Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Ma-ri-a Kôn-bê, linh mục, tử đạo (Maximilian Mary Kolbe) (1894-1941) – Cha Vương

Chúc bình an, hôm nay 14/08 Giáo Hội mừng kính Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Ma-ri-a Kôn-bê, linh mục, tử đạo (Maximilian Mary Kolbe) (1894-1941). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Th 5: 14/8/2025   t2-23

Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô chào đời vào ngày 7 thánh giêng năm 1894, tại Zund-Wola, thuộc nước Balan. Bố mẹ đặt tên là Raymond. Năm 1907, thánh nhân nhập dòng Phan sinh và lấy tên là tu huynh Maximilian. Ngài được gởi sang Rôma để học triết học và thần học. Kolbe thụ phong linh mục vào năm 1918. Sau khi trở về Ba lan, Ngài thành lập đội Đạo binh Đức Mẹ vô nhiễm. Năm 1927, Kolbe thành lập hội ”Thành Phố Đức Mẹ vô nhiễm”.  Hội này phát triển và lan rộng tại Ba Lan và nhiều nước khác.

Trở về Ba Lan năm 1936, cha phải chịu nhiều cuộc bách hại của Gestapo (mật thám Đức Quốc xã). Ngày 17 tháng 2 năm 1941, Maximiline bị bắt và giam vào trại Auschwitz, với số hiệu tù nhân: 16670.

Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. “Tên này.” “Tên kia.” Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng. Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng. “Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con. “Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng. “Mày là ai?” “Là một linh mục.” Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.

Trong “hầm tử thần” tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày áp lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (14 tháng 8 năm 1941) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như những tù nhân khác. Đức Thánh Cha Phaolô VI phong chân phước cho Ngài vào năm 1971. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh vào năm 1982. Mời bạn hãy noi gương thánh nhân qua việc suy gẫm những câu nói của ngài và can đảm làm một việc bác ái nho nhỏ hôm nay nhé.

(1) Thiên Chúa cho phép mọi việc xảy ra để nhắm đến một phúc lành lớn hơn.

(2) Chúng ta hãy để Mẹ hướng dẫn, hãy đưa tay cho Mẹ dắt dìu, hãy sống yên hàn dưới sự dẫn dắt của Mẹ; chính Mẹ sẽ chăm sóc và tiên liệu mọi sự cho chúng ta, sẽ mau mắn cứu giúp, đáp ứng những nhu cầu hồn xác, đẩy lùi những khó khăn phiền toái cho chúng ta.

(3) Chính sự vâng phục, và chỉ có sự vâng phục mà thôi, mới cho ta biết chắc ý muốn của Thiên Chúa.

(4) Chừng nào chúng ta phải hy sinh ý riêng, chừng đó lòng yêu mến đó được thể hiện rõ ràng hơn cả.

(5) Bạn đừng e sợ rằng: bạn dành cho Mẹ Maria quá nhiều tình yêu. Liệu tình yêu của bạn có hơn tình yêu Chúa Giêsu dành cho Mẹ.

❦  Câu nào đánh động bạn nhất?

From: Do Dzung

************************

Con Chúa Hy Sinh – Hiệp Lễ

YouTube player

Sau cuộc biển dâu-  Phạm Tín An Ninh      

 Phạm Tín An Ninh    

(câu chuyện từ một bộ quân phục)

Phạm Tín An Ninh

Tôi gặp và quen anh trong một trường hợp khá bất ngờ, có thể nói là hơi kỳ cục. Vợ chồng tôi đến thăm và ở lại nhà cô con gái út hai tuần. Cháu vừa mua được căn condo trong một khu nhà mới xây ở thành phố Anaheim, cách Khu Disneyland chỉ một con đường. Đêm nào, bọn tôi cũng ra balcon ngắm pháo hoa được liên tục bắn lên từ khu giải trí nổi danh này. Căn nhà nhỏ khá xinh và ở trong một khu an toàn, cô con gái út rất thích. Nhưng chỉ sau vài hôm, cứ đến một hai giờ khuya thì cả nhà phải thức giấc, bởi tiếng lục đục ở căn nhà tầng trên. Âm thanh của một vật cứng nào đó gõ xuống nền nhà. Không đều đặn, năm ba phút một lần, dù nhẹ nhưng cũng đủ làm buốt trong đầu.

Sáng hôm sau, cô con gái nhờ tôi lên nói chuyện với chủ nhà, yêu cầu chấm dứt các tiếng gõ khó chịu vào giữa khuya ấy, để chúng tôi không bị mất ngủ, đặc biệt cô con gái phải đi làm khá sớm.

Sau hai lần bấm chuông, một người đàn ông mở hé cửa, gật đầu chào. Rất may, lại là một đồng hương. Chưa nói chuyện với chủ nhà, nhưng tôi đã thoáng hiểu được nguyên nhân gây ra tiếng động. Ông ta chống hai cây nạng gỗ. Mọi bực tức trong tôi bỗng dưng biến mất, những lời “cảnh cáo” tôi dự định sẽ nghiêm mặt nói với ông cũng tan biến theo. Tôi lễ phép chào ông, bảo là tôi ở tầng dưới, muốn đến thăm và làm quen với người đồng hương láng giềng. Ông nở nụ cười, làm rạng rỡ phần nào khuôn mặt khắc khổ, đã có nhiều vết nhăn, một phần được che phủ bới mái tóc dài bạc trắng.  Ông mở rộng cửa mời tôi vào nhà. Tôi hơi khó chịu với mùi khói thuốc lá và cả mùi rượu.

   – Anh ở đây một mình? Câu đầu tiên tôi hỏi.

   – Vâng, thỉnh thoảng có cô con gái đến thăm.  Cháu ở trên Riverside, cách đây khoảng gần một giờ lái xe.

Căn nhà nhỏ một phòng ngủ, phòng khách chưng bày đơn giản. Điều làm tôi chú ý là hai tấm ảnh treo trên vách, phía sau bàn ăn. Một tấm là chân dung của một người lính, tấm kia là ảnh gia đình. Thấy tôi chăm chú nhìn, anh cười, bảo là ảnh của anh và vợ con anh lúc xưa. Anh chống nạng đứng lên, như có ý mời tôi đến xem.

Tôi tròn mắt ngạc nhiên, tấm ảnh chân dung là một sĩ quan trẻ, mang cấp bậc thiếu tá, trông khá đẹp trai, phảng phất nét hào hùng. Trên ngực mang khá nhiều huy chương. Tấm ảnh kia anh chụp với người vợ xinh đẹp và hai đứa con kháu khỉnh.  Lòng tôi bỗng chùng xuống, như vừa chạm vào một vết thương cũ. Tôi bất giác quay người lại, đứng nghiêm đưa tay chào:

  – Xin chào niên trưởng!

  Anh tròn mắt bất ngờ, rồi đưa tay ra bắt tay tôi. Sau này, tôi được biết tấm ảnh chân dung này anh chụp sau khi được thăng cấp thiếu tá tại măt trận Quảng Trị tháng 10 năm 1971, khi anh đang là tiểu đoàn phó, thay vị tiểu đoàn trưởng bị trọng thương, chỉ huy đơn vị phá vòng vây địch,  tạo một chiến thắng lẫy lừng.

 Chúng tôi trở nên đôi bạn thân thiết kể từ hôm ấy. Hình như giữa chúng tôi có điều gì đó cùng “tần số” với nhau. Trước đây anh sống rất âm thầm, khép kín, không muốn gặp gỡ tiếp xúc một ai, kể cả những người quen biết cũ. Sau này, cứ mỗi lần đến nhà cô con gái tôi đều ghé thăm anh, mang theo cho anh một ít nem chua Ninh Hòa mà anh rất thích. Anh say sưa kể cho tôi nghe một thời hào hùng trong binh nghiệp. Anh nức nở khi nhắc tới những vị đàn anh, những đồng đội hào hùng đã phải hy sinh oan khiên tức tưởi, đặc biệt trong trận chiến Hạ Lào- Lam Sơn 719. Người được anh nhắc đến nhiều nhất, ngưỡng phục và thương tiếc nhất là Cố Đại Tá Lê Huấn, một vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi nổi danh, tốt nghiệp Khóa 18 VBĐL mà có một thời anh được phục vụ dưới quyền.

Anh bảo tôi vào phòng ngủ để anh cho xem một kỷ vật. Anh bật đèn lên tôi ngạc nhiên khi thấy một bộ quân phục. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đây là một bộ quân phục tác chiến đã cũ, có những vết sờn rách, được giặt ủi cẩn thận và treo trong một cái tủ kính nhỏ. Loại tủ để chưng bày. Anh mở cửa tủ và cẩn thận lấy bộ quân phục, ôm vào người một cách trang trọng. Đôi mắt mơ màng như đang tìm về một quá khứ xa xăm nào đó. Anh thốt ra môt giọng trầm buồn. Dường như là để nói với chính anh hơn là với tôi, người đang đứng ngay trước mặt anh:

– Đây là bộ đồ trận của anh ấy, anh Lê Huấn.

Sau chiến thắng lẫy lừng tại Căn Cứ O’Relly, khi tiểu đoàn anh dưới tài chỉ huy tài ba của Trung Tá Lê Huấn đã đánh tan một lực lượng địch cấp trung đoàn của Sư Đoàn 304 BV, tháng 8/1970 tiểu đoàn lại đánh một trận khốc liệt với một đại đơn vị khác cũng của Sư Đoàn 304 BV này tại Hải Lăng, Quảng Trị. Khi ấy anh đang là đại đội trưởng thâm niên nhất của tiểu đoàn. Cả hơn một trung đoàn địch, sau nhiều đợt tiền pháo kinh hoàng đã đồng loạt xung phong nhằm tràn ngập vị trí đóng quân của tiểu đoàn 4/1. Trung Tá Lê Huấn rời khỏi hầm chỉ huy, đích thân điều động đơn vị quyết chiến trước một cuộc thư hùng sinh tử. Từng đợt địch quân bị đốn ngã ngay trước giao thông hào, nhưng bọn chúng như là những con thiêu thân lao vào lửa, lớp này ngã lớp khác lại xông tới. Nhờ sự chiến đấu kiên cường của đơn vị anh, và đặc biệt dưới sự chỉ huy tài tình và gan dạ của vị tiểu đoàn trưởng lừng danh, đã ngăn chặn, tiêu hao và cầm chân địch trước khi được những phi vụ không yểm, đánh trên đầu địch. Những trận không kích gây thiệt hại nặng nề cho địch nhưng cũng làm bị thương một số binh sĩ của đơn vị, vì khoảng cách giữa ta và địch quá gần. Anh là một trong những người bị trọng thương hôm ấy. Trời tối và mưa lớn, lưới phòng không dày đặc, không tản thương được, Anh Lê Huấn ra lệnh ban quân y mang anh vào nằm trong hầm chiến đấu của anh Huấn để được tương đối an toàn và  băng bó chữa trị cấp thời. Thấy máu và bụi bặm thắm đầy bộ chiến y ướt đẫm nước mưa của anh, vị tiểu đoàn trưởng bảo người lính cận vệ lấy bộ áo quần trong ba-lô của mình mang đến thay cho anh. Khi tản thương về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, nhiều bác sĩ cứ tưởng anh là Trung Tá Lê Huấn, bởi bảng tên và cả cái lon trung tá còn nguyên trên ngực và cổ áo.

Vết thương chưa lành, nằm trong Quân Y Viện mà lòng anh rất nôn nao khi biết tin đơn vị tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719. Một kế hoạch qui mô với sự tham chiến của hầu hết các đơn vị chiến đấu thuộc Vùng I:  Sư Đoàn 1BB, các đơn vị Thiết Giáp, Biệt Động Quân, cùng với các Lữ Đoàn Nhảy Dù và TQLC. Anh khao khát được có mặt cùng đơn vị trong trận chiến đặc biệt này, nhưng vết thương ở chân phải là trở ngại chính để bắt anh phải nằm lại ở đây.

Anh theo dõi từng ngày từ khi cuộc hành quân bắt đầu. Các tin tức không vui từ chiến trường, những tổn thất nặng nề của quân ta sau khi các căn cứ 31, 30 lần lượt thất thủ. Đại Tá Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù cùng nhiều cấp chỉ huy của ta bị lọt vào tay giặc. Một số phải tự sát để giữ tròn khí tiết. Từ các kế hoạch hành quân tồi tệ mà địch quân gần như biết trước để chuẩn bị trận địa đến việc thiếu thống nhất ở các cấp chỉ huy đã góp phần cho sự thảm bại. Điều đau đớn nhất đã làm tim anh thắt lại khi nghe tin Tiểu Đoàn 4/1 của anh nhận lãnh trách nhiệm nặng nề, làm lực lượng chặn hậu để cho Trung Đoàn rút lui khỏi căn cứ Lolo trong tình trạng bị bao vây nguy khốn. Anh bật khóc khi nghe tin Trung Tá Lê Huấn, vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi tài năng đã lẫm liệt hy sinh, và cả tiểu đoàn chỉ còn 32 binh sĩ sống sót trở về! Anh nghĩ từ nay sẽ vĩnh viễn không còn gặp lại người chỉ huy mà anh ngưỡng phục và hằng mong được tiếp tục phục vụ dưới quyền. Anh nhớ tới bộ quân phục mà Trung Tá Lê Huấn đã đưa cho anh thay khi anh bị trọng thương cách đây vài tháng, anh còn chưa kịp trả lại, và bây giờ thì không còn có cơ hội để trả lại cho khổ chủ. Anh quyết định giữ lấy bộ quân phục này như một kỷ vật thiêng liêng trong cuộc đời mình. Và sau đó dù phải trải qua bao nhiêu thăng trầm, khốn khổ, nhất là sau ngày nước mất nhà tan, anh vẫn luôn trân trọng bộ quân phục mà anh nghĩ có mang hồn thiêng của anh Lê Huấn và của cả những đồng đội đã hy sinh.

Sau khi xuất viện, anh được bổ sung đến một trung đoàn khác giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Tháng 10/ 1971 anh thăng cấp Thiếu tá tại mặt trận. Cuối năm anh lên nắm tiểu đoàn thay thế vị tiểu đoàn trưởng bị thương, sau đó được theo học khóa quân chánh. Một thời gian sau, vết thương cũ ở chân phải tái phát. Sau khi chữa trị anh đi khập khiễng. Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp anh vào loại 2, không chiến đấu được. Được đề nghị bổ sung về Phòng 3 Quân Đoàn, nhưng anh xin đi làm chi khu phó cho anh tiểu đoàn trưởng cũ, bây giờ là quận trưởng của một quận miền núi. Quận lỵ là một tiền đồn chiến lược, nằm tại một vị trí trọng yếu khống chế cả con đường tiếp liệu của Cộng quân, nên bọn chúng tìm mọi cách để san bằng. Gần cuối năm 1974, Cộng quân mở nhiều đợt tấn công biển người nhằm chiếm quận lỵ, vị quận trưởng bị thương nặng. anh đã phối hợp với các đơn vị bạn tăng cường, trực tiếp chỉ huy điều động cuộc phản công rất oanh liệt giữ vững được phòng tuyến qua nhiều cuộc tấn công qui mô của địch. Nhưng tổn thất của ta khá nặng và đạn dược dần dà cạn kiệt, trong lúc Cộng quân luôn được tăng cường, cuối cùng anh phải mở đường máu, rút lui trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Anh bị thương nặng ở chân, điều kỳ lạ là ngay tại vết thương cũ. Nhờ kinh nghiệm chiến trường và hai người lính nghĩa quân rất trung thành và khôn ngoan giúp đỡ, thay phiên cõng anh thoát khỏi vòng vây truy lùng của địch. Anh được đề nghị thăng cấp đặc cách lên trung tá, nhưng sau đó bị cưa mất chân phải. Nỗi đau đớn vì phải mất đi một phần thân thể chưa nguôi, thì cái đau đớn tột cùng cũng vừa ập đến: Tháng 3/75, cả Vùng I bỗng chốc lọt vào tay Cộng sản, Sư Đoàn 1BB, đơn vị nổi danh mà anh luôn hãnh diện phục vụ trong gần cả một đời binh nghiệp cũng tan tành, rồi cả miền Nam mất vào tay giặc. Những đồng đội từng chiến đấu, một thời sống chết cùng anh bỗng dưng tan tác như chỉ sau một cơn ác mộng.

Mất một cái chân, nhưng anh vẫn bị tù đày nghiệt ngã trên bảy năm trong nhiều trại tù của bọn Cộng sản man rợ. Ra khỏi tù anh lại mất cả gia đình. Người vợ xinh đẹp ngày nào đã gởi đứa con gái lớn, năm tuổi, cho bà nội già, bồng theo đứa con trai ba tuổi, lẳng lặng sang sông về một nơi nào đó. Gia tài một đời binh nghiệp của anh giờ chỉ còn mỗi một bộ đồ trận, chiến y của người chỉ huy mà anh từng kính yêu đã hy sinh. Trước khi vào tù, anh căn dặn mẹ anh phải giữ kỹ bộ quân phục này cho anh với bất cứ giá nào, bởi đó là một kỷ vật quý giá nhất còn lại của đời anh. Theo đề nghị của mẹ, anh đồng ý cho bà tháo ra và đốt đi cái bảng tên và cấp bậc may trên áo.

Có lẽ từ lâu lắm mới có người chăm chú ngồi nghe, nên anh say sưa kể cuộc đời mình. Đôi lúc sụt sùi, nước mắt tưởng đã khô cằn, bỗng ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ già nua, và từng giọt rơi xuống bộ quân phục anh đang ôm ấp trong lòng mình.

   – Sau này anh có dịp nào gặp lại chị nhà và đứa con trai? Tôi hỏi.

   – Bà đã có chồng khác từ lâu rồi, đang sống ở Âu Châu. Tôi buồn nhưng không trách. Ngại đụng chạm tới hạnh phúc riêng của bà, và cả vết đau trong lòng mình nên không muốn liên lạc. Còn đứa con trai có sang thăm tôi hai lần, nhưng cháu vẫn nhìn tôi xa lạ lắm. Cũng phải thôi, vì khi tôi vào tù thì cháu chỉ mới lên ba, trong ký ức của cháu có lưu lại một chút hình ảnh gì của tôi đâu. Riêng con gái tôi có sang thăm mẹ và em cháu vài lần.

Nói dứt câu, anh cúi xuống như muốn giấu riêng nỗi xúc động.

    –  Anh có thường cảm thấy cô đơn và tiếc nuối những ngày xưa?

    –  Cũng có chứ, nhưng lâu rồi thành quen và gần như không còn muốn nhớ tới nhiều chuyện cũ.

Tôi đưa tay nắm chặt bàn tay anh thay cho một lời an ủi khó nói thành lời. Bỗng anh ngước lên, mở to đôi mắt:

   -Điều buồn của tôi bây giờ là thấy một số trong đám anh em mình mất đi khá nhiều sĩ khí, có thằng còn khốn kiếp đã vì chút lợi lộc nhỏ nhen mà chạy hùa theo giặc, nịnh bợ thô bỉ, quên mình từng hãnh diện là sĩ quan của những binh chủng hào hùng. Nhìn bọn chúng múa may khóc lóc làm trò trước mặt bọn cộng sản mà tôi muốn buồn nôn!

Tôi cười:

  -A nh bận tâm tới những kẻ ấy làm gì. Trong tập thể nào lại không có những  con sâu, tồi tệ, bán rẻ linh hồn. Cũng có thể là những thằng khùng. Nhưng đó cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt. Cũng như nước Mỹ vừa có tên phản quốc Edward Snowden, đang trốn ở Nga-Sô. Theo tôi, đại đa số anh em mình vẫn còn giữ được tấm lòng, tình huynh đệ và trách nhiệm với quê hương đất nước chứ!

Bỗng đôi mắt anh sáng lên:

– Điều vui và an ủi tôi nhiều nhất là các tổ chức gây quỹ giúp anh em thương phế binh sống khốn khổ ở quê nhà. Đặc biệt là các buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh thành công tốt đẹp. Thấy anh em nhà binh mình cùng bà con tham gia hưởng ứng nhiệt tình, tôi mừng và cảm động lắm. Ở bên nhà các cha thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn cũng đã can đảm, hết lòng an ủi và làm sống dậy niềm tự hào của những anh em thương binh bất hạnh, tôi cảm phục vô cùng. Có bao nhiêu tiền dành dụm tôi đều nhờ cô con gái gởi về phụ với các cha.

Tôi cười, biểu lộ sự đồng tình. Định nói thêm đôi điều để khoe về những đóng góp phần mình, bỗng nghe anh hỏi:

-Bạn ở Âu Châu, sang Mỹ một thời gian, chắc đã thấy trong đám anh em mình bây giờ cũng nhiều người bon chen danh lợi. Mà tội nghiệp thay toàn chỉ là danh hão! Nhiều ông tướng ông tá có danh thời trước, sang đây lại đầu quân làm tướng phường tuồng cho mấy cái chính phủ tự xưng tự diễn như đám hát chèo. Có ông giành hội này, bám tổ chức kia. Thấy mà phát ngượng! Trong đó có cả những ông ngày xưa từng là cấp chỉ huy của mình. Ngán ngẫm thật. Giấy rách mà cũng chẳng còn cái lề nào để mà giữ nữa!

Tôi cười. Chưa kịp nói một lời an ủi, bỗng thấy anh sa sầm nét mặt:

    – Điều buồn nhất là thiên hạ lạm dụng bộ quân phục một cách đến lố bịch. Đám cưới, sinh nhật, tiệc tùng nhảy nhót mà cũng có người mặc quân phục. Có lần tôi thấy một ông mặc quân phục, mang cả lon lá và đầy huy chương lên truyền hình để quảng cáo thuốc cho một ông thầy thuốc Nam tự nhận mình là bác sĩ! Tôi xấu hổ và giận đến tím cả mặt. Tối hôm ấy, tôi ôm bộ quân phục này của anh Lê Huấn mà thấy lòng xót xa vô hạn.

Nhớ lại một câu chuyện liên quan tới bộ quân phục đã xảy ra tại đất nước Na-Uy, nơi gia đình tôi đang định cư, tôi kể cho anh nghe:

  – Tháng 11 năm 2004, bà Kristin Krohn Devold, Bộ Trưởng Quốc Phòng Na-Uy, đến viếng thăm binh sĩ thuộc các đơn vị quân đội Na-Uy tham chiến tại Afghanistan trong lực lượng NATO. Bà được ca ngợi là một nữ bộ trưởng can đảm đã đến thăm binh sĩ khi chiến trường đang ác liệt nhất. Nhưng sau khi tin tức và hình ảnh về chuyến viếng thăm này được chiếu trên đài truyền hình quốc gia Na- Uy (NRK), bà bị nhiều sĩ quan và binh sĩ Na-Uy phàn nàn, phản đối khi thấy bà mặc quân phục từ một chiếc trực thăng bước xuống thăm một đơn vị tác chiến Na- Uy, và cả khi được Thủ Tướng Afghanistan, Hamid Kazai tiếp đón tại thủ phủ Kabul.  Báo chí cũng góp phần tranh luận và tỏ ra bất bình về sự kiện này. Hầu hết cho rằng bà chưa hề ở trong quân đội, nên không được phép sử dụng quân phục, dù trong bất cứ chức vụ hay hoàn cảnh nào. Những quân nhân cho rằng bộ quân phục còn có tính thiêng liêng, bởi nhiều chiến binh đã hy sinh trong bộ quân phục này. Mặc dù bà và một số cơ quan chính phủ lên tiếng biện minh, viện lý do vì sự an toàn cho bà trong một hoàn cảnh đặc biệt, nhưng vẫn không được chấp nhận.  Cuối cùng bà phải bắt buộc lên tiếng chính thức xin lỗi quân đội và cả dân chúng Na-Uy về điều này.

Nghe tôi kể xong, anh đưa bộ quân phục đang cầm trong tay lên như để khẳng định một điều gì.

     – Đúng như thế, bộ quân phục đối với tôi luôn là một kỷ niệm thiêng liêng. Có biết bao đồng đội của tôi hy sinh đã được liệm với bộ quân phục thấm đẫm máu đào của họ. Xin đừng lạm dụng và làm đau lòng họ.

Sau lần gặp gỡ đầu tiên này, tôi còn đến thăm anh một vài lần nữa, và bảo cô con gái: “bác ấy là người tốt, một sĩ quan đáng kính, con nên thường thăm nom và giúp đỡ bác những điều cần thiết”. Hôm đến chào từ giã anh để trở về lại Na Uy, tôi mang biếu anh hai chai rượu đỏ loại tốt. Tôi khuyên anh, khi nào buồn thì uống vài cốc cho nguôi ngoai, không nên uống nhiều rượu mạnh và hút thuốc lá, có hại cho sức khỏe. Anh nở nụ cười, nhưng bỗng trở nên buồn bã:

  – Anh đi rồi, tôi lại cô đơn, chẳng còn ai tâm sự.

Hôm đó, tôi ở lại với anh tới hơn một giờ khuya. Chống gậy tiễn tôi ra cửa, anh bắt tay từ giã nhưng giữ khá lâu, không muốn tôi đi. Tôi cười, bảo nhỏ:

-Anh cố dỗ giấc ngủ, đừng thức dậy nửa đêm, uống rượu chống nạn đi quanh nhà. Bọn tôi ở tầng dưới cũng mất ngủ với anh luôn.

Anh gật đầu, cười thông cảm.

Sáu tháng sau, khi trở lại Mỹ, tôi liền đến thăm anh. Bấm chuông mấy lần không ai mở. Tôi không còn nghe tiếng động của đôi nạng gỗ gõ xuống nền nhà như mọi khi. Buổi chiều, cô con gái đi làm về, cho tôi biết là anh ấy bị ung thư gan ở thời kỳ cuối. Con gái của anh đã đưa anh vào bệnh viện Fountain Valley từ tuần trước. Tôi lái xe xuống ngay bệnh viện. Anh nằm bất động. Khi tay tôi chạm vào anh, anh mở hé mắt nhìn tôi và miệng cố nở nụ cười, méo mó. Thấy anh cười mà tôi muốn khóc.  Trông anh tiều tụy và hốc hác quá. Nhưng anh rất bình tĩnh, như ngày xưa khi đối diện trước quân thù. Anh muốn ngồi dậy, nhưng không còn đủ sức. Tôi ngồi bên cạnh, đưa tay xoa trên ngực anh, bảo anh cứ nằm nghỉ.

       – Bác sĩ bảo tôi không còn nhiều thời gian nữa, ngày mai phải xuất viện về nhà để gia đình lo hậu sự – Anh nói bằng một giọng thì thào, yếu ớt.

Khi nhắc đến hai chữ gia đình, anh lại cười, chua chát:

       – Lại gia đình…!

Hiều ý anh, tôi nói đùa cho anh vui:

     – Phải nói là đại gia đình, vì ngoài cô con gái ra, anh còn có chúng tôi nữa. Cứ yên tâm mà đi. Nhớ dọn sẵn một bãi đáp cho ngon lành, chờ tôi đáp xuống sau anh nghe.

Chiều hôm sau anh được xe bệnh viên đưa về nhà. Cô con gái túc trực bên anh. Tôi cũng luôn có mặt. Anh ngỏ ý muốn uống với tôi một ly rượu đỏ. Cô con gái ngần ngừ, nhưng thấy tôi ra dấu gật đầu, cô rót hai ly rượu, một ly mời tôi và một ly cô cầm đưa vào miệng cha cô. Cuối cùng chúng tôi cũng cạn ly. Không ngờ đó là ly rượu từ biệt. Tôi bỗng nhớ tới lời của một bài ca cũ : “bạn ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã… đã đi xa rồi…”

Khuya hôm đó anh trút hơi thở cuối cùng. Cô con gái cho biết anh ra đi rất yên ả. Không trăng trối một lời gì. Chỉ để lại một mảnh giấy nhỏ với vài chữ ngoằn nghèo:  “Nhớ liệm ba bằng bộ quân phục trong tủ kính, nghe con”.

Đám tang thật đơn giản theo ý muốn của anh. Mấy lần anh dặn dò cô con gái không được đăng cáo phó hay báo tin cho ai biết. Tại nhà quàn, ngoài cô con gái của anh và cậu bạn trai người Mỹ, chỉ có vợ chồng tôi cùng cô con gái út. Một nhà sư già tụng một thời kinh trước khi đậy nắp quan tài. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào anh. Anh nằm uy nghiêm trong bộ quân phục, khuôn mặt ánh lên nét hào hùng. Tôi có cảm giác như anh vừa chết tại chiến trường. Không có bất cứ một nghi lễ nào, nhưng tai tôi như đang văng vẳng tiếng kèn truy điệu và khúc nhạc Chiêu Hồn Tử Sĩ.

Đứng nghiêm chào anh một lần nữa, khi quan tài đưa vào lò thiêu. Mọi thứ đều trở về với cát bụi. Lòng tôi bỗng rộn lên một niềm vui bất chợt, khi nghĩ anh sắp được gặp lại anh Lê Huấn và những đồng đội cũ, những chiến sĩ đích thực đã rất xứng đáng với bộ quân phục oai phong của QLVNCH. Họ đã tạo cho bộ chiến y một điều gì đó rất thiêng liêng.

Phạm Tín An Ninh

YouTube player

 

BỆNH VIỆN VÀ NGHĨA TRANG

Xuyên Sơn

Chị thì thầm vào tai anh:

“Còn mấy hôm nữa là rằm tháng Giêng chắc mình phải về nhà chứ.”

Anh kéo chiếc mền mỏng lên ngang ngực, chiếc mền ngắn quá, lòi cả nửa ống chân ra ngoài. Anh nhìn chung quanh một vòng, ngượng ngùng co chân lại.

“Về sao được em, phải chờ chứ, còn nước còn tát, mấy hôm nay thằng bé cũng thấy khá hơn một chút.”

Hai vợ chồng đang nằm ngủ ngay trước cửa Bệnh Viện Ung Thư, con trai họ 12 tuổi kiếm được một chỗ nằm chung một giường với một đứa trẻ khác bên trong,

(sau khi anh chị đưa cho y tá trực ở đó hai lần hai cái phong bì.)

Dưới gầm giường thì có bố mẹ của đứa bé kia rồi, không còn chỗ cho anh chị nữa.

Họ lên đây từ trước Tết, đợi mãi mới tới phiên con được khám. Trong khi chờ thì cứ ngồi, nằm, ngay ở hành lang bệnh viện.

Anh chị không phải là cặp vợ chồng duy nhất ngủ ở ngoài này.

Số người chờ khám cho thân nhân hay chờ khám cho chính mình nhiều hơn số giường của bệnh viện có, nên người chờ đợi, ăn, ngủ, tràn lan ra tới hành lang.

Trời mưa lụt, nước tràn ngập cả trong phòng đợi, người ngồi, kẻ nằm trên những chiếc ghế nhựa trông thật thảm thương.

Ngày khô thì chiếu trải la liệt dưới đất.

Anh chị từ Hòa Bình mang con về Hà Nội chạy chữa, thằng bé 12 tuổi đang đi học bỗng ngã bệnh, chữa mãi Bác Sĩ tỉnh nhà không khỏi, thử máu, chụp hình mới biết là bị ung thư màng óc.

Chị lại thì thầm:

“Tết mình đã không có mặt ở nhà để cúng ông bà, thì Rằm cũng phải về cúng Phật chứ anh. Hay em ở lại với con, anh về mấy hôm đi.”

“Anh về cũng chẳng an tâm được.

Mấy hôm ngủ ngoài sương thấy em đã bắt đầu ho.Thôi, Trời Phật cũng thông cảm cho mình.”

Chị im lặng một lúc, lại ngập ngừng nói: “Thôi anh cứ yên tâm về đi, còn bà nội thằng Tí ở nhà nữa, anh về đi kẻo mẹ trông, em biết là mẹ mong anh về lắm.”

Người chồng ngồi hẳn dậy,co hai chân lên vòng tay ôm qua đầu gối, thở dài.

“Ừ, chắc anh nên về, em nói đúng,bà nội thằng Tí đang mong tin lắm.

Anh đã chia tiền ra từng gói nhỏ để em tiện chi tiêu.Tiền trả cho Bệnh Viện chữa trị,tiền đưa bác sĩ thì anh để riêng,tiền đưa y tá, tiền lao công anh cũng để riêng.”

Người vợ ngồi hẳn dậy,quấn lại cái chăn cho gọn,thu xếp mấy cái túi đựng cả một gia đình lưu động của mình.

Chị nhìn chung quanh một vùng bao quát, trong ánh nắng sớm mai yên tĩnh mọi người chưa thức dậy hết.

Họ nằm ngang, nằm dọc, hay xoay chân ngược chiều nhau.

Những bàn chân gầy gò, và những cái đầu xơ xác tóc, họ đang ngủ hay đã thức rồi mà vẫn còn nằm im lo lắng bất an.

Mặt trời sẽ lên, thêm một ngày chờ đợi, đến bao giờ mới tới phiên mình, hay phiên của người thân mình.

Số tiền mang trong túi, cài hai ba cái kim cho chặt, liệu có đủ trả tiền chạy chữa, tiền thuốc và tiền phong bì không?

Nói đến phong bì chị bỗng nhớ, hỏi anh:

“Tiền anh lo đủ rồi nhưng anh quên chưa mua phong bì cho em.

Đưa thẳng tiền mặt ra ai đứng gần cũng nhìn thấy, không tiện đâu.”

Anh ngẩn người ra, ừ nhỉ mấy hôm nay bận quá, cứ lo chỗ ăn chỗ ngủ cho con bên trong bệnh viện, cho hai vợ chồng ngoài hành lang, anh quên hẳn việc phải mua sẵn một lố phong bì.

Anh nhìn trước nhìn sau thấy một xấp báo còn mới, ai đó vứt sang chỗ anh chị nằm.

Anh nhặt lên nói với chị:“Báo còn mới, em cứ lấy con dao,rọc vuông vức rồi gói tiền vào đó cũng được. Nhưng phải nhớ để riêng vào túi trong, túi ngoài, kẻo nhầm của người này lại đưa cho người kia.”

Chị cười nhẹ:“Anh đừng lo, tiền thì em cẩn thận lắm.”

Chị đón xấp báo còn mới trong tay anh, báo trong tay thì dĩ nhiên là chữ trước mắt, chị đọc qua một chút trước khi đi tìm dao rọc.

Sau mấy phút chị ngẩn người ra,để rơi tờ báo xuống lòng.

Anh thấy lạ hỏi:“Tin gì vậy em?”

Chị không nói, đưa tờ báo cho anh.

Báo chí trong nước cho hay,chính quyền thành phố Hà Nội hôm 1/2 công bố quy hoạch được thủ tướng phê duyệt về xây nghĩa trang “phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước; các anh hùng, danh nhân của đất nước”.

Tin cho hay, nghĩa trang Yên Trung nằm dưới chân núi Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội 40 cây số về phía Tây, giáp Vườn Quốc Gia Ba Vì; phía Đông giáp đồi núi và đường cao tốc Hòa Lạc-Hòa Bình; phía Nam giáp đồi núi và khu dân cư.

Tổng diện tích nghĩa trang là 120 hécta, gồm khu an táng 72 hécta, với 2,200 – 2,500 ngôi mộ, mỗi ngôi mộ có khuôn viên 25-35 mét vuông và khu đệm cây xanh cảnh quan trên 47 hécta, có sức chứa 5,000 người.

Nguồn vốn dự kiến hơn 1,430 tỷ đồng (hơn $63 triệu) sẽ lấy từ ngân sách nhà nước.

Thời gian thực hiện dự án khoảng 36 tháng.

Anh đọc tiếp ở một trang khác: Vẫn theo các báo, với tổng diện tích 120 hectare, tương đương một phường lớn ở nội thành Hà Nội,dự án có vị trí ở huyện Thạch Thất,dưới chân núi Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội 40 kilomet về phía tây.

Thông tin từ bản quy hoạch cho thấy sẽ có 105 hộ dân phải di dời để nhường chỗ cho dự án.

Anh đọc xong nhìn sang chị,thấy chị vẫn thẫn thờ nhìn mông lung ra một nơi xa lắc xa lơ nào đó.

Anh hỏi: “Sao vậy em, nhà nước xây nghĩa trang thì dính dáng gì tới mình mà em buồn quá vậy?”

Chị quay lại nhìn chồng,hai mắt mở to:

“Sao mấy ông lớn không nghĩ đến việc xây thêm mấy cái bệnh viện cho người đau ốm, xây thêm trường học cho trẻ em? Họ bỏ ra tới 1,400 tỷ đồng để lo “chôn “ những người chưa chết.

Rồi lại thêm 105 gia đình phải mất nhà mất cửa cho họ thêm chỗ.

Anh nhìn đi, cả bao nhiêu năm nay bệnh nhân cũng như người thân của bệnh nhân nằm màn trời chiếu đất trước cửa bệnh viện. Trẻ con nghèo không đủ cơm đã đành ngay cả trường lớp cũng thiếu thốn..

Có ông lớn nào quan tâm tới không?”

Anh nhìn vợ với cặp mắt thương hại,nói nhỏ:

“Thế bây giờ em định làm gì, em cầm biển ngữ đi biểu tình đòi nhà nước xây bệnh viện, trường học thay vì xây nghĩa trang cho các ông lớn hả.

Em có muốn vào tù vì tội chống phá nhà nước, trong khi con em đang bị ung thư không?”

Chị nhìn anh một lúc, không trả lời.

Hai con mắt chị ánh lên một nét giận dữ, chị mở tung những cái giỏ ra tìm con dao, chị nín thở rọc tờ báo ra từng miếng nhỏ để làm những cái phong bì,chị dằn mạnh từng nhát dao đi qua những hàng chữ:“nghĩa trang, “phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước”

“Nguồn vốn dự kiến hơn 1,430 tỷ đồng (hơn $63 triệu) sẽ lấy từ ngân sách nhà nước.” “105 hộ dân phải di dời để nhường chỗ cho dự án.”

Chị cắt ngang, cắt dọc tờ báo tưởng như cắt đứt được những dự án làm chị uất ức.

Chị cắt được hơn mười cái phong bì, chia ra bốn túi khác nhau, cho bác sĩ, y tá và lao công.

Chị biết, muốn cứu con chị thì không thể nào tránh né được cái khoản chi trả thêm này.

Chị nhìn anh đang thu xếp về nhà với mẹ để kịp cúng Rằm.

Thật ra chị biết, cúng Rằm chỉ là phụ, việc chính là anh về nhà chạy thêm tiền, số tiền anh chị đem theo được so với số tiền sẽ phải dùng tới cách xa nhau nhiều quá. Nghĩ đến những món nợ sẽ phải trả, chị thấy như có một khối đá đè lên ngực.

Hai con mắt chị vẫn còn ánh lên những tia giận dữ, cái giận dữ của một người hoàn toàn bất lực trước một việc xấu mà sức mình không làm gì được.

Một khu nghĩa trang 5000 huyệt mộ. Quan chức cao cấp Đảng ở đâu mà nhiều thế?

Chắc chắn các đại gia sẽ có phần mộ ở đây.. Có khi cả ca sĩ nổi tiếng có tiền cũng dọn vào.

Chưa chắc các danh nhân và anh hùng tử sĩ đã có chỗ, vì phần đông gia đình họ nghèo và họ đã tắt tiếng nói (may ra có một tấm bia chung).

Chị kêu thầm trong ngực.

Nước mắt chị ứa ra.

Có ai trả lời cho chị không?

(st)


 

THÁI TỬ BÌNH AN MANG ĐẾN SỰ CHIA RẼ – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ 

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chứa đựng những điều được cho là nghịch lý.  Giê-rê-mi-a cũng như Chúa Giê-su đều có những hành động, ngôn từ gây sốc.

 Giê-rê-mi-a

 Thời Giê-rê-mi-a, thành Giê-ru-sa-lem đang bị quân Ba-by-lon vây hãm.  Dân chúng và vua Sê-đê-kia mong đợi hòa bình, Giê-rê-mi-a lại công bố một sứ điệp “ngược dòng”: ông nói rằng cuộc kháng cự sẽ thất bại, và kêu gọi đầu hàng như một hình thức hoán cải và trở về với Thiên Chúa.  Nhưng dân chúng, đặc biệt là các thủ lãnh tâu vua rằng: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân.  Thực sự tên này không tìm hòa bình cho dân, mà chỉ tìm tai họa” (Gr 38, 4-6).

 Các thủ lãnh phẫn nộ với Giê-rê-mi-a, cáo buộc ông làm nản lòng dân và gây nguy cho đất nước, họ xin vua xử tử ông.  Dù vua Sê-đê-kia nhu nhược không bảo vệ ông, nhưng lại để mặc cho các quan ra tay.  Họ ném Giê-rê-mi-a xuống một cái giếng bùn, không phải để giết ngay, mà là để ông chết dần chết mòn trong cô lập và tuyệt vọng.

 Dân chúng đang tìm kiếm hòa bình mà ông lại mang đến tai họa.  Quả là bi thương và đầy kịch tính cho ơn gọi, sứ mạng và cuộc đời của ông.  Thiên Chúa sai Giê-rê-mi-a đến để kêu gọi dân Ít-ra-en sám hối, lại bị chính đồng bào lên án và hãm hại.  Giê-rê-mi-a là hình ảnh báo trước sứ mạng của Chúa Giê-su. 

Sứ mạng của Chúa Giê-su

 Đến lượt Chúa Giê-su, Người cũng tuyên bố những lời chưa bao giờ các môn đệ nghe thấy: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư?  Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12, 51-52).

Vậy chúng ta nghĩ sao đây khi Chúa Giê-su được I-sai-a loan báo là Thái Tử Hòa Bình, và ngày sinh nhật của Người được các thiên thần chào đón với những lời ca tiếng hát: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”, (Lc 2, 14) và khi đi rao giảng, Người cũng đã từng công bố: “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình” (Mt 5, 9).  Cũng chính Chúa Giê-su, khi bị bắt, đã truyền cho Phê-rô: “Hãy xỏ gươm vào bao!” (Mt 26, 52).  Nay lại tuyên tuyên bố: “Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12, 51).  Chúng ta giải thích sự mâu thuẫn này như thế nào? 

Lửa” là gì?  “Lửa” trong Thánh Kinh thường là biểu tượng của Thánh Thần, của sự thanh luyện, và của ơn soi sáng chân lý (x. Cv 2,3).  Đó là ngọn lửa thiêng liêng đốt cháy tội lỗi, bẻ gãy sự an toàn giả tạo, và làm bùng lên lòng mến Chúa.  Khi Chúa Giê-su nói “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian” (Lc 12,49), Người nói đến công trình cứu độ, sự sống mới trong Chúa Thánh Thần, và tác động chuyển hóa sâu xa trong tâm hồn nhân loại. 

Câu tiếp theo: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất” (Lc 12,50).  Nói đến cuộc Khổ nạn sắp đến.  “Phép rửa” ở đây không chỉ là nghi thức thanh tẩy, mà là dìm mình trong đau khổ, một sự tự hiến hoàn toàn trên Thập giá để khai lối mở đường đến ơn cứu độ.’

 Thái Tử Bình An mang đến sự chia rẽ

 Đoạn kết trong Tin Mừng hôm nay gây bối rối: “Vì từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, nàng dâu chống đối mẹ chồng” (Lc 12, 53).  Tuy nhiên, sự “chia rẽ” ở đây không phải là bạo lực hay thù địch, mà là hệ quả tất yếu của việc chọn lựa sống theo chân lý.

 Không phải Đức Giê-su có ý đến để đem sự chia rẽ và chiến tranh, nhưng điều Người mang đến, không thể tránh được sự chia rẽ và sự chống đối, bởi vì Người đặt dân chúng trước một sự lựa chọn.  Và khi đối mặt với sự cần thiết phải lựa chọn theo ánh sáng hoặc theo bóng tối.  Chúng ta biết rằng sự tự do con người sẽ phản ứng nhiều cách khác nhau.  Và chính trong sự chọn lựa dứt khoát đó, những mối quan hệ thân thiết nhất, gia đình, bạn bè, có thể bị thử thách.  Không phải vì Chúa Giê-su mang đến sự chia rẽ, nhưng vì sự thật vốn gây xáo trộn nếu người ta không đón nhận. 

Chúa Giê-su là “Thái Tử Hòa Bình“, nhưng bình an Chúa ban không phải sự yên ổn bề ngoài hay  đồng thuận cho qua chuyện.”  Đó là bình an dù phải chịu mất mát. 

Một người chọn sống đức tin nghiêm túc, lại bị chính người thân hiểu lầm, cho là “cực đoan” hay “khác người.”  Người sống theo giá trị Tin Mừng, không tham nhũng, thì có thể bị mỉa mai.  Một người dấn thân sống công chính, có thể bị chống đối ngay trong cộng đoàn.

 Người dám nói thật, sống liêm chính, chống lại sự bất công như Giê-rê-mi-a trong Bài đọc I sẽ bị loại trừ.  Ánh sáng luôn gây khó chịu cho bóng tối.  Đó là chia rẽ cần thiết để thanh luyện, hoán cải và sinh ơn cứu độ.

 Chúng ta được mời gọi đừng sợ sự “chia rẽ vì Tin Mừng.”  Đôi khi, chính sự “bị tách ra” khỏi đám đông là bằng chứng ta đang đi đúng hướng.  Nhưng không ai bị bỏ rơi, ngọn lửa Thánh Thần vẫn đang hoạt động, và bình an thật vẫn đang được ban tặng, không phải là tránh khổ, mà là vượt thắng trong khổ. 

Chúa Giê-su là Thái Tử Hòa Bình đem đến bình an nội tâm sâu xa, nhưng hành trình đến đó đi ngang qua thử thách, từ bỏ, và cả chia rẽ.  Bài Tin Mừng hôm nay là lời cảnh tỉnh nhưng cũng là lời mời gọi hy vọng: Hãy đón nhận ngọn lửa Thánh Thần, chấp nhận phép rửa đau khổ, và bước đi trên con đường hẹp, vì chính đó là con đường dẫn đến bình an vĩnh cửu trong Thiên Chúa.

 Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

From: Langthangchieutim


 

TỬ TẾ VỚI NGƯỜI NGOÀI – NÓNG NẢY VỚI NGƯỜI NHÀ

Tu Le

TỬ TẾ VỚI NGƯỜI NGOÀI – NÓNG NẢY VỚI NGƯỜI NHÀ

Trời cuối đông, mưa bụi giăng như một tấm màn mỏng trên con phố nhỏ nơi vợ chồng anh Minh sống. Ánh đèn vàng hắt ra từ những ngôi nhà, đọng lại thành vệt sáng lung linh trên mặt đường ướt. Tiếng rì rào của mưa, tiếng gió len qua khung cửa tạo thành bản nhạc nền trầm buồn cho một buổi tối tưởng chừng bình yên.

Anh Minh vừa rời công ty, bước đi vội vã trong cái lạnh, áo sơ mi còn lấm tấm vệt bùn do xe tạt nước. Cả ngày anh đã phải căng mình trước áp lực công việc: dự án bị trễ, khách hàng liên tục phàn nàn, sếp thì cau có. Ở văn phòng, anh cố giữ nụ cười, cố nói năng chừng mực, kiềm chế từng lời, từng cử chỉ.

Vậy mà vừa mở cửa bước vào nhà, thấy đôi dép của con trai để lệch trước cửa, bồn rửa bát chất đầy chén đĩa, anh cau mày gắt:

– Sao nhà cửa bừa bộn thế này? Chẳng ai làm được việc gì tử tế à?

Chị Lan – vợ anh – đang đứng bên bếp, tay đảo nồi canh cá thơm dìu dịu. Chị khựng lại, quay sang nhìn chồng, ánh mắt thoáng buồn. Cậu con trai 12 tuổi đang ngồi xếp lego ở phòng khách bỗng dừng tay, định nói gì đó nhưng rồi im lặng, lặng lẽ bước vào phòng mình. Trong khoảnh khắc ấy, tiếng mưa ngoài hiên như rõ hơn, và không khí trong nhà nặng xuống.

Chị Lan không cãi, chỉ cúi xuống nhặt đôi dép, chỉnh lại ngay ngắn rồi nhẹ giọng:

– Anh ăn cơm trước nhé, hôm nay em về muộn nên chưa kịp dọn.

Lời nói nhẹ như mưa bụi, nhưng trong lòng chị là khoảng trống hụt hẫng. Cả ngày, chị cũng tất bật ở công ty, vẫn cố ghé chợ mua cá tươi vì nhớ anh thích món canh cá nấu dọc mùng. Chị cũng từng như anh – ra ngoài thì nhẫn nhịn, dịu dàng; về nhà lại để sự mệt mỏi trút xuống người thân. Nhưng rồi, năm tháng dạy chị rằng: một câu nói gắt có thể để lại vết xước rất lâu trong lòng người mình thương.

Hôm sau, ở công ty, chị Hạnh – đồng nghiệp – vô tình làm đổ cà phê lên tập hồ sơ của anh Minh. Anh mỉm cười:

– Không sao đâu, chị lau qua rồi để tôi sắp xếp lại là được.

Chính giây phút đó, anh giật mình. Với đồng nghiệp, anh có thể nhẹ nhàng bỏ qua, vậy mà với gia đình – những người luôn ở cạnh, yêu anh nhất – anh lại dễ nổi nóng vì những chuyện vụn vặt. Hình ảnh ánh mắt buồn của vợ tối qua, dáng lặng lẽ của con trai, khiến lòng anh nhói lên.

Tối ấy, anh về sớm hơn mọi ngày. Mưa vẫn rơi ngoài hiên, hắt vào mùi đất ẩm ngai ngái. Thấy con trai lại để dép lệch, anh cúi xuống chỉnh ngay ngắn, rồi xoa đầu con:

– Lần sau nhớ xếp gọn nha con. Nhưng dép lệch cũng không sao, ba chỉ muốn con để gọn cho dễ tìm thôi.

Cậu bé ngẩng lên, nụ cười tươi như xua tan màn mưa. Chị Lan từ bếp nhìn ra, bắt gặp ánh mắt dịu dàng của chồng, lòng bỗng ấm như bát canh cá đang sôi lục bục trên bếp. Bữa cơm tối hôm ấy, tiếng cười nói át hẳn tiếng mưa rơi.

Anh Minh hiểu rằng, tử tế không chỉ dành cho người ngoài. Người thân – dù gắn bó bền chặt – cũng mong manh như sợi chỉ. Giữ được hay đánh mất nhiều khi chỉ nằm ở một cái chau mày hoặc một lời nhẹ nhàng. Khi ta học cách kiềm chế nóng giận ở nhà, ta không chỉ giữ được mái ấm, mà còn giữ được trái tim của những người thương mình thật lòng.

Bạn thân mến,

Nếu câu chuyện này chạm đến điều gì đó trong bạn, hãy thử dành một chút dịu dàng cho người thân ngay tối nay.

Nhấn “Theo dõi” để không bỏ lỡ những câu chuyện sâu sắc, giúp ta sống nhân hậu, bao dung và giữ gìn những mái ấm.

____

Tu Le

#gotacoffee – #ngườiviếtgiữahaimiền


 

Nhà văn Sơn Nam (11 Tháng 12, 1926 – 13 Tháng 8, 2008)

Ba’o Nguoi-Viet

August 13, 2025

Đoàn Xuân Thu

Ngoài tài viết văn và am hiểu sâu sắc vùng đất Nam Bộ, nhà văn Sơn Nam còn là người rất thẳng thắn, dám lên tiếng bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống và con người bình dị miền Nam.

Ông từng được một số đạo diễn người Pháp mời làm cố vấn phong tục văn hóa trong việc dựng phim L’amant (The Lover – Người Tình), nhằm giữ cho cảnh phim đúng bản sắc vùng Nam Kỳ xưa. Trong một cảnh đám cưới tại chợ Sa Đéc, có mấy chục ông già, bà lão đóng vai nhà trai, nhà gái.

Khi đến giờ nghỉ trưa, ông nhìn thấy các cụ diễn viên phụ ngồi bệt dưới đất ăn cơm, trong khi cả đoàn phim vào nhà hàng sang trọng dùng bữa. Sơn Nam tức giận đứng giữa nhà lồng chợ gọi đạo diễn ra nói chuyện. Chủ nhiệm đoàn phim vội vàng ra lệnh nhân viên dọn bàn ghế mời các ông bà diễn viên ăn cơm tử tế.

Điều đó cho thấy Sơn Nam không chỉ là người am tường văn hóa mà còn rất trân trọng con người bình dị, không để ai bị xem thường dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ông học tiếng Pháp đủ để đối đáp, thậm chí “xổ” tiếng Tây rổn rảng như bẻ mía, cự nự các vị Tây đạo diễn rằng ít ra họ cũng nên biết nghe và tôn trọng phong tục địa phương, chớ đừng xem thường những con người quê mùa, vốn mang nặng văn hóa sông nước Miền Tây.

Nhưng sang thời cộng sản, mọi chuyện khác hẳn. Cái “đàn khảy tai trâu” – cách Sơn Nam gọi chế độ áp đặt, không muốn nghe gì cả, dù là tiếng nói của chính người dân.

Bà con mình ai cũng từng bực bội, bị hành hạ vì cái “hộ khẩu” của chế độ mới chiếm miền Nam. Những người làm văn chương như Sơn Nam cũng thường xuyên bị công an khu vực sách nhiễu, gây khó dễ. Ai mà không bực mình?

Nhớ lại đám tang nhà thơ Bùi Giáng, có những người tai to mặt lớn tới đi đám. Sơn Nam được Hội Nhà Văn mời đọc điếu văn. Đây là cơ hội để ông nhắn nhủ: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài… nhưng văn thơ anh ngay ngắn đường hoàng. Anh không nề hà cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh dùng sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang, khi chùa khi chợ không cố định đâu đâu. Mà bữa nay anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của thành ủy, ủy ban, có Hội Nhà Văn, vậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh.”

Lời nói chua chát đó như ngậm ngùi cho cái chính sách hộ khẩu ác ôn, khiến cho những người dân lương thiện bị đày đọa, bị kiểm soát, kềm kẹp.

Trong truyện “Âm dương cách trở” của Sơn Nam, ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu. Ông già nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ Quốc Việt Nam thôi.”

Tay công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ Quốc?”

Ông già trả lời: “Với tôi, Tổ Quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn.”

Đó chính là lời khẳng định hồn nhiên, giản dị nhưng đầy ý nghĩa về tình quê, về cuộc sống bình yên mà ông già hớt tóc ấy và Sơn Nam đều khao khát.

Tóm lại, chính sách hộ khẩu của CS để theo dõi, kiểm soát người dân lương thiện là một chính sách độc đoán, phi lý và điên rồ của những kẻ hoang tưởng, nghi ngờ khắp mọi nơi.

Nhà văn chỉ có cây bút trong tay, ngoài ra chẳng có quyền lực nào để bảo vệ mình. Khi gặp những chuyện trái tai gai mắt, ông chỉ biết “sùy” ra một chút qua các tác phẩm để vơi bớt nỗi tức giận.

Ông vốn là người hiếu hòa, chín bỏ làm mười, luôn nói: “Với tôi, hạnh phúc lớn nhất là không gây thù chuốc oán với ai, không ai ghét mình. (Nếu lỡ người ta oán ghét mình thì cũng đành cam chịu!) Chỉ cần có người tới thăm nói dóc chơi.”

Có lẽ từ thuở bé, mẹ ông đã dặn dò: “Đi học xa nhà, thân thể ốm yếu, tránh đừng sanh sự với ai. Lỡ có chuyện gì thì hổng ai binh!”

Sau năm 1975, khi đất nước đổi thay, Sơn Nam cũng đổi đời theo chiều hướng khó khăn, từ nghèo thành… mạt.

Trong bài viết “Cầu xin hai chữ bình an,” ông kể lại những ngày đầu Sài Gòn thất thủ, khi nhiều người tới “kiếm cơ sở” xác nhận thân phận ông. Ông thẳng thắn nói: “Tôi không phải đảng viên cộng sản, không có dính líu với cơ sở nào cả. Có chăng tôi là thành viên ban chấp hành Hội Văn Bút (Pen Club), một tổ chức nghe ra có vẻ ‘quốc tế’ nhưng chắc không được ưa thích.”

Nhiều người bạn hiền lành thủ thỉ chuyện “vượt biên,” nhưng ông không mặn mà. Ông chẳng biết tiếng Anh, nghĩ rằng biết chút ít tiếng Pháp là đủ rồi. Dòng họ, bà con đều còn ở U Minh, ông quan điểm rằng: “Quê hương là đủ rồi.”

Mười năm – một quãng thời gian ngắn trong lịch sử văn học, nhưng ông tin rằng ngày tự do và quyền tự do ngôn luận sẽ trở lại, trắng đen sẽ rõ ràng.

Những tác phẩm quý báu của ông, nếu loại bỏ những đoạn bị thêm vào bởi bọn bồi bút văn nô cộng sản, sẽ được lớp hậu sinh chùi rửa sạch vết nhơ để tỏa sáng.

Tin tôi đi! Nhà văn Sơn Nam là một biểu tượng lớn của vùng đất Nam Kỳ, của miền đồng bằng sông Cửu Long với bao nhiêu câu chuyện, con người, và phong tục tập quán.

Ông là người yêu thương đất đai quê hương, dành trọn đời mình để viết, để lưu giữ những hình ảnh chân thật, giản dị mà sâu sắc về miền Nam.
Tình yêu và sự thủy chung của ông với văn chương và quê hương mãi còn trong ký ức và trái tim những người yêu văn hóa Nam Kỳ Lục tỉnh.

Đó cũng là niềm an ủi lớn lao cho những người cầm bút như ông, những người sống với cây bút như người bạn tri kỷ, để tiếp nối công cuộc giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc.

***

Sơn Nam sống giản dị, không màng danh vọng, không thích được xưng tụng. Ông ứng xử nhẹ nhàng với cuộc đời, biết thích nghi với hoàn cảnh để theo đuổi nghề văn:

“Tới đây thấy vịt cũng lùa

Thấy duyên cũng kết, thấy chùa cũng tu.”

Ông chọn nghề văn, dù nghèo, như quê hương Miệt Thứ của ông: “Xứ mình nghèo quá, mình được đi học, Phải làm cho người ta biết đến xứ mình như thế nào.”

Nhờ công lao của nhà biên khảo Sơn Nam mà bà con biết kha khá về miền Tây thời khẩn hoang. Dù chưa đủ đầy, nhưng ai nối tiếp sự nghiệp ấy, hẳn còn là câu chuyện tương lai.
Giờ đây, trong nước có những âm thanh rầm rộ, đánh trống thổi kèn tưng bừng, ỏm tỏi về đất miền Tây, nhưng chỉ là đồ giả kim, so với công trình của ông.

Nhà văn Sơn Nam qua đời cách nay đúng 17 năm, ngày 13 Tháng Tám, 2008 tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, hưởng thọ 82 tuổi.


 

Nợ Công Mỹ Vượt 37.000 Tỉ USD, Cảnh Báo Sức Ép Lên Kinh Tế và Đời Sống Người Dân

Ba’o Dat Viet

August 13, 2025

Ngày 12 Tháng Tám, Bộ Tài chính Mỹ công bố báo cáo gây lo ngại: nợ công liên bang đã vượt mốc kỷ lục 37.000 tỉ USD – sớm hơn nhiều năm so với dự báo trước đó của Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO). Hồi năm 2020, CBO từng ước tính phải đến sau năm tài chính 2030 Mỹ mới chạm ngưỡng này. Tuy nhiên, thực tế đã vượt xa kịch bản thận trọng nhất.

Nguyên nhân chính dẫn đến đà tăng phi mã của nợ công, theo các chuyên gia, bắt đầu từ đại dịch Covid-19 – khi chính phủ liên bang phải vay hàng ngàn tỉ USD để cứu trợ nền kinh tế đang lao dốc. Thế nhưng, làn sóng nợ mới còn được thúc đẩy bởi các chính sách tài khóa được thông qua dưới thời Tổng thống Donald Trump, trong đó có kế hoạch cắt giảm thuế và tăng chi tiêu liên bang vừa được ký thành luật đầu năm nay. Ước tính, đạo luật này sẽ “bơm” thêm 4.100 tỉ USD vào tổng nợ công trong thập kỷ tới.

Theo dữ liệu Bộ Tài chính, chỉ trong vòng 7 tháng, nợ công đã tăng thêm 3.000 tỉ USD: từ 34.000 tỉ vào Tháng Giêng, lên 35.000 tỉ vào Tháng Bảy, rồi 36.000 tỉ vào Tháng Mười Một, và nay đã vượt 37.000 tỉ.

Tình trạng này đang làm dấy lên lo ngại về hệ quả dài hạn đối với nền kinh tế Mỹ. Văn phòng Trách nhiệm Giải trình Chính phủ (GAO) cảnh báo rằng nợ công cao sẽ đẩy lãi suất lên cao, làm tăng chi phí vay mượn của người dân – từ mua nhà, xe cho đến đầu tư giáo dục. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ có thể phải giảm lương hoặc cắt giảm đầu tư do tiếp cận vốn khó khăn hơn. Hệ quả là giá cả hàng hóa, dịch vụ có nguy cơ tiếp tục leo thang, kéo theo áp lực lạm phát dai dẳng.

Bên cạnh đó, báo cáo của Bộ Tài chính cũng cho thấy thâm hụt ngân sách trong tháng 7 đã tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái – dù Mỹ đang ghi nhận mức tăng thuế quan đáng kể. Riêng trong tháng 7, chính phủ thu về 21 tỉ USD từ thuế quan, tăng 273% so với năm ngoái – phần lớn đến từ các biện pháp thuế mới mà Tổng thống Trump áp đặt.

Tuy nhiên, nguồn thu không đủ bù đắp tốc độ chi tiêu. Một quan chức giấu tên từ Bộ Tài chính thừa nhận, chi ngân sách vẫn phình to do nhiều nguyên nhân: lãi suất tăng làm chi phí trả nợ cao hơn, cùng với đó là ngân sách cho các chương trình an sinh xã hội và chăm sóc y tế tiếp tục mở rộng.

Các nhà kinh tế cảnh báo, nếu không có chiến lược cắt giảm chi hợp lý và cải cách thuế toàn diện, gánh nặng nợ công sẽ không chỉ ảnh hưởng đến thị trường tài chính, mà còn giáng đòn mạnh lên tầng lớp trung lưu và người lao động – những người vốn đã chật vật trong một nền kinh tế đầy bất ổn sau đại dịch. Trong lúc đó, chính quyền Mỹ vẫn chưa đưa ra kế hoạch cụ thể nào để “hãm phanh” đà nợ đang leo thang từng tháng.


 

 Bỏ bùa cho sư – Gió ViVu 

LƯƠNG VĂN CAN K 76 – Kimtrong Lam

 Gió ViVu 

 12 tháng 8, 2025

Một vụ tai tiếng tình dục nổ lớn đã làm rung chuyển Hội Phật Giáo Thái Lan.

Ba cô đội gạo lên chùa,

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.

Sư về sư ốm tương tư,

Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu.

Ai làm cho dạ sư sầu,

Cho ruột sư héo như bầu đứt dây?

(Khuyết danh)

Có người bảo rằng “Ba cô” trong bài thơ “Ba cô đội gạo lên chùa” chính là Tam độc: Tham, Sân, Si, trong thuyết pháp của Phật giáo. Chỉ cần có “một” trong “ba thứ độc” đó sẽ khiến người ta triền miên sống trong khổ hạnh.

Một chuyện không nhỏ đã nổ lớn ở Thái Lan, xứ sở mà Đạo Phật và các chư tăng rất được ngưỡng mộ, sùng bái.

Có một phụ nữ Thái Lan rất xinh đẹp, tên Wilawan Emsawat, biệt danh là “Sika Golf” khoảng 35 tuổi, đã bị cáo buộc dụ dỗ nhiều nhà sư Phật giáo, quan hệ yêu đương rồi ép buộc họ phải chi trả những món tiền lớn để che giấu tội lỗi. Theo Globalnews.

Các nhà sư Thái Lan, tu theo Theravada – phái Tiểu Thừa, phải hãm mình, sống độc thân không có sắc dục. Có đến 9 vị cao tăng, hầu hết là các vị “chưởng môn” trụ trì đã có quan hệ tình dục với cô Wilawan. Những cao tăng phạm tội này đã phải cởi bỏ áo cà sa và bị trục xuất khỏi giới tăng lữ. Sau hơn 10 ngày điều tra, tổng số các nhà sư can tội dính líu ái tình với cô Wilawan lên đến 25 người.

Việc phạm giới luật của nhiều vị cao tăng đã làm rúng động các chùa, không chỉ thu hút sự chú ý của công chúng, Hoàng gia và chính quyền Thái Lan cũng đang quan tâm và muốn làm sáng tỏ vấn nạn.

Vụ án được điều tra và phơi bày ra những khoản tiền lớn quyên góp của phật tử, bá tánh cho các ngôi chùa đã được chuyển cho Wilawan, sau khi các nhà sư có mối quan hệ tình cảm với cô.

Cảnh sát Thái Lan cho biết, Wilawan cố tình nhắm vào các “cao tăng” để trục lợi. Trong 3 năm đi “Bỏ bùa cho sư”, cô Wilawan đã nhận khoảng 385 triệu baht, tương đương $11.9 triệu. BBC đưa tin. Phần lớn số tiền này đã được “vung vít” vào các trang cờ bạc trên mạng.

Cảnh sát điều tra và kiểm tra điện thoại của cô Wilawan, phát hiện hơn 80,000 tấm hình và video, chat, ghi lại cảnh làm tình và lời tình tự của cô với một số nhà sư. Cô Wilanwa đã dùng những “bằng chứng” này để tống tiền các cao tăng sa ngã bị sa bẫy. Cảnh sát cho thủ đoạn này là MO (Modus Operandi) “Kiểu mẫu” của Wilawan, kẻ thủ mưu dụ dỗ các nhà sư.

Những vụ bê bối, tai tiếng trước kia thường không liên quan đến giới tăng lữ “cao cấp” nên bị coi như “chuyện nhỏ,” nhưng, vụ tai tiếng “khủng” này khiến Hội Tăng Già, cơ quan quản lý phật giáo và chính quyền Thái Lan phải xem xét, thúc đẩy những hình phạt nghiêm khắc đối với các nhà sư vi phạm quy chế tu viện và ban hành các luật lệ có liên quan đến quỹ tài chính minh bạch của các chùa chiền, nhằm khôi phục niềm tin của thiện nam, tín nữ Phật giáo.

Thái Lan có hơn 90% dân số theo đạo Phật, các chư tăng rất được tôn sùng và kính trọng.

Ai ngờ, chỉ đi “Bỏ bùa cho sư” mà kiếm được lợi nhuận “khủng”!

***

Đọc bài thơ “Ba cô đội gạo lên chùa” tôi bỗng nhớ đến câu chuyện ngày xa xưa mà bạn bè thường hay nhắc nhở gọi tên “Xá Lợi tình sử.”

Trường nữ trung học Gia Long, ngôi trường cổ kính, có lịch sử lâu đời nhất ở Sài Gòn, sau năm 1975, đổi tên là Nguyễn thị Minh Khai. Gần sát bên trường Gia Long là ngôi chùa Xá Lợi linh thiêng, uy nghi có cái tháp chuông cao cao và nhiều di vật quý giá của Phật Giáo Việt Nam.

Cảnh chùa thường yên tịnh, trang nghiêm. Vì là “láng giềng” nên các cô nữ sinh thích rủ rê nhau vào chùa, không chỉ ngồi một góc đọc sách, học bài hay rù rì, thầm thì kể cho nhau nghe chuyện cái Loan, cái Thúy,… mà có cô lại phá phách khiến sư ông và chú tiểu phải nhắc chừng là đừng nói cười lớn tiếng, đừng leo trèo rồi té ngã, đừng bẻ cây bẻ lá trong chùa,…

Hơn thế nữa, bên ngoài cổng chùa còn bị quấy động ồn ào bởi những xe bò bía hấp dẫn với mùi lạp xưởng, tôm khô và hàng đậu đỏ bánh lọt ngọt bùi mà các cô thích ghé vào thưởng thức.

Tuổi nhỏ thường hay có những “vụng dại” vừa dễ thương, vừa dễ ghét…! Một đứa bạn trong lớp tôi đem lòng yêu thương một “chú tiểu.” Nhỏ Phương thấy chú tiểu hay quét dọn sân chùa, nó lân la đến hỏi chuyện vớ vẩn, vậy mà yêu nhau lúc nào không biết. Nhiều người cho đó là “tiếng sét ái tình,” nhưng bạn bè thường hay thắc mắc… “Phương bỏ bùa cho sư hay bị sư bỏ bùa?”

Hỡi ơi chú tiểu trên chùa

Chú tu sao nỡ bỏ bùa cho (tôi) Phương

Cả ngày thơ thẩn bồi hồi

Không yên trong dạ, đứng ngồi sao đây…

(Ca dao Việt)

Tôi kể chuyện tình của nhỏ bạn với chú tiểu, mẹ tôi lo ngại và cứ mãi dặn dò chị em tôi “Các con hãy nhớ đừng yêu con của Chúa hay con của Phật, vì sẽ bị trừng phạt đấy!” Tôi ngoan lắm, luôn nhớ lời mẹ dặn.

Thường hẹn hò nhau trong sân chùa với chuyện học hành và sách vở, mối tình của cô học trò nhỏ và chú tiểu tưởng chỉ là “gió thoảng mây bay” của một thời mới lớn…

Sư ông và gia đình đều khuyên bảo vì không muốn con mình vướng vào chuyện yêu đương với người đang tu hành. Nhưng, “làm sao chối bỏ được tình yêu.” Lớn lên, chú tiểu cầu xin sư phụ rời chùa, đành đứt đoạn đường tu, trở về với cuộc sống trần duyên. Sau khi tốt nghiệp trường Đại Học Bách Khoa, “chú tiểu” Minh Hòa xin cưới Phương, một nha sĩ, một giảng sư của trường Đại Học Nha Khoa.

Ai cũng chúc phúc cho hai người sống an vui đến răng long đầu bạc. Giờ đây, đã hơn 60 năm cuộc đời, họ vẫn vui vẻ bên nhau, bên con cháu, sống hạnh phúc như “mây suốt đời vẫn chung tình với gió.”

Bao năm qua, chàng vẫn ăn chay trường và nàng thường âu yếm gọi chồng là “Đường Tăng” (*)

***

(*) Theo tiểu thuyết “Tây Du Ký” của Ngô Thừa Ân, sư “Đường Tăng” đi thỉnh kinh phải vượt qua 81 khổ nạn, phải đối mặt và chiến đấu với đủ loại yêu quái để đạt thành chánh quả.

Tài liệu tham khảo: Globalnews, BBC)


 

TỬ TẾ KHÔNG PHẢI LÀ MỘT KỸ NĂNG – ĐÓ LÀ MỘT NỀN GIÁO DỤC…

Wendy Phan

Không cần nhìn học vị. Không cần nghe danh xưng. Chỉ cần NGỒI CẠNH 5 PHÚT – sẽ biết người đó có được dạy TỬ TẾ hay không.

Tử tế không nằm ở tấm bằng treo tường. Không nằm ở những lời đạo lý hoa mỹ. Mà nằm trong CÁCH HỌ SỐNG – NHỎ NHẤT.

Có người ra đường là quát xe ôm, quát nhân viên. Trong nhà thì cao giọng với cha mẹ. Lên mạng thì viết những câu nói tử tế. Vậy là đủ để thấy: HỌ HỌC GIỎI NHƯNG SỐNG NGHÈO.

Người được dạy tử tế – không phải người biết nói “cảm ơn” khi đông người, mà là người âm thầm nhặt rác giữa nơi không ai nhìn.

Không phải người hay đăng triết lý, mà là người biết đứng dậy nhường ghế cho cụ già trong khoảnh khắc rất bình thường.

Tử tế không cần phải phô trương. Vì “TÂM TỬ TẾ” là thứ lan tỏa tự nhiên – khiến người khác thấy an lòng mà chẳng cần nói gì.

Họ nhẹ nhàng, không vì yếu đuối. Họ nhường nhịn, không vì sợ hãi.

Họ tôn trọng cả người chẳng mang lại lợi ích gì cho mình – vì đó là NỀN GIÁO DỤC họ được gieo từ nhỏ.

Người TỬ TẾ – là người được lớn lên bằng YÊU THƯƠNG và SỰ DẠY DỖ đúng đắn.

Và xã hội này không thiếu người thành công. Chỉ thiếu những con người khi đứng cạnh – ta cảm thấy ẤM LÒNG…..

Nguon: St

#Wendyphan – #suutam – #ThoTimToi – #ynghiacuocsong