KHÔNG AI TRONG SỐ HỌ ĐÃ HÔ “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM” – (Fb Trần Trung Đạo)

Đặng Minh Tâm

 KHÔNG AI TRONG SỐ HỌ ĐÃ HÔ “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM”

(Fb Trần Trung Đạo)

Ngày 25 tháng 12, 1927 là ngày thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, một tổ chức chính trị quy tụ đông đảo người Việt yêu nước với chủ trương “Làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Độc lập Cộng hòa.”

Hội nghị đại biểu toàn quốc ngày 26 tháng 1, 1930 quyết định cuộc khởi nghĩa cả nước sẽ nổ ra vào đêm 9 rạng ngày 10 tháng 2, 1930. Tuy nhiên, vì gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức và Pháp có thể đã biết ngày nổi dậy, đảng trưởng Nguyễn Thái Học quyết định dời ngày khởi nghĩa sang đến 15 tháng 2, 1930.

Nhiều nơi không nhận được tin nên vẫn bắt đầu vào đêm 9 tháng 2 hay như trường hợp Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Hưng Hóa và Lâm Thao vẫn quyết định tiến hành.

Khi thất bại, Xứ Nhu tức Nguyễn Khắc Nhu tự sát bằng lựu đạn nhưng không chết. Địch băng bó vết thương và khiêng ông về nhà lao Hưng Hóa. Trên đường giải về nhà lao Nguyễn Khắc Nhu nhảy xuống sông tuẫn tiết nhưng cũng được vớt lên. Ngày 11 tháng 12, 1930, vì tay chân bị xích, Nguyễn Khắc Nhu phải tự sát lần nữa bằng cách đập đầu vào tường, ông vỡ đầu và hy sinh vì dân tộc.

Các nơi khác, nói chung cuộc khởi nghĩa thất bại và nhiều lãnh tụ đảng đã hy sinh, tự sát, hàng trăm người bị kết án chung thân và 62 người bị kết án tử hình.

Trong tác phẩm Vụ Án Việt Nam Quốc Dân Đảng 1929-1930 của tác giả Cẩm Đình, xuất bản năm 1950 viết lại khá đầy đủ chi tiết biên bản các buổi xử án của Hội đồng Đề hình Pháp xử các đảng viên VNQDĐ suốt hai năm từ 1929 đến 1930. Những đảng viên VNQDĐ chống án, nhận án, phủ nhận hay công khai nhận trách nhiệm đều được ghi rõ.

Hầu hết trong số lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng thời kỳ thành lập đều còn rất trẻ như Nguyễn Thái Học 28 tuổi, Phó Đức Chính 23 tuổi, Nguyễn Ngọc Sơn 27 tuổi, Nguyễn Thế Nghiệp 24 tuổi, Hoàng Phạm Trân tức Nhượng Tống 22 tuổi, Nguyễn Thị Giang tức Cô Giang 24 tuổi, Nguyễn Thị Bắc tức Cô Bắc mới 22 tuổi, Đoàn Trần Nghiệp tức Ký Con cũng chỉ mới 22 tuổi v.v..

Trong suốt thời gian dài xử án, nhiều trường hợp cảm động nói lên tình yêu nước ngay cả lúc đứng trước vành móng ngựa.

Nguyễn Thái Học tuyên bố: “Tôi nhận cả trách nhiệm trong những cuộc biến động vừa rồi. Chính tôi đã chủ trương cuộc biến động ở Yên Bái, cũng chính tôi đã chủ tọa cuộc hội nghị ở Lạc Đạo. Chỉ có tôi mới là tay chính trong các cuộc biến động.”

Học sinh Trịnh Văn Yên, 16 tuổi, trả lời khẳng khái anh gia nhập VNQDĐ lúc 14 tuổi để “đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa Pháp”.

Đoàn Thị Ái, khi luật sư Mayet biện hộ rằng bà chỉ theo đảng vì tình cảm riêng tư dành cho người yêu vốn đã là đảng viên VNQDĐ, bà đứng lên phủ nhận và cho rằng bà gia nhập đảng chỉ vì “thương nước Việt Nam” chứ không phải vì tình yêu trai gái.

Nhiều người như Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Văn Lân, Nguyễn Tấn Tuất không cho phép các luật sư người Pháp biện hộ giùm.

Tối 16 tháng 6, 1930, chuyến tàu đêm đưa đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí lên Yên Bái để hành hình.

Theo tác giả Hoàng Văn Đào trong tác phẩm “Từ Yên Bái Đến Các Ngục Thất Hỏa-Lò, Côn-Nôn, Guy-An”: “Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn có thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh mục Mechet và Dronet. Máy chém di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách buổi hành quyết là Cai Công. Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5 phút sáng ngày 17.6.1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.”

Tác giả Louis Roubaud in trong cuốn sách Việt Nam, xuất bản 1931, được trích dẫn khá nhiều, viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và những diễn biến tại pháp trường. Ngay ở trang đầu Roubaud đã viết: “Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! 13 lần tôi nghe tiếng hô này trước máy chém ở Yên Bái. 13 người bị kết án tử hình đã lần lượt thét lên như vậy cách đoạn đầu đài hai thước”. Tác giả cũng viết về nhà cách mạng Nguyễn Thái Học: “Anh mỉm miệng cười, cực kỳ bình thản, đưa mắt nhìn đám đông công chúng và cúi đầu chào đồng bào rồi cất giọng đĩnh đạc, trầm hùng mà hô lớn: “Việt Nam vạn tuế”. Cô Giang, vợ chưa cưới của Nguyễn Thái Học, cũng có mặt trong đám đông.”

Vài hôm sau Ngày Tang Yên Báy, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, bức hình mười ba chiếc đầu của các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa bị chém còn phơi trên bãi cỏ được đăng trên báo Pháp. Chiếc đầu được đánh dấu tròn được tờ báo ghi chú “đây là đầu của Nguyễn Thái Học.”

Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bị chém.

Như hai tác giả Louis Roubaud và Hoàng Văn Đào viết, không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”.

Đó cũng là điểm khác biệt chính giữa các đảng cách mạng thật sự chiến đấu vì tự do, độc lập của dân tộc và đảng CSVN.

Với những người yêu nước chân chính, đảng cách mạng chỉ là chiếc ghe để đưa dân tộc Việt Nam qua sông trong khi với Đảng Cộng sản chiếc ghe lại chính là dân tộc.

Hôm nay, sở dĩ đảng CS ca ngợi lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học chỉ vì ông đã hy sinh, tuy nhiên, nếu ông còn sống và tiếp tục lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng trong giai đoạn 1945, số phận của Nguyễn Thái Học cũng giống như Bùi Quang Chiêu, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước bị CS giết mà thôi.

Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”.

Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học mới 28 tuổi.

Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, nhưng dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau.

Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.

Dưới đây là bài thơ của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy viết để tưởng niệm những liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy.

NGÀY TANG YÊN BÁY

(Kính tặng hương hồn những liệt sĩ đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy)

Tác giả: Gs Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Trong bình minh sương lạnh phủ âm thầm.

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt.

Toan lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Gió căm hờn rền rĩ tiếng gào than.

Từ lưng trời, sương trắng rủ màn tang.

Ánh mờ nhạt của bình minh rắc nhẹ

Trên Yên Báy âu sầu và lặng lẽ,

Giữa mấy hàng gươm súng toả hào quang,

Mười ba người liệt sĩ Việt hiên ngang

Thong thả tiến đến trước đài Danh Dự:

Trong quần chúng đứng cúi đầu ủ rũ,

Vài cụ già đầu bạc lệ tràn rơi

Ngất người sau tiếng rú: Ối con ơi!

Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn

Trên khoé mắt đã từng khinh đau đớn

Của những trang anh kiệt sắp lìa đời,

Nhưng chỉ trong giây phút vẻ tươi cười

Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước.

Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước,

Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường,

Éo le thay! muốn phụng sự quê hương

Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến.

Nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến.

Sau cái nhìn chào non nước bi ai,

Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài

Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng.

“Việt Nam muôn năm!” Một đầu rơi rụng,

“Việt Nam muôn năm!” Người kế tiến lên.

Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên

Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc,

Sau Đức Chính, đây là phiên Thái Học,

Anh nghiêng mình trước xác những anh em,

Rồi mĩm cười, Anh ngảnh mặt nhìn xem

Những kẻ đến quan chiêm đoàn liệt sĩ

Để từ biệt những bạn đồng tâm chí.

Tiếng tung hô bổng nổi, vang trời cao,

Nhưng liền theo Anh đã bị xô vào

Chiếc gươm máy giăng tay chào, lặng lẽ.

Đao xuống, đầu rơi, máu đào tung toé.

Người anh hùng nước Việt thôi còn đâu!

Lũ thực dân giám sát đứng nhìn nhau

Như trút sạch hết những đìều lo ngại

Và xoa tay chúng thở dài khoan khoái,

Trong rừng người ứa lệ, Nguyễn Thị Giang

Nén nỗi đau như cắt xé can tràng

Đứng ngơ ngác lặng người bên Hữu Cảnh.

Trong nắng sớm, gió căm hờn quát mạnh

Như thề cùng những tử sĩ anh linh

Vang dội cùng trên đất Việt điêu linh

Những tiếng thét uy hùng vì giống Việt.

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Như tan trong gió mạnh khóc vang rầm

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt

Cố lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Thân anh hùng đã nát dưới ngàn cây

Nhưng tiếng hô còn phảng phất đâu đây,

Mười lăm năm sau ngày sầu Yên Báy,

Toàn thể giống Tiên Rồng cùng đứng dậy,

Cố đuổi loài tham bạo khỏi non sông,

Hơn hai năm đất Việt máu pha hồng

Mà chiến sĩ vẫn một lòng cương quyết

Thề tranh đấu đến khi nào nước Việt

Được hoàn toàn độc lập mới ngừng tay.

Thế là dòng máu vọt dưới trời mây

Một buổi sáng mười lăm năm về trước

Đã vẽ được cảnh anh hùng nguyện ước.

Đưa non sông ra khỏi chốn u trầm

Cả toàn dân nước Việt đến muôn năm

Vẫn ghi tạc trong tâm ngày hôm ấy,

Ngày hôm ấy, ôi! ngày tang Yên Báy!

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Xé nát màn sương lạnh phủ âm thầm,

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt

Đã lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

(Đằng Phương, Hồn Việt, NXB Đuốc Việt, Sài Gòn, 1950)

Những ai đã chết vì sông núi

Sẽ sống muôn đời với núi sông.

(Trần Trung Đạo)

Trần Trung Đạo

Ảnh pháp trường Yên Báy 17 tháng 6 năm 1930

(Ảnh sưu tầm)


 

KHÁM PHÁ CỦA EMMANUEL – Lm. Mark Link, S.J.

 Lm. Mark Link, S.J.

Chủ đề: Giáng sinh chính là việc Thiên Chúa ngỏ lời với con người: “Ta yêu các con tới độ đã ban cho các con chính Con độc nhất của Ta.  Các con cũng hãy yêu thương nhau như chính Ta đã yêu thương các con”

Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel.  Chú ta luôn luôn tò mò thắc mắc.  Ngày nọ chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”  Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Thú thực là thầy không biết.”

Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng nhưng họ cũng chẳng biết.  Thế là chú ta càng lúc càng tò mò thắc mắc hơn, chú dạo quanh khắp vùng dọ hỏi các bậc thức giả ở những làng khác: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”  Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.  Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết điều ấy.  Vì thế chú lên đường đến những quốc gia và cả những đại lục khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. 

Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, Emmanuel đến được một ngôi làng nọ, tên là Belem.  Chú cố tìm chỗ nghỉ đêm trong các quán trọ, nhưng tất cả các quán đều đã đầy người.  Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài thành để trú đêm.  Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang.  Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra chiếc hang đá có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ.  Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con.” 

Chú bé quá sửng sốt làm sao bà này biết tên chú?  Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đã tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào.  Giờ đây hành trình của con kể như đã đến đích, đêm nay chính mắt con sẽ thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào.  Người nói bằng ngôn ngữ của tình yêu.  Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi ban cho thế gian Con Một của Người” (Ga 3: 16). 

Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quì gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ bật khóc.  Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất kỳ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. 

Và thế là Emmanuel ở đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và Thánh Giuse.  Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người “Tin Mừng” về thứ ngôn ngữ Chúa dùng, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu.  Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu.  Bởi vì đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được” và kể từ ngày đó trở đi, Emmanuel bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Thiên Chúa tức là ngôn ngữ của tình yêu. 

Điều Emmanuel khám phá ra quả thật thú vị khi anh chị em nói với mọi người bằng thứ tiếng của tình yêu, thì họ cũng sẽ nói lại với anh chị em bằng thứ tiếng của tình yêu.  Thế rồi, họ bỗng nhiên khám phá ra rằng nói bằng thứ tiếng ấy hay hơn biết bao nhiêu: và một khi họ đã khám phá ra điều ấy, họ sẽ không bao giờ trở lại nói thứ tiếng xưa kia của họ nữa.  Vậy thì khi Emmanuel lên đường trở về nhà, chúng ta có thể noi theo bước chú, bởi vì chú đã để lại đàng sau chú một chuỗi phố phường làng mạc, nơi đó người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu.

 Về sau, khi có người kể lại cho Emmanuel những điều đã xảy đến trong các phố xá làng mạc nơi chú đã đi qua, thì chú lại khám phá ra một điều kỳ diệu thứ hai đó là khi trao ban cho thế gian Con Một của Người, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. 

Người biết rằng một khi người ta bắt đầu nói ngôn ngữ ấy, họ sẽ không còn trở lại nói thứ ngôn ngữ xưa kia của họ nữa.  Người còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi.  Mọi quốc gia sẽ chia sẻ mọi nguồn lợi, và tài năng cho nhau, mọi chủng tộc sẽ đối xử với nhau bằng lòng tôn kính, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ bắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. 

Lúc đó, lời hứa của Người qua miệng ngôn sứ Isaia sẽ thực sự được thể hiện: “Gốc Jesse nẩy sinh một chồi và từ rễ ấy một nụ bông hé nở.  Thần Trí Chúa sẽ ngự xuống trên Người: Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu.  Bấy giờ sói sẽ là khách của chiên, báo sẽ nằm chung với trẻ nít, bò cái và gấu sẽ là láng giềng với nhau, lũ con của chúng sẽ nghỉ ngơi bên nhau; sư tử sẽ ăn cỏ giống như bò đực và trẻ nít sẽ vui đùa bên hang rắn độc…. sẽ không còn tai họa hay hoang tàn trên núi thánh của Ta, bởi vì mặt đất sẽ ngập tràn sự hiểu biết về Chúa khác nào nước phủ khắp đại dương” (Is 11: 1-2, 6-9) 

Lạy Chúa, xin giúp tất cả chúng con đang hiện diện nơi đây khám phá ra điều mà chú bé Emmanuel đã tìm thấy.  Xin giúp chúng con khám phá ra ngôn ngữ của tình yêu và biết dạy cho tha nhân thứ ngôn ngữ này.  Xin cho chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà mọi dân tộc đều biết chia xẻ cho nhau, mọi chủng tộc đều biết tương trợ lẫn nhau, mọi gia đình biết yêu mến nhau và mọi người đều biết thắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. 

Xin giúp chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà “hoà bình thực sự ngự trị trên trái đất” và “thiện chí” lan tỏa đến mọi người. 

Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Bà đang chết dần vì căn bệnh ung thư đã di căn vào xương – nhưng những tập đoàn hóa chất đang tìm cách hủy hoại danh tiếng của bà không hề hay biết điều đó. Và bà đã sắp xếp để họ không bao giờ được biết.

Vào những năm 1950 tại Mỹ, người ta tôn sùng một loại “thuốc tiên” gọi là DDT. Loại thuốc trừ sâu này được hứa hẹn sẽ chấm dứt nạn đói và diệt trừ bệnh tật. Người ta phun nó ở khắp nơi: trên đồng ruộng, trong công viên nơi trẻ em chơi đùa. Các quảng cáo hô hào: “Sống tốt hơn nhờ hóa chất”.

Nhưng Rachel Carson, một nhà sinh vật học biển, đã nhận ra một điều mà các quảng cáo không hề nhắc tới: Lũ chim đang biến mất.

Cuộc chiến chống lại những “gã khổng lồ”

Rachel không phải là một nhà hoạt động chính trị. Bà là một nhà khoa học điềm tĩnh, yêu đại dương. Nhưng khi thấy những đàn chim chết hàng loạt, cá biến mất khỏi dòng sông và những người nông dân đổ bệnh kỳ lạ, bà biết mình không thể im lặng.

Bà phát hiện ra sự thật kinh hoàng: DDT không hề tự phân hủy. Nó tích tụ và ngấm sâu vào chuỗi thức ăn, gây ung thư, hủy hoại gen và làm sụp đổ cả hệ sinh thái.

Suốt 4 năm, bà dồn hết tâm sức viết cuốn sách “Mùa xuân vắng lặng” (Silent Spring). Cái tên đầy ám ảnh: Một mùa xuân mà không còn tiếng chim hót, vì lũ chim đã chết sạch.

Bí mật đau đớn

Năm 1960, khi đang viết dở cuốn sách, Rachel phát hiện mình bị ung thư vú thể ác tính. Bà phải phẫu thuật, rồi xạ trị. Căn bệnh di căn vào hạch rồi vào xương. Những đợt điều trị khiến bà kiệt sức, buồn nôn, nhiều lúc không thể cầm nổi bút.

Nhưng bà không nói cho ai biết.

Bà hiểu rằng nếu các tập đoàn hóa chất biết bà đang bị ung thư, họ sẽ dùng nó để tấn công bà. Họ sẽ nói bà là kẻ “hysteria”, là người đàn bà bệnh tật nên suy nghĩ không tỉnh táo, rằng nghiên cứu của bà chỉ là sự sợ hãi vô căn cứ của một kẻ sắp chết.

Thế là, trong khi âm thầm chiến đấu giành giật sự sống trong phòng bệnh, bà vẫn xuất hiện đầy bản lĩnh trước công chúng để chiến đấu cho sự sống của chim chóc, cá tôm và con người.

Chiến thắng của sự thật

Cuốn sách xuất bản năm 1962 đã gây ra một cơn địa chấn. Các đại gia ngành hóa chất như Monsanto, DuPont tuyên chiến với bà. Họ đổ hàng triệu đô la vào truyền thông để bôi nhọ bà là “kẻ cổ hủ muốn đưa thế giới về thời kỳ tăm tối”.

Rachel vẫn đứng vững. Bà xuất hiện trên truyền hình, điềm tĩnh và đầy sức thuyết phục. Bà ra điều trần trước Quốc hội Mỹ. Dưới tác động từ cuốn sách của bà, Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều tra. Dư luận bắt đầu thức tỉnh và đặt câu hỏi: Chúng ta đang phun cái gì lên thức ăn của mình thế này?

Di sản còn mãi

Rachel Carson qua đời năm 1964, ở tuổi 56, chỉ hai năm sau khi cuốn sách ra đời. Bà không sống đủ lâu để thấy DDT bị cấm chính thức hay sự ra đời của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).

Nhưng nhờ có bà, những con đại bàng đầu hói đã được cứu khỏi bờ vực tuyệt chủng. Nhờ có bà, phong trào bảo vệ môi trường hiện đại mới thực sự bắt đầu. Mỗi khi chúng ta nói về thực phẩm sạch hay bảo vệ thiên nhiên, Rachel Carson vẫn luôn ở đó.

Bà có thể dành những năm cuối đời để nghỉ ngơi trong yên bình. Nhưng bà đã chọn đối đầu với những thế lực quyền lực nhất hành tinh, dù biết mình sẽ bị tấn công tàn nhẫn, chỉ vì bà tin rằng: “Ai đó phải nói ra sự thật.”

Và bà đã nói, cho đến hơi thở cuối cùng. Nhờ giọng nói ấy, mùa xuân của chúng ta vẫn còn tiếng chim ca.

Vầng Sáng Lịch Sử

#anhchiquandiemcanhan


 

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Xuyên Sơn

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Câu hỏi như sau:

Trên đời này có tồn tại công bằng hay không?

Câu trả lời là:

Có. Đó là Thời Gian.

Tất cả mọi người đều có 24 tiếng/ngày.

Và đó là sự công bằng.

Vì vậy:

– Nếu mình nghèo, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để làm giàu

– Nếu mình kém, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để học hỏi

– Nếu mình ốm, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để xây dựng sức khoẻ

– Và nếu mình cho rằng thế giới này chẳng có gì công bằng, thì mình có 24 tiếng để cảm nhận sự công bằng của cuộc sống.

Chúng ta đều có 24 tiếng, nhưng có người lựa chọn ngủ nướng, có người lựa chọn làm việc, có người lựa chọn suy nghĩ tích cực, có người lại lựa chọn những suy nghĩ tiêu cực, có người lựa chọn can đảm làm việc khó, có người lựa chọn sự sợ hãi không dám làm…

và có lẽ nào chúng ta đã nhầm?

Cuộc sống rất công bằng, nhưng LỰA CHỌN của mỗi người mới chính là điều không công bằng.

Hãy lựa chọn cho đúng!

____________

(Nguồn:Sưu tầm/TOP Ebook Free)


 

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Trịnh Mạnh Dũng

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Từ Đức Minh

– Chúng dụ dỗ 24.000 du học sinh, con cái Đảng viên, nhà giàu Việt Nam sang Mỹ học tập.

– Chúng tiếp nhận cả tỷ USD của các đồng chí lãnh đạo Đảng viên chuyển tiền bạc tham ô sang mua nhà cửa để kiếm thẻ xanh ở Mỹ.

– Chúng xúi giục, kích động các con cháu Đảng viên bỏ Việt Nam sang Mỹ định cư.

Ví dụ như:

con gái Nguyễn Tấn Dũng,

con trai thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trương Tấn Sang,

con tướng Trung,

con bộ trưởng Kim Tiến…

– Chúng cung cấp gần 50 triệu đô-la nhằm hỗ trợ Việt Nam rà phá huỷ bom mìn chưa nổ.

– Chúng đã đền cho Việt Nam hơn 46 triệu đô-la nhằm hỗ trợ cho công dân Việt Nam khuyết tật, nhiễm chất độc dioxin.

– Chúng lập ra tổ chức USAID cung cấp 12 triệu đô la hỗ trợ cho Việt Nam phòng hạn hán và xâm nhập mặn hàng trăm nghìn hộ gia đình các tỉnh phía nam.

– Chúng cho Việt Nam 9,5 triệu USD để ứng phó với dịch COVID-19,

trong đó bao gồm 5 triệu USD cho quỹ hỗ trợ kinh tế.

– Chúng cho bác sĩ, dụng cụ thuốc men vào Việt Nam chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.

– Chúng thay Đảng Cộng Sản Việt Nam lên tiếng phản đối Trung Cộng giết hại ngư dân Việt Nam trên Biển Đông.

Từ Đức Minh

Xuyên Sơn


 

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Trần Tố Ngọc

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Lù Trọng Thắng

Bên Tàu có câu chuyện dân gian đại khái rằng, hôm ấy Diêm Vương xét duyệt cho hai người phụ nữ đầu thai lên thế gian. Người thứ nhất, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây nhà ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm nghề bán thân.

– Bán thân là gì ?

– Dạ… là làm… đĩ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

-Tội nghiệp, thôi ta cho ngươi đầu thai lên làm con gái nhà giàu.

Đến người phụ nữ thứ hai, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm đầy tớ của nhân dân ạ.

– Nghĩa là sao ?

– Dạ, là quan chức nhà nước đấy ạ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

– Ta cho ngươi đầu thai lên làm con trâu.

Người phụ nữ hốt hoảng:

– Tâu Diêm Vương sao kỳ vậy ? Con làm quan là phục vụ nhân dân, là có công lao sao lại bắt con đầu thai lên làm trâu. Trong khi chị kia làm đĩ thì lại cho chỉ đầu thai lên làm con nhà giàu.

– Ngươi bình tĩnh nghe ta giải thích. Ta hỏi là hỏi vậy thôi chớ hồ sơ các ngươi đã có đầy đủ đây nầy: Cô kia tuy làm đĩ xấu xa nhưng đó là bước đường cùng, cổ kiếm được đồng tiền phải chịu đắng cay tủi nhục. Nên ta cho cổ cơ hội để bù đắp. Còn nhà ngươi, ngươi đã nhiều lần bán thân cho quan cấp trên để được thăng chức, tội nầy đáng lý phải cưa hai nấu dầu. Nhưng đến khi có quyền cao chức trọng, ngươi lại vơ vét công quỹ, ăn hối lộ để làm giàu nên ta phạt ngươi đầu thai lên làm trâu để kéo cày suốt đời trả món nợ kia, và khi về già ngươi sẽ bị xẻ thịt lột da để đền cái tội bán dâm đổi chức…

Nghe Diêm Vương phán xong, chị ta ôm mặt khóc nức nở:

– Trời ơi, cả đời làm quan lại không bằng con đĩ nè trời!

Tố Ngọc Trần Sưu tầm


 

ĐI TỪ ĐÂU? – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta!”.

“Thiên Chúa không gọi con người đến một công việc; Ngài gọi họ đến với chính Ngài – và đó chính là sứ vụ!” – Von Balthasar.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay âm thầm đặt cho chúng ta một câu hỏi căn bản về đời sống đức tin, đời sống ơn gọi của mỗi người – nó ‘đi từ đâu?’.

 

Tin Mừng chỉ kể lại việc Gioan được sinh ra, được đặt tên và được ghi dấu căn tính thuộc về Giao Ước trong nghi thức cắt bì. Trước khi có bất cứ hành động nào, đời Gioan đã được đặt trong một mối tương quan mà chính Thiên Chúa khởi xướng và gìn giữ. Ơn gọi không khởi đi từ công việc, nhưng từ việc một người được gọi vào trong tương quan với Đấng kêu gọi. Chính sự thuộc về ấy âm thầm định hình con người Gioan, trước khi Gioan có thể ra mắt làm vị tiền hô cho Đấng Cứu Thế. “Hãy ở lại trong ơn gọi nơi bạn được gọi, và công việc của bạn sẽ thiêng liêng như sứ vụ!” – A. W. Tozer.

Lịch sử cứu độ cho thấy một quy luật quen thuộc. Cần một tổ phụ cho một dân mới, Chúa chọn Abraham, một người do dự và sợ hãi. Cần một người dẫn dân đi qua sa mạc, Ngài chọn Môsê, một người cà lăm và luôn ngần ngại. Cần một vị vua chăn dắt dân, Ngài chọn Đavít, một người đầy đam mê và vấp ngã. Cần một nền tảng cho Hội Thánh, Ngài chọn Phêrô, một người bộp chộp chối Thầy. Và khi cần một người dọn đường, Ngài chọn Gioan, đứa con sinh ra từ sự son sẻ của đôi bạn già. Không ai trong họ bắt đầu từ sự hoàn hảo, nhưng tất cả đều bắt đầu từ một mối tương quan được Thiên Chúa thiết lập. “Một người biết mình đã tìm thấy ơn gọi khi người ấy ngừng nghĩ về cách sống – giới hạn, yếu hèn của mình – và bắt đầu sống!” – Thomas Merton.

Thánh Ephrem, từ thế kỷ thứ tư, giúp chúng ta nhận ra điểm khởi đầu ấy qua hình ảnh hai người mẹ và hai người con. Elisabeth, phụ nữ đứng tuổi, sinh vị ngôn sứ cuối cùng; Maria, trinh nữ trẻ trung, sinh Chúa các thiên thần. Hai khởi điểm khác nhau, nhưng cùng trả lời cho một câu hỏi duy nhất: ‘đi từ đâu’ để Thiên Chúa có thể đến với nhân loại? Không từ sức trẻ hay tuổi tác, nhưng từ những cung lòng biết mở ra cho Ngài.

Anh Chị em,

“Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta!” – bài đọc một. Lời ấy vẫn vang vọng hôm nay. Mỗi chúng ta, trong từng hoàn cảnh, được mời gọi đặt lại câu hỏi “Tôi đã ‘đi từ đâu’ cho đời mình?”. Nếu đi từ việc làm hay thành công, chúng ta dễ mệt mỏi; đi từ thành công, chúng ta dễ tự mãn; nhưng nếu khởi đi từ một mối tương quan được gìn giữ mỗi ngày, thì không chỉ đến thời của Thiên Chúa – mà ngay lúc này và ở đây – chính đời sống chúng ta, dù âm thầm hay được biết đến, sẽ trở thành con đường để Ngài đi qua. “Những nhà lãnh đạo tương lai sẽ là những người dám nhận sự không quan trọng của mình trong thế giới đương thời như một ơn gọi thiêng liêng!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin dạy con biết khởi đi từ Chúa trong mọi sự, để hôm nay và đến thời của Ngài, đời con trở nên con đường cho Chúa đến với người khác!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***************************

Lời Chúa Ngày 23/12, Thứ Ba Tuần IV Mùa Vọng

Ông Gio-an Tẩy Giả chào đời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,57-66

57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe biết Chúa đã rộng lòng thương xót bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.

59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói : “Không được ! Phải đặt tên cháu là Gio-an.” 61 Họ bảo bà : “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết : “Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi : “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây ?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.


 

CHU TỬ: NHÀ VĂN, NHÀ BÁO, NHÀ GIÁO, NGƯỜI VƯỢT BIÊN ĐẦU TIÊN, LÀM MỒI CHO CÁ       

Việt Luận – Viet’s Herald                 

Hồ Nam

Mười mấy tuổi đã theo Phó đức Chính tham gia khởi nghĩa Yên bái, đi đánh đồn Tây thắng lợi – khi trở về, buồn ngủ quá, lăn ra bãi cát ven sông Hồng làm một giấc, nên không bị máy chém [hành hình] ở Yên bái, cùng Nguyễn thái Học, Phó đức Chính…, những chiến sĩ Việt nam quốc dân đảng tiền phong.

Chu văn Bình không bị lên máy chém vào 1930, nên đã thi đậu vào Trường đại học Luật Đông dương ở Hà nội.  Chu văn Bình được thượng thư bô Hình Nam triều, Bùi bằng Đoàn (cha đại tá Bùi Tín) đưa vào Huế, làm phụ tá cho thượng thư, mặc áo gấm, đeo thẻ bài ngà, và, trở thành một ông quan Nam triều trẻ nhất thời ấy. Sau này, khi nhắc chuyện làm quan trong triều đình Huế, Chu văn Bình tủm tỉm cười, nói với tôi, “anh từng tham gia khởi nghĩa Yên bái, mà lại đeo thẻ bài ngà, cưới vợ là hoa khôi tỉnh Nam định.”Thật mỉa mai quá, nhưng đời còn nhiều chuyện mỉa mai hơn nữa. Sau ngày đảo chính, 9-3-[1945], Nhật đảo chính Pháp- Việt nam quốc dân đảng muốn Chu văn Bình làm chánh sở Liêm phong Thanh hóa (chánh mật thám Thanh hóa), Chu văn Bình đã nhận làm, và, trong thời kháng chiến chống Pháp, Chu văn Bình được tướng Bằng Giang trao cho chức chánh án Tòa án quân sự quân khu 3. Chu văn Bình vẫn chấp nhận giữ nhiệm vụ này…

Sau 1954, khi đất nước chia 2, Chu văn Bình theo nhà cách mạng Nguyễn thế Truyền lên tòa Thánh [Cao Đài] ở Tây Ninh, gặp đức Hộ pháp Phạm công Tắc. Đức Hộ pháp Cao Đài tòa thánh Tây ninh nghe Chu văn Bình nói chuyện thời thế, đã ra thánh lệnh phong Chu văn Bình cấp bậc đại tá [trong lực lượng] quân đội Cao Đài, Con đường hoạn lộ của Chu văn Bình, còn thênh thang hơn nữa, khi luật sư Lê ngọc Chấn được thủ tướng Ngô đình Diệm [cử] làm bộ trưởng quốc phòng, đã đến thỉnh Chu văn Bình về làm đổng lý văn phòng – nhưng Chu văn Bình cười khẩy, trả lời luật sư Lê ngọc Chấn, ” hồi học luật cậu thường ‘cóp’ bài của tớ, sao tớ có thể làm ‘lại’ cho cậu được nhỉ…? “Có lẽ, vì chuyện này, mà ít lâu sau Chu văn Bình bị vu cho là ‘trùm băng ăn trộm xe hơi’, rồi tống giam vào khám Chí hoà. Khi ra tòa Chu văn Bình tự bào chữa hay, đến nỗi quan tòa phải tha bổng, Chu văn Bình được trắng án.

Sau vụ bị bắt giam đưa vào khám Chí hòa, ra tòa được trả tự do, Chu văn Bình quyết định không thèm bon chen danh lợi nữa, mà, nhận làm hiệu trưởng trường Trung học Thăng Long của Nguyễn đăng Viên (anh ruột nhà văn Mai Thảo/Nguyễn đăng Quý) và trở lại nghề viết văn, làm báo. Chu Tử phụ trách mục ‘Ao thả vịt’ [dưới bút danh Kha Trấn Ác], và viết tiểu thuyết đăng báo hàng ngày.

Ngay cuốn tiểu thuyết đầu tay đăng báo hàng ngày, với tựa đề YÊU, đăng trên tờ nhật báo Dân việt, đã làm xôn xao dư luận, báo tăng người đọc vùn vụt, trong văn giới sửng sốt, vì, Chu Tử viết hay quá, lạ quá, táo bạo quá, thời đại quá. Rồi Chu Tử cho ra đời bộ tiểu thuyết trường giang khác: SỐNG. Khi tiểu thuyết Sống mới đăng báo, văn giới đã coi như một hiện tượng văn học rồi

Chế độ Ngô đình Diệm bị lật đổ, Chu Tử dành hết thời giờ viết báo, chửi đông, chửi tây, quốc gia, cộng sản- những ai ‘láo toét’ là Chu Tử phang, [bất kể là]  sư, cha cố, ông tướng này, bà tướng kia, chửi cả Mỹ. Chu Tử đều đụng mặt hết, Chu Tử còn đưa lên mặt báo câu xã hội bậc thang xã hội thời đó: ‘nhất đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng’. Tờ nhật báo Sống của Chu Tử bán chạy như tôm tươi, nhưng, chẳng được bao lâu báo bị đóng cửa. Chu Tử liền đi thuê ‘măng-xết’ [manchette], tiếp tục làm báo nữa, không ngán gì cả. 

Những nhân vật điển hình của thời đại, bị Chu Tử hỏi thăm sức khỏe – bực lắm, mấy anh quốc gia láo lếu, bị Chu Tử gọi là ‘trí thức chồn lùi’ (nói lái), tuy vậy họ cũng còn nhất điểm lương tri, không phản ứng mạnh với Chu Tử. Tuy nhiên, Chu Tử vạch mặt ‘mấy tên… nằm vùng’, xưng nhận mình là ‘bảo vệ văn hóa dân tộc’; bị gọi là ‘lũ củ đậu’ (nói lái) (…) Chu Tử chỉ bị bắn vỡ miệng, gãy mấy cái răng, nói năng hơi ngọng nghịu, phải vào nhà thương nằm ít ngày, rồi về nhà lại viết báo chửi dữ hơn trước khi bị bắn. (…) Nhưng tới sáng ngày 30-4-75, thấy tình thế hết phương cứu chữa, Chu Tử đành bảo con rể là họa sĩ Đằng Giao lái xe chở ra Kho 5 bên Khánh hội, tìm tàu vượt biên. Chu Tử và cậu con trai lớn có được một chỗ dưới hầm, bởi ngộp quá, khi tàu đến Rừng Sát, Chu Tử leo lên boong hóng gió, thì giữa lúc đó một trái B40 của đặc công phóng lên boong tàu. Chu Tử bị miểng đạn, máu ra nhiều quá, khi tàu tới hải phận quốc tế, Chu Tử trút hơi thở cuối cùng, xác thân ném xuống biển Thái bình dương. Và, Chu Tử coi như người đầu tiên được thủy táng khi đi tìm tự do. Ông là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ ông rời xa Ðất Nước.

Hồ Nam.


 

 TÌNH ĐẦU, TÌNH CUỐI – Truyện ngắn HAY

 TÌNH ĐẦU, TÌNH CUỐI 

Ông Hải, tay cầm ly cà phê, tay cầm cuốn sách, đang lúng túng định dùng vai đẩycánh cửa kính của cái cafeteria, nơi bán thức ăn làm sẵn của nhà dưỡng lão Yee Hong, thì ở đàng sau, đã có một bàn tay nhanh nhẹn mở dùm. Ông Hải bước vào và lúng búng nói với người đàn ông đi sau:

 -Thank you!

Rồi ông Hải tiến về cái bàn quen thuộc ở góc phòng. Ông đặt ly cà phê vừa mua ở tiệm Tim Horton xuống bàn, vươn vai nhìn đồng hồ:

 – Gần mười giờ!

Ông mở nắp ly cà phê, nhấp một ngụm rồi lật cuốn sách đọc sơ qua vài hàng.

 Vừa lúc đó, có tiếng bánh xe lăn trên sàn gạch , ông Hải ngửng lên cất tiếng chào:

-Chào bà Loan! Good morning Tina!

 Tina, là tên của cô y tá đang đẩy chiếc xe lăn đến bàn, để xe vào chỗ đối diện chỗ ngồi của ông Hải, cũng cất tiếng chào lại bằng tiếng Anh:

– Chào ông Hải! Hôm nay ông có khỏe không?

 – Tôi khỏe, cám ơn cô!

 -Tôi để bà Loan lại cho ông nhé!

 -Vâng, cô cứ yên tâm!

 Nói xong, cô y tá   khẽ vỗ vai người đàn bà đang ngồi trên xe lăn, rồi quay gót ra ngoài. Ông Hải vui vẻ bảo người ngồi trên xe lăn:

 -Trời hôm nay đẹp quá. Bà hãy nhìn ra ngoài sân kìa!

Người đàn bà đứng tuổi, hấp háy đôi mắt sau làn kính cận, đưa mắt nhìn ra ngoài. Thời tiết ở thành phố Mississauga vào những ngày cuối xuân thật đẹp. Nắng vàng trải dài trên những thảm cỏ xanh lì , nằm bên cạnh một khu vườn hoa đầy mầu sắc ở gần cổng ra vào. Ông Hải kéo chiếc khăn phủ đôi chân của bà Loan lại cho ngay ngắn rồi thân mật hỏi:

-Hôm qua bà có ngủ ngon giấc không?

 -Cám ơn ông, tôi ngủ say li bì, chẳng nhớ giờ giấc gì cả..

 Ngừng một chút, bà Loan hỏi:

 -Hôm nay ông đọc câu chuyện đến đoạn nào rồi nhỉ?

 -Phần hai người sắp gặp lại nhau, khi Loan ở dưới Saigon trở lại Đà Lạt để tìm lại Hải..

Bà Loan gật gù:

 -Mà câu chuyện cũng hay nhỉ? Nhân vật chính lại trùng với tên tôi và tên ông..

 -Đúng vậy và đây là một chuyện tình hết sức cảm động..

Vừa lúc đó, có tiếng trẻ con ở bên cạnh. Hai đứa trẻ một trai, một gái chạy đến ôm chầm lấy ông Hải và sau đó quay sang ôm bà Loan. Bà Loan vui vẻ nói:

 -Ồ các cháu của ông hôm nay lại đến thăm tôi..

 Bà Loan ngước nhìn người đàn ông vừa đến đứng cạnh ông Hải:

 -Anh Tùng cũng đến thăm tôi nữa này.

 Người đàn ông, tiến lại ôm lấy vai bà Loan:

 -Chào bác! Bác hôm nay có khỏe không?

 -À, hôm nay thì tôi khỏe lắm.

Tùng quay sang nói nhỏ vào tai ông Hải, trong khi hai đứa trẻ đang đưa cho bà Loan coi những vật dụng đủ mầu sắc trong một chiếc giỏ mà hai đứa đã mang đến:

-Má hôm nay có sao không hả ba?

 Ông Hải cũng nhỏ giọng:

 -Hôm nay má mầy có vẻ tươi tỉnh lắm. Hôm nay con không phải đi làm sao?

 -Dạ, hôm nay con nghỉ, đưa hai đứa nhỏ vào thăm bà nội và chút nữa thì phải đưa hai đứa nó đi nha sĩ..

                 *****

 Bà Loan chính thật là vợ ông Hải, mẹ của Tùng ,là bà nội của hai đứa bé Jason và Tracy, con của Tùng. Định cư ở Canada từ năm 1975, gia đình ông Hải đã có một thời gian sống thật hạnh phúc,rồi chẳng may bà Loan lại bị căn bệnh hiểm nghèo là bệnh Quên(Alzheimer’s). 

Sau vài năm được chữa trị ở nhà, bệnh Quên của bà ngày càng nặng dần đến nỗi bà chẳng còn nhận ra chồng con, chẳng nhận ra con cháu của mình nữa. Ngoài căn bệnh Quên, bà còn bị thêm bệnh tiểu đường. Bệnh tiểu đường cũng ngày một nặng dần. 

 Ông Hải cố gắng chăm sóc vợ ở nhà, nhưng khi bệnh của bà ngày càng trầm trọng thêm,và đến lúc phải ngồi xe lăn, , thì ông Hải phải xin cho vợ mình vào nhà dưỡng lão Yee Hong , một nhà dưỡng lão của người Trung Hoa ở thành phố Mississauga này. Ông Hải cũng bán căn nhà cũ đang ở, mướn một căn chung cư ở gần nhà dưỡng lão, để hàng ngày có thể đến thăm nom cho vợ.

 Hàng ngày ông Hải đến nhà dưỡng lão vào lúc 10 giờ sáng, để đọc sách cho vợ, để giúp vợ ăn trưa. Sau giờ ăn, khi y tá đưa bà Loan đi tham dự các lớp tập thể dục , các giờ trị liệu pháp, thì ông Hải đi về nhà hoặc đi bộ trong khu công viên River Grove gần đó, hoặc là đi bơi trong hồ bơi của trung tâm cộng đồng Mavis. 

Buổi chiều ông Hải trở lại nhà dưỡng lão cho vợ ăn chiều và ở chơi cho đến tối mới trở lại căn chung cư mà ông đã muớn ở gần đó. Tùng là đứa con độc nhất của hai người, cũng ở trong thành phố Mississauga này, nên cũng hay thường dẫn vợ con đến thăm mẹ mỗi tuần vài lần.

Khi biết vợ mình bị bênh Quên, ông Hải bỏ công nghiên cứu thêm về loại bệnh nan y này. Ông cũng được biết là nếu tìm cách khơi lại những kỷ niệm cũ cho người bệnh, thì có nhiều trường hợp, người bệnh dần dần nhớ lại và bệnh Quên có thể bớt dần đi. 

Vì thế hàng ngày ông đến để đọc lại cho vợ nghe cuốn nhật ký dầy cộm mà bà Loan đã dùng để ghi lại những diễn biến của cuộc tình giữa hai người.

Ông Hải đã đọc đi đọc lại hết cuốn nhật ký này nhiều lần, nhưng vẫn chưa thấy sự tiến triển nào về sức khỏe và trí nhớ của vợ. Tùng nhiều lúc thấy tội nghiệp cho cha đã bảo ông Hải:

-Thôi ba à,ba đọc như vậy đủ rồi, chắc không có “work” đâu?

 -Không sao, tao ở nhà cũng buồn, đâu có chuyện gì làm..

 Và trang nhật ký đã được mở ra , hồi ký của một chuyện tình lại bắt đầu..

 Chiếc xe lam chỉ chở có một người khách, đổ dốc chạy theo đường Phan Đình Phùng, rẽ ngược lên con đường Huyền Trân Công Chúa để chạy đến cỗng trại Du Sinh.. 

Nếu xe tiếp tục đi thẳng là đường dẫn đến thác Cam Ly. Loan ngồi trong lòng xe, tay giữ chiếc va li , mắt ngơ ngẩn nhìn ra ngoài. Trời đã vào hè nhưng khí lạnh của miền cao nguyên vẫn còn lảng vảng đâu đây. 

Chiếc xe lam chạy lên giữa con dốc thì ngừng trước cổng trại. Nàng móc bóp trả tiền cho người tài xế, xách va li, bước xuống xe. Ngôi biệt thự của ba má nàng nằm ngay góc đường vào cổng trại. 

Nằm xế về bên tay phải, góc của một con đường tắt dẫn vào trại Du Sinh, là khu tọa lạc của trường Couvent Des Oiseaux. Loan xách va li đi lại cổng biệt thự bấn chuông. Một lúc sau, có tiếng mở cửa sắt và tiếng chào:

-Cô lên có một mình thôi hay sao? Thế còn bác đâu?

 Loan cất tiếng trả lời bà quản gia:

 -Cháu lên trước. Tháng sau má cháu mới ghé lại..

 -Vậy hả, thôi cô đưa va li tôi mang lên cho..

 Buổi tối hôm đó, Loan ăn qua loa rồi đi ngủ, sau chuyến đi dài mệt nhọc .

                       ******

 Buổi sáng hôm sau, Loan thức dậy vì những tiếng chim hót vang trên cành lá, xuyên qua khung cửa sổ rộng, vào tận phòng. Nàng trở dậy, mặc thêm chiếc áo khoác ngoài, rồi đi ra mở tung cánh cửa sổ. Mặt trời còn ủ kín trong sương. 

Lớp sương mù dầy đặc phủ kín cả khu rừng thông xung quanh ngôi biệt thự. Những ánh nắng mặt trời buổi sáng len lỏi giữa đám sương mù làm thành những vệt sáng trên những cành thông. Đúng lúc đó có tiếng của bà Hậu, người quản gia ở cửa:

-Cô Loan dậy chưa thì xuống ăn sáng!

Sau bữa ăn sáng, Loan thay quần áo, mặc thêm chiếc áo len, rồi thả bộ đi vòng quanh sân của ngôi biệt thự. 

Khu đất xung quanh ngôi biệt thự này rất rộng, được rào bằng hàng rào sắt, và trồng rất nhiều thông. Những cây thông ba lá mọc cao lêu khêu trong khu đất, khiến người ta có cảm tưởng đây là một khu rừng thu nhỏ. Nàng chầm chậm thả bộ đi trong sân, gần vòng rào, vừa đi vừa hít thở khí trong lành. Mùi của những lá thông ẩm sương, mùi của những đám hoa Lan mọc trên những cành thông cao trước mặt, hòa lẫn với nhau, thành một thứ mùi kỳ diệu có thể làm mê mẩn lòng người. Loan chợt nghĩ đến câu văn của một nhà văn mà nàng chợt quên mất tên khi nói về Đà Lạt như sau “ Đi trong đêm ở Đà Lạt là đi trong hơi thở của núi rừng”. 

Đang thả hồn theo cơn mộng, thì Loan bỗng giật mình vì tiếng   động mạnh ở phía trước. Nàng đưa tay giữ ngực nhìn lên. Một quả bóng tròn đã được đá từ ngoài vào sân. 

Chỉ mất giây sau thì Loan thấy ngay một chàng thanh niên, mặc bồ quần áo thể thao, đi giầy dùng để đá banh, lò mò bước tới. Khi thấy nàng đứng ôm ngực ở đó, chàng thanh niên cũng giật mình, rồi trấn tĩnh lại nói:

-Xin lỗi cô, trái banh tụi này đang đá ở bên ngoài, vô tình lọt vào sân nhà, tôi đường đột xin vào để lấy ra..

Loan ấp úng không nói một lời. Từ nhỏ đến lớn nàng sống khép kín trong gia đình, không giao thiệp nhiều với bên ngoài.

 Rồi khi vào trung học, thì nàng lại được gửi vào nội trú trong một trường dòng, sự giao tiếp của nàng càng giới hạn thêm nữa. Vì thế khi đối diện với người thanh niên lạ mặt này, nàng cũng chẳng biết phải đối đáp như thế nào?.

Chàng thanh niên thấy nàng không nói, cúi xuống nhặt quả banh, vừa dợm đi ra thì bỗng quay lại nói:

-Nhà tôi ở bên ngoài kia, ngay đường vào cổng trại, chỉ biết có bác Hậu thôi và chưa gặp cô bao giờ.

Loan run giọng:

 -Tại học ở Saigon..

 Chàng thanh niên ngắm nàng rồi gật gù:

 -À, ra vậy. Chắc cô về đây nghỉ hè? Tôi tên là Hải.. thế còn cô?

 -Tên là Loan..

 -Hân hạnh được biết cô.. Nhà tôi ở ngay bên cạnh hàng rào đó..

Vừa nói Hải vừa chỉ tay ra bên ngoài hàng rào sắt. Loan nhìn theo hướng chỉ và nhìn thấy một căn nhà tôn vách ván như những căn nhà của những người sống trong trại Du Sinh này. 

Loan đã được bà Hậu cho biết trại Du Sinh là trại của những đồng bào di cư tỵ nạn cộng sản từ miền Bắc vào Nam Các người tỵ nạn này đã được cha Bửu Dưỡng, một cha dòng Chúa Cứu Thế , dẫn dắt lên sống trong trại định cư này.

Chàng thanh niên nói tiếp:

 -Mấy ngày ở đây, nếu cô Loan không bận thì qua bên nhà chơi với tụi này.Tôi có hai đứa em gái chắc cũng bằng tuổi cô, thích hát hỏng lắm..

À, hay chiều nay cỡ bốn giờ, tôi bảo Liên ,một nhỏ em của tôi đến cổng biệt thự, chờ để dẫn cô qua chơi. Chiều nay có thêm mấy cô bạn của các em tôi ở trên đầu trại xuống, hát hò vui lắm..

Thế rồi họ quen nhau và yêu nhau lúc nào chẳng hay. Những ngày nghỉ hè năm đó là những ngày nghỉ hè đẹp nhất của đời học trò của Loan. Nàng đã được tham dự những trò vui tập thể cùng với đám thanh niên thiếu nữ cùng tuổi. Nào là trò chơi bịt mắt bắt dê, trò chơi rồng rắn… Nàng được tập hát những bài du ca. Nàng cũng được tham dự những buổi cắm trại trong khu rừng thông ở trên đầu trại, nơi có dòng suối trong vắt chảy qua . Trong làn nước trong veo đó, nàng đã thấy những con tôm tích, là loại tôm   cũng bằng cỡ những con tôm thường nhưng chúng có hai cái càng thật to. 

Các con tôm tích búng mình bong bóc khi thấy có bóng dáng người. Nàng đã lần đầu tiên nhìn thấy những con khỉ rừng leo trèo trên những cành thông, cũng như thấy tận mắt những người Thượng vai mang rìu , lưng đeo gù đi thành từng đoàn trong rừng.

Một tháng sau, khi bà Huyền, mẹ của nàng lên chơi, thì bà khám phá ra sự quen thân của Loan với Hải. Hải lúc đó đang học lớp đệ nhất của trường Hưng Đạo.

 Gia cảnh của chàng , một gia đình người Bắc mới di cư vào Nam-bố làm phu lục lộ và mẹ thì đang làm nghề nuôi heo, thì chẳng có thể nào là người “môn đăng hộ đối” với gia đình bà. 

Ngày hôm sau, bà Huyền đã bắt con mình phải về ngay lại Saigon. Loan buồn bã vì quyết định cứng rắn của mẹ, nhưng nàng cũng kịp dúi   cho người tình, mảnh giấy ghi địa chỉ của nàng ở Saigon và bảo Hải phải viết thư cho nàng.

 Những ngày ở Saigon là những ngày của nhớ mong. Loan chờ đợi thư của Hải gửi về, nhưng những bức thư tình vẫn biền biệt nơi đâu?. Loan bắt đầu viết nhật ký, ghi lại những ký ức của những ngày thơ mộng của mối tình đầu. 

 Một năm, rồi hai năm, nàng vẫn không nhận được tin tức của người tình. Nàng vẫn không quên Hải, nhưng cũng chẳng biết làm sao liên lạc với người yêu?. Bà Huyền đã cho bán căn biệt thự ở Đà Lạt cho người chủ khác. 

Trong hai mùa hè sau đó, bà Huyền đã khôn khéo cho con qua Paris thăm bà dì ở bên Pháp. Những cảnh đẹp, thú vui ở thành phố hoa lệ vẫn chẳng làm cho Loan vui. Khi nàng vừa đậu xong bằng tú tài toàn phần Pháp, thì có một gia đình quen với ông bà Huyền, gửi người nhờ mai mối Loan cho đứa con trai của họ là một bác sĩ mới ra trường.

 Khi được hỏi ý kiến nàng nàng cũng chẳng biết trả lời ra sao? Nàng cũng muốn nhận lời cho cha mẹ vui lòng, nhưng trong thâm tâm vẫn chẳng bao giờ nàng quên được Hải..

Bà Huyền vẫn kiên nhẫn dịu dàng khuyến dụ con , nhưng lòng của Loan vẫn có những níu kéo chờ đợi, cho nên chẳng trả lời dứt khoát. 

Trong một lúc nóng giận,, bà Huyền đã nói huỵch toẹt ra là “Hai năm nay Hải vẫn gửi thư đều đặn, nhưng bà đã giữ lại, vứt đi, không cho Loan đọc”. Loan nghe đến đó, khóc òa lên, rồi bỏ chạy về phòng mình, đóng cửa, bỏ mặc bà Huyền đứng ngoài khuyên nhủ, dỗ dành..

Buổi sáng sớm hôm sau, khi cả nhà còn ngủ, Loan lẻn ra ngoài, với số quần áo đựng trong xắc tay,nàng thuê xe tắc xi, chở đến bến đò xe đi Đà Lạt. Buổi chiều hôm đó, Loan đã có mặt ở ngôi nhà của Hải. 

Chàng đã không còn ở đó! Theo lời của Liên, thì sau khi bị rớt tú tài hai, Hải đã xin vào trường võ khoa Thủ Đức, học xong ra trường và hiện đang đóng đồn ở Chương Thiện.

Liên cũng cho Loan địa chỉ của đơn vị của Hải. Tối hôm đó, Loan ngủ lại nhà Hải, nằm cùng giường với Liên trong căn nhà tôn, và được bố mẹ của Hải cho ăn những món ăn đặc sản của người Bắc như canh rau đay, cà muối. 

Khi trở lại Saigon, với địa chỉ của Hải, Loan lại tìm đường xuống Chương Thiện. Khi đến bến xe thì nàng mới biết nàng phải đi bộ thêm ba cây số nữa, mới vào đến chỗ   đóng quân của Hải.

 Nhìn đôi guốc cao trong chân, Loan ngán ngẩm, đi ra chợ Chương Thiện ở gần đó mua một đôi dép cao su cho cuộc hành trình.Sau cùng Loan cũng đã gặp được Hải sau nhiều ngày vất vả! Lúc gặp Hải, Loan nước mắt ràn rụa, không nói được một tiếng nào. 

Hải cũng ngạc nhiên và cảm động khi thấy người yêu cuối cùng đã lặn lội tới thăm. Chàng thủ thỉ bảo nàng là sẽ giữ Loan không dể mất nàng trong cuộc đời.

Bà Huyền thấy con quyết lòng thì cũng không dám ép thêm. Một đám cưới giản dị đã được tổ chức! Loan cứ như người trong mơ, không nghĩ là hạnh phúc cuối cùng lại đến với nàng như thế! 

Cuộc sống hai người tuy có vất vả về tiền bạc, nhưng thật hạnh phúc, cho đến ngay cả khi gia đình phải di tản sang Canada, sau ngày buồn chung của đất nước, ngày 30 tháng 4 năm đó.

 Khi sang đến Canada thì cuốn nhật ký của bà Loan đã ghi đến hết trang cuối cùng!

                               ********

  Sau khi   đẩy chiếc xe lăn của bà Loan đến cạnh chiếc bàn tròn ở giữa sân cỏ, cô y tá Tina khóa chốt an toàn của xe lăn lại, kiểm soát lại một lần nữa rồi hỏi bà Loan:

-Are you OK?

 Bà Loan vội vã trả lời:

 -Yes, yes..

Cô y tá   vẫy tay chào mọi người rồi quay quả bước trở lại nhà ăn. Tháng bẩy mùa hè và vì là ngày chúa nhật cho nên cả gia đình của ông Hải kể cả Ngọc, vợ Tùng cũng như hai đứa cháu đều đến để thăm bà nội của chúng. 

 Thay vì cứ ngồi trong phòng ăn chật hẹp, mọi người bàn nhau ra ngồi ở ngoài sân vừa thoáng lại vừa yên tĩnh, không bị những tiếng ồn ào của những khách hàng khác ở trong phòng ăn. 

Chiếc bàn tròn đặt giữa sân cỏ được che   bởi một chiếc dù che nắng-chiếc dù có thể thay đổi vị trí theo sự thay đổi vị trí của mặt trời trong ngày. 

Từ trên sân cỏ, người ta có thể nhìn thấy bãi đậu xe dành cho khách đến thăm ở ngay cửa chính ,cuối con đường dốc thoai thoải đi xuống đồi. Ông Hải theo lệ thường, kéo chiếc chăn phủ chân của bà Loan lên ngang đùi và nói:

-Này bà Loan, câu chuyện mình đọc tới đâu rồi?

 Đây chỉ là câu hỏi thường lệ, và ông Hải sẽ đợi chờ câu trả lời của bà Loan là “tôi không nhớ tới đâu nữa!” như hàng ngày. Trong khi Tùng và Ngọc ngồi ở hai chiếc ghế bên cạnh, lơ đãng nhìn ra xa. Còn hai đứa cháu thì đang mải mê chơi các trò chơi điện tử Gameboys.

Bà Loan ngẫm nghĩ rồi bảo ông Hải:

 -Tôi nhớ mình đã đọc đến đoạn bà mẹ nhận là dấu thư của Hải gửi về không cho Loan biết..

 Ông Hải mừng rỡ:

 -À, hôm nay bà lại nhớ! Có triển vọng tốt..

Nói rồi ông Hải, sửa lại gọng kính, mở trang sách đã đánh dấu trước ra đọc.. Ông Hải vừa đọc được một đoạn thì có tiếng bà Loan ngắt lời:

-Ông Hải ơi, chuyện này là hình như là chuyện của tôi và cuốn nhật ký mà ông đang cầm trên tay hình như là của tôi mà..

Ông Hải hồi hộp hỏi:

 -Bà có nhớ thật không hở bà Loan..?

 -Thật mà..

 Nói đến đây, bà Loan bỗng giơ hai tay bảo ông Hải:

 -Anh Hải đây mà.. Anh đọc nhật ký của em mà anh cứ bảo của người khác..

Rồi quay sang đám con cái đang ngồi xung quanh, bà Loan rấm rứt khóc:

 -Ồ kìa Tùng con tôi, rồi Ngọc rồi các cháu tôi Jason và Tracy đây mà, chứ có ai xa lạ đâu..

Tùng la lên:

 -Má ơi, má đã nhớ lại rồi!

 Ông Hải cũng mừng rỡ:

 -Cám ơn Trời Phật, em đã nhớ lại được rồi..

 Tùng đứng dậy hối hả bảo ông Hải:

-Thôi ba ngồi đây với má nghe.. tụi con chạy qua nói cho chú thím Hùng biết, chở hai người đến đây luôn..

 Nói rồi Tùng dắt tay vợ và bảo hai đứa con:

 -Tụi con chào bà nội rồi đi với ba. Chút nữa mình trở lại..

Vừa quay đi, Tùng còn nói với lại:

 -Con sẽ ghé chợ Tầu mua thịt quay bánh mì mang về ăn trưa với chú thím Hùng luôn..

 Ông Hải đứng dậy ôm lấy vợ, nước mắt dàn dụa không nói một lời. Bà Loan cũng thút thít khóc trên vai chồng. Một lúc sau, ông Hải khẽ bảo:

-Có gió nhiều rồi, thôi để anh đưa em vào nhà ăn..

 Ông Hải lụm khụm mở chốt an toàn của chiếc xe lăn, chậm chậm đẩy chiếc xe ra khỏi sân cỏ, theo con đường dốc trở lại nhà ăn. 

Đang đẩy chiếc xe, ông Hải bất ngờ bị hụt chân té xuống, chiếc xe lăn không người giữ, chạy theo con đường dốc, tông thẳng vào bức hàng rào sắt ở gần cửa ra vào. Ông Hải chạy theo la lớn:

-Loan ơi, em có sao không?

 Khi ông Hải chạy đến gần, thì chiếc xe lăn đã ngừng lại. Mặt của bà Loan đã nằm kẹt giữa những làn song sắt. Ông Hải nghe loáng thoáng tiếng chân người chạy đến, tiếng của cô y tá Tina đang gọi số điện thoại khẩn cấp 911.

                             *******

  Vẫn chỗ ngồi cũ, vẫn chiếc bàn tròn ở góc phòng và vẫn có ly cà phê Tim Horton còn bốc khói ở trên bàn, ông Hải ngồi tư lự một mình, tay cầm cuốn nhật ký, buồn bã nhìn ra ngoài. Mùa thu đã về với lá vàng phủ đầy trên thảm cỏ. 

Thỉnh thoảng những cơn gió mạnh thổi về, đã   cuộn đám lá lên không trung như những đợt sóng, rồi những chiếc lá lại rơi lả tả lại trên sân. Sau đám tang của người vợ, hàng ngày ông Hải vẫn đến ngồi ở góc phòng của quán ăn trong nhà dưỡng lão Yee Hong này. 

Những khách hàng thường xuyên của quán ăn này, mà ông Hải nhớ mặt, vẫn ngày ngày đến đây. Nhưng không còn có cô y tá Tina đẩy chiếc xe lăn ra, và chỗ ngồi đối diện với ông cũng chẳng còn có người ngồi. Ông Hải thở dài, nhìn chiếc ghế trống đối diện, mở cuốn sách cầm trên tay, rồi hỏi:

-Bà Loan à, bà có nhớ hôm qua mình đã đọc đến đâu không?

 Không có tiếng trả lời, nhưng ông Hải, với đôi mắt nhòa lệ, vẫn cắm cúi đọc những dòng trong trang sách đã mở sẵn..Trang sách của một cuộc tình đầu và cũng là một cuộc tình cuối!

  Nguyễn Tuấn Hoàng

From:: Bach -Yen Ly


 

NGUYỄN XUÂN VINH – NHÀ BÁC HỌC VŨ TRỤ GỐC VIỆT CỦA NASA HOA KỲ…

Việt Luận – Viet’s Herald

 NGUYỄN XUÂN VINH – NHÀ BÁC HỌC VŨ TRỤ GỐC VIỆT CỦA NASA HOA KỲ…

Nhà toán học Nguyễn Xuân Vinh, gốc Bắc, di cư 1954, gia đình không theo Công giáo, nguyên là Đại Tá Tư lệnh của Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng hòa (thời Đệ Nhất Cộng Hòa), sau này là giáo sư đại học Michigan, Hoa kỳ. Ở cái thời mà đại đa số người dân Việt còn đi xe đạp, thì bằng các lý thuyết toán học, những nghiên cứu của GS. Vinh đã vạch đường bay cho phi thuyền vũ trụ lên Mặt Trăng.

TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP:

Nguyễn Xuân Vinh (sinh năm 1930) nguyên là Đại tá tham mưu trưởng kiêm tư lệnh của Không quân Việt Nam Cộng hòa. Ông là giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ chuyên ngành kỹ thuật không gian người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trên thế giới.

Năm 1962, ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người đầu tiên ở Đại học Colorado được cấp bằng tiến sĩ khoa học không gian sau khi ông thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền do NASA tài trợ. Những lý thuyết của Nguyễn Xuân Vinh đã góp phần quan trọng đưa các phi thuyền Apollo lên được mặt trăng thành công đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các phi thuyền con thoi trở về trái đất an toàn. Ông còn là nhà nhà văn với bút danh Toàn Phong với nhiều tác phẩm nổi tiếng được xuất bản.

Từ khi còn nhỏ Nguyễn Xuân Vinh là một người có năng khiếu toán. Ông tham gia viết sách từ rất sớm. Khi đang là học sinh, ông đã có sách được xuất bản với cuốn sách giáo khoa Bài tập hình học không gian. Cuốn sách đã trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.

Năm 1951 ông nhập ngũ theo lệnh động viên và tham gia khóa I Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức. Năm 1952, ông theo học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l’Air) cho đến năm 1955. Sau đó ông lưu trú tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông đồng thời lấy bằng cử nhân toán ở Đại học Máeille.

Năm 1957, Nguyễn Xuân Vinh được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không lực Việt Nam Cộng hòa. Cho đến tháng 2 năm 1958, ông được giao chức Tư lệnh Không quân. Ông giữ chức vụ này cho đến năm 1962 rồi đi du học ở Hoa Kỳ.

Năm 1962, Đại tá Nguyễn Xuân Vinh đến Hoa Kỳ để bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình khi ông 32 tuổi.

Năm 1965, là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ về khoa học không gian tại Đại học Colorado. Ba năm sau, Tiến sĩ Vinh làm giảng sư (associate professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh được phong cấp giáo sư (professor) tại viện đại học Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng tiến sĩ quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.

Năm 1982, Nguyễn Xuân Vinh là giáo sư (chair professor) của ngành toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan. Hai năm sau, năm 1984, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l’Air et de l’Espace). Đến năm 1986, Giáo sư Vinh trở thành viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).

Trong nhiều năm Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã được mời tham gia thuyết trình thỉnh giảng tại nhiều đại học lớn và các hội nghị quốc tế nhiều nơi trên thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.

Năm 1999, Giáo sư viện sĩ Nguyễn Xuân Vinh nghỉ hưu, ông đã được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace engineering) vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.

Ngày 19 tháng 10 năm 2016, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã được Giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, làm phép Thanh Tẩy gia nhập Đạo Công giáo tại nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California. Ông lấy tên Thánh là Anphongsô.

GIẢI THƯỞNG:

– Năm 1994: “Mechanics and Control of Flight” của American Institute of Aeronautics and Astronautics.

– Năm 1996: “Excellence 2000 Award” của Pan Asian American Chamber of Commerce

– Năm 2006: “Giải thưởng Dirk Brouwer” về Cơ học Du hành Không gian của Hội Du hành Không gian Hoa Kỳ (American Astronautical Society)

– Năm 2007: Dirk Brouwer Award do the American Astronautical Society tặng

– Năm 1994: Mechanics and Control of Flight Award presented do American Institute of Aeronautics and Astronautics tặng.

– Năm 2000: Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc tế du hành vũ trụ và Viện Hàn lâm Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Pháp. Ông được chọn là một trong những người xuất sắc của Hoa Kỳ Pan Asian American Chamber of Commerce tại Washington, DC.

– Hội Khuyến Học ở Saint Louis, Missouri, đề ra giải thưởng hàng năm tên là giải thưởng “Truyền thống Nguyễn Xuân Vinh” để khuyến khích học sinh ở địa phương.

TÁC PHẨM:

Tác giả Nguyễn Xuân Vinh đã xuất bản ba cuốn sách và hơn 100 bài báo kỹ thuật trong lĩnh vực toán học, astrodynamics, và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Ông Vinh cũng từng là biên tập viên trong khoảng thời gian dài 20 năm cho tạp chí lưu trữ cho Học viện vũ trụ Quốc tế (the archival journal for the International Academy of Astronautics). Giáo sư Vinh nguyên là chủ tịch hội đồng chấm luận án tiến sĩ (chaired the doctoral committees) cho 30 nghiên cứu sinh, nhiều người trong số họ hiện nay đang là giáo sư của các Hiệp hội uy tín của Hoa Kỳ, các trường Đại học các trường học hoặc các hiệp hội nhà khoa học hàng đầu trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.

Theo FB Nguyễn Hùng Dũng