Chrismas Musics 2025 – P3

Sent: Friday, December 12, 2025 

Subject: Subj.: Chrismas Musics 2025 – P3

1/ O HOLY NIGHT (Kìa Vầng Hào Quang) VNA-TV 120425 

https://youtu.be/3whKu2W0AW4?si=x6bXe9sj1gISNttE

 2/ Hang Bê-Lem | Cẩm Vân – Khắc Triệu ft. MPU Choir | Giấc mơ đêm mùa đông 2025

 https://youtu.be/qgloKZhXm8s?si=cvS5vCLskv-HDu8_ 

3/ Best Christmas Choir Songs 2026 Best Christmas Carols 2026 

https://youtu.be/TpUgbvU295M?si=lgkgXf2ZxwayjrLt 

4/ TOP 10 Must-Listen Christmas Classics This Season – Wendy Kokkelkoren 

https://youtu.be/evj5XeSYC1Q?si=NhRVw8hZmENo9s2w

From: NguyenNThu

9 tổ chức kêu gọi quốc tế đòi CSVN thả bà Phạm Đoan Trang

Ba’o Nguoi-Viet

December 12, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Chín tổ chức nhân quyền quốc tế đã cùng đứng tên chung kêu gọi cộng đồng quốc tế áp lực chế độ Hà Nội trả tự do cho nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang.

Bà Phạm Đoan Trang, năm nay tuổi, năm nay 47 tuổi, bị nhà cầm quyền CSVN kết án 9 năm tù ngày 14 Tháng Mười Hai 2021 vì vu cho bà tội “Tuyên truyền chống” chế độ độc tài, đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam.

Nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang bị chế độ Hà Nội lôi ra tòa ngày 14 Tháng Mười Hai 2021, kết án 9 năm tù vì bà đã can đảm đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam. (Hình: VNA)

“Phạm Đoan Trang là biểu tượng của quyền tự do báo chí và sự kiên cường. Bà dấn thân cho công lý và tự do báo chí không được phép bị bỏ quên. Bà xứng đáng được đặt lên hàng đầu các hoạt động ngoại giao và cộng đồng quốc tế phải làm hết tất cả mọi nỗ lực trong quyền hạn của mình để cho bà được trả tự do”.

Nhân ngày Quốc tế Nhân Quyền 10 Tháng Mười Hai, liên minh các tổ chức vận động cho bà Phạm Đoan Trang viết trong bức thư ngỏ gửi các chính phủ để thúc giục họ tích cực hành động mà nhờ đó bà có thể hy vọng chấm dứt tù tội. Liên minh 9 tổ chức đó gồm cả Phóng viên Không Biên giới (RSF), Văn Bút Quốc tế (PEN international), Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CJP), Ân Xá Quốc tế v.v…

“Phạm Đoan Trang là biểu tượng của tự do báo chí nên tiếng nói của bà là đại diện cho tấy cả những người bị chế độ bịt miệng. Bà xứng đáng được tôn vinh cho lòng can đảm chứ không phải đáng bị bỏ tù trong những điều kiện khắc nghiệt, xa gia đình hàng ngàn cây số, chỉ vì đã làm nhiệm vụ của một nhà báo. Cộng đồng quốc tế phải vận dụng tất cả mọi nguồn lực để đòi CSVN trả tự do cho bà.” Lời bà Aleksandra Bielakowska, Giám đốc vận động khu vực Á Châu – Thái Bình Dương viết trong điện thư của RSF.

Theo thông tin mà các tổ chức trên được biết, sức khỏe của bà Phạm Đoan Trang ngày càng tồi tệ khi bị giam giữ trong những điều kiện tệ hại, lại không được chăm sóc y tế từ hệ quả những lần bị Công an CSVN hành hung dã man đến vỡ đầu, đánh gãy chân. Thêm nữa, ở trong trại giam An Phước tỉnh Bình Dương, bà bị di chứng từ dịch Covid-19 kéo dài như viêm xoang mãn tính, viêm khớp và nhiều vấn đề phụ khoa khác.

Bà là một nhà báo độc lập với những bài viết rất sắc sảo về tình hình thời sự chính trị tại Việt Nam phổ biến trên mạng xã hội và được hàng trăm ngàn người theo dõi suốt nhiều năm cho đến khi bị bắt. Bà là tác giả của một số sách vận động dân chủ hóa đất nước, nổi tiếng như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” v.v…

Nhưng nhiều phần, tập tài liệu “Báo cáo Đồng Tâm” là đỉnh điểm đã dẫn tới việc chế độ Hà Nội quyết định bỏ tù bà để bịt miêng. Trong tài liệu này, bà kể lại từ nguyên ủy sâu xa của việc cưỡng chế đất nông nghiệp của dân xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức, Hà Nội, đến cuộc đàn áp đẫm máu đêm mùng 8 Tháng Giêng 2020 của hơn 3 ngàn lính công an, Cảnh sát cơ động. Những gì được kể ra trái với truyền thống bưng bít sự thật của chế độ Hà Nội về các cuộc cưỡng chế đất của dân.

Tấm hình này phổ biến trên YouTube nhân dịp bà Phạm Đoan Trang được Bộ Ngoại giao Mỹ vinh danh năm 2022 là một trong những phụ nữ can đảm trên thế giới. (Hình: YouTube)

Hồi Tháng Mười năm nay, cũng đã có 21 tổ chức quốc tế thúc giục các chính phủ trên thế giới áp lực buộc chế độ Hà Nội trả tự do vô điều kiện cho bà Phạm Đoan Trang. Tuy nhiên dù là áp lực trực tiếp chế độ Hà Nội hoặc gián tiếp qua các đối tác kinh tế chính trị với nhà cầm quyền độc tài này, người ta không hề thấy có kết quả khi chế độ ấy tảng lờ đối với áp lực cho nhân quyền.

Thậm chí, ngay sau khi bà bị kết án tù, một nhóm gồm 8 chuyên gia nhân quyền của Cao Ủy Nhân quyền LHQ, mà CSVN cũng là thành viên, đòi trả tự do cho bà, cũng bị chế độ bưng tai bịt mắt. Họ cho biết việc kết án tù Phạm Đoan Trang theo điều 88 Luật hình sự CSVN là “điều luật được viết một cách mơ hồ và vi phạm các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.”

Trong khi bà Phạm Đoan Trang bị CSVN đàn áp thẳng tay, bà lại được nhiều tổ chức quốc tế vinh danh và trao tặng giải thưởng vì những gì bà đã làm cho người dân trong nước, bất chấp khủng bố, tù tội. Năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh bà là một trong những phụ nữ can đảm trên thế giới.(NTB)


 

 

TỰ HỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra!”.

“Không dám nhìn nhận sự thật về chính mình là kẻ thù lớn nhất của đời sống thiêng liêng!” – Henri Nouwen.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bộc lộ một sự thật đáng tiếc. Người đương thời không nhìn nhận Gioan; vì thế, họ không nhận biết Ngài. Lý do, họ không dám nhìn nhận sự thật về chính mình – tự phụ, kiêu căng, báng bổ; nói cách khác, họ không ‘tự hối!’.

‘Tự hối’ là mở lòng cho Thiên Chúa thay vì trốn chạy Ngài. Vậy mà không chỉ không trốn chạy, chúng ta còn phải như Gioan – mở đường cho Chúa Kitô – chuẩn bị cho việc “đến liên tục” của Ngài trong đời sống. Muốn được thế, trước hết, chúng ta phải mở đường cho Ngài ngay trong chính bản thân mình. Ngài đã đến một lần trong lịch sử, nhưng cũng mong muốn đến trong linh hồn, gia đình và cộng đồng chúng ta từng ngày. Và Ngài chỉ có thể đến nếu chúng ta dám để cho ân sủng Ngài biến đổi. “Chúng ta không thể chuẩn bị thế giới cho Chúa Kitô nếu chưa chuẩn bị tâm hồn mình!” – Henri de Lubac.

Vậy mà việc nhìn nhận sự thật về bản thân không hề dễ dàng. Nó đụng chạm lòng tự phụ, thói quen, và cả những niềm vui giả tạo vốn đã gắn vào bản ngã. Khi từ chối điều này, chúng ta từ chối hồng ân tha thứ và đổi mới. Vì vậy, ‘tự hối’ không chỉ là nhận lỗi; nhưng còn là bắt đầu một hành trình thiêng liêng mới, nơi chúng ta khám phá chiều sâu của lòng thương xót Chúa, nhận ra sự tốt lành của Ngài. Mùa Vọng, mùa nhận ra lỗi lầm, thú nhận chúng, và tìm kiếm ơn tha thứ trong Bí tích Hoà Giải. Từ việc nhận ra lòng thương xót Chúa, chúng ta lớn lên trong việc thương xót người khác. “Thực hành ăn năn mở lòng cho Chúa và cho phép lòng thương xót của Ngài chảy qua chúng ta đến tha nhân!” – Von Balthasar.

“Lạy Thiên Chúa, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ!”. Hãy để lời Thánh Vịnh đáp ca vang lên trong lòng chúng ta vào những ngày này. Một lỗi lầm được nhận diện là một cánh cửa hé mở cho ân sủng Chúa, để được phục hồi, chữa lành và lớn lên trong ánh sáng của Chúa. Vì thế, tự hối không làm cho sợ hãi hay mặc cảm; trái lại, là cánh cửa dẫn đến bình an và sự sống mới; là nhịp cầu giữa chúng ta và Thiên Chúa, giữa những hạn chế của mình và ơn gọi nên thánh.

Anh Chị em,

“Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra!”. Hôm nay, Chúa Kitô muốn chúng ta nhận ra Ngài đang đến dưới nhiều hình thức – trong người nghèo, trong những đau khổ của thế giới, trong Lời Chúa, và trong các dấu chỉ bình dị của đời sống. Nếu chúng ta không khiêm nhường ‘tự hối’, Ngài có thể vẫn hiện diện nhưng chỉ lướt qua. Chỉ khi tâm hồn được thanh tẩy và cởi mở, ánh sáng Ngài mới soi thấu những góc tối thường bị bỏ qua. “Nếu để Chúa Kitô đi vào đời mình, chúng ta chẳng mất gì… chỉ trong tình bạn với Ngài, cánh cửa sự sống mới được mở rộng!” – Bênêđictô XVI.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để nhân tâm con không còn dao động, giúp con nhìn nhận tội lỗi mình – điều đang ngăn cản con với Chúa – Cho con ước ao hết lòng được gột rửa chúng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần II Mùa Vọng

 Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 17,10-13

10 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, các môn đệ hỏi Đức Giê-su rằng : “Sao các kinh sư nói rằng ông Ê-li-a phải đến trước ?” 11 Người đáp : “Đúng thế, ông Ê-li-a đến và sẽ chỉnh đốn mọi sự. 12 Nhưng Thầy nói cho anh em biết : ông Ê-li-a đã đến rồi và họ không nhận ra ông, nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” 13 Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.


 

VÌ SAO NHIỀU QUỐC GIA THẮNG TRONG CHIẾN TRANH NHƯNG THUA TRONG HÒA BÌNH?

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

Có một nghịch lý xuyên suốt lịch sử hiện đại:

Những nhà nước từng chiến thắng vẻ vang trong chiến tranh lại thường thất bại cay đắng trong hòa bình.

Đế quốc Nga thắng Thế chiến II nhưng Liên Xô tan rã năm 1991.

Nam Tư chiến thắng phát xít nhưng vỡ vụn trong nội chiến.

Cuba, Triều Tiên, Ethiopia, Angola… đều là những ví dụ của sự vinh quang trên mặt trận quân sự nhưng lao đao trong quản trị thời bình.

Vì sao?

Bởi chiến tranh và hòa bình đòi hỏi hai năng lực khác nhau.

Một nhà nước có thể rất mạnh trong chiến tranh nhưng lại không có bộ gen phù hợp để tồn tại trong hòa bình.

  1. Chiến tranh cần quyền lực tập trung; hòa bình cần quyền lực phân tán

Trong chiến tranh, mô hình hiệu quả nhất là:

– Mệnh lệnh từ trên xuống

– Kỷ luật tuyệt đối

– Sự hy sinh cá nhân cho mục tiêu chung

– Tập trung quyền lực để ra quyết định nhanh

Nhưng một mô hình quyền lực tập trung không thể vận hành xã hội dân sự trong hòa bình, nơi cần:

– Cơ chế kiểm soát

– Minh bạch

– Luật pháp độc lập

– Báo chí giám sát

– Người dân phản biện

Nhà nước quen dùng mệnh lệnh chiến tranh sẽ bị “đơ cứng” trong quản trị kinh tế – xã hội.

Một xã hội nhiều vấn đề nhưng lại ít cơ chế phản hồi giống như chiếc nồi áp suất không có van xả.

  1. Chiến tranh tôn vinh hy sinh; hòa bình đòi hỏi năng lực

Hậu chiến, nhiều vị trí chủ chốt được trao cho những người “có công” trong chiến đấu — điều hợp lý ở thời điểm ấy.

Nhưng ở thời bình, quốc gia cần chuyên gia:

– Kinh tế

– Luật pháp

– Công nghệ

– Giáo dục

– Quản trị công

Khi tiêu chuẩn bổ nhiệm vẫn dựa vào “thành tích cách mạng” thay vì năng lực quản trị, nhà nước bị mắc kẹt trong vinh quang quá khứ, không bước kịp thời đại.

Năng lực không tự sinh ra từ lòng dũng cảm.

Một vị tướng giỏi chiến trận chưa chắc là người xây dựng được thể chế pháp quyền.

  1. Cơ chế chiến tranh không chống được tham nhũng thời bình

Khi chiến tranh kết thúc, lượng tài nguyên tái thiết khổng lồ đổ vào hệ thống.

Nếu thiếu minh bạch – thiếu kiểm soát, thì tham nhũng trở thành sản phẩm tự nhiên.

Ví dụ điển hình:

– Liên Xô kiểm soát kinh tế thời chiến rất tốt, nhưng trong hòa bình, cơ chế bao cấp – độc quyền đẻ ra hệ thống tham nhũng khổng lồ.

– Nam Tư của Tito đoàn kết trong chiến tranh, nhưng sau hòa bình, các nhóm lợi ích địa phương tranh giành tài nguyên, dẫn đến sụp đổ.

Một bộ máy được xây dựng để đánh giặc không thể tự chuyển đổi thành bộ máy minh bạch.

  1. Tâm lý “kẻ thù” không phù hợp với xã hội dân sự

Trong chiến tranh: ai đặt câu hỏi = có thể nghi ngờ là kẻ phá hoại.

Trong hòa bình: người dân phải có quyền đặt câu hỏi, chất vấn, phản biện.

Nhưng nhiều nhà nước bước ra từ chiến tranh không thay đổi tư duy đối – lập:

– Phản biện bị xem là chống đối

– Báo chí bị kiểm soát

– Dân bị coi là đối tượng quản lý, không phải đối tác xây dựng quốc gia

– Cơ quan công quyền quen dùng biện pháp cưỡng chế hơn là phục vụ

Khi người dân trở thành “đối tượng”, còn nhà nước giữ tư duy “trật tự chiến tranh”, thì xã hội sớm muộn cũng rơi vào mâu thuẫn.

  1. Chiến thắng không đồng nghĩa với khả năng phát triển kinh tế

Lịch sử chứng minh:

đánh trận giỏi không đồng nghĩa quản lý kinh tế giỏi.

Hàn Quốc và Nhật Bản phát triển thần kỳ sau chiến tranh không phải nhờ chiến thắng, mà nhờ:

– Cải cách thể chế

– Tự do hóa kinh tế

– Minh bạch hóa bộ máy

– Giáo dục và công nghệ

– Tôn trọng quyền công dân

Ngược lại, nhiều quốc gia thắng chiến tranh nhưng stagnate (đình trệ) trong hòa bình vì:

– Duy trì cơ chế bao cấp

– Không khuyến khích sáng tạo

– Sợ thay đổi

– Sợ mất quyền kiểm soát

– Tâm lý tự mãn vì quá khứ

Sự tự mãn là kẻ thù của phát triển.

  1. Không có kẻ thù chung, sự đoàn kết thời chiến tan rã

Trong chiến tranh, toàn dân đoàn kết vì địch rất rõ ràng.

Trong hòa bình, các lợi ích nhóm xuất hiện:

– Nhóm kiểm soát tài nguyên

– Nhóm kiểm soát đất đai

– Nhóm kiểm soát quyền lực địa phương

– Nhóm kinh tế – chính trị

Nếu nhà nước không có cơ chế điều phối và kiểm soát quyền lực hiệu quả, thì xung đột lợi ích nội bộ phá hủy sự ổn định.

Nói cách khác:

chiến tranh thống nhất – hòa bình phân rã.

  1. Không chuyển đổi được từ “tự do chiến đấu” sang “tự do công dân”

Một quốc gia chỉ thực sự chiến thắng trong hòa bình khi:

– Quyền con người được bảo đảm

– Luật pháp bảo vệ dân, không chỉ bảo vệ bộ máy

– Cơ quan công quyền minh bạch và chịu trách nhiệm

– Công an – quân đội phục vụ dân, không đứng trên dân

– Người dân được quyền giám sát Nhà nước

Nếu một nhà nước coi hòa bình như “sự kéo dài của chiến tranh bằng biện pháp hành chính”, thì nó sẽ thua.

Một nhà nước thắng chiến tranh nhờ sức mạnh tập trung,

nhưng thắng hòa bình lại cần năng lực phân quyền, minh bạch, pháp quyền và tôn trọng nhân dân.

Nếu không thay đổi, vinh quang quá khứ trở thành chiếc neo kéo quốc gia đi xuống.

Hòa bình không phải là phần thưởng, mà là bài kiểm tra.

Và nhiều quốc gia đã không vượt qua bài kiểm tra đó.

Hong Thai Hoang

 


 

 “CHA DONALD CALLOWAY: TỪ NGHIỆN NGẬP VÀ TỘI LỖI ĐẾN ƠN GỌI LINH MỤC”

Thao Teresa

  1. Xuất thân và tuổi thơ

Donald Calloway sinh ngày 29 tháng 6 năm 1972 tại Dearborn, Michigan, Hoa Kỳ. Gia đình ông sau đó chuyển đến West Virginia, rồi sang miền Nam California (Los Angeles – San Diego). Do cha/cha dượng phục vụ trong quân đội, gia đình thường xuyên di chuyển, khiến tuổi thơ của ông không có nhiều sự ổn định.

  1. Tuổi trẻ lạc lối: nghiện ngập – tội lỗi – mafia Nhật

Lớn lên trong môi trường thiếu định hướng, Donald rơi vào con đường sa ngã rất sớm:

– Khoảng 11 tuổi, ông đã bắt đầu dùng ma túy, nghiện ngập và sống buông thả.

– Ông bỏ học giữa chừng, lang thang và tiếp tục chìm trong tệ nạn.

– Khi gia đình chuyển sang Nhật Bản, Donald bỏ nhà đi, tham gia vào lối sống trụy lạc và dính líu đến tội phạm.

– Ông trở thành người vận chuyển ma túy và tiền cho mafia Nhật Bản (Yakuza).

– Năm 15 tuổi, ông bị trục xuất khỏi Nhật Bản vì các hoạt động phạm pháp.

– Trở về Mỹ, Donald nhiều lần vào trung tâm cai nghiện, nhưng liên tục tái nghiện.

18 tuổi, ông bị bắt và vào tù tại Louisiana.

– Thời gian này, Donald sống lang thang, nghiện ngập nặng, tinh thần suy sụp, có lúc muốn kết thúc cuộc đời mình.

Đó là giai đoạn đen tối nhất – tưởng chừng không còn hy vọng cho tương lai.

  1. Bước ngoặt hoán cải – Ánh sáng trở lại

Ơn Chúa đến một cách bất ngờ nhưng mạnh mẽ:

– Một đêm kia, trong lúc tâm hồn trống rỗng và rối loạn, Donald vô tình lấy từ tủ sách gia đình một quyển sách về Đức Mẹ Medjugorje.

– Khi đọc, ông cảm nhận một sự đánh động sâu xa: nỗi hối hận, khao khát thay đổi và ước muốn trở về với Thiên Chúa.

– Ông bắt đầu đến nhà thờ, tham dự Thánh lễ, xưng tội và quyết tâm làm lại cuộc đời.

– Nhờ ơn sủng này, ông xin gia nhập –  Dòng Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm – MIC, một dòng tu nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Mẹ và Lòng Thương Xót.

Từ một kẻ sa đọa, Donald bước vào hành trình trở thành môn đệ của Đức Kitô.

  1. Học vấn – Đào tạo – Lãnh chức linh mục

Sau khi hoán cải, Donald quyết tâm học hành và tu luyện:

– Ông hoàn thành chương trình Đại học (B.A.) tại – Franciscan University of Steubenville.

– Học Thần học tại – Dominican House of Studies, nhận bằng M.Div. và S.T.B.

– Tiếp tục học S.T.L. chuyên ngành Thánh Mẫu học (Mariology) tại International Marian Research Institute.

– Ngày 31 tháng 5 năm 2003, Donald Calloway được – truyền chức linh mục tại National Shrine of the Divine Mercy (Massachusetts, Hoa Kỳ).

Từ đây, cuộc đời ông bước sang chương mới: sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và Hội Thánh.

  1. Sứ vụ linh mục – Truyền giáo – Viết sách

Trong sứ vụ của mình, cha Donald Calloway đã phục vụ với nhiều vai trò:

– Giữ các nhiệm vụ quan trọng trong Dòng MIC như – Vicar Provincial và Vocation Director.

– Trở thành nhà giảng thuyết – nhà truyền giáo nổi tiếng khắp thế giới.

– Tác giả của nhiều sách thiêng liêng, đặc biệt cuốn “Consecration to St. Joseph” được hàng triệu tín hữu đón nhận.

Giảng thuyết mạnh mẽ về sức mạnh của Kinh Mân Côi, lòng sùng kính Đức Mẹ và Lòng Thương Xót Chúa.

– Dẫn các chuyến hành hương đến nhiều thánh địa trên thế giới.

– Vì yêu thích lướt sóng, ngài được nhiều người gọi bằng biệt danh dễ thương: “the surfer priest”  linh mục lướt sóng.

  1. Ý nghĩa từ cuộc đời cha Donald Calloway

Câu chuyện đời ngài là một chứng tá đầy sức mạnh:

– Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai, dù họ tội lỗi đến mức nào.

– Không bao giờ quá muộn để quay đầu và trở về với Chúa.

– Lòng sùng kính Đức Mẹ có thể chạm đến những tâm hồn tội lỗi nhất.

– Quá khứ không quyết định tương lai – ơn Chúa có thể làm mới toàn bộ cuộc đời.

Ngày nay, cha Calloway dùng chính dấu tích đau thương của tuổi trẻ để nâng đỡ những ai đang nghiện ngập, tuyệt vọng, lạc lối – chứng minh rằng:

Không ai là quá tội lỗi để Thiên Chúa không thể cứu.

  1. Trích từ cha Donald Calloway

“Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao thật sự của thế giới.”

– Thế giới có nhiều “ngôi sao”:

– cầu thủ bóng đá

– ca sĩ nổi tiếng

– diễn viên

Nhưng tất cả rồi sẽ qua đi.

Chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao không bao giờ lụi tàn

là Đấng luôn tỏa sáng và dẫn dắt nhân loại.”

Câu chuyện hoán cải của cha Donald Calloway cho chúng ta thấy rằng không có ai quá tội lỗi để bị Chúa bỏ rơi, và cũng không có vết thương nào sâu đến mức ân sủng không thể chữa lành. Một con người từng nghiện ngập, sa đọa, bạo lực, vô thần… đã trở thành một linh mục thánh thiện, được cả thế giới biết đến như một chứng nhân mạnh mẽ của Lòng Thương Xót Chúa và tình yêu của Đức Mẹ.

Chúa đã không chọn người hoàn hảo. Chúa chọn người “đã từng gãy đổ” để nói với nhân loại rằng ơn Chúa mạnh hơn bóng tối, và ai biết mở lòng ra thì đều có thể trở nên mới.

Nhìn vào cuộc đời cha Calloway, chúng ta cũng được mời gọi soi lại chính mình:

Có những vùng tối nào trong trái tim mà ta chưa trao cho Chúa?

Có những thói quen, yếu đuối, vết thương hay tội lỗi nào mà ta nghĩ rằng “mình không bao giờ thay đổi được”?

Câu chuyện của ngài nhắc chúng ta nhớ:

Ơn Chúa không nhìn quá khứ, chỉ nhìn trái tim biết trở về.

Nguồn tham khảo chính:

“Donald Calloway”  Wikipedia. (Wikipedia 1)

“Biography”  fathercalloway.com. (fathercalloway.com 11)

Bài viết “Từ kẻ chuyển ma túy cho mafia Nhật, trở thành linh mục”. ([Hội dòng Đaminh Tam Hiệp][6])

Link chính thức để đọc thêm: [https://fathercalloway.com/…/fathercalloway…/biography/)

[1]: https://en.wikipedia.org/wiki/Donald_Calloway… “Donald Calloway”

[2]: https://de.wikipedia.org/wiki/Donald_Calloway… “Donald Calloway”

[3]: https://cgvdt.vn/roi-bo-mafia-nhat-de-tro-thanh-linh-muc… “Rời bỏ mafia Nhật để trở thành linh mục”

[4]: https://www.columbuscatholicwomen.com/an-interview…/… “An Interview with Fr. Donald Calloway, MIC”

[5]: https://www.catholic.com/profile/fr-donald-calloway… “Fr. Donald Calloway | Catholic Answers Profile”

[6]: https://daminhtamhiep.net/…/tu-ke-chuyen-ma-tuy-cho…/… “Từ kẻ chuyển ma túy cho mafia Nhật, trở thành linh mục”

[7]: https://chnetwork.org/…/fr-donald-calloway-m-c…/… “Fr. Donald Calloway, M.I.C.: Kicked Out of Japan as a Teen …”

[8]: https://www.206tours.com/…/fr-donald-calloway-the…/… “Fr. Donald Calloway, The Pilgrimage King!”

[9]: https://www.thedivinemercy.org/…/maybe-youve-seen-him… “Maybe You’ve Seen Him on Film?”

[10]: https://saintpaulseminary.org/…/joyful-catholic…/… “Joyful Catholic Leaders Show: Out of the depths with Fr. …”

[11]: https://fathercalloway.com/biography/?utm_source=chatgpt.com “Biography”


 

Người phụ nữ thầm lặng tên Thu

Kim Dao Lam

 Fb Tri Nguyen Ông Tám

Người phụ nữ thầm lặng tên Thu

Trong những câu chuyện đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, người ta thường nhắc đến những cái tên như Trịnh Bá Phương – người đàn ông kiên cường, dũng cảm đối diện với nhà tù và bạo lực chỉ vì dám lên tiếng cho người dân mất đất, cho những nạn nhân của bất công. Nhưng ít ai nhắc đến người phụ nữ luôn đứng sau lưng anh, lặng lẽ gánh lấy mọi nỗi đau lớn nhất: Thu Đỗ – người vợ, người mẹ, người đồng chí bất khuất.

Thu Đỗ không phải là người thích xuất hiện trước ống kính. Chị không diễn thuyết hùng hồn, không livestream dài dòng. Chị chỉ làm một việc duy nhất, ngày này qua ngày khác: sống sót để giữ lửa cho gia đình, để con cái còn có mẹ, để chồng dù trong tù vẫn còn biết rằng ở ngoài kia có một người phụ nữ nhỏ bé đang thay anh chống lại cả bầu trời sụp đổ.

Khi Trịnh Bá Phương bị bắt lần thứ nhất, rồi lần thứ hai, rồi bị kết án 10 năm tù với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”, rồi lần thứ ba thêm 11 năm chỉ vì một tờ giấy do người khác viết. Người ta thấy Thu Đỗ gầy đi trông thấy. Chị không khóc trước mặt ai. Chị chỉ lặng lẽ đi thăm nuôi, mang theo những gói bánh, chai nước mắm, và những lá thư viết tay mà anh Phương không bao giờ được đọc hết vì cán bộ trại giam giữ lại. Có lần chị kể, trên đường về từ trại giam Nam Hà, chị ngồi trên xe buýt mà nước mắt cứ rơi, nhưng chị lấy tay áo lau thật nhanh vì không muốn hành khách nhìn thấy. “Mình mà khóc thì ai lau nước mắt cho các con?” – chị nói, giọng nhẹ như gió.

Hai đứa con của anh chị, đứa nhỏ nhất còn chưa biết chữ “tù” nghĩa là gì. Thu Đỗ một mình nuôi con, một mình làm thuê, một mình đối mặt với những lần công an đến nhà “làm việc”, bị gọi lên đồn tra hỏi đến khi về được nhà thì trời đã gần sáng . Chị vẫn dậy nấu cơm cho con đi học, vẫn cười thật tươi khi con hỏi: “Mẹ ơi hôm nay mẹ ngủ đủ chưa?”. Không ai biết rằng tối hôm trước chị đã bị dọa dẫm, bị đe dọa sẽ cho cả nhà “đi theo chồng”.

Nhưng Thu Đỗ không bao giờ đầu hàng. Chị học cách livestream như chồng từng làm, giọng run run ban đầu, rồi dần dần đanh thép hơn. Chị kể về những ngày anh Phương bị tra tấn trong tù, về những vết thương không lành rồi lại mới, về những lần anh tuyệt thực đến kiệt sức. Chị nói mà như khóc, nhưng mắt vẫn khô: “Tôi chỉ muốn chồng tôi được chữa bệnh, được đối xử như một con người. Có gì sai đâu mà phải chịu thế này?”.

Có một chi tiết rất nhỏ mà khiến nhiều người rơi nước mắt: Mỗi lần đi thăm nuôi về, chị lại mang theo một chiếc áo anh Phương mặc trong tù để giặt. Chị giặt thật sạch, phơi khô, gấp thật gọn rồi… cất vào tủ, không mặc. Chị bảo: “Để dành, khi nào anh về thì mặc, còn thơm mùi nhà”. Chiếc tủ ấy đã chứa gần chục chiếc áo như thế suốt bốn năm qua.

Thu Đỗ không phải anh hùng theo nghĩa bắn súng hay hô khẩu hiệu. Chị là anh hùng theo cách đau đớn nhất của một người vợ, một người mẹ Việt Nam: dùng chính thân mình để che chắn cho chồng con trước bão tố. Chị không có vũ khí, chỉ có tình yêu và lòng kiên nhẫn ghê gớm của một người phụ nữ tưởng như yếu đuối mà lại mạnh mẽ hơn cả thép.

Hôm nay, khi Trịnh Bá Phương vẫn còn trong song sắt, khi những bản án bất công vẫn treo lơ lửng trên đầu những người dám nói thật, thì ở một góc nhỏ Hà Nội, vẫn có một người phụ nữ tên Thu Đỗ ngày ngày thắp hương thì thầm: “Anh ơi, em và các con vẫn ổn. Anh cứ yên tâm đấu tranh. Em ở đây, chờ anh về… dù phải chờ bao lâu cũng được”.

Và trong lòng những người biết câu chuyện này, đều thầm cầu nguyện: Mong một ngày không xa, người phụ nữ nhỏ bé ấy sẽ được ôm chồng trong vòng tay còn ấm hơi nhà, thay vì chỉ ôm những chiếc áo đã giặt sạch sẽ đang nằm lặng lẽ trong tủ.

Thu Đỗ – cái tên đẹp như một cánh hoa giữa mùa đông lạnh giá. Chị không cần ai phong thánh. Chị chỉ cần chồng được tự do, con cái được bình yên. Thế thôi mà sao khó đến thế.

Nhưng chị vẫn tin. Và vì chị tin, nên chúng ta cũng xin được tin cùng chị: rằng tình yêu và lòng kiên định cuối cùng sẽ thắng cả nhà tù và bất công.

Cảm ơn chị, Thu Đỗ – người vợ Việt Nam đẹp nhất mà chúng tôi từng biết.


 

11 NGƯỜI BẦU VÀ 34 NGƯỜI MẸ ĐƠN THÂN KHÔNG ĐỒNG

Nguyễn Văn Tịch 

 11 NGƯỜI BẦU VÀ 34 NGƯỜI MẸ ĐƠN THÂN KHÔNG ĐỒNG

Nhà Tạm Lánh Mai Tiến không đồng là nơi giúp cho các mẹ bầu và mẹ đơn thân. Đây là Quán Trọ của Giáo hội, giáo phận Xuân Lộc cho những mẹ đang gặp khó khăn đến tá túc lúc bị bỏ lại, lúc khó khăn, lúc bị bạo hành, lúc lang thang… Quán Trọ Mai Tiến luôn đủ chỗ cho các mẹ và các bé, bởi vì tấm lòng của các đức giám mục và của Giáo hội luôn luôn thương xót, thì chỗ ở vẫn còn.

11 mẹ bầu và 34 mẹ đơn thân hiện trong Nhà Tạm Lánh là con số ai nghe cũng hỏi : còn đủ chỗ, đủ phòng cho các mẹ nữa không. Nhà Tạm Lánh Mai Tiến đã dự trù những căn phòng, những bữa cơm, sữa bỉm, nơi chăm sóc trẻ… Tôi chỉ nghĩ đơn giản, mình còn có tấm lòng thì các mẹ và các bé vẫn chỗ ăn ở….

Thật ấm lòng khi thấy các mẹ muốn phá thai, giờ tiếp tục cưu mang con và sinh con. Thật ý nghĩa khi thấy các bé đáng lẽ đã dừng lại ở Nghĩa Trang Thai Nhi giờ vẫn được sống và được yêu thương, được lớn lên. Thật vui khi thấy các mẹ lại đầy sức sống : đi làm, sống tốt hơn, sống trên đôi chân mình và chăm sóc con cái của mình…. Với đủ công việc : rửa chén, bảo mẫu, giáo viên, công nhân, làm việc nhà,… để các mẹ có cuộc sống và nuôi con cái.

Sáng sáng các mẹ gửi con lên nhà trẻ, tung tăng đi làm, chiều về lên nhà trẻ đón con về, chăm sóc con, tối ăn cơm chung, đọc kinh cầu nguyện và nghỉ ngơi ấm áp, riêng tư. Mỗi phòng các mẹ tự sắp xếp và chăm sóc phòng của mình ngăn nắp, sạch sẽ như căn nhà riêng để cuộc sống các mẹ có tư cách, có trách nhiệm và tử tế với mọi người chung quanh. Khi nào các mẹ hoà giải được gia đình, tự lập thì rời Nhà Tạm Lánh Mai Tiến để hội nhập với xã hội.

Các bé được tiêm vaccin theo chương trình của chính phủ cũng rất đầy đủ. Nhà sơ sinh cho các bé dưới 1,5 tuổi, nhà trẻ cho các bé từ 1,5-6 tuổi. Tất cả cũng trong Nhà Tạm Lánh Mai Tiến, thuận tiện. Còn các bé lớp 1 trở lên thì ra trường nhà nước học, hết giờ học về lại Nhà Tạm Lánh.

Xin cám ơn Giáo hội Mẹ đã cho con sứ vụ này, Xin cám ơn tất cả quý vị và các bạn cùng con làm thành Quán Trọ không đồng cho những phận người bị bỏ lại, tha hương và gánh nặng nề đến 4 con. Cầu xin ơn Trên ban sức khoẻ, bình an, lòng thương xót và thánh thiện để chúng ta tiếp tục là Quán Trọ cho các phận người mang gánh nặng nề không phân biệt tôn giáo.

Linh Mục Giuse Nguyễn Văn Tịch, TB BVSS giáo phận Xuân Lộc.


 

CHUYỆN CỦA BA CHÚ KHỈ – Mônica Têrêsa Túy Nga

CHUYỆN CỦA BA CHÚ KHỈ KHÔNG NHÌN KHÔNG NGHE KHÔNG NÓI

Mônica Têrêsa Túy Nga

(Viết với ánh nhìn đời thường) 

  1. Giới thiệu

*Xét về mặt giá trị mỹ thuật thì ba chú khỉ tượng trưng cho ba KHÔNG, làm bằng gốm mỹ nghệ cao cấp được nung bao phủ bên ngoài lớp sơn bóng nổi vân màu xanh cẩm thạch này xứng đáng bị gia chủ nào đó đem vứt bỏ vào ngày 28 Tết vừa qua. Vì nhìn chúng vừa cũ kỹ, vừa lại có chú đã bị gảy mất một bàn chân, có chú bị trầy sờn một bàn tay nữa… Thế mà tôi đã hân hoan đi ôm lượm mang hết về nhà, rửa chùi thật sạch, rồi ân cần đặt bên cạnh gốc cây mai nhỏ ngoài ngõ. Những ngày Mừng Xuân, con cháu rút hết về quê ăn Tết, tôi ở nhà một mình. Ngoài giờ đi tham dự Thánh lễ ở giáo đường và đọc Kinh cầu nguyện tại gia ra, tôi để mặc cho  ba chú khỉ khọt này múa máy làm khuấy động tâm trí tôi! Vì đây là sự “khuấy động” hướng thiện, gợi hứng cho tôi ngồi viết bài này. Rất mong nhận lại được nhiều ý kiến đóng góp, cho các vấn đề được sáng tỏ và hữu ích hơn. 

  1. Hình thức và một thoáng truy cứu về nguồn gốc

 *Cả ba chú khỉ hiện diện trước mặt tôi đều được nghệ nhân cho đổ khuôn theo kiểu ngồi chồm hổm, mỗi chú cao khoảng một tấc rưởi, nhìn kỹ tôi không thấy có chú nào toát nét vui vẻ gì cả. Nhưng chịu khó nhìn cho sâu hơn, toàn bộ cho tôi bắt gặp cái “khí thế ưng chịu” phải là như thế! Cho mọi sự giao thoa được bình yên. Thật thấy mà thương thay!! Và, vì “thương” nên tôi tìm hiểu thêm, được biết:- Ba bức tượng của ba chú khỉ này từ rất lâu nay được thoát thai từ bức tượng thần Vajrakilaya có sáu tay ở Ấn Độ. Mỗi đôi tay của tượng thần Vajrakilaya giơ cao lên để bịt kín đôi mắt, bịt kín miệng, và bịt kín hai tai của mình lại. Hiện nay ở vùng Nikko, cách Tokyo khoảng 140 cây số về  hướng Bắc, trong đền Toshogu hãy còn đó một bức điêu khắc cổ bằng gỗ quí, trong đó có ba chú khỉ nhìn rất sống động, ẩn ý triết lý răn dạy người đời một cách cao siêu, của một nghệ nhân  nổi tiếng vào thế kỷ 17, ông tên là Hidan Jingoro. Và Mizaru, Kikazaru, Lwazaru, là tên của ba chú khỉ đó. Chú khỉ Mizaru bịt mắt, không nhìn. Chú khỉ Kikazaru bịt tai, không nghe. Và chú khỉ Lwazaru, bịt miệng, không nói. Phía sau của ba chữ không nhìn không nghe không nói, chúng ta thấy có hai nguyên âm và hai phụ âm đứng gần nhau kết thành âm đôi zaru. Zaru khi phát âm ra lại giống trài trại với Saru, mà nghĩa của Saru là con khỉ. Thế là từ đó hình ảnh của ba con khỉ thân mến như đã nói bên trên được lên ngôi, làm biểu tượng khuyên răn con người. Con người nên nhìn, khi cần phải nhìn. Con người nên nói, khi cần phải nói. Con người nên nghe, khi cần phải nghe. Cả ba hành xử vừa nêu, ngay trong Năm Thánh này, đem kết hợp chặt chẽ với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, thì không có gì sánh bằng. 

  1. Nhìn – nghe – nói: Ba thú khoái của ma quỷ!

Có lẽ nên thử nghĩ lại mà xem, nếu toàn thể loài người chúng ta ai cũng không nhìn không nghe không nói gì cả thì hẳn thế giới này đã thành một thế giới câm. Đức Chúa Trời của chúng ta chưa hề ban cho chúng ta một thế giới câm như vậy. Ngài luôn muốn đoàn con cháu của Ngài sống đoàn kết yêu thương và vui vẻ hạnh phúc bên nhau. Ngài ban cho loài người đôi mắt  để nhìn vạn vật đẹp xung quanh. Ngài ban cho đôi tai để con người nghe điều hay lẽ phải, nghe được luôn các âm điệu dịu dàng ngọt lịm của thinh không là bầu trời xanh dẫn đưa con người gặp được vị Cha chung hằng ngự trên cõi thiên đàng. Ngài ban cho cái miệng để cho vào bao tử thức ăn thức uống có chọn lựa để nuôi thân, và để đôi môi phát ra êm ái những lời tế nhị ngọt ngào, giúp người xấu trở nên tốt, giúp người tốt càng lúc càng được tốt hơn. Thế nhưng, bất cứ ở nơi đâu càng tập trung nhiều người quyết chí sống đời thánh thiện, thì nơi đó là nơi “hấp dẫn” nhất đối với loài ma quỷ! Ma quỷ sẵn sàng len vào thần trí của con người không có hoặc không vững Đức Tin, để biến con người này trở thành công cụ sắc bén của chúng. Trong các tài liệu bộc bạch về lời Giảng Lễ của Cố Đức Thánh Cha Phanxicô chúng ta, tôi rất tâm đắc câu ngài nói: 

 <<Cái hay cái tuyệt vời của loài ma quỷ là chúng làm cho chúng ta không hề biết chúng chính là ma quỷ>>. 

Từ câu nói thực tế và rất chính xác trên của Cố Đức Thánh Cha Phanxicô, tôi xin phép được suy ra: Người chính là ma quỷ, nhưng rất dễ dàng làm cho người khác lầm tưởng họ là người thánh thiện người chân chính, chính là các Đấng bậc có chức có quyền cao trọng, hay có chức quyền phó cao trọng trong Giáo hội, phân nhỏ xuống Ông Bà Anh Chị làm Trưởng nhóm, phó nhóm, làm thơ ký trong các cộng đoàn, nói riêng và nói chung. Vì vậy, việc quyết tâm không mở cửa tâm linh cho loài ma quỷ nhảy xổm vào, làm chủ và quấy rối bản tâm, là việc làm phải chú ý hàng đầu, không loại trừ bất cứ ai, ngay trong thời điểm mà Ánh sáng và Bóng tối – Thiện lành và Tội lỗi đang tranh giành quyền lợi riêng. 

Còn đối với một người giáo dân bình thường như tôi, ma quỷ sẽ có cách cám dỗ ngọt ngào êm ái khác, nếu hằng ngày tôi sống buông lơi Lời Chúa và không xem các giờ Kinh Phụng Vụ là việc làm rất cần thiết nữa. Và nếu tôi đã là như vậy, thì tôi sẽ để cho đôi mắt tôi, đôi tai tôi, và cái miệng của tôi hoạt động một cách ráo riết, không hề biết mệt mỏi. 

-Đôi mắt tôi: Trừ giờ nằm ngủ, chúng cần mở to, để nhìn bên này, ngó bên kia. Nếu chúng ngó nhìn không rõ, chúng sẽ khiến tôi xê dịch chỗ đứng, cho tầm nhìn được ngắn hơn, để chúng soi rọi bới xới chuyện của người khác. Ai là người biết nhún nhường và thân thiện với tôi, đôi mắt tôi sẽ nhìn họ với ánh nhìn có chút phần thông cảm. Ai là người không cùng phe phái với tôi, chống đối tôi, đôi mắt của tôi sẵn sàng ban cho họ những tia hận thù và chia rẽ. 

-Đôi tai tôi: Vì tôi là tay sai của loài ma quỷ, nên tôi rất ghét nghe lời hay ý đẹp. Trái lại tôi rất khoái nghe các cô bà xúm nhau “tám” chuyện của người khác. Ôi thôi nào là chuyện đánh ghen của xóm trên kéo dài xuống chuyện giựt hụi của xóm dưới…. Nào là chuyện ông cha ở nhà thờ này giảng hay, ông cha ở nhà kia giảng dở ẹc. Nào là dì phước này mặt đẹp như tiên sa, tu sẽ không bền; dì phước nọ nhìn xấu xí, đi tu là phải, chứ ở ngoài đời, ai mà cưới cho. Đại khái, chuyện “tám, tám, tám…” của họ càng hoành tráng, đôi tai của tôi càng khoái nghe.

 -Cái miệng tôi: Phải nhìn nhận rằng thị giác và thính giác của tôi là hai cơ quan truyền thông rất hữu hiệu trong việc đưa các sự kiện lên bộ não tôi, một bộ não vốn hay tưởng tượng và cường điệu ra thêm. Rồi từ bộ não tôi con đường truyền thông này được tuôn ra miệng, buộc tôi phải nói… nói… và nói…. Nói sự thật không đã, tôi bèn thêm mắm dậm muối thêm vô, để chuyện không có gì tôi nói cho thành có, tôi mới thỏa lòng. 

Kết quả: Tôi bị gia đình, xóm giềng, bạn bè …xếp tôi vào hạng người đáng ghê tởm!Cần tránh xa ra! Nếu không sẽ bị họa lây những chuyện không hay do chính tôi gây ra.

 4-Bài học quý giá

Sau khi bị mọi người bỏ rơi, như vừa nói bên trên, tôi giựt mình, nhìn lại chính mình! Và, ngay giờ đây ba chú khỉ tượng trưng cho ba KHÔNG, tên Mizaru, Kikazaru, và Lwazaru chính là ba vị Thầy của tôi. 

– Chú khỉ Mizaru bịt mắt không nhìn, dạy tôi chỉ nhìn khi cần phải nhìn. Mà nếu đã nhìn thì hãy nhìn với ánh mắt của Lòng Chúa Xót Thương, từ đó mọi chuyện dù có xấu cũng được từ từ hóa giải cho thành tốt. 

-Chú khỉ Kikazaru bịt tai không nghe, dạy tôi biết lắng nghe với tinh thần biết trân trọng mọi sự, nhất là biết lấy lương tâm ra mà phân biệt tốt xấu phải trái để:- Hoặc tôi học theo gương sáng, hoặc tôi lấy bước vấp ngã của người khác mà làm kinh nghiệm cho con đường thẳng tiến tốt lành của mình. 

-Chú khỉ Lwazaru bịt miệng không nói, dạy tôi nên nói, khi cần thiết phải nói. Và nếu đã nói thì tôi chỉ nên luôn nói lời khiêm nhường dịu ngọt êm tai để làm vui lòng người khác. Cho dù người đang đứng trước mặt tôi đã từng làm đau lòng tôi. Hy sinh như vậy đâu ăn thua gì đối với Tình Yêu Thiên Chúa hằng ban cho tôi, nhất là trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này. 

  1. Kết bài

“Ra đây lên núi chơi với khỉ

Khỉ nhảy cà tang ta nhảy cà tưng

Nhảy cho đã để quên đời khỉ gió

Mai mạnh giò ta tiếp bước gian truân”.

(Trích thơ của Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca)

Và, theo tôi, không có gian truân nào khốn khổ cho bằng cái gian truân khi ta phải chiến đấu với ý thức hệ của chính bản thân ta. 

Mônica Têrêsa Túy Nga

From:  Ngoc Bich & KimBang Nguyen


 

BẢO ĐẠI – HOÀNG ĐẾ ĐA TÌNH VỀ LÀM RỂ GÒ CÔNG…

Việt Luận – Viet’s Herald

Trần Văn Nhựt

Chuyện tình nào cũng ít được suông sẻ, kể cả nhà vua cũng vậy. Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ.

Gái Gò Công không tự cho mình là đẹp, nhưng tự hào có được Hoàng Hậu Nam Phương. Hoàng Hậu duy nhứt của triều Nguyễn, qua 12 – 13 đời vua, trị vì 153 năm, đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan – (Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan con của Ông Nguyễn Hữu Hào). Người đẹp nhứt thời bấy giờ, bà đã ba năm liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Người đã chiếm trọn trái tim Hoàng Đế Bảo Đại khi mới gặp mặt lần đầu tiên trên chiếc tàu D’Artagnan. Hoàng Đế si tình đến nỗi thà bỏ ngôi vua chớ không chịu bỏ làm rể xứ Gò. Thật vậy, khi bị bà Từ Cung từ chối, Bảo Đại nói nếu không lấy được Thị Lan thì sẽ “ở vậy” suốt đời. Nếu chọn một trong hai, tôi sẽ chọn Thị Lan chớ không chọn ngai vàng. Đó là lời thuật của viên bí thư của Bảo Đại.

Ai ở Gò Công mà không biết Nguyễn Hữu Hào rể của Ông Huyện Sỹ tức Lê Phát Đạt đã xây ba nhà thờ: Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây và Thủ Đức để dâng cúng cho dân địa phương. Dân địa phương thường gọi là nhà thờ Huyện Sỹ.

Cái trở ngại lớn nhứt của Bảo Đại đó là triều đình nhà Nguyễn thì chủ trương chống lại công giáo, chống lại dân Tây mà Tây thì bị xem là kẻ xâm lược nước mình, còn gia tộc của Nguyễn Hữu Thị Lan thì quốc tịch Pháp và nặng nhứt là sùng đạo.

Người Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 20 đã truyền miệng nhau câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường tứ Định”. Nghĩa là người giàu nhứt Nam Kỳ thời đó là gia đình Huyện Sỹ (Tỷ phú), tức ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan.

Nếu so với Hoàng Đế cuối cùng của Trung Hoa – vua Phổ Nghi sau khi bị hạ bệ thì bị đày đi nông trường cải tạo nhiều năm mới được cho về làm công dân Trung Quốc, thì Bảo Đại – người Rể Gò Công nầy may mắn hơn nhiều, diễm phúc hơn nhiều cũng là nhờ bà Hoàng Hậu Nam Phương – Người con gái Gò Công làm nên lịch sử.

Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ. Đầu tiên là việc chống đối của triều đình. Các quan đại thần, ông nào cũng có con gái lớn chạc bằng hoặc nhỏ tuổi hơn cũng đều muốn gả cho Bảo Đại. Đó là truyền thống, đó là danh dự suốt cuộc đời làm quan cho triều đình. Làm Quốc trượng ai ai mà không ham.

Trong đoạn hồi ký “Con Rồng An Nam” ông tâm sự: “M.J Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê.

Vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới cô và cô đã đồng ý nhưng với điều kiện:

– Gia đình cô đồng ý trước đã

– Về phía gia đình cô Mariette Jeanne Lan cũng đồng ý nhưng phải thêm các điều kiện sau:

– Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay ngày cưới.

– Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật công giáo và giữ đạo.

-Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.

-Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép.

Tiếp đó cụ Tôn Thất Nhân nêu lý do: Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được.

Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu.” Câu nói lịch sử mà tất cả triều thần đều trố mắt nhìn nhau chịu thua. Tình yêu là sức mạnh. Tình yêu là trên tất cả.

Cuối cùng thì tình yêu đã thắng. Ngày cưới được ấn định vào ngày 20 tháng 3 năm 1934. Bảo Đại đúng 21 tuổi, và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Bảo Đại chính thức là Rể Gò Công. Ngày mùng 10 tháng 2 (tức tháng 3 năm 1934) lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm.

Bảo Đại chính thức đã có với Nam Phương Hoàng Hậu năm người con: hai trai và ba gái:

Hoàng tử Bảo Long 1936

Công chúa Phương Mai, ngày 1 – 4 năm 1937.

Công chúa Phương Liên, ngày 3 – 11 năm 1938.

Công chúa Phương Dung, ngày 5 – 2 năm 1942.

Hoàng tử Bảo Thắng năm 1948.

Trần Văn Nhựt


 

Cầu nguyện trong thế giới hôm nay – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tôi có nghe bài giảng của linh mục Nguyễn Tầm Thường (Nguyễn Trọng Tước) có nói đến tác dụng của cầu nguyện.

1)Một thí nghiệm khoa học đã chứng minh cầu nguyện có kết quả như sau:

Trong nhà thương chia làm hai nhóm bịnh nhân. Một nhóm bịnh nhân không được cầu nguyện và và một nhóm được cầu nguyện.

Sau một thời gian cầu nguyện, thử máu của nhóm bịnh nhân được cầu nguyện thì hệ thống miễn dịch cao hơn là nhóm bịnh nhân không được cầu nguyện.

Khi gặp những vấn đề nan giải, ta không thể giải quyết được, nếu thực sự cầu nguyện với lòng cậy trông, sự kiên nhẫn, lòng thành kính, tin tưởng vào Thiên Chúa, Chúa sẽ giúp ta sáng suốt để giải quyết những khó khăn.

2)Cầu nguyện là gì? Cầu nguyện là nói chuyện, tâm sự với Chúa như người con tâm sự với cha mình vậy. Cầu nguyện là cảm tạ, thờ lạy Chúa, ăn năn và xin ơn vì “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì cửa sẽ mở cho (Mt 7,7 và Luca 11, 13)

Ơn thánh hoá.

Khi ta cầu nguyện ta dễ thánh hoá cuộc đời chúng ta, ta bớt hoặc tránh được nhiều cạm bẫy xấu như tham lam, danh vọng, tiền bạc,

Ơn yêu thương, bao dung hơn, tha thứ hơn.

Ta dễ có lòng bao dung hơn không nuôi hận thù, ghen ghét ai bởi vì nếu hận thù ghen ghét người khác (nhất là những người thân trong gia đình như anh chị em, bà con thân thuộc hay cha mẹ, con cháu) người bị ảnh hưởng nhiều nhất là chính ta vì làm cho ta buổn rầu, đau khổ, không ngủ được. Nếu tình trạng này xảy ra lâu dài sẽ bị STRESS, sức khỏe sẽ suy giảm sinh ra nhiều thứ bịnh khác… sự bất an về tinh thần đưa đến các  bịnh bao tử, bịnh gan, bịnh tim, bịnh tâm thần hay bịnh ung thư …

Ơn bình an, bình tĩnh, không giận dữ, bớt nổi nóng. Khi ta cầu nguyện với Chúa, tâm hồn ta bình an hơn, vui vẻ hơn.

Cuộc sống tích cực, không bi quan buồn chán.

Gia đình nào cũng có sự xung đột nhưng hoá giải được sự xung đột đó là vấn đề trong tâm hồn của mỗi người trong gia đình. Nếu trong gia đình các con yêu thương nhau thì cha mẹ vui vẻ, bình an, ngược lại, khi con cái bất hoà nhau, cha mẹ không vui mà các thành viên trong gia đình đó cũng không vui. Vậy gia đình nào có sự bất hoà, xung đột nhau thì gia đình đó mất phúc thiên đàng ở đời này rồi.

Gương thánh Monica (331 – 387), mẹ của thánh Augustinô, 

Thánh Monica sinh năm 331 tại Tagaste, Bắc Phi (nay là Souk Ahras, thuộc Algeria). Nhờ nước mắt và sự kiên trì cầu nguyện của người mẹ là thánh Monica…mà Augustinô là một tội nhân trở thành thánh nhân.

Thánh Augustinô được rửa tội lúc 33 tuổi, rồi làm linh mục lúc 36 tuổi, và làm giám mục lúc 41 tuổi.

Những lời cầu nguyện và gương lành của Thánh Monica cũng đã khiến chồng và mẹ chồng trở lại Công giáo (1)

*****

3)Cầu nguyện được xem là giải pháp điều trị thay thế phổ biến nhất ở xã hội Mỹ ngày nay. Có hơn 85% những người phải đương đầu với bệnh nặng đã cầu nguyện, theo một nghiên cứu của Đại học Rochester. 

Tiến sĩ Herbert Benson, một chuyên gia tim mạch tại Trường Y Harvard và một người tiên phong trong lĩnh vực y học tâm – thân, đã phát hiện điều gọi là “phản ứng thư giãn” (response of relaxation) xảy ra trong thời gian cầu nguyện và thiền định. Vào những lúc như vậy, sự trao đổi chất của cơ thể giảm xuống, nhịp tim chậm, huyết áp giảm xuống, và hơi thở của chúng ta trở nên bình ổn và đều đặn hơn.

TS Benson, có hơn một nửa những người đến thăm khám bác sĩ ở Mỹ ngày nay có vấn đề bệnh tật, như trầm cảm, huyết áp cao, viêm loét và đau nửa đầu… phân nửa gây ra bởi căng thẳng và lo lắng.(2)

Ghi chú:

(1)               Nguồn: https://daminhtamhiep.net/2018/08/thanh-monica-va-thanh-augustino/

 Xem thêm: (2)

a)Vì sao những người thường xuyên cầu nguyện có sức khỏe tốt hơn?

https://songhanhphuc.net/tin-tuc/vi-sao-nhung-nguoi-thuong-xuyen-cau-nguyen-co-suc-khoe-tot-hon

  1. b) Cầu nguyện khi cảm thấy dường như vô ích

https://daminhbuichu.net/cau-nguyen-khi-cam-thay-duong-nhu-vo-ich/

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Ngày 17 tháng 02 năm 2025

https://keditim.net/cau-nguyen-trong-the-gioi-hom-nay-tac-gia-phung-van-phung/

Chế độ Hà Nội ra lệnh truy nã, truy tố người bất chấp luật lệ-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 11, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Ngày 28 Tháng Mười 2025, Công an tỉnh Hưng Yên thông báo ban hành “Quyết định truy nã” bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như), người bị khởi tố hình sự theo Điều 117 Bộ luật Hình sự về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước”.

Khoảng hơn một tháng sau, ngày 5 Tháng Mười Hai 2025, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an tiếp tục ra thông báo ban hành “Quyết định truy nã” đối với luật sư Nguyễn Văn Đài và nhà báo Lê Trung Khoa cùng về tội danh theo Điều 117 tương tự.

Luật sư Nguyễn Văn Đài (bên phải) và nhà báo Lê Trung Khoa (bên trái) chụp hình chung với bà luật sư của họ. Hai ông bị CSVN “khởi tố” và “truy nã” rồi sẽ xử án khiếm diện. (Hình: FB Lê Trung Khoa)

Được biết, cả ba người bị truy nã gồm bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như), luật sư Nguyễn Văn Đài và nhà báo Lê Trung Khoa hiện đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Nếu chỉ đọc bản tin, công chúng có thể cho rằng đây là hoạt động tố tụng bình thường. Nhưng khi tham chiếu với Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, đặc biệt tại các điều 229 và 231 quy định về truy nã, thì bức tranh tư pháp hiện ra hoàn toàn khác, đây không phải là thực thi pháp luật, mà là sự bẻ cong pháp luật một cách cố ý vì nhu cầu chính trị của chế độ.

Truy nã, một biện pháp tố tụng

Luật tố tụng hình sự CSVN quy định rất rõ, rằng truy nã chỉ được áp dụng trong phạm vi giới hạn, bao gồm: Khi không xác định được nơi ở của bị can hoặc khi bị can trốn tránh pháp luật, cụ thể như sau:

– Điều 229 quy định: Truy nã chỉ đặt ra trong trường hợp “không biết rõ bị can đang ở đâu” sau khi đã hết thời hạn điều tra.

– Điều 231 tiếp tục khẳng định: Chỉ truy nã khi “bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu”.

Hai điều luật này không hề mơ hồ, không có khoảng trống để có thể “linh hoạt” diễn giải và cũng không có ngoại lệ cho ý chí chính trị. Nôm na, truy nã chỉ hợp pháp khi không biết họ ở đâu hoặc họ đang lẩn trốn.

Trong khi đó, sự thật không thể chối cãi là cả ba người đang bị truy nã, gồm các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài đều “ở đâu” một cách không thể rõ ràng hơn! Cả ba đều đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức, có địa chỉ rõ ràng, có quy chế cư trú. Đồng thời, họ cũng không hề có hành vi lẩn trốn đi đâu cả.

Trong đó, bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như) và luật sư Nguyễn Văn Đài viết bài, đi khắp nơi để diễn thuyết về thực trạng nhân quyền Việt Nam. Nhà báo Lê Trung Khoa vẫn đăng tải hàng ngày thông tin chính trị trong nước trên trang mạng xã hội cá nhân của mình và trên báo mạng Thoibao.de.

Chế độ CSVN biết rất rõ điều này, bằng chứng là trong chính bản cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao truy tố ông Lê Trung Khoa, được trích đăng tải trên truyền thông trong nước, tại mục lý lịch “Nơi ở hiện nay” ghi rất rõ: “Cộng hòa Liên bang Đức”. Cho thấy, chính cơ quan tiến hành tố tụng của chế độ CSVN thừa nhận rằng họ biết rõ nơi cư trú của ông Khoa.

Vậy câu hỏi pháp lý đặt ra không chỉ là: Có quyền truy nã hay không, mà là lấy tư cách gì để truy nã khi điều kiện pháp lý để truy nã không hề tồn tại? Và truy nã, một biện pháp tố tụng, trong trường hợp này, đã bị bẻ cong để biến thành một hành xử chính trị.

Truy nã không đúng luật, dấu hiệu điển hình của lạm quyền tố tụng

Khi cơ quan điều tra cao nhất thuộc về cấp bộ trung ương (Bộ Công an) ban hành lệnh truy nã trong điều kiện không có các yếu tố luật định gồm “không biết rõ nơi ở” và “trốn tránh”, thì hành vi tố tụng đó không thể là sai sót nghiệp vụ thông thường, mà đích thị, đó là sự lạm quyền tố tụng.

Nghiêm trọng hơn, đó là biến một biện pháp tố tụng thành công cụ chính trị, nhằm tạo hiệu ứng tâm lý thông qua truyền thông rằng các cá nhân này là “tội phạm bỏ trốn”, trong khi thực tế họ đang sinh sống công khai, hợp pháp và sinh hoạt bình thường tại một quốc gia khác, chứ không hề trốn tránh luật pháp.

Nói cách khác, đây là một dạng “truy nã chính trị trá hình”.

Vấn đề cốt lõi là tuy ban hành lệnh truy nã hình sự đối với các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài đầy vẻ nghiêm trọng như thế, nhưng lại trở thành trò hề cười cợt cho chính những người bị truy nã mà thôi. Vì lẽ, họ biết rất rõ rằng chế độ Cộng Sản Việt Nam không thể viện dẫn lệnh truy nã để có thể chạm mảy may đến sự tự do của họ được.

Thông thường, sau lệnh truy nã nội địa, thì lệnh ấy được chuyển đến cơ quan Interpol quốc tế để được ban hành lệnh truy nã đỏ. Thế nhưng, một lệnh truy nã đỏ chỉ có thể được ban hành khi sự khởi tố, truy nã nội địa ấy không trái với luật pháp trong nước và tiêu chuẩn pháp quyền quốc tế.

Thế nhưng, với việc khởi tố hình sự các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài bằng điều luật 117 Bộ luật Hình sự Việt Nam, một điều luật vô pháp và mang nặng màu sắc chính trị, thì bản thân sự khởi tố ấy đã không hề phù hợp với tiêu chuẩn pháp quyền quốc tế. Cho nên, việc yêu cầu Interpol ban hành một lệnh truy nã đỏ là hoàn toàn không bao giờ được chấp nhận.

Chưa kể đến việc chế độ ban hành quyết định truy nã trái pháp luật. Vì nếu một quyết định vi phạm chính luật tố tụng của quốc gia ban hành, thì trên bình diện quốc tế, nó không khác gì một văn bản pháp lý bị vô hiệu.

Bà Đặng Thụ Huệ, bút danh Huệ Như đang ở nước Đức cũnh bị chế độ Hà Nội ra lệnh “khởi tố” và “truy nã” vì hoạt động chống chế độ độc tài đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam. (Hình: FB Huệ Như)

Điều này lý giải vì sao trong thực tế, những lệnh truy nã mang màu sắc chính trị như vậy không có giá trị thực thi tại Đức hay tại hầu hết các quốc gia văn minh khác. Không phải vì họ “chống” chế độ CSVN, cũng không phải vì lý do ý thức hệ gì cả, mà đơn giản vì họ không công nhận hành vi lạm dụng tố tụng theo cách mà chế độ trong nước thường hành xử một cách phổ biến.

Hệ quả nguy hiểm về niềm tin pháp quyền

Một quốc gia chỉ có thể yêu cầu công dân tôn trọng pháp luật khi chính cơ quan công quyền hành xử trong khuôn khổ pháp luật. Khi luật tố tụng hình sự quy định rất rõ về các điều kiện truy nã hình sự, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn cố tình bẻ cong theo ý mình, thì thông điệp gửi ra xã hội là gì nếu không phải là sự vô pháp? Nếu không phải vì động cơ chính trị? Trong trường hợp này, niềm tin pháp quyền có là gì khi chính cơ quan công quyền ngang nhiên vi phạm pháp luật?

Đó chính là dấu hiệu điển hình của một nền tư pháp bị chính trị hóa.

Tóm lại, bằng việc ban hành các “Quyết định truy nã” hình sự đối với bà Đặng Thị Huệ, nhà báo Lê Trung Khoa và luật sư Nguyễn Văn Đài, những người bất đồng chính kiến đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức, đã cho thấy tình trạng vô pháp của chế độ CSVN nặng nề như thế nào. Không chỉ đối với đồng bào trong nước, mà nay còn “vươn vòi” ra thế giới để đàn áp đồng bào sinh sống tại hải ngoại.

Theo đó, chế độ đã công nhiên lạm dụng pháp lý, bẻ cong các thủ tục tố tụng, biến chúng trở thành các biện pháp đàn áp nhân dân, phục vụ cho nhu cầu chính trị, củng cố quyền lực chế độ độc tài, phản động vốn đã lỗi thời và tồn tại trong sự oán ghét, xem thường của nhân dân.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 8 Tháng Mười Hai 2025

Đặng Đình Mạnh.


 

ĐỜ ĐẪN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa!”.

“Thiên thần Niềm Tin bước vào lòng tôi; vừa đi, vừa hát, vừa thổi sáo. Những vị khách lần lượt ra đi – Sợ Hãi và Lo Lắng, Đau Buồn và Ảm Đạm lao vào màn đêm! Tôi tự hỏi, làm sao như thế được? Niềm Tin thì thầm, ‘Bạn không thấy sao? Họ thực sự không thể cùng tôi chung sống!’” – Một nhà thơ cổ.

Kính thưa Anh Chị em,

Đoản thơ trên hé mở một điều: khi niềm tin hiện diện, những gì làm tê liệt tâm hồn phải tự rút lui. Lời Chúa hôm nay cũng cho thấy, không chỉ thiên thần, nhưng chính Chúa Giêsu vẫn thường bước vào lòng chúng ta; Ngài vừa đi, vừa hát, vừa thổi sáo. Tiếc thay, như lũ trẻ ngoài chợ, không ít lần chúng ta lại trở nên… “đờ đẫn!”.

Isaia diễn tả ‘nhã nhạc’ Thiên Chúa hát cho dân Ngài, “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi sẽ chan chứa như dòng sông!” – bài đọc một. Nhưng Israel bỏ ngoài tai. Thời Chúa Giêsu, cảnh tượng lặp lại! Ngài cất giọng mà hầu như chẳng ai hưởng ứng; Gioan được cho là “quỷ ám”, Ngài được gọi là “bợm nhậu”. “Chúng ta lại sợ chính thứ ánh sáng mà mình khao khát!” – C.S. Lewis.

Cũng thế với chúng ta. Khi không muốn nghe Chúa, chúng ta tìm đủ cách để khéo từ chối; và với thời gian, lòng ra tê liệt, không còn bén nhạy trước tiếng Ngài. Cần phân biệt trọng tâm sứ điệp với cách thức sứ điệp được chuyển tải. Phaolô nói, “Chúng tôi mang kho tàng ấy trong những bình sành” – chiếc bình không quan trọng bằng kho tàng nó chứa. Chúa vẫn dùng những tác nhân bất toàn để nói; nhiều người mang những yếu đuối đáng kể, thế nhưng không ít vị đã làm thánh vì và nhờ chính những yếu đuối đó. Nếu quá bận tâm đến “chiếc bình”, bạn và tôi sẽ bỏ lỡ “kho tàng!”. “Thiên Chúa không im lặng; chính chúng ta điếc trước Ngài!” – Søren Kierkegaard.

Thánh Vịnh đáp ca khẳng định, “Ai theo Chúa, sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống!”. Nhưng chỉ ai nhận ra bóng tối của mình mới gặp được ánh sáng ấy. “Quay mặt về phía ánh sáng, bạn sẽ không còn thấy bóng tối nữa!” – Helen Keller. Khi nghe một sứ điệp, chúng ta thường sàng lọc phong cách người rao giảng; bởi thế, khi một người chia sẻ Lời Chúa cho 20 người, có thể sinh ra 20 thông điệp khác nhau. Điều đó không sai, miễn là mỗi người thực sự để Chúa soi rọi và không để lòng mình ra chai lỳ.

Anh Chị em,

“Các anh không nhảy múa?”. Có thể bạn và tôi không nhảy múa vì để “sợ hãi, lo lắng, đau buồn, ảm đạm” chiếm chỗ. Đức Phanxicô cảnh báo, “Đó là những con người buồn bã vốn luôn chỉ trích những người rao giảng, vì sợ rằng mình sẽ mở lòng ra trước Thánh Thần. Hãy cầu nguyện để không trở nên buồn bã – những người cướp đi ‘sự tự do của Thánh Thần’ – vốn thường đến qua sự vụng về của người rao giảng. Thật bê bối khi Chúa nói qua những con người tội lỗi, giới hạn; nhưng bê bối hơn, khi Ngài cứu chúng ta qua một người tự nhận mình là Con Thiên Chúa nhưng kết thúc như một tội phạm!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con tê liệt trước tiếng Chúa. Xin cho con nhận ra giai điệu Ngài đang hát cho con mỗi ngày!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***********************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần II Mùa Vọng

Họ không nghe lời ông Gio-an, cũng chẳng nghe Con Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 11,16-19

16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông rằng : “Tôi phải ví thế hệ này với ai ? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, 17 và nói :

‘Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa ;
tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không đấm ngực khóc than.’

18 Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo : ‘Ông ta bị quỷ ám.’ 19 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo : ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.’ Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”