LK Con Quy Lay Chua Tren Troi & Loi Nguoi Ngoai Dao
httpv://www.youtube.com/watch?v=XA4D3jaJqUw&feature=related
httpv://www.youtube.com/watch?v=XA4D3jaJqUw&feature=related
Luật gia Lê Hiếu Đằng: Thay đổi thể chế để tránh một vị Nguyễn Tấn Dũng khác
Một cuộc biểu tình của người dân đi khiếu kiện tại Hà Nội.
Reuters
“Việt Nam chưa có «văn hóa từ chức» thể hiện lòng tự trọng của một vị lãnh đạo. Vấn đề ở chỗ «lỗi hệ thống». Nếu muốn không có một vị Nguyễn Tấn Dũng nữa thì phải thay đổi thể chế. Trong thế chế đó phải thực hiện được những quyền dân chủ của người dân, và xây dựng Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, và nền kinh tế nhiều thành phần”.
Như tin chúng tôi đã đưa hôm qua 14/11/2012, trong phần chất vấn trước Quốc hội, đại biểu Dương Trung Quốc đã đưa ra hai câu hỏi cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trước hết là có phải ông Nguyễn Tấn Dũng đã nặng trách nhiệm với Đảng, mà nhẹ trách nhiệm với dân hay
không, khi ông đã xin nhận kỷ luật trước Trung ương Đảng mà chỉ xin lỗi trước Quốc hội. Thứ hai, ông có nghĩ đến chuyện từ chức hay không ?
Thủ tướng Việt Nam đã trả lời rằng suốt 51 năm qua, ông không xin xỏ cũng không từ chối những trách nhiệm Đảng giao, và ông sẽ tiếp tục nhiệm vụ được phân công.
Sự kiện lần đầu tiên có một đại biểu Quốc hội đặt vấn đề từ chức với Thủ tướng Việt Nam đã được dư luận rất chú ý. Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhã ý trao đổi với chúng tôi về những cảm nhận của ông trong vấn đề này.
RFI : Kính chào Luật gia Lê Hiếu Đằng, rất cám ơn ông đã nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ. Thưa ông, trước hết xin ông vui lòng cho biết cảm nghĩ của ông về sự kiện có một đại biểu đặt câu hỏi với Thủ tướng về việc từ chức ?
Luật gia Lê Hiếu Đằng : Qua thông tin trên báo chí và truyền hình thì chúng tôi
cũng được biết đại biểu Quốc hội đã đặt vấn đề cho Thủ tướng, đề nghị Thủ tướng
từ chức là ông Dương Trung Quốc. Tôi nghĩ thật ra từ trước đến giờ Việt Nam
mình người ta thường hay nói là chưa có văn hóa từ chức. Trong khi ở các nước,
chỉ cần một sơ sót nào đó là người ta đã từ chức. Nó thể hiện lòng tự trọng của
một vị lãnh đạo. Chứ không phải mình đến nói với sinh viên về lòng tự trọng,
trong khi mình lại hành xử khác đi.
Lòng tự trọng ăn sâu vào nếp văn hóa rồi, do giáo dục từ nhỏ, trong đó có cái gọi là « văn hóa xấu hổ », thấy mình làm không được thì thôi, mình rút lui. Điều này đã ăn sâu vào những nước có thể chế dân chủ và có một nền giáo dục tốt, trước tiên là giáo dục về con người.
Tôi nhớ là trước đây tôi đi học, thì nền giáo dục chế độ cũ dạy cho tôi mấy điều thôi. Đó là yêu gia đình – ông bà cha mẹ, rồi yêu thiên nhiên, và yêu đất nước, yêu tổ quốc. Yêu con người nữa – người ta lỡ bước thì mình phải giúp đỡ, vân vân.
Chính nền giáo dục đã hình thành nên tâm hồn con người, và con người sẽ biết xử lý như thế nào. Trong khi thật ra nền giáo dục của chúng ta nó nặng về chính trị, phục vụ yêu cầu trước mắt, không phải đào tạo vì con người và cho con người. Do đó có thể nói văn hóa ứng
xử rất dở, trong đó có vấn đề từ chức.
Tôi nghĩ các vị lãnh đạo Việt Nam cũng nên suy nghĩ về điều này. Mà tiền lệ thì cũng có trường hợp ông Lê Huy Ngọ, từ chức do trách nhiệm về vụ Lã Thị Kim Oanh. Nhưng từ trước đến giờ chưa có một vị cấp cao nào từ chức cả, mặc dù rõ ràng so với trách nhiệm, thì trong nền kinh tế hiện nay thất thoát rất nhiều tài sản của nhân dân.
Thế thì ai phải chịu trách nhiệm ? Thậm chí tại sao không nói thẳng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị đó là ai ? Tôi thì trong Đảng cũng được giáo dục là phải có địa chỉ cụ thể, mà đến phiên các vị thì các vị lại không nói cụ thể, mặc dù cả nước – toàn dân và trong Đảng đều
biết vị ủy viên Bộ Chính trị đó là ai.
Điều đó làm cho Nghị quyết trung ương 4 vô nghĩa. Vô nghĩa ở chỗ hô hào nói thẳng và nhìn thẳng vào sự thật, mà sự thật sờ sờ ra đó thì lại không chấp nhận. Khi tiếp xúc cử tri ở Thành phố Hồ Chí Minh, cử tri chất vấn thì Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lại nói là đồng chí X, thành ra là một ẩn số. Nó làm cho người dân càng mất tin tưởng hơn nữa. Và
nghị quyết này, nghị quyết kia cũng chỉ là đầu môi chót lưỡi thôi, không thể nào trở thành hiện thực được. Bởi vì cấp cao nhất không làm gương, thì làm sao các cấp dưới noi theo được. Ví dụ tình hình chống tham nhũng chẳng hạn.
Thành ra tôi nghĩ là các vị phải mạnh dạn và có lòng tự trọng. Mình đã gây đổ vỡ cho nền kinh tế, đổ vỡ cho đất nước, thì mình phải từ chức. Ví dụ trong lãnh vực giao thông vận tải, biết bao nhiêu sự cố xảy ra, nhưng ông Bộ trưởng Giao thông Vận tải vẫn tại vị. Trong
khi ở Hàn Quốc hay một số nước, chỉ cần một tai nạn gì đó là từ chức ngay. Hay
mới đây ông giám đốc CIA của Mỹ, chỉ dính líu tới vụ bê bối tình cảm thì cũng
từ chức.
Như vậy mới tạo được niềm tin cho người dân. Đó là thái độ cách mạng của người cán bộ, thái độ thẳng thắn, chân thật. Chứ còn gây ra tai họa cho nền kinh tế mà vẫn bình chân như vại thì không được. Do đó đại biểu Dương Trung Quốc có gợi ý đề nghị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ chức, mà nhiều người cũng nêu chứ không chỉ ông Dương Trung Quốc không
thôi.
Nhưng tôi nghĩ là, thôi, chuyện đã qua rồi. Bây giờ đối với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, theo ý kiến riêng của tôi, thì nên bằng hành động, vực dậy nền kinh tế, chứng minh rằng đã thấy thiếu sót của mình, và có những biện pháp hiệu quả, để đưa nền kinh tế đi lên. Chứ còn
bao nhiêu lời hứa hẹn, quyết tâm, nói đến lòng tự trọng này nọ… nhưng mà không có những hành động cụ thể thì người dân không tin nữa.
RFI : Thưa ông, cũng có ý kiến cho là chủ trương phát triển kinh tế dựa trên các tập đoàn quốc doanh lớn là do Đảng thông qua. Đành rằng Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ thì phải chịu trách nhiệm, nhưng không thể bắt ông Nguyễn Tấn Dũng lãnh trách nhiệm một mình. Ông nghĩ sao về ý kiến này ?
Thì vấn đề xây dựng các tập đoàn đâu phải tự dưng ông Nguyễn Tấn Dũng làm được, phải thông qua Bộ Chính trị. Thành ra trách nhiệm về vấn đề tham nhũng là của cả tập thể Bộ Chính trị. Tôi nói « lỗi hệ thống » là ở chỗ đó.
Nhưng nói gì thì nói, chứ cá nhân cũng phải chịu trách nhiệm ! Khuyết điểm của Bộ Chính trị là ở chỗ là thông qua chủ trương mà không giám sát, theo dõi để phát hiện những sai sót, không dám đấu tranh để chấn chỉnh lại. Để cho một mình tự tung tự tác, thì sẽ dẫn đến tai
hại cho nền kinh tế của chúng ta.
Tôi nghĩ, bình thường nếu một người không được giám sát chặt chẽ, dù là trước đây tốt – ví dụ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng có quá trình – nhưng do không được giám sát nên có những thiếu sót, như Bộ Chính trị trong hội nghị trung ương 6 đã phân tích.
Vấn đề ở chỗ « lỗi hệ thống ». Nếu muốn không có một vị Nguyễn Tấn Dũng nữa với những thiếu sót đó, thì phải thay đổi thể chế. Ở đó phải thực hiện được những quyền dân chủ của người dân, Quốc hội cho ra Quốc hội, Mặt trận và các đoàn thể cho ra Mặt trận và các đoàn thể, và xây dựng ba vấn đề.
Một là Nhà nước pháp quyền, hai là xã hội dân sự, và ba là nền kinh tế nhiều thành phần. Thì tự nhiên xã hội sẽ lành mạnh, theo xu hướng tiến bộ hiện nay là dân chủ xã hội. Đó là khuynh hướng không thể nào cưỡng lại được đâu. Dù có muốn ngăn chận, nhưng đó là xu hướng tiến bộ của loài người.
Chứ còn nếu muốn chống tham nhũng mà không tam quyền phân lập, rồi ruộng đất thì vẫn nói là sử hữu toàn dân, thì sẽ tiếp tục tham nhũng. Nhất là trong vấn đề ruộng đất.
Mới đây rất đau lòng : một bà cụ ở Thanh Hóa, qua xô xát với công an đã bị chết ở Hà Nội. Thì đấy, những cái chết rất là bi thảm ! Trong văn bản 157 người ký về vụ Phương Uyên, thì chúng tôi rất lo ngại. Sau nghị quyết trung ương 6, làm sao Đảng và Nhà nước phải ngăn
chặn khuynh hướng dùng bạo lực, dùng các lực lượng cảnh sát, công an để đàn áp dân, để bắt bớ khi người dân có tiếng nói khác với mình.
Cái tình trạng này rất là nghiêm trọng – tình trạng công an đánh chết dân gây xúc động rất lớn ! Hay là cái hình ảnh lôi tuồn tuột hai mẹ con trần truồng ở đồng bằng sông Cửu Long…
Phải chứng minh là sau nghị quyết trung ương 6 thì Nhà nước đã có khắc phục những thiếu sót, bằng cách làm sao cho dân người ta làm chủ thật sự. Làm sao tôn trọng các quyền tự do dân chủ, và không được đàn áp những người biểu tình, đàn áp những người có ý kiến khác. Bởi vì thật ra người ta làm trong khuôn khổ của luật pháp.
Ngay cả em Phương Uyên cũng vậy thôi. Những cuộc họp báo vội vã vừa rồi cũng làm nhiều người nghi ngờ, không biết có phải thật sự như vậy hay không. Vấn đề ở chỗ là, tại sao lại đẩy những con người như em Phương Uyên, như nhạc sĩ Việt Khang đến một sự chống đối như vậy.
Tôi nghĩ là do thiếu sót của mình. Bởi vì ai tham nhũng? Rõ ràng là Đảng tham nhũng chứ ai nữa! Ai yếu ớt, nhu nhược trong việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ? Thì cũng lãnh đạo Đảng và Nhà nước chứ ai! Các em nói như thế là nói lên một cái thực tế, mà là thực tế
nhức nhối hiện nay, chúng ta không thể phủ nhận được. Thay vì đối thoại với các
em thì mình lại đi trấn áp, bắt bớ.
Vì vậy mà bên cạnh “văn hóa từ chức” thì còn phải xác định trách nhiệm của từng người lãnh đạo. Và khi có sự cố gì xảy ra thì phải xử lý thật nghiêm minh chứ không thể bỏ qua được.
RFI : Có vẻ công việc trước mắt còn rất là bề bộn… Dân khiếu kiện khắp nơi, càng đưa ra xử những vụ bị nhà nước gọi là « âm mưu nổi dậy chống chính quyền » thì lại càng có thêm những tiếng nói phản đối. Lúc nãy ông có nói, vấn đề bây giờ là hành động, thì liệu Thủ tướng Việt Nam có dễ dàng sửa chữa sai lầm bằng hành động phù hợp lòng dân hay không ?
Vấn đề xin lỗi trước dân, từ trước đến nay (chưa có) thôi thì người dân người ta thấy cũng được. Không phải nói như ông Dương Trung Quốc trước đây là « an tâm ». Người ta không an tâm đâu, nhưng người ta thấy tình thế trước những sai lầm rất nghiêm trọng, lần đầu tiên
các nhà lãnh đạo Việt Nam buộc phải nhận thiếu sót trước dân và xin lỗi dân. Điều đó không thể không làm được. Đáng lẽ phải có kỷ luật, phải cách chức …
Nhưng vấn đề ở đây là người ta trông chờ, xem thử những lời xin lỗi đó thể hiện được trên thực tế ra sao. Xin lỗi thì rất dễ, nhưng thể hiện bằng hành động cụ thể trong quản lý kinh tế, trong điều hành đất nước như thế nào.
Tôi cho đây là một thách thức rất lớn đối với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, ở chỗ là sau nghị quyết trung ương 6, nếu không có những biện pháp hiệu quả, nếu giữa lời nói với việc làm không đi đôi với nhau thì người dân lại càng mất lòng tin.
Và thật ra mới có những ý kiến phản đối chứ dân chưa có ai nổi loạn đâu. Người ta có ý kiến thế này thế kia, thì tôi nghĩ rằng không nên đàn áp. Phải tôn trọng và lấy đối thoại làm chính.
Ví dụ tại sao các nhân sĩ trí thức, gồm những người có tên tuổi – và trong kiến nghị gởi Chủ tịch Trương Tấn Sang gần đây, có cả gia đình giáo sư Ngô Bảo Châu. Thì Nhà nước phải trả lời ! Đó là văn hóa – người dân người ta có kiến nghị thì phải trả lời được hay không được.
Đó là một cái lịch sự tất nhiên, cái văn hóa của người lãnh đạo.
Trong khi hô hào xây dựng nền văn hóa, nhưng bản thân cách hành xử của Nhà nước và chính quyền chúng ta lại không có văn hóa. Cái điều mà trước đây Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gọi là « sự im lặng đáng sợ », rất là kỳ. Ngay cả với đại tướng Võ Nguyên Giáp, mà thư của đại tướng cũng không được báo chí đăng, rồi cũng không được trả lời ! Như vậy là
các vị lãnh đạo đã rất coi thường dân, coi thường nhân sĩ trí thức, và kể cả coi thường những vị khai quốc công thần như đại tướng Võ Nguyên Giáp.
RFI : Thưa ông, còn một ý kiến khác là theo nguyên tắc thì Thủ tướng phải là ủy viên Bộ Chính trị. Nếu ông Nguyễn Tấn Dũng từ chức thì liệu có khuôn mặt nào khác được người dân tín nhiệm hay không ?
Bởi vì phương thức của mình nó cũ kỹ quá rồi. Từ Đảng chỉ định qua thì cũng chỉ có từng ấy người. Chứ nếu chúng ta dùng phương thức bầu cử, thì tất nhiên trong xã hội có những người tài, người ta sẽ ra ứng cử. Còn nếu tiêu chuẩn phải là ủy viên Bộ Chính trị thì hẳn nhiên là 14 vị đó thôi. Nếu mà bầu cử thật sự – vừa rồi bầu cử ở Mỹ, thì nó công khai
minh bạch để người dân người ta lựa chọn.
Mà tôi nghĩ không phải là Việt Nam không có nhân tài, không phải là không có người có thể đứng ra quản lý đất nước. Nhưng do định chế chính trị hiện nay như vậy đó.
Ví dụ hội nghị trung ương vừa rồi, một trong những nội dung bàn là quy hoạch các vị trong Bộ Chính trị, trong Ban chấp hành trung ương, Ban bí thư…Thì như vậy có nghĩa là Đảng đã lựa chọn trước rồi. Từ Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương giới thiệu qua chính quyền, mà chính quyền, Quốc hội đại đa số là đảng viên, thì bầu cử sẽ vô nghĩa. Thành ra
người ta nói là « Đảng cử, dân bầu ».
Một thể chế dân chủ thì không thể đi bằng con đường như vậy được.
Vì vậy trong góp ý sửa đổi Hiến pháp, Mặt trận Tổ quốc Trung ương cũng có đề nghị là phải luật hóa sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo thì phải như thế nào, và ai kiểm soát Đảng, ai giám sát ? Chứ Đảng không thể là một thứ siêu quyền lực, đứng ngoài và đứng trên luật
pháp được. Và đảng viên không phải là điều kiện để được làm lãnh đạo. Lãnh đạo thậm chí phải tổ chức thi tuyển đủ thứ, thông qua bầu cử… thì lúc đó nhân tài sẽ xuất hiện.
RFI : Chúng tôi xin rất cảm ơn Luật gia Lê Hiếu Đằng đã vui lòng dành thì giờ trao đổi với RFI Việt ngữ.
HÌNH KHỔ LUYỆN NGỤC THẾ NÀO?
Lm. Mark,CMC
Trong Luyện ngục, các linh hồn phải chịu 3 thứ khổ: – Khổ vì lửa khao khát Chúa (pain of loss), – khổ vì lửa thiêu đốt, và – khổ vì các hình khổ khác (pain of sense).
1. Khổ vì khao khát được thấy Chúa, được kết hợp cùng Chúa trên Thiên đàng, đó là
nỗi khổ lớn lao nhất, ví như lửa thiêu đốt linh hồn. Lý do vì khi ra trước tòa Chúa phán xét, linh hồn đã thấy Chúa đẹp đẽ, tốt lành, nhân từ đáng mến vô cùng, bây giờ phải xa cách, nên nóng lòng mong ước được thấy lại Chúa đáng mến vô cùng, sự mong mỏi quá sức, làm linh hồn héo hon chờ đợi.
* Thánh nữ Catarina thành Genova quả quyết: “Lòng ước muốn về gặp Chúa của linh hồn, chính là ngọn lửa cực nóng nảy làm héo hắt và gây đau thương cho các ngài hơn bất cứ thứ lửa thật nào khác”.
* Thánh nữ Têrêsa Mẹ viết trong sách Lâu đài Tâm hồn rằng: “Hình khổ mong thấy Chúa vượt quá mọi hình khổ có thể tưởng tượng, vì linh hồn khao khát thấy Chúa mà còn bị phép Công bằng Chúa giữ lại. Giống như một thủy thủ sau bao chiến đấu với sóng dữ để được vào bờ nhưng lại bị bàn tay vô hình đẩy ra xa bờ bến. Các linh hồn Luyện ngục còn đau khổ gấp ngàn lần người thủy thủ trên” (Purgatory p. 38).
* Năm 1880, một linh hồn kể lại với bà Thánh Mechtilđê rằng, “Tôi không cảm thấy khổ, nhưng tôi không được thấy Chúa, Đấng mà tôi nhiệt liệt khát khao , mọi sự mong ước của loài người trên trái đất hợp lại cũng không sánh được với sự khát khao của tôi.”
2. Khổ vì bị lửa thiêu đốt, để thanh tẩy linh hồn nên thanh sạch, để đền bù các hình phạt tạm chưa đền đầy đủ khi còn sống.
* Thánh Tôma Aquinô viết rằng: “Lửa thiêu đốt các linh hồn trong Hỏa ngục cũng
là lửa thiêu các linh hồn trong Luyện ngục. Sự đau đớn nhỏ nhất trong Luyện ngục, cũng là sự đau đớn lớn nhất ở trần gian”(Purgatory p. 34).
* Thánh nữ Catarina thành Genoa viết rằng:“Linh hồn Luyện ngục phải
chịu cực hình quá sức không lời diễn tả, không ý niệm nào giúp cho hiểu dễ dàng
một chút, nếu Chúa không giúp cho cách riêng. Không miệng lưỡi nào có thể nói
lên, không tâm trí nào có thể tạo nên một ý tưởng đúng về Luyện ngục. Về các
đau khổ ở đó, đúng là như trong Hỏa ngục” (Purgatory p. 37).
* Người ta hỏi cha thánh Pio năm dấu:
– Cha có thể nói về lửa ở Luyện ngục được không?
– Cha Pio đáp:“Nếu Chúa cho phép một linh hồn đi từ lửa Luyện ngục để đến chỗ lửa nóng nhất trên trần gian, thì giống như đi từ nước nóng đến nước lạnh vậy.”
(Bàn tay linh hồn hiện về in vào tường trước khi trở lại Luyện ngục. Hình này hiện còn giữ tại Nhà thờ Luyện ngục tại Rôma)
3. Khổ vì những hình khổ khác:
* Thánh nữ Brigitta thấy có những linh hồn chịu lạnh lẽo giá buốt.
* Thánh nữ Hedvigê thấy kẻ kiêu ngạo bị ném vào vũng bùn và nơi nhơ nhớp, kẻ không chịu vâng lời phải cúi gò lưng xuống như đang mang đồ nặng, kẻ khác bị thuốc độc như bất tỉnh, kẻ tham ăn bị cơn đói khát cồn cào ruột gan, kẻ phạm tội lỗi trong sạch bị lửa thiêu đốt cháy khét.
* Thánh nữ Mađalena de Pazzi có người anh sống rất đạo hạnh. Sau khi anh chết, bà thánh được thấy anh ở trong Luyện ngục để đền một số tội nhẹ. Bà thấy rất nhiều linh hồn
trong Luyện ngục đang chịu các hình khổ, nhưng các ngài vui vẻ chịu đựng. Xúc động bởi đã thấy cảnh tượng rợn rùng, bà vội chạy đến cùng Mẹ Bề trên, qùi gối xuống chân bà, kêu lên: “Lạy Mẹ, cảnh Luyện ngục kinh sợ chừng nào, con không thể tin được, nếu Chúa đã không tỏ cho con…tuy nhiên con không thể gọi là nơi tàn bạo, bởi từ nơi đó các linh hồn được đưa tới Thiên đàng (Purgatory p. 59).
* Thánh nữ Christina sinh tại nước Bỉ vào thế kỷ 12, xác ngài hiện còn giữ tại nhà thờ thành Tronđô do các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế cai quản. Thánh nữ qua đời lúc 32 tuổi, xác được đặt trong nhà thờ, quan tài mở nắp theo phong tục thời ấy, khi sắp đưa đi chôn, thánh nữ đột ngột chỗi dậy trước mặt mọi người hiện diện, kể lại rằng:
“Khi linh hồn tôi vừa ra khỏi xác, thiên thần dẫn tôi tới một nơi u ám đầy dãy các linh hồn. Họ phải chịu các cực hình khốn khổ quá sức, tôi không thể dùng lời nào diễn tả các hình khổ ấy được. Tôi thấy trong số đó có nhiều người tôi đã quen. Tôi rất cảm xúc trước tình trạng buồn khổ của họ. Tôi hỏi thiên thần đây là nơi nào, bởi tôi nghĩ rằng đây là Hỏa ngục, nhưng thiên thần bảo: đây chính là Luyện ngục, nơi các tội nhân bị phạt, bởi trước khi chết họ đã thống hối tội lỗi, nhưng chưa đền tội đủ trước mặt Chúa.
Từ nơi đó tôi được dẫn tới Hỏa ngục, ở đó tôi cũng nhận ra một số người tôi đã quen biết.
Thiên thần lại dẫn tôi vào Thiên đàng, trước tòa Thiên Chúa. Chúa nhìn tôi với mặt nhân từ, tôi rất vui mừng bởi nghĩ rằng mình sẽ được ở lại với Chúa đời đời. Nhưng Cha trên trời thấu suốt lòng tôi, Ngài phán: “Hỡi con cưng của Cha, con sẽ được ở với Cha, nhưng Cha cho con chọn: hoặc ở lại với Cha, hoặc trở về thế gian tiếp tục sứ mạng cứu độ của con qua những hành động bác ái và đau khổ. Để cứu các linh hồn Luyện ngục đang đau khổ, con sẽ phải chịu nhiều cực hình, con sẽ đền tội cho họ, và con còn nêu gương lôi kéo nhiều
tội nhân sám hối. Khi mãn đời, con sẽ lên đây hưởng phúc đời đời”. Sau khi nghe những lời đó, tôi đáp lời ngay không do dự, tôi muốn trở về thế gian, và tôi đã chỗi dậy.
Thánh nữ Christina lập tức bắt đầu chương trình đền tội khắc nghiệt: Từ bỏ tất cả những tiện nghi của cuộc sống, bà sống không nhà, không lửa nấu, như chim trời không tổ. Chưa hài lòng, bà còn tìm ra mọi thứ gây đau khổ. Bà lao mình vào đám lửa cháy, ở trong đó nhiều giờ chịu thiêu đốt, nhưng khi ra khỏi đó không ai thấy dấu vết bị thương. Vào mùa đông, tại sông Meuse băng giá, bà lao mình xuống sông không những hàng giờ, hàng ngày mà còn cả nhiều tuần lễ để cầu xin ơn thương xót của Chúa. Bà thánh còn để cho bánh xe đè, cho chó cắn, cho gai đâm đến chảy máu…Sau 42 năm hành xác, Chúa đã đưa
thánh nữ về hưởng phúc đời đời. Truyện này đã được Tổng Giám mục Cambray,
ông Bellarmine, Hồng y Giacôbê de Vitry xác nhận (Purgatory p. 45-49).
* Thánh Bêđa thuật truyện sau cũng khá rùng rợn. Truyện xảy ra bên Nước Anh (miền Northumberland): Một người tên là Drythelm, ông và gia đình sống đời đạo hạnh theo tinh thần Công giáo. Ông mắc bệnh và bệnh tình ngày càng gia tăng. Kiệt lực, ông đã chết. Vợ con khóc lóc thương tiếc vô vàn. Con cái ngồi bên xác ông khóc lóc cả đêm. Nhưng hôm sau, trước khi đóng nắp quan tài, ông đột nhiên chỗi dậy. Thấy chuyện lạ, mọi người hoảng hốt trốn chạy. Chỉ còn lại vợ ông, run run sợ hãi ngồi lì đấy. Ông trấn an: “Đừng sợ, chính Chúa cho phép tôi sống lại từ cõi chết. Tôi sẽ sống một đời sống mới”. Nói rồi
ông đứng thẳng lên, đi tới nhà thờ, ở lại đó ông cầu nguyện lâu giờ. Ông trở về nhà gặp bà con bạn hữu, nói lên cuộc sống của ông từ nay sẽ chỉ là để dọn mình chết lại. Ông còn khuyên mọi người noi gương ông. Rồi ông chia tài sản thành ba phần: cho con cái, cho vợ và cho người nghèo khó. Xong xuôi, ông đến gõ cửa Tu viện, nài xin cha Bề trên cho ông ở đó như một tu sĩ đền tội, làm tôi tớ mọi người. Cha Bề trên cho ông một phòng nhỏ. Ông chia thời giờ làm ba khoảng: cầu nguyện, làm việc cực nhọc và hãm mình khác thường. Ăn chay nhiệm nhặt nhất, ông cho là không có gì đáng kể. Mùa đông, ông lao mình xuống hồ nước băng giá, ở đó nhiều giờ cầu nguyện, đọc đủ 150 Thánh vịnh vua Đavit.
Đời sống hãm mình của ông, thái độ luôn cúi mặt xuống đất, và cử chỉ của ông tỏ cho thấy nỗi sợ Thiên Chúa phán xét chừng nào. Ông giữ im lặng tuyệt đối, nhưng để cho người khác hiểu những gì đã xẩy ra cho ông sau khi chết, ông diễn tả:
“Khi linh hồn tôi lìa khỏi thân xác, có một thanh niên tốt lành bảo tôi đi theo. Mặt anh sáng láng, mình cũng có ánh sáng bao bọc. Anh dẫn tôi tới một thung lũng rộng bát ngát, tôi rất kinh sợ, run rẩy hãi hùng. Nơi này chia thành hai phía: môt bên tràn ngập lửa thiêu, gió nóng hừng hực, bên kia tràn đầy băng tuyết, gió thổi tái tê. Trong thung lũng lạ lùng này có rất nhiều linh hồn, tôi không thể đếm được, họ đang bị nhào lộn từ vực nóng qua vực lạnh và từ vực lạnh qua vực nóng, cứ liên hồi như vậy mà không được nghỉ. Tôi
tưởng như tôi đang thấy Hỏa ngục bởi ở đây ghê gớm kinh hoàng quá, nhưng người
thanh niên bảo tôi rằng, đó chỉ là Luyện ngục. Các linh hồn bị phạt như vậy bởi
đã không chịu ăn năn sám hối khi còn khỏe mạnh, mà chỉ kịp ăn năn trong phút
chót trên giường bệnh nhờ lòng thương xót Chúa. Nhiều linh hồn phải chịu phạt ở
đây đến ngày Phán xét chung, một số sẽ được ra khỏi đó trước, nhờ lời cầu nguyện của các giáo dân, sự làm phúc bố thí, ăn chay đền tội, và nhất là công phúc Thánh lễ Misa dâng lên cầu cho họ” (Purgatory p. 41-43).
Khi được hỏi, tại sao ông lại hãm mình quá như vậy, tại sao lại lao mình xuống hồ nước lạnh, ông mạnh mẽ trả lời: Sự khổ hạnh tôi chịu bây giờ chưa thấm vào đâu với hình khổ Luyện ngục tôi đã được thấy. Về sau ông qua đời như một vị thánh. Gương lành của ông đã lôi kéo một số tội nhân ăn ăn sám hối trở về đường lành.
* Thánh nữ Frances, sáng lập dòng Oblates, qua đời tại Rôma năm
1440, được Chúa soi sáng cho biết tình trạng các linh hồn Luyện ngục rất rõ
ràng. Bà thấy Hỏa ngục và những hình khổ cực dữ trong đó. Bà cũng được thấy
Luyện ngục nữa. Vâng lời các Bề trên, bà đã ghi lại những gì bà đã thấy theo
lệnh cha linh hồn là cha đáng kính Canon Matteotti. Bà thánh viết:
“Sau khi thấy những hãi hùng trong Hỏa ngục, tôi được thoát ra khỏi nơi đó và thiên thần dẫn tôi vào Luyện ngục. Luyện ngục không có cảnh hãi hùng và vô trật tự, cũng không có thất vọng và tối tăm đời đời, Luyện ngục có sự hy vọng thần linh ngời sáng, nơi thanh tẩy này coi như cuộc hành trình hy vọng. Các linh hồn Luyện ngục chịu đau đớn dữ dằn, nhưng các thiên thần thăm viếng, an ủi họ. Luyện ngục được chia làm ba phần, như ba địa hạt rộng lớn trong vương quốc đau khổ. Nơi nọ ở trên nơi kia với những loại linh hồn khác
nhau. Những linh hồn ở tầng sâu hơn bởi có nhiều điều phải thanh tẩy hơn và phải ở đó lâu hơn. Tầng sâu nhất đầy lửa nóng hãi hùng nhưng không đen kịt như Hỏa ngục, đó là một biển lửa mênh mông, với những ngọn lửa bừng bừng. Vô số linh hồn phải lao mình vào đó. Họ là những linh hồn mắc tội trọng, đã thành thực xưng thú, nhưng chưa đền tội đủ khi còn sống. Với tất cả những tội trọng đã được tha, họ phải chịu đau đớn trong bảy năm. Thời gian này không thể đo lường cách rõ ràng, bởi tội trọng có ác tính khác nhau, đó chỉ là hình phạt trung bình. Và dù các linh hồn bị lửa vây quanh, hình khổ của họ cũng không giống nhau, nó khác nhau tùy theo số lượng và bản chất mọi tội.
Trong tầng sâu Luyện ngục này, có những giáo dân và tu sĩ. Giáo dân tuy đã phạm tội, nhưng sống hạnh phúc sau khi ăn năn chân thành. Tu sĩ đã hiến mình cho Thiên Chúa không sống thánh thiện theo bậc mình. Bà thánh cũng thấy linh hồn một linh mục bà đã quen biết, nhưng bà không nói tên, vị này che mặt bằng một tấm vải, tuy linh mục này có đời sống tốt lành, nhưng không luôn giữ điều độ mà còn quá tìm thỏa thích nơi bàn ăn.
Bà thánh lại được dẫn vào tầng giữa Luyện ngục, nơi dành cho những linh hồn không phải chịu hình khổ dữ dằn. Nơi này được chia thành 3 ngăn: Ngăn nhất giống như một khu ngục băng giá, buốt giá không thể tả, ngăn hai lại là một vạc dầu sôi vĩ đại, ngăn thứ ba giống như cái hồ chứa vàng bạc lỏng” (Purgatory p. 15-17).
* Theo thánh nữ Mađalena de Pazzi, nữ tu dòng Kín Florence, do cha linh hồn ghi lại trong truyện đời thánh nữ thì: Vào năm 1607, ít lâu trước khi thánh nữ qua đời, một chiều kia, khi thánh nữ đang ngồi với mấy chị em đồng tu trong khu vườn tu viện, thánh nữ được ơn xuất thần, được thấy Luyện ngục và được mời đi thăm viếng. Thánh nữ cho biết: ngài đã đi trong khu vườn rộng lớn 2 giờ đồng hồ, đôi khi ngừng lại. Chị em thấy mặt ngài tái nhợt và đôi lúc la lên: Lạy Chúa hay thương, xin xuống, giải thoát, lạy Máu Thánh Chúa. Ôi các
linh hồn khốn khó, họ chịu đau khổ dữ dằn nhưng bằng lòng và vui vẻ”.
Thánh nữ còn được dẫn xuống tầng sâu hơn nữa, ngài do dự, nhưng rồi cũng xuống, đột nhiên ngài dừng lại, rồi thở dài, kêu lên: Lạy Chúa tôi, những linh hồn tu trì phải hành hình khổ sở chừng nào! Bà thánh không tả nỗi khổ, nhưng coi thái độ kinh hoàng của bà, người ta đoán được hình khổ hãi hùng. Bà còn được dẫn vào ngục tù của những linh hồn đơn thành, các trẻ em và những người phạm lỗi bởi thiếu hiểu biết, hình khổ của họ dễ chịu hơn. Nơi đó có giá lạnh và lửa nóng. Có các thiên thần Bản mạnh ở bên các linh hồn này, giúp họ can đảm chịu khổ. Bà cũng thấy quỉ dữ mặc những hình thù ghê gớm gia tăng nỗi
khổ cho các linh hồn này.
Đi xa hơn, bà thánh thấy các linh hồn bất hạnh, bà kêu lên: Ôi nơi này khốn nạn chừng nào! Đầy những quỉ xấu xa ghê gớm và những hình khổ không thể tả, họ bị đâm chém và xẻ ra từng mảnh”. Bà thánh cho biết, họ là những kẻ giả đạo đức.
Xa hơn chút nữa, bà thánh thấy rất đông những linh hồn bị thương tích, bị đè dưới máy ép, bà thánh hiểu họ là những kẻ nghiện ngập, bất nhẫn, bất vâng phục khi còn sống. Một lúc sau, bà thánh lại kêu lên ghê sợ: Những kẻ dối trá bị giam phạt gần Hỏa ngục, hình khổ của họ là bị đổ chì lỏng vào miệng và đồng thời bị run rẩy bởi băng giá.
Bà cũng được dẫn đến ngục những linh hồn phạm tội bởi yếu đuối, nhưng họ cũng phải bị thiêu bằng thứ lửa gay gắt.
Bà lại được đi nữa, tới nơi phạt những linh hồn quá gắn bó với những của cải đời này, họ phạm tội hà tiện, keo kiết. Bà thánh kêu lên: Ôi, mù tối chừng nào! mong muốn tìm những của mau qua, họ đã được giầu có mà vẫn không thỏa lòng, bây giờ ở đây chịu khổ hình lên tới cổ họng, họ bị tan chảy như nến sáp trong lò lửa.
Bà lại tới chỗ những linh hồn phạm tội thiếu trong sạch. Bà thấy họ bị giam ở nơi dơ bẩn và dịch tả làm nôn mửa. Bà vội quay mặt khỏi nơi ghê tởm đó. Bà thấy những kẻ tham lam và kiêu căng, bà nói: Đây là những kẻ muốn sáng chói trước mặt người đời, bây giờ họ bị án sống nơi tối tăm ghê rợn. Bà còn được thấy những kẻ sống vô ơn Thiên Chúa, họ bị những hình khổ không thể tả, bị ngâm trong hồ chì lỏng để đền bù những tội vô ơn.
Cuối cùng, bà được dẫn tới nơi phạt những tội nhân không có nết xấu nào đáng kể, nhưng bởi thiếu lòng nhiệt thành, họ phạm đủ thứ tội lặt vặt, đôi khi họ phạm tội này tội nọ chứ không phạm theo thói quen.
Sau khi được chứng kiến Luyện ngục hãi hùng, thánh nữ nài xin Chúa đừng bao giờ để ngài phải chứng kiến lần nữa, những hãi hùng ngài nghĩ là không đủ sức chịu đựng. Ngài thưa cùng Chúa Giêsu: Lạy Chúa, Chúa có ý gì khi tỏ cho con những hình khổ ghê sợ trong Luyện ngục như vậy, dù con chưa thấy hết và chưa hiểu tỏ, ôi lạy Chúa, Chúa muốn con hiểu là Chúa thánh thiện vô cùng, và muốn con chê ghét tội lỗi dù là tội rất nhẹ, nó cũng rất đáng ghê tởm trước mặt Chúa (Purgatory p. 17-21).
* Thánh nữ Lidwina thành Schiedam qua đời ngày 11 tháng Tư năm 1433. Trong tiểu sử bà do một linh mục đồng thời có thế giá viết lại rằng: Bà thánh này thật là một quãng gương kiên nhìn và là một miếng mồi ngon cho mọi bệnh tật đau đớn tàn phá trong suốt 38 năm dài. Nỗi đau da diết làm cho bà không thể ngủ được. Bà đã qua đi những đêm dài thức trắng trong nguyện cầu. Bà được thiên thần Bản mạnh dẫn vào Luyện ngục, nơi đó bà thấy những ngục tù, những tội nhân, những hình khổ, và gặp cả những người bà đã quen biết.
Bà thánh nhớ rõ ràng những nơi được dẫn đi qua. Bà tả lại rằng: Bà gặp một tội nhân mắc đủ thứ tội xấu xa ở đời, nhưng sau cùng ông ta đã sám hối, đã xưng thú thành thực và được lãnh ơn xá giải, nhưng ông ta không có đủ giờ sống để đền tội, ông ta chết một thời gian sau bởi bệnh dịch. Bà thánh đã dâng lời cầu và các đau khổ chỉ cho linh hồn ông. Bà thánh muốn biết linh hồn ông còn ở Luyện ngục hay không, và tình trạng hiện nay thế nào? Thiên thần dẫn bà tới nơi và chỉ cho bà: Ông ta đang ở đó và rất đau đớn, Thiên thần hỏi bà có muốn chịu thêm đau khổ để cứu ông ta không? Bà thánh thưa : Có. Bà kinh hãi khi nhìn thấy những hình khổ và bà kêu lên: Đây là Hỏa ngục sao? Thiên thần trả lời
rằng: Không, đây là Luyện ngục nhưng ở phía trên Hỏa ngục. Nhìn quanh, bà thấy
như một nhà tù rộng rãi, bao bọc bằng những bức tường rất cao, rất đen, xây bằng những viên đá khổng lồ. Bà nghe thấy những tiếng kêu la, gào thét hỗn độn, tiếng xích sắt va chạm, tiếng đập đánh, tát vả. Tiếng kêu la này còn lớn hơn những tiếng ồn ào trên thế giới, hơn tiếng reo hò xông vào trận địa, không gì có thể so sánh được. Bà thánh xin thiên thần đừng cho mình thấy cảnh tượng này: “Xin đừng để tôi thấy cảnh kinh hãi quá
sức này, tôi không thể chịu được”.
Đi tiếp, bà thấy một thiên thần ngồi buồn bã bên bờ giếng. Hỏi ra, bà được biết đó là thiên thần Bản mạnh của tội nhân trên. Linh hồn tội nhân đang ở dưới giếng, đó là một Luyện ngục biệt giam. Bà thánh muốn coi, và thiên thần đã mở nắp giếng lên, tức thì một đám lửa phực cháy và tiếng la kinh hãi vang lên rùng rợn. Thiên thần hỏi: Bà có nhận ra tiếng ai không? Bà có muốn thấy ông ta không? Thiên thần gọi tên ông, và kìa trong linh thiêng, ông ta ở trong khối lửa giống như kim loại đỏ rực trong lò. Ông ta kêu rên: Ôi bà
Lidwina, tôi tớ Thiên Chúa, ai sẽ cho tôi được chiêm ngắm Nhan thánh Chúa tối cao? Tiếng thở dài của linh hồn này làm bà thánh không sao quên được, bà kinh hãi đến nỗi giây thắt lưng bung ra và bà chợt tỉnh giấc ngất trí. Bà hứa sẽ cầu nguyện và dâng đau khổ cho linh hồn này. Ít ngày sau, thiên thần cho bà biết, người bà cầu nguyện đã được chuyển qua Luyện ngục thông thường. Như thế cũng chưa đủ. Bà thánh tiếp tục cầu nguyện cho linh hồn đáng thương ấy cho tới khi thấy linh hồn ông bay về Thiên đàng (Purgatory p. 21-25).
*Thánh nữ Brigitta kể lại trong cuốn thứ sáu về những mạc khải như sau: Tôi được đưa xuống Luyện ngục, và tôi thấy một thiếu nữ ở giữa những linh hồn khác. Thiếu nữ này trước kia là con nhà giầu, và thường ăn diện rất xa hoa theo thói đời. Thiếu nữ này đã kể lại tình trạng đời sống của mình cho thánh nữ Brigita nghe, và thêm rằng: “Phúc cho tôi, bởi trước khi chết, tôi đã được xưng tội dọn mình chết, tôi không phải rơi vào Hỏa ngục, nhưng tôi phải chịu cực hình trong Luyện ngục bởi cuộc sống trần tục mà Mẹ tôi đã không
chỉ cho tôi tránh, không chỉ dẫn cho tôi sống đạo hạnh” (Purgatory p.
117-118).
* Thánh Lui Bertrand dòng thánh Đaminh kể rằng: Khi ngài ở tại Tu viện Valencia, có một tu sĩ trẻ trong tu viện này miệt mài với những khoa học trần thế. Tưởng mình thông thái, một hôm, không rõ bởi chuyện gì, tu sĩ này nói nặng cha Bertrand: “Thưa cha, ai cũng thấy rằng cha rất kém học thức”. Cha Bertrand trả lời cách khiêm tốn nhưng quả quyết: “Luciphe rất thông thái, nhưng hắn đã bị phạt”. Lời nói thiếu khiêm tốn và bác ái
kính trọng của tu sĩ trẻ người non dạ đã phải đền bù. Dù là tu sĩ rất đạo đức, thầy không nghĩ tới việc sám hối lời nói đó. Một thời gian sau, thầy bị bệnh rất nặng, thầy được lãnh các Bí tích cuối cùng, và qua đời bình an.
Ít lâu sau, cha Bertrand được bầu làm Bề trên tu viện. Một hôm, khi ngài đang đọc kinh Sáng với cộng đoàn, tu sĩ trẻ hiện về mình đầy lửa quấn quanh, sấp mình trước mặt cha Bề trên Bertrand: “Lạy cha, xin tha thứ cho lời con đã nói thiếu lịch sự với cha ngày trước, Chúa không cho phép con được thấy mặt Chúa trước khi được cha tha thứ và dâng lễ cầu cho con”. Cha Bề trên vui lòng tha thứ, và sáng hôm sau đã dâng lễ cầu cho thầy. Đêm kế tiếp, khi đang cầu nguyện, ngài được thấy linh hồn thầy dòng trẻ tuổi rực sáng lên hưởng phúc Thiên đàng (Purgatory
p. 153-154).
Giáo hội luôn khuyến khích con cái mình khi còn sống, cứu giúp các linh hồn Luyện ngục, bởi khi đã phải vào nơi đó, các ngài không thể tự cứu mình được nữa, thời gian lập công đã chấm dứt.
Lm. Mark,CMC
nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi
PHÁN XÉT CHUNG
Khi còn ở tập viện, một hôm thánh Louis Gonzaga đang chơi với các bạn thì một người bạn hỏi ngài rằng: “Giả sử ngày mai là ngày tận thế, mọi người sẽ phải chết, bạn sẽ làm gì hôm nay?”. Thánh Louis dừng lại một chút rồi mỉm cười trả lời: “Tôi sẽ tiếp tục chơi”.
Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng tường thuật về ngày tận thế, ngày tất cả mọi người đều phải chết. Ngày đó là ngày phán xét chung, ngày Chúa ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, ngày đó linh hồn ta sẽ lộ hết chân tướng, không có gì có thể che dấu được.
Bấy giờ Con Người sẽ ngự đến, đầy uy nghi và cao cả, để xét xử muôn dân.
Đó là một vài nét chấm phá về ngày phán xét chung.
Nhiều người ngày nay lo sợ về ngày tận thế. Bởi vì có nhiều dấu hiệu giống như những
điều đã được tiên báo trong các sách Tin Mừng. Chẳng hạn như loạn lạc chiến tranh, tình trạng hỗn độn, nạn đói kém, các dịch bệnh, động đất và việc xuất hiện các ngôn sứ giả (Mt 24:4…)
Là người Kitô, sự kiện tận thế không phải là sự hủy diệt trái đất, nhưng là việc
Chúa Giêsu đến lần thứ hai. Đó là lúc kẻ chết sống lại và mọi người đều phải
đối diện trước mặt Thiên Chúa để chịu xét xử về công trạng của mình trong cuộc
sống và những việc mình đã làm .
Đó sẽ là ngày của sự công bình và sự thật: “Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như
ánh quang của bầu trời… Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao…”. Đó sẽ là ngày phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người, mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi ta quan tâm đến thời khắc ta sẽ phải gặp Chúa, phải đối diện với Chúa vào giây phút cuối của cuộc đời. Liệu vào lúc ấy, ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái yêu thương hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì ta đã sử dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào?
Vì thế, ta đừng lo lắng chuyện tận thế, nhưng hãy quan tâm đến việc ta có còn tin
tưởng và cậy trông vào Đức Kitô hay không? Ta có sống yêu thương như Tin Mừng
Chúa Kitô mời gọi hay không? Vấn đề là ở chỗ này: Ngày phán xét, ta chỉ bị hỏi một câu thôi: “Con đã làm gì cho những anh chị em nhỏ mọn nhất của Ta?”
Lạy Chúa, xin cho con sống mỗi ngày như là ngày sau hết của đời con. Amen
nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi
Thánh tử đạo Việt Nam là những người sống “Đạo Yêu Nhau”
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Cách đây ít lâu, có một bạn trẻ ngoài Công Giáo hỏi tôi rằng: “Này anh, anh cho em hỏi bên đạo Công Giáo các anh tôn thờ những người mà gọi là thánh tử đạo, vậy họ là ai mà phải
thờ”[1]. Lúc đó tôi đã trả lời cho bạn trẻ đó rằng: “Các thánh tử đạo chính là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã theo, sống và làm chứng cho đạo của mình theo là đạo thật, trong khi đó vua quan thời đó lại cho là tà đạo nên cấm và bắt bớ. Ai không chịu bỏ đạo Giatô thì giết, và các ngài đã bị giết vì không chịu bỏ đạo”. Sau đó bạn trẻ đó lại
hỏi tiếp: “Khi bị bắt và giết như thế thì các vị tử đạo và người Công Giáo hiện nay có căm thù những người đã làm hại mình không?”. Tôi trả lời: “Không những không căm thù, mà các thánh tử đạo và ngay cả chúng tôi đã yêu và sẽ yêu họ nhiều hơn. Bởi vì cha ông chúng tôi và cả chúng tôi đã, đang đi theo “Đạo Yêu Nhau”[2];[3].
Bạn trẻ nghe đến đây thì tỏ vẻ ngỡ ngàng.
Đúng vậy, ngỡ ngàng là phải. Đạo gì mà lại là “Đạo Yêu Nhau”. Tại sao các ngài lại được gọi như vậy? Thưa bởi vì các ngài đã noi theo gương Đức Giêsu, Ngài là Chúa và là Thầy của
mình đã sống và chết vì yêu. Tình yêu đó được khởi đi từ Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đức Giêsu xuống trần gian chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, cả cuộc đời và sứ mạng của Ngài đều quy về tình yêu và dạy cho các môn đệ và mọi người bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); Ngài nói tiếp: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12,33), bởi vì: “Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người
hiến mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Khi soi chiếu cuộc đời của mình vào trong mầu nhiệm tình yêu của Đức Giêsu, các ngài đã rút ra được một định nghĩa về Đấng mà các ngài yêu mến và tin theo, định nghĩa đó là:
“Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16). Chính vì thế các thánh tử đạo của chúng ta đã đã sống và minh chứng cho mọi người biết về Thiên Chúa là Tình Yêu qua chính cuộc sống của mình: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13,35).
Trải qua suốt thời kỳ bách hại đạo, các thánh tử đạo là những người đã dám chấp nhận cái chết vì tình yêu và niềm tin để minh chứng Đạo mà các ngài theo là Đạo thật, là Đạo yêu
thương. Quả thật, cây đức tin đã được các ngài vun xới và phát triển. Tuy nhiên, cây đức tin đó được lớn lên ngay trong thử thách và đau thương: hơn 300 Hội Thánh Chúa tại Việt Nam đã chia sẻ nỗi thăng trầm của quê hương, thì cũng là hơn 300 năm Hội Thánh được lớn lên trong hồng ân của Thiên Chúa[4].
Ngoài việc làm chứng bằng cả mạng sống, các ngài còn nhân chứng về chính nội dung Tin Mừng và tìm mọi cách để loan báo Tin Mừng ấy với vua quan thời bấy giờ. Vậy nội dung Tin
Mừng mà các ngài làm chứng là gì?
Các ngài là những người luôn trung thành với Chúa, sẵn sàng đón nhận cái chết để minh chứng niềm tin của mình vào đạo thật: “Tôi biết tôi đã tin vào ai”
(2Tm1,12) . Vì thế, các ngài luôn tin tưởng, phó thác trong tay Chúa: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1 Pr 5:7). “Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự” (Cv 17,25). “Chính nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28); “Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và qui hướng
về Người. (Rm 11,36:) và các ngài xác tín thật mạnh mẽ: “Chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Hay: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Chính vì vậy mà càng bị đòn vọt nhiều bao nhiêu thì các ngài lại vui mừng bấy nhiêu. Những trận đòn chí tử không làm các ngài nản chí, sờn lòng, mà trái lại các chứng nhân của chúng ta còn lấy thế làm hạnh
phúc, vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh[5]. Các ngài luôn nhớ Lời Chúa phán: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế. (Mt 5, 10-12). Và đây là thước đo sự trung thành của người môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23); và như trở thành quy luật: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình
vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24); cuối cùng: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Như vậy các ngài đã chấp nhận tinh luyện cuộc đời của mình như thử vàng trong lò lửa, khi chấp nhận tinh luyện như thế, các ngài được đón nhận như của lễ toàn thiêu. Quả thật, khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, các ngài đã rực sáng như những vì sao trên vòm trời và như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (x. Kn 3:6-7). Và các ngài thật xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời, vì
đã sống trung thành với Chúa đến cùng. Cái chết của các ngài đã không đi vào quên lãng, bởi vì: Linh hồn các ngài ở trong tay Chúa, đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Trước mặt người đời và những người không hiểu biết thì hình như các ngài đã chết và đi vào cõi tiêu diệt. Không phải vậy, các ngài đang sống trong bình an. Vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu (x. Kn 3,1-9).
Các ngài cũng là những người yêu nước; kính trọng vua quan:
Có thể nói, các thánh tử đạo là những người rất mực yêu nước như bao người yêu nước khác và kính trọng vua quan hết lòng. Là thần dân trong nước, các tín hữu sẵn sàng thi hành
nghĩa vụ công dân, từ thuế khóa cho đến gia nhập quân ngũ, điều này đã được chứng
minh qua cuộc sát hạch thân thế và tôn giáo của các binh lính tại tỉnh Nam Định, năm 1838, nguyên tại tỉnh Nam Định, quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã tụ tập được 500 binh sĩ Công giáo, để rồi bắt đạp lên Thánh Giá[6].
Cũng vậy, chốn quan trường, theo chiếu chỉ tháng 9-1855 ra lệnh sàng lọc các quan Công Giáo, cấm đạo đồ đi thi hay nhận chức vụ trong làng trong tổng[7], thế mà sáu năm sau (1861), trong một đợt thanh trừng, triều đình còn bắt được 32 viên quan[8] và đã cấm bỏ đạo, nhưng phần đông các ngài đã khước từ. Khi khước từ bỏ đạo như vậy, các ngài đã bị tra
hỏi, bị đòn vọt đau đớn, nhưng các ngài vẫn rất ôn tồn nhã nhặn, thưa gửi đàng hoàng. Bởi lẽ, các ngài được Thánh Thần Thiên Chúa dạy cho biết phải nói thế nào. Vì có Chúa ở cùng, nên các ngài không hề sợ hãi, ngược lại, thái độ ôn tồn và kiên trì là đặc trưng chung của các thánh tử đạo Việt Nam. Điển hình như linh mục Nguyễn Văn Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ
phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được “[9]. Giám mục Alonso Phê trong thư chung năm 1798 xác định khí giới đánh giặc bách hại “chẳng phải là súng ống gươm giáo đâu, mà là đức tin, lời cầu
nguyện và đức bác ái”[10]. Giám mục Hemosilla Liêm nhắc nhở các tín hữu phải tuân giữ luật nhà phép nước, còn nếu bị vu cáo tội chính trị thì cứ an tâm, vì Đức Giêsu xưa từng bị
dân Do Thái lấy cớ chính trị để giết (x. Ga 19,12). Ngài nói tiếp : “….Phô con đừng hòa tập vuối giặc, đừng nghe chúng nói dối dá đấng ấy đấng khác sai chúng nó, vì cái ấy là không hẳn”[11]. Làm được điều đó là vì các ngài luôn xác tín rằng mọi sự đều không nằm ngoài
thánh ý Chúa. Vì thế, những người làm khổ mình là những tác nhân trong chương
trình quan phòng của Chúa. Nên thái độ của các ngài là: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34). Tuy nhiên, lòng kính trọng phải được xây dựng trên nền tảng sự thật, tức là nếu sự kính trọng mà trái với lương tâm, đức tin và chân lý của mình thì các ngài cũng khẳng khái khước từ cách dứt khoát: khi vua Minh Mạng có ý định ban đặc ân làm quan cho các vị thừa sai, linh mục Gagelin Kính đại diện anh em từ chối đặc
ân đó, ngài nói: “Tuy nhiên, những việc đó nào có thể dung hòa với nhiệm vụ linh mục của tôi”[12]. Hay như binh sĩ Trần Văn Trung, sẵn sàng đi lính để đáp lại lệnh truyền của vua, nhưng phải bỏ đạo trước khi đi lính thì đã không chấp nhận, ngài nói: “Tôi là Kitô hữu tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ” [13].
Ngoài việc kính trọng vua quan và thể hiện lòng yêu nước thì các ngài còn là những người luôn sống nhân ái, yêu thương hết mọi người:
Có lẽ điều nổi bật nhất nơi các vị tử đạo của chúng ta là tình bác ái, các ngài luôn yêu thương hết thảy mọi người, bất luận họ là ai, làm gì. Điều này đã được các vị tử đạo của chúng ta thể hiện rất xuất sắc. Điển hình như y sĩ Phan Đắc Hòa, ông luôn giúp đỡ
người khác qua việc bốc thuốc cứu người, đồng thời ông luôn khuyên họ trung thành
mà giữ đạo để được sống đời đời. Còn ông Trùm Đích thì khi có điều kiện là ông tới thăm trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình. Linh mục Emmanuel Triệu sẵn sàng nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử để đổi lấy tiền mà cho người nghèo. Biết giáo dân sẽ tổ chức an táng cho mình linh đình thì Linh mục Phan Văn Minh đã kịp can ngăn và gợi ý lấy tiền đó giúp cho người nghèo. Với ông Cai Tả, thì yêu thương để xin ơn
tha tội, nên ông sẵn sàng cho vay mà không cần trả lại. Ông Năm Thuông thì quả quyết: “Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng”. Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý [14].
Còn về lòng bao dung, các ngài sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù của mình. Điều này đã được chứng tỏ qua thái độ của các thừa sai. Thừa sai Gagelin Kính gửi thư cho bạn bè : “Tôi sẵn lòng tha thứ cho những kẻ áp bức tôi”. Chuyện linh mục Théophane Vénard Ven, khi viên quan nói : “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, ngài đáp : “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười, vì khi cụ cầu nguyện: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh”. Ông Lê Văn Phụng tại pháp trường nhắn nhủ con trai mình : “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố giác ba nhé”. Và dặn dò thân hữu: “Hãy tha thứ các bạn ơi. Hãy tha thứ, vì chính tôi đã thứ tha”[15].
Thật vậy, các ngài luôn yêu thương, tha thứ cho hết mọi người. Luôn coi sự sống của người khác như là của mình, và hạnh phúc của con người là vinh quang của Thiên Chúa.
Khi lược lại một số hành vi mà các thánh tử đạo của chúng ta đã thể hiện trong việc tuyên xưng đức tin vào Chúa; lòng kính trọng vua quan và luôn tỏ ra yêu thương, bao dung với
hết mọi người. Ai trong chúng ta cũng hết lòng cảm phục trước thái độ bao dung và kiên cường của các ngài. Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta đáng lưu tâm hơn cả, đó là học được bài học gì qua những gương sáng của các ngài.
Luôn biết chọn Chúa làm điểm tựa của cuộc đời, là niềm hy vọng và ơn cứu độ, là gia nghiệp của ta. Luôn biết đón nhận đau khổ như là ân huệ Chúa ban. Đồng thời phải can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình yêu trong khi thi hành bác ái. Sẵn sàng chấp nhận thân phận của hạt lúa gieo vào lòng đất, thối đi để trổ sinh hoa trái dồi dào.
Thứ đến: luôn yêu thương hết mọi người, vợ chồng chung thủy với nhau, con cái biết nghe lời cha mẹ trong những điều ngay lẽ phải. Luôn sống chan hòa yêu thương với dân làng, giáo xứ, công sở, trường học…Như thế là chúng ta đã trở thành muối, thành men và ánh
sáng cho đời. Trung thành với những điều đó phải chăng cũng là cuộc tử đạo liên lỉ thời nay.
Tắt một lời, các thánh tử đạo là những người luôn trung thành với Chúa, sẵn sàng chết để bảo vệ đức tin. Các ngài cũng là những người có tấm lòng bao dung với hết mọi người, nhất
là với những người nghèo khổ, yếu đau và cả với những người bách hại mình nữa.
Như thế, các ngài đã sống đúng như lời Chúa dạy về giới luật yêu thương. Thế nên, người ta gọi các ngài là những người sống “Đạo Yêu Nhau” thì quả là đúng không sai.
Ước gì khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta làm mới lại tinh thần
của các ngài trong cuộc sống thường ngày nơi các mối tương quan của chúng ta.
Tinh thần đó chính thánh Anrê Phú Yên đã khẳng định: “Tình yêu không thể chết”
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung thành với Chúa, biết sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Xin cho chúng con một tấm lòng quảng đại và bao dung, để yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho hết mọi người, kể cả những người bách hại chúng con. Amen.
[1] Vì là người ngoài Công Giáo, nên bạn trẻ đó dùng chữ “thờ” để nói về hành vi tôn kính của người Công Giáo đối với các thánh tử đạo Việt Nam. Người Công Giáo “thờ” là thờ Chúa, còn tất cả các thánh là tôn kính.
[2] Lm. Đỗ Quang Chính, Tản Mạn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 61.
[3] Bức thư của linh mục thừa sai Gaspar d’Amaral viết ngày 31/12/1632, trong đó cho biết “lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau”.
[4] Xc. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (biên soạn cho giáo dân Việt Nam), không rõ tác giả, 1997, tr. 153.
[5] Xc. Mai Tuyến, OP. Tử Đạo Hôm Nay, truy cập ngày 12-11-2012; http://tinmung.net/ TimHieu/Tu-dao-hom-nay.htm
[6] Gispert, Historia de las Misiones Dominicas en Tunkin, Avila 1928, tr. 428.
[7] Louvet, La Cochinchine Religieuse II, tr.204-207.
[8] Ibid. 267.
[9] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 207.
[10] Thư chung các đấng Vicario, Kẻ sặt 1903, tr.63-68.
[11] Thư chung các đấng Vicario II, tr.53-54.
[12] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 208.
[13] Thư chung các đấng Vicario II, tr.53-54.
[14] Xc. Đào Trung Hiệu, OP. Cuộc Lữ Hành Đức Tin, quyển II, tr. 211.
[15] Ibid. tr. 231.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Thánh Albertô cả: Giám mục, Tiến sĩ Hội thánh
Ngày 15/11
Thánh Albertô là một người thuộc thế hệ đầu của dòng Đaminh, được thành
lập năm 1216. Ngài góp phần lớn trong những tiến triển quan trọng về trí thức
trong thế kỷ XIII. Đức Giáo hoàng Piô XII năm 1941 đã đặt Ngài làm thánh bảo
trợ cho những ai say mê nghiên cứu các khoa học tự nhiên. Ngài sinh tại Swabia
có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc một gia đình quí phái trong binh
nghiệp. Điều người ta biết rõ về chàng thiếu niên người Đức này là lòng yêu
thích nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi thì Ngài học với các thầy dòng
Bênêdictô, khi thì Ngài lạc lõng trong miền quê, say mê quan sát cây cỏ khám
phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh sắc của tạo hóa. Cuối
cùng Albertô đã bỏ rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đình. Một người cậu đã dẫn
Albertô tới Bologne để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một bài giảng của chân
phước Jordain miền Saxe thuộc dòng Đaminh và cảm thấy được Chúa gọi, nhưng lại
ngập ngừng vì mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô quên đi ý tưởng này. Nhưng ở
Padua, Albertô gặp lại chân phước Jordain và sau một cuộc đàm thoại, Albertô đã
nói với thầy Jordain:
– Thưa thầy ai đã tỏ lộ lòng con cho Ngài ?
Từ đây không ai ngăn cản nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài vào nhà tập
dòng anh em giảng thuyết. Lời cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước muốn sống tự
thoát:
– “Lạy Chúa Giêsu Kitô, con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng để con bị quyến
rũ bởi những lời hão huyền về danh giá gia đình, về uy thế của dòng tu, về sự
lôi cuốn của khoa học”.
Dưới ánh sáng chân lý Ngài đã tuân theo, Albertô nhiệt thành nghiên cứu
khoa học và trở thành tu sĩ thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư siêu việt,
nhà sưu tầm bách khoa tài ba. Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt như một số
những nhà trí thức lớn thời Trung cổ.
Luôn luôn tìm gia tăng những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước Đức,
thu thập những ý niệm về các loại súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm về
khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới các thuyết của Aristote và tìm cách Kitô
hóa các lý thuyết đó. Ngài lần lượt dạy học tại Cvologne, Pribourg, Ratisbonne,
Strasbourg.
Khoảng năm 1240, Ngài tới Paris, làm giáo sư tại đây. Các lớp học quá nhỏ
không đủ để dung nạp hết các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ tại công
trường nay vẫn còn giữ tên Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả. Lời Ngài
có uy tín đến nỗi để chấm dứt cuộc tranh luận chỉ cần nói: “Thầy Albertô đã nói
vậy”. Tài năng Ngài lan rộng tại đại học Paris, đại học danh tiếng nhất thế
giới. Ngài trú ngụ tại nhà dòng thánh Giacôbê, viết nhiều tác phẩm về nhiều đề
tài khác nhau: thần học, toán học, luân lý, chính trị, triết học, hình học, địa
chất học.
Vua thánh Louis tỏ tình nghĩa với thầy dòng thời danh này và trao cho
Ngài nhiều kỷ vật quí báu trước khi Ngài về Đức, bởi vì thánh Albertô được đặt
làm Giám tỉnh. Vâng lệnh Đức Giáo hoàng, Ngài giã từ căn phòng sách vở và học
trò, suốt ba năm Ngài đi bộ, không tiền của, ăn xin để thăm các nhà dòng và lập
nhiều nhà mới. Rôma mời Ngài về làm sáng tỏ cuộc tranh cãi giữa các giáo sĩ.
Albertô được một thời an bình trong dòng để dạy học, viết lại những quan sát và
suy tư của mình. Nhưng Đức Giáo hoàng buộc Ngài nhậm chức Đức Giám mục
Ratisbonne, một trách vụ nặng nề. Trong trung tâm giàu có phồn thịnh này, người
ta kể lại rằng: Đức Giám mục không có lấy “một đồng tiền trong két, một giọt
rượu trong hầm, một nhúm bột trong vựa”. Dầu vậy, thánh Albertô vẫn trả hết nợ
và xây dựng một nhà thương. Khi đã hoàn thành công cuộc hết sức có thể, Ngài
xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản. Năm 1623 theo lệnh Đức Giáo
hoàng, Ngài đi kêu gọi nghĩa binh trong các làng quê nước Đức.
Một năm sau Đức Giáo hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại. Thánh
Albertô thấy cần được hồi tâm. Ngài lui về tu viện Surtzbourg, miệt mài với
việc nghiên cứu và giàn xếp những cuộc tranh luận. Một lần nữa Ngài lại được
rảo qua các đô thị lớn nước Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường, truyền chức
cho các giáo sĩ. Năm 1270 Ngài đến dạy tại Cologne. Ở Công đồng Lyon, Ngài bênh
vực Rodolphe I miền Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu đã già Ngài buộc
phải đi Paris để bênh vực cho giáo thuyết của học trò mình là Tôma Aquinô.
Albertô chọn cho mình một phần mộ trong dòng và mỗi ngày đến đọc kinh
nhật tụng cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính mình.
Ngài qua đời êm ái tại phòng riêng giữa các anh em đầy chung quanh, Ngài
được phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.
Mừng lễ thánh Anbertô cả, một lời nhắc nhở chúng ta hãy dùng khả năng, tài lực của mình như những nén bạc Chúa trao, để biết sinh lời theo đúng ý Chúa.
Maria Thanh Mai gởi
httpv://www.youtube.com/watch?v=eYuc3aFlBao&feature=youtu.be
httpv://www.youtube.com/watch?v=CrIco05AjW8&feature=youtu.be
Đức Thánh Cha viếng thăm người già
LM. Trần Đức Anh OP
11/12/2012
nguồn: Vietcatholic.net
ROMA. ĐTC Biển Đức 16 khích lệ người già vui sống và đồng thời đề cao giá trị người già trong xã hội và Giáo Hội.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc viếng thăm sáng 12-11-2012, tại Căn nhà gia đình “Hoan hô người cao niên” do Cộng đồng thánh Egidio thành lập tại khu vực rastevere ở Roma. Nhà này được khánh thành hồi tháng giêng năm 2009 và hiện có 28 người già cư ngụ. Họ sống trong các căn hộ riêng, nhưng có liên hệ thường xuyên với các nhân viên giúp đỡ.
Đón tiếp ĐTC có Giáo sư Marco Impagliazzo, Chủ tịch Cộng đồng thánh Egidio, Bộ trưởng Andrea Riccardi, người sáng lập cộng đồngnày, và Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình, cùng một số nhân vật khác.
Cuộc viếng thăm của ĐTC diễn ra trong khuôn khổ ”Ngày Âu Châu về tuổi già tích cực”. Lên tiếng trong cuộc viếng thăm, ngài nói: ”Tôi đến nơi anh chị em trong tư cách là GM Roma, nhưng cũng với tư cách một người già viếng thăm những người đồng lứa tuổi của mình. Tôi biết rõ những khó khăn, các vấn đề và những giới hạn của tuổi này, và tôi biết rằng đối với nhiều người, những khó khăn ấy càng trầm trọng hơn do cuộc khủng hoảng kinh tế”.
ĐTC nhắn nhủ người già đừng nhìn lại quá khứ để thương tiếc trong sự sầu muộn, để rồi coi giai đoạn sống hiện nay như thời xế chiều. Ngài nhấn mạnh rằng: ”Thật là đẹp ở trong tuổi già! Trong mỗi lứa tuổi, ta cần biết khám phá sự hiện diện và phúc lành của Chúa và những phong phú mà lứa tuổi ấy chứa đựng. Đừng bao giờ để cho mình bị khép kín trong sầu muộn! Chúng ta đã lãnh nhận hồng ân sống lâu. Sống thật là điều tốt đẹp, kể cả với lứa tuổi chúng ta, mặc dù có một số khó khăn và giới hạn. Ước gì trên khuôn mặt chúng ta luôn có niềm vui vì cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, và không bao giờ buồn sầu”.
ĐTC nhắc lại giáo huấn của Kinh Thánh coi sự trường thọ là phúc lành của Thiên Chúa. Ngài phê bình não trạng trong xã hội ngày nay loại bỏ người già, coi họ như những người không sản xuất và vô ích. Đôi khi người già cảm thấy đau khổ vì bị gạt ra ngoài lề, phải sống xa nhà hoặc sống trong cô đơn….
Trong bối cảnh đó, ĐTC khuyến khích gia đình và các tổ chức công cộng làm sao để người già được tiếp tục ở lại trong nhà của họ và ngài xác quyết rằng ”chất lượng của một xã hội, của một nền văn minh, được đo lường theo cách thức người ta đối xử với người già và chỗ đứng dành cho người già trong cuộc sống chung. Ai dành chỗ cho người già tức là dành chỗ cho cuộc sống! Ai đón người người già là đón nhận cuộc sống”.
ĐTC ca ngợi Cộng đồng thánh Egidio ngay từ khi mới được thành lập đã nâng đỡ hành trình của bao nhiêu người già, giúp họ được ở lại trong môi trường sống của họ bằng cách thiết lập các căn nhà – gia đình cho người già ở Roma và trên thế giới”.
Hiện nay, cộng đồng này phục vụ 18 ngàn người già, với sự cộng tác của khoảng 800 người thiện nguyện. Ngoài ra cũng có khoảng 100 cộng đoàn nhỏ liên đới và thân hữu giữa người già.
Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ người già đừng bao giờ nản chí: ”Anh chị em là một sự phong phú cho xã hội, cả khi gặp đau khổ và bệnh tật. Giai đoạn này trong cuộc sống là một hồng ân để đào sâu quan hệ với Thiên Chúa. Anh chị em đừng quên rằng trong số những nguồn lực quí giá mà anh chị em có, điều thiết yếu là kinh nguyện. Anh chị em hãy trở thành những người chuyển cầu nơi Thiên Chúa, cầu nguyện trong sự tin tưởng và kiên trì. Anh chị em hãy cầu nguyện cho Giáo Hội, cho tôi nữa, cho các nhu cầu của thế giới, cho người nghèo, để thế giới không còn bạo lực nữa” (SD 12-11-2012)
LM. Trần Đức Anh OP
Thủ tướng Việt Nam bị đại biểu Quốc hội kêu gọi từ chức
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng bị kêu gọi từ chức vì những sai sót và yếu kém
trong lãnh đạo
14.11.2012
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang gặp nhiều khó khăn lần đầu tiên bị Quốc hội Việt Nam kêu gọi từ chức vì những sai sót và yếu kém trong lãnh đạo đã đẩy kinh tế đất nước vào tình trạng khó khăn.
Bản tin của Hãng thông tấn AFP hôm nay nói rằng đây là lần đầu tiên một vị thủ
tướng của Việt Nam bị một đại biểu của Quốc hội gồm 500 ghế của nhà nước
độc đảng kêu gọi từ chức.
Trong chất vấn tại Quốc hội sáng thứ Tư, ngày 14 tháng 11, Ðại biểu Dương Trung
Quốc nói:
“Đã đến lúc phải đề cao trách nhiệm pháp luật chứ không phải chỉ là lời xin
lỗi. Phải chăng thủ tướng nên nhân dịp này thể hiện lòng quyết tâm sửa chữa của
mình bằng cách khởi động cho một cuộc phấn đấu của chính phủ, hướng tới đoạn
tuyệt với những lời xin lỗi, thay bằng tập quán phù hợp với một xã hội hiện đại
– là văn hóa từ chức với một lộ trình là các quan chức của ta làm được cái điều
mà các quốc gia tiên tiến vẫn làm.”
Ðại biểu Dương Trung Quốc nói tiếp:
“Xin nhắc lại rằng, xa xưa các cụ nhà ta cũng coi việc cáo quan hồi hương là
một cách giữ tiết tháo. Còn đảng ta cũng đã từng có một vị tổng bí thư, người
có công lớn trong Cách mạng tháng 8 năm 45, sau khi nhận trách nhiệm chính trị
về những sai lầm trong Cải cách ruộng đất 1956, đã từ chức và tiếp tục phấn
đấu, để rồi 3 thập kỷ sau trở lại với cương vị tổng bí thư, kịp góp phần
khởi động công cuộc “Đổi mới”, trước khi từ trần.”
Ông Dương Trung Quốc đúc kết chất vấn của ông bằng hai câu hỏi chính:
“Một, thủ tướng nghĩ gì về ý kiến cho rằng, mình đã nặng trách nhiệm với đảng,
mà nhẹ trách nhiệm với dân? Và hai, thủ tướng có tán thành là sẽ khởi đầu cho
một sự tiến bộ của chính phủ, hướng tới một văn hóa từ chức, để từng bước đoạn
tuyệt với lời xin lỗi hay không?”
Cũng theo tin của AFP, Ðại biểu Nguyễn Bá Thuyền nói những sai sót của
Thủ tướng Dũng trong việc lập kế hoạch đưa kinh tế Việt Nam vượt qua khó khăn
đã gây mất niềm tin trong công chúng đối với sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản.
Ðáp lại những công kích công khai hiếm thấy, Thủ tướng Dũng, tự hào với 51 năm
tuổi đảng của mình, nói:
“Chịu sự lãnh đạo quản lý trực tiếp của Đảng trong 51 năm qua đó tôi không có
xin với Đảng cho tôi làm, cho tôi đảm nhiệm một chức vụ này hay một chức vụ
khác.Và mặt khác thì tôi cũng không có từ chối, không có thoái thác bất cứ
nhiệm vụ gì mà Đảng, Nhà nước giao phó cho tôi.”
Ông Dũng quả quyết rằng ông sẽ tiếp tục làm thủ tướng như được đảng tín nhiệm
giao phó:
“Đảng đã quyết định phân công tôi ứng cử làm nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ, tiếp
tục làm nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ, Trung ương phân công. Và Quốc hội đã bỏ
phiếu bầu tôi làm nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ thì tôi sẵn sàng chấp nhận, sẵn
sàng chấp hành nghiêm túc mọi quyết định của Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương
đảng, của Quốc hội”.
Quốc hội Việt Nam hiện đang xem xét một nghị quyết có thể sẽ bắt buộc các nhà
lãnh đạo cấp cao cần phải chiếm được phiếu tín nhiệm để tiếp tục tại vị, song
không rõ liệu phiếu tín nhiệm như vậy có thực sự mang lại thay đổi thiết thực
nào, hay chỉ là một hình thức chiếu lệ.
Cần Có Một Tấm Lòng
Trong những ngày qua, trên các trang mạng nói nhiều về cuốn phim tài liệu có tựa đề
là “Đừng Khóc Thương Tôi, Sudan”. Thật sự, khi xem cuốn phim này, người xem phải rơi lệ khi nhìn thấy hình ảnh vị linh mục Gioan Lee Tae Suk và số phận của những con người nghèo đói và bất hạnh tại làng Tonj miền Nam Sudan thuộc Châu Phi. Cuốn phim này sẽ tham dự Đại hội điện ảnh lần thứ 61 tại Bá Linh vào năm 2013.
Được sinh ra trong một gia đình nghèo khó, gồm có mười anh chị em, cậu bé Gioan Lee Tae Suk là người con thứ chín. Năm lên chín tuổi thì người bố qua đời, người mẹ vất vả tần tảo bằng nghề may vá để nuôi mười người con. Mặc dù là một đứa trẻ nghèo, nhưng Lee Tae Suk đã cố gắng học và thi đậu vào trường y khoa, và đã trở thành một bác sĩ y khoa. Con đường giàu sang và danh vọng đang mở rộng trước mặt với chàng trai Lee. Nhưng sau những năm phục vụ trong quân đội, chàng trai Lee đã cảm nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa và từ bỏ tất cả sự nghiệp để vào dòng tu Salêriêng- Don Bosco.
Sau ngày lễ truyền chức linh mục tại Vatican, cha Gioan Lee Tae Suk đã tình nguyện đến phục vụ tại Sudan. Nhìn thấy trước cảnh nghèo đói và bệnh tật của người dân, cha Gioan Lee đã mở phòng khám bệnh cho người nghèo và thành lập một ngôi làng cho những người mắc bệnh phong, để cấp thuốc và chữa trị cho người phong cùi và xây dựng một ngôi trường học đầu tiên từ cấp mẫu giáo đến cấp trung học. Đối với người dân nơi đây, cha Gioan Lee như là hiện thân của Chúa Giêsu. Ngài đến với những con người đang bị bỏ rơi, đau khổ và
bất hạnh, và ngài là vị linh mục đầu tiên của Hàn Quốc đến phục vụ tại Phi Châu.
Trong cuốn tự truyện: “Các con là những người bạn của cha”. Cha đã dùng âm nhạc để xoa dịu những vết thương chiến tranh trong lòng các em. Khi tâm hồn những đứa trẻ bị tan vỡ do những vết thương chiến tranh tạo ra, qua âm nhạc, các em sẽ tìm được niềm vui và hy vọng trong một đất nước đã bị tàn phá do bởi chiến tranh. Trẻ em không còn cầm súng trên tay mà là những chiếc kèn mang lại những âm thanh của hòa bình, tình yêu và hy vọng.
Vào ngày 14 tháng 01 năm 2010, cha Gioan Lee đã đi về với Chúa, vì bệnh ung thư ruột già ở tuổi 48. Ngài phục vụ trọn vẹn cho những người đau khổ, bệnh tật, phong cùi, và nghèo đói tại Sudan. Cha Gioan đã ra đi trong nụ cười, còn những người ở lại đã đưa tiễn cha trong những giọt nước mắt của đau đớn và tiếc thương. Khi hay tin cha Lee qua đời, những người dân đã đau đớn vô cùng, họ ôm tấm ảnh cha Gioan khóc trong nghi thức tiễn biệt lần cuối tại ngôi Thánh đường. Những dòng nước mắt khóc thương cho một người cha đã yêu
thương và sống chết với họ. Cha Gioan Lee là vị mục tử nhân lành của Chúa Giêsu.
Hoàn cảnh của cha Gioan Lee thì không giống bà góa nghèo trong Tin mừng hôm nay, nhưng có một điểm chung, đó là một tấm lòng. Chúa Giê-su ngồi nhìn dân chúng bỏ tiền vào thùng bố thí trong Đền Thờ. Có rất nhiều người giàu có xếp hàng để bỏ tiền vào. Người giàu có thì bỏ rất nhiều tiền, nhưng chỉ bà góa nghèo bỏ vào thùng với hai đồng tiền. Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói:” Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết. Vì mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ
vào đó; còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân”. Qua lời giải thích của Chúa Giê-su, các môn đệ và chúng ta đều nhận thấy rõ ý nghĩa của việc bố thí. Tấm lòng quý hơn lễ vật. Trong khi đó, người đời thường đánh giá theo số lượng. Mỗi khi dâng cúng hay làm điều gì thì cần được ghi danh và mọi người biết đến công trạng của mình. Cho nên, Chúa Giê-su nói với đám đông dân chúng rằng: ” Anh em hãy coi
chừng những kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, thích đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”.
Vậy, những kinh sư là ai? Có phải là tôi không?. Lời Chúa phản chiếu vào tâm hồn tôi. Mỗi khi tôi làm gì, tôi muốn được người khác biết ơn, muốn được người ta biết mình là người quảng đại có lòng bác ái, từ bi…, và muốn được ghi công trạng với Chúa và trước mặt người đời. Nếu tôi biết hồi tâm và nhìn lại, thì rõ ràng tôi đang bị lệ thuộc vào cách đánh
giá bên hơn là đi vào chiều sâu của nội tâm. Vì Chúa cần tấm lòng của tôi hơn là những gì tôi làm cho chính mình được vinh danh trong ngày hôm nay. Tấm lòng đó được thể hiện trong tình yêu thương nơi tha nhân, những người đang cần được yêu thương và quan tâm giúp đỡ, nơi công việc tôi làm với tấm lòng tạ ơn Thiên Chúa thì việc bố thí mới sinh lợi ích cho tha nhân. Bà góa đã dạy cho tôi cách làm đó, vì bà cho đi với tất cả tấm lòng của bà. Bà chia sẻ những gì bà có. Và cha Gioan Lee nhìn ra chính Chúa Giê-su trong mỗi con người, dù họ có vẻ đáng kinh tởm, xấu xí đến đâu đi nữa thì họ cũng là hình ảnh của Thiên Chúa. Chính tình yêu Thiên Chúa là động lực để ngài hy sinh và phục vụ cho những người
phong cùi, những người bệnh tật và nghèo khổ.
Khi hiểu và đón nhận Lời Chúa, như là điều kiện cần thiết cho đời này và đời sau,
thì giờ đây chúng ta cần phải làm một việc gì đó cụ thể, để Nước Chúa lớn lên
trong tâm hồn và trong thế giới này. Chúng ta không chỉ đón nhận Thiên Chúa
bằng hình thức bên ngoài, lễ nghi mà còn là bằng một tấm lòng yêu thương chân
thành trong mỗi con người.
Lm. John Nguyễn, Utica, New York
nguồn: Maria Thanh Mai gởi