Elena Goliakova – Từ nữ hoàng sân băng đến người phụ nữ lang thang trên phố

Anh Chi -Tâm Thức Việt 

 Vào những năm 1990, cái tên Elena Goliakova từng sáng rực như một vì sao trên bầu trời thể thao châu Âu.

Cô gái trẻ người Nga với gương mặt dịu dàng đã lướt trên sân băng như cánh bướm, thanh thoát như thiên nga – mê hoặc khán giả bằng những chuyển động kết hợp giữa sức mạnh và sự uyển chuyển. Mỗi lần Elena xuất hiện, cả khán đài như nín thở, bởi cô không chỉ là vận động viên trượt băng nghệ thuật – cô là thơ, là nhạc, là ánh sáng giữa mùa đông giá lạnh.

Nhưng số phận lại dẫn cô đi theo một con đường không ai ngờ tới…

Năm 2000, Elena rời Nga, mang theo tình yêu với người chồng kiêm huấn luyện viên – Nikolaï Svitov – và một giấc mơ lớn hơn: mang trượt băng nghệ thuật đến một nơi hầu như chưa từng biết đến môn thể thao này – Mexico.

Tại thành phố Monterrey, họ mở một học viện nhỏ. Những đứa trẻ Mexico lần đầu chạm chân lên băng, lần đầu nhìn thấy một thế giới kỳ ảo qua từng vòng xoay của Elena. Cô đã thắp lên một tia sáng mới cho một vùng đất chưa từng có mùa đông.

Thế nhưng, giấc mơ dù đẹp đến mấy cũng có thể vỡ vụn.

Học viện đóng cửa sau vài năm. Năm 2006, cuộc hôn nhân tan vỡ. Elena chìm dần trong nỗi buồn, rồi đến năm 2010, bi kịch thật sự ập tới: chẩn đoán tâm thần phân liệt thể hoang tưởng.

Căn bệnh cướp đi sự tỉnh táo, phá vỡ những cân bằng nội tâm mà cô từng giữ được trên sân băng. Cô không còn là nhà vô địch được tung hô nữa, mà là một người phụ nữ yếu đuối, đang vật lộn với những tiếng nói vô hình trong đầu.

Giờ đây, người ta có thể bắt gặp Elena lang thang trên đường phố Tepatitlán, một thị trấn nhỏ ở bang Jalisco – nơi cô đẩy một chiếc xe cũ kỹ chứa vài món đồ lặt vặt và những con vật nhỏ – những người bạn cuối cùng trong hành trình lặng lẽ này.

Người dân ở đó quen mặt cô. Họ thấy cô đi bộ mỗi ngày, tóc rối bời, ánh mắt mơ hồ, thỉnh thoảng nói tiếng Nga hoặc tiếng Anh – mà hầu hết mọi người không hiểu được. Có người từng muốn giúp, nhưng cô từ chối – vì rào cản ngôn ngữ, hoặc vì nỗi sợ hãi đã ăn sâu do căn bệnh kéo dài nhiều năm.

Câu chuyện của Elena – từ một nữ hoàng sân băng đến người phụ nữ vô gia cư – không chỉ là một bi kịch cá nhân. Đó là một hồi chuông cảnh tỉnh:

Ánh hào quang có thể vụt tắt.

Sức khỏe tinh thần là kho báu vô giá.

Và ranh giới giữa đỉnh cao vinh quang và vực sâu đổ vỡ… đôi khi mong manh đến không tưởng.

Một giấc mộng băng giá, nay tan thành sương sớm. Một đời người – từ ánh đèn sân khấu, giờ chỉ còn ánh mắt lạc lõng giữa phố thị xa lạ.

St


 

 XƯNG HÔ ĐÚNG CHẤT NGƯỜI MIỀN NAM…

Việt Luận – Viet’s Herald

Dân Miền Nam nào mà xưng hô đồng trang lứa là “cậu” vậy thím Tám?

Bực mình quá xá, phim truyền hình khung cảnh Nam Kỳ, nhà Nam rặc ròi mà cứ “nước dùng”, “chần thịt”, “thịt ba chỉ”, “nửa lạng thịt” rồi học trò Miền Nam mà cứ “cậu” và “tớ”, nhé, ấy, đằng ấy, cô ấy, anh ấy, thế ấy….

Người Miền Nam đâu có cậu và tớ. Bạn bè học chung mày tao hết. Có tin 80 tuổi gặp nhau còn mày tao không?

Mày tao là cách xưng hô rất thông dụng và thân thiết ở Miền Nam. Bạn bè mày tao, anh em mày tao, chú bác cũng mày tao với con cháu, vợ chồng đồng tuổi cũng mày tao tuốt.

“Dí dầu chồng thấp vợ cao

Qua kinh, nước lớn cõng tao bớ mầy!”

Người Miền Nam trang lứa còn xưng “tui” và “bạn”, “tui” và “ông”, “tui” và “bà”, “mình” và “bạn”, rồi xưng tên, thí dụ “Hòa” nói cho “Ngọc nghe nè!

Nam Kỳ khi chỉ ngôi thứ ba là “ổng”, “bả”, “chỉ”, “ảnh”, “cổ”, “con nọ”, “thằng kia”, “ông đó”, “bà kia kìa”, “con nhỏ kia”, “thằng đó”.

Không phải bực mình khi coi phim đâu, trên FB, trên những trang Miền Nam nữa. Vài bạn thiếu kinh nghiệm sống, nó dám khẳng định Nam Kỳ bạn bè gặp nhau xưng “cậu”.

Cậu cái đầu mày! Bạn bè Miền Nam xưng “cậu” khác gì lấy mắm tôm bỏ vô tô hủ tíu Mỹ Tho.

Chữ “cậu” chỉ được người Miền Nam xài trong ngôi xưng hô với người là anh trai hoặc em trai của mẹ mình. Có cậu ruột và cậu họ, cậu bà con.

“Nắng hạ đi mây trôi lang thang cho hạ buồn

Coi khói đốt đồng để ngậm ngùi chim nhớ lá rừng

Ai biết mẹ buồn vui khi mẹ kêu cậu tới gần

Biểu cậu ngồi, mẹ nhổ tóc sâu

Hai chị em tóc bạc như nhau”

 

Khi mẹ nói chuyện với những người mà mẹ cho là em thời mẹ cũng kêu “cậu” và xưng chị. Thí dụ “Chị nói cho cậu út nghe nè”

Người Miền Nam rất thích xưng hô với người đồng tuổi, đồng lứa mà mới quen là “bạn” và “mình”, không có kiểu “tui nói cậu nghe”.

Thí dụ gặp người mới quen ở chỗ cafe mà phát hiện ra đồng hương sẽ hỏi: “Bạn quê ở Mỹ Thuận hả? Tui dân Cái Vồn nè”.

Nếu hỏi “Cậu ở Mỹ Thuận hả?” là lai Bắc rồi.

Chữ “bạn” cũng là chữ dân Nam Kỳ hay xài, người giúp việc xưa kêu là “bạn ở”, kiếm người ở đợ kêu là “kiếm bạn ở”.

Người Miền Nam lớn tuổi hồi xưa hay xưng “qua” và kêu người nhỏ hơn là “chú em”. Thí dụ: Chú em làm ơn chỉ cho qua nhà ông bảy thiến heo.

Người Miền Nam lớn tuổi thích xưng “con” và “tui”, “con” và chú hay bác.

Thí dụ:

-Con mới ở trển về hả con? Con đi lên trển nhớ mua dùm chú hộp thuốc bổ.

Người Miền Nam lớn tuổi mà xưng “tui” và “cậu” cũng là bị lai Bắc rồi.

Chuyện của Sơn


 

BẤT ĐỘNG SẢN – XỨ THIÊN ĐƯỜNG VÀ CÁI BẪY PHÁT TRIỂN

Nguyễn Quốc Chính

————- *** Góc nhìn Gã Khờ

 Hai lát cắt thời gian

Nếu gom gọn hơn ba mươi năm phát triển của xứ ta thành hai lát cắt, thì thấy ra một bi hài kịch không kém gì chèo làng:

– 1994 – 2010: Thời hậu cấm vận. Người lao động từ chỗ chỉ lo đủ cơm áo đã bắt đầu có đồng dư. Mảnh đất Biên Hòa lúc ấy 30–40 triệu/100m², chừng mười năm lương là gom được. Dù nghèo nhưng vẫn còn mơ ước, vẫn tin rằng con cái mình sau này có thể khá hơn.

– 2010 – 2025: Thời “bất động sản phong thần”. Lương công nhân từ 4 triệu lên 5 triệu sau 15 năm. Còn mảnh đất Biên Hòa? Vọt 15–20 tỷ. Tức là từ 10 năm làm việc biến thành… 300 năm.

Một xã hội văn minh hơn, lao động cực nhọc hơn, mà đời sống số đông lại thụt lùi trước miếng đất.

Ấy vậy mà hình như các nhà quản trị quốc gia… không thấy? Hay là thấy nhưng cứ giả vờ lơ đi cho nó “hợp quy hoạch”?

. Bất động sản – thánh thần hút máu

Ở những xứ đàng hoàng, bất động sản chỉ là chỗ ở, chỗ làm, hạ tầng. Chiếm vài phần trăm GDP thôi. Ở Mỹ khoảng 3%.

Còn thiên đường của ta? Đất đai chiếm tới 60–70% GDP. Cả quốc gia biến thành sòng bạc đất đai.

Hậu quả nhãn tiền:

– Giá đất leo như ngựa vía, chi phí sản xuất – kinh doanh đội lên nóc.

– Người lao động cả đời nai lưng trả nợ nhà, còn tiền đâu mà tích lũy, học hành, sáng tạo.

– Doanh nghiệp bỏ nghiên cứu chế tạo, rủ nhau đi buôn đất cho nhanh giàu.

Bất động sản ở ta chẳng sinh ra giá trị mới. Nó chỉ chuyển tiền từ túi số đông sang túi số ít. Thế mà vẫn có người gọi đó là “động lực tăng trưởng”. Ừ thì… tăng trưởng máu mồ hôi của dân đen cũng là tăng trưởng cả thôi!

. Thế giới và xứ ta: hai cách làm giàu

Nhìn ra thế giới: Gates làm Microsoft, Musk làm Tesla – SpaceX, Bezos làm Amazon… Họ tạo công nghệ, sản phẩm, hàng triệu việc làm, đóng thuế, nâng tầm quốc gia.

Còn ở ta? Tỷ phú giàu nhất lên từ… bán đất. Rồi khi mở sang dịch vụ – siêu thị, taxi, giáo dục, y tế – thì đè bẹp luôn sinh kế nhỏ bé của dân: xe ôm, taxi truyền thống, quán tạp hóa.

Tóm lại: ở nơi khác, người giàu mở lối mới. Ở ta, giàu là… chặn lối cũ.

Các nhà quản trị quốc gia liệu có so sánh bao giờ, hay cũng bận… đi cắt băng khánh thành dự án đất vàng?

. Không gian sống và tương lai con người

Một xã hội văn minh cần không gian rộng rãi để con người thở, học hỏi, sáng tạo. Nhà phương Tây có sân vườn, gara, phòng đọc sách, sân chơi cho trẻ.

Còn xứ ta, căn hộ 50m² giá 10–30 tỷ. Người dân sáng đi tối về, chui rúc trong bốn bức tường. Không gian sống nghèo nàn kéo theo nghèo nàn sáng tạo, sức khỏe và tâm hồn.

Một dân tộc bị “nhốt” trong căn hộ khép kín thì mong gì sinh ra thế hệ bứt phá khoa học – công nghệ?

Hay là các nhà quản trị quốc gia cho rằng: sáng tạo không cần không gian, miễn có nghị quyết chỉ đạo?

. Cái bẫy phát triển

Hơn 15 năm “thời kỳ vàng” bất động sản, Việt Nam đạt được thành tựu vẻ vang:

– Giá nhà đất tăng 400–500 lần.

– Thu nhập người lao động chỉ nhích 25%.

– Khoảng cách giàu nghèo rộng như vực thẳm.

– Kinh tế lệch hẳn sang đầu cơ, bỏ mặc sản xuất.

Một quốc gia không thể giàu bằng cách bán lại đất cho chính dân mình. Muốn phát triển, phải dựa vào giáo dục, khoa học, công nghệ, sản xuất, xuất khẩu.

Nếu không, cái gọi là “thiên đường bất động sản” chỉ là nhà tù cho số đông.

Và câu hỏi cuối cùng: phải chăng các nhà quản trị quốc gia không nhìn thấy điều này?

Ảnh internet

VẪN TUYỆT VỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ”.

Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của Irving Berlin là “Mơ Về Một Giáng Sinh Tuyết Trắng” – “I’m Dreaming of a White Christmas”. Ngày kia, Berlin được hỏi, “Có câu hỏi nào – chưa từng được hỏi – ông muốn ai đó đặt ra?”. Berlin trả lời, “Có chứ!”; đó là, “Bạn nghĩ sao về nhiều ca khúc không là những ‘điểm nhấn’ nổi tiếng?”. “Tôi sẽ trả lời – tôi chỉ nghĩ – chúng vẫn tuyệt vời!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong cái nhìn của Chúa Giêsu, bất cứ ai theo Ngài, dẫu không là những ‘điểm nhấn’, họ ‘vẫn tuyệt vời!’. Tin Mừng hôm nay tiết lộ, trên bước đường rao giảng của Ngài, “Có Nhóm Mười Hai” và “mấy phụ nữ!”.

Đó là những cộng sự viên tuy khác biệt, nhưng có Chúa Giêsu, họ trở nên đặc biệt! Bởi lẽ, khác biệt của từng người lại trở thành điểm mạnh. Việc chọn các môn đệ đầu tiên từ nhiều hoàn cảnh khác nhau cho thấy Chúa Giêsu là một lãnh đạo bậc thầy. Họ sẽ không là bạn của nhau, càng không là những người làm việc với nhau nếu không vì Ngài. Với Ngài, họ hợp tác, trân trọng và đánh giá cao khả năng của nhau. Có Ngài, khác biệt không còn là dị biệt, nhưng là những ưu thế để họ ‘vẫn tuyệt vời’. “Những điều vĩ đại trong công việc không bao giờ được thực hiện bởi một người; chúng được hoàn thành bởi một nhóm người!” – Steve Jobs.

Không chỉ các ông đi theo Chúa Giêsu; nhưng còn có các bà. Các phụ nữ này tuy khác nhau nhưng việc Ngài cứu chữa và biến đổi họ xem ra giống nhau. Và một khi chọn theo Ngài, họ trở thành những điểm mạnh; ít nữa, đã hy sinh của cải và thời giờ cho sứ vụ. “Phụ nữ nâng đỡ một nửa bầu trời!” – Mao Zedong.

Chúa Giêsu có khả năng truyền cảm hứng cho bất cứ ai. Chúng ta được mời gọi xây dựng Vương Quốc ở mọi cấp độ trong vị trí đấng bậc mình. Vấn đề là Ngài có trở nên trung tâm cuộc đời chúng ta không? Chúng ta có thuộc về Ngài không? Hay đi theo Chúa, chúng ta lại tính toán theo thói đời, rán thành những ‘điểm nhấn’, để rồi không biết mình thuộc về ai, làm gì! Phaolô lưu ý, “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” – bài đọc một – Giuđa Iscariôt là một ví dụ. Thánh Vịnh đáp ca thật thâm trầm, “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!”. Nước Trời ở đây là Chúa Giêsu, trái tim của mọi ơn gọi, để mỗi người tuy ‘không nổi trội’ mà ‘vẫn tuyệt vời!’.

Anh Chị em,

“Có Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ”. Là những môn đệ Giêsu – nam hay nữ – chúng ta đừng bao giờ coi thường một ai, dù người ấy không nổi bật. Lấy Chúa Giêsu làm điểm quy chiếu, chúng ta trở nên những cộng sự viên của Ngài và của nhau; bằng một đời sống yêu thương, chúng ta đón nhận nhau. Với ơn Chúa, chúng ta trở thành môn đệ và anh chị em. ‘Khác biệt’ không làm phân hoá, có Chúa Giêsu, chúng ta trở nên những ‘điểm nhấn’ cho nhau và cho thế giới. Không cần nổi bật, không cần là ‘điểm nhấn’, chỉ cần thuộc trọn về Ngài, chúng ta vẫn có thể tuyệt vời.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho từng việc nhỏ bé của con thành viên gạch xây Nước Trời – dù viên gạch hơi méo, xin Ngài vẫn vui nhận!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXIV Thường Niên, Năm  lẻ:

Các bà cùng đi với Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai, đã lấy của cải mình mà giúp đỡ các ngài.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 8,1-3

1 Khi ấy, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, 3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.


 

Tôi có được xưng tội, nếu không có tội nặng không? – Cha Vương

Con cưng của Chúa ơi! Lời chúc hôm nay là Bạn có được 1 quả tim giàu lòng từ bi và nhân hậu để mang yêu thương tha thứ vào nơi oán thù nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 18/09/2025  t2-23

GIÁO LÝ: Tôi có được xưng tội, nếu không có tội nặng không? Không có tội nặng thật thì không buộc xưng tội. Nhưng xưng tội là một ơn lớn để được chữa lành, và làm cho người ta được kết hợp chặt chẽ hơn với Chúa. (YouCat, số 235)

SUY NIỆM: Ở các cuộc hội họp hoặc ngày giới trẻ thế giới, người ta thấy đâu đâu cũng có giới trẻ tìm đến bí tích Hòa giải. Các Kitô hữu coi trọng ước muốn theo Chúa Kitô thì tìm nơi bí tích này niềm vui lại lên đường với Chúa. Ngay các vị thánh cũng thường đi xưng tội. Khi có thể, các ngài cần để lớn lên trong khiêm tốn và bác ái, và để được ánh sáng tốt lành của Chúa chiếu soi tận góc nhỏ của tâm hồn. (YouCat, số 235 t.t.)

   Người Kitô hữu có buộc phải xưng các tội nhẹ không? Không, các tội nhẹ không buộc phải xưng. Nhưng có nên xưng không? Có. Phải nên thường xuyên xưng các tội nhẹ để:

 – Giúp rèn luyện lương tâm: lương tâm sẽ nhậy bén đối với tội lỗi hơn.

 – Giúp chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu nơi ta.

 – Càng ngày càng thăng tiến trong đời sống ơn thánh và nên giống Chúa Kitô hơn.

   Khi xưng các tội nhẹ, điều quan trọng vẫn là lòng thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình. Đừng cố xưng thật nhiều tội nhẹ nhưng lại không chủ tâm chừa tội nào. Những tội nhẹ ta cần xưng là những tội ta đang quyết tâm sửa mình.

❦ Mặc dù đôi khi có vụng về, việc xưng tội là dịp quyết định để ta tìm lại được vẻ tươi mát của Tin Mừng nhờ đó ta được tái sinh. Ở đó ta học biết loại bỏ những hối hận của mình bằng một hơi thổi, như đứa trẻ thổi vào chiếc lá mùa thu đang quay cuồng. Ta tìm được ở đó hạnh phúc của Thiên Chúa, khởi đầu của niềm vui hoàn hảo. (Thầy Roger Schutz)

❦ Tội lỗi là một vết thương. Ăn năn là thuốc chữa. (Thánh Gioan Kim Khẩu).

LẮNG NGHE: Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. (1 Ga 1:9)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, lòng thương xót của Chúa luôn lớn hơn tội lỗi của con. Xin giúp con biết siêng năng lãnh nhận Bí tích Giao Hòa và biết thành thực thú nhận tội lỗi của mình mỗi khi lãnh nhận Bí tích này để được kết hợp mật thiết với Chúa hơn.

THỰC HÀNH: Tội nhẹ nào mà bạn hay lập đi lập lại? Hãy quyết tâm thay đổi và loại bỏ nhé. 

From: Do Dzung

**********************

Bước Chân Tìm Về (Sáng tác: Sr. M. Tigon) – Angelo Band

Nghĩ về sự liêm sỉ của người cầm bút – Lê Nguyễn

Ba’o Tieng Dan

Lê Nguyễn

16-9-2025

Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, sự xung đột giữa tài năng và nhân cách, sự song hành giữa công và tội là cả một bi kịch.

Trong lịch sử thời Pháp thuộc, đó là những Hoàng Cao Khải, Cao Xuân Dục ở miền Bắc, là Đỗ Hữu Phương, Trần Bá Lộc ở miền Nam. Hai vị trước vừa tích cực ra tay đàn áp, sát hại nghĩa quân kháng chiến chống Pháp, vừa để lại cho đời nhiều công trình văn hóa lịch sử quan trọng còn lưu giá trị đến ngày nay. Hai ông sau cũng lập nhiều “đại công” với Pháp, trong đàn áp các cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân, Mai Xuân Thưởng, được thăng đến hàm Tổng đốc, đến cuối đời cũng làm được đôi điều ích nước lợi dân.

Ông họ Trần ra sức huy động người đào con kênh Tổng đốc Lộc, giúp mở mang sự vận chuyển của cả một vùng rộng lớn, ông họ Đỗ ra sức mở cuộc lạc quyên để xây dựng cho thành phố Sài Gòn ngôi trường Con gái bản xứ (École des filles indigènes), sau là trường Áo tím, trường Gia Long, nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai.

Đến giữa thế kỷ XX, bên cạnh những tác phẩm của Tự lực văn đoàn, cả một thế hệ học sinh, sinh viên miền Nam còn khao khát nền văn học tiền chiến với những Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư…, mà vì lý do chia cách hai miền, tác phẩm của họ không được phép xuất bản ở miền Nam. Bản thân người viết bài này khi cầm được những Thơ Thơ, Gửi Hương Cho Gió của Xuân Diệu, Lửa Thiêng của Huy Cận, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân từ một ông “Bắc kỳ di cư” chuyên cho thuê sách cũ, lòng rưng rưng xúc động như bắt gặp của quý tự nghìn đời.

Thế rồi, sau năm 1954, sự kiện Nhân văn – Giai phẩm như một quả bom nổ giữa trời quang, lột trần trụi nhiều sự thật, làm sụp đổ những thần tượng của thế hệ chúng tôi. Bi kịch đó đeo đẳng cuộc đời mỗi nhà văn, nhà thơ cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, đồng thời cũng tạo nên một bài học về liêm sỉ của người cầm bút.

Những năm trước 1975, cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền Nam-Bắc biến tuyên truyền thành vũ khí sắc bén nhất để giành lấy thắng lợi về các mặt tinh thần, tâm lý, kể cả mặt ngoại giao. Đó là thời kỳ hoàng kim của Hòn Đất (Anh Đức), Người Mẹ Cầm Súng (Nguyễn Thi), thơ Tố Hữu …, những “tác phẩm” vẽ lên hình tượng những người cầm súng bảo vệ mảnh đất mình đang sống không còn là những con người, mà là một loài ngạ quỷ hút máu người, ăn thịt người, lấy sự chém giết làm lẽ sống.

Sau tháng 4.1975, tưởng như với sự thống nhất về địa lý, giang sơn thu về một mối, một quá khứ với bao nhiêu “sự thật” bị vẽ vời, phóng đại sẽ được xếp vào tàng cổ viện, không ngờ nó vẫn tiếp diễn với quán tính cũ, với một thế hệ nhà văn kế thừa sự bịa đặt của lớp đàn anh.

Lần này, văn chương còn được sự chắp cánh của phim, kịch, tạo nên những Ván Bài Lật Ngửa, Ông Cố vấn, Biệt Động Sài Gòn,… và nhiều lúc hình ảnh những kẻ bại trận còn được miêu tả ghê rợn hơn, như cảnh người lính miền Nam moi tim gan đối phương, nướng ăn và còn chia nhau hai hạt… tinh hoàn. Sự tưởng tượng cao siêu đến mức ghê tởm!

Xét cho cùng, so với Hòn Đất của Anh Đức, Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi và “tác phẩm” của nhiều người cùng thời khác, thì Mưa Đỏ của Chu Lai chẳng là cái đinh gì. Không may cho ông, quyển tiểu thuyết được chuyển thể thành phim trong một thời điểm mà lương tri con người và tinh thần yêu chuộng sự trung thực và công bằng đang được mạng xã hội dành cho những điều kiện tốt nhất để phát huy. Vì thế, thay vì phùng mang trợn mắt, cãi chầy, cãi cối như nhiều người khác, sự bối rối của ông Chu Lai cũng còn ẩn chứa một chút liêm sỉ của người cầm bút, ta nên thông cảm phần nào với ông để nhà văn còn có dịp ngẫm lại mình.

Nhà văn Chu Lai và tiểu thuyết Mưa Đỏ của ông đang gây tranh cãi. Nguồn: CAND

Thân phận một nhà văn quốc doanh lắm trái ngang, không dễ gì nói được hết những suy nghĩ của mình. Đến như Phùng Quán, vang danh một thời với Lời Mẹ Dặn, mà còn có lúc tự thú rằng ông đã ngồi ở Hà Nội để tưởng tượng nên một Vượt Côn Đảo “địa ngục trần gian”.

Cũng xin đừng như ai kia, đánh tráo khái niệm bằng cách so sánh tính hư cấu của bộ phim lừng danh Titanic với phim Mưa Đỏ, qua cảnh mô tả anh lính miền Nam thiêu sống anh tù binh phương Bắc. Sao nỡ lòng so sánh như vậy? Trong Titanic, sự hư cấu nâng giá trị nghệ thuật lên một tầm cao mới, còn trong Mưa Đỏ, sự hư cấu mang tính bịa đặt nhằm vùi lấp danh dự của người bại trận xuống bùn đen, và ghi đậm trong tâm hồn thế hệ trẻ sự ngộ nhận và thù hận đối với thế hệ cha anh của họ.

Ngày nay, nói đến sự liêm sỉ của người cầm bút, đã là xa xỉ chưa? Mình nghĩ là chưa. Vẫn còn đó những tiếng nói của lương tri đang ngày càng nở rộ trên mạng xã hội, đặc biệt của những người từng lớn lên dưới mái trường XHCN, nay vừa qua một thời tuổi trẻ và đang nhìn lại xã hội mình đang sống với cái nhìn trung thực, thẳng thắn và nhân văn. Đọc bài viết và bình luận của những bạn đó, mình rưng rưng xúc động, hy vọng vào một thế hệ kế thừa đang ngày càng sáng suốt, nhiều tình người hơn.

Nói đến sự liêm sỉ của người cầm bút, sẽ là vô cùng thiếu sót nếu chúng ta không nhắc đến nhà thơ Hữu Loan, con người đã coi khinh nghịch cảnh, đạp bằng trở lực, dành quãng đời còn lại đi đập đá và thồ đá để nuôi sống gia đình. Con người đó xứng đáng được tạc thành một tượng đài bất tử, và tên được đặt cho nhiều con đường để vinh danh cho tiết tháo và liêm sỉ ở đời.

Chừng nào xã hội chưa làm được điều đó, nhiều người trong chúng ta vẫn còn bất an cho tương lai của những thế hệ đến sau mình.


 

CHÚA GIÊSU DẠY TA CÁCH TIÊU TIỀN – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến một thứ rất quen thuộc và được sử dụng hằng ngày trong cuộc sống đó là “tiền.”  Kết quả của việc làm, tương quan đổi chác là “tiền.”  Chẳng ai muốn nói tới tiền, vì đó là một chủ đề cấm kỵ.  Tiền vừa là thứ được yêu thích, và cũng là thứ gây mặc cảm.  Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta cách sử dụng đồng tiền khi kiếm được.

Tiền chỉ là một mảnh giấy, một vật làm bằng kim loại vô tri vô giác, nhưng nó đã được chọn làm tương giao đổi chác, chi phối chúng ta quá nhiều.  Tiền giữ một vị trí quan trọng, khiến nhiều bậc thang có giá trị bị đảo lộn.

 Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra tội lỗi, nhưng thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham thích tiền bạc” (1Tm 6,10).  Vì ham thích tiền mà một số người từ bỏ đức tin.  Lòng tham lam và thái độ tôn thờ tiền bạc khiến người ta trở thành kẻ bất lương.  Bất lương đưa đẩy người ta đến hành động bất chấp và bất chính, khiến anh em gia đình bất hòa, làm xã hội bất công.  Hậu quả là, mọi người chịu cảnh sống bất an, bất mãn, bất bình và bất hạnh, rồi nhanh bị… bất tỉnh!    

     Bài đọc trích sách tiên tri Amos cho thấy vì tiền mà người ta bất chấp tốt xấu.   Người ta sẵn sàng làm ăn bất chính lừa gạt mua thừa bán thiếu, coi thường giá trị con người, hạ xuống chỉ như món hàng, sánh bằng đôi giầy đôi dép, thậm chí có người còn coi tiền hơn cả những giá trị tôn giáo cao quí nên họ chỉ mong cho ngày lễ mau qua để còn kiếm tiền (x. Am 8, 4-7).

 Bài Phúc Âm cho thấy vì tiền mà viên quản lý được chủ tín nhiệm đã trở thành kẻ bất lương, sẵn sàng bán rẻ lương tâm, bất chấp sự thật, gian giảo đổi trắng thành đen, viết sai văn tự, miễn là có lợi cho mình. Đến ông chủ cũng phải thốt lên tay này thật khôn ngoan quỷ quyệt!

Cách sử dụng của cải gian dối

 Chúa Giêsu đưa ra ví dụ này chắc chắn không phải để khuyến khích sự xảo quyệt hay bất lương, không cần sống trung thực.  Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta: Hãy khôn ngoan và trung thực, biết chọn điều tốt và không xấu.  Chúa muốn mời gọi chúng ta hãy sống khôn khéo!  Với trí thông minh và sự khôn khéo giúp chúng ta chiếm hữu được nước trời bằng những đồng tiền gian dối.

 Anh quản lý có phần thông minh nhưng lại bất lương, anh bị tố cáo là đã phung phí tài sản của chủ, và sắp bị sa thải.  Ðối mặt với một tình cảnh bị đuổi việc, ý thức mình không thể làm được các việc khác, về nhà “cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi” anh tìm ra một lối thoát.  Với sự khôn ngoan nhưng xảo quyệt, anh quyết định lấy cắp lần cuối.  Anh đã làm gì?  Anh gọi các con nợ của chủ lại và giảm các khoản nợ mà họ đã nợ ông chủ trước đó.  Chính điều này giúp anh biến họ thành bạn bè và vì thế mà được đền ơn.  Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9).

 Có người hỏi, khi Chúa Giêsu nói: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn bè” có nghĩa là gì, và việc sử dụng của cải mà Chúa Giêsu đã nói liên quan gì đến “đời sống vĩnh cửu”?  Thưa, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta kết bạn bằng tiền của.  Chúa chỉ cho chúng ta biết dùng tiền của để thương giúp tha nhân vì con người thì quí hơn mọi thứ mà chúng ta có thể chiếm hữu, dùng tiền mà mua lấy bạn hữu để chính họ sẽ đền ơn mà mời đón chúng ta vào nước trời, dùng tiền của sang giàu mà xây dựng tình huynh đệ và đoàn kết, thì sẽ không chỉ chiếm hữu được Thiên Chúa mà còn nối kết được với tha nhân trong tình sẻ chia những gì Chúa đặt để trong tay chúng ta.

 Câu hỏi tự vấn lương tâm của viên quản lý bất lương “Mình phải làm gì đây?” (Lc 16, 3) khiến chúng ta suy nghĩ.  Ðối diện với những thiết sót, sai lầm và thất bại của chúng ta, Thiên Chúa bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta luôn có thời gian và cơ hội để sửa điều ác bằng cách làm điều thiện.  Ai đã từng làm cho người khác phải đau khổ, hãy làm cho ai đó hạnh phúc.  Ai đã từng chiếm đoạt hoặc tham ô, hãy giúp đỡ người thiếu thốn.  Làm như vậy, chúng ta sẽ được Chúa ca ngợi, bởi vì chúng ta đã hành động khôn khéo, nghĩa là với sự khôn ngoan của người nhận biết mình là con cái Thiên Chúa và dám đánh liều đời mình vì Nước Trời.

 Vì thế, chúng ta hãy xin Ðức Trinh Nữ rất thánh cho chúng ta biết trở nên khôn ngoan lựa chọn những bảo đảm của sự sống đời đời, chứ không phải thành công thế trần; để đến ngày phán xét chung cục, những người đã từng cần đến sự giúp đỡ của chúng ta chứng thực rằng chúng ta đã chiêm ngưỡng và phục vụ Thiên Chúa.  Amen.

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

From: Langthangchieutim


 

Vài dòng tưởng niệm Cha Chu Quang Minh- Hồn nhỏ Têresa

Hồn nhỏ Têresa

Nữa đêm, tôi nhận được tin kính báo khẩn thông báo và cầu nguyện cho Linh mục Phero Verone Chu Quang Minh đã qua đời, lòng tôi bồi hồi xúc động. Tôi đọc kinh rồi hiệp ý cùng với các anh chị em trên toàn thế giới cầu nguyện xin Thiên Chúa thương xót đến Linh Hồn của Ngài và rồi tôi không sao chợp mắt được.

Hình ảnh Cha Minh với đôi mắt sáng và dáng người gầy gò vẫn còn hiện rõ trong đầu tôi và những lời Cha dạy trong lớp ” Thăng Tiến Hôn Nhân gia đình” vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi khi tôi tham dự khóa học  . Tôi thật biết ơn Cha đã sáng lập ra Chương trình này vì khóa học đã cứu cuộc hôn nhân của tôi trên bờ vực thẩm của chia tay.

Hai cuốn sách “ Vợ chồng căng thẳng làm sao hòa hợp” của Cha Chu Quang Minh viết đang nằm trên kệ sách đã theo tôi hai chục năm nay là kim chỉ nam giúp cho hai vợ chồng tôi hoà thuận trở lại mỗi khi tôi và chồng bất hoà. Tôi với tay lấy quyền “ Hồi ký Tình yêu Thăm thẳm” lật lại những trang sách Cha kể về những thao thức và những ngày đầu tiên Cha bận rôn đặt ra kinh Hôn Nhân Gia Đình , vẽ huy hiệu Tình yêu, soạn thảo các tài liệu cho khóa Hôn nhân gia đình, tôi thầm cảm phục và thương tiếc cho người Linh mục đã suốt đời tận tụy phục vụ giáo dân đặt biệt đã giúp đỡ hàn gắn những gia đình đổ vỡ.

Cha Chu Quang Minh kính mến,

Không bút mực nào kể hết lòng biết ơn của hai vợ chồng chúng con nói riêng và  những anh chị em đã từng tham dự khóa Thăng tiến Hôn nhân nói chung,  đối với gia sản mà cha đã truyền đạt  lại cho chúng con về tình yêu gia đình bằng những câu thánh kinh, những quyển sách mà cha đã viết ngày đêm không mệt mỏi, bằng những hành trình đến mọi giáo xứ ở các nước Út, Canada, Việt nam … hơn 30 Quốc gia xuyên Á, Âu và hơn 40 tiểu bang  ở Hoa Kỳ.

Giờ đây, Cha đã vui hưởng hạnh phúc Thiên Đan`g cùng với Chúa, xin Cha tiếp tục cầu nguyện cho chúng con luôn vững tin vào Chúa trước những thử thách và khó khăn đang bao vây gia đình của chúng con nhất là trong thời đại Internet và kỹ thuật số, cạm bẩy, cám dỗ đang giăng lưới khắp mọi nơi.. Một trong những câu chúng con vẫn ghi nhớ của Cha là “Đức tin không có việc làm là Đức tin chết” , xin cho Đức tin của chúng con luôn mãi sống .

Hồn nhỏ Têresa

17/ 09/2025


 

NĂM NỐT ÂN SỦNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tội của chị đã được tha rồi!”.

John Newton – thuyền trưởng một tàu buôn nô lệ – từng gặp bão lớn, cầu nguyện và thoát chết. Cảm nghiệm ơn cứu sống, ông viết “Amazing Grace”, “Ân Phúc Diệu Kỳ”, ca khúc chỉ với 5 nốt: Do, Fa, La, Sol, Rê. Ca sĩ da đen Wintley Phipps tiết lộ, đó là 5 phím đen – ‘thang âm của người nô lệ’ – năm nốt ân sủng đủ để lay động lòng Trời và muôn lòng.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay không kể chuyện một ca khúc cảm hứng từ con tàu được cứu, nhưng chuyện một linh hồn được cứu! Trình thuật đưa chúng ta từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác: ‘người mời’, ‘khách mời’, ‘khách không mời’, ‘sự tha thứ’ – như ‘năm nốt ân sủng’ của bản nhạc cứu độ, “Tội của chị đã được tha rồi!”.

Người mời là một biệt phái – điều hiếm! Khách mời là Chúa Giêsu cùng vài biệt phái, không nhắc các môn đệ – cũng lạ! Khách không mời lại là một phụ nữ tội lỗi – càng lạ hơn! Nhưng lạ lùng nhất chính là sự tha thứ. Và người phụ nữ ấy chẳng nói một lời, chỉ với 5 hành động như ‘năm nốt ân sủng’: đứng sau Ngài, khóc, rửa chân bằng nước mắt, lau bằng tóc, hôn và xức dầu thơm. Tất cả như một ca khúc trào dâng niềm sám hối. Dưới cái nhìn của chủ nhà, cô là một người ‘đầy tội’; nhưng dưới cái nhìn của cô, Giêsu là một người ‘đầy tình’, “Cô không đỏ mặt trước các thực khách vì khi thấy những vết nhơ của sự xấu hổ, cô đã chạy đến rửa chúng tại nguồn nước đầy tình xót thương!” – Grêgôriô Cả.

Đó là một chuỗi 5 hành động không định trước, không tính toán và không vận dụng; thay vào đó là ‘tất cả con người’ cô. Nói khác đi, cô hoà quyện những gì quý giá nhất của một phụ nữ: tiền bạc, mái tóc, nước mắt, mùi hương… để dành cho Chúa Giêsu. Qua đó, cô van xin lòng thương xót của Ngài mà không cần nói một lời. Và kinh ngạc nhất, Chúa Giêsu không tỏ ra một phản ứng nào, ngoài việc đọc ‘lời xá giải’, “Tội của chị đã được tha rồi!”; “Chị hãy đi bình an!”. Các biệt phái sững sờ, “Ông này là ai mà lại tha được tội?”- ‘kinh ngạc trước sự tha thứ!’. “Ân sủng là vòng tay không cần công trạng của Thiên Chúa, Đấng chỉ chờ ta quay về!” – Frederick Buechner.

Anh Chị em,

“Tội con đã được tha!”. Năm nốt ân sủng không chỉ thuộc về người phụ nữ, đó cũng là câu chuyện của mỗi chúng ta. Khi thật lòng sám hối, không cần nhiều lời, chỉ một bước quay về đã đủ để Chúa cất lên bản nhạc tha thứ. Mỗi giọt nước mắt, mỗi việc thiện, mỗi lần sám hối chính là những nốt nhạc lặng lẽ ấy. Ơn tha thứ không bao giờ cũ; mỗi lần đón nhận là mỗi lần chúng ta nghe lại khúc hát cứu độ của chính đời mình. Vì với ‘5 hành động’ tha thiết của mình, người phụ nữ đó đã lay động lòng Trời; và dường như cô cũng đã hát lên “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ!” – Thánh Vịnh đáp ca – sau khi thuyền đời cô được cứu. Bài ca ấy vẫn mãi ngân vang trong lòng bạn và tôi nếu chúng ta nuôi dưỡng cho mình sự kinh ngạc trước ơn tha thứ của Chúa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khi thuyền đời con hòng chìm và tâm hồn con lạc điệu, xin kéo con về với nhịp bình an của Ngài!” Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**********************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXIV Thường Niên, Năm lẻ

Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 7,36-50

36 Khi ấy, có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. 37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. 38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.

39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng : “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào : một người tội lỗi !” 40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông : “Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông !” Ông ấy thưa : “Dạ, xin Thầy cứ nói.” 41 Đức Giê-su nói : “Một chủ nợ kia có hai con nợ : một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. 42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn ?” 43 Ông Si-môn đáp : “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Đức Giê-su bảo : “Ông xét đúng lắm.”

44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn : “Ông thấy người phụ nữ này chứ ? Tôi vào nhà ông : nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. 45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. 46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. 47 Vì thế, tôi nói cho ông hay : tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” 48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ : “Tội của chị đã được tha rồi.” 49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng : “Ông này là ai mà lại tha được tội ?” 50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ : “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”


 

HẬN THÙ KHÔNG TỰ SINH RA

Lê Thọ Bình 

Khi cảnh sát Mỹ gõ cửa nhà Robinson ở Utah, người cha, một cựu sĩ quan cảnh sát trưởng, đã lặng lẽ đưa con trai mình ra đầu thú. Chỉ vài giờ trước đó, chàng trai 22 tuổi ấy thú nhận đã nổ súng vào Charlie Kirk, kết thúc cuộc đời một con người và khởi đầu cho bi kịch của cả gia đình.

Khoảnh khắc người cha nắm tay đứa con trai trẻ bước ra, có lẽ là khoảnh khắc đớn đau nhất. Đó vừa là sự tố cáo, vừa là tình yêu thương bất lực. Ông biết con mình phạm tội, và ông cũng biết, đằng sau tội ấy còn có một sự thật khác: một thanh niên non trẻ đã để hận thù chiếm lĩnh tâm hồn.

Trước đây, Thomas Matthew Crooks, 20 tuổi, đã nổ súng vào cựu Tổng thống Donald Trump, khiến ông bị thương. Hung thủ bị hạ gục ngay sau đó. Hôm nay, Tyler Robinson, 22 tuổi, bắn chết Charlie Kirk.

Tại sao những vụ việc ấy không đến từ các sát thủ chuyên nghiệp, mà lại từ những gương mặt “mặt búng ra sữa”, vẫn còn nguyên sự ngây thơ của tuổi đôi mươi?

Câu trả lời nằm ở chỗ: hận thù không tự sinh ra. Nó được gieo, được nuôi, được dẫn dắt. Và chính những người trẻ, dễ tổn thương, dễ bị dắt mũi, trở thành mảnh đất màu mỡ nhất cho hạt giống ấy nảy mầm.

Trong giảng đường Mỹ hôm nay, nhiều ý thức hệ chính trị được đưa vào như một phần của giáo dục. Một số câu chuyện được kể một chiều, nhấn mạnh vào sự bất công và nạn nhân, bỏ qua bối cảnh phức tạp.

Người trẻ, vốn sống bằng cảm xúc nhiều hơn lý trí, dễ bị cuốn vào những diễn ngôn ấy. Từ đồng cảm đến phẫn nộ, từ phẫn nộ đến căm ghét, chỉ là một sợi dây mong manh. Và khi căm ghét trở thành lăng kính để nhìn thế giới, một viên đạn có thể được bóp cò dễ dàng.

Cha của Robinson là một người nghiêm khắc, có trách nhiệm. Mẹ từng làm việc trong trung tâm hỗ trợ người khuyết tật. Gia đình không tan vỡ, không có bi kịch bạo lực. Nhưng cũng giống như hàng triệu gia đình khác, họ bận rộn với công việc và đời sống riêng, trong khi con cái lớn lên cùng nỗi cô đơn.

Khi những câu hỏi sâu thẳm của tuổi trẻ không tìm được câu trả lời trong gia đình, chúng sẽ tìm đến cộng đồng khác, trên mạng xã hội, trong các nhóm kín, nơi đầy rẫy ngôn ngữ cực đoan. Và ở đó, những tâm hồn non trẻ được “chăm bón” bằng hận thù, ngày qua ngày.

Mỹ là quốc gia tôn thờ tự do, nhưng cũng chính vì thế mà hận thù có đất sống. Súng dễ mua, ngôn từ cực đoan dễ phát tán. Một bình luận kích động có thể đến với hàng triệu người chỉ sau vài giây.

Những thanh niên chưa đủ chín chắn để phân biệt đúng sai trở thành nạn nhân. Họ không sinh ra để giết người. Họ chỉ bị cuốn đi trong một cơn lốc, cho đến khi chính mình cũng không còn làm chủ được bàn tay siết cò súng.

Nhìn vào những vụ việc này, điều quan trọng là dám đối diện: những kẻ gây án không chỉ là thủ phạm, họ còn là nạn nhân. Nạn nhân của một hệ thống giáo dục thiên lệch, của một gia đình lỏng lẻo, của một xã hội dung dưỡng cực đoan, của một mạng xã hội đầy kích động.

Hận thù không tự sinh ra, và cũng không tự mất đi. Nó là kết quả của những gieo mầm liên tục, âm thầm nhưng bền bỉ. Khi đủ điều kiện, nó nảy mầm và nổ tung.

Phật giáo gọi đó là nghiệp. Thiên Chúa giáo gọi đó là tội lỗi. Nhưng trước khi phán xét bằng ngôn ngữ tôn giáo, ta phải nhìn thấy sự thật trần trụi: nếu xã hội không thay đổi, nếu gia đình không gắn kết, nếu giáo dục không cân bằng, thì những viên đạn ngày mai sẽ vẫn được bóp cò bởi những gương mặt sáng sủa hôm nay.

Có người nghĩ rằng đây chỉ là chuyện của nước Mỹ. Nhưng ở bất kỳ quốc gia nào, nơi nào mạng xã hội tràn ngập ngôn ngữ thù ghét, nơi ấy đều có thể sản sinh bi kịch.

Ở Việt Nam, từng có những nhóm thanh niên trẻ nhân danh yêu nước, công kích, chửi bới, gieo rắc cực đoan trên mạng. Họ không cầm súng, nhưng ngôn từ của họ cũng có thể làm tổn thương, chia rẽ, hủy hoại một cộng đồng.

Điểm chung vẫn vậy: tuổi trẻ dễ tổn thương, dễ bị dắt mũi. Và hận thù, dù bằng súng hay bằng lời, đều gieo thêm khổ đau.

Khi một viên đạn rời khỏi nòng, nó không chỉ giết chết một con người, mà còn giết đi cả niềm tin, tình yêu, hy vọng của bao người xung quanh. Nó giết đi tuổi trẻ của chính kẻ bóp cò. Và nó nhắc nhở xã hội: không thể coi những vụ bạo lực ấy chỉ là “tai nạn” cá nhân.

Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật: hận thù không tự sinh ra, nó được gieo, được nuôi, được dẫn dắt. Nếu không chịu trách nhiệm, bi kịch sẽ cứ lặp lại, ở Mỹ, hay ở bất kỳ đâu trên thế giới.

Chú thích ảnh:

-Hung thủ 22 tuổi- nghi can giết Krisk cùng cha;

– Hung thủ 20 tuổi bắn ông Trump nhiều phát suýt chết, đã bị cảnh sát bắn chết.


 

Bay đến tự do! – Đoàn Xuân Thu

Kimtrong Lam

Đoàn Xuân Thu

 – 16 tháng 9, 2025

Những người thợ khéo léo vượt qua bức tường tử thần dài 1,400 km.

Ngày 16 Tháng Chín năm 1979, trên bầu trời đêm nước Đức, một chiếc khinh khí cầu thô sơ nhưng vĩ đại đã vượt lên khỏi sự kiểm soát của cả một hệ thống chuyên chế của Cộng Sản Đông Đức. Trên đó, tám con người, gồm hai gia đình, đã mang theo niềm hy vọng, sự khéo léo và cả sự tuyệt vọng để bay khỏi Đông Đức, tìm đến tự do ở phương Tây. Đó là một trong những cuộc vượt ngục ngoạn mục nhất của Chiến tranh Lạnh.

Sau Thế Chiến II, nước Đức bị chia đôi. Phía Tây, do Mỹ, Anh, Pháp quản lý, dần trở thành Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) dân chủ và thịnh vượng. Phía Đông, dưới sự kiểm soát của Liên Xô, trở thành Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức), nơi chính quyền cộng sản áp đặt sự kiểm soát chặt chẽ lên mọi mặt đời sống.

Từ năm 1961, Bức Tường Berlin mọc lên, chia cắt thành phố và trở thành biểu tượng bi thương của thời đại. Nhưng không chỉ Berlin, toàn bộ đường biên giới dài 1,400 km giữa Đông và Tây Đức đã biến thành một “bức tường tử thần”: hàng rào dây kẽm gai, bãi mìn, tháp canh, súng máy, chó nghiệp vụ, đèn pha quét sáng như ban ngày. Mọi ý định vượt biên đều có thể kết thúc bằng cái chết.

Theo thống kê, hàng trăm người đã bỏ mạng khi tìm cách thoát khỏi Đông Đức. Thế nhưng, càng bị giam hãm, khát vọng tự do càng lớn.

Ý tưởng điên rồ trở thành hiện thực. Trong bối cảnh đó, hai người đàn ông bình thường, Peter Strelzyk, một thợ điện, và Günter Wetzel, thợ nề – nảy ra một kế hoạch táo bạo: chế tạo khinh khí cầu để bay qua biên giới.

Câu chuyện bắt đầu khi một người họ hàng từ phương Tây sang thăm mang theo một tạp chí viết về khinh khí cầu. Từ những trang báo ấy, Strelzyk và Wetzel lóe lên ý tưởng: nếu không thể băng qua bức tường và hàng rào, thì hãy bay bằng khinh khí cầu.

Nghe thì đơn giản, nhưng thực tế lại đầy hiểm nguy. Khinh khí cầu cần vật liệu đặc biệt, kích thước khổng lồ, lại phải chế tạo trong bí mật tuyệt đối. Ở Đông Đức, việc mua sắm bất thường – như hàng trăm mét vải, sắt thép, bình gas – dễ dàng khiến Stasi ( mật vụ) nghi ngờ. Chỉ một sơ hở thôi, cả gia đình họ có thể mất mạng.

Strelzyk, vốn từng là thợ máy trong không quân, tính toán rằng họ cần khoảng 800 mét vuông vải nhẹ, bền và chống thấm để làm phần vỏ khinh khí cầu. Cùng với Wetzel, ông đã lái xe hơn 160 km đến một thành phố lớn để mua vải taffeta tổng hợp, và viện lý do “câu lạc bộ du thuyền cần buồm mới” để che mắt chính quyền.

Khung giỏ treo được làm từ sắt, gỗ và dây phơi quần áo. Hệ thống đốt nóng – trái tim của khinh khí cầu – được chế tạo từ hai bình gas propan, ống dẫn và đầu phun tự chế. Mọi thứ đều thủ công, thậm chí có phần thô sơ, nhưng mỗi chi tiết được cân nhắc kỹ lưỡng.

Trong vòng hai năm, họ bí mật khâu từng tấm vải, hàn từng thanh sắt, thử nghiệm trong đêm tối. Vợ con họ cũng tham gia, nhưng tất cả đều hiểu: đây không phải trò chơi, mà là canh bạc sinh tử.

Ba lần cất cánh, một lần thành công. Hai lần đầu tiên thử bay, khinh khí cầu không đạt đủ độ cao hoặc gặp trục trặc. Mỗi lần thất bại đều kèm theo nguy cơ bị phát hiện. Strelzyk và Wetzel đã cân nhắc bỏ cuộc, nhưng nỗi sợ hãi sống mãi trong nhà tù cộng sản còn lớn hơn cả cái chết.

Rạng sáng ngày 16 Tháng Chín năm 1979, họ quyết định thử lần cuối cùng. Khi lửa bùng lên trong buồng đốt, khinh khí cầu khổng lồ từ từ nhấc bổng tám con người – hai gia đình, gồm cha mẹ và bốn đứa trẻ – bay lên bầu trời đêm.

Ánh đèn pha từ các tháp canh quét qua, lính biên phòng nhìn thấy một vật thể lạ đang lơ lửng. Không ai nghĩ đó là khinh khí cầu, nên không có phát súng nào bắn ra. Chiếc bóng bay lắc lư trong gió, rất nguy hiểm. Sau 28 phút bay, họ vượt qua biên giới, đáp xuống gần một ngôi làng nhỏ ở Bavaria (Tây Đức). Cuộc hạ cánh nặng nề quá làm Günter Wetzel gãy chân, nhưng tất cả tám người đều sống sót.

Khi cảnh sát Tây Đức tìm thấy họ, chính quyền địa phương ban đầu còn ngờ ngợ: làm sao một khinh khí cầu như đồ chơi lại chở được cả gia đình vượt thoát? Nhưng rồi, niềm tin vào tự do đã chiến thắng.

Ý nghĩa và biểu tượng của chuyến bay tự do. Cuộc vượt ngục bằng khinh khí cầu ngay lập tức trở thành tin chấn động thế giới. Báo chí phương Tây ca ngợi đó là minh chứng cho sự khát khao tự do của con người không gì có thể ngăn cản.

Với nhiều người Đông Đức, sự kiện ấy khơi dậy niềm hy vọng: bức tường, dù dày đến đâu, cũng không thể giam hãm mãi. Với chính quyền Đông Đức, đây là một cú bẽ bàng, buộc họ phải gia cố thêm biên giới và truy lùng những “ý tưởng điên rồ.”

Năm 1982, hãng Disney đã dựng bộ phim “Night Crossing” dựa trên câu chuyện này, đưa sự kiện đến với khán giả toàn cầu. Từ đó, khinh khí cầu Strelzyk – Wetzel trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm và sáng tạo trong cuộc đấu tranh cho tự do.

Tự do – giá nào cũng phải trả! Nhìn lại, chúng ta thấy rõ: không có bức tường nào vĩnh viễn chặn được bước chân con người đi tìm tự do. Những viên gạch, những bãi mìn, những trạm gác chỉ là biện pháp cưỡng chế tạm thời. Chính quyền độc tài có thể cầm tù thể xác, nhưng không thể cầm tù khát vọng.

Chuyến bay ngày 16 Tháng Chín năm 1979 nhắc ta rằng, trong lịch sử, những cải tiến kỹ thuật vĩ đại đôi khi không nằm trong phòng thí nghiệm, mà đến từ những con người bình thường, buộc phải sáng tạo để sinh tồn. Một thợ điện, một thợ nề, chứ không phải kỹ sư hàng không, đã làm nên kỳ tích. Đối với chúng ta ngày nay, câu chuyện ấy là lời nhắc nhở: hãy trân trọng tự do mình đang có, vì đã từng có những người liều cả tính mạng để giành lấy nó.

Từ 800 mét vuông vải, vài bình gas, và lòng quyết tâm sắt đá, hai gia đình Đông Đức đã viết nên một chương sử hào hùng. 46 năm đã trôi qua, Bức tường Berlin đã sụp đổ, Chiến Tranh Lạnh đã kết thúc, nhưng chuyến bay khinh khí cầu ấy vẫn còn bay mãi trong ký ức nhân loại – như một biểu tượng bất diệt của lòng can đảm, sự sáng tạo và khát vọng tự do.

(Melbourne)

Đoàn Xuân Thu


 

Làm sao ta biết được mình là kẻ tội lỗi?- Cha Vương

Thứ 4 rồi bạn ơi, đừng bận rộn quá mà quên tâm sự với Chúa nhé. Một ngày vui tươi và bình an!

Cha Vương

Thứ 4: 17/9/2025.  18-24

GIÁO LÝ: Làm sao ta biết được mình là kẻ tội lỗi? Ta biết mình tội lỗi nhờ tiếng lương tâm kết án ta và thúc giục ta xưng thú những lỗi ta phạm đến Chúa. (YouCat, số 312)

SUY NIỆM: Lương tâm là trung tâm sâu kín nhất của con người. Là cung thánh mà con người ở một mình với Thiên Chúa, và nghe được tiếng Thiên Chúa. (Công đồng Vatican II, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, 16) 

Để biết được mình là kẻ tội lỗi hay không, trước tiên bạn phải trở về nền tảng giáo dục của lương tâm. Lương tâm được huấn luyện tốt dẫn đưa con người đến tự do làm việc tốt mà họ nhận ra là đúng. Khi bạn làm một điều gì đó, nếu điều đó không thoả thuận với lương tâm của bạn, là một Kitô hữu có nghĩa là bạn không thể làm được trước mặt Chúa. Lương tâm sẽ kết án bạn, xúc phạm đến lương tâm là xúc phạm đến Chúa. Thánh Tôma Aquinô nói: “Bất cứ việc gì ta làm trái với lương tâm đều là tội.” Bạn hãy nhớ rằng vì trung thành với lương tâm, nhiều người đã phải chịu tù đầy và còn phải chịu chết nữa. Các thánh đã làm như vậy. Còn bạn thì sao?

LẮNG NGHE: Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không có tội là chúng ta dối gạt mình, và sự thật không có trong chúng ta. (1 Ga 1:8)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa đã khắc ghi trong cung lòng sâu thẳm của con những chỉ dẫn hướng về điều thiện. Xin đừng để con giả điếc làm ngơ trước sự thật và công lý như xin giúp con biết hướng về Chúa và can đảm quay lưng lại với điều xấu, hầu mỗi ngày, chúng con sống xứng đáng là con cái của Chúa hơn.

THỰC HÀNH: Làm một việc nhỏ theo tiếng nói của sự thật và đừng phạm tội hôm nay.

From: Do Dzung

***************************

Dấu Thánh