Chúa Cha mặc khải cho những người bé mọn – Cha Vương

Một ngày tươi vui ấm áp trong Chúa và Mẹ nhé. 

Cha Vương

Thư 6: 5/12/2025.  (t3-23)

TIN MỪNG: Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Lc 10:21)

SUY NIỆM: Bạn thân mến, cuộc hoán cải thật sự không khác gì hơn là hành động của Thiên Chúa bên trong tâm hồn bạn chứ không phải nỗ lực của bản thân mình. Hãy hình dung rằng Chúa là cái áo phao giúp bạn nổi trên mặt nước. Dù tài bơi lội của bạn có cao siêu đến đâu, rồi đến một giây phút nào bạn sẽ bị đuối sức và bị cuốn đi bởi sức mạnh của nước. Để đảm bảo cho sự sống còn bạn phải cộng tác với Chúa, bạn phải bám vào áo phao! Thánh Phaolô khuyên nhủ rằng hãy mặc lấy tinh thần của Đức Kitô; thì mới có được tinh thần của Đức Kitô. Những ký ức bị tổn thương trong quá khứ, những nghiện ngập đang huỷ hoại thân xác và linh hồn, những mối quan hệ không lành mạnh… chúng đang đè nặng và khéo bạn xuống tận đáy sâu của biển cả. Bạn cần phải đưa nó đến cho Thiên Chúa và để cái ách nhẹ nhàng êm dịu của Chúa chạm vào tâm hồn bạn và đổi lấy sự hoán cải và chữa lành tận căn. Nói cái khác đi là bạn phải trở thành kẻ đơn sơ: đơn sơ với Chúa, đơn sơ với lương tâm và đơn sơ với mọi người. Như Chúa dạy hôm nay đơn sơ là điều kiện để được gần bên Chúa và được Chúa ban ơn. 

LẮNG NGHE: Lòng kính sợ ĐỨC CHÚA làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. (Is 11:3-4a)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin thanh lọc và tẩy sạch tâm hồn của con, bạn cho con ơn hoán cải để con trở nên đơn sơ bé mọn trước mặt Chúa.

THỰC HÀNH: Nhìn lại những tổn thương trong quá khứ và xin Chúa tẩy sạch trong bí tích hoà giải.

From: Do Dzung

Trẻ Thơ Đơn Sơ – Bé Mỹ Kiều – (St: Sr Têresa) 

BÀI GIÁO KHOA CŨ

Xuyên Sơn

Bài học cũ, đơn giản nhưng dạy trẻ con biết hoài niệm, biết nghĩ về những gì đã có.

Đọc lại một trang giấy nhỏ, đã cũ, đã bị phế bỏ, mà nghĩ rằng người viết chẳng có chức phận hay quyền hành gì, nhưng họ hành động như một người Việt buộc phải cẩn trọng trách nhiệm với trăm năm sau.

Chỉ tự tâm niệm mà cẩn trọng.

Không cần phải có một tôn giáo hay lý tưởng vĩ đại nào, chỉ cần một tấm lòng học làm người, biết thương nhớ mẹ cha, đã là một công dân tử tế trên nước Việt.

“Con không cần phải khấn, vì hồn mẹ lúc nào cũng phảng phất bên con”.

Thật ra, câu văn chỉ là một lời an ủi. Nhưng cảm động đến có thể rơi bước mắt. Lời dạy còn âm thầm nhắc rằng khi hành động bất kỳ điều gì, đều có một lương tâm truyền đời dõi theo và nhắc nhở.

Nếu không có mẹ cha và người đi trước, thế hệ hôm nay dễ dàng trở thành hành động, suy nghĩ vô loài.

Chân thành với giáo dục không khó, nhưng cố gắng tạo dáng vẻ cho giống như giáo dục thì rất khó.

Nhiều năm cải cách, gắng gượng thay đổi sách giáo khoa cho thấy một tương lai dân tộc rất mơ hồ: một hệ thống vật vã, gượng gạo tạo ra cái mới – rất giả tạo – bởi mang quá nhiều mặc cảm với cái cũ đã hoàn chỉnh từ một thể chế khác.

Sẽ chẳng ngạc nhiên, khi hôm nay, mọi thứ giả dối đang lên ngôi:

Giả trí thức, giả văn bằng, giả học vị… và cuối cùng là giả làm một người yêu nước.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh


 

NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG

Xuyên Sơn

Phật không phải vị thần, cũng không phải thượng đế và cũng chẳng phải giáo chủ gì hết.

Phật là trạng thái tỉnh, còn chúng sinh hiện nay đang trong trạng thái mê.

Phật là người đã giác ngộ.

Giác là tỉnh, Ngộ là nhận ra.

Còn chúng sinh là những người chưa tỉnh.

Đức Phật là người tỉnh, truyền lại cách tỉnh lại cho nhân gian. Đơn giản vậy thôi. Tớ tỉnh rồi, tớ nhận ra và muốn giúp các bạn tỉnh. Không phải sáng lập phái, cũng không áp đặt.

Loài người mới tiến bộ tới mức chấp nhận sự bình đẳng của mọi người từ màu da sắc tộc đến xuất thân.

Phật coi vạn vật bình đẳng, từ cỏ cây hoa lá chim muông bình đẳng như con người hết. Không phân biệt, thậm chí không phân biệt ta và ngoài ta luôn.

Đức Phật là người, cái ngài tìm thấy gọi là Đạo.

Đạo vốn có hằng có và tự có như vậy. Ngài không sáng tạo ra, cũng chẳng chuyển rời, mà chỉ đơn giản là thấy.

Cho nên không có chuyện Đức Phật di chuyển bốn biển hay hô mưa gọi gió. Ngài cũng chẳng trừng phạt được ai, vì tội xếch mé hay nói xấu Ngài.

Có tu sĩ Bà La Môn đến xúc xiểm, Ngài cũng chỉ dùng lời mà đáp, ông kia nghe thì nghe, không nghe thì không nghe.

Ngài cũng chẳng có Như Lai Thần Chưởng đánh sấp mặt mấy thằng bật Ngài.

Đơn giản, Ngài chỉ là người, và người này đặc biệt là đã tỉnh ngộ.

Đạo đơn giản là các quy luật tự nhiên mà Ngài thấy.

Nghĩa là gì, ra mưa Ngài vẫn ướt.

Gai đâm, Ngài vẫn đau.

Tất cả những gì quyền năng và sự khủng khiếp nhân gian nói về Đức Phật là họ gán như vậy. Và tôi cũng biết luôn rằng, Ngài chẳng cho ai được cái gì.

Làm gì có mà cho. Một xu dính túi cũng không. Những gì cầu khẩn từ một vị thần ban phát là người đời tự tưởng vậy. Họ kính, họ cầu, và họ tự nghĩ vậy.

Đức Phật tuy không cho đời một xu. Nhưng cái cho đời chính là một con đường. Nôm na, ông là bậc thầy và chỉ vẽ. Làm hay không là do người nghe, ông không liên quan, không cấp vốn, không gò ép, không chiêu dụ, không tiếp tay.

Cái thấy và cái biết của Đức Phật không được ngài nói hết kể hết, vì theo ngài đó là vô nghĩa. Sau này, chúng sinh ngộ sẽ tự biết.

Cái mà Đức Phật truyền duy nhất đó là: con đường diệt Khổ.

Đầu tiên, Ngài xác định đối tượng cần giải quyết. Đó là Khổ.

Chiết nghĩa được từ này chắc cả vạn quyển không xong. Đơn giản, ta cứ gọi là Khổ đã.

Tiếng Anh dịch là suffering  (sự chịu đựng).

Sau này, bạn sẽ hiểu Khổ không phải khổ đau ta hay dùng mà Khổ đơn giản là sự sai lệch giữa kỳ vọng và thực tế. Thực tế mưa, bạn muốn nắng, đó là khổ. Thực tế nóng, bạn muốn lạnh, đó là khổ. Khi nào, thực tế mưa bạn thấy vui, nắng cũng thấy vui, đi qua đống rác thấy thối, nhưng vẫn vui và chấp nhận rác thì phải thối, thì bạn là Phật.

Phật không dạy Cân Đẩu Vân, không dạy biến hình, không dạy thần thông.

Ngồi thiền 49 ngày, rồi quyết định theo con đường Trung Đạo và soạn ra Tứ Diệu Đế cho đời.

Xác định được Khổ, ngài viết là Khổ Đế. Tiếp theo, Ngài dạy nguyên nhân Khổ tức Tập Đế.

Khi biết nguyên nhân Khổ, lại dạy diệt Khổ rồi thì sẽ như nào, tức là Diệt Đế. Diệt Đế nôm na là mục đích muốn tới. Cuối cùng, nắm rõ mục đích, Ngài mới dạy cách đi tới đích tức Đạo Đế, cách diệt Khổ. 

Và cách diệt Khổ có 8 cách tức

Bát Chánh Đạo.

Cực kỳ rõ ràng và khúc chiết.

Không à uôm loằng ngoằng.

Phật chỉ truyền cho nhân gian bốn điều trên, tức Tứ Diệu Đế, bốn chân lý kỳ diệu.

Chúng sinh nắm được bốn điều kỳ diệu trên là đạt con đường tiệm tu đắc quả

A La Hán. Tuy chậm nhưng chắc chắn.

Tức là trước khi ngộ, chẻ củi gánh nước. Sau khi ngộ, cũng chẻ củi gánh nước. Không có biến hình, không có bay lượn, không có siêu giàu.

Tất cả vẫn y nguyên chỉ là trước đây Vô Minh tức ngu, giờ sáng, biết và hiểu quy luật nó thế. Trước khi ngộ, sờ tay bị điện giật. Sau khi ngộ, sờ tay điện vẫn giật, chỉ là biết rồi nên không sờ nữa.

Vũ trụ đất trời vẫn vận hành như trước, chỉ là kẻ ngộ rồi không còn khổ vì thấy nó bình thường, quy luật nó phải thế. Không còn ái ly biệt khổ, cái khổ vì xa cách người mình yêu.

Không còn oán tăng hội khổ, cái khổ vì gặp kẻ mình ghét.

Không còn cầu bất đắc khổ, cái khổ vì cầu không được ước không thấy.

Đức Phật nói rằng nếu yêu quý ngài, noi theo ngài thì cũng chỉ làm được người khôn, chứ không tự tu thì không thành được kẻ ngộ.

Tất cả những hình tượng lập ra để thờ Phật là do đời sau yêu mến, suy tôn và tưởng nhớ nên lập ra, chứ Đức Phật không mong cái đó, cũng không tạo dựng cái đó. Tất cả đều bình đẳng,

và phải tự ngộ, ta chỉ là người vẽ chút kinh nghiệm, các người thấy ta sai thì cứ bỏ mà tự tìm đúng, đừng lạy ta để xin ta.

Ngàn năm mặt trời vẫn thế là bản thể mặt trời. Nhưng nhận thức về mặt trời của con người luôn thay đổi, ngày càng sáng rõ hơn. Thay đổi mãi, đổi mãi để tiệm cận đến bản thể thực sự của mặt trời. Cho dù nhận ra rồi, thì mặt trời vẫn thế, chỉ là con người đó đỡ khổ vì ngu vì vọng tưởng mặt trời thôi. Chứ đừng mong dịch chuyển hay bắn rụng mặt trời…

Nguồn: (alex alpha)

Gia Nguyễn  trích đoạn & biên tập lại từ Duyên Kha Lê Hoàng


 

CHO KHÔNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy!”.

“Đã từ lâu, Thiên Chúa đấu tranh với một nhân loại cứng đầu; Ngài ban cho nó muôn phúc lộc nhưng những món quà này vẫn không chiếm được trái tim nó. Cuối cùng, Ngài phải tự tạo một món khác, chính Ngài! Đó là quà tặng vô giá Ngài trao cho nhân loại – Ngài cho không – và nó không phải trả đồng nào!” – Henry Scougal.

Kính thưa Anh Chị em,

Hướng về lễ Giáng Sinh, thật ý nghĩa khi bạn và tôi dừng lại ở ý tưởng “Giêsu là quà tặng vô giá Thiên Chúa ‘cho không’ mà nhân loại khỏi phải trả đồng nào!”. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận điều đó; và Ngài thêm, “Anh em cũng phải cho không như vậy!”.

‘Cho không’ nghĩa là khỏi mất phí. Đó là những gì? Là mọi điều tốt đẹp hoàn toàn do tình yêu Thiên Chúa chứ không do một công lênh nào của con người. Những ân tứ thiên hình vạn trạng: sự sống, sức khoẻ, không khí, ánh sáng, thời gian – “Chúa sẽ làm mưa trên hạt giống ngươi gieo trồng, cho lương thực, sản phẩm của đất đai, thật dồi dào béo bổ!” – bài đọc một; là những điều ‘thuộc linh’: trí khôn, lương tâm, tình yêu, gia đình, tình bạn, các mối tương giao. Kế đến, sự chữa lành, tha thứ và muôn ân lộc thiêng liêng như Thánh Kinh, Thánh Truyền, Bí tích, giáo huấn Hội Thánh. Ngài ‘cho không’, và chúng ta vui hưởng mà chẳng phải trả đồng nào. Thiên Chúa là Tình Yêu mà “Tình yêu tự bản chất là quà tặng; không thể mua, không thể đòi, không thể ép buộc – chỉ có thể ‘cho không!’” – Von Balthasar.

Thế nhưng, trong muôn một, món quà “Giêsu” vẫn là quà tặng tuyệt vời nhất. Mùa Vọng, mùa biết ơn, mùa vui mừng vì nhân loại đã được trao quà tặng lớn nhất ấy – “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một!”. “Giáng Sinh là tuyên bố của Thiên Chúa rằng, Ngài trao chính mình mà không giữ lại điều chi!” – Karl Rahner. Vì thế, Sinh Nhật của Chúa Giêsu không chỉ là lễ tạ ơn nhưng còn là thời gian nhớ đến ơn gọi của mình: mang Giêsu đến cho người khác, cho những con người “lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt!” – Tin Mừng hôm nay. “Hãy làm mọi điều thiện bạn có thể, cho mọi người bạn có thể, trong mọi khi bạn có thể – ấy là sống tinh thần cho đi!” – John Wesley. Như vậy, Mùa Vọng, mùa Giáng Sinh còn là mùa ‘chạnh thương’ như Chúa Giêsu chạnh thương.

Anh Chị em,

“Chạnh thương như Chúa Giêsu chạnh thương không chỉ là một xúc cảm vật chất, nhưng là “patire con” – cùng đau khổ – tự mình gánh lấy nỗi buồn của người khác. Tôi có chạnh thương khi đọc các tin tức về chiến tranh, đói khổ, dịch tễ? Tôi có chạnh thương với những người gần bên? Tôi có khả năng đau khổ cùng họ, hay tôi ngoảnh mặt làm ngơ và nói, “họ có thể tự lo?”. Đừng quên, “chạnh thương” không chỉ là phó dâng những người anh em chị em cho tình yêu quan phòng của Chúa Cha, nhưng còn là can đảm chia sẻ và ‘cho không!’” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘cứng đầu’ vì Chúa sẽ lưỡng lự khi không biết lấy gì để ban thêm cho con! Cũng đừng để con ‘nhức đầu’ khi phải làm một điều gì đó mà lẽ ra, con phải chạnh lòng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**********************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần I Mùa Vọng

Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 9,35 – 10,1.6-8

9 35 Khi ấy, Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

36 Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. 37 Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. 38 Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”

10 1 Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

6 Đức Giê-su sai các ông đi và chỉ thị rằng : “Hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. 7 Dọc đường hãy rao giảng rằng : Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.”


 

LÊ TRỌNG HÙNG: NGƯỜI ĐÀN ÔNG DÁM TỰ ỨNG CỬ QUỐC HỘI BẰNG MỘT CHIẾC ĐIỆN THOẠI

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Anh Lê Trọng Hùng, sinh năm 1979, từng là một người đàn ông bình thường ở Hà Nội: có vợ, có con, có công việc ổn định. Nhưng anh lại mắc “cái tật” không bỏ được: thấy bà con mất đất khóc ngoài ruộng thì phải quay phim, thấy cán bộ xã chèn ép dân thì phải livestream, thấy người dân không biết quyền của mình thì phải mở kênh YouTube dạy từng điều luật.

Thế là anh cùng vài người bạn lập ra Chấn Hưng Nước Việt Television – viết tắt là CHTV. Không phòng thu, không biên tập viên áo vest, chỉ có một chiếc điện thoại, một cái xe máy và một trái tim nóng. CHTV trở thành “đài truyền hình” của người dân oan: Đồng Tâm, Dương Nội… ở đâu có tiếng khóc vì mất đất, ở đó có mặt anh Hùng.

Anh dạy bà con cách viết đơn khiếu nại, dạy cách đối thoại với chính quyền, dạy cả cách quay phim để lưu chứng cứ. Anh nói chậm, nói rõ, nói bằng thứ ngôn ngữ mà ngay người ít học nhất cũng hiểu: “Quyền của mình nằm trong Hiến pháp, không phải trong miệng cán bộ”.

Rồi đầu năm 2021, anh làm một việc mà cả nước giật mình: tuyên bố tự ứng cử Đại biểu Quốc hội với tư cách độc lập. Không đảng đoàn bảo lãnh, không cơ quan giới thiệu, chỉ một mình anh và lá đơn. Anh bảo: “Hiến pháp cho phép, sao tôi không làm?”

Chỉ chưa đầy ba tháng sau, ngày 27-3-2021, công an đến nhà anh ở quận Đống Đa. Còng tay. Bắt khẩn cấp. Điều 117 – tội “tuyên truyền chống Nhà nước”.

Ngày cuối cùng của năm 2021 – 31-12-2021 – tòa tuyên anh 5 năm tù giam và 5 năm quản chế. Lý do? Vì những video anh quay cho người dân oan, vì những buổi dạy luật miễn phí, vì lá đơn ứng cử mà anh chưa kịp nộp. Tòa nói thẳng: anh “làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền”.

Giờ anh đang ở Trại giam số 6, Nghệ An – cùng trại với thầy giáo Bùi Văn Thuận, luật sư Đặng Đình Bách và nhiều tù nhân lương tâm khác. Người nhà chỉ được thăm vài lần mỗi năm, mỗi lần nhìn anh qua tấm kính, gầy đi, tóc bạc đi, nhưng mắt vẫn sáng. 

Anh Hùng là minh chứng sống động nhất cho nghịch lý của thời đại này:

Một người chỉ dùng chiếc điện thoại để nói thay cho dân oan, dạy dân biết quyền của mình, và dám đứng ra ứng cử như Hiến pháp cho phép – lại bị kết án 5 năm tù vì “đe dọa an ninh quốc gia”.

Trong khi đó, hàng triệu người dân vẫn đang mất đất, vẫn đang khiếu kiện, vẫn đang cần những người như anh Hùng lên tiếng.

Hôm nay, ngày Nhân quyền, chúng ta không thể không nhắc đến anh – người đàn ông đã biến chiếc điện thoại thành vũ khí mạnh nhất: sự thật.

Anh không cầm súng, không kêu gọi bạo lực, anh chỉ cầm điện thoại và nói thay cho những người không có tiếng nói. Vậy mà phải trả giá bằng 5 năm tự do và thêm 5 năm quản chế.

Anh đã bị cướp mất tự do, nhưng không ai cướp được điều anh để lại: ý thức công dân mà anh đã gieo vào từng người dân nhỏ bé nhất.

Tự do cho nhà báo công dân Lê Trọng Hùng!

Thế Bảo


 

PHẠM CHÍ DŨNG: 15 NĂM TÙ CHO MỘT CÂY BÚT ĐỘC LẬP  ĐÃ TỪ BỎ HÀNG NGŨ CHẾ ĐỘ

Kim Dao Lam

Sáu năm trước, vào một buổi chiều cuối tháng 11-2019, không tiếng còi xe công an, không tiếng còng tay, không quá đông công an và vài người đàn ông mặc thường phục “mời” ông Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN),  lên xe. Từ đó, một trong những cây bút sắc bén của báo chí độc lập Việt Nam bị giam cầm sau song sắt.

Ông Phạm Chí Dũng, sinh năm 1966, tiến sĩ kinh tế, cựu sĩ quan quân đội với 30 năm tuổi Đảng. Người đàn ông ấy từng ngồi ở những vị trí mà nhiều người mơ cả đời không tới. Nhưng ngày 5-12-2013, ông làm một việc mà không ai ngờ: nộp đơn xin ra khỏi Đảng với lý do ngắn gọn đến đau thắt: “Đảng không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số nhân dân”.

Từ đó, ông chọn con đường còn lại của đời mình: làm nhà báo, thật sự là nhà báo.

Ông thành lập IJAVN – Hội Nhà Báo Độc Lập Viet Nam, tổ chức đầu tiên và duy nhất dám tự nhận mình là “nhà báo độc lập” trong một đất nước mà mọi tờ báo đều phải có “giấy phép sinh hoạt”. Ông viết hàng trăm bài báo, phân tích kinh tế sắc như dao, phơi bày tham nhũng, lên tiếng cho người dân mất đất, cho ngư dân Formosa, cho những tù nhân lương tâm bị lãng quên. Ông ký tên vào mọi thư ngỏ gửi Liên Hợp Quốc, gửi Nghị viện châu Âu, gửi bất kỳ nơi nào còn sẵn lòng lắng nghe tiếng Việt Nam không qua bộ lọc.

Ngày 5-1-2021, Tòa án Nhân dân TP.HCM tuyên phạt ông 15 năm tù giam về tội “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. 15 năm mức án nặng nề dành cho một nhà báo tâm huyết. Cùng ngày hôm ấy, hai thành viên khác của IJAVN là Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn cũng nhận án nặng. Một thông điệp rõ ràng được gửi tới toàn bộ những ai còn dám cầm bút tự do.

Amnesty International, Phóng viên Không Biên giới (RSF), Human Rights Watch, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ)… đều đồng loạt gọi tên ông Phạm Chí Dũng là “tù nhân lương tâm” và xếp vụ án này vào danh sách những vụ đàn áp tự do báo chí nghiêm trọng nhất khu vực Đông Nam Á những năm gần đây.

Sáu năm trôi qua, ông đã bước sang tuổi 59 trong tù. Không ai được thăm gặp thường xuyên, không thông tin sức khỏe, chỉ có những dòng tin ngắn ngủi lọt ra từ người thân: “Anh vẫn đọc sách, vẫn viết khi được phép, và có lẽ anh vẫn có thể tự hào cười khi nhắc tới IJAVN”.

15 năm tù cho một người từng phục vụ chế độ 30 năm.

15 năm tù cho những con chữ không chịu nói dối.

15 năm tù chỉ để nhắc chúng ta rằng: ở Việt Nam năm 2025, nói thật vẫn là tội nặng nhất.

Ngày Quốc tế Nhân quyền năm nay, chúng ta không thể không nhắc đến ông, người đã chọn từ bỏ mọi đặc quyền để giữ lại một thứ duy nhất: lương tâm của một nhà báo.

Ông Phạm Chí Dũng không còn tự do, nhưng cây bút của ông vẫn đang được hàng trăm người trẻ âm thầm tiếp nối ngoài kia. Họ có thể không dám công khai đứng dưới ngọn cờ IJAVN nữa, nhưng mỗi dòng chữ trung thực họ viết hôm nay có bóng dáng của những người cầm bút can đảm như ông.

15 năm là quá dài với một con người, nhưng quá ngắn để dập tắt một ngọn lửa đã được thắp đúng chỗ.

Tự do cho nhà báo Phạm Chí Dũng!

Tự do cho báo chí độc lập Việt Nam!

Vân Phong


 

3 người Việt bị bắt trong ngày đầu tiên ICE bố ráp di dân ở New Orleans

Ba’o Nguoi-Viet

December 4, 2025

NEW ORLEANS, Louisiana (NV) – Có ba người Việt Nam trong số 16 người bị Cảnh Sát Di Trú (ICE) bắt trong ngày ngày đầu của chiến dịch bố ráp ở New Orleans, theo thông cáo báo chí của Bộ Nội An (DHS) hôm Thứ Tư, 3 Tháng Mười Hai.

Ba người Việt Nam bị bắt trong ngày đầu tiên của chiến dịch “Catahoula Crunch” tại thành phố lớn nhất Louisiana là Bình Văn Tô, Vũ Hoàng Phạm, và Hùng Ngọc Trần.

Ông Bình Văn Tô (trái) bị còng tay và đứng cạnh một nhân viên ICE trong lúc trả lời phỏng vấn đài News Nation Network sau khi bị bắt hôm Thứ Tư, 3 Tháng Mười Hai. (Hình: Chụp từ Facebook Ali Bradley)

Theo DHS, ông Bình Văn Tô là “một di dân tội phạm bất hợp pháp” phạm tội ăn cướp, tấn cộng người với vũ khí giết người, bắt cóc, giết người, và hành hung người khác, và từng bị bản án 40 năm tù.

Sau đó, ông được thả ra và bị quản chế, và bị tòa án di trú ra lệnh trục xuất.

Khi được phóng viên Ali Bradley của đài News Nation Network lúc bị bắt, ông Bình trả lời lý do ông bị kết tội: “Tôi rất tiếc. Quý vị biết tôi không bao giờ có ý định làm như quý vị biết. Nó là, quý vị biết đó, nó không phải như vậy. Cho dù sự việc tệ hại thế nào, nó không phải là như vậy, nhưng lại xảy ra như vậy.”

Ông tiếp: “Tôi xin lỗi vì tất cả những gì xảy ra. Sự việc xảy ra như vậy, nhưng không phải vậy. Tôi có sai lầm. Chỉ có tôi. Gia đình tôi. Và tất cả những chuyện này làm vợ tôi phải chịu đựng.”

“Nhưng ông vừa thú nhận ông vi phạm điều luật di trú?” phóng viên Bradley hỏi.

“Không,” ông Bình trả lời.

“Như vậy là ông không vi phạm luật di trú khi bị kết tội?” cô Ali Bradley hỏi tiếp.

Ông Bình đáp: “Đúng vậy, nhưng tôi là tội phạm vì phạm tội hình. Tôi sẽ rất biết ơn nếu tôi đi Việt Nam, mặc dù không biết một tí gì ở nơi đó. Tôi đến đây khi còn rất nhỏ.”

Nữ phóng viên hỏi tiếp: “Như vậy có nghĩa là ông sẵn sàng đi nếu họ trục xuất ông về Việt Nam?”

Ông Bình dõng dạc nói: “Nếu quý vị cung cấp giấy tờ cho tôi, tôi sẽ tự bay về Việt Nam. Tôi không cần họ đi với tôi. Tôi không cần họ mua vé cho tôi.”

Vẫn theo DHS, ông Vũ Hoàng Phạm là “một di dân tội phạm bất hợp pháp, bị bắt vì liên tục vi phạm các tội hình sự như hành hung người khác, bạo hành gia đình và tấn công bạo động, ăn cắp xe, tấn công mang tính bạo động, hành hung người khác cấp độ hai, hành hung một cảnh sát viên, ăn trộm, say rượu nơi công cộng, ăn cắp, và ăn trộm – âm mưu hình sự, lái xe khi trong cơ thể có cồn (DUI), sở hữu vật dụng dùng để ăn cắp, giả danh người khác, và các tội khác liên quan đến ma túy.”

Ông Vũ Hoàng Phạm, người vừa bị ICE bắt trong chiến dịch “Catahoula Crunch” ở New Orleans. (Hình: DHS)

Còn ông Hùng Ngọc Trần có lệnh trục xuất từ năm 2010. Ông bị kết tội tấn công tình dục, ăn cắp, và sờ mó trẻ em.

Trong thông cáo báo chí, DHS không cho biết ông Bình Văn Tô, ông Vũ Hoàng Phạm, và ông Hùng Ngọc Trần đến Mỹ khi nào và bằng cách nào, cũng như tình trạng di trú của ba người này trước và sau khi bị bắt.

Trong nhiều trường hợp, có người chưa phải là công dân, mặc dù đến Mỹ hợp pháp, nhưng phạm tội hình sự. Sau khi mãn hạn tù, những người này bị đưa ra tòa án di trú, và thường bị trục xuất.

Nếu sau đó người này không tự trục xuất, hoặc bị quốc gia gốc của mình từ chối nhận, khi bị bắt lại, DHS thường gọi họ là “di dân tội phạm bất hợp pháp.”

Việt Nam là một trường hợp cụ thể.

Năm 2008, Việt Nam và Hoa Kỳ đạt một thỏa thuận chính thức bao gồm không trục xuất những người Việt chưa có quốc tịch Mỹ nhưng phạm tội hình sự và đến Mỹ trước ngày 12 Tháng Bảy, 1995, ngày Hoa Kỳ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tuy nhiên, năm 2017, chính quyền Tổng Thống Donald Trump bất chấp thỏa thuận này, đe dọa trừng phạt chính quyền Việt Nam, và bắt đầu trục xuất một số người đến Mỹ trước năm 1995.

Vào Tháng Hai, 2018, vụ kiện “Trinh vs Homan” thành công, chính quyền Mỹ ngưng trục xuất những người này.

Nhưng đến năm 2020, cũng dưới thời chính phủ Donald Trump, Mỹ và Việt Nam đạt một thỏa thuận mới, hủy bỏ điều khoản bảo vệ những người Việt này không bị trục xuất.

Liên quan đến chiến dịch “Catahoula Crunch,” bà Tricia McLaughlin, phát ngôn viên DHS, cho biết: “Chính sách cho phép trú ẩn gây nguy hiểm cho các cộng đồng tại Mỹ, qua việc thả những di dân tội phạm bất hợp pháp và đẩy các nhân viên công lực DHS vào tình cảnh nguy hiểm đến tính mạng khi đi bắt những người này mà đáng lẽ họ không nên được thả ra đường.”

“Thật là ngu xuẩn khi để những kẻ gớm ghiếc như vậy trở lại đường phố để họ PHẠM TỘI THÊM và có thêm nhiều nạn nhân. ‘Catahoula Crunch’ nhắm vào những tội phạm bạo động, những người được thả sau khi bị bắt vì những tội đột nhập gia cư, cướp có vũ trang, ăn cắp xe, và hiếp dâm. Dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Donald Trump và Bộ Trưởng Kristi Noem, chúng tôi đang khôi phục luật pháp và trật tự cho người dân Mỹ, ” bà McLaughlin tiếp.

Chiến dịch “Catahoula Crunch” có khoảng 250 nhân viên công lực di trú có mặt tại New Orleans trong vòng một tháng, với mục tiêu bố ráp di dân bất hợp pháp vùng Đông Nam Louisiana và một phần tiểu bang Mississippi.

Chiến dịch này, có mục tiêu bắt 5,000 người, là cuộc hành quân mới nhất của ICE nhắm vào thành phố do đảng Dân Chủ lãnh đạo, trong chiến lược trục xuất di dân hàng loạt của Tổng Thống Trump.

Theo thống kê mới nhất, tính đến năm 2024, New Orleans có khoảng 14,000 người gốc Việt cư ngụ, và đây cũng là nơi có nhiều người Việt nhất Louisiana. (Đ.D.)


 

Đừng để một viên đạn lái cả chính sách di dân!- Trúc Lam

Ba’o Tieng Dan

Trúc Lam

5-12-2025

Vụ nổ súng ở Washington, D.C. ngày 26-11-2025 làm một lính Vệ binh Quốc gia thiệt mạng và một người khác bị thương là chuyện hết sức đau lòng! Nghi phạm Rahmanullah Lakanwal là một người tị nạn gốc Afghanistan, từng đến Mỹ định cư. Nhưng điều đáng lo hơn nữa là, ngay lập tức, vụ việc bị biến thành chuyện chính trị, rồi nó được dùng làm cái cớ để siết visa, ngừng nhận người tị nạn và gây khó khăn cho hàng chục ngàn người, trong khi họ chẳng hề liên quan gì.

Trong một đất nước dân chủ, luật pháp rõ ràng: Ai làm người nấy chịu. Người nào gây án thì chỉ người đó phải ra tòa. Thế nhưng mấy ngày qua, thay vì tập trung vào việc điều tra vụ án, tìm hiểu động cơ gây án, nhiều quan chức và các nhóm chính trị lại quay sang đổ hết nghi ngờ lên đầu người Afghanistan, người tị nạn và tất cả những người nhập cư, nói chung.

Một người phạm tội tự nhiên bị biến thành cái cớ để nhiều người nhìn vào cả một cộng đồng đang sống đàng hoàng, tử tế ở Mỹ bằng con mắt méo mó. Không có cách nào dễ hơn để gây chia rẽ và gieo rắc sợ hãi bằng cách này.

Chính sách được làm từ nỗi sợ thì chỉ có tệ hơn

Ngay sau vụ nổ súng, hàng loạt biện pháp được nhà chức trách tung ra: Dừng xét đơn tị nạn, thắt chặt chương trình tái định cư, siết chặt việc cấp giấy phép làm việc và mở rộng danh sách các nước bị xem là “nguy cơ phạm tội”. Tất cả những quyết định này đều được gắn với một cụm từ nghe rất đẹp: “Bảo vệ an ninh quốc gia”.

Thực tế cho thấy, không hề có bằng chứng nào chứng minh rằng hàng trăm ngàn người tị nạn còn lại là mối đe dọa ai cả. Điều duy nhất được viện dẫn chỉ là… nỗi sợ hãi và kỳ thị di dân!

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ: Khi nỗi sợ tập thể được nâng cấp thành chính sách, nó không chỉ trở thành cái cớ để né tránh trách nhiệm đạo đức, mà còn biến thành công cụ hợp pháp hóa sự kỳ thị. Và khi sự kỳ thị ấy được đóng dấu bởi chính quyền, những người lãnh đủ đầu tiên luôn là những nhóm yếu thế: Những người không có tiếng nói, không có quyền lực để tự bảo vệ, và thường bị xem như “vật tế thần” mỗi khi xã hội cần người để đổ lỗi.

Cái giá không chỉ là số phận của những người đang chạy trốn chiến tranh và bạo lực ở Afghanistan. Cái giá còn là niềm tin của cả xã hội, bởi họ từng tin rằng luật pháp Mỹ vốn công bằng, rằng nước Mỹ không trừng phạt những con người vô tội chỉ vì sai lầm của người khác.

Không phải ai cũng may mắn có được cuộc sống an toàn

Rất nhiều người Afghanistan từng đứng cùng quân đội Mỹ, tin vào lời hứa bảo vệ của chính phủ Mỹ. Khi Taliban quay lại, những người cùng chiến tuyến với người Mỹ đã không bỏ chạy vì muốn sang Mỹ để được ăn “bơ thừa, sữa cặn”, mà họ bỏ chạy bởi vì họ muốn sống sót. Nhiều người bị săn đuổi, bị đe dọa, thậm chí bị giết… Họ đến Mỹ để làm lại cuộc đời. Vậy mà giờ đây chỉ vì một vụ án, họ bị nhìn bằng ánh mắt nghi ngờ, thù hằn. Họ bị xem như “nguy cơ”, dù đa số họ đang sống rất bình thường: Đi làm, đóng thuế, nuôi con, hòa nhập…

Đáng lẽ ra Mỹ phải bảo vệ họ, nhưng thay vào đó, các chính trị gia Mỹ lại biến họ thành nạn nhân của một kiểu “công lý tập thể”, thứ công lý không bao giờ là công lý thật sự.

Một tay súng không thể đại diện cho cả một dân tộc

Chúng ta không bao che cho tội ác. Nhưng chính sách di dân không thể viết chỉ vì một cơn giận ai đó đã phạm tội. Cả một cộng đồng không thể bị kết tội vì hành động của một vài cá nhân.

Nếu một người Mỹ phạm tội, chúng ta đâu có kết luận rằng tất cả người Mỹ đều nguy hiểm. Một quân nhân Mỹ gây án, chúng ta đâu có nói cả quân đội Mỹ đều có vấn đề. Vậy tại sao một người nhập cư phạm tội bỗng nhiên biến cả cộng đồng nhập cư thành “có nguy cơ phạm tội”? Đó không phải công lý mà đó là thành kiến, là lợi dụng sự kiện để làm lợi cho ai đó.

Và lịch sử từng chứng minh: Khi nhà nước bắt đầu xem nhóm thiểu số như kẻ thù, thì nền dân chủ bắt đầu lung lay.

Công lý nằm ở đâu?

Công lý trong vụ này rất đơn giản: Xử người gây án bằng pháp luật, nghiêm minh và minh bạch. Nhưng hãy bảo vệ những người vô tội, không bị vơ đũa cả nắm.

Mỹ có đủ khả năng điều tra, có đủ công cụ để làm điều này. Cho nên, không có lý do gì để trút cơn giận lên đầu những người khác, những người chỉ giống nghi phạm ở màu da hay quốc tịch.

Nếu công lý bị bóp méo, thì không chỉ viên đạn trong vụ án làm tổn thương xã hội Mỹ, mà chính cách đối xử sau đó của lãnh đạo Mỹ mới là điều gây nguy hại lâu dài.

Đừng biến bi kịch thành chính sách

Ra một quyết định dựa trên nỗi sợ hãi thì dễ quá. Chỉ có quyết định dựa trên lý trí và lòng nhân đạo mới khó. Nhưng một đất nước mạnh không phải là đất nước đóng cửa vì sợ, mà là đất nước vẫn mở cửa, nhưng mở một cách công bằng, có trách nhiệm, và không chà đạp lên phẩm giá con người.

Một viên đạn không đại diện cho một cộng đồng; một kẻ phạm tội không thể quyết định số phận của hàng chục ngàn người; và một vụ án không thể trở thành nền tảng cho chính sách di dân của cả một quốc gia.

Nếu điều đó xảy ra, thứ bị đạn xuyên thủng không chỉ là một sinh mạng, mà là những giá trị đạo lý đã làm nên một nước Mỹ văn minh.

_________

Tham khảo: Người tị nạn Afghanistan tại Hoa Kỳ trước làn sóng nghi kỵ mới (NYT)


 

Hoạt động quân sự Mỹ ở Caribê : Quốc Hội điều tra về tội ác chiến tranh (RFI)

(RFI)

Các hoạt động quân sự của Mỹ gần Venezuela đang gây nhiều tranh cãi tại Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 9, hai cuộc oanh kích của Mỹ nhắm vào một tàu bị nghi ngờ vận chuyển ma túy ở vùng biển Caribê đã khiến 11 người thiệt mạng. Các dân biểu đảng Cộng Hòa và Dân Chủ yêu cầu mở điều tra để xác định tính hợp pháp của những cuộc tấn công này, thậm chí có vi phạm tội ác chiến tranh hay không, trong bối cảnh Nhà Trắng tìm cách bênh vực bộ trưởng Quốc Phòng Pete Hegseth, đang bị các phương tiện truyền thông chĩa mũi dùi.

Đăng ngày: 03/12/2025 

Ảnh tư liệu : Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Pete Hegseth trong cuộc gặp tổng thống Cộng hòa Dominica Luis Abinader tại Cung điện Quốc gia, Santo Domingo, Cộng hòa Dominica, ngày 26/11/2025.
Ảnh tư liệu : Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Pete Hegseth trong cuộc gặp tổng thống Cộng hòa Dominica Luis Abinader tại Cung điện Quốc gia, Santo Domingo, Cộng hòa Dominica, ngày 26/11/2025. © Erika Santelices / Reuters

Phan Minh

Theo Washington Post, bộ trưởng Quốc Phòng Hegseth đã ra lệnh phát động cuộc tấn công này với mục tiêu “giết tất cả” những người trên tàu bị nghi ngờ vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, tổng thống Donald Trump, hôm 30/11/2025, đã lên tiếng bênh vực bộ trưởng của mình : “Ông ấy không nói vậy, và tôi tin ông ấy.” Lầu Năm Góc đã phủ nhận thông tin của Washington Post, nhưng Nhà Trắng xác nhận bộ trưởng Hegseth đã bật đèn xanh cho đô đốc Frank Bradley thực hiện nhiệm vụ này. Trên mạng xã hội X, ông Hegseth đã ca ngợi đô đốc Bradley là “một anh hùng Mỹ”, khen ngợi những quyết định của vị đô đốc trong chiến dịch ngày 02/09 và các chiến dịch khác sau đó.

Quốc Hội Mỹ đang điều tra xem liệu hai cuộc tấn công này có vi phạm tội ác chiến tranh hay không. Một số thành viên đảng Cộng Hòa phản đối việc đổ trách nhiệm cho đô đốc Bradley, trong khi những người khác chỉ ra rằng Pete Hegseth đã ra lệnh không để ai sống sót trong những cuộc tấn công đó. Tổng thống Donald Trump, hôm qua 02/12, cũng đã khẳng định bất kỳ quốc gia nào đưa ma túy vào Hoa Kỳ đều có thể bị tấn công.

Về phần mình, chính quyền Venezuela, hôm qua, thông báo rằng tổng thống Nicolas Maduro đã cho phép khôi phục các chuyến bay hồi hương những di dân Venezuela bất hợp pháp từ Hoa Kỳ, theo yêu cầu của Washington.

Trước đó, Caracas thông báo rằng Washington đã đình chỉ các chuyến bay này sau khi Donald Trump tuyên bố không phận Venezuela coi như bị “đóng hoàn toàn”. Quyết định tái khởi động các chuyến bay hồi hương này được đưa ra trong bối cảnh chủ nhân Nhà Trắng đã triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia vào thứ Hai để thảo luận về tình hình ở Venezuela.


 

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

Luong Nguyen

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

(Nhận từ Người phương Nam)

Có lẽ chưa bao giờ cảm giác bất lực lại trĩu nặng như những ngày này, khi mở bất kỳ trang tin nào cũng thấy hình ảnh nước đục ngầu phủ lên mái nhà, người ta ngồi co ro trên nóc tôn, gương mặt trắng bệch vì lạnh, vì đói, vì sợ. Miền Trung, dải đất gầy guộc mà tôi từng lớn lên, vốn đã quen với điệp khúc “năm thì mười hoạ bão lũ”, bỗng dưng những năm gần đây như bị đẩy vào tâm điểm của một trò thí nghiệm tàn nhẫn: lũ hết đợt này đến đợt khác, nước hết dâng lại rút, rồi lại dâng, mỗi lần là thêm vài chục sinh mạng, thêm vài chục ngàn căn nhà ngập sâu, thêm vài trăm ngàn phận người trắng tay.

Là người con miền Trung, tôi không lạ gì cảnh nước lụt tràn sân, gùi sách trên đầu lội đến trường, đêm nằm nghe tiếng mưa ràn rạt trên mái tranh mà tim nơm nớp lo lắng. Nhưng cái lũ ngày xưa, dù khốc liệt – vẫn là lũ trời: mưa nhiều, nước sông lên, rồi vài ngày nó cũng rút; người ta xắn quần lên dọn bùn, dựng lại mái nhà, trồng lại luống rau, vá lại cuộc đời. Còn bây giờ, càng nhìn càng thấy đây không chỉ là lũ của thiên nhiên, mà là lũ của lòng người, là kết quả cộng dồn của bao năm quyết định sai lầm, của cách đối xử tàn nhẫn với rừng, với sông, với đất.

Ai cũng biết dọc thượng nguồn bao con sông miền Trung, bao nhiêu năm nay người ta cho phép mọc lên dày đặc những đập thuỷ điện. Hết dự án này tới dự án khác, rừng bị xẻ ngang, bị “dọn dẹp” tới tận chân núi để làm đường, làm hồ, làm nhà máy. Đến khi mưa lớn, nước đổ về, hồ đầy, lại vội vã “xả lũ theo quy trình”, mà cái quy trình ấy hình như chỉ có mỗi một bước: “mở cửa xả và… mặc kệ phía hạ du xoay xở ra sao”. Cái mà lẽ ra phải là công trình bảo vệ – điều tiết nước, giảm lũ – thì nay lại trở thành bản lề nhân tai, biến trận lũ vốn dĩ đã nặng nề vì mưa thành cơn cuồng nộ cuốn phăng làng mạc.

Nhưng bi kịch không chỉ nằm ở chỗ “thiên tai + nhân tai”, mà còn nằm ở cách người ta đối xử với những người đang chìm trong nước. Giữa lúc bao nhiêu xóm làng kêu cứu, người dân phải leo lên nóc nhà, đứng cả ngày trên cột điện chờ một chiếc xuồng, một chiếc ca nô đi ngang, thì có những nhóm thiện nguyện – tự họ gom góp, tự họ thuê ca nô, tự họ xông vào vùng nước xiết cứu người. Ấy vậy mà thay vì được hỗ trợ, họ lại bị… nhắc nhở là “vượt quyền”, “không phối hợp đúng tuyến”. Nghe mà nghẹn. Người ta có thể tranh luận mãi về quy trình, về phân cấp, nhưng trước mặt là mạng người, là đứa nhỏ đang bám cột dừa, là bà già đang ngồi ôm cái rương áo quần trên mái nhà, thì có lý do nào, có văn bản nào quan trọng hơn việc cứu cho được con người đó hay không?

Buồn hơn nữa là những câu chuyện “hậu trường” của các đoàn cứu trợ. Biết bao người ở trong và ngoài nước, gom từng đồng, từng thùng mì, từng bao gạo, áo ấm, thuốc men để gửi về. Thế mà khi xe cứu trợ đến cửa ngõ địa phương, lại thấp thoáng những “thủ tục”, những “điều tiết”, những dạng “cống nạp mềm”, nếu không khéo léo, không “biết điều”, thì hàng sẽ nằm ở đó, hoặc bị “xin lại một phần” trước khi đến tay người dân. Có nơi còn muốn đoàn phải “đi theo danh sách” do mình lập sẵn, trong khi người cho chỉ muốn trao tận tay những gia đình khẩn cấp, những mái nhà đang trắng tay. Trong một thảm hoạ, lòng người vốn đã tổn thương, mà còn phải hoài nghi xem phần gạo mình gửi có đến đúng chỗ không, đó là một loại đau buồn rất khó gọi tên.

Ở bên này bờ Thái Bình Dương, mỗi mùa lũ về, tôi lại thấy những cảnh rất ngược nhau. Trong bao nhiêu buổi lễ ở nhà thờ Việt Nam, sau thánh lễ, cha xứ lại nhắc khéo: “Tuần này xin cộng đoàn cầu nguyện đặc biệt cho đồng bào vùng lũ, và nếu có thể, xin mỗi gia đình góp một chút tình thương…”. Khay quyên góp chuyền qua từng hàng ghế, cả nhà đạo gốc lẫn đạo… theo vợ, ai cũng móc túi, có khi chỉ vài đồng lẻ, có khi là một ngân phiếu khá hơn, nhưng đó là tấm lòng. Bên chùa cũng vậy: sau buổi tụng kinh hay lễ Vu Lan, thầy trụ trì đứng nhắc nhẹ: “Chúng ta ở xa, không gánh nước, không kéo dây được, thôi thì góp chút tịnh tài, tịnh vật gửi về cho bà con bớt khổ”. Những thùng quyên góp đặt ở cổng chùa, trên bàn tiếp tân hội trường, đầy dần lên; người già lấy tiền hưu, người mới đi làm bớt lại ly cà phê, đứa nhỏ bớt tiền ăn quà, gom lại thành chuyến hàng đi về phương trời bão gió.

Những nỗ lực ấy âm thầm, đều đặn, năm này qua năm khác. Thế nhưng, trái ngược với tấm lòng đó là những lời lẽ độc địa vẫn đều đặn xuất hiện trên mạng xã hội từ một bộ phận “dư luận viên” nào đó: họ xem những người Việt hải ngoại chỉ là “3///”, là “khát nước”, là “ngụy”, là “ăn cơm Mỹ thờ ma…”. Hễ thấy ai ở nước ngoài nhắc tới chuyện cứu trợ, phê phán việc phá rừng, xả lũ bừa bãi, hay cách chính quyền đối xử với dân vùng lũ, là lập tức bị chụp mũ, bị chửi rủa, bị bôi nhọ. Thật trớ trêu: những bàn tay chìa ra từ nhà thờ, từ chùa, từ hội trường cộng đồng ở tận trời Tây thì gọi là “phản động”, còn những lời nhạo báng đau thương đồng bào, bào chữa cho sai lầm của bộ máy lại được xem như “đúng lập trường”, “bảo vệ nhà nước”.

Cái bất lực lớn nhất với tôi, và chắc với nhiều người, không phải là không làm gì được, mà là thấy rất rõ nguyên nhân mà không ai chịu đứng ra nhận trách nhiệm. Mưa lớn hơn, bão dày hơn, đó là xu thế khí hậu toàn cầu, không riêng gì ta. Nhưng phá rừng “tới tận chân núi” cho lâm tặc và cho các dự án, chặn hết dòng sông để làm thuỷ điện, quy hoạch bê tông lên cả vùng trũng tự nhiên, buộc dân nghèo phải sống chen chúc ở những nơi vốn là đường thoát lũ, đó là lựa chọn của con người. Cảnh báo của giới chuyên gia, của báo chí độc lập, của những tiếng nói lẻ loi nhiều năm qua chẳng thiếu, vậy mà mỗi mùa mưa đến, ta vẫn lặp lại kịch bản: “bất ngờ trước mưa lớn kỷ lục”, “đang rà soát quy trình xả lũ”, “sẽ kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc”.

Tôi không biết phải an ủi người dân vùng lũ bằng lời nào nữa. Nói “rồi cũng qua” thì tàn nhẫn, vì qua đợt lũ này sẽ tới những khoản nợ mới, những mùa màng mất trắng, những đứa trẻ phải nghỉ học, những ngôi nhà chưa kịp trả xong tiền vay đã trôi mất. Nói “cố gắng lên” thì nghe sáo rỗng, vì bao đời nay họ đã cố gắng hơn ai hết. Cứ mỗi mùa lũ đi qua là thêm một lớp người rời quê, bỏ ruộng, bỏ đồi chè, bỏ rẫy cà phê, bỏ xóm nhỏ bên sông mà đi làm thuê xứ khác, bám trụ ở thành phố, ở xứ người, chỉ vì họ không thể mãi sống chung với cái kiểu lũ không còn giống như xưa.

Có người bảo: “Thiên tai thì ở đâu chẳng có, Mỹ, Nhật, châu Âu cũng lũ, cũng bão”. Đúng, nhưng cái làm người ta phẫn nộ ở đây là cảm giác bị bỏ mặc và bị đối xử như “đối tượng quản lý” hơn là công dân. Người dân không được tham gia vào những quyết định lớn liên quan đến rừng, đến sông, đến thuỷ điện, đến quy hoạch; đến khi hậu quả ập xuống cuộc đời họ, thì lời giải thích lại là “biến đổi khí hậu”, là “trận mưa lịch sử”, là “tình hình rất phức tạp”. Còn những ai cố gắng tự tổ chức, tự lo cho nhau, từ nhóm đi ca nô đến các đoàn cứu trợ độc lập, thì đôi khi lại bị gây khó, bị soi, bị gán nhãn.

Viết những dòng này, tôi biết mình cũng chỉ là một người đứng bên lề, nhìn quê hương từ xa qua màn hình, chia sẻ được chút tiền, chút lời, chút vật chất, nhưng không thể thay được tấm phao, chiếc xuồng, vòng tay cụ thể cho ai đó đang giữa dòng lũ. Cái cảm giác bất lực ấy không chỉ là chuyện cá nhân, mà là một nỗi buồn chung của cả một thế hệ người Việt lưu lạc: nơi mình sinh ra thì cứ hết lũ này đến lũ khác, hết “tai trời” đến “hoạ người”; nơi mình đang sống thì bình yên hơn, nhưng lòng lúc nào cũng giằng xé.

Có lẽ điều duy nhất còn lại mà chúng ta có thể làm, ngoài việc tiếp tục cứu trợ, tiếp tục đứng về phía những nạn nhân, là không im lặng trước những nguyên nhân đã quá rõ. Bởi vì nếu mỗi mùa lũ đi qua chỉ kết thúc bằng vài câu “chia buồn sâu sắc” và vài dòng thống kê thiệt hại, thì những cơn lũ năm sau, năm sau nữa sẽ còn dữ hơn, rộng hơn, tàn phá hơn. Và đến một lúc nào đó, người miền Trung sẽ không còn gì để mất, ngoài ký ức về những ngôi làng từng nằm yên bên triền sông, trước khi bị nuốt chửng bởi những quyết định mà họ chưa từng được hỏi ý kiến một lần.

 (1) BẢO TỒN TIẾNG VIỆT | Miền trung lũ ngập nhưng lương tâm ai vẫn khô hạn | Facebookig


 

NHỮNG CON TIM ĐỒNG THANH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!”.

“Cùng nhau cầu nguyện là cùng thở trong Thiên Chúa!” – Ruth Burrows.

Kính thưa Anh Chị em,

Hình ảnh hai người mù trong Tin Mừng hôm nay là một bức hoạ thật đẹp về ‘những con tim đồng thanh’ – cùng thở trong Thiên Chúa – “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!”.

Dù bước đi trong tối tăm, nhưng tâm hồn hai người mù lại bừng lên một thứ ánh sáng ‘rất Giáo Hội!’. Không thưa với Chúa Giêsu riêng lẻ – “Xin thương xót tôi!”; họ đến như một cộng đoàn – “Xin thương xót chúng tôi!”. Lời cầu ấy mang một khuôn mặt Giáo Hội. Nó là tiếng thở chung của ‘những con tim đồng thanh’ đặt niềm tin vào Chúa. Cũng thế, Chúa Giêsu chất vấn về ‘cái chung’ của họ, “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?”. Câu hỏi ấy kéo họ vào một cuộc ‘phó thác chung’. Họ đáp, “Thưa Ngài, chúng tôi tin!”. Chính ở đức tin hợp nhất ấy, ân sủng tìm thấy đường đi! “Vết thương của chúng ta có thể mở ra cho ân sủng khi chúng ta dám bước đi cùng nhau như một thân thể duy nhất!” – Henri Nouwen.

Bài đọc Isaia đơn giản phác hoạ – Thiên Chúa sẽ mở mắt dân. Không chỉ chữa lành cá nhân, Ngài phục hồi “nhà Giacóp” – một cộng đoàn – để họ lại nhận biết Ngài. Lời hứa ấy làm nền tảng cho niềm hy vọng của một Giáo Hội được chữa lành; ánh sáng của Thiên Chúa bao giờ cũng mang ‘tính quy tụ!’. Thánh Vịnh đáp ca thì ngắn gọn nhưng thật căn cơ, “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi!”. Khi đặt Chúa làm ánh sáng, Giáo Hội được soi dẫn để nhìn nhau với lòng thương xót, và cùng nhau bước ra khỏi những vùng tối của nghi kỵ, mệt mỏi, ốc đảo và cô độc.

Ước gì giữa nhịp sống mục vụ, gia đình và lao nhọc mỗi ngày, bạn và tôi không đánh mất tiếng thở chung ấy. Khi cộng đoàn là ‘những con tim đồng thanh’ cất lên cùng một lời kinh, khi gia đình biết quỳ xuống cùng nhau trước bàn thờ, khi giáo xứ biết mang lấy nỗi đau của từng người – ánh sáng Mùa Vọng sẽ trở nên rõ ràng, gần gũi, và cũng chữa lành hơn. “Chúng ta được dựng nên để cùng nhau; khi cùng chịu đau, chúng ta cùng được chữa lành!” – Desmond Tutu.

Anh Chị em,

“Xin thương xót chúng tôi!”. Mùa Vọng, mùa của cộng đoàn cùng thở, cùng cầu, cùng hy vọng. Khi chúng ta thốt lên, “Lạy Cha chúng con!” hay “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến”, thì những lời cầu ấy chỉ thật sự ‘đầy đủ’ khi là một ‘lời chung’, một ‘khát vọng chung’ của toàn thể Giáo Hội. Và đó chính là vẻ đẹp của nàng! Những trái tim không giống nhau, nhưng được Thánh Thần làm cho hoà nhịp, trở thành ‘những con tim đồng thanh’ dâng lời ngợi khen chúc tụng và mọi nhu cầu lên Thiên Chúa. Ước gì trong Mùa Vọng này, mỗi người chúng ta lại bước vào nhịp thở ấy – nhịp thở của một cộng đoàn đang nài xin ánh sáng, đang san sẻ đức tin và nâng đỡ những vùng tối của nhau. Vì “Cuộc sống cầu nguyện không bao giờ sống trong cô lập; nó nảy nở trong cộng đoàn!” – Thomas Merton.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho mỗi lời cầu của chúng con thành một nhịp thở chung, nâng đỡ những góc khuất của nhau trong yêu thương, và cùng hoà vào hơi thở của Mẹ Giáo Hội!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

************************************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần I Mùa Vọng

Nhờ tin vào Đức Giê-su, hai người mù được chữa khỏi.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 9,27-31

27 Khi ấy, Đức Giê-su đang trên đường đi, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng : “Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi !” 28 Khi Đức Giê-su về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ : “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không ?” Họ đáp : “Thưa Ngài, chúng tôi tin.” 29 Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói : “Các anh tin thế nào thì được như vậy.” 30 Mắt họ liền mở ra. Người nghiêm giọng bảo họ : “Coi chừng, đừng cho ai biết !” 31 Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả vùng.