Không ai mạnh bằng cầu nguyện-Đấng Đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Niềm Vui Tin Mừng

 “Con nắm một bí quyết: cầu nguyện. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện, vì Chúa đã hứa ban tất cả. Khi các con hiệp nhau cầu nguyện, có Chúa ở giữa các con.

Cha tha thiết khuyên con, ngoài giờ kinh, hãy cầu nguyện mỗi ngày tối thiểu một giờ, nếu được hai giờ càng tốt. Không phải là mất mát vô ích đâu !

Trên quãng đường Cha đi, Cha đã thấy lời Thánh Têrêsa Avila ứng nghiệm: “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục”.”

Đấng Đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

CÓ THẦN LINH HAY KHÔNG?

Công Tú Nguyễn Chuyện tuổi Xế Chiều

Chuyện kể rằng, có một quốc gia nọ muốn dùng phương pháp khoa học để tuyên truyền thuyết ‘Vô Thần’.

Để chứng minh không có thần linh và muốn người dân không có tín ngưỡng, không tin vào Thần, Phật, Chúa, …

Họ mời 3 vị tiến sĩ lên thuyết giảng trước công chúng.

Người đầu tiên bước lên bục diễn thuyết là một vị tiến sĩ thiên văn.

Ông lý giải về thuyết Vô Thần.

Cuối cùng ông nói lớn: Tôi đã dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ trong hơn 20 năm nhưng chưa bao giờ trông thấy Thần.

Vì thế chắc chắn là không có Thần linh!

Một tràng pháo tay của quần chúng.

Người thứ hai là tiến sĩ Y khoa.

Ông nói rất nhiều về con người, tuyệt nhiên cho rằng, thế giới này không có linh hồn.

Ông tuyên bố:

Tôi đã từng giải phẫu hàng trăm thi thể, quan sát tỉ mỉ các bộ phận.

Nhưng không phát hiện có nơi nào để linh hồn gửi gắm.

Trong tim ư?

Trong đầu ư?

Trong máu ư?

Tôi đều giải phẫu nhiều lần nhưng không thấy gì cả.

Vì thế chắc chắn, không có linh hồn!

Một tràng pháo tay nữa vang lên.

Người thứ ba là một nữ tiến sĩ, nhà luận lý học. Bà ta nói:

Người chết giống như cái đèn bị tắt.

Chết là hết, tuyệt đối không có cái gọi là Thiên Đàng hay Địa ngục để phán xét.

Tôi từng đọc qua các sách cổ kim Đông Tây nhưng không thấy ghi chép gì về chuyện này.

Sau khi ba tiến sĩ thuyết giảng xong.

Người chủ trì hướng về phía công chúng nói lớn: Nếu ai cảm thấy không thỏa mãn, hoặc muốn tranh luận, đều có quyền lên phát biểu công khai!

Một bà cụ bước lên sân khấu, nói với người chủ trì: Tôi có thể hỏi vài câu hỏi được không?

Người chủ trì nói: Rất hoan nghênh cụ!

Bà cụ nhìn vị tiến sĩ đầu tiên:

– Anh dùng kính viễn vọng nhìn được hơn 20 năm.

   Thế anh có nhìn thấy gió không?

   Nó có hình dạng thế nào?

Tiến sĩ trả lời:

– Thưa cụ, kính viễn vọng sao có thể trông thấy gió?

Bà tiếp lời:

– Trên thế giới có gió nhưng anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy gió.  Anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy Thần linh, sao có thể hồ đồ kết luận, không có Thần linh?

Vị tiến sĩ đầu tiên im lặng.

Bà cụ quay sang vị tiến sĩ Y khoa là chuyên gia giải phẫu:

– Anh có yêu vợ anh không?

Vị tiến sĩ:

– Dạ, có yêu. thưa cụ!

Bà cụ tiếp lời:

– Vậy anh đưa con dao giải phẫu cho tôi, tôi thử mổ bụng anh xem thử cái gọi là ‘yêu’ đó nằm ở bộ phận nào?

Trong gan ư?

Trong dạ dày ư?

Hay trong ruột ư?

Hay tim?

Mọi người cười vang.

Cuối cùng, bà cụ lại nhìn sang nữ tiến sĩ:

– Cô đã đọc quyển sách này chưa?

   Nó gọi là ‘Kinh Thánh’.

   Chẳng phải quyển sách này rõ ràng có nói rằng, mọi người sau khi chết đều phải chịu phán quyết dựa trên những việc làm của mình khi còn sống đó sao?

Cô đừng tưởng chết là hết.

Phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống vô vàn!

Bà cụ nói tiếp:

– Khi cô còn là bào thai trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng, không lâu nữa cô sẽ có mặt trên trái đất, ở đó có trời, trăng, núi và biển nhưng cô sẽ phải ăn cơm mặc quần áo, cô có tin không?  Lúc đó cô chỉ loanh quanh trong bụng mẹ, cảm thấy thế giới này đối với cô chật chội như thế.

Nhưng hôm nay, cô không chỉ tin mà còn thực sự đã và đang sống trong không gian này, chứng kiến trời, biển, núi, sông.

Thế giới sau khi chết rồi, cuối cùng, cô cũng sẽ biết thôi!

Hàng tràng pháo tay không dứt vang lên tán thưởng bà cụ.

« Những gì chúng ta chưa nhìn thấy không có nghĩa là nó không tồn tại, những gì chúng ta biết được của ngày hôm nay chưa phải là những gì chúng ta sẽ biết vào ngày mai.

Hãy luôn mở lòng và đón nhận những điều kỳ diệu quanh ta! »

Sưu tầm


 

VĂN HOÁ KHÍCH LỆ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy đi rao giảng!”.

“Những con ngỗng phía sau đội hình phát ra tiếng kêu. Tôi cho rằng đó là cách chúng thông báo chúng đang bay và mọi việc đều ổn. Những tiếng kêu lặp đi lặp lại sẽ khuyến khích những con đầu đàn tiếp tục bay. Bản năng của loài ngỗng là làm việc cùng nhau, khích lệ nhau – dù đó là quay, vỗ, trợ lực hay chỉ đơn giản là kêu lên – Điều này cho phép chúng hoàn thành những gì đã đặt ra!” – Chuck Swindoll.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng ‘đàn ngỗng bay’ đưa chúng ta về Lời Chúa ngày lễ thánh Barnaba. Qua đó, chúng ta – dù ở đấng bậc nào – vẫn luôn ý thức trách nhiệm của mình trong Giáo Hội, cùng nhau sống ‘văn hoá khích lệ’ để giục giã người khác “Hãy đi rao giảng!”.

“Barnaba” tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘Con của sự khích lệ!’. Từ đầu, Barnaba quảng đại “bán một phần tài sản rồi đem tiền đến đặt dưới chân các tông đồ”; đưa Phaolô đến với tông đồ đoàn khi mọi người đều sợ ông. Tuy nhiên, họ cũng có những bất đồng vì Marcô – người đã bỏ rơi họ giữa chừng – và Phaolô không chấp nhận Marcô; thế nhưng, Barnaba biết cách tin tưởng ông và sau này, Marcô là cộng sự viên tuyệt vời của Phêrô và Phaolô. Bạn hãy học cách không dán nhãn cho ai mãi mãi, vì “Linh hồn như rượu ngon, sẽ tốt hơn theo thời gian!” – Josemaría – khi họ được nâng đỡ bằng lòng tin và được yêu thương, vì “Không có gì có thể được yêu thương nếu không biết đến nó!” – Augustinô.

Tại Antiôkia, Barnaba “khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa”, dành cho anh chị em tân tòng một sự khích lệ lớn lao – bài đọc một – Hội Thánh ngày thêm đông số. Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ niềm vui, “Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân!”. Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khích lệ các môn đệ, “Anh em hãy đi rao giảng!”. “Ơn gọi của chúng ta là ra đi, ‘phục vụ’; không phải ‘sử dụng’. Chúng ta luôn có nguy cơ sa vào vấn đề ‘lời lỗ’, chúng ta hối lộ Chúa. Mối quan hệ vô vị lợi với Chúa sẽ giúp chúng ta có được mối quan hệ tương tự với người khác. Đời sống Kitô hữu có nghĩa là bước đi, rao giảng, khuyến khích và phục vụ, nhưng đừng lợi dụng người khác!” – Phanxicô.

Ma quỷ vui mừng mỗi khi chúng ta nói và hành xử tiêu cực khiến người khác nhụt chí; nó mở tiệc lớn mỗi khi ai đó nói một lời chua cay làm tan nát một cộng đoàn, một gia đình. Vì thế, chúng ta phải tỉnh thức đề phòng và ra sức sống ‘văn hoá khích lệ’. Cha mẹ khích lệ con cái, con cái khích lệ cha mẹ; anh chị em, bạn bè khích lệ nhau để “hoàn thành những gì đã đặt ra”. Bởi lẽ, “Không ai lên thiên đàng một mình!”.

Anh Chị em,

“Hãy đi rao giảng!”. Noi gương Barnaba, chúng ta ra đi mở mang Nước Chúa. Và rõ ràng, ‘mục vụ khích lệ’, ‘văn hoá khích lệ’ luôn đóng một vai trò nhất định, không chỉ trong các Hội Thánh trẻ, mà cả với Giáo Hội trưởng thành ngay trong thế giới hiện đại. Không chỉ trong Giáo phận, Giáo xứ, các hội đoàn, tổ chức lớn nhỏ mà còn trong cộng đồng, gia đình. Hãy là những con người sẵn sàng vực dậy những ai đang bủn rủn, đầu gối rã rời!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con luôn ‘đầy lửa’, sẵn sàng thắp sáng và sưởi ấm tình yêu Chúa trong thế giới khá lạnh lẽo này!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

****************************************************************

Thánh Barnaba, Tông Đồ, Thứ Tư Tuần X Thường Niên, Năm Lẻ

Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 10,7-13

7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : “Anh em hãy đi rao giảng : Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.

11 “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em.”


 

 “Ta đã gọi tên con, con thuộc về Ta” (Is 43, 1)- Cha Vương

Mùa Hè nóng quá đi! Đừng để con tim bạn bị lạnh vì thiếu Tình Chúa nhé. Chúc bình an! 

Cha Vương

Thứ 3: 10/06/2025

GIÁO LÝ: Khi lãnh bí tích Rửa tội, người ta nhận một tên, điều này có ý nghĩa gì? Qua tên ta nhận khi lãnh bí tích Rửa tội, Thiên Chúa như nói với ta: “Ta đã gọi tên con, con thuộc về Ta” (Is 43, 1). (YouCat, số 201)

SUY NIỆM: Khi được rửa tội, con người không bị tan biến trong một khối vô danh, trái lại nhân cách của họ được xác nhận. Nhận một tên khi được rửa tội có nghĩa là: Chúa biết ta, Người nói với ta, “tốt”, “được” và đón nhận ta đời đời với tất cả nét đặc thù của ta. 

❦ Tôi được mời gọi để làm hoặc để là cái mà không ai khác được mời gọi. Trên trái đất của Chúa, tôi có một chỗ trong chương trình của Chúa mà không ai có như vậy. Dù tôi giàu hay nghèo, bị khinh dể hay được trọng vọng bởi người đời, Chúa biết tôi và gọi tôi bằng chính tên tôi. (Hồng y John Henry Newman) (YouCat, số 201 t.t.)

LẮNG NGHE: Nhưng bây giờ, đây là lời ĐỨC CHÚA phán, lời của Đấng tạo thành ngươi, hỡi Gia-cóp, lời của Đấng nắn ra ngươi, hỡi Ít-ra-en: Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta! (Is 43:1)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, vì yêu, Chúa đã dựng nên con giống hình ảnh của Chúa. Chúa còn ban cho con được làm con cái Chúa qua Bí Tích Rửa Tội để được sống hạnh phúc mãi mãi với Chúa. Xin giúp con biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, cùng vui sống bên nhau, đem lại hạnh phúc cho nhau để làm vinh danh Chúa. 

THỰC HÀNH: Tên thánh (còn gọi là thánh quan thầy hay thánh bảo trợ) của bạn là gì? Bạn có biết ngày lễ bổn mạng (còn gọi là lễ quan thầy) của bạn là ngày nào không? Tập thói quen đọc kinh thánh quan thầy của mình để xin các ngài hướng dẫn và cầu bầu cho bạn nhé. 

From: Do Dzung

************************

Ngài Gọi Tên Con || Sáng tác: Dương Quảng || Trình bày: Nguyễn Minh Tâm

Ngai vua thua ghế quan cộng sản – Trần Anh Quân

Ba’o Nguoi-Viet

June 6, 2025 

Trần Anh Quân

Vụ một người dân vào Đại Nội Huế bẻ gãy ngai vàng của vua nhà Nguyễn cho thấy nhiều vấn đề về việc bảo vệ di tích lịch sử, bảo tồn bảo vật quốc gia.

Sáng 24 Tháng năm, ông Phương Tâm mua vé vào cổng Đại Nội Huế. Vào khu vực điện Thái Hòa, ông leo qua hàng rào bảo vệ, ngồi lên ngai vàng triều Nguyễn rồi bẻ phần tựa bên trái của ngai vàng, đập phá làm gãy thành nhiều mảnh. Vụ việc này khiến người dân quan tâm hơn tới ngai vàng của một đế chế hùng mạnh nhất lịch sử Việt Nam.

Ông Phương Tâm nghiễm nhiên vào Đại Nội Huế bẻ gãy ngai vàng của vua nhà Nguyễn. (Hình chụp qua video/báo Dân Trí)

Người Việt đã coi nhiều bộ phim về các hoàng triều tại Trung Quốc, nên trong hình dung của người dân, ngai vàng phải hoàn toàn được làm bằng vàng rồng, uy nghi lộng lẫy thể hiện vị thế của nhà vua. Rồi xảy ra vụ ngai vàng bị bẻ gãy, khiến dư luận bất ngờ vì ngai vua chẳng khác gì cái ghế bình thường, được bọc thêm một ít vàng mỏng mà thôi.

Có người đặt nghi vấn rằng liệu ngai vua có bị làm giả, thay thế ngai vàng nguyên bản thành sản phẩm trưng bày hay không? Nhưng nếu coi lại các hình ảnh sử liệu chụp từ lúc các vua nhà Nguyễn còn tại vị, cũng là cái ghế bằng gỗ đơn sơ. Sử sách ghi lại là ngai được làm bằng gỗ quý, chạm khắc tinh xảo, sơn son thếp vàng chứ cũng không phải bằng vàng ròng toàn bộ.

Một số tài liệu cho rằng ngai vàng này được làm từ thời vua Gia Long, hoặc vua Minh Mạng, sau đó được vua Khải Định cho sửa lại vào năm 1923.

Nhắc lại một chút về lịch sử, Gia Long là vị hoàng đế đầu tiên có công thống nhất hai miền Nam – Bắc trọn vẹn từ Ải Nam Quan tới mũi Cà Mau. Nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê thì chỉ gồm miền Bắc và một phần miền Trung. Tới thời Trịnh – Nguyễn phân tranh thì mỗi bên chiếm giữ một nửa. Thậm chí thời Quang Trung Nguyễn Huệ tuy mạnh nhưng cũng không thể thống nhất đất nước được. Đại Việt giai đoạn đó tới ba người xưng vương xưng đế, gồm Nguyễn Huệ xưng đế lấy hiệu là Quang Trung, đóng đô ở Phú Xuân (Huế); anh ruột Nguyễn Huệ là Nguyễn Nhạc cũng xưng đế, lấy hiệu là Thái Đức, đóng đô ở Quy Nhơn (Bình Định); và Nguyễn Ánh xưng vương ở Nam bộ. Khi Nguyễn Nhạc từ bỏ đế hiệu, nhường toàn quyền lại cho Nguyễn Huệ thì Nguyễn Ánh cũng đang dần lấy lại thanh thế ở miền Nam. Tức là giai đoạn đó vẫn có hai vua phân chia đất nước.

Chỉ tới khi đánh bại hoàn toàn quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu Gia Long, đổi tên nước thành Việt Nam thì đất nước mới thống nhất, giang sơn liền một dãy. Nói như vậy để thấy sự hùng mạnh và những chiến công lỗi lạc của vua Gia Long. Nếu ngai vàng được làm vào thời Gia Long thì nó quá đơn giản so với vị thế của nhà vua lúc đó.

Chưa hết, con trai vua Gia Long là vua Minh Mạng còn nâng tầm đất nước lên thành một siêu cường trong khu vực thời bấy giờ. Vua Minh Mạng đổi tên Việt Nam thành Đại Nam. Thôn tính gần như toàn bộ Chân Lạp (Campuchia) và Ai Lao (Lào), thời vua Minh Mạng thì biên giới Đại Nam từng giáp với Thái Lan. Vua Minh Mạng đã mở rộng diện tích lãnh thổ lên một con số chưa từng có trong lịch sử người Việt: tới 557,000km2 (bây giờ chỉ là 331.698km2). Nếu vua Minh Mạng cho làm ngai vàng này thì có thể thấy nhà vua quá khiêm tốn so với tầm vóc vĩ đại mà ông đã đóng góp cho giang sơn đất nước.

Trong khi đó, cái ghế của các quan chức cộng sản thì uy nghi bệ vệ gấp 100 lần ngai vua. Cái ghế đáng chú ý nhất là ghế của ông Nông Đức Mạnh. Năm 2015, dư luận dậy sóng với hình ảnh ông Mạnh ngồi tiếp khách trên ghế chạm trổ hình rồng, nội thất dát vàng toàn bộ.

Ngai vàng trong nhà ông Nông Đức Mạnh. (Hình: báo Tiền Phong)

Ngoài ghế ông Mạnh ra thì cũng hiếm khi thấy các lộ ra nội thất trong nhà các quan chức cộng sản. Vì họ giấu rất kỹ hình ảnh bên trong nhà để tránh bị dân lên án. Nhưng nhìn vào bề ngoài biệt phủ của những bí thư, chủ tịch cấp tỉnh, cấp huyện, hoặc công an, giám đốc, trưởng phòng các sở ban ngành thì có thể đoán chắc rằng cái ghế nhà quan không hề đơn giản như ngai vua.

Cũng có một số hình ảnh chỉ bị lộ ra khi quan huyện bị khám nhà, chụp hình đăng báo để dễ hình dung. Như nhà ông Đặng Thanh Minh, phó bí thư kiêm chủ tịch huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu). Lúc ông Minh bị công an bắt (2022), công an tới xét nhà, ông Minh ngồi trên cái ghế làm bằng gỗ quý, chạm khắc hình hai con rồng bên tay vịn. Bộ ghế này bự mấy lần ngai vua nhà Nguyễn.

Bộ ghế nhà ông Đặng Thanh Minh, phó bí thư kiêm chủ tịch huyện Xuyên Mộc. (Hình: báo Bà Rịa – Vũng Tàu)

Thậm chí các thầy tu cộng sản, sống bằng tiền bố thí của người dân còn ăn xài xa hoa, bàn ghế lộng lẫy hơn ngai vua chứ đừng nói gì các cán bộ quan chức nhà nước. Như ông Thích Trí Quảng, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo CSVN thì thường xuyên ngồi trên những cái ngai gỗ quý tiền tỷ, chạm rồng tinh xảo.

Sự đối lập giữa ngai vàng của các hoàng đế triều Nguyễn và ghế ngồi của quan huyện, sư sãi cộng sản cho thấy sự xa hoa của đám tham quan, ma tăng thời nay khủng khiếp như thế nào. Chưa kể, ngai vua thì chỉ có một, nhưng ngai của các ma tăng sư sãi thì rất nhiều, từ trung ương tới mỗi tỉnh, mỗi huyện, mỗi xã đều có… Mà lũ sâu dân mọt nước đó càng ngày càng nhiều. Người sau tiếp bước người trước, nên ngai quan sẽ ngày một nhiều thêm, chứ không chỉ có một như ngai vua.


 

 “Hai chiếc vali và bài học muộn màng về lòng biết ơn” – Truyện ngắn HAY

Lê Ngọc Công

 Đừng đợi đến khi cha mẹ chỉ còn hai chiếc vali trong tay mới nhận ra ta đã quên dạy con điều quan trọng nhất – biết trân quý những người từng vì mình mà từ bỏ cả đời.

Chiều muộn hôm đó, trong cái lạnh giá len lỏi từng khe cửa, tôi bất ngờ được hai đứa con trai đến thăm.

Một đứa là bác sĩ, đứa kia là kỹ sư. Cả hai đều thành đạt, giỏi giang và có chỗ đứng vững chắc trong sự nghiệp.

Chưa đầy một tuần trước, tôi vừa mất đi người vợ yêu dấu – tình yêu lớn nhất đời tôi. Bà ra đi mang theo một phần hồn tôi, để lại tôi ngơ ngác, trống rỗng, như thể ý nghĩa cuộc sống đã vỡ vụn ngay dưới chân.

Chúng tôi ngồi quanh bàn, trong căn phòng khách đơn sơ của ngôi nhà nhỏ – nơi giờ chỉ còn mình tôi sống.

Cuộc trò chuyện nhanh chóng chuyển sang tương lai của tôi. Một cảm giác buốt lạnh chạy dọc sống lưng.

Chúng bắt đầu bàn đến việc đưa tôi vào viện dưỡng lão.

Tôi gượng người ngồi thẳng, cố giải thích rằng tôi không sợ cô đơn, cũng không sợ già yếu.

Nhưng hai đứa vẫn kiên quyết, với cái giọng giả vờ quan tâm.

Chúng bảo nhà chúng gần biển, rộng rãi nhưng… không đủ chỗ cho tôi ở. Cả hai đều thế.

Chúng nói về công việc bận rộn, về vợ con chúng bận bịu, về các cháu đang học hành không có thời gian thăm tôi. Cuộc sống đầy ắp những lo toan, chúng bảo vậy.

Tôi gợi ý thuê người giúp việc. Nhưng chúng, với lý lẽ rành mạch của giới chuyên môn, bảo phải thuê ba người cho ba ca. Và tất nhiên, phải khai báo đầy đủ. Mà thời buổi này, ai còn kham nổi?

Tôi không muốn bị thuyết phục. Tôi không chịu nổi cảnh bị “đưa đi”.

Nhưng rồi một đề xuất khác lại đến: bán nhà.

Tiền bán đủ để lo chi phí viện dưỡng lão – và như thế, ai cũng “nhẹ lòng”. Chúng nói vậy.

Tôi gật đầu. Không phải vì đồng tình. Mà vì kiệt sức. Tôi không còn sức để chống lại sự lạnh lùng ấy nữa.

Tôi im lặng. Tôi không nhắc đến những đêm thức trắng lo học phí cho chúng, những chuyến du lịch vợ chồng tôi huỷ, những bữa ăn tối từ chối, cái xe cũ mãi không thay…

Tất cả chỉ để tụi nó không thiếu thứ gì.

Nhưng giờ nhắc lại thì để làm gì?

Tôi lặng lẽ xếp đồ. Cả đời người gói gọn trong hai chiếc vali. Chỉ hai chiếc vali.

Tôi bước đi, về một nơi xa hơn, buốt giá hơn – viện dưỡng lão. Xa con cháu, xa cả những ký ức.

Và trong vòng tay lạnh lẽo của cô đơn, tôi hiểu: tôi đã dạy chúng kiến thức, cho chúng bằng cấp, tài sản…

Nhưng tôi đã không dạy chúng điều quan trọng nhất – lòng biết ơn.

Lỗi cũng là ở tôi.

Chúng ta cứ nghĩ yêu thương là cho đi vô điều kiện, là đáp ứng mọi thứ. Nhưng tình yêu thực sự còn là dạy dỗ, là đặt giới hạn, là hướng con biết giúp đỡ, biết chia sẻ, biết gánh vác trách nhiệm trong gia đình.

Biết ơn không tự nhiên mà có. Nó cần được dạy, được gieo trồng.

Bắt đầu từ sự tôn trọng, từ lòng nhận biết công lao của cha mẹ – những người từng hy sinh cả chính mình.

Một ngày nào đó, con cái chúng ta cũng sẽ già.

Và chúng cũng sẽ mong được đối xử bằng tình yêu và nhân phẩm.

Thứ đó không thể mua.

Chỉ có thể gieo từ bây giờ.

Vậy thì, hãy nuôi dạy con bằng cả tình yêu và những giá trị vững bền. Nhưng cũng đừng quên gắn kết chúng bằng sợi dây thiêng liêng của lòng biết ơn.*

Trầm Mặc Huơng Lai

Từ Fb Gaston Thiều


 

TRỪ QUỶ BẰNG THINH LẶNG – Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Rev. Ron Rolheiser, OMI 

 Kinh Thánh tường thuật câu chuyện các môn đệ của Chúa Giêsu không thể trừ được một con quỷ. Khi họ hỏi Chúa Giêsu tại sao lại như vậy, Ngài trả lời có những con quỷ không thể trục xuất bằng lời cầu nguyện.  Con quỷ Chúa Giêsu nói đến trong chuyện này đã nhập vào một người câm điếc.

Tôi muốn nêu tên một con quỷ khác có vẻ cũng không thể bị trục xuất bằng lời cầu nguyện, đó là con quỷ luôn phá hoại các mối liên hệ cá nhân, gia đình, cộng đồng và Giáo hội của chúng ta bằng hiểu lầm và chia rẽ, làm chúng ta mãi mãi khó khăn trong việc hiệp thông mang sự sống đến cho người khác. 

Chúng ta cần lời cầu nguyện đặc biệt nào để trục xuất con quỷ này?  Đó là lời cầu nguyện thinh lặng chung, gần giống với lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker.

 Lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker là gì? 

Tôi xin nói qua về lịch sử Quaker: Quaker là một nhóm các giáo phái Tin Lành, với các thành viên gọi nhau là giáo hữu, nhưng họ thường được gọi là Quaker vì một tuyên bố lừng danh của nhà sáng lập George Fox (1624-1691).  Chuyện kể rằng trước mặt một vài quan chức chính quyền đang cố uy hiếp ông, ông cầm quyển Kinh Thánh lên và nói: Đây là lời của Thiên Chúa, hãy run rẩy đi! (run rẩy = quake).

 Với những người Quakers, nhất là ở thời kỳ đầu, việc cầu nguyện chung của họ chủ yếu là ngồi lại với nhau trong thinh lặng, chờ Thiên Chúa phán với họ.  Họ thinh lặng ngồi, chờ quyền năng Thiên Chúa đến và cho họ điều gì đó mà họ không thể tự đem lại cho mình, cụ thể là sự hiệp thông thực sự để cùng nhau vượt lên các chia rẽ đang chia cách họ.  Dù họ ngồi riêng từng người, nhưng lời cầu nguyện của họ là chung một cách triệt để.  Họ ngồi đó như một thân thể duy nhất, cùng nhau chờ Thiên Chúa cho họ sự hiệp nhất mà họ không thể tự đem lại cho mình.

 Có lẽ đây là việc mà tín hữu Kitô giáo chúng ta có thể thực hành hôm nay, khi thấy mình bất lực trước sự chia rẽ ở khắp nơi (trong gia đình, giáo hội và đất nước)?  Suy cho cùng, tín hữu Kitô chúng ta là một cộng đồng trong Thân thể Chúa Kitô, một cơ thể hữu cơ duy nhất, và khoảng cách vật chất không thật sự phân chia chúng ta được, vì thế có lẽ tín hữu Kitô chúng ta nên bắt đầu cầu nguyện thường xuyên, ngồi lại với nhau trong thinh lặng của phái Quaker, như một cộng đồng, thinh lặng ngồi đó, cùng nhau chờ đợi, chờ Thiên Chúa đến và cho chúng ta sự hiệp thông mà chúng ta không không đủ sức để mang lại cho mình. 

Về mặt thực tế, làm thế nào để được như vậy?  Tôi xin đề nghị: mỗi ngày, chúng ta dành một thời gian để ngồi thinh lặng, một mình hoặc lý tưởng nhất là với người khác, trong một thời gian cố định (15 hoặc 20 phút), với dự định trước hết không phải là nuôi dưỡng sự mật thiết với Thiên Chúa (như trong việc suy niệm riêng), nhưng ngồi với nhau trong sự hiệp thông với tất cả mọi người trong Thân thể Chúa Kitô (và với tất cả những ai thiện tâm ở khắp nơi) để xin Thiên Chúa đến và cho chúng ta sự hiệp thông vượt lên chia rẽ. 

Đây cũng có thể là một nghi thức mạnh mẽ cho hôn nhân và gia đình.  Có lẽ một trong những liệu pháp chữa lành nhất trong hôn nhân chính là hai người thường xuyên ngồi lại với nhau trong thinh lặng, xin Thiên Chúa cho họ điều mà họ không thể tự cho mình, cụ thể là hiểu nhau vượt lên căng thẳng của cuộc sống hằng ngày.  Tôi nhớ hồi nhỏ, gia đình tôi lần hạt chung với nhau mỗi tối, và nghi thức này cũng có hiệu quả như lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, xoa dịu các căng thẳng tích tụ trong ngày, làm gia đình chúng tôi bình an hơn. 

Tôi gọi đây là lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, nhưng có nhiều dạng suy niệm và chiêm niệm khác nhau cũng có cùng ý này.  Chẳng hạn Thánh Eugene de Mazenod nhà sáng lập Dòng Hiến sĩ đã để lại cho chúng tôi lời cầu nguyện gọi là Hương nguyện Oraison.  Ý nghĩa của việc cầu nguyện này là: các Hiến sĩ phải sống với nhau trong cùng một cộng đoàn, nhưng chúng tôi là Hội dòng trải rộng trên 60 quốc gia trên thế giới.  Làm sao chúng tôi có thể hiệp thông với nhau bất chấp khoảng cách? 

Bằng lời cầu nguyện Oraison.  Thánh Eugene khuyên chúng tôi dành nửa tiếng mỗi ngày để ngồi trong thinh lặng, một thời gian để không chỉ hiệp thông với Thiên Chúa, mà còn hiệp thông với mọi Hiến sĩ trên toàn thế giới.  Cũng giống như lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, đây là lời cầu nguyện mà mỗi người ngồi một mình, trong thinh lặng, nhưng hiệp thông, xin Thiên Chúa hình thành nên sự hiệp thông nối kết mọi khoảng cách và khác biệt.  Khi Chúa Giêsu nói có những con quỷ không thể bị trục xuất bằng lời cầu nguyện, là Ngài đang nói về chuyện này.  Có lẽ con quỷ được nhắc đến cụ thể nhất chính là con quỷ hiểu lầm và chia rẽ.  Chúng ta đều biết mình bất lực thế nào trong việc trục xuất nó. Ngồi lại với nhau trong thinh lặng chung, xin Thiên Chúa làm cho chúng ta một điều vượt quá sức chúng ta, như vậy có thể trừ đi con quỷ hiểu lầm và chia rẽ.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI 

From: Langthangchieutim

Giáo sư Vũ Quốc Thúc gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012

Luật Khoa Saigon 67-75Chanh Le

  Uyên Vũ

Nov 23 – 2021

Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc – Cựu Thống Đốc ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, nhà kinh tế học và chính khách VNCH, người góp phần quan trọng trong việc đào tạo môn kinh tế học tại trường Đại học Luật khoa và Trường Hành chính Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa – vừa qua đời tại Paris ngày 22 Tháng 11/2021, hưởng thọ 102 tuổi.

Theo thông báo của gia đình, thánh lễ cầu nguyện cho giáo sư Vũ Quốc Thúc sẽ được cử hành ngày 25 Tháng 11/2021 tại Giáo xứ Việt Nam ở Paris; lễ hỏa táng được cử hành ngày 1 Tháng 12/2021.

Gia đình Giáo sư Vũ Quốc Thúc vốn không phải là Kitô hữu, ông đã đón nhận đức tin vào Chúa, gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012. Theo trang vncatholic thì:

“Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.

Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng “Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Saigon, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng”.

Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói : « Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh».

Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

Xin Chúa đón nhận linh hồn Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc sớm hưởng nhan thánh Chúa.


 

Thăm trại Tị Nạn Mã Lai và Nam Dương sau 50 năm viễn xứ – Nguyễn Ngọc Duy Hân

 Nguyễn Ngọc Duy Hân

Tôi đã về lại Toronto – Canada bình an sau 3 tuần lang thang ở Mã Lai và Nam Dương, chủ yếu là đi thăm các hòn đảo từng là nơi tạm trú của thuyền nhân Việt Nam. Tạ ơn Chúa, cảm ơn mọi người, tôi đã  được học hỏi thêm về tình người, về quê hương và tin rằng nhờ thế có thể sống tốt hơn.

Âm vang câu hát “Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương, Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác. Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong” vẫn còn vang vọng trong lòng. Số là mỗi khi thắp hương cầu nguyện trước mộ phần các thuyền nhân xong, chúng tôi đều hát và thấm thía hơn bao giờ hết nỗi đau qua những nốt nhạc này.

Lịch trình thăm viếng của nhóm chính thức bắt đầu vào thứ Hai 28 tháng 4, 2025, nhưng 3 anh em Toronto chúng tôi đã ra phi trường từ 24 tháng 4. Đi sớm mấy ngày để ghé thăm thành phố Kuala Lumpur và nghỉ ngơi. Chuyến bay dài gần 21 tiếng, cộng thêm giờ phải tới sớm, giờ chờ chuyển tiếp máy bay nên tổng cộng lượt đi và về hết khoảng 60 tiếng đồng hồ. Ôi chuỗi thời gian dài ớn quá là ớn. Mà khi tới nơi rồi cũng có yên đâu, suốt ngày thường xuyên chúng tôi phải ở trên xe bus, xe van, trên tàu lớn, tàu nhỏ hoặc máy bay nhỏ… “Thôi rồi còn chi đôi mông tôi!” Ba tuần lúc nào cũng bồng bềnh chênh vênh, nên mỗi khi được đặt 2 chân xuống mặt đất thì thấy thật là hạnh phúc! Giá mà Elon Musk chế xong được cái ống chui tọt vào là tới nơi thì hay biết mấy.

Nhớ lại cách đây gần 10 năm, khi đó ông xã còn sống, chúng tôi có đi hành hương châu Âu với nhóm nhà thờ, mà tôi là một trong những người tỉnh táo để giúp các bác lớn tuổi hơn kéo hành lý, trả lời họ hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu, ngày mai sẽ làm gì. Thế mà bây giờ tôi lại chính là một trong những “bác” lớn tuổi đó, tức là cần người giúp di chuyển vali, cần người trả lời hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu hoặc ngày mai sẽ làm gì. Rõ chán!

Bây giờ xin được xuống câu vọng cổ chia sẻ lý do tôi tham dự chuyến đi này. Trong nhóm có các anh chị không biết vượt biên là gì nhưng vẫn hăng hái tìm về nguồn, cũng có các anh chị dù không phải trong ban tổ chức, mà vẫn tham dự nhiều lần chỉ để thắp hương cầu nguyện ở các mộ phần – thật là cao cả, cũng có một số em trẻ đi theo cha mẹ. Riêng tôi thì thú thật xem qua chương trình chẳng lấy gì làm hào hứng. Gì đâu mà ngày nào cũng đi thăm nghĩa trang, mà tôi biết thời tiết ở các nơi này rất nóng, lại phải trèo đèo lội suối ở các nơi đầy muỗi mòng, khỉ ho cò gáy theo đúng nghĩa đen. Hơn nữa, thời gian cuối tháng Tư 2025, tôi muốn ở nhà để giúp tổ chức 50 năm Quốc Hận tại tòa thị sảnh Toronto và quốc hội Ottawa – đây là truyền thống chúng tôi chưa vắng mặt năm nào. Tôi lại đã đóng tiền cọc để đi du thuyền qua Âu Châu chơi với nhóm bạn, rồi công ty tôi đang làm cũng khó cho phép vắng mặt liên tục 3 tuần…. Đủ thứ lý do tại, bị, thế mà cuối cùng tôi cũng được đi với nhóm, thật là một điều quá vui mừng. Nghĩ lại nếu không đi, tôi sẽ hối tiếc nhiều lắm.

Tôi đã thực hiện dùm ý nguyện của ông xã. Khi đi qua các hòn đảo kỷ niệm nơi anh từng đặt chân đến, tôi đã thở phào thầm nghĩ “Mission Completed”. Rất buồn là ông xã – anh Nguyễn Ngọc Duy – mới qua đời cách đây 7 tháng vì bệnh phổi lúc 65 tuổi. Từ nhiều năm nay, lúc nào anh cũng ước ao về thăm lại đảo Air Raya rồi trại tị nạn Galang, nơi tôi và anh đã gặp nhau, nhưng lần nào cũng có trở ngại. Những ngày cuối đời anh lại nhắc tới trại tị nạn nhiều hơn, nên tôi rán đi dùm anh dù biết đi một mình sẽ rất buồn.

Bây giờ xin kể sơ về chuyến hành trình. Nhóm có 233 người ghi danh đi thăm các đảo ở 3 nước Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân. Có người chỉ đi một quốc gia rồi về, tôi và một số đông thì đi 2 nước, còn lại khoảng 50 người thì đi cả 3 nơi. Số người tập trung đông nhất ở một thời điểm là trên 100 người. Thật là khẩu phục tâm phục ban tổ chức, nào là đón tiếp hướng dẫn ở từng chặng đường, lo xe, lo khách sạn, giúp vé máy bay, rồi đặt thức ăn, sắp xếp chương trình khoa học và ý nghĩa. Sau chuyến đi chắc hẳn họ già hơn nhiều vì căng thẳng lo lắng.

Riêng cái chuyện sắp hàng đi vệ sinh cũng là vấn đề lớn. Tôi đã nói đùa khi người thứ 100 “xả nước cứu thân” xong, là đã đến lúc người số 1 cần đi nữa rồi! Các vùng hẻo lánh này nhà vệ sinh rất ít, có nơi còn là loại cầu tiêu xưa, nghĩ lại còn rét dù trời nóng hừng hực! Thế nhưng chúng tôi luôn tận dụng thời gian sắp hàng mà trò chuyện rôm rả, mang bánh trái ra mời mọc nhau nên cũng thấy bớt chán. Nhớ quá những cây cà-rem do thầy Tấn Phước đãi. Nhóm thường đi bằng 2 xe bus lớn và một xe van nhỏ, hôm đó thầy mua kem cho mọi người, nhưng 1 xe bị lạc nên xe của chúng tôi phải ăn dùm hai phần. Trời nóng mà ăn kem vừa mát vừa ngọt vừa thơm mùi sầu riêng thì không gì thích thú bằng. May mắn hơn xe chúng tôi lại có cha Phạm Quang Hồng ở Úc đi cùng, nên lúc nào cũng tràn đầy tiếng cười, mà cũng hại não lắm vì cha hay đố những câu khó quá!

Nhóm lại có Youtuber Trương Minh Quân với channel TmQ nổi tiếng, lúc nào chương trình cũng được livestream với 40 ngàn người xem. Tôi ở trại mà bạn bè Toronto thường xuyên gởi video thâu từ TmQ cho xem, nhắc là đã thấy Hân ở phút số mấy trong youtube. Vấn đề xài tiền cũng khá rắc rối, tới Mã Lai phải xài tiền Mã, tới Nam Dương phải xài tiền Indo, nhưng nhóm thì có người tới từ Mỹ, có người tới từ Canada, Phần Lan, Úc…. nên chả chục thứ tiền đủ màu đủ loại, đổi qua đổi lại cũng khá nhức đầu!

Ngoài ban tổ chức là nhóm anh em bên Úc như anh chị Sơn-Anh, anh chị Minh-Thanh và bác sĩ Ken, còn có cô Heidi (Hay Đi!), cô Ngọc Ân, anh Long, bố con anh Chính và vài nhân vật rất đặc biệt. Từ khi ghi danh thì chúng tôi đã thường xuyên nhận được bản tin với nhiều chi tiết hữu ích từ anh Sơn. Cháu Ken ở Cali là một nam bác sĩ cao ráo giỏi giang, tấm lòng hy sinh yêu người không biết dùng chữ gì để diễn tả. Một cậu trẻ khác là Jammy sinh ra ngay tại Bi Đông, đi với nhóm lần này là lần thứ 2. Được biết lần đầu Jam đi thì hiểu tiếng Việt rất ít cần thông dịch, nhưng lần này tiếng Việt của cháu đã rất khá. Jam đẹp trai vui vẻ, ai cũng muốn làm mai gả con gái, cháu gái cho. Vào đúng sinh nhật của Jam trong tháng 5, cháu đã tìm cách để được về đứng ngay bệnh viện xưa – nơi Jam sanh ra để chụp hình và “thu thập năng lượng”. Vài cháu khác đi với cha mẹ, nhưng cũng rất hòa mình không tỏ vẻ khó chịu hay bị ép uổng gì cả. Chúng tôi mừng lắm vì có giới trẻ tham gia. Trong nhóm có ít nhất 4 anh, chị không biết trại tị nạn là gì, vì không phải là thuyền nhân, chân nhân hay phi nhân. Họ rời Việt Nam từ 30 tháng 4, 1975 nhưng vẫn muốn tìm về nguồn cội, lịch sử. Một vài anh chị cũng đã tham dự các chuyến này nhiều lần, còn nhớ được đường đi trèo đèo lội suối để đi thăm đầy đủ các khu bia mộ. Ai nấy đều quá chân thành, dễ thương, chăm sóc an ủi nhau… thật là cảm động và quý giá. Tôi vốn bi quan, thường cho rằng người tốt trên đời này không còn bao nhiêu, nhưng qua hành trình này tôi mới cảm nghiệm được “bông hoa còn đẹp, lòng chưa thấm mệt” (thơ Phạm Thiên Thư).

Bây giờ tôi xin sơ lược về lộ trình. Mọi người đã tập trung tại địa điểm đầu tiên là phi trường số 2 Kuala Lumpur – Mã Lai để cùng đi xe bus thăm nghĩa trang đầu tiên tại Terengganu. Sau đó ngày nào cũng thăm viếng nhiều khu mộ tập thể hoặc mộ cá nhân không bỏ sót khu vực chôn cất nào như Kuantan, Dungun, Kota Baru, Besut, Cherang Ruku, Panji, sau đó thăm Romping, Endau, Mersing… Đặc biệt nhóm đã thắp hương trước ngôi mộ tập thể chôn xác nhiều người, trong đó có vợ và con của MC & nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn.

Ban tổ chức cũng sắp xếp để mọi người được viếng mộ các vị đại ân nhân như ông Alcoh Wong, ông Heng… Quý ông này là một trong những người Trung Hoa ở Mã Lai đã bỏ công sức và tình yêu nhân loại để tìm vớt xác, chôn cất rất nhiều thi thể thuyền nhân Việt trôi dạt vào bờ biển Mã Lai hơn 40 năm trước. Ông Wong và thân hữu cũng đã in một cuốn sách tài liệu với chi tiết lịch sử, bản đồ, tên họ của các thi thể mà họ chôn cất. Ban tổ chức đã liên lạc trước với thân nhân của ông Wong, ông Heng và mời họ đi ăn chung với nhóm để tỏ lòng biết ơn. Bà Wong vẫn còn sống và đã giúp rất nhiều trong việc đặt khách sạn, nhà hàng… Bà từng là chủ tịch hội phụ nữ Trung Hoa ở Mã Lai, tuy sức khoẻ kém nhưng luôn có mặt với nhóm. Một người em trai trong gia đình ông Wong khi phải vớt xác người chết chìm trên biển, đã chịu sốc tâm lý nên phải phát nguyện cạo đầu, cầu nguyện. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để nói hết lòng khâm phục và biết ơn những đại ân nhân này, được bắt tay họ tôi rưng rưng nước mắt.

Sinh hoạt chính tại Mã Lai là cuộc hội ngộ tại đảo Bi Đông, nơi từng có hằng trăm ngàn người Việt Nam tạm trú trong khi chờ đi định cư ở quốc gia thứ ba như Mỹ, Úc, Canada, Pháp… Đúng ngày Quốc Hận lần thứ 50 là 30 tháng 4, 2025, nhóm đã có một buổi lễ thật ý nghĩa ngay tại bờ biển Bi Đông, cùng Chào Cờ hát quốc ca Việt Nam Cộng Hòa và tôi được hân hạnh đọc phút Mặc Niệm trong buổi lễ. Sau đó nhóm đi vòng quanh biển với lời cầu nguyện của thầy Tấn Phước và cha Quang Hồng, cùng đốt nến, giấy vàng mã, hương trầm cầu nguyện cho người đã khuất và cho quê hương Việt Nam. Tối hôm đó và nhiều đêm sau, nhóm luôn có các buổi hội ngộ tâm sự, ca hát, đốt lửa trại thật cảm động. Đây cũng là cơ hội cho mọi người thi thố tài năng – nào là ngâm thơ, đơn ca, hợp ca với tiếng đàn guitar và kèn harmonica sống động, cũng như dàn Karaoke khá tốt.

Điều mắc cười là tôi vốn khó ngủ, nên xin trả thêm tiền để có phòng riêng tại các khách sạn, thế mà khi ở Bi Đông, không có khách sạn phải ngủ ngoài lều, có lều tới 20 người, thì tôi lại ngủ ngon hơn hết. Có người gọi Bi Đông là Bi Đát, thật không sai với bao câu chuyện bi thương đáng nhớ, chẳng hạn câu nói luôn được lưu truyền “Tình Bi Đông có list thì dông”, tức là tình cảm yêu thương chỉ là tạm bợ, khi được lên list đi định cư thì mọi hứa hẹn liền chấm dứt.

Ngôi chùa tên là Từ Bi còn sót lại vừa có nghĩa là từ bi bác ái, vừa cũng có nghĩa là từ Bi-Đông mà có. Các người đi trước đã kể lại vài câu chuyện tâm linh khá hi hữu, như chuyện ngay sau khi phái đoàn thăm viếng khu mộ tập thể, thì hoa vàng bỗng rộ nở rất nhiều, hoặc một đàn bướm vàng mấy trăm con bỗng xuất hiện bay lượn ngay trên các ngôi mộ, mà theo dân địa phương thì khu này rất ít khi thấy bướm. Một ông người Hoa giúp việc trùng tu các ngôi mộ đã mua vé số với số tàu của người tị nạn, thì đã trúng độc đắc. Ông đã trích ra một phần tiền trúng để bỏ vào quỹ trùng tu. Cũng có nhiều chuyện ly kỳ khi người chết báo mộng để gia đình tìm ra thi hài, hoặc cho biết mộ bị nứt hay tên họ trên tấm bia đã bị khắc sai…

Nhóm cũng đã được tận mắt nhìn bức tượng “ông già Bi Đông” mà thương xót cho những mảnh đời kém may mắn, phải tìm sự sống trong cái chết.

Chúng tôi cũng được đi thăm một quán cà-phê sang trọng nằm dọc theo bờ biển, thuộc khách sạn 5 sao làm từ chiếc thuyền tị nạn mà họ đã mua của Liên Hiệp Quốc. Bảng khắc ghi chú các chi tiết về Boat People rất rõ ràng cảm động.

Vào 2 tháng 5, 2025 nhóm đã rời Mã Lai để cùng đi tới Nam Dương bằng phà qua đảo Batam, mà chúng tôi gọi là Bà Tám cho dễ nhớ. Indonesia là mục tiêu chính mà tôi muốn thăm viếng, vì tôi và ông xã đã từng ở đó. Chúng tôi thăm viếng nghĩa trang thuyền nhân Việt Nam, nhà bảo tàng, nhà thờ Công Giáo, chùa Quan Âm, miếu Ba Cô, bãi biển Galang…Tiếc là rất nhiều di tích ở khu Galang 1 đã bị xóa mất sau gần 50 năm, chẳng hạn các địa điểm như văn phòng Cao ủy, Ban điều hành trại, Trung tâm huấn nghệ, Youth Center, tòa soạn báo Tự Do, đạo quán Hướng Đạo, đồi Nhà thờ, bệnh viện ICM …. đã không còn nữa.

May mắn là ở Galang 2, chính quyền Indo đã cho trùng tu, làm museum với nhiều ảnh chụp, mô hình, đền thờ Mẹ Maria và bản đồ Việt Nam rất lớn. Đặc biệt có 14 chặng đàng Thánh Giá của Chúa Giesu làm trên 14 con tàu tị nạn vừa to vừa đẹp để thu hút du khách. Chúng tôi đi xe bus hoặc thuyền qua các đảo nhỏ như Letung (gọi theo tiếng Việt là Lê Tùng), Air Raya, Keramut, Tarempa, biển Padang Melang, khu phố shopping Nagoya… Chúng tôi được ban tổ chức sắp xếp đến tận nơi thăm viếng, tặng quà cho các cô nhi viện, trường học, nhà dưỡng lão… thật là cảm động. Các em học sinh tiểu học tại 4 trường mà chúng tôi ghé thăm đều mặc đồng phục thật đẹp để chào đón khách, ca hát rất dễ thương. Các em và dân địa phương đều rất hiền lành, khuôn mặt lộ ra nét chân thành đáng mến, không thấy trộm cắp lừa lọc, không ai phải đề phòng kẻ gian, đời sống thật là an bình.

Tại Galang chúng tôi được đi ngang cầu tàu, nơi từng có bảng để chữ “Cửa ngõ của Tự Do và Tình Người”. Người ta cũng có câu “Galang tình xù”, nhưng tình cảm của tôi và anh Duy thì may mắn thay không bị xù! Chúng tôi quen nhau ở Galang, thề hứa và đám cưới ở Cali sau 3 năm rời khỏi trại tị nạn. Tôi đi Cali mang quốc tịch Mỹ, còn anh đi Toronto mang quốc tịch Canada. Một người họ Nguyễn, một người họ Trịnh, tuy có phân tranh nhưng sống với nhau 40 năm ở Toronto tạm ổn cho tới khi anh mất vì bệnh phổi. Cầu tàu này là nơi đưa tiễn của biết bao người. Nhớ làm sao những lon coca cola, những ly milo sữa đá, những chai bia, những bao thuốc lá hiếm hoi … Chúng tôi cũng rất xúc động khi đi ngang khu vực được gọi là “Con đường Máu” – nơi các thuyền nhân Galang đã từng phải xuống đường biểu tình. Gần 20 người đã phải tự sát khi bị cưỡng bức hồi hương vì không đủ tiêu chuẩn tị nạn. Quân đội Indonesia đã từng phải vùng vũ lực để can thiệp. Chúng tôi cũng được thăm 2 ngôi mộ của “Romeo và Juliet”, là đôi nam nữ trẻ đã phải tự vẫn vì gia đình hận thù không cho cưới nhau sau khi đã vượt biên thành công. Cũng có một số ngôi mộ của những người ăn cháo rắn bị trúng độc chết, hoặc uống rượu pha cồn nên cháy ruột mà qua đời, thật là buồn và đáng tiếc vì đã thoát được Việt Nam nhưng vẫn không đến được đất định cư.

Nhóm cũng dành thời gian viếng Miếu Ba Cô dưới tàng cây bồ đề to lớn tại Galang 2. Câu chuyện được kể lại là có hai cô gái bị hải tặc xâm hại nên rất mặc cảm, đau khổ. Người Việt lúc đó lại không ý tứ, hay xầm xì chỉ trỏ, 2 cô lại không đủ bằng chứng pháp lý để được nhận đi định cư. Giọt nước làm tràn ly khiến hai chị em cùng quyết định treo cổ trên cây là khi họ bị vu oan ăn cắp chiếc bóp của nhân viên Cao ủy. Nghe nói có 1 cô gái khác vì ghen tức với sắc đẹp của cô em, mà cô em này lại được con trai người chủ tàu yêu thương, nên chính cô gái này đã lấy cái bóp bỏ vào phòng đổ oan cho 2 chị em. Ngày 2 chị em quyên sinh trước lúc họ được chấp nhận đi định cư chỉ một ngày.

Chúng tôi cũng nghe nhắc lại câu chuyện thương tâm của 12 cô gái Việt bị cướp biển hãm hại, bọn quỉ dữ trói 12 cô khỏa thân lại thành một chùm rồi thả trôi trên biển. Người ta chỉ thấy 11 xác, nhưng vì có nút thòng lọng thứ 12, nên tin là đã có 12 nạn nhân xấu số. Tôi vốn mít ướt nên khóc sướt mướt khi nghe chuyện, và thắc mắc bọn ác độc bắt các cô cưỡng hiếp đã đành, nhưng sao lại phải bỏ công cột xác lại thả trôi? Câu trả lời là bọn này có lẽ mắc bệnh bạo dâm, muốn cảm giác mạnh, muốn chơi trò ma quỉ! Ôi lòng dạ con người, ôi đau khổ và hệ lụy sinh ra từ cộng sản, làm sao tả hết những đau thương nhục nhã, làm sao để xóa bỏ nỗi đoạn trường từ những câu chuyện vượt biên.

Xin lỗi nãy giờ kể toàn chuyện buồn, tôi xin thay đổi kể vài chuyện nho nhỏ vui hơn. Ngoài đi thăm bia mộ, chúng tôi cũng được đi tắm biển vài lần. Có một khu vực gọi là “Water of God” là nơi biển rất vắng, thuộc loại đặc biệt được bảo tồn với nước trong xanh và san hô thật đẹp. Một vài anh chị hơi ngần ngại vì con thuyền đưa nhóm đi tới khu này hơi nhỏ, áo phao cấp cứu lại cũ kỹ nên quyết định về lại khách sạn. Tôi thì thầm nhủ cứ liều, chết thì về với anh Duy lo gì! Nhưng số tôi cũng lớn nên đã trở về toàn mạng, mang theo một bụng nào là nước dừa tươi, nào là cá biển mực nướng thơm ngon được dân địa phương phục vụ ngay tại bãi biển. Cũng được biết trái thanh long và rau muống trên các vùng đất Nam Dương là do người tị nạn Việt Nam mang tới, và dân địa phương rất trân trọng loại giống mới này.

Tôi cũng đi thăm viếng các ngôi chùa, đền thờ Hồi giáo lớn, 2 lần được đi xe ôm dạo phố. Một lần do cô Indo làm bếp tại Homestay cho quá giang đi chợ chung. Lần khác 4 chị em chúng tôi trả tiền đi vòng quanh đảo Tarempa chung với nhau bằng xe hai bánh, xem thác 7 tầng. Cảnh chiều trên đảo vắng thật đẹp với sương mờ bảng lảng, nhưng có một đoạn dài ông tài xế bị lạc, trời lại tối nên tôi khá lo sợ. Không rõ bác tài lạc đường hay ông ta cố ý đem tôi đi bán! Nhưng nghĩ lại nếu cần bán, chắc họ đã chọn các cô gái trẻ đẹp, loại ốm yếu sắp về hưu như tôi thì đâu có ai mua. Nghĩ vậy nên tôi yên tâm, và may mắn thay chúng tôi đã trở về không suy xuyển gì!

Tôi lại được một thời gian dài không phải đi làm, ngày 3 bữa thịnh soạn không phải nấu ăn thật là sung sướng, nhưng báo hại bị lên mấy ký, lại thêm bị muỗi và rệp cắn nên rất “mập mình”. Tôi tên Hân, nếu nặng thêm tức là thêm vào dấu nặng, thì từ “Hân” hoan sẽ trở thành “Hận” thù, thật không nên nặng thêm tí nào!

Điều thú vị trong chuyến đi hầu như ai cũng khóc, cũng mít ướt kể cả các anh to con, râu ria tướng tá nhìn rất “ngầu”. Ừ nhỉ, nhắc tới kỷ niệm, mất mát và biệt ly ai mà cầm lòng cho được. Trên các con tàu và các nơi dừng chân, chúng tôi đều có những lá cờ Vàng Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới. Nhóm lại treo thêm 4 lá cờ lớn là cờ Indo, cờ Mã Lai, cờ Phi Luật Tân và Việt Nam ở các sinh hoạt chính nên nhìn rất trang trọng và ấm cúng.

Chúng tôi cũng nhắc tới những đêm Noel ở nhà thờ Galang, người ta đốt hai hàng đuốc dọc theo đường đồi, tạo ra hình ảnh rất đẹp. Chúng tôi nhớ tới Linh Mục Dominici và Mục Sư Flemming, cả hai đều giỏi tiếng Việt và giúp người tị nạn rất nhiều. Ngày mới tới Galang được nhóm Tin Lành phát cho mỗi người một túi bánh kẹo và sách vở chúng tôi rất quý. Riêng cha Dominici thì khá thân với chúng tôi. Hồi đó bạn bè nói anh Duy là con cưng của cha Dominici. Quả vậy, anh Duy từng là đoàn trưởng Đoàn Thanh Niên Công Giáo, suốt ngày lo làm chuyện xã hội như sửa đường đi, giúp xây phòng tắm kín đáo hơn, giúp tổ chức picnic, văn nghệ… Các bác già thuộc Hội đồng Giáo xứ xin tiền làm công tác có khi bị từ chối, nhưng nếu anh Duy gặp cha Dominici trình bày kế hoạch sinh hoạt cho giới trẻ, thì cha đồng ý ngay. Riêng tôi cũng có duyên may được nhận làm việc cho báo quán Tự Do ở Galang với lương tháng khá cao. Tôi cũng được may mắn trúng giải thi thơ năm 1981, với bài thơ “Nước Mắt Yêu Thương” mà chị Ánh Linh đã diễn ngâm lại trong buổi đốt lửa trại.

Cha Dominici giúp chuyển thư của trại viên cho thân nhân, bênh vực người tị nạn bị hà hiếp, sáng lập báo Tự Do, viết cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi” và nhiều bài báo rất ý nghĩa. Bài này dài quá rồi tôi xin được nói về cuốn sách của cha trong một dịp khác. Ngày cha mất vì ung thư ruột già, chúng tôi ở Toronto có tổ chức lễ cầu nguyện và tri ân tại 2 nhà thờ ở Toronto, người không Công Giáo cũng tham dự khá đông và rất cảm động. Chúng tôi cũng từng được cơ hội đi “Tĩnh Tâm” với cha ở tại Toronto, hiểu rằng chính bản thân Chúa Giêsu cũng từng phải đi sang Ai Cập tỵ nạn. Cha đang được đề cử để phong chức Chân Phước trong đạo Công Giáo.

Chúng tôi về lại Toronto an toàn vào khuya ngày 14 tháng 5, 2025, trong khi nhóm vẫn tiếp tục đi thăm Phi Luật Tân. Cho tới bây giờ trong Whatsapp Group, chúng tôi vẫn luôn thường xuyên nhận được hình ảnh, video, sáng tác nhạc, chia sẻ tâm tình để ân tình còn mãi, và đặt hy vọng vào những lần gặp gỡ khác trong tương lai.

Khép lại chuyến trở về quá khứ để hiểu rõ thêm thân phận thuyền nhân và hoàn cảnh người tị nạn, sống lại một lần nữa với kỷ niệm, tôi thấy mình quá may mắn và thật lòng trân trọng khoảng thời gian này. Tôi nhủ lòng đừng quên những hy sinh mà thế hệ người tỵ nạn Việt Nam trước đó đã gánh chịu – để mang lại đời sống tự do và dân chủ cho các thế hệ sau. Xin đặc biệt tri ân ban tổ chức và từng người trong nhóm, nhất là hai anh Nhỏ và Kiệt trong nhóm Toronto đã giúp tôi trong suốt đoạn đường. Tôi lại càng hiểu rõ hơn giá trị của Tự Do, càng biết mình phải cố gắng hơn nữa để góp phần trao ra, học gương hy sinh dù chỉ với những việc và tâm tình đơn sơ nhất. Vài người bạn rủ tôi vận động xin thêm ít tiền để nhóm gia đình Bi Đông có thêm chi phí mà tu sửa mồ mả, làm thêm các di tích của thuyền nhân. Tôi chưa biết mình sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ góp tay dù những việc bé nhỏ nhất. Xin tri ân tận đáy lòng, và cũng không quên cảm ơn ông xã đã phù hộ cho tôi có một chuyến đi thật ý nghĩa và bình an.

Nguyễn Ngọc Duy Hân