Ông Trump và ông Tập điện đàm, bàn về TikTok và thương mại, cam kết thúc đẩy quan hệ Mỹ – Trung
September 21, 2025
Tân Hoa xã tối 19-9 đưa tin Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Donald Trump đã có cuộc điện đàm mang tính “thẳng thắn, tích cực và mang tính xây dựng”, nhằm tìm cách ổn định quan hệ song phương trong bối cảnh căng thẳng thương mại và tranh cãi về hoạt động của TikTok tại Mỹ.iệm trang sức
Hai nhà lãnh đạo đã trao đổi sâu về quan hệ Mỹ – Trung, thảo luận các vấn đề thương mại, an ninh và những quan tâm chung. Ông Tập khẳng định mối quan hệ Mỹ – Trung có vai trò then chốt đối với thế giới và kêu gọi Washington kiềm chế các biện pháp thương mại đơn phương, đồng thời tạo môi trường công bằng cho doanh nghiệp hai nước. Ông nhấn mạnh: “Trung Quốc và Mỹ có thể đạt được thành công chung, mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia và thế giới, với điều kiện đôi bên tôn trọng lẫn nhau, cùng tồn tại hòa bình và hợp tác cùng có lợi”.
Về phần mình, Tổng thống Trump đánh giá cao lễ duyệt binh kỷ niệm 80 năm chiến thắng phát xít do Trung Quốc tổ chức, đồng thời gọi quan hệ Mỹ – Trung là “mối quan hệ song phương quan trọng nhất trên thế giới”. Ông cho biết Mỹ mong muốn duy trì quan hệ lâu dài, lành mạnh với Trung Quốc và sẽ ủng hộ các cuộc tham vấn để giải quyết vấn đề TikTok. “Chúng tôi đã đạt tiến triển về nhiều vấn đề quan trọng, bao gồm thương mại, fentanyl, nhu cầu chấm dứt chiến sự Nga – Ukraine và việc phê chuẩn thỏa thuận TikTok”, ông Trump viết trên mạng xã hội.
Hai bên cũng thống nhất gặp trực tiếp bên lề hội nghị thượng đỉnh APEC tại Hàn Quốc vào cuối tháng 10 và cân nhắc các chuyến thăm cấp cao song phương trong năm tới. Theo ông Trump, cuộc gọi diễn ra “rất tốt đẹp”, và cả hai nhà lãnh đạo đều mong muốn duy trì kênh đối thoại.
Trước đó, Tổng thống Trump đã nhiều lần gia hạn thời hạn để ByteDance – công ty mẹ của TikTok – tìm đối tác mua lại mảng hoạt động tại Mỹ, thay vì cấm ứng dụng này hoàn toàn. Động thái mới cho thấy Washington và Bắc Kinh đang nỗ lực giảm căng thẳng và tìm giải pháp dung hòa cho các tranh chấp thương mại, đồng thời giữ vai trò ổn định trong quan hệ song phương quan trọng bậc nhất thế giới.
THINH LẶNG VÀ CẦU NGUYỆN – Vi Hữu
Vi Hữu
Nếu không biết cách cầu nguyện thì bạn sẽ khó mà cầu nguyện được. Nên cần phải học cho biết cách cầu nguyện. Trước hết là phải nhờ đến sự thinh lặng. Chúng ta không thể đặt mình trước sự hiện diện của Chúa nếu chúng ta không tập luyện thinh lặng bên trong cũng như bên ngoài.
Không dễ mà đạt được sự thinh lặng nội tâm, nhưng đây là điều không thể thiếu. Chỉ trong thinh lặng ta mới tìm được sức mạnh và được thực sự nên một với Chúa: sức mạnh của Chúa cần phải trở thành của ta để ta có thể hoàn thành mọi sự như ý Chúa muốn; cũng thế, mọi tư tưởng, mọi lời cầu nguyện, mọi hành động và toàn thể cuộc sống của ta cần phải được nên một với tư tưởng, lời cầu nguyện, hành động và cuộc sống của chính Chúa. Sự hiệp nhất này là hoa trái của cầu nguyện, khiêm tốn và tình yêu.
Chúa chỉ có thể ngỏ lời với ta khi trái tim của chúng ta thinh lặng. Nếu bạn tự đặt mình trước mặt Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện, Chúa sẽ nói với bạn. Và khi đó bạn sẽ biết rằng bạn chẳng là gì cả. Chỉ khi bạn biết mình chỉ là hư vô, là trống rỗng, thì Chúa mới có thể lấp đầy bạn bằng chính Ngài. Những linh hồn cầu nguyện vĩ đại là những linh hồn biết thường xuyên thinh lặng thẳm sâu.
Sự thinh lặng giúp ta có cái nhìn khác về mọi sự. Chúng ta cần có sự thinh lặng để có thể thấu hiểu các tâm hồn. Điều cốt yếu không phải là những lời chúng ta nói, nhưng là những lời Chúa nói – những lời Ngài nói với chúng ta, và những lời Ngài nói qua chúng ta. Trong sự thinh lặng như thế, Ngài lắng nghe chúng ta; trong sự thinh lặng như thế, Ngài nói với linh hồn ta, và chúng ta nghe được tiếng Ngài.
Hãy lắng nghe trong thinh lặng. Khi trái tim bạn bị ngập tràn trong hàng triệu nỗi niềm, bạn không thể nghe được tiếng Chúa trong tim bạn. Nhưng từ lúc bạn đặt mình lắng nghe được giọng nói của Chúa trong con tim bình an, con tim của bạn sẽ tràn ngập Thiên Chúa. Điều này đòi hỏi nhiều hi sinh. Nếu bạn đã nghĩ đến và muốn cầu nguyện, bạn phải sẵn sàng, không trì hoãn. Ngay từ đầu, nếu bạn không quyết tâm, bạn sẽ không đạt đến tột đỉnh của sự cầu nguyện là chính sự hiện diện của Chúa.
Vì thế ngay từ đầu phải tập luyện cầu nguyện cách hoàn hảo: Phải đặt mình lắng nghe tiếng Chúa trong con tim; và trong sự tĩnh lặng của trái tim chúng ta, Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta. Rồi khi con tim ta đã đạt được sự tròn đầy như thế, miệng lưỡi ta sẽ thốt ra những điều cần phải nói với Chúa. Sự nối kết sẽ vận hành như thế. Trong thinh lặng của con tim chúng ta, Thiên Chúa nói, và chúng ta chỉ lắng nghe Ngài nói thôi. Khi trái tim bạn đã đạt được sự tròn đầy vào lúc nó thấy mình được tràn đầy Thiên Chúa, tràn đầy tình yêu, tràn đầy lòng thương xót, tràn đầy niềm tin, nó sẽ thúc đẩy môi miệng bạn lên tiếng nói với Chúa.
Hãy nhớ rằng, trước khi nói, bạn cần phải lắng nghe; và chỉ khi đó, từ tận đáy sâu của một con tim đang triển nở, chúng ta có thể nói với Chúa và Thiên Chúa lắng nghe chúng ta.
Những nhà chiêm niệm, những bậc tu hành của mọi thời đại, mọi tôn giáo, luôn tìm kiếm Thiên Chúa trong thinh lặng, trong sa mạc tịch liêu, trong rừng vắng, trên núi cao… Chính Chúa Giêsu cũng đã sống 40 ngày trong tịch liêu trọn vẹn, dành những khoảng thời gian dài, lòng bên lòng với Chúa Cha, trong thinh lặng của đêm đen.
Chúng ta cũng được mời gọi dành riêng ra những khoảng thời gian đặc biệt để đi vào thinh lặng thẳm sâu trong cô tịch với Thiên Chúa. Một mình với Chúa, không sách vở, dẹp qua mọi tư tưởng, mọi kỷ niệm, hoàn toàn trống rỗng để ở trong sự hiện diện của Chúa – chờ đợi Chúa trong thinh lặng, trống rỗng và bất động.
Chúng ta không thể tìm thấy Chúa trong ồn ào, náo động. Hãy ngắm nhìn thiên nhiên: cây cối, hoa cỏ, những cánh đồng lớn lên trong tĩnh lặng; tinh tú, mặt trăng, mặt trời chuyển động trong tĩnh lặng. Điều cốt yếu không phải là những gì chúng ta có thể nói, nhưng là những điều Thiên Chúa nói với chúng ta, những điều Thiên Chúa nói với người khác thông qua chúng ta. Trong thinh lặng, chúng ta lắng nghe. Trong thinh lặng, Chúa nói với linh hồn chúng ta. Chúa ban cho chúng ta đặc quyền nghe được giọng nói của Ngài trong thinh lặng:
thinh lặng của con mắt,
thinh lặng của lỗ tai,
thinh lặng của môi miệng,
thinh lặng của tinh thần.
Trong thinh lặng của con tim chúng ta, Thiên Chúa lên tiếng nói.
Chúng ta cần có sự tĩnh lặng trong trái tim để có thể nghe được tiếng Chúa ở khắp mọi nơi: tiếng Chúa nơi cánh cửa khép lại, tiếng Chúa nơi những người đang yêu cầu chúng ta, tiếng Chúa nơi chim chóc, cây cối, muông thú…
Nếu chúng ta biết lắng nghe trong thinh lặng, chúng ta sẽ cầu nguyện cách dễ dàng. Càng ngày càng có nhiều những điều bép xép, lải nhải, kể lể được nói ra, viết ra. Đời cầu nguyện của chúng ta sẽ bị tổn thương mỗi ngày một nhiều hơn khi trái tim của chúng ta không có được sự thinh lặng.
Tôi cẩn thận gìn giữ sự thinh lặng trong tim tôi để từ trái tim thinh lặng, tôi nghe được những lời an ủi của Chúa. Và trong sự tròn đầy của con tim, đến lượt tôi, tôi an ủi Chúa nơi những người nghèo khổ.
Vi Hữu
Chuyển ngữ từ: Il n’y a pas de plus grand amour (p. 22-25)
Nguồn: tgpsaigon.net
From: Langthangchieutim
ĐÁNH CƯỢC VỚI LÒNG THƯƠNG XÓT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Chủ đã khen người quản lý bất lương đó hành động khôn khéo”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật bất ngờ khi gọi dụ ngôn Tin Mừng hôm nay là dụ ngôn “Đánh Cược Với Lòng Thương Xót”. Phải chăng một phần vì dụ ngôn nằm ngay sau một loạt dụ ngôn tuyệt đẹp về lòng nhân từ của Thiên Chúa: “Con chiên bị lạc”, “Đồng bạc bị mất” và “Người cha nhân hậu”. Có lẽ như vậy, chúng ta cùng tìm hiểu!
Dụ ngôn nói về một quản gia sắp bị sa thải, nhưng anh đã tận dụng thời giờ còn lại để đóng vai một quản lý hoàn hảo; anh làm mọi sự như đang nhân danh lòng hào hiệp của chủ. Anh gọi từng con nợ, giảm tô cho họ để về sau, may ra họ sẽ cứu anh. Và xem ra anh chẳng e dè với chủ – người “chẳng bao giờ quên một hành vi nào” – bài đọc một. Tại sao anh liều lĩnh thế? “Vận may ưu ái những ai dám táo bạo!” – Virgil.
Anh dám liều vì anh hầu chắc chủ anh là một người quá nhân hậu; và dẫu sắp cho anh thôi việc, ông vẫn lờ đi một lần chót như đã lờ đi cho anh bao lần trong quá khứ. Anh hoàn toàn đúng! Chủ khen anh – không vì anh gian dối, nhưng một đàng vì anh nhạy bén – ít nữa về những ngày sắp sa cơ – và đàng khác, vì anh biết tận dụng cơ hội cuối cùng để đánh cược vào sự đại lượng của ông. Quả vậy, chủ anh tuyệt đối nhân từ với anh – ít nữa một lần sau hết. “Tín thác vào lòng thương xót Chúa là canh bạc táo bạo và chắc thắng nhất!” – Claude Colombière.
Với Chúa, ai trong chúng ta cũng ít nhiều ‘bất lương’. Chớ gì như người quản gia, chúng ta cũng có một nhạy bén không phải để chuẩn bị cho những ngày cuối đời, nhưng nhạy bén cho đời đời, cho vĩnh cửu hầu dám ‘đánh cược vào lòng thương xót’ của Chúa.
Luật Biển Đức có một chương gọi là “Khí cụ các việc lành”, và điều cuối cùng trong “hộp đồ nghề” ấy là “Đừng bao giờ thất vọng!”. Khi mọi công cụ khác không còn hữu dụng, vẫn còn ‘bảo huấn’ này. Đó là “công cụ” đơn sơ nhưng không thể thiếu, vì chỉ cần cậy trông tuyệt đối vào lòng thương xót của Chúa, mọi con đường khoá kín đều có thể được mở ra. Hy vọng không khước từ thực tại, nhưng dám nhìn vào đó và nói, “Thiên Chúa lớn hơn!”. Đây chính là ‘cú cược’ đẹp nhất của đời người, một canh bạc chắc thắng, vì chúng ta cá cược vào một Đấng luôn trung tín. “Khi đã chọn hy vọng, mọi sự đều khả thi!” – Christopher Reeve.
Anh Chị em,
“Chủ đã khen người quản lý bất lương”. Một ngày kia, ai trong chúng ta cũng trả lẽ trước Chủ; may thay – dù vắn hay dài – mỗi người đều có ‘thời giờ còn lại’ của mình. Khi công sức, tài năng, của cải đều giới hạn, chúng ta vẫn còn một ‘bửu bối’ cuối cùng là “Đừng bao giờ thất vọng!”. Hãy nhìn lại! Có lẽ chúng ta đã từng ‘bất lương’ khi lạm dụng quyền lực, tiền bạc, hay danh vọng; nhưng rồi sẽ đến lúc, chúng ta phải đứng trước cửa định mệnh. Khi ấy, chỉ còn một chọn lựa khôn ngoan, liều mình ngã vào vòng tay Thiên Chúa, dám đánh cược với lòng nhân ái của Ngài!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con tỉnh thức và nhạy bén, biết chớp lấy cơ hội để hoán cải, liều hy vọng vào một “Thiên Chúa lớn hơn!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
******************************************
LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN, NĂM C
Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 16,1-13
1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. 2 Ông mới gọi anh ta đến mà bảo : ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa !’ 3 Người quản gia liền nghĩ bụng : ‘Mình sẽ làm gì đây ? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. 4 Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !’
5 “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất : ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?’ 6 Người ấy đáp : ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo : ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ 7 Rồi anh ta hỏi người khác : ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy ?’ Người ấy đáp : ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo : ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.’
8 “Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.
9 “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. 10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn ; ai bất lương trong việc rất nhỏ,
thì cũng bất lương trong việc lớn. 11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ? 12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?
13 “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.”
Lời phân ưu trong lễ phát tang Maria Trương Kim Hằng tại nhà quàn Vĩnh Cửu
Kính thưa thầy Phó Tế Nhựt, thầy Phó Tế Sơn cùng toàn thể quí vị.
Trước hết Nhóm Thân Hữu Cần Giuộc và Cần Đước tại Houston thành kính chia buồn cùng bạn Trương Văn Hứa, cùng chồng của Hằng là Nguyễn Hữu Quỳnh Châu và phân ưu cùng toàn thể gia đình của bạn Trương Văn Hứa.
Sự chia ly nào cũng đem đến cho gia đình chúng ta nỗi đau xót, nhớ nhung không thể nào quên được. Chúng tôi xin chia sẽ sự mất mát lớn lao này của vợ chồng bạn Trương Văn Hứa cùng quý tang quyến.
Trước sự ra đi của Maria Trương Kim Hằng, chúng ta có niềm an ủi, niềm hy vọng, cậy trông vào Chúa và mẹ Maria
vì Thánh Phanxicô Assisi có nói rằng “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Sách Khôn ngoan cũng dạy rằng: “Người công chính dù có chết sớm cũng vẫn được an nghỉ (Kn 4,7)” và “Tâm hồn họ đẹp lòng Chúa nên Người vội đem họ ra khỏi nơi gian ác (Kn 4,14)”.
Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa, đau khổ, sự chết không làm gì được họ, đối với con mắt người đời, việc từ biệt chúng ta như đi vào cõi tiêu diệt, nhưng thật ra họ đang vui sống bình an trong nước Chúa.
Cho nên cuộc sống dài hay ngắn không thành vấn đề, không quan trọng bằng sống có ơn nghĩa Chúa và đem lại những điều hữu ích cho gia đình và tha nhân.
Khi con mắt trần thế khép lại thì Linh Hồn THIÊNG LIÊNG vẫn sống không bị tiêu diệt. Đây là lúc linh hồn MARIA được mời gọi đến hiệp thông trong tình yêu muôn đời với Thiên Chúa.
Với niềm tin vào sự sống lại ở đời sau, Maria Trương Kim Hằng đã ra đi trước chúng ta, rồi chúng ta cũng sẽ ra đi sau và sẽ gặp lại nhau trong ngày sau hết.
Vì là Hội thánh cùng thông công, nên giờ đây, còn ở dương thế này chúng ta cùng cầu nguyện cho linh hồn Maria Hằng sớm được hưởng Thánh Nhan Chúa trên nước Thiên Đàng Vĩnh Cữu.
Và Maria Hằng ở Thiên đàng cũng sẽ cầu nguyện lại cho chúng ta đang còn sống ở dương thế này.
Xin thành thật cám ơn cộng đoàn.
Houston, ngày 18 tháng 09 năm 2025
Khi bạn chết đi…
Đừng lo lắng về thân thể của bạn… người thân của bạn sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết tùy theo khả năng của họ. Họ sẽ cởi quần áo của bạn, tắm rửa, mặc quần áo cho bạn, đưa bạn ra khỏi nhà và đưa bạn đến địa chỉ mới.
Nhiều người sẽ đến dự đám tang của bạn để “nói lời tạm biệt”. Một số sẽ hủy bỏ các cam kết và thậm chí bỏ lỡ công việc để đến dự đám tang của bạn.
Đồ đạc của bạn, ngay cả những thứ bạn không muốn cho mượn, sẽ bị bán, cho đi hoặc đốt cháy.
Chìa khóa, dụng cụ, sách, giày, quần áo của bạn… Và hãy yên tâm rằng thế giới sẽ không dừng lại vì bạn. Nền kinh tế sẽ tiếp tục.
Trong công việc của bạn, bạn sẽ bị thay thế. Người có năng lực tương đương hoặc tốt hơn sẽ thay thế vị trí của bạn.
Tài sản của bạn sẽ thuộc về những người thừa kế của bạn…. Và đừng nghi ngờ rằng bạn sẽ tiếp tục bị trích dẫn, phán xét, chất vấn và chỉ trích vì những điều nhỏ nhặt và lớn lao mà bạn đã làm trong cuộc sống.
Những người chỉ biết đến bạn qua vẻ bề ngoài sẽ nói; Đàn ông hay đàn bà tội nghiệp!
Những người bạn chân thành của bạn sẽ khóc trong vài giờ hoặc vài ngày, nhưng sau đó họ sẽ trở lại cuộc sống vui vẻ và cười đùa bình thường.
Những con vật của bạn sẽ được cho đi và sẽ mất thời gian nhưng chúng sẽ quen với người chủ mới.
Những bức ảnh của bạn sẽ được treo trên tường hoặc lưu lại trên một món đồ nội thất trong một thời gian, nhưng sau đó có thể chúng sẽ được cất giữ ở đáy ngăn kéo. Và chúng ta sẽ chỉ sống trong ký ức của những người yêu thương chúng ta.
Người khác sẽ ngồi trên ghế của bạn và ăn tại bàn của bạn.
Nỗi đau sâu sắc trong ngôi nhà của bạn sẽ kéo dài một tuần, hai tuần, một tháng, hai tháng, một năm, hai năm… Rồi bạn sẽ được thêm vào những kỷ niệm và rồi, câu chuyện của bạn kết thúc.
Nó kết thúc ở giữa con người, nó kết thúc ở đây, nó kết thúc ở thế giới này.
Nhưng hãy bắt đầu câu chuyện của bạn trong thực tế mới… trong cuộc sống sau khi chết.
Cuộc sống của bạn, nơi bạn không thể di chuyển với những thứ từ đây bởi vì khi bạn rời đi, chúng đã mất đi giá trị mà chúng có.
Thân hình
Sắc đẹp
Vẻ bề ngoài
Họ
An ủi
Tín dụng
Tình trạng
Chức vụ
tài khoản ngân hàng
Trang chủ
Xe hơi
Nghề nghiệp
Tiêu đề
Bằng cấp
Huy chương
Cúp
Bạn
Địa điểm
Vợ chồng
Gia đình…
Trong cuộc sống mới, bạn sẽ chỉ cần tinh thần của mình. Và giá trị bạn tích lũy được ở đây sẽ là tài sản duy nhất bạn có ở đó.
Vận may đó là thứ duy nhất bạn mang theo bên mình và nó được tích lũy trong suốt thời gian bạn ở đây. Khi bạn sống một cuộc sống yêu thương người khác và hòa bình với hàng xóm, bạn đang tích lũy vận may tinh thần của mình.
Đó là lý do tại sao bạn nên cố gắng sống trọn vẹn và hạnh phúc khi còn ở đây vì :
“TỪ ĐÂY.. BẠN SẼ KHÔNG LẤY NHỮNG GÌ BẠN CÓ MÀ CHỈ LẤY NHỮNG GÌ BẠN ĐÃ CHO “…
Tác giả : Thi Thien
Ảnh minh họa
Ở hiền gặp lành – Bửu Uyển -Truyen ngan HAY
“Dục tri tiền thế nhân,
Kim sinh tác giả thị,
Dục tri lai thế quả,
Kim sinh tác giả thị”
Tạm dịch:
“Muốn biết nhân đời trước, hãy nhìn vào những gì được hưởng trong đời này. Muốn biết kết quả trong đời sau, hãy nhìn vào những gì đang làm trong đời này.”
*****
Từ lúc còn học Trung học, tôi đã thích nghề dạy học, thích được tiếp xúc, gần gũi với các em học sinh. Nhưng số phận lại không cho tôi đậu vào trường Sư Phạm, mà lại đậu vào trường Quốc Gia Hành Chánh.
Sự yêu thích nghề dạy học cứ theo đuổi tôi, ngay cả khi tôi đã là một viên chức hành chánh. Năm 1967, tôi được bổ nhiệm làm Phó Quận Trưởng quận Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Sự yêu thích được dạy học đã thúc đẫy tôi làm đơn gởi đến Ty Giáo Dục tỉnh Thừa Thiên, sau khi được sự chấp thuận của Trung Tá Quận Trưởng. Ty Giáo Dục Thừa Thiên đã đồng hóa văn bằng Tốt Nghiệp Quốc Gia Hành Chánh của tôi với văn bằng Cử Nhân. Và họ sắp xếp cho tôi dạy Công Dân Giáo Dục lớp Đệ Tứ và Quốc Văn lớp Đệ Ngũ tại trường Trung Học Phú Lộc. Tôi thỏa mãn với ước nguyện của mình là được sống và sinh hoạt với các em học sinh tươi trẻ. Tôi chăm chỉ giảng dạy và rất thương mến các em. Số học sinh của tôi vào khoảng 5, 6 chục em, cả nam lẫn nữ. Trong số các nam sinh lớp Đệ Tứ, tôi mến em Liêm nhất. Em thông minh, tánh tình hiền hòa, các bạn trong lớp ai cũng mến em.
Một hôm, khi đi quan sát ở ấp Hòa Mậu, thuộc xã Lộc Trì, tình cờ tôi gặp em Liêm. Em sống chung với cha mẹ nơi đó và là đứa con duy nhất của gia đình. Liêm vui vẻ mời tôi ghé thăm gia đình em. Đây là một gia đình quá nghèo, nhà cửa rách nát, xiêu vẹo. Cha mẹ em trồng khoai sắn quanh nhà, và chỉ đi làm thuê, làm mướn cho những gia đình khá giả trong làng, chứ không có công việc làm ổn định. Tôi thành thật nói với Ông Sửu, cha của cháu Liêm: “Thưa bác, nếu bây giờ bác có chút ít tiền, bác làm gì để cải thiện cuộc sống của gia đình và nhất là giúp cho em Liêm được tiếp tục ăn học?” Ông Sửu trầm ngâm một chút, rồi nói: “Thưa thầy, nếu tôi có ít tiền, tôi sẽ mua lại 2 sào ruộng ở gần nhà đây để canh tác, có thể sống được. Hai sào ruộng đó đã bị bỏ hoang từ mấy năm nay…” Sau đó, tôi đã nhờ ông Xã Trưởng liên lạc với chủ ruộng, mua lại phần đất ấy, rồi giao cho gia đình ông Sửu canh tác.
Từ khi có hai sào ruộng để cày cấy, gia đình ông Sửu bắt đầu có cuộc sống tương đối đầy đủ, không còn thiếu thốn như trước nữa.Vào một ngày Chúa Nhật, vợ chồng tôi đi thăm một trại chăn nuôi heo và gà của Thầy Tứ ở Nam Giao. Thấy những con heo, giống Durock, da màu vàng, vừa lạ mắt vừa dễ thương, tôi nghĩ đến gia đình em Liêm, nên mua 2 con heo con, một cái, một đực, mang biếu gia đình ông Sửu. Ông Bà mừng rỡ và chăm sóc kỹ lưỡng lắm, nên heo chóng lớn. Chỉ chín, mười tháng sau, ông Sửu khoe là heo đã gần 100 ký. Ông Sửu gầy giống cho heo đẻ. Lứa đầu tiên, heo đẻ được 7 con. Trong làng chưa ai có giống heo này, nên nhiều người hỏi mua, ông không bán. Nhưng sau thấy được giá, ông bán bớt 5 con, còn để lại 2 con tiếp tục nuôi gầy giống. Riêng con heo đực, bà con trong làng xin phối giống, ông cũng thu được khá nhiều tiền.
Trong những ngày gần Tết Đinh Mùi, khi vào lớp học, tôi thấy nhiều em học sinh đã mặc áo quần mới. Nhưng em Liêm vẫn mặc áo quần bình thường như mọi ngày.
Nhân dịp cuối tuần, vợ chồng chúng tôi qua chợ Đông Ba mua cho Liêm một bộ áo quần mới, áo “sơ mi” trắng, quần dài màu xanh đậm. Hôm sau, tôi đem bộ áo quần mới này tặng cho Liêm. Em mặc vừa vặn, nét mặt vui mừng, hớn hở. Ông Sửu cảm động nói: “Cháu Liêm năm nay đã 15 tuổi, đây là lần đầu tiên cháu có một bộ áo quần mới nhân dịp Tết sắp đến, chúng tôi không biết nói gì cho hết để cám ơn ông bà Phó.”
Mấy tháng sau, vào một buổi trưa, ông Sửu đến tìm tôi ở quận, mặt mày buồn bã, ngơ ngác. Ông nhìn trước, nhìn sau, thấy không có ai, ông ghé sát vào tai tôi và xúc động nói: “Ông Phó ơi, thằng Liêm bị “giải phóng” bắt đi mất rồi, họ nói họ chiêu mộ thằng Liêm làm du kích chứ không có ý làm hại gì nó đâu!” Tôi sững sờ, thương cháu Liêm, và thương ông Sửu quá vì ông chỉ có một đứa con mà thôi. Tôi miễn cưỡng an ủi ông Sửu: “Bác yên lòng, bác sống thật thà, chất phác, chắc Trời sẽ thương đến cháu Liêm mà phù hộ cho cháu.”
Khoảng năm 1968, 1969 và 1970, chính phủ giúp cho các xã, ấp trùng tu, tái thiết lại những cơ sở dân dụng công cộng như đê điều, cầu cống, đường sá, đình làng v.v. Dân chúng xã Lộc Tụ (Quận Phú Lộc) đã lập dự án, xin trùng tu lại đình làng của xã, do đã bị hư hại nặng nề vì chiến tranh. Đơn xin của dân chúng xã Lộc Tụ đã được Hội Đồng Bình Định Và Phát Triển tỉnh Thừa Thiên chấp thuận, được Cơ Quan Viện Trợ Mỹ (USAID) tài trợ.
Với ngân khoản được cấp, và với quyết tâm xây dựng lại quê hương của dân chúng, đình làng xã Lộc Tụ đã được tái thiết, đẹp đẽ, uy nghi. Hội Đồng Xã quyết định tổ chức Lễ Khánh Thành đình làng mới một cách long trọng, với sự chủ tọa của Trung Tá Quận Trưởng. Nhưng Trung Tá Quận Trưởng đã ủy nhiệm tôi thay mặt cho ông trong buổi Lễ Khánh Thành đó.
Đến ngày, giờ đã được ấn định, tôi đi đến đình làng Thừa Lưu để làm nhiệm vụ. Đình làng nằm cách quốc lộ khoảng 500 mét. Khi xe của tôi dừng lại ở đầu con đường mòn dẫn vào đình làng, tôi thấy nhiều người đứng ở đó. Tôi nghĩ là họ đứng đón tôi như những lần trước. Nhưng khi tôi vừa bước xuống xe, thì hai vị bô lão đến nắm tay tôi và nghiêm nghị nói: “Ông Phó quay về quận ngay đi, ông không nên vào đây!”
Nhìn vẻ mặt bồn chồn, lo lắng của mọi người chung quanh, tôi hiểu, họ không muốn tôi đi vào đình làng. Hình như có vấn đề gì đó không tốt lành sẽ xảy đến cho tôi, nếu tôi đi vào đó.
Tôi vội vã lên xe quay về quận. Khi đến trụ sở xã Lộc Tụ, tôi vào văn phòng xã, sử dụng máy truyền tin của xã, liên lạc với Trung Tá Quận Trưởng, báo cáo sự việc vừa xảy ra.
Với kinh nghiệm, Trung Tá hiểu ngay có một sự việc gì đó không bình thường, có thể xảy ra ở đình làng. Ông lập tức điều động 2 trung đội địa phương quân cơ hữu của quận, một tiểu đội cảnh sát Dã Chiến, phối hợp với một trung đội Nghĩa Quân của xã, mở cuộc hành quân bao vây khu vực đình làng Thừa Lưu. Lực lượng hành quân đã mau chóng bắt được 2 du kích và 3 kẻ lạ mặt tình nghi. An Ninh Quân Đội đã lấy khẩu cung và khai thác ngay 2 du kích. Kết quả được biết: Họ âm mưu ám sát người sẽ đến chủ tọa, cắt băng khánh thành đình làng, bằng cách bố trí 2 khẩu thượng liên, một khẩu đặt trên cây đa, một khẩu đặt trên nóc đình làng. Cả 2 khẩu thượng liên đó đều chĩa mũi vào vị trí vị chủ tọa sẽ đứng cắt băng khánh thành. Mật lệnh khai hỏa là một hồi chiêng trống từ đình làng vang lên. Trường hợp âm mưu này được thực hiện, thì vị chủ tọa cắt băng khánh thành không thể nào thoát chết được. Nếu tôi không được cảm tình của dân chúng ở đây, họ sẽ không cảnh giác, và ngăn cản tôi đâu, có lẽ ngày đó tôi đã chết ở đình làng Thừa Lưu rồi.
Ngày 30 tháng 8 năm 1970, toàn quốc tổ chức bầu cử bán phần Thượng Viện. Cuối ngày, tôi có nhiệm vụ áp tải tất cả thùng phiếu của Quận Phú Lộc về Tòa Hành Chánh tỉnh để kiểm phiếu. Đoàn xe chở thùng phiếu gồm nhiều chiếc, một xe bọc thép (chạy bằng bánh cao su) dẫn đầu, kế đến là một xe GMC chở thùng phiếu, sau đó là 2 xe GMC chở Nghĩa Quân theo hộ tống. Khi đoàn xe đến một khoảng đồng trống gần xã Lộc Điền (truồi) thì bị VC phục kích. Họ bắn cháy chiếc xe bọc thép dẫn đầu, nhưng bị các nghĩa quân phản ứng dữ dội, họ phải rút lui, không kịp phá chiếc xe chở thùng phiếu. Tôi hoảng sợ, nhảy ra khỏi xe, rồi lăn xuống một cái rãnh cạn bên đường. Tôi nghĩ rằng càng xa chiếc xe chở thùng phiếu, thì càng an toàn, nên tôi bò vào những bụi rậm gần đó. Quá lo sợ, trời lại tối nên tôi không nhận ra được phương hướng nào nữa. Tôi cứ cắm đầu, cắm cổ bò. Khi tôi bò đến một khoảng đất có nhiều bụi gai, thì một tiếng nói vang lên, tuy nhỏ nhưng rõ ràng: “Ông Phó! Ông Phó! Dừng lại ngay, ông đi về hướng đó là chết, chúng nó bố trí dầy đặc ở đó.” Phản ứng tự nhiên, tôi dừng lại, nhìn quanh xem ai đã nói với tôi câu đó. Nhưng tôi rụng rời kinh hãi khi một du kích xuất hiện, tay lăm lăm khẩu súng AK47. Anh ta lôi tôi xuống một hố cá nhân gần đó, rồi lễ phép nói: “Thưa thầy, em là Liêm đây, thầy đừng sợ, thầy cứ nằm dưới hố cá nhân này ém đến sáng, khi nào có lính quận đến, rồi hãy ra. Em đi đây.” Anh ta biến mất sau những bụi rậm.
Đang nằm dưới hố, bỗng tay tôi chạm vào một con vật gì lạnh ngắt. Tôi rùng mình sợ hãi, vì nghĩ rằng đó là một con rắn. Trong hoàn cảnh nầy mà bị rắn độc cắn, thì vô phương cứu chữa. Nhờ một chút ánh sáng le lói của mảnh trăng hạ tuần từ trên cao rọi xuống, tôi thấy đó là một con nhái chứ không phải con rắn. Tôi bắt con nhái, rồi nhẹ nhàng thả nó lên miệng hố. Tôi thì thầm với nó: “Nhái ơi, tau cứu mầy đấy nhé! Đi về nhà đi, kẻo cha mẹ mầy trông!”
Tôi chợt nghĩ số phận của tôi, rồi sẽ ra sao đây. Tôi nhắm mắt lại và lâm râm cầu nguyện: “Lạy Chúa, lạy Mẹ. Con xin phú thác mạng sống của con trong tay Chúa, trong tay Mẹ. Xin Chúa, xin Đức Mẹ che chở, phù hộ cho con!” Tự nhiên tôi thấy bớt sợ hãi, và trong đầu óc tôi, bắt đầu nhen nhóm chút hy vọng.
Tôi nằm im dưới hố, nhưng câu nói của chú du kích mà tôi không nhìn rõ mặt, cứ văng vẳng bên tai tôi: “Thưa ông Phó, em là Liêm đây, thầy đừng sợ!” Liêm là ai trong hàng ngũ địch quân mà lại cứu tôi. Đầu óc tôi rối loạn. Quá mệt mỏi, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Tôi giật mình thức giấc, mơ hồ nghe như có tiếng bước chân đi trên lá khô. Nhìn qua kẽ lá ngụy trang trên miệng hố, tôi thấy Đại Úy Thuật, Chi Khu Phó, mặc đồ trận, tay cầm khẩu M16, dẫn đầu một toán lính, đi hàng ngang, đang tiến về phía tôi. Tôi mừng rỡ, la thật lớn: “Đại Úy Thuật, tôi đây!” Đại Úy Thuật dừng lại, đứng im một lát rồi hô lớn: “Ai đó! Lập lại đi!…” Tôi dùng hết sức mình, kêu lớn: “Đại Úy Thuật, tôi đây, Phó Uyển đây!” Đại úy Thuật và một nghĩa quân đến kéo tôi từ dưới hố lên. Tôi không đi được, nên một anh nghĩa quân phải cõng tôi đi về hướng quốc lộ.
Đại Úy Thuật đã báo cáo sự việc với Trung Tá Quận Trưởng, nên khi chúng tôi vừa ra đến quốc lộ, đã thấy Trung Tá Quận Trưởng đứng đón tôi ở đó. Ông ôm chầm lấy tôi và cảm động nói: “Chúc mừng ông Phó, tôi cứ nghĩ là ông Phó đã bị tụi nó bắt đi rồi!”
Trung Tá Quận Trưởng cho xe đưa tôi lên nhà tôi ở Huế ngay. Bước vào nhà, tôi quá xúc động, ôm nhà tôi vào lòng, và chỉ nói được một tiếng “Em” khi nghĩ lại những sự việc đã xảy ra đêm hôm qua.
Ngay khi ấy, nhiều xe hơi dừng lại trước nhà tôi. Đại Tá Tỉnh Trưởng, Ông Phó Tỉnh Trưởng, nhiều vị Trưởng Ty và vài nhân viên tháp tùng Đại Tá, đến thăm tôi. Đại Tá thân mật nắm tay tôi và nói: “Chúc mừng ông Phó, thấy ông Phó trở về bình an, tôi mừng lắm! Tối hôm qua, khi nhận được tin chẳng lành, tôi đã điện thoại cho Cha Trinh ở Giáo Xứ Phú Cam, nhờ Cha dâng một Thánh Lễ, xin bình an cho ông Phó. Thật bất ngờ, sáng nay nghe tin ông Phó an toàn trở về, tôi vui mừng lắm!”
Mọi người đến bắt tay chúc mừng tôi. Thì ra việc tôi mất tích đêm hôm qua, đã gây xúc động cho các giới chức tỉnh Thừa Thiên. Nay thấy tôi bình an trở về, ai cũng vui mừng. Nhưng không một ai biết lý do nào đã giúp tôi an toàn trở về.
Khi những vị khách đã ra về, nhà tôi đến bên tôi, ngạc nhiên hỏi: “Anh, có chuyện gì vậy?” Tôi vỗ vỗ vào vai nhà tôi và nói: “Anh sẽ kể cho em nghe, chuyện dài dòng lắm!”
Năm 1971, tôi được thuyên chuyển đi làm Phó Quận Hương Thủy. Cuối năm 1972, tôi được điều động ra làm Phó Tỉnh Trưởng Quảng Trị. Tháng 12 năm 1973, tôi lại được đổi vô làm việc ở tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) cho đến ngày mất nước. Tôi đi tù cải tạo cho đến 1982 mới được cho về.
Gia đình tôi đi dịnh cư ở Mỹ theo diện HO từ tháng 11/1992.
Năm 2008, tôi được tin bà mẹ nuôi của tôi đau nặng. Bà đang ở Vỹ Dạ, Huế. Năm ấy bà đã gần 100 tuổi. Vợ chồng chúng tôi vội vã về thăm bà. Ngoài thuốc men đầy đủ, mỗi ngày nhà tôi nấu cháo, hầm súp cho bà thời. Thật vui mừng, vì chỉ mấy ngày sau, bệnh tình của bà mẹ nuôi của tôi đã thuyên giảm, ăn uống bình thường, nói cười vui vẻ.
Một hôm, chúng tôi nhận được điện thoại của chị Cam Đường, bạn học cùng lớp với nhà tôi, mời chúng tôi xuống Cầu Hai chơi, nhân dịp làng tổ chức cúng vị Thần Hoàng của làng. Chị ấy cho biết là vui lắm, ở xa về mà gặp dịp nầy là hên lắm đó! Chúng tôi nhận lời mời của chị Cam Đường ngay, và hứa sẽ xuống Cầu Hai đúng ngày, giờ. Chúng tôi thuê một xe nhỏ để đi. Nhà tôi còn rủ thêm 2 người bạn nữa, cùng đi với chúng tôi.
Đã được báo trước, nên khi xe vừa đến chợ Cầu Hai, đã thấy chị Cam Đường đứng đón chúng tôi. Chị ấy dẫn chúng tôi đến đình làng Đông Lưu (Cầu Hai). Hôm nay là một ngày hội lớn của làng. Cờ đuôi nheo được treo khắp nơi. Dân làng hớn hở, tấp nập tụ tập ở đình làng.
Chúng tôi vào ngồi ở hàng ghế cuối cùng của Giang Đại Sảnh. Trước mặt chúng tôi là một bàn thờ lớn, hoa quả, hương đèn rực rỡ; một con heo quay vàng rộm, đặt trên một cái bàn ở trước bàn thờ. Vừa ngồi yên chỗ, một hồi chuông, trống bát nhã vang lên rộn rã, báo hiệu giờ hành lễ sắp đến. Một vị bô lão, mặc áo rộng xanh, đầu đội khăn đóng, bước ra nói với bà con tham dự lễ Chạp đang ngồi trong đại sảnh: “Thưa quý vị quan khách, thưa quý bà con, hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để cử hành lễ “Chạp,” kính ngày huý kỵ Ngài khai canh của vùng đất mà chúng ta đang sống. Với lòng thành kính và biết ơn, chúng ta sẽ cử hành những nghi lễ cổ truyền mà ông cha chúng ta đã truyền lại cho con cháu, để dâng lên Ngài khai canh. Trước khi cử hành các nghi lễ, chúng tôi xin giới thiệu một số quan khách đã đến tham dự ngày giỗ “Chạp” hôm nay. Chúng tôi xin giới thiệu Ông Phó Chủ Tịch Huyện Phú Lộc, chúng tôi xin giới thiệu Ông Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã Lộc Trì, chúng tôi xin giới thiệu vị Đại diện Mặt Trận Tổ Quốc huyện Phú Lộc, chúng tôi xin giới thiệu đồng chí Lê Văn Liêm, Chỉ huy quân sự xã Lộc Trì.”
Vừa nghe vị bô lão xướng tên Lê Văn Liêm, tôi sững sờ tự hỏi: “Đây có phải là em Liêm, học trò của tôi ngày trước không?” Vừa vui mừng, vừa phân vân, tôi đi đến trước mặt người đàn ông vừa đứng dậy chào bà con khi được xướng tên là Lê Văn Liêm. Đứng trước mặt anh ấy, dù đã 41 năm trôi qua, tôi vẫn nhận ra ngay đây là em Liêm, người học trò của tôi ngày xưa, mà tôi thương mến. Tôi cảm động nói với Liêm: “Em Liêm, em có nhận ra tôi không? Tôi là thầy Uyển đây.” Chàng thanh niên sau một khoảnh khắc ngơ ngác, đã ôm chầm lấy tôi: “Ông Phó, ông Phó…” Liêm nghẹn ngào, không nói thêm gì được nữa, hai hàng nước mắt chảy dài xuống má.
Liêm quên mình đang đứng giữa đình làng, và có nhiều người hiện diện nơi đây, anh quay xuống hàng ghế kế cận và vui mừng gọi lớn: “Ba! Ông Phó đây nè!”
Một cụ già mặc áo dài đen, bịt khăn đóng, đứng bật dậy, chạy đến ôm chầm lấy tôi. Ông cảm động thì thầm bên tai tôi: “Ông Phó, ông còn sống, tạ ơn trời đất!” Đôi mắt ông đỏ hoe.
Liêm nói với vị bô lão điều khiển chương trình: “Thưa bác Hương Cả, tình cờ hôm nay, chúng tôi gặp lại một người bà con thân thiết của gia đình, đã thất lạc gần 50 năm nay. Xin bác cho phép gia đình chúng tôi về nhà trong chốc lát, chúng tôi sẽ trở lại ngay.”
Liêm và ông Sửu kéo tay tôi ra ngoài. Ông bà Sửu cứ nắm chặt tay tôi, như sợ tôi biến đi mất(?).
Nhà của ông bà Sửu bây giờ là một căn nhà gạch, lợp toles, không còn là một căn nhà lá lụp xụp như xưa nữa. Bước vào nhà, chúng tôi vừa ngồi xuống ghế, bỗng ông bà Sửu và Liêm quỳ xuống trước mặt chúng tôi, rồi cùng cúi gập người, lạy 3 lạy, trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Tôi đỡ ông bà Sửu đứng dậy, và cảm động nói: “Hai bác làm gì vậy? Sao lại dành cho chúng tôi sự tôn kính quá to lớn như vậy? Chúng tôi có công lao gì để xứng đáng nhận đại lễ này?” Ông Sửu nói ngay: “3 lạy nầy cũng chưa xứng đáng với công ơn mà ông Phó đã dành cho gia đình tôi.” Ông chỉ ra đám ruộng ngoài xa, xanh mướt, mới trổ đòng đòng. Ông chỉ vào đàn heo đông đúc ở cuối vườn, ông chỉ vào căn nhà… và nói: “Tất cả cũa cải nầy là của ông Phó đã cho gia đình tôi.”
Tôi thân mật cầm tay ông Sửu và nói: “Bác Sửu ơi, 2 sào ruộng và mấy con heo, có đáng gì so với ân huệ to lớn mà cháu Liêm đã dành cho tôi!” Liêm vội ngắt lời tôi: “Thưa thầy, chuyện xảy ra đêm hôm ấy, không một ai hay biết. Vậy em xin thầy hãy quên chuyện ấy đi, em cám ơn thầy!” Ông Sửu không biết chuyện gì, chỉ trố mắt nhìn tôi và Liêm. Rồi ông nói tiếp: “Năm 1971 nghe ông Phó đổi lên quận Hương Thủy, chúng tôi có lên đó tìm ông Phó. Nhưng ở quận Hương Thủy cho biết ông Phó đã đổi ra Quảng Trị. Chúng tôi lại ra Quảng Trị, mong gặp được ông Phó, nhưng lúc đó, ông Phó đã đổi vô tỉnh Phong Dinh-Cần Thơ, tận trong Nam… Cho đến 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi không hề biết tin tức gì về ông Phó nữa! Từ đó, chúng tôi chỉ sống với kỷ niệm, với lòng biết ơn và thương nhớ ông Phó. Chúng tôi cứ nghĩ là ông Phó đã chết, nên cha con chúng tôi thiết lập một bàn thờ, để thờ ông Phó. Trên bàn thờ không có ảnh, không có bài vị, chỉ có hai chữ “Ông Phó” do cháu Liêm viết lên một tấm bìa cứng. Tuy đơn sơ như thế, nhưng mỗi ngày, vợ chồng, cha con chúng tôi đều thắp nhang lên bàn thờ để tưởng nhớ đến ông Phó.”
Bà Sửu tiếp lời ông Sửu: “Thưa ông Phó, ngày hôm nay được gặp lại ân nhân của gia đình chúng tôi, chúng tôi sẽ bắt gà, bắt vịt nuôi trong nhà để làm một bữa cơm thiết đãi ông bà Phó và các vị cùng đi. Ngày hạnh phúc hôm nay, chúng tôi đã trông chờ gần 50 năm rồi đó.”
Nhưng một người bạn của nhà tôi, chị Như Quê nhắc nhở: “Anh chị Uyển ơi, chúng ta đã hẹn với các bạn ở Huế, trưa nay tụi mình sẽ dùng cơm với các bạn, mà bây giờ đã hơn 11 giờ rồi. Chúng ta nên xin phép hai bác Sửu, đi lên Huế kẻo các bạn chờ.”
Tôi đành phải cáo lỗi với ông bà Sửu và cháu Liêm. Ông Sửu buồn buồn nói với chúng tôi: “Gặp lại ông bà, chúng tôi vui mừng khôn xiết, mà ông bà đã vội ra đi, biết khi nào mới gặp lại ông bà.” Tôi an ủi ông bà Sửu: “Vì chúng tôi đã hẹn trước với các bạn, chúng tôi phải có mặt ở Huế trưa nay. Chúng tôi sẽ về thăm hai bác và cháu Liêm.” Ông bà Sửu và cháu Liêm bùi ngùi từ biệt chúng tôi. Khi mọi người đã lên xe, chúng tôi vẫn thấy gia đình ông Sửu buồn bã nhìn theo.
Chiếc xe con chở chúng tôi đã chạy đều trên quốc lộ, hướng về Huế. Bỗng chị Hồ Thị Hảo, một người bạn của nhà tôi, nói với mọi ngườir trên xe: “Hôm nay, chúng tôi tình cờ biết được câu chuyện của anh Uyển và gia đình ông Sửu. Câu chuyện làm chúng tôi ngạc nhiên và xúc động lắm, nhất là đoạn kết, lại rất có hậu, làm chúng tôi nhớ đến vài câu ca dao, tục ngữ của quê hương mình, thật hay, thật đúng, như câu ‘Trồng cây ngọt thì được ăn trái ngọt’ hoặc câu ‘Gieo nhân nào thì gặt quả ấy’ hay câu ‘Ở hiền thì gặp lành.’ Xin chúc mừng anh chị Uyển!”
Bửu Uyển (Tháng 1-2018)
From: Tu-Phung
Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử
Thu Doan
- Nhà văn Tiểu Tử :
Họ tên : Võ Hoài Nam
Sanh năm : 1930
Nguyên quán : Gò Dầu Hạ (Tây Ninh )
Bút hiệu : Tiểu Tử
Ông là con trai duy nhứt của giáo sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.
– Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955.
– Dạy lý hoá trung học Petrus Ký : 1955/1956.
– Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ năm tháng 10 năm 1956 đến 30/04/1975.
– Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay.
– Làm việc cho hãng đường mía của Nhà nước Côte d’ Ivoire ( Phi Châu ) 1979/ 1982.
– Làm việc cho hãng dầu SHELL Côte d’ Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp.
– Trước 1975, giữ mục biếm văn ” Trò Ðời ” của nhựt báo Tiến.
– Bắt đầu viết truyện ngắn khi lưu vong qua Côte d’Ivoire.
– Tập truyện ” Những Mảnh Vụn ” ( Làng Văn Toronto xuất bản ) là tập truyện đầu tay.
Bài ca vọng-cổ
Cái Loa
Cái mặt
Cái miệng
Chị Tư Ù
Chiếc khăn mu-soa
Chợ trời
Chuyện Bình Thường
Chuyện chẳng có gì hết
Chuyện di tản 1975
Chuyện Giả Tưởng
Chuyện ở quê tôi
Chuyện thuở giao thời
Cơm nguội
Con Mẹ Hàng Xóm
Con Mén
Con số 3
Con rạch nhỏ quê mình
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Đám cưới ngày xưa
Đạp xích lô
Đèn Trung Thu
Đi Xe Đò, Đi Xe Ôm
Giọt mưa trên tóc
Làm Thinh
Lẫn
Made in Việt Nam
Mài Dao Mài Kéo
Mũ “bảo hiểm”
Mùa Thu Cuộc Tình
Ngày nầy, năm 1975 …
Người Bán Liêm Sỉ
Người Viết Mướn
Ngụy
Những câu chuyện Di Tản của nhà văn Tiểu Tử – Tường An, thông tín viên RFA
Những chuyện nho nhỏ…
Những hình ảnh đẹp
Nói
Nói: Hết rồi!
Nói Láo
Nội!
Ông già ngồi bươi đống rác
Ông Năm Từ
Tấm vạc giường
Thằng Chó Đẻ của Má
Thằng dân
Thằng đi mất biệt
Thằng Khùng
Thầy Năm Chén
Thèm
Tiết Nhơn Quí
Tóc Trắng
Tô cháo huyết
Tôi đi bầu
Tôi nằm gác tay lên trán
Tôi … xém làm kép cải lương
Vẫn Còn Cái Gốc
Viết một chuyện tình
Vọng cổ buồn …
Xíu.
- Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử
Người ta hay hỏi tôi: “Quê ông ở đâu? – Câu hỏi nghe giản dị, mà trả lời thì… khó hơn đi thi vô Petrus Ký. Bởi lẽ, cái quê của tôi, cái chỗ chôn nhau cắt rún, tôi đã bỏ ra đi từ lâu, từ cái thuở biển dâu, thời cuộc cuốn người ta ra khỏi vòng tay của ngõ xóm, của hàng dừa, hàng cau, của mái nhà lợp lá. Ấy thế mà, mỗi đêm khi nằm trên chiếc giường ấm áp, tôi vẫn thấy quê hương trở lại, rõ mồn một, như một bức tranh khắc sâu trong ký ức: nghèo trớt mùng tơi, mà vẫn thương, vẫn nhớ đến xót xa.
Có anh bạn văn thường nhậu nhẹt với tôi, hay hỏi vặn:
– Khi nào ông “dìa” quê?
– Muốn “dìa”, nhưng đâu biết quê đâu mà dìa!
Ảnh cười khề khà:
– Thôi thì ông tấp về quê tui đi, ngay đất Tân Định nè.
Nghe vậy mới ngớ người ra. Té ra, đối với ảnh, quê không phải là xứ khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối, mà chính là mảnh đất Sài Gòn nơi mình cất tiếng khóc chào đời. Cái quê ấy có mùi khói thuốc rê, có tiếng guốc mộc của các bà, có những con hẻm nhỏ mà tuổi thơ rong chơi
đánh lộn tới u đầu sứt trán.
Tân Định – cái đất ấy đã nuôi lớn bao thế hệ. Từ đường Trần Quang Khải, quẹo qua Trần Nhật Duật, thẳng tới bờ kinh Nhiêu Lộc, những con đường nhỏ như Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quý Khoách, Trần Khánh Dư, đã in dấu chân của học trò trường Văn Lang, của những giấc mộng tuổi trẻ. Và cũng từ nơi ấy, bao nhiêu phận đời đã bước ra, đi khắp năm châu, mà khi tóc bạc vẫn còn ngoái lại, nhớ da diết từng mái hiên, từng ngọn đèn đường.
Trong số những người đi qua đất Tân Định, có một người đặc biệt: nhà văn Tiểu Tử.
Ông sinh năm 1932, tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, rồi về dạy tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký vào những năm 1955–1956.
Sau biến cố 1975, ông vượt biên, định cư ở Pháp, và từ đó, văn chương trở thành cách để ông bắc nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.
Tôi biết đến Tiểu Tử qua truyện ngắn “Tô cháo huyết”. Và khi nghe tin ông qua đời trên đất Pháp, lòng tôi bỗng dưng nghẹn lại.
Câu chuyện ông kể tưởng như vụn vặt, mà hóa ra thấm đẫm tình người, tình quê. Hình ảnh một người ngày xưa, trên đường đi làm về ghé xe cháo huyết của bà xẩm già ở gần rạp Casino Đa Kao. Bà bày cái nồi cháo nghi ngút khói, với vài miếng huyết vuông vức nổi lên trên. Ông múc một muỗng, vừa có cháo vừa có huyết, thổi cho nguội rồi cho vào miệng. Hương vị ấy, dân dã mà ấm áp, như gói cả hồn Tân Định.
Nhưng đời dân Sài Gòn sau cuộc đổi đời từ nghèo sang mạt sau tháng Tư năm 1975 đâu phải lúc nào cũng có tiền. Có khi cả tháng rỗng túi, ông né luôn cái xe cháo của bà xẩm, chỉ vì sợ mình thèm. Cho đến một hôm, bà mời:
– Vô ăn đi thầy Hai, lâu quá mà…
– Tôi không có tiền! – Ông đáp, thật thà đến bật khóc.
– Không có thì cũng vô ăn, chừng nào trả cũng được. Mình quen mà!
Ông viết: “Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghẹn ngang ở cổ, làm tôi ứa nước mắt.”
Chao ôi! Một tô cháo huyết mà chan chứa nghĩa tình. Nó không còn là món ăn của bụng đói, mà là của tình người nơi xóm cũ. Để rồi hơn nửa thế kỷ sau, ở tận trời Âu, ông vẫn còn nhớ như in, nhớ đến nhói tim, nhớ đến mức viết thành một truyện ngắn để gửi gắm nỗi lòng.
Tôi đọc truyện ấy mà thấy mình rưng rưng buồn trong tấc dạ. Bởi mỗi người tha hương đều có một “tô cháo huyết” riêng trong ký ức. Với nhà văn Tiểu Tử, đó chính là xe cháo huyết của bà xẩm Tân Định. Và khi ông kể lại, không phải chỉ kể một món ăn, mà là kể về một
quê hương đã mất, kể về cái tình người Sài Gòn xưa, kể về một thời mà “ăn chịu” không phải chuyện đáng xấu hổ, mà là biểu hiện của tin cậy, của chia sẻ, của đồng bào.
Tin ông mất khiến tôi buồn như mây chiều trôi. Hình dung nơi nghĩa trang lạnh lẽo ở Pháp, có một nấm mộ mới của một người từng viết: “Tôi đi để lại đường xưa.” Đường xưa ấy chính là Trần Quang Khải, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Văn Giai, Bùi Hữu Nghĩa… những con đường quanh Tân Định, đã nuôi dưỡng tâm hồn và văn chương của ông.
Có lẽ, trong giây phút cuối đời, ông vẫn còn nhớ tô cháo huyết năm nào. Và chúng tôi, những kẻ hậu sinh, đọc văn ông mà thấy trong cổ họng mình cũng nghèn nghẹn, như chính ông đã nghẹn ngày xưa.
Giờ ngồi viết những dòng này, tôi nhớ tới bạn bè, nhớ tới những buổi nhậu lai rai mà kể chuyện quê xưa. Tôi nhớ tới cảnh học trò chen chúc thi vào Petrus Ký nơi dạy của nhà văn Tiểu Tử với cái tên Võ Hoài Nam tiền định sống phải xa quê.
Tôi nhớ tới nhà văn Tiểu Tử, một kiếp người long đong phiêu bạt, nhưng đã kịp để lại cho đời những trang văn chan chứa tình quê, tình người. Cái tên “Tiểu Tử” nghe thì nhỏ nhoi, mà văn ông lại lớn lao, bởi ông đã nói hộ cho cả một thế hệ lưu lạc: quê hương không bao giờ mất, nó sống mãi trong từng mùi vị, từng ký ức, từng khói bốc lên từ nồi cháo huyết chiều nào.
Thưa Thầy, ở phương trời xa ấy, xin Thầy an nghỉ. Trần gian này thiếu vắng Thầy, nhưng những dòng chữ Thầy để lại, những ký ức về một tô cháo huyết bình dị, sẽ còn sống mãi. Để cho những đứa con xa quê, mỗi lần nhớ Sài Gòn xưa, lại tìm thấy bóng dáng mình trong câu văn mộc mạc mà rưng rưng của Thầy.
Hu hu… Tôi viết mà mắt cứ nhòa đi.
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
BỆNH MẤT TRÍ NHỚ: ALZHEIMER VÀ DEMENTIA – Lại Thị Mơ
BỆNH MẤT TRÍ NHỚ: ALZHEIMER VÀ DEMENTIA
Lại Thị Mơ
Có 2 loại bệnh mất trí nhớ: ALZHEIMER và DEMENTIA
![]() |
ÔB Tổng Thống Reagan |
Loại nặng là Alzheimer. Hoàn toàn mất hẳn trí nhớ, như trường hợp Tổng Thống Reagan (kéo dài 10 năm mới chết).
Loại nhẹ gọi là Dementia lúc nhớ lúc quên, như trường hợp nhà Bác Học Albert Einstein.
Cho tới bây giờ khoa học cũng vẫn chưa tìm ra phương pháp phòng ngừa hay chữa trị. Chỉ biết khi trời kêu ai nấy dạ.
Các bác sĩ thì khuyên bắt đầu óc làm việc chút chút mỗi ngày, cũng là một cách tập thể dục cho cái đầu (não) của mình vậy thôi.
Đọc sách, viết bài, viết thư… cũng là một cách tập thể dục đầu. Tức là bắt cái não của mình không được “nhàn cư vi bất thiện” rảnh quá rồi nghĩ chuyện linh tinh than mây khóc gió.
Hoặc như Mỹ nói “use it or lose it”
Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.
Quả thật từ khi có internet, thì mọi thứ tin tức và hình ảnh được lan tràn trên khắp thế giới chỉ sau vài tích tắc. Người dân trên toàn thế giới (ngoại trừ Bắc Hàn và các nước độc tài) có thể theo dõi đủ mọi biến chuyển ngay khi xảy ra.
Ngay cả ở Mỹ, khi có World Cup về đá banh, đâu phải trận banh nào quí vị cũng được coi hết đâu. Nhất là khi Mỹ đã thua rồi, là coi như dẹp bớt, ông chồng tôi (chuyên gia TV 24/7 & 20 hour/ day) bảo thế.
Trong khi VN nghèo mà chơi bảnh cho coi líp ba ga, thức đêm thức hôm xem miệt mài suốt gần 2 tháng. Mỗi lần có World Cup là công việc tê liệt, quan thì ngủ bù ở nhà, lính thì vào sở lớt phớt cho có lệ, vì còn ngáp ngắn ngáp dài.
Mặc dù bệnh mất trí nhớ không làm tổn thương tới thân xác bệnh nhân như các bệnh nhiễm trùng, hay bệnh ung thư tàn phá cơ thể rất nhanh.
Không ảnh hưởng tới physical, vì chỉ có não không còn làm việc, chứ tim gan phèo phổi vẫn bình thường. Bệnh nhân vẫn có thể sống rất lâu, nếu không muốn nói là thọ.
Không tổn thương về thể chất (của bệnh nhân), nhưng tổn thương rất nặng về tinh thần cho người chăm sóc
Biết bao câu chuyện não lòng khi có người thân bị bệnh mất trí. Nhất là khi người ấy lại là ông bà cha mẹ của mình.
Trong các triệu chứng của bệnh mất trí nhớ nhẹ Dementia (lúc khởi đầu) có một triệu chứng đã làm tổn thương tới tình cảm gia đình. Đó là người bệnh lúc nào cũng nghi ngờ bị mất cắp tiền bạc hay nữ trang của mình.
Họ có thể nói (y như thật) người này người kia đã lấy cắp của họ. Nếu chỉ có một người chăm sóc người bệnh (ông bà cha mẹ), thì ráng giữ bình tĩnh bỏ ngoài tai, coi như không chấp. Nhưng khổ nỗi vì cuộc sống khó khăn, rất nhiều người ở VN, sau khi lập gia đình vẫn phải ở chung theo kiểu ngũ đại đồng đường. Cháu dâu con dâu, cháu rể con rể là người không cùng máu mủ hay bị hàm oan.
Có một điều không hiểu nổi, đó là họ có thể không nhận được tất cả mọi người. Nhưng bà mẹ chồng vẫn biết đây là thằng con yêu quí của mình. Bà đợi con đi làm về, để than thở bị bỏ đói cả ngày. Còn ai ở nhà cả ngày với bà, ngoài người vợ của mình, tức là con dâu của bà. Oan Thị Kính làm sao giải bày, nuốt bồ hòn làm ngọt. Nếu gặp người chồng vũ phu không có từ tâm hiểu biết, thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Từ đó xảy ra biết bao thảm cảnh gia đình, từ xô xát cãi vã, có khi đưa đến chia tay.
Ngoại trừ đổ thừa bị mất đồ, không nhớ đã ăn cơm hay chưa. Những người bị Alzheimer, dù không còn minh mẫn, nhưng họ vẫn có thể nhận ra những người vô cùng đặc biệt với họ. Bà Nancy bảo rằng ông Tổng Thống Reagan quên hết tất cả mọi người, chỉ còn nhớ duy nhất một mình bà. Ít ra cũng còn có một người để cho ông nghe lời.
Căn bệnh mất trí còn nguy hiểm hơn cả bệnh điên. Vì bệnh điên tuy vậy vẫn có thuốc chữa hay chế ngự. Khi người điên nổi cơn người ta cho uống thuốc, cơn điên sẽ bị chế ngự. Sau đó người ta cho chạy điện vô não. Sau một thời gian thì não của người bệnh trở lại bình thường. Đó là do não bị xáo trộn vì một nguyên nhân gì đó, chứ không có hư hại. Trái lại ở bệnh Alzheimer và bệnh Dementia não đã bị thoái hóa, bị hư hại. Đó là lý do tại sao chưa có cách phòng ngừa và chữa trị.
Chăm sóc cho người bệnh lãng trí là một điều vô cùng khó khăn.
Một con vật bình thường như con chó con mèo, dù không nói được, nhưng chúng vẫn nhận ra và nghe lời người nuôi dưỡng nó. Bởi vì chúng vẫn còn bộ não. Trong khi người bị lãng trí, chúng ta sẽ cảm thấy đau lòng khi một cụ già bị nhốt trong chuồng, hay bị xích tay xích chân.
Những hình ảnh đó không thể dùng cho con người. Nhưng chúng ta phải làm sao, khi người bị lãng trí gây ra đủ thứ vấn nạn, làm đảo lộn cuộc sống của những người trong nhà. Giữa đạo đức và hạnh phúc, chúng ta sẽ chọn bên nào.
Chỉ có thánh hay bồ tát mới giữ cho mình khỏi nổi cơn điên khi bị buộc tội oan ức. Cũng chỉ có thánh mới giữ cho mình được bình tĩnh, khi mỗi ngày thấy đủ thứ xáo trộn xảy ra trong căn nhà của mình.
Ông bà cha mẹ là những người ta phải tương kính theo đạo làm con.
Nhưng khi làm sao giữ được vẹn toàn, khi ông bà cha mẹ bị mất trí. Một bệnh nhân trong thân xác của người trưởng thượng. Có nhiều cô con dâu đã phải gào lên nói dối như cuội, khi nói về bà mẹ chồng. Hoặc khi không còn bình tĩnh họ có thể buộc tội điên điên khùng khùng. Thật tình họ không muốn mang tiếng hỗn láo, chẳng qua cơn giun xéo mãi cũng quằn! Khó có ai giữ cho mình sống trọn đạo làm con.
Bản thân tôi có cha mẹ bị Dementia, nghĩa là những gì các cụ nói cần phải xét lại, thế mà cũng vẫn bị lừa đều đều. Lần nào cũng vì sốt ruột khi nghe bố gọi với giọng thều thào “có gì ăn không, bố đói quá”. Lúc ông đang ở trong rehab gần nhà, cổ tay luôn luôn đeo một cái vòng có ghi số điện thoại của tôi, để bất kỳ có chuyện gì xảy ra, ai cũng có thể gọi ngay cho con cháu.
Hôm đó bố tôi ra dấu cho có người giúp. Đầu tiên một giọng nữ gọi, bảo ông muốn nói chuyện với cô. Nghe bố nói muốn ăn cháo (kiểu VN), dạ dạ thưa thưa, cuống quýt đi hâm cháo. Chưa được 10 phút, lại nghe điện thoại gọi, lần này là giọng nam, lại dạ dạ thưa thưa con mang vào ngay. Chạy hộc tốc tới (rehab chỉ cách nhà có 10 phút), tôi chưng hửng, vì bố tôi đang ngồi trước mặt mâm cơm của nhà thương, còn y nguyên.
Không hiểu tại sao người bị lãng trí, lại “thông minh” đến thế. Không biết tiếng Anh, nhưng bố tôi biết ngoắc một cô y tá nhờ gọi dùm. Sau đó lại nhờ một người y tá khác (đàn ông) gọi tiếp. Nói chuyện bằng tiếng Việt nên họ không hiểu mình nói gì. Từ đó có kinh nghiệm, tôi không quýnh quáng, mà hỏi lại caregiver. Tuy vậy cũng vẫn chạy vào thăm, nếu không ông cụ sẽ giận hờn bỏ ăn.
Người ta nói khi già, người ta sẽ trở thành con nít (chướng). Họ sẽ bướng bỉnh khó chiều, nếu thành con nít ngoan thì đâu có chuyện gì xảy ra.
Một triệu chứng kinh khủng cho người chăm sóc người bị mất trí, đó là họ không còn phân biệt được đúng sai, họ có thể ăn ngay phân của họ, nghĩa là chúng ta không thể rời mắt khỏi họ.
Điều này đã làm đau lòng con cái vô cùng.
Có nhiều gia đình khi đi làm, họ phải khoá cầu dao điện, nếu nấu bằng bếp điện. Vì các cụ già khi muốn ăn bánh mì, họ đút luôn cả ổ bánh vào lò nướng, vẫn còn giấy gói và dây thun cột. Có người còn tinh nghịch đốt cả thảm lót nhà.
Nói chung là khi trong nhà có người bị bệnh mất trí, thì ngay cả người chăm sóc cũng mệt nhoài, vì mắt phải luôn luôn ngó chừng. Đôi khi ngay cả người lành cũng không ngờ được những phản ứng bất thường của bệnh nhân.
Bà Nancy vợ của Tổng Thống Reagan chăm sóc ông bị bệnh Alzheimer (nặng) suốt 10 năm trời. Không thể dùng một chữ nào khác hơn chữ “ độc ác” để diễn tả bệnh này. Thông minh hóm hỉnh, tài giỏi, ăn mặc luôn luôn lịch sự. Tất cả không còn nữa, bà Nancy chẳng còn cho ai nhìn thấy ông trong bộ dạng thê thảm thiểu não, quần áo xộc xệch, bộ mặt ngây ngô, không còn ra hình dáng của một chính khách được ngưỡng mộ ngày nào. Thôi thì hãy để mọi người coi như ông đã chết.
Biết bao câu chuyện đau lòng của người thân, khi có ông bà cha mẹ bị bệnh mất trí nhớ. Dù cho bạn có thông minh như nhà Bác Học Albert Einstein cũng vẫn mắc bệnh như thường. Dù cho bạn có học cao hay giàu có đến đâu, bạn cũng vẫn nghẹn ngào khi thấy người thân yêu của mình tàn tạ hay có những hành động làm đau nhói con tim. Điều này có thể hiểu được tại sao có nhiều người bình thường đã đem nhốt người bệnh vào những cái cũi như cũi chó. Họ quá nghèo khổ, phải lo bươn chải cho miếng cơm manh áo.
Họ phải làm liều, dù thật sự trong lòng họ không muốn. Gặp thời thế thế thời phải thế. Cái khó bó cái khôn. Ở trong chăn mới biết chăn có rận.
Một cô gái thượng (ở VN) bị xích trong rừng vì mất trí cả mấy năm trời, cho tới khi được một Linh Mục giải cứu mang về nhà thờ.
Không thể nào kể siết về những hoàn cảnh thương tâm của những người bị căn bệnh độc ác này. Hành hạ bệnh nhân thì ít (vì họ không còn nhận thức), nhưng hành hạ gia đình người bệnh thì nhiều.
Cách đây 20 năm, có một thanh niên ở phía Đông Bắc Mỹ, đã bỏ cha già bị bệnh mất trí vào lò sưởi đốt. Vì anh ta là con một, lương không trả nổi cho nursing home (hạng bét 200dollar/ ngày).
Người không mất trí chăm sóc cho người bệnh, cũng mất trí luôn, đó là trường hợp của anh này. Những khó khăn đã dồn họ đến chân tường tuyệt vọng.
Chúng tôi đã nhiều lần dặn dò con cháu, nếu bố mẹ bị bệnh lãng trí, cứ mạnh dạn đưa vào nursing home, đừng lo phiền áy náy. Vì lúc này bố mẹ chỉ còn kéo dài cuộc sống trong vô thức. Không còn biểu lộ được tình cảm với con cháu. Trái lại khi cho ở chung, những biểu hiện của căn bệnh sẽ làm mất cả tình thân. Chẳng thà để bố mẹ hành hạ quấy phá người dưng. Khi bố mẹ còn tỉnh táo dặn dò con cháu, đó là ý nguyện của bố mẹ, các con không có lỗi gì cả. Tất cả mọi người trong gia đình bố mẹ đều yêu quý vô vàn. Hãy có từ tâm đừng nghĩ xấu nghĩ ác, rồi nguyền rủa người khác. Bởi vì tục ngữ có câu chẳng ai nắm tay được từ sáng đến tối. Một ngày nào đó rồi chúng ta cũng sẽ già, như lời Phật dạy. Sinh trụ hoại diệt, hoàng hôn tàn để nhường chỗ cho bình minh ló dạng.
Các con tôi cũng rưng rưng nước mắt. Cũng như ngày xưa chúng tôi cũng đau xé lòng khi thấy cha mẹ mình lú lẫn, bỏ cả đồ dơ vào miệng. Hay ngơ ngác đi lạc ngoài đường.
Người ta không sợ chết, mà chỉ sợ bệnh. Quan niệm bên Phật giáo, cho rằng bệnh tật là cái nghiệp của chúng sinh. Không tôn giáo nào cho phép tự tử. Phật bảo rằng khi tự tử có nghĩa là chưa trả hết nghiệp. Đời sau cũng phải trả tiếp. Luật pháp cũng không cho phép người ta xin chấm dứt sự sống. Bạn thấy điều này có đúng không? Kéo dài cuộc sống trong vô thức, không còn tận hưởng được mọi vui thú của cuộc đời, thì có còn ích lợi gì cho xã hội và cho chính người bị bệnh.
Nếu bạn cổ vũ cho ý tưởng đó, bạn sẽ bị lên án. Vì xã hội không chấp nhận mạng con người như một món đồ vật, để có thể vứt bỏ dễ dàng.
Bạn có biết con số bệnh viện dành cho người mental behavior nhiều gấp mấy con số bệnh viện chữa những bệnh khác. Và người ta đã tránh dùng những chữ điên crazy, hạ giá nhân phẩm. Chỉ dùng chữ những chung chung mental behavior.
Lại Thị Mơ
From: TU-PHUNG
Tự sướng với lòng yêu nước?- Nguyễn Hoàng Văn
19/09/2025
Nguyễn Hoàng Văn
Tìm kiếm tài liệu liên quan đến “diễn ngôn Đoàn Hương”, tôi bắt gặp một clip của nhà khoa bảng gây tranh cãi này trên trang Youtube: “Hiếm có dân tộc nào mang tinh thần yêu nước trong GEN như người Việt Nam!” [1]

Nghĩa là, không chỉ yêu nước hạng nhất, nhì nhân loại, người Việt còn hơn hẳn những dân tộc khác với tình yêu nước bẩm sinh, yêu ngay từ… đại phân tử DNA chứa mật mã di truyền chứ không tầm thường như thứ tình yêu… nhân tạo, chỉ yêu do bị nhồi sọ, do tác động của bộ máy tuyên truyền. Lời bà này làm tôi nghĩ ngay đến câu thơ của Bảo Sinh:
Tự do là sướng nhất đời
Tự lừa còn sướng bằng mười tự do
Tự lừa để sướng thì cũng có nghĩa là “tự sướng”, nên nói theo Nguyễn Huy Thiệp, đó cũng chẳng khác nào một hình thức “thủ dâm chính trị”, hệ quả từ một cái nhìn hẹp hòi, thiển cận [2].
Để hiểu sự hẹp hòi này thì tốt nhất, hãy lắng nghe ông Václav Havel (1936-2011), một trí thức khả kính, từng là Tổng thống Tiệp Khắc rồi Tổng thống Tiệp, xuất thân là một nhà thơ, nhà soạn kịch và là nhà bất đồng chính kiến kiên cường. Trong cuộc phỏng vấn đăng tải trên báo New York Times vào ngày 30/12/1989, chỉ một ngày sau khi trở thành Tổng thống Tiệp Khắc, ông bày tỏ:
“Tôi là người Tiệp. Đây không phải là chọn lựa mà là số phận của tôi. Cả đời tôi sống trên đất nước này. Đây là ngôn ngữ, là nhà của tôi. Tôi sống ở đây như bất cứ ai khác. Tôi không cảm thấy tôi là người ái quốc bởi vì tôi không cảm thấy rằng làm người Tiệp là cái gì đó hơn hẳn người Pháp hay người Anh, người Âu hay bất cứ ai khác. Tôi không hiểu tại sao Thương Đế lại muốn tôi làm người Tiệp. Đó không phải là chọn lựa của tôi. Nhưng tôi chấp nhận điều đó và vì tôi đang sống ở đây, tôi phải cố làm điều gì đó cho đất nước tôi” [3].
Ông Havel không huênh hoang là mình yêu nước. Ông cũng không ưỡn ngực “tự hào quá Tiệp ơi” với ngụ ý rằng làm người Tiệp thì cao quý hơn là làm người Anh, người Pháp người Đức hay người Nhật v.v… Tuy nhiên, với tư cách là một nhà cầm bút sống giữa sức ép của chế độ toàn trị mà không hề thỏa hiệp, không bán rẻ lương tâm mà, hơn thế nữa, còn ngẩng cao đầu như một nhà bất đồng chính kiến quả cảm, ai cũng phải thừa nhận rằng ông, như một cá nhân, đã thể hiện một nhân cách cực kỳ cao quý và với những gì đã “cố làm cho đất nước” thì lại là một nhà ái quốc vĩ đại.
Từ một nhân cách cao quý nhưng hết sức khiêm cung như thế mà quay trở lại với trò tự sướng trong clip nói trên, sẽ thấy có cái gì đó kỳ kỳ, lố bịch, sống sượng. Nhưng lố bịch hay sống sượng đến mấy thì cũng không có gì là lạ bởi, ít nhất, đó là cách mà bộ máy giáo dục của chúng ta dạy dỗ cho bao nhiêu thế hệ, theo đó thì lòng yêu nước là một “bản sắc” của người Việt Nam.
Tôi thử Google ý niệm “bản sắc dân tộc” và tìm ra ngay một định nghĩa ngắn gọn, chắc nịch như đinh đóng cột:
“Nền văn hóa Việt Nam mang những bản sắc dân tộc đặc trưng: Yêu nước, tự cường, đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị” [4].
Bao nhiêu năm qua, chúng ta rót vào tai nhau, dạy đi dạy lại cho bao thế hệ trẻ về “bản sắc dân tộc” những điều như thế, nhưng nếu nhìn lại để đặt nó trong mối quan hệ tương liên với các dân tộc khác thì, thực tình mà nói, chúng ta chẳng khác nào hạng trẻ con, mà cũng chẳng khác lũ ếch ngồi sâu trong đáy giếng.
Nếu “yêu nước” là “bản sắc” của dân tộc Việt Nam thì hóa ra người Nga, người Pháp, người Anh, người Trung Hoa hay người Lào, người Nhật không hề yêu nước của mình?
Và nếu “tự cường” là bản sắc dân tộc thì tại sao chúng ta vẫn lẹt đẹt, thua xa những láng giềng hay những nước Á châu khác từng ngang hàng hay kém xa mình?
Mà không chỉ là lòng “yêu nước”, là tính “tự cường”, toàn bộ những yếu tố kể trên đều cần phải xem lại [5].
Đã gọi là “bản sắc” thì đó phải là những đặc điểm khiến mình khác biệt so với người khác, không phải là những yếu tố chung chung mà hầu như dân tộc nào cũng có. Để tiện, thử so sánh với “bản sắc Úc” mà giới nghiên cứu nước này đã đưa ra vào thập niên 1990, với bốn đặc điểm: Lười biếng, kỳ thị, thế tục và nam tính.
Về sự lười biếng thì, trên thực tế, người Úc không hề lười biếng, họ lao tâm lao lực ra trò. Vấn đề là sự “lười biếng” này được ghi nhận qua một mô thức kinh tế… lười biếng. Úc là một quốc gia phát triển nhưng hoạt động kinh tế, phần lớn, chỉ ở mức… đang phát triển, chỉ đào quặng mỏ lên bán cùng với các sản phẩm canh nông, chẳng khác gì mấy các quốc gia đang phát triển Á, Phi. Nếu Úc không “lười biếng” thì các quặng mỏ và sản phẩm canh nông kia phải được chế biến mà ngôn ngữ kinh tế gọi là thêm phần “giá trị gia tăng”.
Thứ hai là sự kỳ thị. Dù đang theo đuổi chính sách đa nguyên, Úc vẫn bị mang tiếng là kỳ thị do chính sách “White Australia” áp dụng từ năm 1901, theo đó chỉ nhận di dân da trắng. Dẫu chính sách này đã bị bãi bỏ từ năm 1966 nhưng người Úc vẫn ghi nhận là “ấn tượng” về sự kỳ thị vẫn còn đó nên, trong bang giao quốc tế, cần phải “ý tứ” đến yếu tố này.
Thứ ba là chủ nghĩa thế tục, secularism, thể hiện rất rõ ở các chính trị gia Úc nếu so với Mỹ. Ra ứng cử, bất cứ ứng cử viên nào ở Mỹ – từ cấp dân biểu, nghị sĩ đến tổng thống – ai cũng cố bày tỏ lòng mộ đạo, ngọt xớt dẫn chứng Thượng Đế và, khi kết thúc bài diễn văn, luôn luôn lập lại câu kinh nhật tụng “God bless America”. Nhưng các chính trị gia Úc không hề đếm xỉa đến chuyện này và, trên phương diện xã hội, những lãnh tụ tôn giáo thường bị báo chí mang ra nhạo bang, không chút nể nang!
Thứ tư là chủ nghĩa nam tính, masculinism, thể hiện qua sự tôn sùng cũng như đòi hỏi cao ở nam giới. Có thể thấy điều này trong môn thể thao bóng bầu dục, khi các cầu thủ Úc chỉ trang bị duy nhất dụng cụ bảo vệ ở bộ răng, khác với các các cầu thủ bóng bầu dục Mỹ bảo vệ hầu như toàn thân. Hay thói tục trọng thể thao: Dàn nhạc giao hưởng trẻ của Úc trình diễn tại Âu châu đạt thành tích vang dội nhưng truyền thông hầu như chẳng để ý, trong khi đó một cầu thủ quần vợt, một tay bơi đạt giải nào đó là được tán dương tận mây xanh.
Những điều này được phân tích trong môn học mang tính địa lý – chính trị tại các đại học Úc vào thập niên 1990, chuyên về quan hệ giữa Úc và Á châu. Đó là thời điểm mà Úc đang cố gắng hội nhập vào Á châu và “bản sắc” này không chỉ là nỗ lực tự phán, mà còn được đúc kết từ cảm nhận của các láng giềng Á châu về Úc: Muốn hội nhập vào Á châu thì nước Úc phải hiểu rõ Á châu nhìn mình và hiểu về mình như thế nào.
Đó, có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta phải áp dụng trong nỗ lực gọi là “Tiến ra biển lớn”. Nếu những thế hệ đi trước như Nguyễn Văn Vĩnh từng “xét tật mình” như một cách tự phán thì thế hệ hiện tại phải làm hơn thế nữa: Ngoài việc tự phán còn phải lắng nghe và ghi nhận những phán xét chẳng mấy hay ho và, thậm chí, cực kỳ tồi tệ của người khác về mình.
Trong Chuyện Tử Tế, đạo diễn Trần Văn Thủy đã dựng hai cảnh trái ngược. Một là cảnh một lớp học rách nát tại Việt Nam và những học trò suy dinh dưỡng quàng khăn đỏ trên cổ, trên bục cô giáo giảng bài về niềm tự hào của một đất nước anh hùng, rừng vàng biển bạc v.v… Một là cảnh một lớp học hiện đại tại Nhật nhưng bài học lại là sự bất hạnh của một đất nước nghèo tài nguyên lại bị thua trận trong chiến tranh: Tương lai của đất nước hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực học hành của các em.
Để “tự cường” thì cần phải dạy sao cho thế hệ trẻ biết nhục về những cái yếu kém của mình, thay vì ê a những bài học vinh quang và tự hào, mà nói theo Vũ Trọng Phụng, là “Biết rồi, khổ quá, nói mãi”. Hãy dạy để học trò biết đau trước những tấm biển “Cấm vào đây ăn trộm” bằng tiếng Việt tại các siêu thị ở Thái Lan, ở Nhật, ở Úc hay lời tuyên bố lạnh tanh “Không được đến đây làm đĩ” tại Singapore [6].
Đừng nên dạy chúng tự sướng, đẩy chúng lên những đám mây xanh tự hào, huênh hoang rằng, chỉ có người Việt mới yêu nước như thế, hay yêu nước nhất nhì thế giới.
Mà không chỉ dạy cho thế hệ trẻ. Phải nhồi vào tai, phải nhét vào đầu của người lớn, cả những kẻ đầu đã hai thứ tóc, rằng nếu thực sự yêu nước thì đừng có làm nhục đất nước mình, đừng có biến đất nước mình thành trò cười của nhân loại.
__________
Chú thích:
- “Bệnh nhược tiểu, thói hủ nho và thủ dâm chính trị”: https://vanviet.info/van-de-hom-nay/benh-nhuoc-tieu-thi-hu-nho-v-thu-dm-chnh-tri/
- “I am Czech. ‘This was not my choice, it was fate. I’ve lived my whole life in this country. This is my language, this is my home. I live here like everyone else. I don’t feel myself to be patriotic, because I don’t feel that to be Czech is to be something more than French, or English, or European, or anybody else. ‘God – I don’t know why – wanted me to be a Czech. It was not my choice. But I accept it, and I try to do something for my country because I live here.”
- “Những giá trị bền vững của văn hóa Việt Nam”: https://baodongnai.com.vn/vanhoa/202001/ban-sac-van-hoa-nam-bo-nhung-gia-tri-ben-vung-cua-van-hoa-viet-nam-2984578/
- Thí dụ như “đoàn kết”, ngay trong truyền thuyết “trăm trứng trăm con” đã thấy sự chia rẽ rồi: Sau khi đã có một trăm mặt con, Lạc Long Quân phải thú nhận với Âu Cơ là không thể tiếp tục ăn ở, phải cắt đôi gia đình, năm mươi về núi, năm mươi về xuôi. Và càng phải xem lại những “bản sắc” như “lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị”.
Lấy thí dụ yếu tố “ứng xử tinh tế và giản dị”. “Tinh tế” là ý niệm phải đặc biệt chú ý trong quan hệ ngoại giao nhưng cứ xem cách bà Nguyễn Thị Kim Ngân, khi còn là chủ tịch quốc hội, “tinh tế” như thế nào khi cùng cho cá ăn với nguyên Tổng thống Mỹ Barrack Obama, khiến ông này, một người rất tinh tế, cũng phải cũng phải bộc lộ ra ánh mắt ngỡ ngàng!
Hay cảnh các quan chức chúng ta tán gẫu như thể là đang uống trà đá vỉa hè, giữa lúc đang chờ làm việc chính thức với Bộ Ngoại giao Mỹ, với câu chốt khét tiếng “Rõ ràng, sòng phẳng. Mẹ nó, có sợ gì đâu!”
Về giản dị thì từ “văn hóa cổng chào” cho đến “lễ” nhậm chức, có thể nói là người Việt Nam hiện tại tỏ ra rườm rà và lãng phí vào hạng nhất nhì thế giới. Tại Úc, mỗi lần thay đổi nội các, chính phủ chỉ đơn giản đến Dinh Tổng Toàn Quyền làm lễ tuyên thệ nhưng tại Việt Nam chỉ quyết định bổ nhiệm một quan chức cấp tỉnh thôi cũng rềnh rang ban bệ từ trung ương về, treo băng rôn, cờ, hoa v.v… lãng phí bao nhiêu thời gian, công sức, tiền bạc.
- Khoảng mười năm trước, một tiệm sách tại một trung tâm thương mại ở Sydney treo bảng bằng tiếng Việt: “Ăn trộm là tội phạm, sẽ bị truy tố theo luật hình sự”. Tôi thắc mắc thì người quản lý, một phụ nữ rất cởi mở, giải thích là thời gian qua tiệm bị mất khá nhiều sách và đã theo dõi, sau đó đã bắt quả tang một số sinh viên Việt Nam “không có quốc tịch Úc” trộm sách, đã giao cho cảnh sát. Trung bình mỗi học kỳ một sinh viên tại Úc theo học bốn môn và ít nhất mỗi môn phải mua một cuốn sách tham khảo chính, có môn phải mua đến ba cuốn, mỗi cuốn như vậy, vào thời điểm đó, có giá từ $70 đến $120.
THÁCH ĐỐ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Ai có tai nghe thì nghe!”.
Frank Lloyd Wright – kiến trúc sư vĩ đại người Mỹ – từng đối diện một thách đố: thiết kế Imperial Hotel tại Tokyo, nơi thường xuyên động đất. Ông kiến tạo một nền móng “nổi” trên lớp bùn dày hơn 20m, trải dài hàng vạn mét vuông. Khi hoàn tất, khách sạn đã đứng vững sau một trận động đất khốc liệt, đang khi nhiều toà nhà chung quanh sụp đổ.
Kính thưa Anh Chị em,
Như Frank L. Wright từng đối diện một thách đố, Tin Mừng hôm nay cũng đặt chúng ta trước một ‘thách đố!’: tâm hồn bạn và tôi là loại đất nào cho Lời Chúa sinh hoa kết quả – đất đường, đất sỏi, đất gai hay đất tốt? Và Chúa Giêsu kết thúc, “Ai có tai thì nghe!”.
‘Đất đường’ là đất đã biến chất khi tâm hồn chúng ta hoá cứng. Chúa Thánh Thần luôn soi dẫn làm điều đúng đắn, nhưng chúng ta lờ đi; và rồi, ma quỷ, như chim chóc sà xuống cướp lấy. ‘Đất đá!’ – Vui nhận Lời và bước theo Chúa trong ‘thời bình’, nhưng đến ‘thời chiến’, chúng ta mất kiên nhẫn, chán nản và ngã lòng. ‘Đất gai!’ – Vướng víu và cảm thấy ngột ngạt trong đời sống tâm linh vì quá lo lắng sự đời và bận tâm các thú vui đời, chúng ta quên rằng, Lời ân sủng của Chúa đòi hỏi hy sinh các thú vui thế gian. Ngoài thập giá, không sự thánh thiện nào có thể tăng trưởng! “Tâm hồn như khu vườn – không vun xới, cỏ dại sẽ tràn lan!” – Voltaire.
Sau cùng, ‘Đất tốt!’ – Đó là mảnh đất giàu, màu mỡ, tinh tuyền; một vùng trũng luôn thấm đẫm mưa móc. Ở đó, hạt Lời đâm rễ, mọc lên tươi tốt, “hạt ba mươi, hạt sáu mươi, hạt một trăm”, hứa hẹn ‘một mùa bội thu!’. “Tấm lòng quảng đại tựa đất phì nhiêu – càng cho đi, càng trổ sinh, cho đến khi dư tràn không thể đếm được!” – Leo Tolstoy.
Phaolô nhắc nhở Timôthê, “Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách!” – bài đọc một. Điều răn của Chúa là luật Chúa, Lời Chúa, là soi dẫn của Thánh Thần. ‘Thời chiến’ hay ‘thời bình’, Lời vẫn vươn lên! Được như thế, ngày các thiên thần hô to, “Hãy vào trước thánh nhan Chúa giữa tiếng hò reo!” – Thánh Vịnh đáp ca – chúng ta ắt cũng có thể hoà nhập với “đoàn người sống lại” vang khúc khải hoàn!
Anh Chị em,
“Ai có tai nghe thì nghe!”. Khó khăn lớn nhất không nằm ở việc nghe và đón nhận Lời, nhưng ở sự gìn giữ, vun xới cho hạt mọc lên. Chúng ta đang ở trong ‘thời chiến!’, thời mà đức tin phải đối diện vô vàn thử thách của thuyết tương đối, của ‘trí tuệ nhân tạo’, bao hàm ‘động đất’ và ‘bão tố’ thuộc mọi loại hình. Hãy đi xuống khu vườn bí mật của lòng mình, thiết lập một lớp ‘nệm bùn khiêm tốn’ trong nguyện cầu, sám hối và phân định. “Trong bạn có một miền tĩnh lặng và một thánh điện, nơi bạn có thể trở về bất cứ lúc nào!” – Hermann Hesse. Hãy nhìn lại các mối tương quan của bạn với Chúa, với người và với mình để kịp điều chỉnh. Chính trong sự lặng lẽ đó, Lời sẽ âm thầm đâm rễ, lớn lên và sinh trái. hứa hẹn một ngày mùa hân hoan!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giữa động đất của công nghệ và bão tố của thời đại, xin giữ con kiên vững, trung thành cho đến mùa gặt bội thu!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
********************************************************
Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXIV Thường Niên, Năm lẻ
Hạt rơi vào đất tốt : đó là những kẻ nghe Lời Chúa và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 8,4-15
4 Khi ấy, dân chúng tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giê-su. Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng :
5 “Người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. 6 Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. 7 Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. 8 Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm”. Nói xong, Người hô lên rằng : “Ai có tai nghe thì nghe.”
9 Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. 10 Người đáp : “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa ; còn với kẻ khác thì phải dùng dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu.
11 “Đây là ý nghĩa dụ ngôn : Hạt giống là lời Thiên Chúa. 12 Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. 13 Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. 14 Hạt rơi vào bụi gai : đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. 15 Hạt rơi vào đất tốt : đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng