LỜI CHỨNG CỦA PHÊRÔ BÙI VĂN LINH

LỜI CHỨNG CỦA PHÊRÔ BÙI VĂN LINH

15/10/2011 – 19:03

 Tôi là một người bệnh tật, nghèo khổ sống ở Giáo xứ Thuận Nghĩa, Q.Lưu, Nghệ An. Nơi đây đã sinh ra ông Thánh Phê rô: Vũ Đăng Khoa, đã tử vì đạo và đã được phong thánh vào danh sách 117 thánh tử đạo của Việt Nam.

 Tôi sinh ra đã bị bệnh rò tủy sống, nguy cơ chết là rất cao. Nhờ sự soi sáng của Chúa, tôi đã được một ân nhân bảo lãnh qua Mỹ chữa bệnh. Khi qua tới nơi được 2 ngày thì tôi được nhập viện, bệnh viện đó có tên là Shriner Hospital For Childern ở Portland, Oregon. Sau khi được ông giám đốc bệnh viện cho xét nghiệm thì ông bảo: Nếu trễ  thêm một thời gian nghắn nữa là tôi sẽ không sống được. Và ngay sau đó thì tôi được ký giấy để phẫu thuật, ca mổ xương cột sống  để chèn cho tủy không ra nữa dài tới 8 tiếng, trước khi mổ thì ông bác sỹ nói là sự thành công chỉ có 30/100% thôi, tôi thất vọng vô cùng nhưng rồi  cũng chấp nhận ký giấy và để cho họ phẫu thuật.

 Ca phẫu thuật thành công, tuy không chữa cho tôi đi được nhưng sự sống của  tôi đã được cứu, ông bác sỹ rất mừng vì ông nói đây là ca mổ đầu tiên  thành công chứ hầu hết các ca mổ như vậy thương bị thần kinh, tức là sau  khi mổ thì bệnh nhân sẽ không biết gì nữa, cho gì ăn nấy.

 Được 3 năm sau tôi phải trở về lại Việt nam và bệnh phát lại, gia đình tôi đã tạo hết mọi điều kiện để đưa tôi đi chữa tại các bệnh viện lớn  ở Hà Nội nhưng các bác sỹ ở đó nói là bó tay, không thể làm gì được Tôi không còn sức để chống cử nữa và gia đình tôi đi mời cha xứ vào xức dầu cho tôi và để tôi xưng tội chủ lễ trước khi chết. Sau khi đọc kinh, xưng tội chủ lễ xong thì mẹ tôi đi vào đền thánh Khoa cầu  nguyện và hái một số lá cây trong đền Thánh về sắc lên cho tôi uống. Sau  được 3 ngày thì tôi tỉnh và khỏe hẳn. Bây giờ thì bệnh của tôi cũng như  vậy nhưng lạ một cái là tôi vẫn khỏe mạnh, hiện tại thì tôi đi chữa bệnh  tại các bệnh viện lớn nhưng họ cũng không thể nào chữa được.

 Tôi thầm nghĩ đây là phép lạ Chúa đã làm cho tôi, Cầu xin các bạn hãy cầu nguyện với Chúa và những gì mình tin vào Chúa thì sẽ được.  Xin Chúa chúc phúc cho những người Mục tử, xin Chúa soi sáng cho họ để họ dẫn dắt đoàn chiên lạc của Chúa trở về. Xin cầu nguyện cho tôi và tôi sẽ cầu nguyện cho các bạn.

 nguồn:   thanhlinh.net

Thánh Gioan La San

  

 Thánh Gioan La San

    (1615 – 1719)

    Cố gắng chu toàn những gì được coi là thánh ý Thiên Chúa, đó là cuộc đời của Thánh Gioan La San. Năm 1950, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đặt ngài làm quan thầy của các bậc mô phạm vì nỗ lực của ngài trong việc giáo dục.

     Là một người trẻ của thế kỷ 17, Gioan có tất cả mọi sự: năng khiếu học thuật, đẹp trai, gia đình quyền quý giầu có và được giáo dục tử tế. Nhưng khi mới 11 tuổi, ngài xuống tóc đi tu làm linh mục, và sau đó được chịu chức vào năm 27 tuổi. Dường như một cuộc đời dễ dàng với phẩm trật cao trọng trong Giáo Hội đang sẵn sàng chờ đón ngài.

     Nhưng Thiên Chúa đã có những chương trình khác cho Cha Gioan, mà dần dà mới được tỏ lộ trong những năm sau đó. Trong một cơ hội gặp gỡ ông Nyel ở Raven, ngài cảm thấy muốn thiết lập một trường học dành cho các em trai nhà nghèo ở Raven, là nơi ngài đang sinh sống. Mặc dù công việc lúc đầu thật ghê tởm đối với ngài, nhưng sau đó, càng ngày ngài càng say mê hoạt động cho các thiếu niên nghèo túng.

    Tin rằng đây là sứ vụ mà Thiên Chúa đã trao phó, Cha Gioan hết lòng lao mình vào công việc, bỏ nhà, bỏ gia đình, bỏ cả chức vụ kinh sĩ ở Rheims, bán hết tài sản để trở nên giống như các người nghèo mà ngài đã tận hiến cuộc đời để phục vụ họ.

   Cuộc đời còn lại của Cha Gioan là sống sát với tu hội mà ngài đã thành lập, Các Thầy Trường Công Giáo (Sư Huynh La San). Tu hội này phát triển mau chóng và thành công trong việc giáo dục các nam thiếu niên của gia đình nghèo với phương pháp sư phạm mà Cha Gioan đề ra, đó là sự dạy dỗ cả lớp thay vì chỉ bảo cá nhân, và dùng tiếng bản xứ thay vì tiếng Latinh. Ðồng thời tu hội cũng còn mở trường huấn luyện các giáo chức và thiết lập trường nội trú cho các thiếu niên ngỗ nghịch của các gia đình giầu có. Yếu tố năng động đằng sau các nỗ lực này là mong muốn các thiếu niên trở nên một Kitô Hữu tốt lành.

     Mặc dù rất thành công, Cha Gioan cũng không thoát khỏi những thử thách, đó là sự đau lòng khi các sư huynh bỏ dòng, sự chống đối cay đắng từ các hiệu trưởng ngoài đời khi họ bực bội với phương pháp giáo dục mới và hữu hiệu của ngài, cũng như thường xuyên bị phe Jansen (*) thời ấy chống đối mà Cha Gioan kịch liệt phản đối lý thuyết của phe này trong suốt cuộc đời.

     Trong những năm cuối đời, vì bị bệnh suyễn và thấp khớp, ngài từ trần vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh khi được 68 tuổi, và được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh năm 1900.

    Lời Bàn

     Thật hiếm có ai hoàn toàn tận hiến cho ơn gọi của Thiên Chúa, bất kể ơn gọi đó là gì. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực của mình” (Mc 12:30b). Thánh Phaolô cũng có lời khuyên tương tự: “Bất cứ những gì anh chị em làm, hãy làm hết lòng…” (Colossians 3:23).

 Lời Trích

    “Còn gì cao quý hơn là uốn nắn tính tình của các người trẻ? Tôi tin rằng người biết uốn nắn tâm tính của giới trẻ thì cao trọng hơn mọi họa sĩ, điêu khắc gia và tất cả những người giống như vậy” (Thánh Gioan Chrysostom).

    * Jansen xuất phát từ học thuyết của Cornelius Jansen (1585 – 1638), giám mục của Ypres. Trong cuốn Augustinus, Jansen đề xướng nền thần học dựa trên học thuyết của Augustine về định mệnh. Thần học này khẳng định rằng loài người hoàn toàn hư hỏng vì tội nguyên tổ và theo bản năng, loài người thích làm sự dữ hơn sự lành. Bởi bản tính suy đồi, loài người không thể làm gì khác để đáng được ơn cứu độ. Sự cứu chuộc là do ơn của Chúa mà Ngài chỉ ban cho những ai được chọn. Phần đông nhân loại là bị án phạt đời đời.

   Sau khi xuất bản được hai năm, cuốn Augustinus đã bị GiáoHội Công Giáo lên án và cấm phát hành bởi Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII.

KỶ NIỆM 100 NĂM HÀN MẶC TỬ

Kỷ Niệm 100 Năm Hàn Mặc Tử Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt Dâng Lễ Lòng Chúa Thương Xót Cầu Cho Hàn Mặc Tử Tại Gxvn ParisKỶ NIỆM 100 NĂM HÀN MẶC TỬ, 1912-2012 (Bài 1 : Lễ cầu cho Hàn Mặc Tử)

Chủ nhật 15.04.2014, Đại lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt, Giám mục Địa phận Bắc Ninh, Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã ghé thăm Giáo xứ Việt nam Paris và dâng lễ với cộng đoàn. Cùng đồng tế với ngài, có 8 cha khác, trong đó có 5 cha sinh viên Việt nam đang tu học tại Paris và 3 cha thuộc Ban Giám Đốc Giáo Xứ : Đức Ông Mai Đức Vinh, cha Đinh Đồng Thượng Sách và cha Trần Anh Dũng. Đây là lần thứ hai mà Giáo Xứ Việt Nam Paris được hân hạnh Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt đến thăm. Cách đây ba năm, thứ bảy, 18 tháng 7 năm 2009, ngài đã tới viếng thăm Giáo Xứ Paris và Họ Đạo Bắc Ninh tại Pháp.

Xem hình

Mở đầu thánh lễ, Đức Ông Giuse Mai Đức Vinh, Giám đốc Giáo xứ, đã ngỏ lới chào mừng Đức cha Cosma, cám ơn ngài, vì, trên đường mục vụ đi giảng phòng cho các cha sinh viên Âu châu ở Thuỵ Sỹ, đã ghé thăm Giáo xứ Việt nam Paris, chủ tế thánh lễ, chia sẻ Lời Chúa và khai mạc Ngày Văn Hóa mừng sinh nhật 100 năm của thi sỹ Hàn Mặc Tử do Giáo xứ tổ chức, vào dịp sinh nhật thứ 22 của Thư viện Giáo Xứ Việt Nam Paris. Cả cộng đoàn đã vỗ tay chào mừng Đức cha Cosma.

Đáp lời, Đức cha Cosma, có khẩu hiệu giám mục là « Tình thương và sự sống » tỏ lòng vui mừng được cử hành thánh lễ kính Lòng Chúa Thương Xót với GXVN Paris. Ngài xin mọi người, trong niềm vui mùa Phục Sinh và trong niềm vui đã được Chúa Thương Xót, hãy cùng ngài, xin Chúa cho chúng ta, là những người đã được Chúa Thương Xót, biết thể hiện Lòng Chúa Thương Xót đối với mọi người. Và đặc biệt hôm nay, giáo xứ chúng ta tổ chức ngày nhớ đến sinh nhật 100 năm nhà thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta hãy cầu nguyện cho ông được Chúa Thương Xót và cho tất cả những người cần đến Lòng Chúa Thương Xót, nhất là những người bệnh phong cùi, và đặc biệt ở trại Quy Hòa, nơi mà nhà thơ đã ở và đã qua đời.

Trong thánh lễ, với tinh thần hiệp nhất và với tâm tình tôi trung, con thảo, Đức Cha đã dâng lời cầu nguyện cho những đấng bậc trong Giáo phận Bắc Ninh đã ra đi : Đức Cố Hồng Y Phaolô-Giuse Phạm Đình Tụng, Đức Cố Giám Mục Giuse Nguyễn Quang Tuyến,.. cùng các ân nhân, Ông Bà Cha Mẹ anh chị em trong giáo phận Bắc Ninh đã qua đời…Đặc biệt trong ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót và Giáo Xứ Việt Nam tổ chức Ngày Văn Hóa, kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của Hàn Mặc Tử, Đức cha cũng dâng lời cầu cho linh hồn Phanxicô của nhà thơ công giáo danh tiếng này.Chia sẻ Lời Chúa, Đức cha Cosma đã nhắc đến Tin Mừng Gioan, 20, 19-31 chủ nhật hôm nay và nhấn mạnh đến ba điểm.

Thứ nhất là « Lòng Chúa Thương Xót ». Chúa thương xót Tôma cứng lòng tin. Chúa thương xót Phêrô đã chối Thầy, thương xót các tông đồ đã bỏ thầy. Chúa thương xót tất cả chúng ta.

Năm 2000, Đức Gioan Phaolô II đã long trọng tuyên bố: “Trên khắp thế giới, Chúa Nhật thứ 2 sau Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa” và ban hành Thông điệp « Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót ». Giáo dân Việt Nam có lòng sốt sắng và sùng mộ « Lòng Chúa Thương Xót ». Đức cha đã dâng lễ tối hôm qua tại nhà thờ Tân Định với khoảng 3000 người. Sáng hôm nay ở Trung Tâm Mục Vụ Sài Gòn thánh lễ lòng Chúa Thương Xót có khoảng 15.000 người tham dự. Có một nhóm làm việc rất mạnh để cổ động và phổ biến « Lòng Chúa Thương xót ». Đức cha đang dự trù xây cất một đền « Lòng Chúa Thương Xót » gần sân bay Nội Bài.

Điểm thứ hai là sứ mệnh mang Lòng Chúa Thương Xót đến cho mọi người. Khi chịu chức linh mục (ngày 05.06.1976) cách đây 36 năm, Đức cha đã được một người bạn tặng bức ảnh Chúa chiên lành, vẽ người mục tử vác chiên lạc đã tìm được trên vai. Ngài rất cảm động vì đã được Chúa Thương Xót và có ý tưởng nhất tâm, là linh mục là phải mang Lòng Thương Xót Chúa đến cho mọi người. Hôm nay, được mời tham dự lễ « Kỷ niệm 100 năm Hàn Mặc Tử », làm ngài nhớ lại việc Chúa dun dủi để Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đề nghị ngài đi làm mục vụ cho người phong cùi. Ngài đã nhận lời ngay vì nghĩ rằng đấy là những người cần đến tình thương. Ngài đã đến trại phong, liên lạc, thăm viếng, gặp gỡ và giúp đỡ họ. Điều kiện sinh sống của họ rất là thiếu thốn, chật vật và khổ sở. Mỗi gia đình, vợ chồng, cha mẹ, con cái chỉ được một mảnh chiếu. Nhưng cái khổ nhất của những người bệnh phong là mặc cảm bị bỏ rơi, không được ai thăm viếng, không được tin tức gia đình. Họ rất cơ đơn. Một bà lão mất năm 74 tuổi. Khi vào đây 17 tuổi. Từ năm 17 tuổi đến năm 74 tuổi ở trại phong không có tin gì không được ai trong gia đình đến thăm viếng. Một ông cố và người con chết, có báo tin cho gia đình, nhưng chẳng ai vào thăm. Một bà cụ, gọi là bà cụ Sáu, được tôi mang Mình Thánh Chúa, nói với tôi rằng bà rất vui, vì được Chúa thương,… Đức cha đã làm việc mục vụ 16 năm ở trại phong cùi này, trại Thanh Bình, quận 2, Sài Gòn, từ 1986 đến 2002. Khi làm giám mục, ngài tìm lại thánh giá mà ngài đã làm cho các em giúp lễ trong trại phong. Ngài đã lấy thánh giá gỗ này làm thánh giá giám mục (Và ngài đã chọn khẩu hiệu giám mục là Tình thương và Sự sống). Khi ngài trở lại đây làm lễ thì các bổn đạo phong đã nhận ra thánh giá gỗ này và họ rất cảm động.

Điểm thứ ba là xã hội Việt Nam vô cảm hiện nay cần Lòng Chúa Thương Xót. Xã hội ngày nay người ta thờ ơ với nhau. Trước đây, khi du học tại Pháp, Đức cha thấy có Secours Catholique kêu gọi người ta, giúp đỡ người ta chỗ ngủ, bữa ăn. Ở Việt nam hiện nay không được như vậy. Ở trong lãnh thổ Bắc Ninh mấy chuyện mới xẩy ra làm cho người ta nghĩ rằng có nhiều người rơi vào tình trạng gọi là vô cảm. Một đứa con trai gần 18 tuổi ăn cướp tiệm vàng, rồi giết hai vợ chồng chủ, giết cả đứa con lớn 18 tuổi ; may thay đứa con 8 tuổi trốn dưới gầm bàn được thoát nạn ; Mà rồi đứa con trai giết người này chẳng có thái độ ân hận gì cả, coi như đó là chuyện thường tình. Cách đây hơn một tháng, một em bé giúp lễ trong một xứ đạo địa phận Bắc Ninh có một chiếc xe đạp mới, được một đứa trẻ khác khác lớn hơn rủ đến nhà chơi. Đứa trẻ lớn này chĩ độ 14 tuổi, đã giết em giúp lễ nhỏ rồi ném xác xuống ao, cướp xe đạp. Hôm sau nó đi học bình thường như không có gì xẩy ra. Mấy bữa sau xác em bé nổi lên, người ta mới điều tra và khám phá ra đứa trẻ giết người. Rồi mới đây, một cặp vợ chồng làm ăn thất bại, đến xin ở nhờ gia đình anh vợ. Sống chung, hai gia đình có sự lộn xộn, cãi cọ nhau. Người chồng ở nhờ đã giết người vợ và một đứa con 4 tuổi của ông anh. Người ta sống với nhau không còn có gì là tình thương nữa. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thấy và đã bảo rằng « Đất nước này cần một trái tim ».

Kết luận, Đức cha xin mọi người, trong thánh lễ Lòng Chúa Thương Xót hôm nay, hãy cầu nguyện. Xin cho mỗi người có một trái tim. Xin Chúa thay đổi cái xã hội việt nam vô cảm hôm nay, không còn biết trắc ẩn, không còn biết thương nhau. May thay, không phải tất cả người Việt Nam đều vô cảm. Vẫn còn những nữ tu lo cho các em bé khuyết tật, mồ coi, phong cùi. Là Kytô hữu, chúng ta phải biết thương yêu nhau, trước hết thương yêu nhau trong gia đình, rồi từ đó mang tình thương đến hàng xóm láng diềng, bạn bè, lan ra khắp giáo xứ và lan ra khắp xã hội. « Giáo hội là Thiên Chúa có trái tim của bà mẹ và là bà mẹ có trái tim của Thiên Chúa ». Xin Chúa cho chúng ta, trong giáo xứ này và trong toàn giáo hội, có trái tim của bà mẹ và trái tim của Thiên Chúa.

Nhân ngày « Kỳ niệm 100 năm Hàn Mặc Tử », người đã được hưởng Tình Thương của Chúa, chúng ta cũng nhớ đến ông, cầu nguyện cho ông và cho những người bị bệnh phong khác.

Trong phần lời nguyện giáo dân, một lời nguyện đặc biệt đã được dâng lên Lòng Chúa Thương Xót : « Thánh giá gỗ đeo trên ngực Đức Cha Cosma là do những người phong tại trại cùi Quả Cảm (Bắc Ninh) làm ra. Đó là biểu tượng sự giao hòa giữa đức tin, đức mến trong đức cậy. Trong thánh lễ mở đầu ngày văn hóa, kỷ niệm 100 ngày sinh của Hàn Mặc Tử, cộng đoàn giáo xứ nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho vị giám mục người cùi ; và các con cái của người được bàn tay dịu hiền của các nữ tu công giáo chăm sóc tại các trại cùi Quy Hòa , nơi thi nhân cất lời ngợi ca các nữ tu dòng thánh Phanxicô xuống giữa loài người mà an ủi người phong, trại cùi Quả Cảm nơi quê hương quan họ, trại cùi Di Linh, quê hương thứ hai của đức cha Cassaigne, trại cùi Bến Sắn của các nữ tu dòng Bác Ái, các trại cùi và các công trình bác ái của Giáo hội trên quê huơng yêu dấu. Chúng ta cùng cầu nguyện ».

Sau khi đã dùng cơm chung với cộng đoàn giáo xứ, Đức cha Cosma đã đến không gian văn hóa, khai mạc Ngày Văn Hóa thứ 22 do Thư Viện Giáo xứ tổ chức, để kỷ niệm sinh nhật thứ 100, 1912-2012, của thi sỹ Hàn Mặc Tử.

Lời Kết

Trong khuôn khổ nhỏ bé của mình, Giáo xứ Việt Nam đã nghĩ đến văn hóa công giáo việt nam một cách thiết tha và đã thực hiện một chương trình « Kỷ niệm 100 năm Hàn Mặc Tử » tương đối đầy đủ. Qua Thánh lễ Lòng Chúa Thương Xót, Giáo xứ đã cử hành « Lễ cầu cho Hàn Mặc Tử ». Sau thánh lễ, qua chương trình văn hóa, giáo xứ được nghe hát bài tình sử « Hàn Mặc Tử », được nghe diễn thuyết về « Thinh lặng và siêu thoát trong thơ Hàn Mặc Tử », được nghe cảm tưởng về « Thơ Tin, Cậy, Mến của Hàn Mặc Tử », được nghe cảm tưởng chung về « Ngày văn hóa Hàn Mặc Tử », được nghe và xem « Hàn Mặc Tử, người lữ hành dưới trăng ».

Với sự hiện diện chủ tế thánh lễ và tham dự khai mạc chương trình văn hóa của Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt, Tổng Thơ Ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, phải chăng Giáo Xứ Việt Nam Paris đang cùng Giáo Hội Việt Nam khắp nơi « Kỷ niệm 100 năm Hàn Mặc Tử » ?

Có phải Giáo xứ và các giáo dân Việt Nam đã thấy hay đang mong ước thấy « Những Hàn Mặc Tử mới đang lớn lên » ?

Paris, ngày 18 tháng 04 năm 2012

Trần Văn Cảnh                                                    Nguồn: Vietcatholic.net

AI ĐÃ THÀNH LẬP GIÁO HỘI VIỆT NAM

 AI ĐÃ THÀNH LẬP GIÁO HỘI VIỆT NAM?    

Tác giả:  Gs. Nguyễn Đăng Trúc (chuyển ngữ).
 
 LTS Tập San Định Hướng :  Nhật báo Công Giáo Pháp La Croix ngày 18/1/1996 tường trình về chuyến viếng thăm chính thức của phái đoàn hàng giáo phẩm Công Giáo Pháp đến Việt Nam. Phái đoàn do Tổng Giám Mục Joseph Duval, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp hướng dẫn. Ký giả Frédéric Mounier viết rằng: “Cho đến ngày 28-1, các Giám Mục Pháp sẽ gặp các Giám Mục Việt Nam. Chuyến đi sẽ dẫn họ từ Hà Nội đến Huế. Dẫu có lời yêu cầu của họ, chính quyền không cho phép họ đi đến miền Nam. Đức Cha Duval nhấn mạnh đến “bổn phận” của Giáo Hội Pháp đối với Giáo Hội huynh đệ Việt Nam. “Giáo Hội này có gốc từ Pháp, nó đã được thành lập nhờ những nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Như thế trong tinh thần của những người đã khai sáng nên Giáo Hội này, đây đúng là một cuộc hành hương”. Mười Linh Mục của Hội Thừa Sai Balê đã chết tử đạo tại đây, và đã được phong thánh…”.

Lối tường trình sự kiện và nội dung câu trích dẫn lời phát biểu (nhấn mạnh) của Giám Mục Joseph Duval đã dấy lên một câu hỏi cho Roland Jacques, một nhà nghiên cứu về lịch sử Giáo Hội Việt Nam: trên bình diện khách quan của lịch sử, có những vấn đề nào cần lưu ý về lời phát biểu này?. Tháng 2-96, Roland Jacques đã viết thư cho Đức Tổng Giám Mục Joseph Duval để trình bày về quan điểm của mình liên quan đến lời phát biểu đó.

Một bản văn tóm lược bức thư này đã được đăng trên nhật báo La Croix vào tháng 6-1997. Nguyên bản bức thư được Nguyễn-Đăng-Trúc, dịch ra Việt ngữ  và đăng  trên Tập San Định Hướng số  14 / Winter 1997  Pp 120-124- *  Tập San Đinh Hướng,  Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ

  Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có phải phát xuất từ Pháp không? 

 

Ts Roland Jacques.

           Gs khoa trưởng Phân khoa Giáo Luật,

Đại hc Công Giáo St Paul, Ottawa, Canada

  Thư gởi Đức Cha Joseph Duval,

 Chủ Tịch Hội Đồng Các Giám Mục Pháp.

 Kính Đức Cha, 

Nhật báo Công Giáo La Croix ngày 18-1-1996 đã cho phổ biến một bài báo ký tên Frédéric Mounier với tựa đề: “Giáo Hội Pháp quay lại với Giáo Hội của Việt Nam”. Cơ hội để có bài báo này, một bài báo vốn rất đáng lưu ý, là cuộc khởi hành của một phái đoàn Giám Mục Pháp đi Việt Nam. Ký giả trích dẫn trong ngoặc kép những lời phát biểu mà Đức Cha đã nói để giải thích lý do chuyến viếng thăm này: “Giáo Hội này có gốc từ Pháp, nó đã được thành lập nhờ những nỗ lực của các nhà truyền giáo Pháp”. Có lẽ người ta đã méo mó những lời nói của Đức Cha, nhưng dẫu sao một sự xác quyết như thế là một sự sai lầm lịch sử, và là một phương cách rất đáng tranh cãi để chuẩn bị khung cảnh (thuận lợi) cho cuộc gặp gỡ. 

Ai đã thành lập nên Giáo Hội Việt Nam? 

Trả lời cho câu hỏi có tính cách lịch sử này, phải khẳng định (sans ambiguité) rằng các vị thành lập, kể từ năm 1615, là những giáo sĩ dòng Tên của tỉnh dòng Nhật Bản, tỉnh dòng có tính cách quốc tế trong việc tuyển chọn (nhân sự) và thuần túy Bồ Đào Nha trong các mối lệ thuộc về mặt pháp lý. Từ thế kỷ 16, các vị thừa sai Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha thuộc nhiều Hội dòng tu khác nhau đôi lúc đã cố thử mở đường rao giảng Phúc Âm, nhưng phải đợi đến phương pháp và sự kiên trì quyết tâm của các tu sĩ dòng tên để thấy được những hy vọng đó được cụ thể hóa. Khi những vị người Pháp đầu tiên – các tu sĩ Joseph Francis Tissanier và Pierre Jacques Albier – đi tàu biển đến xứ này vào năm 1658, thì có gần 70 vị truyền giáo gồm tám quốc tịch đã tiếp tục nhau đến trước, trong số đó có 35 vị người Bồ Đào Nha, 19 vị người Ý và 7 vị người Nhật. Vào chính thời gian này, theo những ước tính lạc quan nhất, thì số người Kitô hữu Việt Nam đã có trên 100.000 rải rác trong vài trăm cộng đoàn địa phương. Những người giáo dân được đào tạo kỹ lưỡng hướng dẫn họ; (những giáo dân này) có đủ khả năng để đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn nhất; ngay từ các năm 1644 đến 1645, họ đã có những vị tử đạo của họ, đó là những vị tử đạo đầu tiên với một danh sách rất dài.

Thật sự có sự kiện là lịch sử được viết theo lối người Pháp cố nêu lên sự nghiệp to lớn này cho một mình cha Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên cần thiết phải đặt lại con người truyền giáo nổi danh này trong khung cảnh thực (của lịch sử). Ngài sinh tại Avignon, lãnh địa của Giáo Hoàng, cha Rhodes cũng không phải người Pháp như trường hợp của thánh François de Sales, dẫu ngài thuộc nền văn hóa Pháp như vị kia. Ngài vào Hội Dòng Chúa Giêsu tại Roma, và chính lý lịch Roma này đã cho phép ngài được đi đến Đông Phương vào một thời kỳ mà người Pháp không có quyền. Khi cha Rhodes đến Việt Nam vào năm 1624, các nền tảng xây dựng Giáo Hội Kitô giáo đã được thành lập vững chắc tại vùng miền Trung; công trạng lớn lao của ngài là đã đưa cuộc truyền bá Phúc Âm đến miền Bắc xứ này; ở đây ngài chỉ lưu lại một thời gian duy nhất từ năm 1627 đến năm 1630 và đó là một thành quả lớn lao cho việc truyền giáo. Ngoài ra, tên tuổi ngài được gắn liền với các công trình ngữ học về tiếng Việt nhờ những tác phẩm ngài đã xuất bản tại Âu Châu vào năm 1651. Trong lãnh vực này cũng như trong công việc truyền giáo nói riêng, sự thành công của ngài lệ thuộc vào công trình của các vị tiên phong đi trước ngài. Đây là một công trình tập thể rõ rệt, không thể gán cho công lao một xứ nào riêng, dẫu người Bồ Đào Nha gián tiếp đã là những bậc thầy thi công, cũng như họ là những người thợ đông nhất. 

Hội Dòng Truyền Giáo Ngoại Quốc Paris (MEP) và các vị tử đạo. 

Khởi từ năm 1664 (miền Trung Việt Nam) và 1666 (miền Bắc), Hội Dòng Truyền Giáo Ngoại Quốc Paris đã cống hiến một thế hệ thứ ba các người thợ Phúc Âm, và đặc biệt những vị Giám Mục đầu tiên mà Roma muốn ban cho Giáo Hội còn trẻ này. Tiếp đó, các Cha đường du Bac đã đóng một vai trò có tầm vóc quan trọng to lớn không thể chối cãi được trong Giáo Hội của Việt Nam. Nhưng không vào một thời kỳ nào bất kỳ, kể cả dưới thời thực dân Pháp trong các năm của thập niên 1860, các vị truyền giáo Pháp không phải đã là những vị truyền giáo duy nhất tại Việt Nam. Tác giả bài báo đã nhắc lại rất đúng rằng mười trong các vị truyền giáo Pháp đã bị giết chết vì đức tin trong thế kỷ 19; cách đây vài năm, họ được tôn vinh vào bậc thánh tử đạo cùng một lúc với 96 vị tử đạo tại Việt Nam. Nhưng khi nói đến các vị truyền giáo ngoại quốc chịu tử đạo, có lẽ đúng hơn đừng cho người ta hiểu rằng người Pháp là những vị tử đạo đầu tiên, và chỉ có người Pháp mà thôi. Trong nhóm các vị thánh đã được Giáo Hội tôn vinh, thực ra có 11 vị dòng Đaminh gốc Tây Ban Nha, mà những vị lâu đời nhất trong họ đã từng chịu án tử ngay từ năm 1745, nghĩa là 88 năm trước thánh François Isidore Galelin. Còn những vị tu sĩ Dòng Tên thuộc tỉnh dòng Nhật bản, họ lại đã đi trước tất cả các vị này, với hai vị tử đạo người Ý vào năm 1723, ba vị người Bồ Đào Nha và một vị người Đức vào năm 1737; sự việc Roma đã chưa chuẩn y sự tử đạo của hai nhóm này lệ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử, trong đó các nạn nhân này không can dự gì. 

Những người Công Giáo Việt Nam và nước Pháp.

Trong các lời nói của Đức Cha, không phải chỉ có sự sai lầm lịch sử là đáng tiếc. Thật vậy, hẳn nhiên là vô tình, nhưng Đức Cha đã mang lại một thế dựa cho một luận cứ từng gây nên nhiều tai hại cho người Công Giáo Việt Nam, và luận cứ đó từ mấy năm nay lại dấy lên lại một cách mạnh mẽ. Lời mỉa mai của dân chúng hoặc cả đến các giáo sư đại học tên tuổi đã từng kịch liệt chứng minh về sự thông đồng giữa Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp và sự lan tràn của đạo Công Giáo vào Việt Nam. Nhiều đợt, người Công Giáo xứ này đã phải đương đầu với lời luận tội như là “đảng” của người ngoại quốc, đóng vai kẻ thù của xứ sở. Hôm nay cũng như hôm qua, ở Việt Nam và ở hải ngoại, nhiều người thuộc nhiều chủ trương ý hệ khác nhau dường như muốn thấy tôn giáo nhập cảng từ trong các gói hành lý của người Pháp (theo lối nói của họ) tan biến đi. Nếu ngày nay các mối liên hệ của Giáo Hội Việt Nam với các Giáo Hội anh em trên toàn thế giới còn gặp nhiều khó khăn, một phần lớn cũng do sự nghi ngờ luôn hiện hành này, do chính sự bất công lịch sử trong đó chúng ta, những người Pháp, không phải là bàn tay hoàn toàn sạch.

Vào lúc lên đường đến Việt Nam, Đức Cha thấy phải khẩn trương để nhắc lại cho Giáo Hội xứ này một nguồn gốc người Pháp nặng tính cách giả thiết này hay không? Làm như thế, các lời nói của Đức Cha dường như lại đặt Giáo Hội ấy trong một vị thế mãi lệ thuộc và mang nợ với Giáo Hội Pháp, hoặc nước Pháp nói gọn như thế; các lời ấy củng cố cho những lập trường của những người gièm pha Giáo Hội Việt Nam, và làm giảm uy thế những luận chứng của tất cả những ai đang nỗ lực thiết định lại chân lý lịch sử hầu trả lại danh dự cho Giáo Hội Việt Nam.

Kính thưa Đức Cha, không phải như thế, Giáo Hội Việt Nam không phải phát sinh do người Pháp. Giáo Hội đó là con của Giáo Hội hoàn vũ đúng theo mẫu mực điển hình của nó; trong thời còn non trẻ, Giáo Hội này đã hưởng được sự cung ứng của nhiều nền văn hóa và truyền thống dị biệt, cho phép nó dần hồi bước đến tuổi trưởng thành theo con đường đặc thù của mình. Ngày nay, khi phải đương đầu với nhiều vấn đề, Giáo Hội này ưu tiên phải (tự củng cố), xác định vị thế đặc thù của mình, tìm lại chỗ đứng trọn vẹn trong lòng của xã hội Việt Nam và trong nền văn hóa có từ ngàn năm của Việt Nam, với những giá trị mà Giáo Hội đó đang ôm sẵn và chúng cũng là những giá trị của Công Giáo tính phổ quát. Trong viễn tượng này, Giáo Hội Việt Nam không cần đến một quyền lực đỡ đầu, nó không chờ đợi để được “bú mớm” bởi bất cứ ai. Người Công Giáo Việt Nam chỉ cần tìm lại những mối liên hệ hiệp thông, chia sẻ và liên đới cụ thể hơn và thiết thực hơn với những người Kitô hữu anh em trên thế giới, như bao nhiêu người Công Giáo trong tất cả các xứ khác. Chúng ta hết lòng mong mỏi rằng cuộc viếng thăm của phái đoàn Giám Mục Pháp sẽ cống hiến điều đó.                                  

Nguồn: conggiaovietnam.net

Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Vài suy nghĩ về ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

một chứng nhân cho đức tin tình yêu Thiên Chúa

và tinh thần khiêm tốn, phó thác

  by Msgr Peter Nguyen Van Tai

 Vài suy nghĩ về ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: một chứng nhân cho đức tin,  tình yêu Thiên Chúa và tinh thần khiêm tốn, phó thác.

(Radio Veritas Asia – 17/09/2002) – ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình qua đời lúc 18 giờ (giờ Roma) thứ hai  ngày 16/09/2002, tại “Bệnh Viện Pio XI” ở Roma, trên đường Aurelia, sau bốn tháng điều trị, trước hết tại  Bệnh viện Gemelli và sau đó Bệnh Viện Pio XI, nơi người qua đời.

Sau lễ Phục sinh năm 2001, ÐHY đã được giải phẫu tại Boston (Hoa kỳ). Cuộc giải phẫu lần thứ hai vào tháng 5 năm  2002, được làm tại Trung tâm ung thư quốc tế ở Milano, một trong bẩy trung tâm thời danh chuyên về ung thư trên thế giới: Milano, Lyon, Paris, London, Amsterdam, Washington và Tokyo. Sau hai cuộc giải phẫu, bệnh tình của ÐHY không khả quan hơn. Thực ra chứng ung thư của ngài có tính cách khác thường. Tại Ý cứ một triệu người mới có một người mắc chứng ung thư này. Tuy vậy, trên nguyên tắc, chứng ung thư nầy không phải là chứng bệnh không thể chữa được. Nhưng trong trường hợp của ÐHY, thì chứng bệnh ung thư,  đã đi vào giai đoạn  khó khăn. Vì thế, trong cuộc giải phẫu lần thứ hai tại Milano, nhóm bác sĩ không thể làm gì hơn. Trong  những tháng điều trị tại hai bệnh viện ở Roma. Không bao giờ nghe ÐHY than phiền. Trong những lúc đau đớn, bác sĩ muốn cho thuốc làm dịu cơn đau, ngài không muốn, hay chỉ dùng một chút, để làm vui lòng bác sĩ mà thôi. Dù trong tình trạng yếu mệt, ngài không bao giờ từ chối các người đến viếng thăm. Ngài nhớ từng người và có lúc còn khôi hài, để làm cho các người viếng thăm lên tinh thần. Chỉ trong ít ngày trước khi qua đời, vì quá yếu sức, ngài mở mắt như chào các người viếng thăm, nhưng không nói gì nữa.

Nói đến đây, chúng tôi nhớ lời ngài thuật lại trong thời gian ở tù, như sau: “Nếu tôi đợi đến lúc được trả tự do mới làm việc, thì không biết chờ đợi đến bao giờ. Chúa cho mình ở trong tình trạng này, mình làm việc theo hoàn cảnh này”. Có thể trong những tháng trên giường bệnh, ÐHY cũng theo nguyên tắc như lúc ở trong tù: làm việc trong cơn bệnh và làm tông đồ, truyền giáo bằng đau khổ lại có giá trị và công hiệu lớn lao hơn nữa, vì được cộng tác với công việc cứu chuộc của Chúa Kitô trên Thánh giá. Những ai đọc các sách ngài viết, có thể hiểu ngài đã sống những điều ngài viết ra như thế nào. Ngài đã sống những điều ngài đã viết ra.  Những người đã đọc sách của ngài và nghe ngài giảng đều công nhận ngài là chứng nhân của đức tin, của tình yêu và của tinh thần khiêm tốn, phú thác.

Chứng nhân của Ðức tin – ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận không phải đổ máu như nhiều vị tử đạo trong các thời kỳ bách hại, nhưng trong hơn 13 năm tù, ngài đã sống  “Via Crucis” (chặng đường Thánh giá) của Chúa Giêsu. “Per Crucem ad Lucem”: qua đau khổ mới tới vinh quang.

ÐHY Phanxicô là chứng nhân của tình yêu. Trong những năm sống trong tù, ngài chỉ dùng tình yêu thương để chinh phục các người gây đau khổ cho ngài hoặc anh em công an canh giữ ngài. Trong những năm làm việc tại Roma, chúng tôi thường đến viếng thăm ngài, nhưng không bao giờ nghe ngài nói xấu ai, cả những người đã gây đau khổ, tù đầy cho ngài. Ngài không hở miệng chỉ trích Nhà Cầm quyền đã giam tù ngài. Ngài chỉ lấy đức ái đáp lại những lời chỉ trích, vu khống,  theo gương Chúa Giêsu trên Thánh giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là gương mẫu đức khiêm tốn, phú thác. Trong những năm ngài sống tại Roma, mọi người đều thấy rõ sự khiêm tốn của ngài, cách riêng các vị cộng tác của ngài tại Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình. Một vị cấp cao của cơ quan làm chứng rằng: “Ngài thật  là người cha của riêng tôi và của tất cả chúng tôi”. Luôn luôn hiền từ, dịu dàng, nhã nhặn, khiêm tốn với người trên cũng như người dưới. Ân cần hỏi thăm, và hiểu biết từng nhân viên làm việc với mình.

Vì là chứng nhân của đức tin, của tình yêu thương, và khiêm tốn – phú thác, ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã được mọi người mến phục, không phải chỉ các người thường dân, nhưng cả các vị cấp cao trong Giáo hội hoặc thuộc giới chính trị, trí thức, ngoại giao. Ngài đã được mời diễn thuyết tại Ðại học Nhà nước ở Roma hai lần. Vào các ngày Chúa nhật, ngài thường được mời  đi giảng hay diễn thuyết nơi này, nơi kia, không những trong nước Ý, nhưng còn tại Pháp, Ðức, Thụy sĩ, Hoa kỳ. Ngài không đi nghỉ hè. Ngài dùng các ngày nghỉ để đi giảng hoặc diễn thuyết các nơi. Vì chứng tá đời sống của ngài, nhiều giám  mục Ý và nước ngoài thường mời ngài giảng tuần tĩnh tâm cho các linh mục hoặc thanh niên. Trước khi đi Milano giải phẫu, theo lời thỉnh cầu của ÐHY Giovanni Battista Re, Tổng trưởng Bộ Giám mục, bạn thân của ngài, đã mời ngài đến Brescia giảng. ÐHY Camillo Ruini, Tổng đại diện Roma, thường mời ngài giảng tại Ðền thờ Thánh Gioan in Laterano cho nhóm nay, nhóm khác… Với sự khiêm tốn ngài trả lời: “Chúng con ở trong giáo phận Roma, con cái ÐHY. ÐHY dạy bảo  gì con xin vâng như vậy”. Vì là một chứng tá sống động, ÐTC chỉ định ngài giảng Tuần tĩnh tâm của Giáo Triều, với sự hiện diện của ÐTC. ÐHY  nhận với nhiều lo sợ. Trở lại nhà,  ngài chạy vào nhà nguyện quì gối cầu nguyện: “Lạy Chúa xin dạy con phải nói gì”. Ðơn sơ, khiêm tốn, phú thác: đây là tinh thần của ÐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài qua đi, nhưng sách vở và nhất là chứng tá đời sống của ngài sẽ không qua đi.

Vài nét chấm phá về Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận:   xem thêm

Bài vở liên quan đến Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận    xem thêm