chúng ta ai cũng thấy là thiếu môi trường giáo dục, không phải chỉ ở
ngoài Giáo Hội mà cả ngay trong Giáo Hội. Gia đình Kito giáo không còn khả năng
tự mình truyền đạt niềm tin của mình cho những thế hệ kế tiếp, và ngay cả chính
xứ đạo cũng vậy, mặc dù nó vẫn còn là một cấu trúc cần thiết cho sứ mệnh truyền
giáo của Giáo Hội ở bất cứ một địa hạt nào

Là một cộng đồng Kitô giáo nói riêng, xã hội nói chung, chúng tôi cần phải hoạt
động tích cực hơn nữa để khuyến khích mọi người giữ cho tình liên đới giữa
người nam và người nữ thật bền chặt làm căn bản cho tất cả mọi nền văn minh,
cũng như yểm trợ tối đa cho quyền lợi và nhu cầu của con trẻ. Chúng tôi cũng
cần suy xét cẩn thận về những hậu quả xã hội liên hệ đến định nghĩa cũa hôn
nhân, của vợ chồng; xem xét cẩn thận tất cả những điều mà người ta thêm vào một
khi xã hội không còn cho chúng tôi một vị thế đặc quyền và giá trị làm nền tảng
cho cuộc nối kết lâu dài giữa hai người nam và nữ trong hôn nhân.

Là cột trụ của xã hội, gia đình chính là môi trường thuận lợi nhất để đón chào
con trẻ. Đồng thời tự do lương tâm và tự do tôn giáo cần phải được bảo đảm, cũng
như phải kính trọng nhân phẩm của tất cả mọi người bất kể khuynh hướng sắc dục
của họ thế nào.

Chúng tôi đã có nhiều dịp tham dự những cuộc hội thảo về hôn nhân ở xứ đạo và
giáo phận chúng tôi, xin được chia sẻ với quí vị. Hai thách đố đặc biệt thường
được nêu ra trong những cuộc tranh luận khá sôi nổi về hôn nhân và đời sống gia
đình trong thời đại của chúng ta. Hôm nay Lễ Thánh Gia, một vấn đề khá khẩn cấp
đối với chúng ta, nhất là những giáo dân, phải làm sao duy trì giá trị của
những định chế quan trọng và bí tích hôn nhân. Hãy yểm trợ những chương trình
chuẩn bị hôn nhân trong các cộng đồng xứ đạo của mình. Cũng cần đề ý, trong các
xứ đạo và giáo phận thường có những chương trình ơn gọi đặc biệt cho thanh niên
và giới trẻ nên cũng nên cổ động và tham gia. Những xứ đạo và giáo phận và
những phong trào giáo dân không có những kế hoạch mục vụ có tính sáng tạo và
chương trình ơn gọi hôn nhân cho giới trẻ vẫn đầy dẫy những nghi hoặc rất đáng
sợ về luân lý, những hiểu lầm, trống rỗng và thiếu thông tin chính xác và đầy
đủ.

Chúng ta cũng đừng quên rằng trong xã hội cũng có những ràng buộc khác giữa
tình yêu và tình liên đới, giữa sự cam kết và tương quan trách nhiệm. Những
điều đó có thể tốt, và có thể được pháp luật công nhận. Trong hôn nhân cũng có
những tương tự như vậy.  Nhưng không thể thay đổi định nghĩa hôn nhân theo
luật pháp qui định mà có thể thay đổi được thực tế đã có trước mắt từ ngàn xưa
chỉ có sự cam kết phối hơp giữa hai người nam và nữ mới có giá trị hôn
nhân
. Không phải chỉ cần có những ràng buộc về tương quang giữa hai
người lớn với nhau thôi, mà còn phải dựa vào khả năng sản xuất tự nhiên
để sinh con đẻ cái
.

Trong dịp lễ Thánh Gia này, chúng tôi hãy cam kết tạo dựng mái ấm gia đình nhân
loại, tôn vinh hôn nhân, làm cho nó trở nên vững mạnh, chúc phúc và dưỡng dục
con cái, biến mái ấm gia đình chúng tôi, xứ đạo chúng tôi trở nên thánh đức,
hân hoan đón chào những cuộc hôn nhân giữa người nam và người nữ giữa mọi quốc
gia, mọi sắc dân, ngôn ngữ, khuynh hướng phong tục cũng như cách sống

ĐÔI LỜI KẾT:

NỀN MÓNG CỦA XÃ HỘI

Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolo II vẫn thường nói: “Tương lai nhân loại tùy thuộc vào gia đình”. Bài đọc ngày lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta là gia đình có một liên đới sống động với xã hội.

Nền móng xã hội chính là gia đình. Nền móng gia đình chính là hôn nhân. Ơn gọi
lập gia đình / hôn nhân đã được ghi khắc trong chính bản tính của người Nam và
người Nữ. Như là cột trụ của xã hội, gia đình là môi trường thích hợp nhất để
đón chào con trẻ.

Chúng ta cần những thanh niên trẻ, vui vẻ, mạnh dạn xác tín, hy vọng với tất cả
niềm tin sắt đá khi nói: “I Do / Tôi Đồng Ý”. Họ là Tương Lai và Hy Vọng của
chúng ta. Không có những cặp vợ chồng kết hôn với nhau, chúng ta không thể xây
đắp được tương lai cho xã hội và Giáo Hội. Không có những cặp vợ chồng kết hôn
với nhau và cam kết thề hứa trung thành, thương yêu  nhau, chúng ta không
thể có những gia đình thánh đức như ngày nay được.

Fleming Island, Florida

Dec. 28, 2012

NTC

nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi

 

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Tháng 1/2013

Sau lễ Giáng Sinh, Hội Thánh có Mùa Giáng Sinh, mời gọi các tín hữu tiếp tục học hỏi, cử hành và sống đức tin vào Đấng Thiên Chúa làm người. Vì thế, chủ đề của tháng này là : ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN.

Chúng ta sẽ tìm hiểu chủ đề này trong 4 tuần lễ:

Tuần 1: Đức tin là một hồng ân.

Tuần 2: Đức tin là một nhân đức.

Tuần 3: Đức tin là một di sản.

Tuần 4: Hồng ân và trách nhiệm.

TUẦN 1 ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN

Khai triển nội dung:

1. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Người nói với ông rằng không phải huyết nhục mặc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, Đấng ngự trên trời (Mt 16,17). Khi chứng kiến những người đã thấy các phép lạ Người làm mà vẫn không tin, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Tất cả đều nói lên đức tin trước hết là một hồng ân chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại.

2. Đức tin là một hồng ân vì chính Thiên Chúa đi bước trước. Như thai nhi Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria tìm đến Gioan Tẩy giả trong lòng bà Elisabeth, chính Thiên Chúa đến tìm con người trước khi con người tìm kiếm Ngài. Thiên Chúa đi bước trước bằng nhiều cách: “Để có được đức tin, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” (Hiến chế Dei Verbum, số 5).

3. Đức tin là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho con người. Tuy nhiên chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó như thánh Phaolô nói: “Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng, nên đức tin của họ đã bị chết chìm” (1Tm 1,19). Vì thế người tín hữu phải gìn giữ và vun trồng đức tin bằng cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong đời sống.

Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)

Hỏi: Chỉ với ánh sáng tự nhiên của lý trí, con người có đủ khả năng để nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa hay không?

Thưa: Chỉ với ánh sáng của lý trí, con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa. Hơn nữa, tự mình, con người không thể nào đi vào mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã muốn soi dẫn con người bằng cách mặc khải cho họ, không những về những gì vượt quá sự hiểu biết nhân loại, mà cả về những chân lý tôn giáo và luân lý, tự chúng vốn không vượt quá khả năng của lý trí, như vậy mọi người có thể biết được những chân lý đó cách dễ dàng, chắc chắn và không sợ sai lầm (số 4).

Hỏi: “Đức tin là một hồng ân” nghĩa là gì?

Thưa: Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban không, và tất cả những ai khiêm tốn cầu xin đều có thể đạt tới (x. số 28).

Ý cầu nguyện:

Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của con (x. Mc 9,24).

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 46

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình
Thế Giới lần thứ 46

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI

NGÀY 01 THÁNG GIÊNG NĂM 2013

“PHÚC CHO AI KIẾN TẠO HOÀ BÌNH”

1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.

Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng [1], khi chúng ta công bố ơn cứu rỗi của Đức Kitô và thăng tiến hoà bình cho nhân loại.

Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn
diện của con người.

Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài
chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng
bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ
nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình
liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.

Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới  chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗingười, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy.
Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền
tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng
đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành
cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của
Chúa.

Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Mối phúc Tin Mừng

2. Các mối phúc mà Chúa Giêsu công bố là những lời hứa. Trong truyền thống Thánh Kinh, mối phúc là một thể loại văn chương liên quan đến những tin tốt lành, một “Tin Mừng”, là chóp đỉnh của một lời hứa. Do đó, các mối phúc không chỉ là những khích lệ về mặt luân lý, cổ võ người ta tuân giữ để thấy trước, thường là trong đời sống mai sau, những phần thưởng hay những vị thế hạnh phúc trong tương lai. Đúng hơn, phúc lành mà các mối phúc nói đến hệ tại ở việc viên mãn của một lời hứa dành cho tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công bình và bác ái. Trong con mắt của thế gian, những người tin tưởng vào Thiên Chúa như thế
thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế. Tuy nhiên, Chúa Giêsu nói cho
họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời này, họ sẽ khám phá ra mình là
con cái của Thiên Chúa, và rằng Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi ở bên cạnh họ. Họ
hiểu rằng mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với những con người
dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái. Chúa Giêsu, mạc khải Tình yêu của
Chúa Cha, không do dự trao ban chính mình như một sự tự hiến. Mỗi khi chúng ta
đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và là con người, chúng ta kinh nghiệm
được niềm vui về một quà tặng lớn lao: sự sẻ chia chính sự sống của Thiên Chúa,
đời sống ân sủng và là lời hứa về sự hiện hữu hạnh phúc tròn đầy. Cụ thể, Đức
Kitô ban cho chúng ta bình an đích thực phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đầy tin
tưởng giữa con người với Thiên Chúa.

Mối phúc của Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết hoà bình là một món quà của Đấng Mesia nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh từ những nỗ lực của con người. Thực vậy, hoà bình giả thiết về sự mở ra của con người đối với siêu việt. Nó là hoa trái của một món quà hỗ tương, của một sự phong phú mang tính hai mặt. Nhờ vào quà tặng này, một quà tặng có nguồn cội nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống với và sống
cho người khác. Nền đạo đức của hoà bình là đạo đức của tình liên đới và chia
sẻ. Điều tuyệt đối cần thiết là những nền văn hoá của chúng ta trong thời đại
ngày nay cần vượt qua những hình thức nhân loại học và đạo đức dựa trên những
giả định vốn chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối tương quan đồng
tồn tại được gợi hứng bởi các tiểu chuẩn về quyền lực và ích lợi, phương tiện
trở thành cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục chỉ đơn thuần
tập trung vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.

Điều kiện cần thiết để có hoà bình là sự xoá bỏ chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm của mỗi người nam và người nữ. Hoà bình cần được xây dựng trên sự đồng hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng
như luận lý, được đặt nền tảng trên những tiêu chuẩn vốn không phải do con
người tạo nên, nhưng đúng hơn là do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 nói rằng: Xin Đức
Chúa ban uy lực cho dân Người, Yavê chúc lành cho dân Người bình an” (câu 11).

Hoà bình: Quà tặng của Thiên Chúa và hoa trái của nỗ lực con người

3. Hoà bình liên quan đến con người xét như toàn thể và nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn. Hoà bình với Thiên Chúa là một đời sống được sống theo ý muốn của Ngài. Hoà bình cũng là một sự bình an nội tâm nơi chính mình và hoà bình ngoại tại với tha nhân và với các tạo vật. Trên hết, như chân Phước Gioan 23 đã viết trong thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), mà chúng ta sẽ kỷ niệm 50 vào những tháng tới, hòa bình đòi hỏi xây dựng trên một sự đồng tồn tại được đặt nền tảng trên chân lý, tự do, bác ái và công bình [2]. Sự khước từ điều làm nên bản chất đích thực của con người trong những chiều kích thiết yếu nhất, trong khả năng nội
tại để biết chân lý và sự thiện, và một cách tối hậu, là khả năng nhận biết
chính Thiên Chúa, sẽ gây nguy hại cho việc kiến tạo hoà bình. Không có chân lý
về con người vốn được Đấng Tạo Hoá ghi dấu trong trái tim con người, tự do và
bác ái trở nên giả tạo, và công bình đánh mất đi nền tảng tồn tại của chính
mình.

Để trở nên người kiến tạo hoà bình đích thực, chúng ta cần phải luôn nhớ về chiều kích siêu việt của mình và phải đi vào một cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, ngang qua đó chúng ta sẽ khám phá ra ơn cứu chuộc mà Người Con Duy Nhất của Ngài đã mang đến cho chúng ta. Nhờ đó, con người có thể vượt qua được những bóng mờ của sự tiến bộ và sự khước từ hoà bình vốn là tội lỗi trong tất
cả hình thức của nó: ích kỷ, bạo lực, kiêu căng, khao khát quyền lực và thống
trị, thiếu lòng khoan dung, ghen ghét và các cơ cấu bất công.

Thành tựu hòa bình phụ thuộc trước hết vào việc chúng ta nhận ra, nơi Thiên Chúa chúng ta là một gia đình nhân loại. Như Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris) dạy rằng, gia đình này được cấu trúc bởi các mối tương quan liên vị và các thể chế
vốn được hỗ trợ và được làm sống động bởi cộng đồng “chúng ta”, đòi hỏi một
trật tự luân lý nội tại cũng như ngoại tại, mà trong đó, hợp với chân lý và
công bình, các quyền hỗ tương và các nghĩa vụ tương ứng được chân nhận. Hòa
bình là một trật tự được sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta sẽ
cảm thấy nhu cầu của tha nhân cũng là của chính mình; chúng ta chia sẻ thiện
ích với tha nhân và lao tác cho thế giới cho một sự hiệp thông lớn hơn về những
giá trị tinh thần. Hòa bình là một giá trị đạt được trong tự do, nghĩa là trong
một cách thế phù hợp với phẩm giá của con người, với bản chất của mình như là
những hữu thể có lý trí, con người chịu trách nhiệm cho hành động của mình.[3]

Hòa bình không phải là một giấc mơ hay một điều gì đó không tưởng, nhưng là một điều khả thi. Chúng ta cần nhìn sâu xa hơn, vượt qua những vẻ bề ngoài và các hiện tượng bên ngoài, chúng ta sẽ nhận ra một thực tại tích cực tồn tại trong trái tim con người, vì mỗi người nam và nữ đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để lớn lên và góp phần vào việc xây dựng một thế giới mới. Chính Thiên
Chúa, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Người Con và công trình cứu chuộc của
Người, đã đi vào lịch sử và đã mang đến một cuộc tạo dựng và một giao ước mới,
giao ước giữa Thiên Chúa và con người (xem Gr 31,31-34), và ngài cũng ban cho
chúng ta một “trái tim mới” và một “thần khí mới” (xem Gr 36,26).

Vì lý do này, Giáo Hội nhận ra một nhu cầu cấp thiết trong việc tái công bố về Chúa Giêsu, là yếu tố đầu tiên và nền tảng của sự phát triển hội nhất nơi con người và cũng là của sự hòa bình. Chúa Giêsu là hòa bình đích thực, là công bình và sự hòa giải của
chúng ta  (x. Ep 2,14; 2Cr 5,18). Người kiến tạo hòa bình, theo mối phúc của Đức
Kitô, là người tìm kiếm thiện ích cho người khác, thiện ích trọn vẹn nơi linh
hồn và trong thân xác, hôm nay cũng như mai sau.

Từ lời dạy này, người ta có thể suy ra rằng, mỗi người và mỗi công đoàn, cho dù thuộc về tôn giáo, nền giáo dục và văn hóa nào đi nữa, tất cả đều được mời gọi để lao tác cho hòa bình. Hòa bình là một sự thành tựu những thiện ích nơi một xã hội trong mọi mức độ khác nhau, ở mức độ cơ sở, trung cấp, quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Rõ
ràng, vì lý do này con đường để đạt đến thiện ích chung cũng chính là con đường
phải đi trong việc theo đuổi hòa bình.

Người kiến tạo hòa bình là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống trong sự toàn vẹn của nó

4. Con đường đạt đến thiện ích chung và hòa bình trên hết cần phải tôn trọng phẩm giá con người trong mọi chiều kích, bắt đầu từ khi thụ thai, thông qua sự phát triển cho đến cái chết tự nhiên của nó. Người kiến tạo hòa bình đích thực phải là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong sự toàn vẹn của nó, cá nhân, cộng đoàn và siêu việt. Sự sống trong ý nghĩa trọn vẹn nhất chính là đỉnh cao của hòa bình. Bất cứ ai yêu mến hòa bình thì không thể xem nhẹ những tấn công và tội ác chống lại sự sống.

Những ai không tôn trọng sự sống con người, và hệ quả là, trong số những điều khác, cổ võ việc tự do phá thai, những người này không nhận ra rằng, khi làm như vậy, họ đang theo đuổi một thứ hòa bình giả tạo. Sự chối bỏ trách nhiệm, hạ thấp phẩm giá con người, và thậm chí giết chết những trẻ em vô tội và không có khả năng tự vệ, sẽ
không bao giờ có thể đem lại hạnh phúc và bình an. Thực vậy, làm sao một người
có thể tuyên bố mình đang kiến tạo hòa bình, mang lại sự phát triển toàn diện
cho con người hay bảo vệ môi trường trong khi không bảo vệ những con người yếu
thế nhất, những con người chưa cất tiếng khóc chào đời. Mọi xúc phạm chống lại
sự sống, đặc biệt trong giai đoạn đầu của nó, sẽ gây ra những thiệt hại không
thể sửa chữa được cho sự phát triển, hòa bình và môi trường. Người ta không chỉ
khôn khéo đưa vào luật những quyền và những thứ tự do giả tạo mà, dựa trên nền
tảng của quan điểm giản lược và tương đối về con người, họ còn khéo léo sử dụng
những diễn tả mập mờ nhắm đến việc thăng tiến quyền ủng hộ việc phá thai và
chết êm dịu. Những mánh khóe đó đang đe dọa quyền cơ bản của sự sống.

Cũng cần phải nhìn nhận và thăng tiến cơ cấu tự nhiên của gia đình, là sự kết hợp của một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa về mặt pháp lý cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt; những nỗ lực đồng hóa như thế thực sự làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn nền tảng của hôn nhân, che
khuất bản chất đặc biệt và làm lu mờ vai trò của nó trong đời sống xã hội.

Những nguyên lý này  vốn không phải là những chân lý đức tin, và nó cũng không đơn thuần là kết quả của quyền về tự do tôn giáo. Chúng được ghi khắc trong bản chất con người, có thể tiếp cận bởi lý trí và chung cho tất cả mọi người. Do đó, những nỗ lực của Giáo hội để thăng tiến chúng không mang đặc nét của niềm tin, nhưng muốn ngỏ
lời với tất cả mọi người, không kể nguồn gốc tôn giáo của họ. Những nỗ lực như
thế càng cần thiết hơn khi những nguyên lý này bị khước từ hay hiểu lầm, vì
điều này tạo nên một sự xúc phạm chống lại chân lý về con người, và gây nên một
thiệt hại nghiêm trọng cho công lý và hòa bình.

Một phương thế quan trọng khác để kiến tạo hòa bình là các hệ thống pháp luật và việc thực thi công lý nhìn nhận quyền được sử dụng nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính quyền chống lại phẩm giá con người như phá thai và làm cho chết êm dịu. Cũng liên quan đến hòa bình thế giới, một trong những quyền nền tảng của con người là quyền của cá nhân và cộng đoàn đối với tự do
tôn giáo. Vào thời điểm này của lịch sử, điều có tầm quan trọng khẩn thiết là
phải thăng tiến quyền này, không chỉ từ khía cạnh tiêu cực, nghĩa là tự do khỏi – ví dụ, khỏi những ràng buộc và những giới hạn liên quan đến việc chọn lựa tôn giáo – nhưng còn ở khía cạnh tích cực, trong những diễn tả khác nhau của nó, nghĩa là tự do để, ví dụ, tự do để làm chứng và loan báo, thực hiện những hoạt động giáo dục và từ thiện, hiện hữu và hành động như một tổ chức xã hội hợp với những nguyên lý học thuyết và mục đích của nó. Đáng buồn thay, tình trạng áp bức tôn giáo vẫn gia tăng kể cả ở những nước có truyền thông Kitô giáo lâu đời, đặc biệt liên quan đến Kitô giáo và những người mang những dấu hiệu nói lên căn tính tôn giáo của mình.

Những người kiến tạo hòa bình cũng cần nhớ rằng, trong sự phát triển của quan điểm công chúng, những ý thức hệ về tự do cực đoan và chế độ kỹ trị đang cố gắng thuyết phục người ta rằng sự phát triển kinh tế nên được theo đuổi kể cả khi nó phương hại đến trách nhiệm xã hội của một quốc gia và những mạng lưới liên đới của xã hội dân sự, cũng như các quyền và nghĩa vụ mang tính xã hội. Nên nhớ rằng, các quyền và
nghĩa vụ này vốn là nền tảng để hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ khác,
khởi đi từ những quyền dân sự và chính trị.

Một trong những quyền và nhiệm vụ cơ bản nhất đang bị đe dọa trong thế giới ngày nay là quyền làm việc. Lý do là vì sự thừa nhận quyền lợi về tình trạng pháp lý của công nhân đang không ngừng bị xem nhẹ. Vì sự phát triển kinh tế được xem là một yếu tố phụ thuộc hoàn toàn và chính yếu vào những thị trường tự do. Trong khi đó, lực lượng lao động bị coi là một biến số phụ thuộc vào cơ chế kinh tế và tài chính.
Liên quan đến điều này, tôi xác nhận rằng phẩm giá con người và các yếu tố kinh
tế, chính trị và xã hội, đòi hỏi chúng ta tiếp tục “ưu tiên mục tiêu tạo ra việc làm ổn định cho mọi người” [4]. Để thực hiện được mục tiêu đầy tham vọng này, điều kiện tiên quyết là phải đổi mới cái nhìn về lao động, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và những giá trị tinh thần vốn xem khái niệm lao động là một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi phải nghiên cứu và thực hiện những chính sách can đảm và mới mẻ để mọi người có công ăn việc làm.

Xây dựng thiện ích hòa bình ngang qua một mô hình mới về phát triển và kinh tế

5. Ngày nay, ở nhiều nơi người ta thấy cần một mô hình phát triển mới, cũng như một cách thế tiếp cận mới đối với lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển bền vững và hội nhất trong tình liên đới và thiện ích chung đòi hỏi một bậc thang đúng đắn về giá trị và thiện ích, một cấu trúc nhìn nhận Thiên Chúa như là điểm tham chiếu tối hậu của mình. Việc sẵn có các phương tiện và chọn lựa cho dẫu là một điều tốt nhưng chưa đủ. Sự đa dạng các thiện ích cổ võ sự phát triển cũng như sự sẵn sàng của những chọn lựa khác nhau phải được sử dụng nhắm đến việc đảm bảo cho một đời sống tốt, một cách hành xử đúng đắn vốn ý thức về vị trí ưu việt của giá trị thiêng liêng và lời mời gọi lao
tác cho thiện ích chung. Nếu không chúng sẽ đánh mất đi ý nghĩa đích thực của
mình, và cuối cùng là trở nên những thứ ngẫu tượng mới.

Để có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài kinh tế và tài chính hiện nay – vốn đưa đến sự bất bình đẳng ngày càng lớn hơn – chúng ta cần những con người, nhóm người và các thể chế thăng tiến sự sống, cổ võ cho sự sáng tạo của con người. Họ có thể rút ra từ
chính cuộc  khủng hoảng này một cơ hội nhận định và tìm kiếm một mô hình kinh tế
mới. Mô hình kinh tế thịnh hành trong những thập niên gần đây thường tìm kiếm
lợi nhuận và tiêu thụ tối đa, dựa trên nền tảng của não trạng cá nhân và ích
kỷ, nhắm đến việc đánh giá con người chỉ dựa trên khả năng của họ trong việc
đáp ứng những đòi hỏi của cạnh tranh. Nhưng xét trên một quan điểm khác, sự
thành công đích thực và lâu dài chỉ đạt được ngang qua món quà là chính chúng
ta. Vì bên cạnh khả năng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, sự phát triển kinh tế
nhân bản đích thực và “sống động” còn đòi hỏi nguyên tắc nhưng không và lô-gích
của quà tặng hiểu như cách biểu lộ tình huynh đệ [5]. Cụ thể, trong lĩnh vực kinh tế, người kiến tạo hòa bình là người thiết lập nên mối dây công bình và tương trợ lẫn nhau nơi các công ty, công nhân, khách hàng và người tiêu thụ. Họ dấn thân vào hoạt động kinh tế vì thiện ích chung. Họ kinh nghiệm sự dấn thân này như là một điều gì
đó vượt lên trên lợi ích cá nhân mình, vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và
tương lai. Thực thế, họ làm việc không chỉ cho bản thân, nhưng còn để đảm bảo
cho người khác có tương lai và một công việc xứng đáng.

Trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là các quốc gia cần đưa ra các chính sách phát triển nông nghiệp và công nghiệp quan tâm đến sự thăng tiến xã hội và phát triển của các quốc gia lập hiến cũng như dân chủ. Việc tạo ra các cấu trúc đạo đức cho thị trường tiền tệ, tài chính và thương mại cũng là một yếu tố nền tảng và không thể bỏ qua;
những hệ thống này cần được ổn định, phối hợp và kiểm soát tốt hơn để tránh
phương hại đến những người nghèo.

Người kiến tạo hòa bình cũng cần phải tập trung vào cuộc khủng hoảng lương thực, vốn còn nghiêm  trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính. Vấn đề an toàn lương thực luôn là vấn đề trọng yếu của các chính sách quốc tế, như một hệ luận của các cuộc khủng hoảng, vấn đề gia tăng đột biến trong giá cả của các lương thực thiết yếu, những hành vi thiếu trách nhiệm của một vài tổ chức kinh tế, và về phần mình, các chính
phủ và các tổ chức cộng đồng quốc tế thiếu sự kiểm soát cần thiết. Để đối diện
với cuộc khủng hoảng này, những người kiến tạo hòa bình được mời gọi làm việc
với nhau trong tinh thần liên đới, từ mức độ địa phương tới cộng đồng quốc tế,
với mục đích là giúp người nông dân, đặc đặc biệt cho những nông dân nhỏ bé,
thực hiện các công việc của mình trong một cách thức cao quý và bền vững xét từ
quan điểm kinh tế, môi trường và xã hội.

Giáo dục một nền văn hóa hòa bình: vai trò của gia đình và các thể chế

6. Tôi mạnh mẽ xác nhận rằng những người kiến tạo hòa bình được mời gọi để nuôi dưỡng một lòng khao khát dành cho thiện ích chung của gia đình và công bình xã hội đồng thời dấn thân một cách hiệu quả vào lãnh vực giáo dục xã hội.

Không nên phớt lờ hay đánh giá thấp vai trò tiên quyết của gia đình, vốn là tế bào nền tảng của xã hội xét từ quan điểm nhân khẩu học, đạo đức, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Ơn gọi tự nhiên của gia đình là thăng tiến đời sống: Gia đình đồng hành với mỗi cá nhân cho đến khi họ trưởng thành và khuyến khích một sự phát triển hỗ tương và
phong phú ngang qua sự chăm sóc và sẻ chia. Cụ thể, gia đình Kitô giáo phục vụ
như là một vườn ươm cho sự trưởng thành của cá nhân theo tiêu chuẩn tình yêu
Thiên Chúa. Gia đình là một trong những chủ thể xã hội không thể thay thế được
trong việc đạt được một nền văn hóa hòa bình. Quyền của các bậc cha mẹ và vai
trò chính yếu của họ trong giáo dục con em mình trong lĩnh vực luân lý và tôn
giáo phải được bảo vệ. Chính trong gia đình mà những con người kiến tạo hòa
bình tương lai, những người thăng tiến nền văn hóa tình yêu và sự sống, được
sinh ra và được dưỡng dục. [6]

Các cộng đoàn tôn giáo cũng dấn thân trong một cách thế đặc biệt trong nhiệm vụ giáo dục hòa bình. Giáo hội tin rằng mình đang chia sẻ trách nhiệm lớn lao này ngang qua sứ mạng Tân Phúc Âm Hóa vốn đặt trọng tâm vào trong việc hoán cải để đến với chân lý và tình yêu của Đức Kitô và, kết quả là sẽ dẫn đến một cuộc tái sinh về luân lý và thiêng liêng nơi các cá nhân và cộng đoàn xã hội. Việc gặp gỡ Đức Kitô khuôn
đúc nên những con người kiến tạo hòa bình, những con người biết dấn thân cho
cộng đồng và vượt qua mọi bất công.

Các thể chế văn hóa, trường học và các trường đại học có một sứ mạng đặc biệt về giáo dục hòa bình. Họ được mời gọi để đưa ra những đóng góp quý giá không chỉ ngang qua việc huấn luyện các thế hệ lãnh đạo tương lai, nhưng còn đổi mới các thể chế công cộng, ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Họ có thể góp phần vào những phản tỉnh mang tính khoa học vốn sẽ là nền tảng cho các hoạt động kinh tế và tài chính dựa
trên một nền tảng nhân học và đạo đức vững chắc. Thế giới hôm nay, đặc biệt là
thế giới chính trị, cần được hỗ trợ bởi một lối tư duy mới và một sự tổng hợp
văn hóa mới để có thể vượt qua những phương pháp tiếp cận thuần kỹ thuật và hòa
hợp những khuynh hướng chính trị khác nhau với quan điểm về thiện ích chung.
Thiện ích chung, được xem như là một toàn thể những mối tương quan liên vị tích
cực và có tính cơ cấu trong việc phục vụ cho sự phát triển hội nhất của các cá
nhân và nhóm, chính là nền tảng của một nền giáo dục hòa bình đích thực.

Một khoa sư phạm cho những người kiến tạo hòa bình

7. Cuối cùng, chúng ta thấy cần phải đề nghị và thăng tiến một khoa sư phạm về hòa bình. Điều này đòi hỏi một đời sống nội tâm phong phú, những quan điểm luân lý rõ ràng và giá trị, cùng với những thái độ và lối sống thích hợp. Những hoạt động kiến tạo hòa bình thường kéo theo những thành tựu về thiện ích chung; những hoạt động này tạo ra những lợi ích cho hòa bình và dưỡng nuôi nó. Những suy nghĩ, lời nói và cử chỉ hòa bình thường tạo ra một tâm thức và một nền văn hóa hòa bình cùng với một bầu khí tôn  trọng, yêu thương và thân ái. Vì vậy, cần dạy người ta biết yêu thương nhau, nuôi dưỡng hòa bình và sống cách nhân từ chứ không chỉ bao dung. Một sự khích lệ căn bản đối với thái độ sống này là “nói không với hận thù, nhận ra những
bất công và chấp nhận những lời xin lỗi cho dù không tìm kiếm nó, và cuối cùng
là biết thứ tha” [7]. Trong cách thức này, những lỗi lầm và những thù hận có thể được nhận ra trong chân lý, để cùng nhau đi đến sự hòa giải. Điều này cũng đòi hỏi phải không ngừng lớn lên trong khoa sư phạm tha thứ. Thực vậy, sự dữ chỉ có thể vượt qua nhờ sự thiện, và công bình chỉ có thể tìm thấy ngang qua việc bắt chước Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái mình (xem Mt 5, 21-48). Đây chắc chắn là một tiến trình lâu dài, vì nó giả thiết một sự tiến triển thiêng liêng, một nền giáo dục về những giá trị cao quý và một cái nhìn mới về lịch sử nhân loại. Cũng cần biết từ bỏ thứ bình an giả tạo mà những ngẫu tượng thế gian hứa ban, cùng với những nguy hiểm luôn đi kèm với nó. Thứ bình an giả tạo này chỉ làm lu mờ lương tâm và đưa người ta đến một
lối sống ích kỷ và dửng dưng. Trái lại, khoa sư phạm về hòa bình ám chỉ đến
hoạt động, tình yêu thương, sự liên đới, lòng can đảm và sự kiên định.

Chính Chúa Giêsu là hiện thân cho tất cả thái độ sống này trong đời sống của Ngài, thậm chí Ngài đã tự hiến mình, đến nỗi từ bỏ chính mạng sống mình (xem Mt 13,39; Lc 17,33; Ga 12,25). Ngài đã hứa với các môn đệ rằng sớm muộn gì họ cũng khám phá ra những điều tuyệt diệu mà tôi đã nói ở trên, nghĩa là Thiên Chúa ở trong thế giới và
Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện với con người. Ở đây, tôi muốn
nhắc lại lời cầu nguyện, lời nguyện xin Thiên Chúa biến chúng ta thành những
khí cụ bình an của Ngài, để chúng ta có thể mang tình yêu đến nơi hận thù, đem
tình thương đến với người đau khổ, chân lý đức tin vào chốn lỗi lầm. Về phần
mình, chúng ta hãy cùng chân phước Gioan 23 cầu xin Thiên Chúa soi sáng cho các
vị lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến lợi ích vật chất của dân tộc mình, họ
còn biết đảm bảo cho người dân món quà quý giá là sự bình an, phá vỡ những bức
tường chia cắt, đẩy mạnh mối dây yêu thương lẫn nhau, lớn lên trong sự hiểu
biết và sẵn sàng thứ tha cho kẻ làm hại mình. Nhờ đó, ngang qua sức mạnh và
thần hứng của Thiên Chúa, mọi người dân trên trái đất sẽ kinh nghiệm được tình
huynh đệ, và sự hòa bình mà họ hằng mong mỏi, sẽ nở hoa và cư ngụ giữa
họ. [8]

Với lời nguyện này, tôi muốn bày tỏ niềm hy vọng của mình rằng tất cả mọi người sẽ trở thành người kiến tạo hòa bình đích thực, nhờ đó thành đô của nhân loại sẽ lớn lên trong sự hòa hợp huynh đệ, trong thịnh vượng và hòa bình.

Từ Vatican 8 tháng 12 năm 2012

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

——————————————————————————————–

[1] Xem, Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium Et Spes, số 1.

[2] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng
4 năm 1963: AAS 55(1963), 265-266.

[3] Xem, Ibid.: AAS 55 (1963), 266.

[4] Biển Đức XVI, Thông Điệp Đức Ái Trong Chân Lý (29 – 06 -2009), 32: AAS 101 (2009), 666-667.

[5] Xem ibid, 34 và 36: AAS 101 (2009), 668-670 và 671-672.

[6] Đức Gioan Phaolo II, Sứ Điệp Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 1994 (3 tháng 12 năm 1993) AAS 86 (1994), 156-162.

[7] Đức Thánh Cha Biển Đức, Bài Nói trong cuộc gặp với các thành viên chính phủ
Lenbanon (15 tháng 9 năm 2012) báo Quan Sát Viên Roma (16-9-2012), trang 7.

[8] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng
4 năm 1963: AAS 55(1963), 304.

Maria Thanh Mai gởi

Người chuyển
dịch:

Minh
Triệu, S.J.

Nguồn:  RV

Lời Chủ Chăn Tháng 01/2013

Lời Chủ Chăn Tháng 01/2013

Tòa TGM Thành phố HCM

Mừng Xuân và Năm Quý Tỵ
(Hướng đến sống tròn đầy hồng ân đức tintrước những thách đố của xã hội hôm nay)
Thưa anh chị em, linh mục, tu sĩ,

giáo dân, trong gia đình giáo phận,

Mở. Hành trình 15 năm. Năm Quý Tỵ sắp đến, đánh dấu 15 năm tôi đồng
hành với gia đình giáo phận, chia sẻ vui buồn, lo âu và hy vọng với anh chị em
trong Thành phố. Nơi đó, một mặt, sau năm 1975, gia đình giáo phận cùng nhiều
người đã phải gánh chịu nhiều mất mát, mất của cải vật chất, mất những quyền tự
do của con người; mặt khác, hôm nay là thời tự do của kinh tế thị trường, tự do
cạnh tranh sinh tử, tự do chạy đua hưởng thụ duy vật chất. Những tự do đó vừa
mở đường cho sự phát triển kinh tế, vừa làm cho hố sâu phân cách giàu nghèo
ngày càng thêm sâu thẳm, làm cho đời sống tinh thần cùng phẩm vị con người ngày
càng bị sa mạc hóa, càng trở nên khô cằn. Mười lăm năm đồng hành với anh chị em
cũng là 15 năm hành trình đức tin của tôi với những nỗ lực không ngừng sống
theo Lời Chúa dạy cùng sự Khôn Ngoan của Ngài, nhằm đáp lại những thách đố gay
go của xã hội thành phố đông dân và đầy phức tạp này. Nhìn lại hành trình đó,
tôi muốn chia sẻ với anh chị em những cảm nhận từ lòng tin của mình.
1. Có Chúa luôn đồng hành. Mười lăm năm sống trong thành phố này,
nhờ ánh sáng đức tin, tôi cảm nhận Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, như
sau khi phục sinh Ngài đã đồng hành với hai môn đệ làng Êmau cùng phục hồi niềm
tin và hy vọng của hai ông. Đồng hành với chúng ta, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng
đã và đang giúp chúng ta vượt qua những mất mát, khổ đau, khó khăn trong cuộc
đổi đời, và mở rộng lòng đạo chia sẻ cho nhau hồng ân đức tin Chúa thương ban
cho mọi người. Vì thế, trước những thách đố của xã hội, tôi luôn trông cậy vào
Ngài, lắng nghe Lời Ngài và ghi tạc vào lòng, đưa ánh sáng Chân Lý cùng Tình
Yêu của Ngài vào trong suy nghĩ và hành động hàng ngày. Nhờ đó, trong gian
truân thử thách, tôi cảm nhận chính Chân Lý và Tình Yêu của Ngài luôn dẫn dắt
bản thân yếu kém của tôi vượt qua mọi nỗi sợ hãi hoảng hốt. Chính hồng ân đức
tin của Ngài giúp tôi kiên tâm cầu nguyện, từ tốn thi hành chức vụ, và lòng dạ
thanh thản phục vụ cho sự sống cùng phẩm vị của mọi người.
2. Có Chúa luôn dìu dắt. Thứ đến, tôi cảm nhận Thánh Thần của
Chúa Phục Sinh vẫn đang ban ơn canh tân đổi mới lòng trí và mở rộng tầm nhìn
của tôi, tăng thêm khả năng đáp lại những thách đố của xã hội thời kinh tế thị
trường. Vì thế tôi luôn cố gắng cộng tác với Ngài, dẫn dắt gia đình giáo phận,
không chạy theo cánh hữu hay cánh tả trong cuộc đấu tranh loại trừ nhau để tồn
tại, song dõi theo bước Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ, khiêm tốn hòa nhập
vào truyến thống văn hóa, tìm nơi đó hạt mầm Lời Chúa, sử dụng những hạt mầm đó
xây đắp nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương cho xã hội hôm nay. Tôi xác
tín đó là cách Chúa Giêsu cùng Giáo Hội của Ngài phục vụ cho Tin Mừng cứu độ,
và yêu thương mở đường cho mọi người đi đến nguồn sống mới trong Nước Chúa là
Nước chân thật, yêu thương và bình an.
3. Lấy tình yêu đáp trả tình yêu. Trước những thách đố của một xã hội luôn phải chống chọi với tình trạng bị phân hóa nhiều mặt, tôi nhận thấy rằng, nhờ sự dìu dắt của Chúa Giêsu và Thánh Thần của Ngài, cùng sự trợ lực của Thánh Maria và các thánh Tử Đạo Việt Nam, nhiều người trong gia đình giáo phận, thay vì khép mình trong bản năng tự vệ để sinh tồn và hưởng thụ, ngày càng mở rộng lòng nhân cùng lòng đạo, lấy tình yêu đáp trả tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người, người tin và người không tin, người thiện tâm  và người vô tâm, người giàu và người nghèo, cách riêng người lâm cảnh cùng khổ, sống bên lề xã hội.
4. Xây giếng nước đầu làng. Sau cùng, trong thành phố đông dân này, tôi nhận thấy rất nhiều người cần đến nguồn nước hằng sống của Chúa Giêsu để giải cơn khát thâm sâu của lòng mình, để sống xứng với phẩm vị làm người. Đối diện với nhu cầu đó, mọi người công giáo đồng trách nhiệm. Do đó, tôi cảm thấy có bổn phận tạo điều kiện cho mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn công giáo : – trở nên giếng nước đầu làng, nơi đó có Chúa Giêsu hiện diện và cung nguồn nước trong lành cho mọi người; – thứ đến là trở nên sứ giả Tin Mừng, chia sẻ niềm vui, niềm tin và hy vọng cho thân hữu cùng bà con láng
giềng. Trong khi thi hành nhiệm vụ mục tử đó, tôi vui mừng thấy có sự đồng tình
và hợp lực của hàng linh mục, các dòng tu, cùng các tổ chức giáo dân trong giáo
phận.
Kết. Nhân dịp Xuân về, chúng ta hãy hợp lòng chung lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân hậu, đã luôn yêu thương, chăm sóc, dẫn dắt gia đình giáo phận
vượt qua mọi khó khăn, đi đến nguồn sống mới là Chúa Giêsu Kitô. Cùng với tâm
tình cảm mến tạ ơn Thiên Chúa, tôi xin bày tỏ lòng chân thành biết ơn đối với
mọi người, mọi cộng đoàn, mọi tổ chức trong giáo phận. Cám ơn 15 năm trước đã
mở rộng lòng đón nhận tôi vào gia đình giáo phận. Cám ơn suốt 15 năm qua đã
chung sức thi hành sứ vụ phục vụ cho Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, và chung lòng mở
đường cho mọi người đi đến nguồn sống mới, nguồn sống dồi dào chan hòa ánh sáng
chân lý, yêu thương và bình an. Cám ơn và cầu chúc cho mọi gia đình, mọi cộng
đoàn, mọi tổ chức, Một Mùa Xuân an lành cùng Một Năm Mới đầy phúc thật.
Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Hồng Y Tổng Giám mục

Maria Thanh Mai gởi

 

Mẹ vẫn chờ con

Mẹ vẫn chờ con
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng: có một cô gái ở nơi xa về thăm nhà, vừa mới xuống xe đã nhìn thấy mẹ đứng phía trước. Cô gái rất ngạc nhiên vì mẹ cô không hề biết cô sẽ trở về liền hỏi: ”Sao mẹ biết con về vậy?”. Thì ra cuối tuần nào người mẹ cũng ra chỗ này để “đón” cô.

Tâm tư người mẹ luôn như vậy, luôn lấy thường xuyên thành trùng hợp, biến có thành không khiến những đứa con không khỏi ngạc nhiên cũng không đoán trước được. Mẹ thường che dấu tình cảm của mình. Nước mắt của mẹ luôn chảy ngược vào tim khiến con cái không thể thấy nỗi khổ của mẹ mà chỉ thấy sự diu ngọt từ mẹ. Quả đúng như ai đó đã nói:

“Mẹ là dòng suối nước trong

Thơm, ngon, mát, ngọt như lòng mẹ yêu

Mẹ là gió nhẹ ban chiều

Khẽ ru con ngủ cưng chiều con thơ”

Tình mẹ thật mênh mông. Tình mẹ không có bến bờ chỉ có dạt dào tình yêu và tuôn chảy trên cuộc đời con cái. Vì:

Mẹ là biển rộng xanh lơ

Tình thương bát ngát đôi bờ đại dương

Mẹ là mây phủ ngàn phương

Chở che con dại trên đường nắng rơi

Mẹ là tất cả mẹ ơi!”

Là những người con khi đã nhận ơn của mẹ thì luôn mong mỏi được sống bên mẹ. Không chỉ để được mẹ yêu mà còn để phụng dưỡng ơn mẹ. Không chỉ để được mẹ vỗ về mà cả thèm nghe sự la rầy đầy tình yêu nồng nàn của mẹ.

“Con mong bên mẹ từng giây

Con thèm nghe tiếng la rầy mắng yêu

Bên mẹ nắng sớm mưa chiều

Để con săn sóc mẹ yêu suốt đời”

Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ thật yêu thương chúng ta. Mẹ cũng đánh đổi cuộc đời mình vì yêu thương chúng ta. Mẹ hy sinh cuộc đời, gác bỏ việc riêng để gánh lấy nhân loại chúng ta. Tình mẹ cũng mênh mông, bát ngát luôn theo sát con mẹ, đó chính là Mẹ Maria.

Với lời xin vâng, Mẹ Maria đã gác bỏ những dự định riêng của đời mình để sẵn lòng thực thi chương trình của Chúa. Dưới cây thập giá, Mẹ một lần nữa đã nói lời xin vâng khi đón nhận nhân loại làm con của Mẹ. Lời Chúa Giê-su đã thưa cùng Mẹ. “Thưa bà, đây là con của bà”. Mẹ đã không khước từ. Dù rằng, dưới cây thập giá lòng Mẹ đang tan nát bởi cái chết người Con yêu. Mẹ tiếp tục xin vâng để lại làm Mẹ nhân loại theo thánh ý Thiên Chúa.

Và hôm nay, Mẹ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời từng người con để vỗ về, để yêu thương, để dìu dắt như ngày nào Mẹ đã yêu thương Con Chúa Trời. Mẹ tiếp tục đứng đó trên những đỉnh đồi thương đau của từng người con như Mẹ đã từng đứng bên thập giá để chia sẻ với Con yêu quý của mình. Mẹ vẫn đang đứng đợi con cái về bên Mẹ như bao bà mẹ vẫn mong con sum vầy bên Mẹ để được Mẹ dậy bảo, để được Mẹ vỗ về yêu thương.

Hôm nay, ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Mẹ Maria vẫn đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện của Mẹ bên cuộc đời chúng ta qua biết bao ơn lành hồn xác chúng ta lãnh nhận nhờ lời cầu bầu của Mẹ. Biết bao người vẫn được ơn này ơn kia qua lời cầu khẩn của Mẹ. Biết bao người vẫn đang bám vào Mẹ như sự ủi an duy nhất giữa chốn ba đào đầy khó nguy. Và có lẽ, Mẹ Maria vẫn đang chờ những con cái Mẹ biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi khó khăn, biết nương tựa vào Mẹ mỗi khi thất bại, biết cầm lấy tay Mẹ mỗi khi vấp ngã để Mẹ tiếp tục chia sẻ những thăng trầm trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc vì đã cưu mang Con Thiên Chúa. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Và  hôm nay chúng con cũng thật có phúc vì có Mẹ là Mẹ của chúng con. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã nhận chúng con là con của Mẹ để tiếp tục chăm sóc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi gặp những khó khăn. Xin cho chúng con luôn sum vầy bên Mẹ để được Mẹ yêu thương chúc lành. Amen.

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Maria Thanh Mai gởi

TRI THIÊN MỆNH – ĐẠT LAI LẠT MA

ĐẠT LAI LẠT MA – TRI THIÊN MỆNH


“Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của kẻ cướp là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”

“Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ”

“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”

“Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.

“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức
rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành
kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.

“Là con Phật, nếu  không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.

“Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác.
Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì
trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

 

Nói cho con người: Lm Chân Tín (29)

Nói cho con người: Lm Chân Tín (29)

Đăng bởi lúc 2:00 Sáng 31/12/12

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (31.12.2012) – Sàigòn –

Trả lời phỏng vấn của đài VNCR

VNCR: Xin linh mục cho biết tiểu sử của linh mục khá chi tiết để đồng bào hải ngoại biết và hiểu linh mục hơn.

Lm Chân Tín: Tục ngữ Pháp có câu “Cái tôi là cái đáng ghét”. Nói về mình thật là khó nói. Nhưng vì được đài VNCR yêu cầu để tạo sự thông cảm giữa đồng bào hải ngoại với tôi, nhất là trước 75, có người cho tôi là “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”, nên tôi xin nói qua tiểu sử của tôi.

Tôi là linh mục Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế- Việt Nam, 76 tuổi. Sinh ngày
15.11.1920, tại làng Vạn Xuân, họ đạo Lim Long, ngoại ô thành phố Huế, ngày
trước là thủ phủ của các Chúa Nguyễn.

Tôi học các lớp tiểu học ở trường làng và trường họ đạo. Học bốn năm trung học
ở trường Đệ tử Dòng Chúa Cứu Thế- Huế, và hai năm cuối ở trường Thiên Hựu cũng
được gọi là Providence. Sau khi thi đậu tú tài, tôi ra Hà Nội vào nhà tập Dòng
Chúa Cứu Thế, học các lớp thần học tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế- Hà Nội. Nhà
nước cộng sản đã biến tu viện này thành bệnh viện đa khoa của quận Đống Đa vào
năm 1954.

Tôi thụ phong linh mục ở Hà Nội năm 1949, cùng với Hồng y Trịnh Văn Căn, Hồng y
Phạm Đình Tụng. Năm 1950 tôi sang Italia để nghiên cứu vấn đề xã hội và trình
luận án tiến sĩ thần học. Đậu tiến sĩ tháng 6/1953, tôi trở lại Việt Nam vào tháng 10/1953 dạy khoa thần học và làm giám đốc Học viện Dòng Chúa Cứu Thế- Đà
Lạt. Không đầy một năm sau, vào ngày 19.5.1954, anh cả tôi đã chết trong một vụ
nổ mìn của Việt cộng, giết hại nhiều người vô tội trên chuyến tàu hàng Đà Nẵng-Huế. Ngày 19.5 được Đảng Cộng sản Việt Nam coi như ngày sinh của ông Hồ và vụ thảm sát đã được các con của anh tôi coi như một món quà sinh nhật đẫm máu mà Đảng Cộng sản Việt Nam dâng cho ông Hồ. Qua năm 1961, tôi trở về Sài Gòn điều khiển cơ quan ngôn luận của Dòng Chúa Cứu Thế- Việt Nam: chủ nhiệm nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, sáng lập và làm chủ nhiệm nguyệt san Tuổi Hoa, xuất bản sách Tuổi Hoa, sáng lập và chủ nhiệm nguyệt san Đối  Diện, Đứng Dậy. Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có tính cách giáo dục Đức tin Kitô giáo, Tuổi Hoa nhằm giáo dục trẻ em, thanh thiếu niên vào đời. Đối Diện, Đứng Dậy có tính cách xã hội chính trị, chống
chiến tranh, chống sự hiện diện quân đội Mỹ trên miền Nam, hoạt động cho Hoà
bình, tranh đấu đòi trả tự do cho tù chính trị. Cũng vì thế mà chế độ cũ đã
nhiều lần đưa tôi ra toà và lần cuối năm 1972 với án tù năm năm cấm cố phạt một
triệu đồng và đóng cửa Đối Diện, Đứng Dậy. Nhưng tôi chưa đi tù và chịu
phạt tiền vì còn kháng cáo.

Trong những ngày cuối của chế độ Sài Gòn, khi các sư đoàn Bắc Việt bao vây Sài
Gòn và bắt đầu pháo vào thành phố, sáng ngày 29.4.1975 tướng Dương Văn Minh vừa
mới nhận chức tổng thống hôm trước đã gởi một phái đoàn chính phủ vào trại
David ở Tân Sơn Nhứt để thương thuyết với phái đoàn Mặt trận Giải phóng miền
Nam, nhưng không thành công. Vào buổi chiều cùng ngày, tổng thống Dương Văn Minh nhờ luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân và tôi là những người được coi là thành phần thứ ba ở miền Nam đến thuyết phục Mặt trận. Chúng tôi gặp
tướng Nguyễn Anh Tuấn và đại tá Võ Đông Giang, yêu cầu đừng bắn phá vào Sài Gòn
và họ đồng ý pháo chút ít để làm áp lực tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.
Quân Bắc Việt bắt đầu tiến quân vào Tân Sơn Nhứt nên ba anh em chúng tôi không
về nhà được nên đành ở lại trong hầm của đại tá Võ Đông Giang cho đến 16 giờ
chiều ngày 30.4.1975 mới trở về nhà được.

Từ ngày 30.4.1975, tôi vẫn tiếp tục tranh đấu cho hoà giải dân tộc, cho nhân
quyền. Nguyệt san Đứng dậy tái bản và bị đóng cửa năm 1978 vì đường lối của
chúng tôi đi ngược mưu đồ của ĐCSVN.

Đứng trước sự kiên trì của tôi trong việc tố cáo những vi phạm nhân quyền của
chế độ cộng sản, họ đày tôi đi Cần Giờ ngày 16.5.1990 và quản chế tôi ba năm ở
xã Cần Thạnh, bị tước quyền công dân, không được ra khỏi xã, cấm làm lễ, giảng
dạy và 15 ngày trình diện công an. Cùng lúc ấy, Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan cũng bị
lục soát nhà ở quận 10 và cũng bị quản chế ba năm. Ba ngày trước khi hết hạn ba
năm quản chế, anh tôi là linh mục Nguyễn Văn Cơ, bề trên Dòng Chúa Cứu Thế- Nha
Trang bị tai biến mạch máu não và đã ra đi vĩnh viễn ngày 12.5.1993. Tôi được
thông báo cùng ngày là thời gian quản chế của tôi đã mãn và tôi ra Nha Trang
làm đám tang cho người anh, và trở lại Sài Gòn hoạt động như cũ cho đến nay.

Từ khi trở về Sài gòn, tôi vẫn tiếp tục công việc linh mục của tôi và vẫn lên
tiếng chống lại những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, như tôi đã nói trên đài
RFI ba tháng sau khi được thả tự do, trước ngày Liên Hiệp Quốc tổ chức Đại hội
về Nhân quyền ở Vienne, nước Áo, cũng như trên đài RFI nhân dịp Đảng Cộng sản
này chiếm miền Nam được 20 năm (30.4.1995). Và vừa rồi, nhân lễ Giáng sinh tôi
cũng tố cáo vi phạm nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo trên Đài
truyền thanh Oslo ở Na-Uy và hôm nay tôi cũng tiếp tục tố cáo vi phạm nhân
quyền qua quý đài ở Cali. Đó là vài nét về tiểu sử và hoạt động của tôi trong
thời gian qua như anh mong muốn.

– Thưa linh mục, cách đây sáu năm, linh mục đã giảng ba bài sám hối, từ ngày đó đến nay đã có những thay đổi nào, tốt hay xấu trên lĩnh vực nhân quyền? Xin cho một ví dụ cụ thể.

– Tôi đã chân thành kêu gọi Đảng và Nhà nước cộng sản sám hối, tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Nhưng thay vì sám hối và đổi mới, Nhà nước cứ ngày càng lún sâu vào con đường bạo lực chống lại con người và người dân Việt Nam.

Những ví dụ cụ thể không thiếu, ngay việc họ đày tôi ra Cần Giờ và quản chế ba
năm, ba ngày sau khi tôi quả quyết quyền của người dân và của Giáo hội phê phán
sai trái của Nhà nước, cũng như họ quản chế giáo sư Nguyễn Ngọc Lan ba năm tại
gia là một bằng chứng họ không sám hối, tiếp tục vi phạm trắng trợn đến quyền
tự do phát biểu ý kiến của người dân.

Cũng trong thời gian đó, họ quản chế ông Tạ Bá Tòng và ông Nguyễn Hộ là những
Đảng viên lão thành vì đã tập hợp những người kháng chiến cũ để đấu tranh cho
nhân quyền. Luật sư Đoàn Thanh Liêm bị đưa ra tòa và bị án tù 12 năm, đã đưa
một đề nghị hòa giải dân tộc. Ông Đỗ Ngọc Long đã bị bắt giam ba năm vì đã cộng
tác với một người mỹ tên Morrow để làm ăn. Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang bị
bắt giam vì đã tổ chức cứu nạn lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long mà không theo hệ
thống của giáo hội Phật giáo quốc doanh, bị lên án đã chia rẽ tôn giáo, và
trong năm vừa qua, ông Hoàng Minh Chính, ông Đỗ Trung Hiếu, ông Hồng Hà và ông Hà Sĩ Phu cũng bị bắt giam vì nói thẳng nói thật với Nhà nước về những vi phạm
nhân quyền. Riêng Giáo hội Công giáo Việt Nam, Nhà nước can thiệp vào nội bộ
một cách trắng trợn, chống lại việc Tòa thánh đề cử các giám mục cho các giáo
phận không còn người lãnh đạo.

Đặc biệt giáo phận Sài Gòn, Tòa thánh đã đặt đức Cha Nguyễn Văn Thuận làm tổng
giám mục phó từ trước 30.4.1975. Nhà nước chụp mũ có nợ máu với nhân dân để
giam ngài trong 13 năm và sau khi ngài ra khỏi tù, lại trục xuất ngài ra khỏi
Việt Nam. Khi cố tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đau nặng sắp chết, Tòa thánh đặt
Đức Cha Huỳnh Văn Nghi, giám mục Phan Thiết, làm giám quản Tông tòa giáo phận
Sài Gòn, họ báo sát ngài, theo dõi ngài từng ngày, từng giờ, cản trở ngài về
Sài Gòn thăm giáo phận hay thăm họ hàng.

Đó là những việc nổi cộm. Nhưng còn bao nhiêu vụ vi phạm tự do tôn giáo,
như họ hạn chế các chủng viện, hạn chế sĩ số, kiểm soát lý lịch của giáo sư,
ngăn cản việc phong linh mục, làm khó dễ hoặc chuyển các cha từ họ đạo này sang
họ đạo khác vv… và vv…

Tất cả những sự việc nói trên cũng đủ chứng minh là Nhà nước vẫn vi phạm trắng
trợn và thô bạo đến nhân quyền và dân quyền của người Việt Nam.

– Đạo là con đường cứu đời, cứu người và cả loài người nhưng trong một cuộc
phỏng vấn của một ký giả Ba Lan vào năm 1995, ông Hoàng Minh Chính đã cho rằng Giáo hội Công giáo ở Việt Nam đã chịu khuất phục Nhà nước và từ chối can thiệp cho những người tù nhân lương tâm. Hội Văn bút Ba Lan đã làm môi giới để xin Giáo hội Thiên chúa giáo ở Việt Nam can thiệp cho tù nhân lương tâm, nhưng họ
đã từ chối. Ý kiến của linh mục như thế nào?

– Trong bài giảng Sám hối thứ hai, cách đây sáu năm, tôi đã nói đến tư cách
ngôn sứ của Giáo hội và đã thẳng thắn nói thật nói thật với các vị lãnh đạo
Giáo hội cũng như với giáo dân, là Giáo hội chưa thực thi chức năng đó, chưa
bênh vực phẩm giá con người, của người dân Việt Nam. Chết hay đi tù vì con
người cũng là tử đạo.

Từ đó đến nay, tôi thấy chưa có gì thay đổi. Ít nhất là bên ngoài, giáo hội
chưa đòi hỏi Nhà nước tôn trọng những nhân quyền và dân quyền của người Việt
Nam bất phân tôn giáo. Hình như các giám mục chỉ đòi hỏi Nhà nước tôn trọng tự
do tôn giáo chứ không đề cập đến những vi phạm nhân quyền và dân quyền. Đó là
điều đáng tiếc. Hàng giáo phẩm phải mạnh dạn bênh vực con người. Anh cho biết
có một ký giả nói với ông Hoàng Minh Chính là Hội Văn bút Ba lan có có xin Giáo
hội Công giáo Việt Nam can thiệp cho những người tù lương tâm đã bị từ chối.
Điều đó chúng tôi không được biết. Nhưng nếu có lời xin đó và Giáo hội Công
giáo từ chối, tôi rất tiếc, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên, vì các ngài xưa
nay chỉ lên tiếng khi các quyền lợi của Giáo hội bị vi phạm chứ chưa lên tiếng
bênh vực con người Việt Nam nói chung. Phải chăng các ngài sợ bị chụp mũ làm
chính trị, sợ gây khó khăn cho sinh hoạt tôn giáo của mình, như vậy là muốn cầu
an, thêm vào đó các ngài nghĩ rằng nói cũng chẳng đi đến đâu, chỉ thêm rắc rối,
bị trả thù. Như vừa rồi, Hội đồng giám mục trong một bức thư gửi Thủ tướng Võ
Văn Kiệt đã nói thẳng nói thật về những vi phạm đến quyền lợi thiêng liêng của
Giáo hội, thì Nhà nước trả thù bằng cách cấm các giám mục qua Rôma hội kiến Đức
Giáo Hoàng Gioan-Phaolô. Các ngài đã có nhiều kinh nghiệm về cái vô hiệu của
lời phản kháng của mình và lối trả thù của Nhà nước. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng
các giám mục phải lên tiếng dù không kết quả, dù bị trả thù, vì đó là sứ mạng
của Giáo hội với con người. Trong Tin Mừng, Gioan Tẩy giả đã nói với Hêrôđê nên
bị tống ngục và bị chặt đầu. Chúa Giêsu đã nói thật nên đã bị đóng đinh trên
thập giá. Các tông đồ Gioan và Phêrô đã trả lời thẳng với các vị lãnh đạo Do
Thái “Thà vâng lời Chúa còn hơn vâng lời người”, và họ bị tống giam và
lấy mạng sống của mình để trả giá. Và qua lịch sử Giáo hội, các thánh tử đạo
Việt Nam cũng đã từ chối khuất phục và mạnh dạn thi hành sứ mạng ngôn sứ. Các
giám mục Việt nam đã thiếu can đảm để hoàn thành sứ mạng cứu người, cứu nhân
loại bằng gióng lên tiếng nói lương tâm và tiếng nói của Chúa. Họ quá khôn
ngoan theo khôn ngoan của người đời, muốn cầu an, chứ không chấp nhận phải bị
bách hại vì Chúa và vì con người là hình ảnh Thiên Chúa.

– Cũng trong cuộc đàm đạo ký giả Ba-Lan có nói với ông Hoàng Minh Chính là
các lực lượng đối lập ở Ba Lan gồm Giáo hội Công giáo, trí thức, Công đoàn đoàn
kết giành tự do cho Ba lan thay thế độc tài chuyên chính bằng một chế độ dân
chủ tự do, đấu tranh trả tự do cho tù chính trị. Trong bài giảng sám hối hai,
linh mục có nhắc đến hồng y Wyzinsky ở Ba Lan và Đức cha Tomaswk ở Tiệp Khắc
với cuộc biểu tình hằng trăm hằng ngàn người tín hữu, linh mục có nghĩ rằng
những người thiện chí cần học bài học đấu tranh cho nhân quyền?

– Ba Lan là Ba Lan, Việt Nam là Việt Nam. Ba Lan là một nước gồm đại đa số công
giáo và có một nền nhân bản Kitô giáo, cho nên cuộc đấu tranh cho nhân quyền là
những giá trị Kitô giáo, được đại đa số hưởng ứng và dễ đoàn kết để đấu tranh
có hiệu quả. Việt Nam, chỉ có một nhóm nhỏ sáu, bảy triệu công giáo trên 70
triệu dân, đa số theo Nho giáo, Phật giáo… công giáo chỉ là số nhỏ. Nho giáo ăn
sâu vào con người Việt Nam với một nền quân chủ chuyên quyền và một nền luân lý
độc đoán của người cha gia đình. Vua quan là cha mẹ dân. Mà cha mẹ có toàn
quyền sinh tử trên con cái. Thì những người cai trị coi mình có toàn quyền.
Người Việt Nam anh hùng chống ngoại xâm, nhưng nói chung cam chịu số phận, lụy
thuộc cha mẹ và vua quan. Nho giáo không có một nền luân lý tự do dân chủ, nên
dễ chấp nhận độc tài của vua quan. Phật giáo dạy diệt dục, diệt tham sân si,
kêu gọi sự nhẫn nhục. Nói chung cuộc đấu tranh cho người Việt Nam không dễ dàng
và đồng bộ như ở Ba Lan.

Tuy vậy, bài học của Ba Lan và của Tiệp Khắc rất quý giá cho những người thực
thi đấu tranh cho nhân quyền, tuy khó khăn hơn.

– Từ giữa năm 1995, sau khi các ông Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Thích
Huyền Quang, Thích Quảng Độ vị kết án rất trái pháp luật, dư luận thế giới đã
mong đợi giới độc lập trong nước đưa ra một bản kiến nghị lên án chế độ để
người bên ngoài hưởng ứng. Hồi cuối năm Hà Sĩ Phu, Hồng Hà cũng bị bắt giam,
linh mục có thấy động tĩnh gì về phía các lực lượng đấu tranh ở trong nước
không?

– Tôi không ngạc nhiên khi anh em ngoài thắc mắc chẳng thấy động tĩnh gì trước
một loạt bắt bớ giam cầm các vị chân tu và đảng viên có tinh thần dân tộc và
dân chủ. Không phải những lực lượng tranh đấu cho dân quyền, cho dân chủ trong
nước sợ không dám lên tiếng hay làm nhơ trước bạo lực và cảnh tù đày của các
anh đó. Chúng tôi ngồi yên nhìn các ngu dốt và cái sa lầy của một chế độ đang
trên đà tan rã. Họ càng bắt bớ, họ càng sa lầy, càng gây ý thức nơi người dân
về sự sa sút, thối nát và độc ác của họ. Họ nói họ bảo vệ chủ nghĩa xã hội, vậy
chủ nghĩa xã hội là cái gì? Đó là chủ nghĩa muốn xóa bỏ quyền tư hữu. Không
chấp nhận kinh tế thị trường, chỉ chấp nhận kinh tế tập trung vào Nhà nước, vào
các xí nghiệp quốc doanh. Nhưng nay ta thấy cái gì? Cái kinh tế đó đã đưa Việt
Nam đến tận cùng nghèo đói, lạc hậu. Bây giờ họ bỏ hết, chạy theo kinh tế thị
trường, chạy theo đô la thay vì phát triển để độc lập, họ xóa chữ “c” và chữ
“p” thành đô la rồi. Và theo đo la không phải cho dân nhờ, nhưng để bỏ túi. Vô
số những vụ tham nhũng, buôn lậu được tổ chức qui mô. Chủ nghĩa xã hội là một
thứ treo đầu heo bán thịt chó: một tập đoàn tham nhũng, buôn lậu mà nhân dân
gọi là mafia. Có gì là chủ nghĩa xã hội đâu. Trước sự tan rã này, những cuộc
bắt bớ kia chỉ làm trò đùa cho người dân. Làm trò cười khi bắt giam trái phép,
càng làm họ cười khi đưa ra xét xử rồi lên một cái án tức cười. Cho nên chẳng
cần kiến nghị, chả cần nói, chả cần động tĩnh gì, chỉ ngồi coi chơi và các anh
đang bị tù chắc cũng cười như anh Nguyễn Ngọc Lan và tôi cũng đã cười trong ba
năm quản chế, trước biện pháp lấy thịt đè người của Nhà nước.

– Chúng tôi ở ngoài được tin ông Hà Sĩ Phu ra Hà Hội để thảo luận bản Hiến
chương những nhân quyền cho Việt Nam tương tự như Tiệp Khắc, xin linh mục cho
biết tin tức này có cơ sở không. Nếu đáng tin, thì Nhà nước có dập tắt ngọn lửa
này. Theo linh mục có ai sẽ tiếp tục?

Tôi không nghe tin đó. Có những người bạn cho biết là anh Hà Sĩ Phú ra Hà Nội
thăm bạn bè và trao đổi về đủ thứ chuyện trên đời. Khi ra khỏi nhà bạn, công an
mời về bót và lục soát xắc tay của Hà Sĩ Phu và thấy có bức thư của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt viết cho Bộ Chính trị về tự do dân chủ. Công an hỏi ai trao thư
này. Nghe nói Hà Sĩ Phu và Hồng Hà đều bị bắt giam. Chắc anh đã biết nội dung
bức thư của ông Võ Văn Kiệt? Ông Võ Văn Kiệt công khai hóa sự chia rẽ trầm
trọng trong Bộ chính trị. Võ Văn Kiệt chống việc đưa khu vực quốc doanh lên
hàng chủ đạo, chống dân chủ tập trung, đòi hỏi xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Có
thế mới loại trừ nạn tham nhũng, buôn lậu.

– Trong ba bài giảm sám hối, linh mục đã kêu gọi cá nhân, Giáo hội, Đảng và
Nhà nước sám hối. Riêng linh mục, linh mục có sám hối không, vì trước 75 nhiều
người trong chế độ Sài Gòn đã coi linh mục như một người ăn cơm quốc gia, thờ
ma cộng sản như linh mục đã nói đầu cuộc phỏng vấn. Phải chăng qua những hoạt
động của linh mục trước 75 có ảnh hưởng đến thành công của cộng sản trong việc
làm sụp đổ miền Nam?

– Lòng sám hối phải là một thái độ mọi người phải có. Không ai dám tự cho mình
đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Vì thế, tôi cũng phải sám hối. Nhưng không
vì đã hoạt động bảo vệ con người trong chế độ cũ. Chính chế độ vi phạm nhân
quyền, nên cộng sản mới lợi dụng những vi phạm ấy, lôi kéo dân chúng theo họ.
Và chính thiếu tài năng, thiếu đạo đức và tình trạng tham nhũng tuy nhỏ hơn bây
giờ, nhưng cũng đủ để cộng sản lợi dụng tuyên truyền, lôi kéo người dân theo
họ, đi lính cho họ và đã thắng chế độ cũ đưa đẩy Đất nước vào tròng nô lệ.

– Vừa rồi ông Nguyễn Đức Trấn đã viết một cuốn sách tố cáo vi phạm nhân
quyền. Chế độ đã lên án cuốn sách đó, ra lệnh tịch thu. Linh mục có biết hậu
quả của lệnh này có ai bị bắt bớ gì không?

– Ủy ban Nhân dân TP.HCM ra lệnh tịch thu cuốn sách Viết cho Mẹ và cho Quốc
hội
của bác Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cộng sản lão thành đã 81 tuổi.
Bác Trấn lên án chế độ, bằng cách đưa ra những vi phạm nhân quyền từ ngày có
Đảng Cộng sản ở Liên Xô cũng như ở Việt Nam. Đảng đã phân tích cuốn sách này và
đánh giá còn nguy hại cho Đảng  hơn cả những bài viết khác, như của Nguyễn
Hộ chẳng hạn. Tiếp theo bản phân tích đó, Ủy ban Nhân dân TP.HCM đã tuân lệnh
ra thông báo tịch thu, nhưng lại không cho phổ biến công khai trên báo chí, chỉ
nhằm tịch thu. Nhưng tịch thu ờ  đâu? Họ lại lục soát nhà bác Trấn. Lại có
vị đi mua về độc với một giá cao đặc biệt và ai đã đọc thì cất giữ kỹ và cho
bạn hữu đọc. Lệnh ấy cũng lạ kỳ, phải chăng, được lệnh trên, người ta làm thông
cáo cho có. Vì vậy cuốn sách càng được khắp nơi biết tới và nghe nói ở Hà Nội
cũng in ra dữ dội hơn. Và tôi cũng được biết ở bên Mỹ cũng đã in ra và được
đồng bào ta hoan nghênh. Như vậy, chưa có ai bị bắt vì cuốn sách này kể cả tác
giả. Tôi có nghe nói bí thư thành ủy có mời bác Trấn lên xác nhận những vi phạm
của Đảng, nhưng trách bác Trấn không viết những sự việc tích cực của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Bác Trấn bảo: chả có gì là tích cực cả. Thế là huề cả làng. Người
ta hăm dọa bác để sau đại hội VIII rồi sẽ tính. Mà làm gì bác, thì chế độ càng
hố. Chúng ta chờ một đám tang lớn: đám tang chế độ.

– Đúng là sách của bác Trấn được in ở Mỹ, in 2000 cuốn bán hết sạch, sắp in lần
thứ hai. Xin cảm ơn linh mục đã trả lời thẳng thắn những câu hỏi của chúng tôi.
Linh mục có nói thêm gì với đồng bào không?

– Năm cũ sắp qua, tôi xin gởi đến đồng bào trong nước cũng như ngoài nước lời
chúc mừng Năm Mới. Chúc đồng bào dồi dào sức khỏe, may mắn, hạnh phúc, đoàn kết một lòng đấu tranh để xây dựng đất nước giàu mạnh, tự do, dân chủ, con người và
gia đình được tôn trọng.

Thân ái chào đồng bào ở trong cũng như ngoài nước.

(28.1.1996)

(Tin Nhà số 23,tháng 3.96)

 

Thánh Silvestrê I,

Thánh Silvestrê I,

Giáo Hoàng (270-335)

Ngày 31/12

 

Thánh Silvestrê sinh vào khoảng năm 270 tại La Mã.

Năm 314, sau khi vua Constantinô trở lại, Giáo Hội được tự do và chấm dứt cơn bách hại kéo dài suốt hai thế kỷ trong toàn đế quốc La Mã, linh mục Silvestrê được bầu lên ngôi Giáo Hoàng (314).

Ngài đảm trách cai quản Hội Thánh giữa thời thuận tiện, ngài đã nỗ lực hoạt động để tổ chức lại Giáo Hội cho có quy củ.Ngài sửa đổi luật lệ, đặt nền móng cho lâu đài phụng vụ Kitô Giáo bằng cách ban nhiều sắc lệnh và cách thức cử hành các nghi lễ. Ngoài ra, ngài còn khuyến khích việc xây cất nhiều thánh đường, trong đó có đại thánh đường Phêrô tại Rôma và thánh đường Chúa Cứu Thế tại Latran. Nhưng việc vĩ đại nhất dưới triều đại của ngài là đã triệu tập công đồng chung lần đầu tiên cho toàn thể Giáo Hội ở Nicée vào năm 326 để kết án bè rối Ariô và bệnh vực thiên tính của Chúa Giêsu.

Sau 22 năm chèo lái con thuyền Hội Thánh, ngài ngã bệnh và qua đời ngày 21/12/335.

Maria Thanh Mai gởi

Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời

Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời

Tâm Thương

WGPSG — Người em cùng quê với tôi sắp thi tốt nghiệp ngành điều dưỡng.
Chỉ còn mấy ngày nữa thi nên tôi thấy em miệt mài học bài đến khuya. Tối nay có
sinh nhật nhỏ bạn nên em gác lại chuyện học bài để đi mừng sinh nhật. Tối hôm
trước khi thi môn thứ hai em cũng lai rai một két bia với mấy người bạn. Em
bình tĩnh dường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Hình như chuyện thi cử đối với
em cũng bình thường thôi. Em học bài ôn thi kiểu cuốn chiếu. Hoàn toàn không có
sự đầu tư thật kỹ càng từ xa.

Bạn thân mến, câu chuyện trên đây làm tôi liên tưởng đến lối sống của
nhiều bạn trẻ hôm nay. Dường như họ không xác định được cái gì chính và cái gì
là phụ trong cuộc sống thường ngày. Dường như họ chỉ biết sống như lục bình
trôi sông hoàn toàn không có mục đích và định hướng. Bởi vậy mới có hiện tượng
học “cuốn chiếu”, gian lận trong thi cử, hay thi rớt và nợ môn không thể ra
trường được. Điều này dẫn đến biết bao tai hại cho chính bản thân người trẻ,
cho gia đình, nhà trường và xã hội. Vậy, nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng
tiêu cực như thế là gì? Làm thế nào để người trẻ hôm nay sống một cuộc đời có ý
nghĩa và có định hướng? Còn đối với giới trẻ Công giáo chúng ta thì sao?

Nhiều bạn trẻ không biết mình đang muốn cái gì?

Trước tiên, nhiều người trẻ hôm nay sống không có định hướng. Nguyên nhân
sâu xa là do họ không biết mình đang muốn cái gì. Thật vậy, họ có thể biết
nhiều thứ văn minh hiện đại, nhưng không biết được chính mình. Nào là điện
thoại di động đắt tiền hiện đại với nhiều chức năng. Nào là nhiều nhà hàng nổi
tiếng với những món ăn đắt tiền. Nào là vi tính xách tay trị giá mấy chục
triệu. Nào là facebook, yahoo messenger hay những kỹ thuật vi tính như đồ họa,
lập trình, tạo trang web. Nào là sưu tầm những game thật hot v.v… Giá trị của
người trẻ phải chăng hệ tại ở những phương tiện vật chất như thế?

Người em cùng quê với tôi cũng rơi vào vết xe đổ như đã nêu trên. Tôi
nhận thấy em không có một định hướng và động cơ học hành nghiêm túc. Cứ tà tà
rồi cũng qua. Như vậy không được. Hơn nữa nghe nói rằng cái ngành điều dưỡng mà
em đang học là do cha mẹ của em chọn. Đã có lần em muốn bỏ cuộc giữa chừng cuốn
gói về quê làm thợ hồ phụ cha. Vậy đó, em làm cái điều mà mình không thích thì
làm sao có được động lực dấn thân cho ngành điều dưỡng được. Hơn nữa, cái ngành
này đòi hỏi cái Tâm và sự khéo léo tỉ mỉ của đôi bàn tay thầy thuốc. Nếu em
không muốn học thì hậu quả sẽ tai hại biết bao!

Thế nên, sống có mục đích và định hướng là chìa khóa dẫn con người dẫn
tới thành công. Thế nhưng, thực tế nơi phần đông những người trẻ thì ngược lại.
Bởi vậy, một tác giả đã nhận định thế này: “Ngày nay, khi chúng ta đang ở vào
thời điểm cạnh tranh gay gắt, nhiều người vẫn không biết mình sẽ làm gì ở tương
lai. Bởi vì họ chưa từng lên kế hoạch cho cuộc đời của mình. Hoạch định cuộc
đời là yếu tố quan trọng để bạn có một phương châm và đường đi đúng đắn rõ ràng
trong cuộc sống.” Quả thật, từ việc không biết chính mình dẫn đến việc đánh mất
chính mình. Lối sống không có định hướng dẫn đến những lệch lạc và mất định
hướng cho cuộc đời. Đó là lối sống chỉ biết hưởng thụ và lệch lạc nơi phần đông
người trẻ hôm nay.

Nhiều bạn trẻ chỉ biết sống hưởng thụ và lệch lạc

Bạn tôi không thích học hành và làm việc. Xu hướng của bạn ấy thích nhiều
thứ vui tiêu khiển như rượu chè, cờ bạc, hát karaokê, tiệc tùng, chở bạn gái đi
ăn uống vui chơi v.v… Anh ta chỉ biết đến cái nhất thời mà quên đi cả một tương
lai dài phía trước. Anh lấy cái phụ làm cái chính cho cuộc sống của mình. Anh
đánh bài thua sạch hết tiền. Anh đã từng bị mất hai chiếc xe. Ở Sài Gòn này
toàn người dưng nước lã nên biết mượn ai bây giờ. Anh chỉ biết điện về nhà cầu
cứu bà mẹ làm nghề đan lát ở dưới quê. Anh nói dối mẹ rằng anh bị mất tiền, mất
xe…Anh kéo lê cuộc đời trong những thú vui hưởng thụ lệch lạc như thế. Rồi cuộc
đời anh sẽ đi về đâu? Hoàn toàn không định hướng. Hoàn toàn không có một tương
lai ở phía trước.

Thực tế lối sống của phần đông người trẻ hôm nay là thế. Có mấy ai chịu
đầu tư cho chuyện học hành thi cử? Có mấy bạn trẻ ưu tư chọn cho mình một ngành
nghề hợp với sở thích, khả năng và có thể kiếm được nhiều tiền để nuôi sống bản
thân và gia đình? Thật vậy, nhiều người trẻ hôm nay lãng phí quá nhiều thứ.
Lãng phí thời gian. Lãng phí sức khỏe. Lãng phí tiền bạc. Lãng phí tuổi trẻ
v.v… Như lục bình trôi lênh đênh trên dòng nước, nhiều người trẻ sống không có
mục đích và định hướng cho đời mình. Họ không tìm ra được ý nghĩa và giá trị
của cuộc sống này là gì. Giá trị của con người là gì? Giá trị của tiền bạc là
gì? Giá trị của tình yêu là gì? Tôi sẽ là ai và làm gì trong tương lai? Thực tế
cho thấy họ thích sống tự do và hưởng thụ tối đa. Vậy lối sống ấy có làm cho
cuộc đời họ hạnh phúc, bình an không?

Phải chăng khởi đi từ những thực tế trên đây mà nhạc sĩ Ý Vũ đã sáng tác
những lời ca như sau: “Ta đi, ta đi tìm lại màu xanh. Cho hôm nay tuổi trẻ tràn
dâng sức sống” (Bài hát Xanh Lên Màu Mạ Non). Còn một tác giả nào đó đã mời gọi
người trẻ thế này: “Hãy định hướng cho tương lai của bạn ngay từ khi còn học
phổ thông theo đúng năng lực và sở trường để bạn không phải hối hận. Tiếp đó,
bạn nên hoạch định cụ thể cuộc đời của mình. Mất bao nhiêu năm để bạn tìm kiếm
điều mình muốn? Hãy biết nắm giữ tương lai của mình, đừng bao giờ sợ những gì
trong tương lai bởi vì chúng ta không hề biết tương lai sẽ là gì!” Còn đối với
những người trẻ Công giáo chúng ta phải sống thế nào?

Vậy, giới trẻ Công giáo phải làm gì để sống có ý nghĩa?

Bạn thân mến, mỗi người trẻ Công giáo chúng ta ít nhiều cũng bị lây nhiễm
những khuynh hướng xấu của xã hội. Sống không định hướng. Sống lệch lạc và
buông thả. Sống tự do muốn làm gì thì làm. Lối sống ấy nguy hại đến đời sống
đức tin và cuộc đời mỗi người trẻ chúng ta. Bởi thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ
chúng ta rằng: “Anh em đừng có rập khuôn theo đời này, nhưng hãy cải biến con
người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên
Chúa: cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm
12,2). Vậy, một cuộc đời có ý nghĩa đối với mỗi chúng ta là một cuộc đời có
Chúa. Không để lạc mất Chúa trong đời sống thường ngày.

Cuối cùng, cái gọi là “hoàn hảo” mà thánh Phaolô nói tới là gì? Xin mượn lời một bài hát để chúng ta suy nghĩ và tự trả lời cho mình: “Tuổi trẻ hôm nay, không biết hận thù. Tuổi trẻ vô tư, tâm hồn cao cả… Tuổi trẻ hôm nay, không sống riêng mình. Tuổi trẻ thênh thang, tâm hồn trời biển. Tuổi trẻ hôm nay, sống cho lý tưởng. Hiến dâng chính mình, dệt thắm màu xanh” (Bài hát Xanh Lên Màu Mạ Non, Ý Vũ).

Maria Thanh Mai gởi

Gia đình… Ôi! hai tiếng yêu thương.

Gia đình… Ôi! hai tiếng yêu thương.

Xóm tôi là một xóm lao động nghèo. Trước kia, nơi đây là những cánh đồng ruộng, nhà cửa thưa thớt. Thế nhưng, kể từ khi có chính sách mở cửa, nhiều nhà đầu tư đến biến đồng ruộng thành  khu chế xuất, khu công nghiệp, thế là cư dân địa phương đua
nhau cất nhà trọ.
Những người thuê nhà trọ đa số là công nhân, cũng có một số ít, họ làm nghề tự do như: thợ hồ, bán vé số, bán băng dĩa (dĩ nhiên là băng dĩa lậu).
Tập tục của người Việt Nam là “buôn có bạn, bán có phường”, vì thế, những người làm
nghề tự do, họ quy tụ lại với nhau mướn những căn phòng trọ gần nhà tôi. Hơi
dài dòng, nhưng đó là mấu chốt vấn đề mà tôi sẽ kể sau đây.
Vâng, sống gần họ, có nhiều điều hết sức bực bội, nhất là những khi họ đi bán về, nào là tiếng hò hét bởi nhóm người ăn nhậu, tiếng chồng chửi vợ, tiếng vợ cãi chồng, tiếng karaoke ầm ĩ. Đó là chưa nói tới lâu lâu lại xảy ra một vụ “đánh ghen”. Nói chung là rất mất trật tự.
Thế nhưng, hôm giữa tuần vừa qua, khoảng từ ngày 17 đến ngày 19/12/2012, tự nhiên, xóm tôi yên ắng hẳn. Theo nguồn tin của thông tấn xã “bà tám” cho biết, họ, những người ở trọ, lần lượt rủ nhau về quê.
Về quê làm gì? Đã tết đâu mà về quê? Xin thưa, cũng với nguồn tin trên, thì ra, vì họ sợ, sợ ngày 21/12/2012 sắp tới sẽ là “ngày tận thế”. Họ nói với nhau rằng, về quê, nếu có chết thì cùng chết chung với gia đình.
Cùng-chết-chung-với-gia-đình!…  Gia đình…  Ôi! hai tiếng yêu thương. Nhớ về biến cố 30/04/1975, nhiều người đã từ bỏ cơ hội di tản cũng chỉ vì: Ôi! yêu thương hai tiếng “Gia đình”.
“Gia đình”. Vâng, Thiên  Chúa, trong chương trình sáng tạo, Người đã tạo dựng một gia đình hoàn thiện, gia đình Ađam-Eva. Người đã đặt gia đình Ađam-Eva vào một nơi gọi là vườn Eđen. Tại đây, Thiên Chúa đã cho họ làm bá chủ “cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”.
Nhưng than ôi! Gia đình Ađam-Eva đã phạm tội bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Sự phạm tội của Ađam-Eva không chỉ dẫn đến sự chìa lìa với Thiên Chúa mà còn xảy ra biết bao sự khủng hoảng trong gia đình.
Sự khủng hoảng đầu tiên, đó là, Ađam và Eva mất đi sự gắn bó “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Mất đi sự gắn bó, gia đình Ađam-Eva mất đi “hai tiếng yêu thương”. Mất đi hai tiếng yêu thương, “gia đình Ađam-Eva” trở thành “chiến trường Cain-Abel”…  để rồi kết thúc là một án mạng.
Kể từ đó, khi nói tới hai tiếng “gia đình”, người ta thường tự hỏi. “… là đường đưa ta tới thiên đàng hay đưa tới địa ngục?” (Honoré de Balzac)
***
Không! Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh chép, Người “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới dất” (Ep 3,14). Cho nên, gia đình vẫn là nơi được Thiên Chúa chúc phúc, như xưa kia Người đã chúc phúc cho Ađam, rằng “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. Gia đình vẫn là nơi được Thiên Chúa ban phúc lành, như xưa kia Người đã“ban phúc lành cho ông Noe và các con ông” (St 9,1).
Chính vì thế, “gia đình… hai tiếng yêu thương” vẫn nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.  Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã sai Con của
Người đến thế gian, không như một “Ngộ Không huyền thoại” với bảy mươi hai phép
thần thông biến hóa, nhưng bằng hình hài một hài nhi được sinh ra tại Belem bởi
một Trinh Nữ tên là Maria và người cha là Giuse.
Vâng, sự vâng lời của Đức Maria “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” và sự vâng phục của Thánh Giuse, sẵn sàng “làm như sứ thần Chúa dạy” đã gây chấn động toàn cõi Giêrusalem, chấn động bởi, Nadarét, nơi được cho là “làm sao có cái gì hay được” lại có một “Gia Đình Thánh – Thánh Giuse, Thánh Maria và Thánh Tử Giêsu”.
Gia-Đình-Thánh – không “thánh” bởi những “vầng hào quang” mà các vị họa sĩ, khi vẽ, thường tô điểm trên khuôn mặt các Ngài. Gia-Đình-Thánh – không “thánh” do những lời đồn đãi bởi những “ngụy thư” mang tính chất “huyền thoại”.
Gia-Đình-Thánh – “thánh” bởi chính đời sống đức tin, đức cậy và đức mến.
Vâng, hãy trở về làng Nadarét cổ kính năm xưa mà xem, có gia đình nào “sống đức tin” như gia đình Giuse-Maria-Giêsu!
Thật vậy, dẫu biết rằng Giêsu, “Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”,  nhưng không vì thế mà Maria-Giuse lại có thái độ “gần chùa gọi bụt bằng
anh”.  Trái lại, các Ngài vẫn trung thành với lề luật do “Đấng Tối Cao”, qua Apraham hoặc Mosê, đã công bố.
Luật Đấng-Tối-Cao dạy rằng “mọi đàn ông con trai… sẽ phải chịu cắt bì”, Hài Nhi Giêsu-Con Đấng Tối Cao, khi đủ tám ngày, đã “làm lễ cắt bì” (Lc 2, 21).
Luật Đấng-Tối-Cao dạy “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, ông bà Giuse-Maria đã giữ đúng luật “đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng
cho Chúa”.
Thế nhưng, chính hôm cả gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” người ta mới có thể thấy đức tin, đức cậy và đức mến nơi Gia-Đình-Thánh vững mạnh như thế nào.
Chuyện kể lại rằng, hôm đó, sau khi “xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêsusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết”. (Lc 2, 43).
Ôi! Phải chăng cha mẹ Đức Giêsu vô tâm, thiếu trách nhiệm với con cái?
Thưa không. Chuyện là thế  này, Đền thờ Giêrusalem có bốn cổng, hai cổng dành cho nữ và hai cổng dành cho nam. Khi vào, nam và nữ phải đi đúng cổng quy định. Riêng trẻ em, có thể đi bên nào tùy thích. Cho nên, việc ông bà Giuse-Maria “cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành” là điều không có gì đáng trách.
Mà có gì phải đáng trách chứ! Hãy nhìn xem, sau khi tìm kiếm con giữa đám bà con và người thân thuộc… “Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm” (Lc 2, 45). Hãy nhìn xem, cha mẹ Đức Giêsu đã phải “cực lòng tìm con” như thế nào!
Nếu…  nếu cần trách… Vâng, thưa quý vị,  hãy trách những “ai đó” đã dùng lời con trẻ Giêsu nói với Mẹ Maria rằng, “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”,  để lấy đó như là lý lẽ biện minh cho việc “không cần coi ‘bà Mari và ông Giôsép’ như là mẫu mực của đức tin, đức cậy và đức mến”.
Đúng… đúng là “bà Mari và ông Giôsép”  đã “không hiểu lời Người vừa nói”, nhưng, liệu điều đó có tác động xấu đến đức tin của hai ông bà?  Thưa không, hãy nhìn xem,
Đức Maria và Thánh Giuse tuy không hiểu, nhưng các Ngài vẫn đặt niềm tin vào
lời “Con Đấng Tối Cao”… Bởi tin, nên các Ngài đã  “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, …51).
Khép lại câu chuyện gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua”, thánh sử Luca ghi lại rằng, Đức Giêsu đã “cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài”.  Người “càng ngày càng  thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”…
Vâng, một gia đình như thế, quả là một  gia-đình-thánh, một gia đình gói ghém trong “hai tiếng yêu thương”.
****
Là một Kitô hữu, một người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta  đã nhìn, đã lấy gia
đình Giuse-Maria-Giêsu như là  mẫu mực cho cuộc sống gia đình của chúng ta?
Hay chúng ta cho rằng, mô hình “gia đình Giuse-Maria-Giêsu”  thật khó thích hợp với chúng ta, chỉ là những phàm nhân, đầy yếu đuối và tội lỗi, làm sao có thể so sánh với một gia đình có hai “vị thánh Maria-Giuse” và một vị là “Con Đấng Tối Cao”?
Ôi! Nghĩ như thế có quá thiển cận không? Có đấy.  Chữ “thánh” được đứng trước tên Maria và Giuse là do chúng ta “nhét” vào, sau khi các Ngài không còn ở trần thế. Đối với các tông đồ, Đức Maria và thánh Giuse chỉ là cha mẹ Đức Giêsu, là ông bà Giuse-Maria.
Bàn tới, bàn lui cho vui vậy thôi. Chứ các Ngài quả là “thánh” nhưng cách trở nên “thánh” của các Ngài, chúng ta không thể nói là không noi theo được. Vâng, rất giản dị, chỉ hai chữ “vâng lời” đối với Đức Maria và “vâng phục” đối với Thánh Giuse.
Đừng nghĩ rằng, Thiên Chúa cũng sẽ bắt chúng ta “vâng lời và vâng phục” Người giống như cách Đức Maria và thánh Giuse xưa kia đã “vâng lời và vâng phục” .
Hôm nay, điều chúng ta cần vâng lời và vâng phục, chính là “tuân giữ các điều răn của (Thiên Chúa) và làm những gì đẹp ý Người” (1Ga 3, …22).
Thế nào là làm đẹp ý Người? Vâng, tác giả sách Huấn Ca cho biết rằng, đẹp-lòng-Đức-Chúa, đó là, đừng bao giờ làm cho gia đình mất đi bầu không khí yêu thương “anh em hòa thuận, láng giềng thân thiết, vợ chồng ý hợp tâm đầu” (Hc 25,1).
Chúng ta ước ao có được cả ba điều đó trong gia đình chúng ta? Nếu chúng ta thật sự ước ao, chắc chắn khi nói tới “Gia đình”, chúng ta sẽ không ngần ngại mà thốt lên rằng, “Gia đình… Ôi! Hai tiếng yêu thương”.
Petrus.tran nguồn:
Maria Thanh Mai gởi

Giấc Mơ Nước Mỹ

Giấc Mơ Nước Mỹ

(12/10/2012)

nguồn: Vietbao.com

Bài dự viết về nước Mỹ gửi từ Sài Gòn bằng email, được đăng nguyên văn, không thêm bớt. Bài viết ngắn, tác giả 30 tuổi, cho biết đây là những câu hỏi mong được các chú bác anh em ở Mỹ trả lời.

Tôi muốn được đặt chân tới Mỹ!

Đó là điều mơ ước cháy bỏng của tôi từ khi biết nhận thức sau khi rời Trung Học
để bước vào đời. Vì sao ư? Để tôi tìm hiểu về nền văn hóa, chính trị, giáo dục,
kinh tế của nước này. Để tôi tự trả lời cho nhiều câu hỏi cứ thôi thúc trong
đầu mình bao nhiêu năm qua từ khi tôi biết nhận thức về đời sống.

Tôi muốn đến Mỹ, để tôi hỏi vì sao đồng bào tôi có mặt ở đây, và sự ra đi này kéo dài hơn một thế hệ rồi, mà đến bây giờ hằng ngày đi ngang Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn vẫn còn lũ lượt người chờ đợi một tấm vé đặt chân vào Mỹ, dù đất nước Việt tôi đã im tiếng súng đã lâu, từ khi tôi chưa chào đời.

Tôi muốn đến Mỹ xem coi có phải đó là Thiên Đường không mà đồng bào tôi, bạn bè
tôi sau khi định cư vài năm có trở về thăm quê họ như một con người khác, lịch
sự nhã nhặn, có kiến thức giỏi giang hơn rất nhiều. Tôi tự hỏi điều gì đã làm
nên đôi hia bảy dăm đó?

Tôi muốn đi để hỏi các cô gái lấy chồng “Việt Kiều Mỹ” niềm vui rạng ngời hơn các cô gái phải bán thân đi Đài Loan, Hàn Quốc, Campuchia?

Tôi muốn đi để thấy, để biết Tổng Thống Mỹ có phải ông Trời không mà sao cả thế
giới phải nghe ngóng, chờ đợi mỗi mùa bầu cử Tổng Thống Mỹ?

Và tôi muốn đi để hỏi các Chú Bác những chiến hữu của Ba tôi ngày xưa được chìa
khóa HO để đến thiên đường nước Mỹ, có còn nhớ đến bạn bè chiến hữu, quê hương
hay không. Mà sao ai cũng chen chân bỏ lại “chùm khế ngọt” mà hân hoan làm kẻ
lưu vong?

Tôi muốn gặp những người cùng lứa tuổi tôi là Người Mỹ Gốc Việt để thử xem cách
xa hai nửa bán cầu, tuổi trẻ có gì giống và khác nhau.

Cuối cùng tôi muốn đi để xem vì sao, hấp lực gì mà hàng triệu người miền Nam đổ
xô ra biển không định hướng những năm sau 1975 đến những năm 1990 và tiếp tục
đến bây giờ bằng nhiều cách.

Nhưng đường đến nước Mỹ với mình chắc xa diệu vợi. Thôi thì các Chú, Bác anh em
đồng bào ở Mỹ có ai còn tâm tình với những người bên này vui lòng trả lời dùm
tôi, một thanh niên 30 tuổi những câu hỏi vừa nêu, để tôi khỏi khắc khoải về
một nước Mỹ vô cùng lạ lẫm, và thần kỳ. Nếu vậy thì âu cũng là một niềm vui lớn
rồi, chứ chưa dám nghĩ ngày nào đó mình đạt chân đến Mỹ quốc!

Mong lắm thay!

Nguyên Giang

 

Những Câu Hỏi Của Thượng Đế

Những Câu Hỏi Của Thượng Đế

Lucie Thảo chuyển

Thượng Đế sẽ không hỏi

về số quần áo bạn có trong tủ,

mà sẽ hỏi bạn đã giúp

bao nhiêu người có quần áo?

Thượng Đế sẽ không hỏi

bạn có bao nhiêu tài sản vật chất,

mà sẽ hỏi chúng có được tạo ra

từ lao động của bạn không?

Thượng Đế sẽ không hỏi

mức lương cao nhất của bạn bao nhiêu,

mà sẽ hỏi bạn có bán rẻ nhân cách của mình

để đạt được nó không ?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn làm thêm bao nhiêu giờ,

mà sẽ hỏi thời gian làm thêm đó bạn

có dành cho gia đình của bạn hay không?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn đã nhận được bao nhiêu lời khuyến khích,

mà sẽ hỏi bạn đã khích lệ người khác như thế nào?

Thượng Đế sẽ không hỏi nghề nghiệp của bạn là gì,

mà sẽ hỏi bạn thực hiện công việc của mình với khả năng tốt nhất chưa?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn làm gì để giúp cho bản thân,

mà sẽ hỏi bạn đã làm gì để giúp đỡ mọi người?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn đã làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình,

mà sẽ hỏi bạn đã làm gì để bảo vệ quyền lợi của người khác?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn sống cạnh láng giềng nào,

mà sẽ hỏi bạn đối xử với những người hàng xóm của bạn như thế nào ?

Thượng Đế sẽ không hỏi về màu da của bạn,

mà sẽ hỏi về phẩm chất của bạn.

Và Thượng Đế sẽ không hỏi bạn có bao nhiêu bạn hữu,

mà sẽ hỏi có bao nhiêu người mà đối với họ bạn đích thực là một người bạn.

Bạn thân mến,

Tất cả chúng ta đều có chung một Cha trên Trời, và mọi người đều là anh chị em

chúng ta hãy đối xử với nhau như đối xử với những bức tranh,

nghĩa là chúng ta hãy đặt họ ở những góc độ có nhiều ánh sáng nhất.

nguồn: http://chiaseloichua.com/