EVA, CAIN, SA-UN THỜI HIỆN ĐẠI!

EVA, CAIN, SA-UN THỜI HIỆN ĐẠI!
Mở lại những trang đầu của sách Sáng Thế, người ta đọc và thấy những trang sách ghi lại tình cảm hết sức tốt đẹp giữa Thiên Chúa và con người.  Cứ chiều chiều, Thiên Chúa đến và đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng.  Trong cuộc đi dạo ấy, ắt hẳn Thiên Chúa như người tình đến thỏ
thẻ, thủ thỉ với hai ông bà và hai ông bà cũng thỏ thẻ tâm sự với Chúa.
“Mối tình đầu” trong sách Sáng Thế Ký thật nên thơ.
“Mối tình đầu” đang triển nở một cách tốt đẹp bỗng dưng con rắn dữ xuất hiện.  Nó đã gieo
những lời ngon ngọt rằng khi ăn “trái ấy” vào thì ông bà sẽ bằng Thiên
Chúa.  Nhưng Khi ăn vào rồi thì sự thật lại khác.  Sự thật chính là
sự tan vỡ của mối tình đầu lãng mạn mà Thiên Chúa dành cho con người.  Eva
muốn bằng Thiên Chúa, muốn đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình nên bóp nghẹt
sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa bằng hành động hái trái cấm.
Tưởng chừng kinh nghiệm của hai ông bà nguyên tổ sẽ là kinh nghiệm quý báu cho con cháu.  Nhưng
không, trường hợp hai đứa con đầu lòng của ông bà đã đi theo vết xe cũ của cha
mẹ.  Không đơn giản như hai ông bà mà Cain đã cam tâm giết em mình là
Aben.  Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn yêu mến, hoà
thuận với nhau.  Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em
cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa.  Thiên Chúa nhận lễ vật của
Aben mà từ khước lễ vật của Cain.  Thế là từ đó, trong Cain phát sinh lòng
ghen tỵ.  Lòng ghen tị lớn dần lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain
dụ em ra đồng và xông vào đánh chết em mình.  Chính lòng ghen tị trong tâm
hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.
Một trường hợp tương tự khác là vua Sa-un và Đavít.
Thời ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Philitinh, một người khổng lồ có sức mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en.  Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en, không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.  May thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời.  Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi
dùng chính gươm của y mà chặt đầu y.  Quân Ít-ra-en thừa thắng xông lên
như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.  Sau đó, phụ nữ từ
các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un chiến thắng và ca
tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: “Vua Sa-un giết được một ngàn, còn
Đa-vít giết được hàng vạn” (I Sm 18, 6-8).  Lời ca tụng đó làm cho
lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un.  Nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt
Đa-vít và cuối cùng đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu toan tiêu
diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm này.
Eva, Cain, Sa-un vẫn vịn vào cái lý cái lẽ ác tâm sẵn có trong lòng mình để hại người công
chính.   Eva, Cain, Sa-un chỉ đăm đăm vào cái tôi của mình, vào lợi danh của mình mà quên đi tình Chúa – tình người.
Những bài học về Eva, Cain, Sa-un lẽ ra là bài học quý báu cho con người, nhưng ngày nay vẫn nổi lên quá nhiều khuôn mặt của Eva, Cain và Sa-un.  Điều đáng tiếc là dẫu cho có nhiều tiếng kêu ai oán về hành động giết người, nhưng ngày nay vẫn có quá nhiều khuôn mặt Eva, Cain và Sa-un thời hiện đại.  Eva, Cain và Sa-un vẫn cứ giả điếc làm ngơ để mặc cho sự dữ tiếp diễn để thoả mãn dục vọng
đen tối của mình.
Giả như Thiên Chúa xa lạ để Eva hành xử như thế thì cũng chẳng có gì để bàn nhưng Thiên Chúa
đã yêu thương hai ông bà hết mực.
Giả như Cain và Eben là người dưng nước lã để Cain giết Aben thì nhẹ tôi nhưng đàng này lại là
anh em cùng cha cùng mẹ.  Cain và Aben đã hơn một lần ăn chung, uống
chung, ngủ chung và thậm chí bú chung dòng sữa mẹ nhưng Cain đã quên đi mối
tình ruột thịt ấy.
Sa-un và Đavit cũng vậy.  Cả hai như là người một nhà vì sau khi thắng trận Sa-un đã gả
con gái lớn của vua cho Đavit.  Như một nhà, ấy vậy mà Sa-un đã ra tay sát hại Đavit.
Đứng trước sự ác, sự dữ lan tràn mặt đất như thế này chắc có lẽ không còn con đường nào khác
là con đường lặng thinh và cầu nguyện.  Tiếng kêu ai oán về tình Chúa – tình người, về lòng nhân hình như cứ như vô vọng trước những con người như Eva, Cain và Sa-un thời hiện đại.
Có thể ngày hôm nay người ta thiếu đời sống cầu nguyện, thiếu đời sống kết hợp mật thiết với
Chúa nên sự ác và sự dữ hoành hành một cách khốc liệt như thế này!  Cố lên
và cố lên!  Thêm một lời cầu nguyện cho Eva, cho Cain và cho Sa-un thời
hiện đại.  Biết đâu Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi lòng của những Eva, Cain
và Sa-un thời hiện đại.
Thanh Tâm

TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT?

TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT?

Trần Tiến sưu tầm

1/26/2013

Nguồn: Vietcatholic.net

Đây là một mẩu đối-thoại ngắn với Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, nhà Thần-học người
Brazil, Leonardo Boff kể lại:

Tại một cuộc hội-thảo bàn tròn về “Tôn-giáo và tự-do” có Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma và tôi cùng tham-dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài vừa tinh-nghịch vừa tò-mò “Thưa ngài, tôn-giáo nào tốt nhất? ”

Tôi nghĩ ngài sẽ nói: “Phật-giáo Tây-tạng” hoặc “Các tôn-giáo phương Đông, lâu
đời hơn Ki-tô giáo nhiều”.

Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma trầm-ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi… Điều này
làm tôi ngạc-nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.

Ngài trả lời:

“Tôn-giáo tốt nhất là tôn-giáo đưa anh đến gần Đấng tối-cao nhất. Là
tôn-giáo biến anh thành con người tốt hơn”.

Để giấu sự bối-rối của tôi trước 1 câu trả-lời đầy khôn-ngoan như thế, tôi hỏi:
Cái gì làm tôi tốt hơn? ”

Ngài trả lời:

“Tất cả những gì làm anh

Biết thương-cảm hơn

Biết theo lẽ-phải hơn

Biết từ-bỏ hơn

Biết dịu-dàng hơn

Biết nhân-hậu hơn

Có trách-nhiệm hơn

Có đạo-đức hơn”.

“Tôn-giáo nào biến anh thành như-vậy là tôn-giáo tốt nhất”.

Tôi thinh-lặng giây lát, lòng đầy thán-phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu
trả-lời đầy khôn-ngoan và khó phản-bác, Ngài tiếp:

“Anh bạn tôi ơi!

Tôi không quan-tâm đến tôn-giáo của anh hoặc anh có ngoan-đạo hay không. Điều
thật-sự quan-trọng đối với tôi là cách cư-xử của anh đối-với người đồng-đẳng,
gia-đình, công-việc, cộng-đồng và đối-với thế-giới.

Hãy nhớ rằng vũ-trụ dội lại hành-động và tư-tưởng của chúng ta. Quy-luật của
hành-động (Action) và phản-ứng (Reaction) không chỉ dành riêng cho vật-lý. Nó
cũng được áp-dụng cho tương-quan con người.

Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành.

Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.

Những gì ông bà nói với chúng ta là sự-thật thuần-túy. Chúng ta luôn nhận được
những gì chúng ta làm cho người khác. Hạnh-phúc không phải là vấn đề số-mệnh.
Đó là vấn-đề lựa-chọn.”

Cuối cùng ngài nói:

“Hãy suy-tư cẩn-thận vì Tư-tưởng sẽ biến-thành Lời-nói,

Hãy ăn-nói cẩn-thận vì Lời-nói sẽ biến-thành Hành-động,

Hãy hành-xử cẩn-thận vì Hành-động sẽ biến-thành Thói-quen,

Hãy chú-trọng Thói-quen vì chúng hình-thành Nhân-cách,

Hãy chú-trọng Nhân-cách vì nó hình-thành Số-mệnh,

Và Số-mệnh của anh sẽ là Cuộc-đời của anh.

… và …

“Không có Tôn-Giáo nào cao-trọng hơn Sự-Thật.”

Bên Thắng/Bên Thua & Những Bức Tường Lòng

Bên Thắng/Bên Thua & Những Bức Tường Lòng

01/24/2013                                       nguồn: RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là … chó dại!

Khi còn bị phân chia bởi bức tường Bá Linh, dân Ðức hay kể câu chuyện hài này:

Có một con chó chui tường từ Ðông sang Tây. Thấy khách lạ nên lũ chó bên Tây Ðức xúm xít và tíu tít hỏi thăm:

– Bên ấy có hội bảo vệ súc vật không?

– Có chứ.

– Có bác sĩ thú y không?

– Có luôn.

– Có thẩm mỹ viện và nghĩa trang dành riêng cho chó không?

– Có tuốt.

– Thế thì việc gì đằng ấy phải vất vả chui tường sang đây?

– Tại vì ở bển bị cấm được cho …sủa!

Tháng 9 năm 1989, bức tường Bá Linh bị đập đổ. Ðông Ðức được giải phóng. Từ đây, người dân được quyền ăn nói tự do, và chó có quyền… được sủa.

Sự thống nhất nước Ðức về thể chế, cũng như về nhân tâm, tuy không phải là một tiến trình toàn hảo nhưng có thể được coi như là ổn thỏa – ngoại trừ đối với một số người. Họ là những di dân đến từ Việt Nam, theo như tường thuật của Alisa Roth:

“Người Việt vẫn đang là nhóm Á Châu lớn nhất tại thành phố Bá Linh. Những nguời được mệnh danh là Người Việt miền Tây là những người miền nam Việt Nam, hầu hết là thuyền nhân mà trong những năm tiếp theo chiến thắng 1975 của cộng sản, họ đã đổ đến những vùng bây giờ là Tây Ðức.”

“Còn nguời Việt miền Ðông là những nguời đến Ðông Ðức vào thập niên 1960 và 1970 cùng với các công nhân xuất khẩu từ những quốc gia cộng sản đang phát triển tới làm việc trong các nhà máy…”

“… Cái cộng đồng nhỏ bé này hãy còn duy trì sự chia cắt với hai thế giới, hai phương trời cách biệt. Những ý thức hệ – từng xé nát nước Ðức và nước Việt Nam ra làm đôi – hiện vẫn còn luân lưu mạnh mẽ tại nơi đây…”

Nó “mạnh mẽ” tới độ khiến một người dân bản xứ phải thốt lên rằng:”Bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây còn cao hơn cả bức tường của người dân Ðức đối với người dân Ðức.” (“Berlin’s Divide
Lingers For Vietnamese Expatriates Capital’s East – West Gap Reflects Cold War
Past,” San Jose Mercury News, 12 Jul. 2002:A1/ Việt Mercury 12 Jul. 2002:
1 + 69. Trans. Nguyễn Bá Trạc”).

Nói như thế, nghe đã phũ phàng nhưng  (vẫn) chưa …hết ý! Trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng – ấn bản 2001, Paris, nơi trang 70 – tác giả còn trích dẫn nhận xét của một người ngoại quốc khác về dân Việt, như thế này đây: “Ils ne s’aiment pas” (Chúng nó không ưa nhau đâu).

Cha nội Parisien nào đó nói bậy bạ vậy mà …trúng phóc. Những phương tiện truyền thông và giao thông của thời hiện đại quả có làm cho trái đất nhỏ lại, và khiến cho loài người gần gũi với nhau hơn. Nhưng riêng với với dân Việt thì không. Nhất định là không.

Người ngoài có vẻ “hơi” ngạc nhiên về thái độ “rất kém thân thiện” của dân Việt đối với nhau, trên bước đường lưu lạc. Họ sẽ ngạc nhiên chết (mẹ) luôn nếu biết rằng những “bức tường ô nhục” tương tự hiển hiện khắp chốn, kể cả ở Việt Nam,
chứ chả riêng chi ở Berlin.

Dù đất nước đã “thống nhất” hơn một phần tư thế kỷ, dân chúng giữa hai miền Nam/Bắc Việt Nam (rõ ràng)  vẫn chưa gần nhau mấy. Đôi lúc, họ ăn ở cư xử với nhau cứ y như những kẻ phải sống trong một cuộc hôn nhân … cưỡng bách.

Theo “truyền thống,” người Việt hay chia phe và họ thường nhìn nhau qua những “lỗ châu mai” từ những “pháo đài” của … phe mình. Họ hay gọi nhau là “tụi
này” hay “tụi nọ” (tụi Công Giáo, tụi Phật Giáo, tụi Nam Kỳ, tụi Bắc Kỳ, tụi Trung Kỳ …). Gần đây, có thêm một “tụi mới” nữa – tụi thuộc … phe thắng cuộc!

Và đó mới chỉ là những chuyện nhỏ, ở miền xuôi. Ở miền ngược, miền núi, hay còn gọi là miền cao, miền sơn cước (hoặc cao nguyên) thì còn nhiều chuyện … kỳ cục dữ nữa. Nơi đây, một phần dân tộc Việt vẫn chưa được nhìn nhận là người thường hay người Thượng. Họ bị coi là … “tụi mọi” và bị chính đồng bào mình (toa rập với cường quyền) cướp đoạt hết đất đai canh tác.

Nghèo đói quá hoá “sảng” chăng? Khổ cực quá, cùng quẫn quá, bị chèn ép quá nên đâm ra gấu ó, cấu xé lẫn nhau chăng? Không hẳn đã thế đâu.

Tại nước Ðức, ngay giữa một thành phố tự do và phú túc, “bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây (vẫn) còn cao hơn bức tường của người dân Ðức  đối với người dân Ðức” mà. Hơn nữa, như đã thưa, những bức tường lòng (ô nhục) tương tự hiển hiện ở khắp nơi chứ đâu có riêng chi ở Berlin.

Nơi đâu có người Việt quần tụ là tức khắc nẩy sinh những chuyện  đố kỵ, chia cách, phân hoá, và đánh phá lẫn nhau túi bụi. Mỗi cộng đồng vẫn thường cần đến hơn một ban đại diện (dù tất cả những ban đại diện “dường như” không đại diện được cho bất cứ ai và cũng không mấy ai – thực sự- cần người đại diện)

Tương tự, mỗi hội đoàn đều có tới hai hay ba ông (bà) chủ tịch, dù cả hội đoàn đều không mấy ai biết rõ là họ hội họp lại với nhau để làm gì. Mọi tổ chức (không chóng thì chầy) nếu không vỡ tan tành thì cũng bể thành vài mảnh!

Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là … chó dại!

“Sự kiện vô vàn phi lý, cực độ vô nghĩa, và bất lợi không lường này, đang diễn tiến kết thành hiện tượng phân hoá hỗn loạn, phân liệt khắc nghiệt, chia rẽ trầm trọng giữa những cá nhân, nhóm cá nhân, cộng đồng người Việt ” (Phan Nhật Nam, “Lời Khẩn Thiết Nhằm Chấm Dứt Hiện Tượng Phân Hoá”).Cũng theo tác giả bài báo vừa dẫn thì Cục Tình Báo Hải Ngoại, trực thuộc Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng Cộng Sản Hà Nội, là nguyên nhân gây ra những hiện tượng phân hoá tiêu cực kể trên.

Những nhân viên của Cục Tình Báo Hải Ngoại e không tài ba đến thế. Chợ chiều rồi. Chúng nó (nếu có) cũng chỉ lo đánh quả mà thôi và chuẩn bị để chạy thôi.

Thủ phạm không đến từ bên ngoài. Chúng phục sẵn trong “thâm tâm” của tất cả chúng ta.

Khi còn nhỏ, tôi nhớ là đã đọc ở đâu đó – qua lời kể của Schopenhauer – một câu chuyện ngụ ngôn mà nội dung (đaị khái) như sau:

Có một mùa Ðông lạnh đến độ muốn tồn tại muôn loài đều phải xích lại thật gần nhau để truyền cho nhau hơi ấm. Chỉ riêng có loài nhím vì lông quá nhiều, quá nhọn và không cách nào thu lại được nên đành … chờ chết!

Dân Việt đang trải qua một mùa Ðông khắc nghiệt. Nếu chúng ta không vượt qua được những bức tường lòng hiện hữu, không xếp lại được những lông nhọn tua tủa tự mỗi người, và mọi phe nhóm đều nhất định “tử thủ” trong pháo đài của riêng mình thì (e) khó mà qua khỏi đuợc cơn quốc nạn này. Vấn đề không phải là mùa Ðông sẽ kéo dài vô tận mà vì đất nước (cũng như lòng người) sẽ bầm dập, te tua, tan nát, và tanh bành – sau đó.

Trở về cát bụi 2

Ta Cứ Tưởng Trần Gian Là Cõi Thật

Thế Cho Nên Tất Bật Đến Bây Giờ !

Ta Cứ Ngỡ Xuống Trần Chơi Một Chốc

Nào Ngờ Đâu Ở Mãi Đến Hôm Nay !

 

Trở về cát bụi 2

 

Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ

Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi

Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ

Khi trở về cát bụi cũng trắng tay

Cuộc đời ta phù du như cát bụi

Sống hôm nay và đâu biết ngày mai

Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi

Rồi cũng về với cát bụi mà thôi

Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét

Đừng hận thù tranh chấp với một ai

Hãy vui sống với tháng ngày ta có

Giữ cho nhau những giây phút tươi vui

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc

Vì đời ta đã sống trọn kiếp người

Với tất cả tấm lòng thành thương mến

Đến mọi người xa lạ cũng như quen

Ta là cát ta sẽ về với bụi

Trả trần gian những cay đắng muộn phiền

Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy

Không còn buồn lo lắng chốn trần ai.

Nguyễn thi Lan gởi

 

25 Mùa Xuân… sống đời tận hiến với người bệnh phong

 
 
25 Mùa Xuân… sống đời tận hiến với người bệnh phong

Triều Dương
 
1/25/2013
 
Nguồn: Vietcatholic.net
 
Bỏ sau lưng cái tấp nập của Hà  Nội, tôi về thăm Bệnh viện Phong và Da liễu Bắc Ninh hay người ta vẫn quen  gọi là trại phong Quả Cảm vào một buổi chiều đông khi những cơn gió lạnh từ  phía Bắc vẫn dồn dập kéo nhau bay về. Không mặc chiếc áo của nữ tu mà thay vào  đó là chiếc áo blouse, cô Nguyễn Thị Xuân tiếp chúng tôi trong căn phòng  khách rộng chừng mười hai mét vuông bằng những câu chuyện nghe như truyện cổ  tích.

Xem hình ảnh

1. Nữ tu đến từ “hành tinh lạ”

Nằm cách trung tâm thành phố Bắc Ninh chừng 5km, Bệnh viện Phong và Da liễu  Bắc Ninh có diện tích khoảng 2ha tọa lạc trên mấy ngọn đồi thuộc xã Hòa Long  (Yên Phong, Bắc Ninh). Có cảm giác không gian ở đây như đặc sánh lại khi bước  chân vào khu nhà an dưỡng của các bệnh nhân. Vẻ u tịch càng tăng lên, vài dãy  nhà cấp bốn nằm lọt thỏm giữa những bóng cây xanh lá dù đang độ giữa đông .  Ngôi nhà thờ đổ nát trên đỉnh đồi giống như số phận của những bệnh nhân phong  nơi đây với chứng tích đau thương nhưng niềm tin vẫn luôn rực sáng.

Trại phong Quả Cảm (sau này được đổi tên thành Bệnh viện Phong và Da liễu Bắc  Ninh) được một linh mục ở tòa giám mục Bắc Ninh thành lập năm 1913, nhưng từ  năm 1954 đến nay nhà nước đã trưng thu và quản lý. Hiện nay, trại phong Quả  Cảm có hơn 100 thành viên, đa số họ là bệnh nhân đã khỏi bệnh nhưng vẫn còn  mang di chứng bệnh phong và con em của các bệnh nhân. Qua mấy chục năm trời  tồn tại, nơi đây là mái nhà chung cho những số phận không lành lặn.

Những người dân trong ngôi làng lạ này cho biết, kể từ năm 1954 khi nhà nước
quản lý thì gần như không có người lui đến đây thăm nom những người bệnh
ngoại trừ một vài y tá được cử đến. Trong thời gian chiến tranh, những người
có số phận không may ở nơi đây rơi vào cảnh cô độc. Cái bệnh cái tật không
đau đớn, không sợ hãi bằng nỗi cô độc. Họ như bị cách ly khỏi thế giới bên
ngoài, tự lao động để nuôi sống bản thân và chiến đấu với bệnh tật. Trại
phong Quả Cảm trở thành một nơi “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Dường như cả thế giới đã quên lãng những số phận bất hạnh đang âm thầm chịu đựng cả nỗi  đau thể xác và tinh thần.

Thế nhưng niềm vui đã trở lại khi năm 1988, tòa giám mục Bắc Ninh đã gửi cô
Nguyễn Thị Xuân một nữ tu thuộc tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất đến sống và phục vụ  các bệnh nhân. Ông Tâm – trưởng trại phong bồi hồi kể lại: “ngày đầu khi sơ  Xuân đến đây, mọi người trong này ngạc nhiên lắm, cứ tưởng cô là người đến từ  “hành tinh lạ” nào đó. Mấy chục năm không có ai quan tâm nay tự nhiên lại có  người bình thường đến ở cùng, sống ùng, ăn cùng, làm cùng ai mà không bất  ngờ, không vui sao được.

Kể từ đó đến nay thấm thoát đã hơn 20 năm trôi qua, mái tóc xanh ngày nào của  cô Xuân mà có người vẫn gọi là sơ Xuân đã điểm bạc. Nhưng với tình yêu
thương, bác ái, người nữ tu đến từ “hành tinh lạ” vẫn đang miệt mài, nỗ lực
để giúp cho những con người không được lành lặn về thể xác được lành lặn về
tinh thần.

2. Nữ tu khoác áo blouse

Sinh năm 1957 trong một gia đình Công giáo đạo đức thuộc giáo xứ Xuân Hòa ( xã Đại Xuân, huyện Quế Võ – Bắc Ninh) Nguyễn Thị Xuân đã thừa hướng một tài  sản Đức tin quý giá và tình yêu thương con người. Là chị cả của một gia đình  có 5 chị em, cha mẹ lại mất sớm nên Xuân phải nghỉ học đi làm chắt chiu từng  đồng để nuôi dạy các em. Ban ngày đi làm đồng cho hợp tác, tối về Xuân lại  tất bật ngồi đan lát kiếm thêm thu nhập.

Khi đương thời thiếu nữ có bao người theo đuổi nhưng Xuân không lấy chồng mà  quyết tâm theo con đường tận hiến. Đây là một bước ngoặt cực kỳ quan trọng và  chứa đầy mạo hiểm của cô Xuân bởi sự quản lý gắt gao về tôn giáo nên những ngày đó muốn đi tu cũng không phải là dễ. Trước những khó khăn thời cuộc, Đức  cố Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tùng đã thành lập Tu Hội Hiệp Nhất Bắc Ninh  trong âm thầm nhằm quy tụ những chị em muốn sống tận hiến ngay giữa đời  thường. Xuân đã tìm hiểu và xin ra nhập vào Tu Hội đồng thời vào làm cô nuôi  dạy trẻ của một trường mầm non trong xã với tinh thần “làm tông đồ ở ngay  giữa đời”.

Trong thời gian này, cô Xuân đọc được một cuốn sách viết về một linh mục người  Pháp đã tự nguyện lên Di Linh (Lâm Đồng) chăm sóc những người dân tộc bị bệnh phong. Gấp cuốn sách lại, ở Xuân lại mở ra bao nhiêu suy tư trăn trở: “Cha ấy là người nước ngoài mà còn có tấm lòng với người Việt, còn mình
đã làm được gì cho những người có chung dòng máu chưa?”.

Năm 1987, sau khi đi thăm người bệnh tại Trại phong Di Linh, Lâm Đồng, tận
mắt chứng kiến cuộc sống của những người bị căn bệnh quái ác hành hạ khổ sở, tàn phế, đến mức nhiều người thân trong gia đình còn phải lánh xa. Ấy vậy mà  có nhiều chị nhà tu tự nguyện đến đây chăm sóc cho họ còn hơn cả người thân  trong gia đình khiến cô Xuân không khỏi xúc động.

Trở về nhà mang theo bao nỗi băn khoăn, cô Xuân đã nhiều lần đắn đo suy nghĩ. Năm 1988, cô tự nguyện xin Bề trên đến phục vụ trong trại phong. Ban đầu khi vừa nghe đề nghị của cô, Bề trên phải hỏi đi hỏi lại một cách chắc chắn. Rời xa công việc nuôi dậy trẻ, cô Xuân đến với trại phong. Những ngày đầu đến đây cô không khỏi ngỡ ngàng trước cuộc sống của những mảnh đời kém may mắn. Vượt qua những mặc cảm, cô Xuân đã sống cùng, ăn cùng và làm cùng họ. Cô chia sẻ những đắng cay ngọt bùi, những vui buồn trong cuộc sống với mọi người trong cả làng phong nhất là những người có chung đức tin với cô.

Cô Xuân xúc động kể lại: “Những ngày đầu đến đây khó khăn lắm, có nhiều người coi mình như người từ hành tinh lạ lạc đến. Dần dần họ cũng quen với sự có mặt của mình, và tất cả đã hòa nhập thành một gia đình. Cũng chẳng biết tự
khi nào mình đã coi đây là ngôi nhà thứ hai.”

Ở trại phong này vừa phải chăm sóc cho những số phận không may vừa phải giữ trọn vẹn đời sống tu trì quả là việc không dễ, nhưng đối với cô Xuân chăm sóc những người trong ngôi làng đặc biệt này cũng chính là động lực giúp cô sống trọn đời tận hiến. Ở đây người ta ít khi thấy cô Xuân mặc áo của một nữ tu. Có lẽ, chỉ khi nào đi cầu nguyện, cô Xuân mới mặc nó. Điều đó không phải do cô đã quên mình là một nữ tu mà chính chiếc áo nữ tu đã hóa thân vào chiếc áo blue mà cô vẫn đang mặc thường ngày.

2. Nữ tu trở thành “kỹ sư” sản xuất tay chân giả

…Một năm sau ngày tự nguyện đến đây, cô Xuân được gửi đi học tại Trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn, Bình Định). Khi trở lại Bắc Ninh, công việc chủ yếu của cô là cấp phát thuốc cho các bệnh nhân. Nhận thấy đây là một công việc tốt nhưng chưa trực tiếp giúp đỡ được nhiều cho các bệnh nhân nên cô Xuân đã xin được trở lại vị trí hộ lý trước đây.

Lúc ấy, chuyện đi lại, sinh hoạt bình thường đối với bệnh nhân phong trở
thành một ước mơ xa xỉ. Con vi khuẩn Hansen tàn ác ăn mòn từ ngón tay, ngón chân cho đến bàn tay, bàn chân, ăn sang cả khủy tay, cẳng chân… Khổ nhất là những người bị vi khuẩn ăn đến đầu gối. Có người bị vi khuẩn ăn mất một chân, có người mất cả hai.

Không chịu khuất phục số phận, “cái khó ắt ló cái khôn” những bệnh nhân cụt
chân mày mò và nghĩ ra cách gò miếng tôn thành hình trụ, rồi độn lớp giẻ lên
trên, lắp vào chân để di chuyển. Tuy có nhúc nhắc đi lại được, song người
bệnh đau đớn vô cùng, chỗ tiếp xúc giữa chân với ống tôn sắc nhọn cứ loét
dần, máu rỉ ra thấm đầy vào rẻ.

Chứng kiến trực tiếp nỗi đau của bệnh nhân phong, cô Xuân không cầm nổi nước mắt. Dù gắn bó với bệnh nhân chưa lâu, song cô Xuân đã coi họ như những người thân trong gia đình mình. Họ đau cô cũng đau chẳng kém. Đêm đêm không ngủ được cô lại ngồi cầu nguyện xin Chúa soi sáng giúp cô có thể làm được việc gì đó để giảm bớt nỗi đau cho họ. Qua sự giới thiệu của bề trên về một trại phong trong Nam, người ta có thể tự sản xuất được dụng cụ sinh hoạt cho người bệnh rất tốt. Thế là năm 1992, cô Xuân lẽo đẽo một thân, một mình lên đường đi học nghề làm tay chân giả cho bệnh nhân phong.

Học hành xong xuôi, cô Xuân lại cơm đùm cơm nắm trở ra Bắc. Một nhà xưởng nho nhỏ được mở ngay trong Trại phong để cô Xuân hiện thực hóa mong ước của mình. Cô bảo, để uốn được một thanh nhôm vừa với chân người bệnh thì phải dồn tất cả tâm huyết vào đó, coi làm cho người cũng như làm cho mình. Lúc đầu, cô cũng phải nếm trải nhiều thất bại. Chân giả làm xong tới lúc thử thì không vừa chân người bệnh. Vậy là bao công sức lại đổ xuống sông, xuống biển; không nản chí cô Xuân tiếp tục mày mò suy ngẫm, cải tiến cách làm. Quả thực, thành công không bao giờ từ chỗi những người nhiệt tâm, tận lực.

Bao năm trôi qua, cô Xuân đã miệt mài làm việc không kể ngày đêm, mưa nắng vì lòng mến Chúa yêu người. Cô chia sẻ: “bất cứ khi nào ý tưởng vụt lóe lên trong đầu, thì tôi phải chạy lên xưởng thực hành ngay, không thì sợ lúc sau
quên mất”. Chính đời sống tận hiến phục vụ của cô Xuân giữa trại phong
Quả Cảm đã thành một nhân chứng Đức tin sống động cho Tin mừng Phục Sinh và có nhiều người đã xin theo Chúa.

Thời gian thấm thoát hơn 20 năm đã trôi qua, cô Xuân đã nỗ lực làm việc không phải vì những đồng lương nhỏ bé mà vì tình yêu vĩ đại dành cho những số phận không may mắn. Bởi thế mà giờ dù đã ở tuổi nghỉ hưu nhưng nữ tu Nguyễn Thị Xuân vẫn tình nguyện ở lại phục vụ bệnh nhân phong và tiếp tục đảm nhận công việc sản xuất tay giả, chân giả, các dụng cụ sinh hoạt… cho hơn 100 bệnh nhân phong ở đây. Các bệnh nhân đã dành tặng cho cô danh hiệu “người có bàn tay vàng”

Cũng qua tay “bà mối” Xuân nhiều gia đình đã hình thành và tràn ngập hạnh
phúc tại nơi từng được mệnh danh là “miền đất chết” này. Dẫu còn
gặp vô vàn khó khăn, sóng gió, song Quả Cảm đang trở thành một đại gia đình
đầm ấm. Đó cũng là niềm vui, niềm hạnh phúc của nữ tu kiêm “kỹ sư”
Nguyễn Thị Xuân.

Con đường tận hiến của cô Xuân thật đáng khâm phục. Cô vẫn làm việc âm thầm lặng lẽ với niềm tin yêu mãnh liệt. Chính sự hy sinh miệt mài ấy đã trở nên Men, nên Muối cho đời và bừng sáng niềm hy vọng nơi những người có số phận không lành lặn. Như cái tên của mình, người nữ tu ấy đã đem đến Quả Cảm 25 mùa Xuân ấm nồng với những chồi non xanh ngát để băng qua những mùa đông lạnh lẽo tưởng như có lúc ngủ vùi trong quên lãng.

Bắc Ninh, ngày 12 tháng 01 năm 2013

 

‘Ba năm trong nhà xác vì khiếu kiện’

‘Ba năm trong nhà xác vì khiếu kiện’

thứ bảy, 26 tháng 1, 2013

nguồn: BBC

Bà Trần Khánh Hà cương quyết đi kiện vì chồng

Bà Trần Khánh Hà cương quyết đi kiện vì chồng

Một phụ nữ Trung Quốc, đi khiếu kiện vì chính quyền hành hạ chồng bà ở một trại lao động, đã bị giam suốt ba năm trong một nhà xác bỏ hoang, theo truyền thông Trung Quốc.

Bà Trần Khánh Hà đã phải sống trong trại cải tạo 18 tháng, nhưng không khuất phục và sau đó chính quyền đã đưa bà vào nhà xác.

Tin tức về vụ này ở tỉnh Hắc Long Giang khiến các mạng xã hội tranh cãi và phẫn uất.

Bà Trần được nói là ở trong tình trạng sức khỏe kém.

Theo các phóng viên, có thể vụ việc sẽ được xem lại sau khi một ủy ban điều tra cấp thành phố được thành lập để xem xét vụ việc.

Mấy tuần qua, có tin đồn chính quyền Trung Quốc có thể cải cách hệ thống lao động cải tạo.

Đau khổ của bà Trần bắt đầu năm 2003 khi chồng bà bị giam vì định phá vỡ cách ly trong trận dịch Sars, theo tờ Global Times.

Sau khi được tự do, sức khỏe của ông, cả thể chất và tâm thần, xuống tới mức mà bà Trần quyết định phải lên thủ đô để khiếu kiện.

Việc này đã khiến bà bị tống vào trại cải tạo 18 tháng.

Sau khi thụ án, bà lại bị giữ trong nhà xác vì vẫn muốn tiếp tục đi kiện.

Có tin nói nay bà được tiếp xúc hạn chế với thân nhân.

Theo báo Global Times, chồng bà được nhập viện để chữa bệnh tâm thần.

Sống cho người nghèo

Sống cho người nghèo

Đăng bởi lúc 1:25 Sáng 26/01/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (26.01.2013) – Đồng Nai – Mẹ Têrêsa Calcuta đã trở nên mẹ của người nghèo, mẹ của những con người cùng khổ, bất hạnh và bị bỏ rơi. Với cuộc đời luôn sống với người nghèo, cho người nghèo, mẹ càng trở nên cao trọng giữa muôn người trong thế kỷ thứ 20. Mẹ đã được cả thế giới gọi mẹ bằng một tên gọi đầy kính trọng Mẹ Têrêsa
Calcutta. Và có lẽ chẳng mấy ai còn nhớ đến tên gọi của mẹ do hai cụ thân sinh
đã đặt từ ấu thơ Agnes Gonxha Bojaxhiu.

Trong thánh lễ phong chân phước cho  Mẹ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao mẹ như là một chứng nhân phục vụ theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Ngài nói: “Mẹ Têrêsa không những đã chọn chỗ thấp nhất mà còn muốn đi phục vụ những người hèn mọn nhất của xã hội. Tựa như một người mẹ của những người nghèo. Người nghiêng mình xuống trên những người cùng khổ vì đủ mọi thứ nghèo khổ”. Mẹ đã dấn thân đến với người nghèo hầu mong nâng cao phẩm giá họ lên giữa một xã hội còn đầy những kỳ thị chủng tộc, kỳ thị  sang hèn, giai cấp .. . Chính  Mẹ đã từng nói: “Cái nghèo khổ nhất trên đời này là bị xua đuổi, không còn được ai đoái hoài đến nữa”. Mẹ còn muốn cho công việc của Mẹ được nhân rộng thêm lên, Mẹ đã thành lập hội dòng Thừa sai bác ái với ước nguyện: “Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người
nghèo”.

Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Không phải là Chúa Giêsu khinh bỉ người giầu, người quyền thế mà có thể nói Ngài đến để giúp cho những con người thấp hèn kia được nâng cao, được tôn trọng như những con người giầu có, quyền quý. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối “không có nơi gối đầu”. Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn  vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. “Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai”. Tất cả những điều đó hôm nay đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu miền Nagiaret. Thiên Chúa đã nhập thể làm người để nâng con người nên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở lại luôn mãi với nhân trần. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người để yêu thương và ban phát ơn lành. Đấng Thiên Sai đã chọn người nghèo, người cùng khổ để dấn thân phục vụ. Đấng Thiên Sai đã sống một kiếp người trong nghèo khó, thiếu thôn tư bề để cảm
thông với những lắng lo của kiếp người truân chuyên.

Đó cũng là sứ điệp mà Lời Chúa muốn  nhắn nhủ con người hôm nay. Giữa một xã hội quá chênh lệch giầu nghèo, địa vị. Giữa một xã hội quá phân biệt giai cấp và địa vị. Mức sống của từng giai cấp, địa vị đều khác nhau. Có những người ăn tiêu một bữa ăn bằng tiền lương cả một tháng lao động vất vả của một công nhân quèn.  Ở Việt Nam hôm nay có những trường học phổ thông dành cho con nhà giầu, mỗi tháng thu lệ phí mỗi em cả hàng chục triệu đồng, trong khi đó nhiều gia đình phải chật vật để kiếm vài trăm ngàn cho con có cơ hội đến trường, đến lớp. Có những người ốm đau bệnh tật kéo dài cả cuộc đời vì không có tiền trang trải cho viện phí nên đành chấp nhận đau
đớn mỗi khi trái gió trở trời, đang khi đó có biết bao người giầu có dư tiền dư
của đến nỗi bỏ ra hàng triệu đồng để lột da cho tươi trẻ, và còn khoét thêm má
lún đồng tiền để thêm phần duyên dáng thanh cao. Có những người cơm không đủ
no, áo không đủ mặc đang khi đó có biết bao người áo chỉ mặc một lần và đồ ăn
thức uống vất ngổn ngang quanh nhà.

Giữa một xã hội quá nhiều những thị phi như thế, Chúa đang cần chúng ta hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.

Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Chia sẻ kinh nghiệm Đức Tin

Chia sẻ kinh nghiệm Đức tin

nguồn: thanhlinh.net

Trong năm Đức Tin, xin gởi đến mọi người chia sẻ kinh
nghiệm Đức Tin của một tín hữu ẩn danh.

Đức Chúa Cha là ai đối với con? 40 năm trước con được học
kinh và Bổn, các Soeur dạy: “Chỉ có một tội trọng mà thôi đã đáng bị phạt đời
đời ở dưới hỏa ngục. Nạn lụt Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa tiêu diệt cả loài người
tội lỗi, chỉ có gia đình ông Noe và súc vật được chọn thì được cứu sống trên
tàu”. Nên lúc đó con nghĩ, Thiên Chúa là quan tòa độc ác, vì thế trong thời
gian đó con giữ đạo chỉ vì sợ bị phạt xuống hỏa ngục mà thôi.

Biến cố lớn nhất con được Chúa thương xót cứu qua Mẹ chí ái.
Miền Nam Cộng Hòa sụp đổ, và Bắc Việt xâm chiếm, con là Thượng Sĩ Hải Quân, với
21 năm lính, bị đối xử khắc nghiệt, gia đình đói khổ cùng cực. Con chạy đến
dưới chân Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, và Mẹ đã dẫn con đến với Chúa Giê-su
Ki-tô. Con được học Kinh Thánh ở Dòng Chúa Cứu Thế tại Nha Trang từ năm 1976,
và ở Tòa Giám Mục Nha Trang con học lén lút vào mỗi chiều thứ sáu và thứ bảy.
Sau 14 năm ở Việt Nam và 5 năm tỵ nạn ở Phi-luật-Tân, con luôn được học và thực
hành Kinh Thánh. Chúa Giê-su Ki-tô đã cải thiện con với LỜI + MÁU + THỊT cực
thánh của Ngài. Nên Chúa Giê-su Ki-tô là CHA, CHÚA, ANH HAI, là BẠN CHÍ THIẾT
của con.

Nền tảng quan trọng của con trong đời sống Đức Tin vào Chúa.
Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô đã phục sinh vinh hiển. Ngài đã chiến thắng tử thần.
Thắng và truất quyền tên đầu mục thế gian là Satan. Ngài đã cứu chuộc loài
người, và ban cho những ai TIN YÊU vào Ngài, được phúc trở nên con cái của
Thiên Chúa. Cùng chịu thương khó với Ngài, thì sẽ cùng được phục sinh vinh hiển
với Ngài.

Tại sao con lai TIN YÊU vào Thiên Chúa?Thiên Chúa là TÌNH YÊU. Ngài đã yêu thương con là kẻ tội lỗi, dù con đã đóng đanh Đức Giê-su Ki-tô, Con Chí Thánh, Chí Ái của ĐỨC CHÚA CHA, rất nhiều lần, mỗi lần con phạm tội trọng.

Đức Giê-su phán “Kẻ được tha nhiều thì yêu nhiều”.

Biến cố thứ hai không thua gì biến cố thứ nhất: Nhờ Mẹ đến với Chúa.
Mẹ Chí Ái bảo con: Ngài bảo gì, con hãy làm theo. Vậy Chúa Giê-su bảo con:

1.     Hãy cầu xin Lòng Thương Xót của Chúa.

2.     Hãy tín thác vào Chúa.

3.     Hãy thực hành Lòng Thương Xót của Chúa.

Điều 1 và điều 2 thực hành thì tương đối dễ, nhờ ơn Mẹ Chí Ái giúp. Nhưng
điều 3 quả là khó, trải qua 2 năm cầu nguyện và cố gắng thực hành Lòng Thương
Xót của Chúa. Với sự trợ giúp của Mẹ Chí Ái, từ từ mỗi ngày một ít, con đã biết
phải quên mình đi, mới có thể yêu CHÚA qua những người nghèo cả linh hồn và thể
xác. Yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại con,

để từ nay con sống, là sống cho TÌNH YÊU,

và dầu cho con chết, là chết cho TÌNH YÊU.

Một tín hữu ẩn danh.

 

ĐÁM TANG NGHÈO

ĐÁM TANG NGHÈO

Tác giả: Vũ Hưu Dưỡng

nguồn:conggiaovietnam.net

Trời Sài Thành hôm nay se lạnh, nhưng đã hứa thì dẫu có lạnh cỡ nào thì tôi cũng
phải đến.

Điểm đến sáng hôm nay là căn phòng quàn khiêm tốn nằm trong một góc nhỏ của một bệnh viện lớn. Tưởng chừng như bao đám tang khác cũng kẻ đón người đưa nhưng rồi chỉ vỏn vẹn hình bóng của 4 nữ tu. 4 nữ tu quây quần bên quan tài đang đọc kinh lòng Chúa Thương Xót.

Đã quá giờ hẹn một chút mà chẳng thấy bóng ai, lòng cũng không vui lắm bởi lẽ vẫn
thích rằng đúng hẹn. Hóa ra rằng trong góc phòng đó lặng lẽ dáng dấp của người
cha và người mẹ tiều tụy là đấng bậc sinh thành ra em và dáng dấp nữ tu chuyên
lo hậu sự cho những phận đời cơ nhỡ. Sơ đang lo những gì cần thiết cho Thánh Lễ
an táng chuẩn bị được cử hành.

Thánh  Lễ an táng cho người quá cố nghèo diễn ra trong âm thầm lặng lẽ với 7 con người quanh em. 7 người đó chỉ có cha và mẹ, 5 người còn lại là những người đến với
cả tình người vì rằng trước đây họ chẳng hề biết em và em cũng chẳng hề biết
họ.

Em đã đến trong đời một cách lặng lẽ và ra đi cũng âm thầm : Âm thầm đến độ đám
tang em chẳng có người nào thân ở bên cạnh ngoại trừ cha và mẹ của em. Âm thầm
đến độ không có tấm hình nào ghi lại di ảnh của em khi còn sống.

Phận đời nghiệt ngã, em cũng nghiệt ngã theo. Sau một thời gian lâm trọng bệnh, em
được nhiều người giới thiệu Chúa cho em và em đã được học biết Chúa. Những ngày
cuối đời em biết được một Thiên Chúa đã yêu thương em và cho em chào đời. Em đã
đón nhận Bí Tích Thanh Tẩy sáng hôm qua và chỉ trong vài giờ đồng hồ, em trở về
cùng Chúa là nguồn cội.

Trong bài chia sẻ, cha giảng gợi cho cộng đoàn gồm có các sơ và cha mẹ của em là
người ngoại đạo về niềm tin của đời sau. Cha giảng gợi lên hình ảnh của người
thợ làm vườn nho giờ thứ 11. Người thợ giờ thứ 11 đón nhận đồng lương như bao
người khác đã vào làm từ sớm. Em Têrêsa đây cũng sẽ được vào hưởng nhan thánh
Chúa như lời Ngài đã hứa … trong niềm tin ấy, cộng đoàn tin tưởng em sẽ được
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đón em vào hưởng nhan Ngài.

Xong phận vụ, tôi lại trở về cõi của mình.

Trên đường về, miên man suy nghĩ về em, suy nghĩ về đời.

Đã từng tham dự những tang lễ hoành tráng với vài giám mục và hàng trăm tu sĩ linh
mục và cả ngàn tín hữu, đông đến độ trong nhà thờ dù khá lớn nhưng chẳng còn
chỗ cho giáo dân. Cũng đã từng tham dự những lễ tang nghèo đến độ phải nhờ vào
tình thương của nhiều người nhưng cũng nhiều kẻ đón người đưa. Tang lễ hôm nay
của em phải nói rằng nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Chiếc áo quan em nằm tạm
đó được gửi đến bởi một ân nhân người Hoa gần nơi em ở. Còn tinh thần thì thật
đơn sơ với vài người bé nhỏ.

Nghĩ đến em, tôi trộm ước rằng những Thánh Lễ như thế này có sự hiện diện của những vị chủ chăn cao lớn hằng hiện diện trong những lễ nghi hoành tráng hay những
tang lễ vĩ đại. Có những vị không hề quen biết nhưng tang lễ lại đến và cử hành
như người thân nghĩa bởi lẽ gia đình của người quá cố quá giàu có. Kẻ nghèo hèn
như cô bé Têrêsa này làm gì được diễm phúc như thế.

Ước xong lại vội trách mình, các ngài làm gì có thời gian hay có chỗ cho những con
người nhỏ bé như thế này. Và, các ngài bận bịu trăm công nghìn việc, làm gì có
thời gian để lo những chuyện cỏn con như thế này. Nghĩ đi nghĩ lại thấy sao
mình vô duyên đến thế !

Thôi thì không mơ nữa, không ước nữa kẻo không người ta lại bảo mình vớ vẩn vu
vơ.

Sống trên đời là như vậy. Giàu hay nghèo rồi cuối cùng cũng chỉ là một hũ tro nho
nhỏ. Giám mục, linh mục, đại gia hay tiểu gia hay thấp hèn như em rồi cuối cùng
cũng chỉ vào trong cái hủ nhỏ nhoi. Chuyện quan trọng là có được ơn cứu độ mà
cả đời người ta ngong ngóng và đi tìm hay không mà thôi.

Em nghèo, nhà em nghèo thật nhưng em là người hạnh phúc bởi lẽ giờ đây trong Chúa không còn nghèo hay giàu, sang hay hèn nữa mà em đang được ở trong cung lòng của Thiên Chúa. Em là người thợ thứ 11 thật có phúc được thưởng công theo lòng
thương xót của Chúa.

Có thể giàu sau phú quý ở đời này thật nhưng chuyện cần hơn cả là có được một chỗ
trong cung lòng Thiên Chúa hay không mà thôi.

Vũ Hưu Dưỡng