Phùng Thắng- Phùng Thăng. Từ khởi đầu hấp thụ với nền tảng triết lý Tây Phương thời thịnh đạt

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

28/12/2025

Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải

Phùng Thắng- Phùng Thăng. Từ khởi đầu hấp thụ với nền tảng triết lý Tây Phương thời thịnh đạt, Phùng Thăng, Phùng Thắng đã đưa ra những góc nhìn văn hóa mới.

Hai chị em Phùng Thắng, sau này là ni sư Trí Hải-  và em là Phùng Thăng là những nhà văn hóa phụ nữ thế hệ tuổi trẻ chúng tôi. Thế hệ 1960- 1970.

Có nghĩa là khởi đầu cùng được đào tạo dưới mái trường của truyền thống triết lý Hy Lạp từ thời Platon-Aristote.

Nếu ví dòng triết lý ấy như một cái “Cây triết lý”, thì sau này, nó mọc ra rất nhiều nhánh rẽ. Có một J.P Sartre, nhưng cũng có nhiều nhánh như một Merleau Ponty, một Heidegger, một K. Jasper, một A. Malraux.

Nhưng trên hết như một biểu tượng là J.P. Sartre với rất nhiều tác phẩm: La nausée( 1938), Le Mur ( 1939), rồi Sartre cho ra đời nhiều tác phẩm đồ sộ như: Les chemins de la liberté, Les Mouches.

Phùng Thăng là người đầu tiên dịch tác phẩm Les Mouches ra tiếng Việt: Những ruồi.

Điều đó chứng tỏ rằng sau này một thiên tài cứ thế mà PT tỏa sáng.

Tác phẩm lớn tiếp theo của J.P. Sartre  là L’Etre et le néant. Huis clos (1944) Les mains sales (1948), Le Diable et le bon Dieu(1951).

 Với sự nghiệp như thế, Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức và của cả nước Pháp.

Bên cạnh đó, rất nhiều danh từ của Sartre trở thành thời thượng như vấn đề dấn thân, vấn đề trách nhiệm. Rồi hiện hữu và hư vô, vấn đề hoài nghi, phủ nhận, vấn đề hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính.. Đời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn.

Khi Sartre chết năm 1980, nước Pháp đã tiễn đưa ông với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Víctor Hugo 100 năm trước.

Về phía Việt Nam, cuộc di cư năm 1954 đã mở đầu cho sự có mặt của Sartre và A.Camus kéo dài trong suốt nhiều năm.

Những ngữ từ triết học trở thành sự quyến rũ mời gọi và biến hóa thành cái gọi là “mốt hiện sinh” mà những lời giải đáp đôi khi chỉ là một sự trống rỗng, những câu hỏi không có lời giải đáp..

Và tôi gọi giai đoạn này bằng  một danh hiệu mới:

 Những đứa con hoang của J.P.Sartre.

Nó ảnh hưỡng một cách nào đó trên các nhà văn như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại, Chu Tử và một số các nhà văn nữ thập niên 60 như: Túy Hồng, Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, ít nhiều cho thấy bóng dáng của F.Sagan hiện diện trong truyện của họ.

Bên cạnh đó, phải kể đến vô số các giáo sư dạy triết thế hệ thứ hai như Đặng Phùng Quân, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Trần Công Tiến, Nguyễn Trọng Văn..với những luận án cao học.

Thú thật, bản thân tôi đã mệt mỏi với những luận đề triết học nên không mấy quan tâm đến những luận đề triết học.

Tôi không hiểu có bao nhiêu người đọc họ và những luận văn ấy và nhất là hiểu họ viết gì?

Tôi không đủ tư cách để trả lời thay cho họ.

Hay liệu đó có phải chỉ là những luận án có tính thời thượng, theo đuôi hay bắt chước?

Câu trả lời có thể được trả lời một cách gián tiếp qua cái hướng nhìn của Phùng Khánh, nhất là Phùng Thăng theo cái hướng mà tôi tạm gọi là: Hướng nhìn về phương Đông.

Phần tôi, đã bước qua ngưỡng cửa triết học Tây Phương với nhữn câu hỏi, không có câu trả lời mà tìm cho mình một hướng đi mới, thiết thực và hấp dẫn hơn.

Nhưng trước hết, tôi xin được phép giới thiệu đến Tôn Nữ Phùng Thăng và Phùng Khánh.

Tên thật của PT là Công Tằng Tôn Nữ Phùng Thăng, sinh năm 1943, tại Huế. PT là em út trong một gia đình có 6 anh chị em. Chị của Phùng Thăng là Phùng Khánh, tức ni sư Trí Hải, sau này đi tù về vụ Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu hay Thích Mạnh Thát chống đối nhà cầm quyền cộng sản. Với tư cách bà là thủ quỹ, Sư bà Trí Hải lãnh án tù 4 năm. Sau này, Trí Hải bị tử nạn trong một tai nạn giao thông vào ngày 7-tháng 12- năm 2003.

Phần gia đình Phùng Thăng rất sùng đạo Phật.

Thuở nhỏ, PT ở thôn Vỹ Dạ, học tiểu học tại trường Thế Dạ. Lên Trung học, những năm đầu học tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Sau chuyển về học tại trường Đồng Khánh Huế. Nhưng hồi đó Đồng Khánh chưa có đệ nhất nên PT phải phải chuyển qua học triết học..ban C2, ở Quốc Học cùng với Thái Thị Kim Lan.

Theo Thái Thị Kim Lan, một người cùng học lớp đệ nhất C2 với bà cho thấy: PT hiền dịu, ít nói, chăm chú vào việc học, học giỏi nhiều môn làm cho các bạn đồng lớp có phần kính nể..

Trong khi đó, các bạn của bà như Thái thị Kim Lan bốc đồng và sôi nổi tuổi trẻ nhất thời chạy theo phong trào đấu tranh Phật giáo do Thích Trí Quang- một nhà sư với nhiều tham vọng, đôi mắt sắc sảo, giọng nói khàn đục đầy mê hoặc- đẩy một số tăng ni vào các vụ tự thiêu vô tiền khoáng hậu, coi mạng người như cỏ rác..

Thái kim Lan viết tiếp: bà dệt mơ ước học trò, hãnh tiến và không biết sợ, lên đường, tham gia vào các vụ biểu tình, tuyệt thực dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của Thích Trí Quang.

Trí Quang đã trao cho Thái Kim Lan như người đại diện chính thức thay cho Trí Quang.

Bạn đọc cần biết thêm, lúc 5 tuổi, cha của TKL vốn là một viên chức bưu điện đã bị cộng sản hạt sát. Sau này bà chị TKL có chồng là một sĩ quan phải đi học tập tập trung. Trong một lần đi tiếp tế cho chồng trở về, bà đã bị một tài xế việt cộng cán chết. Sau đó, bọn cộng sản đã đến đền bù bằng một bao gạo..

Phần TKL, bà như quên cái quá khứ đau buồn ấy và tiếp tục mê say Trí Quang vừa như người thày, vừa như một người tình trong rất nhiều năm trời như tôi được biết và được nghe kể từ chính Thái Kim Lan..

Và đây cũng có thể là ngã rẽ giữa bọn nữ sinh nông nổi, hãnh tiến khác với Phùng Thăng.

Xin ghi một đôi nét về Phùng Thăng dưới ngòi bút của Thái Kim Lan:

Áo trắng, dáng ngồi thẳng, nghiêm trang, nét mặt thanh tú, làn da trong sáng, tóc bín hai con rết thắt nơ trắng. Hai con rết và cái nơ tòng teng tiết lộ sự trẻ thơ so với nét mặt có sống mũi cao, nghiêm nghị của “ người lạ ấy”. Chị không cười mặc dù đôi môi hồng tươi, như tiết kiệm hay muốn giữ bí mật của cả tâm hồn hay của đôi hàm răng mà sau này tôi có đôi lần nhìn được rất trong. Môi không cười cho nên nét diễn tả tâm tình hầu như dồn nơi đôi mắt sáng lấp lánh đầy chân thiện, chị cười bằng mắt rất lặng lẽ. Gương mặt ấy hầu như chỉ biết cúi xuống trang sách hay nhìn lên bảng đen, hiếm khi thấy chị nhìn ngang hay liếc dọc để quan sát chuyện chung quanh mình..”

Và cứ tính ngược lại những điều trên của PT thì chính là chân dung đích thực của Thái kim Lan

Trong khi đó, Phùng Thăng ở ngoài những vùng xoáy lịch sử ấy lấy việc chuyên tu làm hướng đi của đời bà. Bà tiếp tục học lên Đại học, bà học khoa Triết, đại học văn khoa, Huế.

Ra trường, luận văn tốt nghiệp của PT là: Chỉnh lý tư tưởng Tây Phương.

Rất tiếc, hiện nay, tôi không có cơ hội tiếp cận luận văn này. Tuy nhiên, cái từ chỉnh lý tự nó nói lên một sự giải trình không đồng ý hay hơn nữa là một chống đối các triết lý Tây phương..

(Xin đọc thêm Trần Hoài Thư trên Thư Quán bản thảo, số 59, tháng ba 2014).

Xin mở một dấu ngoặc là trước khi tôi được tiếp cận với các bản dịch của Trí Hải và Phùng Thăng như câu chuyện của dòng sông, tôi có cơ duyên đọc chuyện Đôi bạn chân tình của nhà văn Herman Hesse do bản dịch tuyệt vời của Vũ Đình Lưu, tự Cô Liêu.

Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính: một là nhà tu sĩ khổ hạnh, sống cuộc đời chiêm nghiệm, hy vọng tìm ra ý nghĩa cuộc đời đâu là hạnh phúc của cuộc đời, đâu là đau khổ?

Nhân vật thứ hai, một người trẻ, cũng một thời theo vết chân của người thầy là vị tu sĩ khổ hạnh.

Nhưng rồi, ông nhận ra rằng con đường chiêm nghiệm khổ hạnh là không có lối thoát.

Chàng trai trẻ ấy đã quyết định rời bỏ tu viện và lăn vào đời và với tuổi trẻ, thông minh, tài tuấn, ăn nói hay đày nghị lực nên được rất nhiều phụ nữ trẻ say mê, đeo đuổi.

Ông đã chan hòa hưởng thụ nhiều thân xác phụ nữ như một hiến dâng mà không đòi hỏi..

Chàng trai trẻ vì thế đã thỏa mãn những khát khao được nâng niu, được thăng hoa của người phụ nữ.

Anh đã lấp đầy những cơn bảo cảm xúc, lấp đầy những nỗi trống trải hoang sơ của người phụ nữ.

Anh đã cảm nghiệm được thế nào là mưa dầm thấm lâu.

Đồng thời, người trai trẻ đã hiểu được thế nào là nếm trải được trái cấm ngọt bùi giữa biển đời giông bão.

Nhất là chàng trai trẻ cũng đã được nếm trải nụ hoa hàm tiếu đầu đời của những người người con gái tinh tuyền..Cái đó nó mới quý lam sao, trân quý làm sao. Và ngoài kia nắng đã lên, thiên nhiên và con người quyện vào nhau như một bản hòa tấu..

Cuối cùng, chàng trai trẻ như đạt đỉnh đã gieo trồng những giọt hạnh phúc tưới mát vào những vùng sâu kín trên những vùng cỏ rậm rạp khôi nguyên trinh bạch của người phụ nữ và được nồng nhiệt đón nhận. Và người tình đã chờ đợi, đã sẵn sàng ẩm ướt và cuối cùng đạt tới đỉnh của một thứ hạnh phúc si mê, cuồng nhiệt của đôi lứa.

Đã không biết có bao nhiêu phụ nữ đã dâng hiến cái tiết trinh ngàn vàng cho chàng trai trẻ mà không một lời nuối tiếc.

Từ những trải nghiệm sống ấy, chàng thanh niên tuấn tú, thông minh và nay được trải nghiệm nắm bắt được thế nào là hạnh phúc ở đời mà nhà tu khổ hạnh đã không bao giờ có cơ hội nắm bắt được.

Và trong số những phụ nữ mà ông gieo trồng trên những thửa đất đã được cầy sới, gieo mầm đã tạo ra một mầm sống như một phép mầu.

Ông đã sống cận kề  và chăm sóc người phụ nữ ấy trong tiến trình mang thai với rất nhiều khổ đau quặn thắt và nỗi cô đơn một mình của người phụ nữ mà không một ai có thể chia xẻ nỗi đau đớn tột cùng ấy.

Người phụ nữ ấy giống như như người đi biển một mình, hạnh phúc thì được xẻ chia, nhưng khi gian nan thì một mình trước những phong ba, bão táp của cuộc đời.

Chàng trai trẻ sau nhiều năm tháng tràn ngập nguồn vui hạnh phúc nay tóc đã hoa râm, ngậm ngùi nhìn ngắm thân thể người phụ nữ ấy mà đã có thời họ chan hòa hạnh phúc.

Nay mái tóc đã hai mầu, đi đứng đã có phần khó khăn, mắt đã mờ, tai đã nghễnh ngãng nhận thấy cái thân thể trần chuồng của người phụ nữ đã một thời ấy trong một nỗi bất lực như những cơn bão va vật, tiếng đau gào thét trước khi đứa bé chào đời mà bên ngoài là một trận đại dịch trong sự bơ vơ, cô quạnh.

Từ những trải nghiệm ấy, ông hiểu được thế nào là nỗi đau tận cùng, sự mong manh của kiếp người như thể một chân bước vào hư vô và ảo vọng.

Nhưng cũng từ khoảnh khắc ngắn ngủi và mong manh này, ông hiểu được thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ của kiếp người mà nhà tu khổ hạnh không bao giờ hiểu và đạt được.

Phải chăng, đó là luật của cuộc đời có trả vay, có được có mất mà con người không bao giờ nắm bắt và hiểu hết được trong cuộc hành trình nhân thế như một vòng xoáy mà không nắm bắt được đâu là điểm đến và đâu là cõi đi về!!!

Câu chuyện Đôi Bạn Chân tình, Câu chuyện của dồng sông cũng là một phần đời sau này của Phùng Thăng.

  • Cuộc đời ngắn ngủi của Phùng Thăng.

Sau khi tốt nghiệp đại học văn khoa, Huế, Phùng Thăng được bổ nhiệm về dạy tại Hội An Huế.

Hội An như một mảnh đất chật hẹp với những biến động chính trị và với những tranh dành quyền lực nhỏ nhen của phe phái khiến bà nghĩ tới lúc phải rời bỏ cái khung trời nhỏ hẹp ấy.

Bà lập gia đình với Trần Xuân Kiêm. Hai người có với nhau một đứa con gái. Bà đặt tên con gái là Tiểu Phượng. Nhưng không hiểu vì lý do gì, sau đó hai người chia tay.

Phùng Thăng tiếp tục cuộc sống của một “Single mom” mà đời sống khá là vất vả.

Năm 1973, PT cho xuất bản một tác phẩm của Simone Well mà tựa đề là: “Kẻ lạ ở thiên đường”. Qua bản dịch của PT, người ta nhận thấy tâm hồn của Simone Well là một sự cô đơn, trống vắng đi tìm một quê hương đích thực cho đời sống tâm linh. Phải chăng đó cũng là phản ánh tâm hồn Phùng Thăng mà một nỗi cô đơn trống vắng của tâm linh?                            Kẻ lạ ở thiên đường được chọn làm tên chung cho bản dịch với 6 bức thư gửi cho linh mục Perrin và 5 bài trần thuyết về năm đề tài tôn giáo. Qua toàn văn phẩm, tâm hồn Simone Well vẫn là một tâm hồn quằn quại cô đơn, nhưng rất sáng suốt trong công cuộc đi tìm một quê hương tâm linh đích thực cho mình.. Chính sự sáng suốt ấy đã đưa Simone Well đến chỗ khước từ thiên đường hữu hạn để chọn hỏa ngục vô biên vì quá sót thương và muốn chia sớt những lầm than của trần thế.

Trong nguyện ước của nàng, như có vọng âm những lời phát nguyện của các vị bồ tát của Phật giáo của từ muôn nghìn thế kỷ. Trên thiên đường hữu hạn ấy, nếu được, Simone Well vẫn mãi mãi là kẻ xa lạ, lạc loài.

Nàng chỉ ước muốn Thiên Đường chính thực, Quê hương bình đẳng cho tất cả loài người.

Simone Well mất ngày 24-8-1943 . Phùng Thăng ra đời ngày 9-10-1943.

Bước chân của Simone Well đã được tiếp nối bước chân của Phùng Thăng. Simone Well là một triết gia. Phùng Thăng cũng vậy. Có khác gì đâu.

Thử xem nào, ngoài Phùng Thăng ra có một phụ nữ trẻ nào mang tư tưởng mình qua” Theo dấu tình yêu”, hay “chỉnh lý tư tưởng Tây Phương”..

Thử xem, những buồn nôn, những ruồi, Bắt trẻ đồng xanh, Con sói đồng hoang, Thế giới Thiền, Kẻ lạ ở Thiên đường, khi số tuổi của chị mới dưới 25.

Hãy lẳng lặng mà nghe khi Thái Kim Lan ngưỡng mộ, giật mình khi cả lớp ngồi lắng nghe bài triết của Phùng Thăng..

Thử xem, thử xem nhánh sông Vỹ Dạ thấy bóng hai nàng tôn nữ, mà trăng, mà sao, mà tiếng chuông chùa đã bềnh bồng trong giấc ngủ.. Để rồi một người tìm sự cứu rỗi cho mình bằng con đường xuất gia, người kia lại chọn con đường nhập thế, mang bình bát đựng cả ngàn năm lao khổ lên núi, xuống biển.

Vai thì mong manh mềm yếu. Vậy mà phải gánh cả một trời oan nghiệt xuống đôi vai.

Cộng với nỗi Buồn nôn của JP. Sartre, PT đã dẫn đưa người đọc vào một góc khác của tâm linh.

Một người trí tuệ và tài hoa, thông hiểu triết học Ấn Độ.

Một người có cái nhìn về Phương Đông trong  bản dịch” Câu chuyện của dòng sông”, dịch từ chuyện Siddharta của văn hào Đức, thế kỷ XX.

Văn hào Đức mà các tác phẩm đều toát lên một nỗi niềm cô đơn tâm linh của con người, đi tìm một lối giải thoát ra ngoài của kiếp nhân sinh trong nỗi bơ vơ, bất lực.

Qua “câu chuyện của dòng sông”, “ Sói đồng hoang của Hermann. Hesse Băt trẻ đồng xanh, của J.D Salinger. Con người vẫn bám víu vào đời sống như một mẫu hình muôn thuở của cuộc đời. Câu chuyện một dòng sông vẫn là một hình ảnh cao đẹp, soi sáng trí tuệ và tư tưởng của cả một thế hệ tuổi trẻ mà cả hai chị em- họ cách nhau 5 tuổi- Phùng Thắng lấy cử nhân anh văn, Phùng Thăng cử nhân triết.

Cả hai chị em Phùng Khánh, Phùng Thăng như một của báu vật muốn trao gửi lại cho chúng ta, cho đời như một di sản văn hóa.

Đầu tháng 5, 1975, nghĩa là chỉ một tháng sau khi cs Bắc Việt thôn tính miền Nam, bà đã có một quyết định táo bạo là dẫn con gái, 9 tuổi theo đường bộ, tìm đường vượt biên. Trên một chiếc ghe ra đảo Thổ Chu, thuộc xã Nam Du với hy vọng được tàu Mỹ đón.

Nhưng thật quá trễ. Lúc bấy giờ quân Pol Pot, lợi dụng hòn đảo bỏ trống đã tấn công đảo và chiếm vào ngày 10 tháng 5, lùa theo hơn 515 người, trong đó có một số người vượt biên như mẹ con Phùng Thăng.

Và kể từ đó, gia đình chị không còn biết bất cứ tin tức gì về mẹ con chị.

Sau này, do một thày ngoại cảm tìm lại được thân xác và con gái, bị trói, đầu bị bể sọ, bị chôn vùi nông như một chúng tích dã man “cáp duồn” của bọn Pol Pốt

Phần gia đình chị, sau một thời gian tìm tung tích hai mẹ con đã lấy ngày 10-6-1975 làm ngày giỗ mẹ con chị.

Thật đau lòng và đứt ruột cho một tài hoa đã không may mắn mệnh yểu. Xin rỏ một giọt nước mắt xót thương chị mà số phận hình như đã được định trước theo nghĩa: tài hoa bạc mệnh (xin đọc thêm bài Tìm dấu Phùng Thắng).


 

Chùm Khế Ngọt ! – Sơn Tùng

Kimtrong Lam

Sơn Tùng

Trương Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh thành Hà Nội và chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, ông lên tàu đem gia đình ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông đến Xiêm La (Thái Lan), rồi định cư tại đây.

Nhờ có tàu bè, ông mang theo một mớ gia sản nên khi qua Xiêm ông đã có sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông đã gây dựng một sự nghiệp khá lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm vải vóc lụa là, và Trà Thất Mây Tần.

Là một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng ông luôn thương nhớ quê hương. Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc… má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ phở, nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột… Xiêm La có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương…

Ông nhớ những bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không bằng nhãn, vải, cam, quít… Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục khác biệt làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.

Lúc bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo một bầu nhiệt huyết, một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà cũng có người đi qua, đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế.

Trà Thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh Trà thất Mây Tần.

Trà Thất Mây Tần ở thủ đô Băng Cốc là một nơi trai thanh gái lịch lui tới tấp nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ đều thường xuyên tới uống trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. Một hôm, có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống rượu, Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt Nam.

Ông bèn tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người Bắc, người Trung, và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai bên thật vui vẻ như câu thơ “Thiên lý tha hương ngộ cố tri”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên Trà Thất là Mây Tần. Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa”.

Dần dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng cho biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như Liên Sô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người. Đảng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu đảng viên.

Lực lượng đảng trong nước đã vùng lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt nghe họ nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt động của đảng cách mệnh.

Ông được chi bộ đảng khen ngợi là “nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo Cộng Sản được gọi là “Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước, đã có công với cách mạng.

Sau 1945, Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân chúng vì nạn đói, vì sợ Cộng Sản và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những người Việt Nam sinh sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe Cộng Sản càng mạnh.

Năm 1954, Hiệp Định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” giao thương với Xiêm La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Băng Cốc. Những đảng viên Cộng Sản Việt Nam ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động “Việt kiều” tại Thái Lan về xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào, Miên…

Họ bảo “đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa, nông dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học hành, không phải đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở cho đến khi thành tài.

Trong nước ai cũng có công ăn việc làm, không ai thất nghiê.p. Họ gửi tặng ông nhiều sách báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ”. Trương Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng được nghe cha ông ca tụng về con người và đất nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài Hà Nội, và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê hương, tổ quốc.

“Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là cầu tre nhỏ

Mẹ về nón lá nghiêng che

Là hương hoa đồng cỏ nội

Bay trong giấc ngủ đêm Hè”

Lúc bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh chán nản. Nay được “cán bộ” cộng sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng quê hương. Ông nay được ban khen là “gia đình có công với cách mạng”. Nếu về Việt Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở trước mắt ông.

Ta về ta tắm ao ta!

Ông muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai!

Ôi! Nước ta nay đã độc lập, không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê hương. Vì thực dân Pháp mà nhân dân ta khốn khổ điêu tàn. Vì thực dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà đi. Nay là một dịp để ông trở về quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu quê hương không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến thành sự thực.

Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã “đăng ký” mua máy bay trở về Hà Nội thân yêu. Nhưng tòa đại sứ Việt Nam CS tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả “Việt kiều” tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường hàng không sang Cam Bốt rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.

Sau khi đoàn “Việt kiều” Thái Lan về đến Cam Bốt, họ được chuyển ngay lên xe ô tô Liên Sô là loại xe bốn bề kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám được cán bộ Cộng Sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề rào kín và có lính gác. Họ bảo:

“các Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Họ ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó. Họ bảo mọi người không được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép”. Họ đưa mọi người vào hội trường. Viên “thủ trưởng” tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:

“Chào các đồng bào và các đồng chí,

Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu trở về tổ quốc.”

Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.

Tiếp theo, ông nói:

“ Thưa các đồng chí và đồng bào,

“Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí nay đã thành người nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trước tiên, yêu cầu mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.”

Ông nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hột xoàn và đô la. Trong khi mọi người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào khám xét hành lý của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục kiểm tra.

Ngay hôm đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.

Ông cán bộ nói:

“Đảng sẽ giữ tài sản cho họ vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được ổn định.”

Tiếp theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ những ai còn cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê bình, kiểm thảo. Các gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy viết biên nhận bằng những tờ giấy vàng úa xấu xí với những dòng chữ nguệch ngoạc, không rõ chữ viết và con số, và cũng không ghi ngày tháng, chữ ký và tên người nhận:

….Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng… Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài… Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ óng ánh…

Đến đây thì các Việt kiều biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã Giám Sinh đã kêu lên:

Xem gương trong bấy nhiêu ngày

Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!

Vài ngày sau, các “Việt kiều” được “phân phối” về các thôn xóm ở miền Bắc. Gia đình Trương Thế Vinh được “phân phối” về một làng ở Quảng Bình. Ông chất vấn cán bộ:

– Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Băng Cốc chấp thuận. Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?

Tên cán bộ trong “ban Việt kiều yêu nước” nói:

”Nay chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn mười lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những tòa cao 40-50 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà Nội sau”.

Biết rằng phản đối cũng vô ích cho nên gia đình ông phải lên xe về Quảng Bình. Gia đình ông được đổ xuống Quốc Lộ I, rồi được công an dẫn bộ tới một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây số. Làng này cho ông một miếng đất ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở là bãi sông vắng, cách xa xóm làng vài cây số.

Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng gia đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để phá hoại xã hội chủ nghĩa.

Tiền của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm. Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và gia đình bị lưu đày và cấm cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành người xa lạ trên chính quê hương mình.

Ông suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông!

Kẻ sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi làm hại mình và con cháu!

Vài năm sau, chiến tranh bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh Bắc tử Nam”. Trương Thế Vinh có một trai, một gái. Con trai ông phải vào “bộ đội” rồi tử thương tại chiến trường miền Nam. Con gái ông phải đi “thanh niên xung phong”, lâm bệnh rồi chết trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắn đắng nhau.

Bà trách ông nhẹ dạ tin lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ và nỗi uất hận vì bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết. Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi Cộng Sản. Kết cuộc ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.

Sơn Tùng.


 

Brigitte Bardot vừa qua đời ở tuổi 91

Le Thanh Hoang Dan

Sáng nay đọc tin Brigitte Bardot vừa qua đời ở tuổi 91, buồn. Bà lớn hơn tôi 2 tuổi, là một trong những minh tinh thời của tôi. Tôi 89, đã đi đến tận chân trời rồi, có lẽ cũng sắp biến mất khỏi cõi đời này. Tôi trân quí mỗi phút giây còn sống Trời (Chúa) cho. Sống vui, trọn vẹn, yên bình và hạnh phúc. Sống thật với chính mình.

“Brigitte Bardot sinh năm 1934 và được xem là biểu tượng gợi cảm hàng đầu của điện ảnh Pháp cũng như thế giới qua những bộ phim gây tiếng vang lớn những năm 1950. Bộ phim gắn liền với tên tuổi, hình ảnh của Brigitte Bardot là Và Chúa đã tạo ra người đàn bà, do Roger Vadim đạo diễn.

Theo Variety, mặc dù thời kỳ đỉnh cao của Brigitte Bardot với tư cách là ngôi sao điện ảnh ăn khách tương đối ngắn ngủi, và bà đã giải nghệ vào đầu những năm 70, nhưng tầm ảnh hưởng lại rất sâu rộng khi đưa hình ảnh những cô gái tóc vàng trẻ trung, quyến rũ, cùng các đường cong gợi cảm lên màn ảnh rộng.

Vẻ đẹp nữ tính của bà với những nét đặc trưng như mái tóc chải phồng, đôi môi như hờn dỗi, đôi mắt viền đen sắc sảo… trải qua nhiều thập kỷ vẫn được xem là niềm mơ ước, chuẩn mực với phái đẹp. Sức ảnh hưởng về nhan sắc Brigitte Bardottừng được so sánh những minh tinh như Marilyn Monroe hay Audrey Hepburn.

Sự hợp tác của Brigitte Bardot và Roger Vadim cũng tạo nên bước ngoặt đáng nhớ trong lịch sử điện ảnh Pháp, châu Âu và rộng ra là cả thế giới khi thể hiện một cách đầy mới mẻ, táo bạo chủ đề tình dục.

Trong sự nghiệp của mình, bên cạnh đóng phim, Brigitte Bardot còn ca hát và nổi tiếng là một người đấu tranh bảo vệ động vật.” (vtv.vn)

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo


 

CẦU NGUYỆN XIN ƠN BÌNH AN VÀ KHIÊM NHƯỜNG- Tuyết Mai

Tuyết Mai

Kính lạy Chúa Con Giêsu, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse! Xin ban cho tất cả mọi gia đình của chúng con trên toàn thế giới có được sự vui vẻ, bình an và luôn yêu thương nhau. Dù rằng hầu hết chúng con luôn có cuộc sống chật vật, bương chải, vất vả, cày ngày không đủ tranh thủ cày đêm thì mới có đủ để trang trải kinh phí hằng ngày. Ở thời buổi mà mọi vật giá đều leo thang, kinh tế tuột dốc, rồi thì tiền mất giá nên giàu nghèo gì thì cũng có gánh nặng riêng để gánh … như câu “thuyền nhỏ thì sóng nhỏ, thuyền to thì sóng to”. Chúng con hiểu rõ rằng cuộc sống thì luôn khó khăn chẳng hề dễ dàng gì NHƯNG nếu có ơn Chúa trợ giúp thì mọi sự việc và mọi điều khó khăn cũng sẽ ổn thôi.

***

Quả cuộc sống của từng gia đình nơi trần gian của chúng con này thì không bao giờ có được sự êm ái cả bởi vì ai ai cũng được dạy từ nhỏ là lớn lên phải làm sao hái ra được nhiều tiền thì đời mới nể và không bị ai khinh dể. Nhưng nhìn chung thì người giầu, có khi cũng bị mất hết vì lòng tham vô đáy, không biết điểm dừng. Rồi người nghèo thì cũng vì muốn hơn người, muốn cuộc đời khác đi nên cũng lao vào vòng lao lý bởi muốn có tiền nhanh, tiền nhiều nên bất chấp.

Chúng con là những gia đình con cái Chúa nhưng thân phận của mỗi người là mỗi khác, không ai giống ai và không ai có cùng mẫu Thánh Giá giống nhau cả. Bởi Chúa Cha tác thành ra chúng con mỗi người có mỗi tánh tình khác nhau, khác màu da, khác nghề nghiệp và khác sở thích. Vì có phải Chúa rất thương yêu chúng con và muốn chúng con luôn sống thuận hòa, khiêm nhường, nhịn nhục và tha thứ cho nhau như một cộng đồng đông đảo con Chúa!?.

***

Vì thương yêu con cái Chúa thì Người đã ban cho chúng con có được một gia đình Thánh Thiện, là gia đình Thánh … Có Chúa Con Giêsu sinh bởi Đức Bà Maria đồng trinh cùng dưỡng phụ là Thánh Cả Giuse để làm gương cho tất cả gia đình trên thế giới cần phải noi theo, bắt chước theo cách mà ba Đấng đã sống cách đây hơn 2000 năm. Điều chính yếu là chúng con bắt chước các Ngài biết sống kính sợ Thiên Chúa. Biết giữ 10 Điều Răn Thiên Chúa dạy. Biết tha thứ, biết chấp nhận mọi nghịch cảnh; sống khiêm nhường, chớ tham lam của người và yêu người như yêu chính mình.

Biết làm gương tốt cho con cái là cho chúng đi nhà thờ từ tuổi còn rất nhỏ. Là cho chúng đi học Giáo Lý cùng những sinh hoạt hàng tuần trong giáo xứ. Là dạy cho chúng biết cho đi như câu “Con ăn thì hết, người ăn thì còn” hoặc “Cho tay trái thì đừng để cho tay phải biết”, v.v…

***

Kính lạy Chúa Con Giêsu, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse! Chúng con biết sống trong sạch trong thời buổi ngày nay thì thật là khó khi chung quanh chúng con có rất nhiều cám dỗ. Nhưng sợ nhất là sự cám dỗ của ngày nay nó rất tinh vi, khó ai mà lường được. Như AI chẳng hạn nó làm được đủ mọi trò, đủ mọi cách để moi tiền thiên hạ cách rất dễ dàng nhất là dụ được những người hiền lành, có tánh dễ tin người. Đó chỉ mới là một nhưng còn nhiều cám dỗ khác nữa mà chỉ cần bước vào cửa là kể như khi đi ra nhẹ không còn mảnh áo trên thân, còn nặng thì mất xác luôn.

Nên chúng con cần lắm vào sự trợ giúp từ ba Đấng nhưng chúng con phải đặt trọn niềm tin vào ba Đấng kìa chứ cái kiểu đi vái tứ phương thì không được, rồi lại bảo các Ngài không linh thiêng!?. Nhất là nhiều người trong chúng con rất thường đi xem bói toán, đi chùa để xin quẻ, nơi nào linh thiêng thì cũng đi thắp nhang như người ngoại đạo vậy. Chỉ khổ cho chúng con rằng nếu cứ sống cách thao túng như thế thì sẽ khốn cho chúng con lắm vì rằng ngày giờ Chúa đến mà chúng con không có sự chuẩn bị … thì linh hồn chúng con nó sẽ đi về đâu??.

Y tá con Chúa,

Tuyết Mai

28 tháng 12, 2025


 

NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐỢI CHỒNG-Truyen ngan HAY

 Trầm Mặc Huơng Lai

(Nước Nga, những năm 1917–1932)

Suốt 15 năm trời, ngày nào cũng vậy, cứ đến giờ đó là người ta lại thấy bà Anna Ivanovna ra ga tàu.

Bất kể trời đông lạnh buốt xương, bất kể lúc đói kém hay tên bay đạn lạc, bà cứ lẳng lặng đi bộ từ ngôi làng nhỏ ra ga, ngồi đúng cái băng ghế gỗ đó. Mắt bà cứ nhìn chăm chăm vào đường ray, như thể đó không phải là thanh sắt vô hồn, mà là một lời hứa chắc nịch.

Hồi đầu, dân làng bảo chắc bà đợi chồng. Mà đúng thật.

Chồng bà là ông Ivan, đi lính từ năm 1917. Lúc đi, ông dặn: “Anh đi rồi anh về sớm, anh sẽ viết thư đều, em đừng lo”. Bà Anna tin hết, tin không sót một chữ nào.

Mấy tháng đầu còn thấy thư từ, rồi bỗng dưng bặt vô âm tín. Người ta đưa xuống một cái danh sách “mất tích”. Chẳng ai bảo ông còn sống, cũng chẳng ai dám khẳng định ông đã chết. Ông Ivan cứ thế kẹt lại ở cái nơi khổ sở nhất: cái nơi mà người thân không biết nên khóc tang hay nên hy vọng.

Người ta an ủi: “Thôi, chưa thấy người thì còn hy vọng”. Bà Anna bám lấy câu đó mà sống.

Chiến tranh qua đi, người ta lục đục kéo nhau về, ai nấy đều xơ xác. Nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng ông Ivan. Hàng xóm bắt đầu lời ra tiếng vào: “Thôi cô ơi, còn trẻ thì kiếm chỗ khác mà dựa, chứ thời gian nó chẳng chờ mình đâu, ông ấy không về nữa đâu”.

Bà Anna chẳng tranh cãi, bà chỉ bảo: “Tôi không đợi thời gian, tôi đợi nhà tôi”.

Thế rồi năm tháng trôi qua, đất nước đổi thay, đám trẻ con trong làng lớn lên rồi già đi, ai cũng thấy quen với hình ảnh “người đàn bà ở ga tàu”. Bà không còn chải chuốt, cũng chẳng thiết tha gì đến ánh mắt kỳ quặc của người đời. Bà như một phần của cái sân ga cũ kỹ đó.

Năm 1925, có ông cán bộ xã khuyên bà về đi, bảo bà làm thế là “mất quan điểm”, là “không thực tế”. Bà nhìn thẳng ông ta rồi nói gọn lỏn: “Nhà nước có cưới ông ấy đâu mà hiểu”.

Thế là bà cứ tiếp tục đợi. Người bà yếu đi, lưng còng xuống, nhưng lòng tin thì vẫn đứng thẳng tắp. Có năm mùa đông khắc nghiệt quá, bà ốm liệt giường mấy tuần, lúc gượng dậy ra được đến ga thì cái chỗ ngồi cũ đã có người khác ngồi. Bà chẳng đòi, cứ đứng đó mà đợi. Người kia thấy vậy cũng tự động đứng dậy nhường chỗ mà không dám hỏi một câu.

Và rồi, cái ngày kỳ diệu đó cũng đến. Ngày 4 tháng 5 năm 1932, một chuyến tàu lạ lùng cập bến. Bước xuống tàu là một ông già gầy trơ xương, tóc trắng xóa, tay chống cái gậy gỗ tự đẽo.

Bà Anna nhận ra ông ngay giữa đám đông. Bà không gào khóc, cũng chẳng cuống cuồng. Bà chỉ đứng dậy, chậm rãi bước tới. Ông Ivan đứng hình mất mấy giây mới nhận ra vợ mình. 15 năm sương gió đã làm thay đổi hết mặt mũi rồi còn đâu. Ông đánh rơi cả gậy, mếu máo:

“Anh cứ tưởng em không ra…” Bà Anna khẽ lắc đầu, nói nhẹ tênh:

“Em cứ nghĩ anh về muộn chút thôi”.

Ông Ivan bị kẹt trong trại tù binh suốt mười mấy năm, không liên lạc được với ai, chẳng ai đi tìm ông cả, trừ bà.

Họ sống bên nhau được thêm 3 năm cuối đời thì bà mất. Có người vẫn tặc lưỡi: “Đúng là phí cả đời để chờ đợi”. Nhưng lúc còn sống, bà Anna chẳng bao giờ nghĩ thế. Bà bảo: “Tôi có đợi đâu, là tôi chọn đấy chứ”.

Cái hay của câu chuyện là ở chỗ đó: Bà ở lại sân ga không phải vì bà không có chỗ để đi, mà vì bà chọn yêu một người cho đến tận cùng, bất chấp mọi rủi ro. Thời gian có thể làm người ta già đi, nhưng tình yêu của bà Anna đã chứng minh một điều: Thời gian có thể tàn nhẫn, nhưng nó không phải là kẻ quyết định tất cả.

St

#trammachuonglai


 

CÙNG BAY-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập!”.

“Chim hải âu dạy chúng ta bay tự do, bay một mình; và cuối cùng, sẽ chết vì sự ghen ghét của đồng loại. Ngỗng trời dạy chúng ta bay theo gia đình!” – Richard Bach.

Kính thưa Anh Chị em,

 

Tin Mừng lễ Thánh Gia không mở ra cảnh bình yên, nhưng bằng một cuộc ra đi vội vã giữa đêm. Chúng ta không tự hỏi Thánh Gia ‘bay cao’ hay ‘bay xa’ bao nhiêu; điều quan trọng hơn, trong bão tố, các ngài đã bay thế nào – họ có ‘cùng bay’ với nhau?

Trong gia đình thánh này, không ai bay một mình. Giuse không đi trước dò đường; Maria không nán lại; và Hài Nhi không bị phó mặc cho số phận. Họ ở bên nhau, bước đi cùng nhau, dẫu không có kế hoạch dài hạn, không có bảo đảm mai ngày; chỉ có một xác tín – vâng lời, phần còn lại Chúa lo! Đó không phải là một chuyến bay anh hùng, nhưng là một chuyến bay gắn bó – đủ gần để sự sống Con Thiên Chúa được bảo toàn. “Từ bỏ sự thoải mái vì một người thân yêu là thước đo chân chính của sự quan tâm!” – Brandon Nash.

Chính từ cơn dông ấy, gia đình là nơi con người học biết dừng lại. Đời dạy phải nhanh để vượt, để hơn, để thoát; gia đình dạy chúng ta chậm lại đúng lúc – không vì yếu, mà vì còn người ‘cần chờ’. “Khi mọi thứ trở nên tồi tệ nhất, những người đứng bên bạn không nao núng – họ là gia đình bạn!” – Jim Butcher. Huấn Ca gọi đó là kính sợ Chúa, biết kính trọng mẹ cha – bài đọc một; một kỷ luật âm thầm, không phô trương, nhưng giữ con người khỏi trệch khi ngược gió. Ai chưa từng học chậm lại trong gia đình, sẽ dễ đi quá nhanh đến mức lạc mất chính mình và đánh mất người khác.

Gia đình cũng là nơi học “ở lại” với nhau. Giữa bão, không ai sống bằng cảm xúc. Phaolô nói đến những điều rất nhân bản – thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau – bài đọc hai. Gia đình không xây bằng những khoảnh khắc thành công, nhưng bằng những hy sinh nhỏ, bền bỉ, để không ai bị loại trừ khi trở nên yếu đuối. “Hy sinh trong gia đình là đồng tiền của tình yêu sâu thẳm!” – Leona Barrett.

Giữa biển trời lồng lộng hôm nay, tự do được ca tụng, cá nhân được tôn vinh, người ta dễ mơ ước làm hải âu – mạnh mẽ, đơn độc, không ràng buộc. Nhưng Lời Chúa mời chúng ta nhìn lên thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để học một con đường khác – con đường ‘cùng bay’; không để tránh bão, mà để đi qua bão mà không mất nhau. Đó là cách bay đưa sự sống đi xa nhất, xa tận thiên quốc – nơi Thiên Chúa đang chờ.

Anh Chị em,

Trong một thế giới thấm đẫm “văn hoá vứt bỏ”, nơi người già, người bệnh, người yếu dễ bị xem là gánh nặng, Kitô hữu được mời gọi sống khác. Không bỏ rơi khi ai đó chậm chạp; không quay lưng khi tình yêu đòi kiên nhẫn; không tách mình để được “nhẹ gió”. ‘Cùng bay’, đôi khi chỉ là ‘chọn ở lại’. Và chính sự ở lại ấy tự nó đã làm chứng cho thế giới rằng, “có Thiên Chúa!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

Lạy Chúa, giữa gió ngược của đời sống, xin cho gia đình chúng con biết chậm lại để đợi nhau, biết ở gần để không ai bị bỏ lại, và biết cùng nhau bay cho đến cùng!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 *******************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT KÍNH THÁNH GIA THẤT, NĂM A

Hãy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 2,13-15.19-23

13 Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng : “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !” 14 Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. 15 Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

19 Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, 20 báo mộng cho ông rằng : “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” 21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. 22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, 23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng : Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.


 

Chuyện tình khó quên của cha đẻ chiếc áo dài Việt Nam!

Xuyên Sơn

Chuyện tình khó quên của cha đẻ chiếc áo dài Việt Nam!

Lê Thiếu Nhơn

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường (sinh năm 1912, mất năm 1946)

chính là cha đẻ của chiếc áo dài

Việt Nam. Từ kiểu áo Lemur của Nguyễn Cát Tường, chiếc áo dài tiếp tục được cải tiến và dần dần trở thành trang phục truyền thống tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ nước ta. Thế nhưng, ít ai biết rằng, một trong những người đầu tiên góp công phô diễn chiếc áo dài của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, chính là vợ ông – bà Nguyễn Thị Nội!

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường sinh ra và lớn lên ở Sơn Tây – Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, họa sĩ Nguyễn Cát Tường cộng tác với báo Phong Hóa do nhà văn Nhất Linh làm chủ biên.

Bằng con mắt liên tài, nhà văn Nhất Linh nhận ra chàng họa sĩ trẻ Nguyễn Cát Tường ngoài sở trường vẽ tranh minh họa còn có khả năng đưa ra những ý kiến bổ ích để tư vấn làm đẹp cho phái nữ.

Vì vậy, trên báo Phong Hóa số 85 ra ngày 11/2/1934, nhà văn Nhất Linh mở chuyên mục

“Vẻ đẹp riêng tặng các bà, các cô” và giao cho họa sĩ Nguyễn Cát Tường phụ trách.

Sau 4 số báo nhẩn nha phân tích về trang phục phụ nữ Việt, họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhấn mạnh:

“Quần áo tuy dùng để che thân thể, nhưng nó có thể như tấm gương phản chiếu trình độ trí thức của một nước.

Bộ quần áo rồi sẽ phải như thế nào? Trước hết, nó phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, với mực thước của thân hình mỗi bạn.

Sau nữa, nó phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ thẩm mỹ lịch sự. Nhưng dù thế nào, nó cũng phải có cái tính cách riêng của nước nhà mới được. Các bạn là phụ nữ Việt Nam, vậy áo của các bạn phải có một vẻ riêng để người khác khỏi nhầm các bạn với phụ nữ nước ngoài, như nước Tàu, nước Pháp, nước Nhật Bản chẳng hạn”.

Với quan niệm ấy, trên báo Phong Hóa số 90 ra ngày 23/3/1934, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã công bố bản vẽ chiếc áo dài đầu tiên, đặt tên là áo dài Lemur. Nhà văn Thạch Lam đã lên tiếng ủng hộ áo dài Lemur rất nồng nhiệt:

“Sự cải cách y phục của phụ nữ ta có thể bởi cái nguyên nhân sau:

cái dáng điệu tự nhiên của thân thể người ta mà các họa sĩ biết thưởng thức. Biết sự mềm mại tha thướt của dáng điệu, rồi làm thế nào cho cái ống quần, cái tà áo theo cái mềm mại tha thướt đó, để làm tăng vẻ đẹp của thân hình cô thiếu nữ trẻ trung”.

Để chiếc áo dài Lemur bước từ trang báo ra cuộc đời, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã hợp tác với hiệu may Cử Chung ở số 100 phố Hàng Bông – Hà Nội và hiệu may Phạm Tá ở số 23 phố Bờ Hồ – Hà Nội để khuyến khích phụ nữ trưng diện trang phục này.

Đích thân họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã đi tìm những phụ liệu nhằm làm tăng thêm sức hấp dẫn cho chiếc áo dài.

Và một lần ra ga Hàng Cỏ để gặp một ông chủ xưởng dệt ren ở Bắc Ninh lên, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã nhận được món quà nhân duyên lớn nhất đời mình!

Khi tàu từ Bắc Ninh vào ga Hàng Cỏ,

họa sĩ Nguyễn Cát Tường chờ mãi không thấy ông chủ xưởng dệt ren đã có hẹn với mình. Đang mắt trái mắt phải ngó nghiêng kiếm tìm, họa sĩ Nguyễn Cát Tường sửng sốt khi phát hiện một cô gái đi ngang. Không trang điểm, trên đầu lại chít khăn xô đại tang, nhưng nhan sắc của cô gái làm họa sĩ Nguyễn Cát Tường ngơ ngẩn.

Sau mấy phút choáng váng, họa sĩ Nguyễn Cát Tường hoàn hồn và chạy theo cô gái. Lễ nghi lúc ấy không cho phép trai gái làm quen sỗ sàng, họa sĩ Nguyễn Cát Tường dò la biết được cô gái kia tên là Nội cũng ở Bắc Ninh và là con gái một chủ xưởng dệt ren vừa qua đời.

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường xã giao với người kéo xe của cô Nội để nhờ đưa thư. Sau mấy lần thư đi thư lại và thưởng không ít bạc cho người kéo xe, họa sĩ Nguyễn Cát Tường được thông báo rằng cô Nội hẹn ông ở chuyến tàu Bắc Ninh – Hà Nội dịp cuối tuần.

Đúng giờ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường chưng diện bảnh bao để đứng đợi cô Nội ở ga Hàng Cỏ.

Cô Nội xuống tàu thật, với hai chiếc va li to đùng. Họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhào đến, cúi chào cô Nội rất điệu đàng kiểu quý ông.

Cô Nội hơi ngơ ngác nhưng vẫn không tỏ thái độ gì, chỉ nhìn xuống… hai cái va li. Dù không phải loại người khỏe mạnh, nhưng họa sĩ Nguyễn Cát Tường cũng tỏ ra ga- lăng, hai tay nhấc bổng hai cái va li lên.

Cứ thế, nàng nhẹ nhàng đi trước, chàng hổn hển theo sau.

Ra khỏi cổng ga, nàng đi thẳng vào… đồn cảnh sát.

Hơi khó hiểu, nhưng chàng cũng vào luôn và hồn xiêu phách tán khi nghe nàng tố giác tội phạm:

“Ông này lấy cắp hai cái va li của tôi!”.

Nhân chứng và vật chứng đều có đủ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường không biết cách nào biện hộ cho bản thân, đành lấy mấy lá thư của cô Nội mà mình lúc nào cũng mang bên mình để chứng minh cả hai có quan hệ với nhau. Cô Nội khăng khăng

“không phải chữ của tôi”, và mượn giấy bút của cảnh sát để biểu diễn chữ viết hoa mỹ gấp trăm lần thứ chữ viết mà họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhận được.

Trời đất như sụp đổ dưới chân họa sĩ Nguyễn Cát Tường.

Cô Nội thì nhận lại hai cái va li để đi xa rồi, còn họa sĩ Nguyễn Cát Tường phải ngồi ở đồn cảnh sát để tường trình sự việc và chờ người của báo Phong Hóa đến bảo lãnh.

Tất nhiên, thuở đó nhà văn Nhất Linh – chủ báo Phong Hóa cũng là nhân vật có quyền lực, nên họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhanh chóng thoát nạn.

Bấy giờ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường mới vỡ lẽ bị người kéo xe giở trò lừa đảo.

Cái gọi là thư của cô Nội, đều do người kéo xe tự viết để mong có mấy đồng tiền thưởng từ họa sĩ Nguyễn Cát Tường.

Oan gia ngõ hẹp, mấy ngày sau họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhận được trát của tòa án.

Lý do, cô Nội về nhà kể lại cho mẹ nghe những điều đã xảy ra trên Hà Nội.

Và bà góa chủ xưởng thêu ren ở Bắc Ninh quyết không buông tha kẻ đã bôi nhọ thanh danh con gái cưng của mình bằng sự vu vạ “viết thư cho trai”. Thủ phạm là người kéo xe bị vạch mặt, nhưng họa sĩ Nguyễn Cát Tường vẫn thua kiện và phải “bồi thường một đồng danh dự” cho cô Nội.

Hình ảnh cô Nội ngỡ đã tan thành mây khói trong giấc mộng của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, thì cái câu “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” lại ứng nghiệm.

Tuy chồng đã qua đời, nhưng cam kết cung cấp nguyên liệu cho việc may áo dài vẫn được người vợ thừa kế xưởng dệt ren thực hiện.

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường được mời xuống Bắc Ninh để gặp mặt tiếp tục thỏa thuận cho một thương vụ êm thắm. Thật bất ngờ, cô gái của bà chủ xưởng thêu ren thay mẹ rót trà mời khách, không ai khác, chính là cô Nội.

Không giống như sự giận dữ trước đây đối với kẻ xúc phạm con gái mình, mẹ của cô Nội hết sức khen ngợi tài năng của họa sĩ Nguyễn Cát Tường và không giấu giếm ý muốn nhận họa sĩ Nguyễn Cát Tường làm con rể.

Cuối năm 1936, sau khi mãn tang thân phụ, Nguyễn Thị Nội xuất giá.

Đám cưới được tổ chức tưng bừng ở Bắc Ninh. Trong ngày vu quy, cô dâu Nguyễn Thị Nội mặc chiếc áo dài do tân lang Nguyễn Cát Tường thiết kế.

Vốn có gien kinh doanh của gia tộc, Nguyễn Thị Nội từ ngày làm vợ họa sĩ Nguyễn Cát Tường, đã giúp chồng phát triển thương hiệu áo dài Lemur rất thịnh vượng tại Hà Nội. Hiệu may Lemur với đặc sản áo dài được mở tại số 16 phố

Lê Lợi, trở thành địa chỉ nổi tiếng nhất về y phục phụ nữ.

Bà chủ Nguyễn Thị Nội không chỉ khéo léo chiều chuộng khách hàng,

mà còn là người mẫu thuyết phục nhất để người ta yêu thích chiếc áo dài.

Cũng nhờ người mẫu Nguyễn Thị Nội, họa sĩ Nguyễn Cát Tường có cảm hứng sáng tạo rất nhiều mẫu áo dài, để in thành cuốn sách “50 mẫu y phục phụ nữ Lemur” do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành.

Năm 1939, hiệu may Lemur chuyển về số 14 phố Hàng Da.

Và tại địa chỉ này, bà Nguyễn Thị Nội đã mở phòng trà Thiên Hương quy tụ những nghệ sĩ lừng lẫy nhất thủ đô hội ngộ hàng đêm.

Bà Nguyễn Thị Nội sinh cho họa sĩ Nguyễn Cát Tường cả thảy 5 người con, 3 trai 2 gái.

Ngày 17/12/1946, họa sĩ Nguyễn Cát Tường qua đời, hiệu may Lemur cũng đóng cửa.

Sau năm 1954, bà Nguyễn Thị Nội đưa gia đình vào Sài Gòn, và một mình làm lụng nuôi các con khôn lớn.

Bây giờ bà Nguyễn Thị Nội cũng đã thành người thiên cổ, nhưng những ngày bà cùng chồng mình – họa sĩ Nguyễn Cát Tường quảng bá chiếc áo dài, xứng đáng được thế hệ sau truyền tụng. Bởi lẽ, tình yêu của họ đã giúp người Việt Nam có được một trang phục truyền thống mang vẻ đẹp quyến rũ, như nhà thơ Nguyên Sa bồi hồi: 

“Có phải em mang trên áo bay/

Hai phần gió nổi một phần mây/

Hay là em gói mây trong áo/

Rồi thở cho làn áo trắng bay”,

hoặc như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên xao xuyến:

“Tháng giêng em áo dài trang nhã/

Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam/

Đài các chân ngà ai bước khẽ/

Quyện theo tà lụa cả phương Đông”.

Mời nghe radio

https://nongnghiep.vn/…/hoa-si-nguyen-cat-tuong-hanh…

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH THEO GƯƠNG MẪU THÁNH GIA NA-DA-RÉT –  Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

 LỄ THÁNH GIA

 XÂY DỰNG GIA ĐÌNH THEO GƯƠNG MẪU THÁNH GIA NA-DA-RÉT –  Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  

 (Suy niệm lễ Thánh gia thất)

 Sứ điệp: Hãy chiếu theo khuôn mẫu Thánh gia Na-da-rét để xây dựng “Hội thánh tại gia” của mình.

 ***

Nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, người cha, người mẹ cũng như con cái trong gia đình được trở nên chi thể của Chúa Giê-su (GLHTCG số 1.267. Thư I Cr 6, 15; 12, 27) và được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLHTCG 1.265. 2Pr 1,4). Vì thế họ được trở nên thánh và gia đình họ là nơi có thánh cha, thánh mẹ, thánh con… sum họp nên được Giáo hội và đặc biệt là Công đồng Vatican II và thánh giáo hoàng Gioan Phao-lô II xác nhận rằng đó là một Hội thánh qua câu nói: “Gia đình Kitô hữu là Hội thánh tại gia .”

 Noi gương Thánh gia Na-da-rét để xây dựng Hội thánh tại gia

Để có thể xây dựng một công trình kiến trúc có tính mỹ thuật và chất lượng thì trước hết cần phải có một mô hình hay một bản  thiết kế hoàn chỉnh. Người thợ xây chỉ việc chiếu theo bản thiết kế hay mô hình đó để thi công đúng theo từng chi tiết thì công trình sẽ được hoàn thành tốt đẹp.

 Trong việc xây dựng các hội thánh tại gia cũng  vậy, các Ki-tô hữu cũng cần một mô hình, một bản thiết kế hoàn chỉnh. Chính Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người đã bỏ ra 33 năm kiến tạo nên mô hình tuyệt hảo là Thánh gia Na-da-rét, để làm mẫu mực cho tất cả các hội thánh tại gia khác dựa theo đó mà xây dựng thánh gia của mình.

Vậy thì, muốn xây dựng gia đình theo khôn mẫu thánh gia Na-da-rét, mỗi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba đấng thánh trong thánh gia nầy, cụ thể là:

– Người chồng phải yêu thương, tôn trọng và phục vụ vợ, con như thánh Giuse đã thực hành đối với Đức Mẹ và Chúa Giê-su;

– Người vợ phải yêu thương và chăm sóc chồng, con như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ Chúa Giê-su và thánh Giuse;

– Cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giê-su hết tình;

– Con cái trong gia đình phải hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giê-su đã làm đối với Cha Mẹ Ngài.

 Tuy nhiên, có người hỏi: Người chồng, người vợ, những đứa con trong nhà… chỉ là người phàm, thì có xứng đáng để được chăm lo, phục vụ… như là phục vụ cho Chúa không?

Thưa, hoàn toàn xứng đáng! Rất xứng đáng để mỗi người chúng ta chăm lo và phục vụ.

Tại sao? Vì mỗi người tín hữu là chi thể của Chúa Giê-su, là hiện thân của Chúa Giê-su, có Chúa hiện diện trong mỗi người và nên một với mỗi người, nên rất đáng được yêu thương, chăm sóc, phục vụ. Hãy nhớ lại lời Chúa Giê-su dạy: “Những gì các con đã làm cho những người này là làm cho chính Ta.”

 Lạy Chúa Giê-su,

Chúng con hết lòng tạ ơn Chúa vì đã nâng gia đình chúng con lên bậc thánh gia.                                                            

Nguyện xin Chúa, Mẹ Maria và thánh cả Giu-se hằng hiện diện trong gia đình chúng con, giúp chúng con biết quý trọng gia đình mình vì đó là hội thánh nhỏ của Chúa và cố công xây dựng gia thất chúng con nên giống Thánh gia của Chúa. Amen. 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  

From: NguyenNThu


 

GP Cần Thơ sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Thánh LM Trương Bửu Diệp năm 2026

Ba’o Nguoi-Viet

December 21, 2025

CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Giáo Phận Cần Thơ, Việt Nam, sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp vào Thứ Năm, 2 Tháng Bảy, 2026, tại Trung Tâm Hành Hương Tắc Sậy, xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.

Hôm Thứ Sáu, 19 Tháng Mười Hai, Giám Mục Lê Tấn Lợi, giám mục Giáo Phận Cần Thơ, gởi ra thông cáo cho biết như vậy.

Tượng Linh Mục Trương Bửu Diệp tại văn phòng Truong Buu Diep Foundation, Garden Grove. (Hình minh họa: Facebook Truong Buu Diep Foundation)

“Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, Tòa Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ hân hoan loan báo một niềm vui trọng đại của giáo phận và của giáo hội tại Việt Nam: Tòa Thánh đã chính thức chấp thuận việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước cho Tôi Tớ Chúa – Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, do đặc sứ của Đức Thánh Cha Leo XIV là Đức Hồng Y Luis Antonio G. Tagle, quyền bộ trưởng Bộ Loan Báo Tin Mừng, chủ sự,” thông cáo cho biết.

Giám Mục Lê Tấn Lợi cho biết thêm: “Đây là hồng ân đặc biệt Chúa ban cho giáo phận chúng ta, đồng thời là niềm khích lệ lớn lao cho mọi thành phần dân Chúa noi gương Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trung thành sống đức tin, nồng nàn yêu mến Chúa và tận tâm hy sinh phục vụ tha nhân.”

“Xin toàn thể cộng đoàn dân Chúa hiệp thông trong lời tạ ơn Thiên Chúa, đồng thời sốt sắng cầu nguyện cho công việc chuẩn bị và tổ chức Thánh lễ Phong Chân Phước được diễn ra tốt đẹp và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng,” vị giám mục chánh tòa Cần Thơ thêm.

Giám mục kêu gọi: “Tôi tha thiết kêu gọi quý linh mục, tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân, trong khả năng và trách nhiệm của mình, nhiệt tình cộng tác và chung tay góp phần để việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Phanxicô Trương Bửu Diệp được sốt sắng, chu đáo và tràn đầy ý nghĩa đức tin.”

Được biết đây là lần đầu tiên có một Thánh Lễ Phong Chân Phước được cử hành tại Việt Nam. 

Thông cáo của Giám Mục Lê Tấn Tới nói về việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Hình: Giáo Phận Cần Thơ)

Tiểu sử Linh Mục Trương Bửu Diệp

Theo Vatican News, Linh Mục Trương Bửu Diệp sinh ngày 1 Tháng Giêng, 1897, tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Đức, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Thân phụ của linh mục là ông Trương Văn Đặng và thân mẫu là bà Lê Thị Thanh. Năm 1904, sau khi mẹ qua đời, vị linh mục tương lai theo cha sang tỉnh Battambang, Cambodia, sinh sống.

Năm 1909, linh mục vào Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng, sau đó, tiếp tục tu học tại Đại Chủng Viện Phnom Penh, Cambodia, và được thụ phong linh mục tại thủ đô nước này năm 1924.

Từ năm 1924 đến năm 1927, linh mục được bổ nhiệm làm phó xứ Hố Trư, một họ đạo của người Việt Nam sinh sống tại tỉnh Kandal, Cambodia. Từ năm 1927 đến năm 1929, Linh Mục Trương Bửu Diệp về làm giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng.

Từ năm 1930, linh mục được bổ nhiệm làm chánh xứ họ đạo Tắc Sậy, tỉnh Bạc Liêu, nay thuộc xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.

Suốt 16 năm thi hành sứ vụ, linh mục tận tụy chăm sóc đoàn chiên, đặc biệt yêu thương người nghèo, không phân biệt lương giáo. Giữa thời loạn lạc chiến tranh, dù được khuyên lánh nạn, linh mục vẫn kiên quyết ở lại với giáo dân, khi nói: “Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên.”

Ngày 12 Tháng Ba, 1946, Linh Mục Trương Bửu Diệp bị Nhật bắt cùng với hơn 70 giáo dân họ Tắc Sậy. Linh mục đứng ra tranh đấu cho dân, đồng thời an ủi những người cùng bị giam. Sau lần thứ ba bị mời đi làm việc, linh mục không trở về. Sau đó vài ngày, giáo dân tìm thấy xác linh mục tại một cái ao, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.

Thi hài linh mục được vớt lên và chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo, Bạc Liêu, đến năm 1969 thì được di dời về an táng tại Tắc Sậy, nơi ngày nay trở thành điểm hành hương của đông đảo tín hữu kính nhớ một vị mục tử đã sống và chết vì đoàn chiên.

Sau khi linh mục qua đời, rất nhiều tín hữu bắt đầu đến kính viếng mộ linh mục, xin linh mục chuyển cầu và nhận được nhiều phép lạ.

Nhà thờ Tắc Sậy ở xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau. (Hình: Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam)

Án phong Chân Phước 

Năm 2013, Giám Mục Tri Bửu Thiên, giám mục Giáo Phận Cần Thơ,  mở án điều tra cấp giáo phận, thu thập chứng cứ, lời chứng, và các phép lạ. Hồ sơ được hoàn tất vào năm 2017 và được gửi sang Vatican. Năm 2019, Bộ Tuyên Thánh kết luận điều tra có giá trị để khởi sự án phong Chân Phước.

Ngày 25 Tháng Mười Một, 2024, trong cuộc tiếp kiến dành cho Hồng Y Marcello Semeraro, bộ trưởng Bộ Phong Thánh, Đức Giáo Hoàng Francis cho phép bộ ban hành sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của Linh Mục Trương Bửu Diệp (bị giết vì sự căm thù đức tin).

Trong thư đề ngày 3 Tháng Mười Hai, gởi đến Linh Mục Cleber Willian Lopes Pombal, thuộc Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ, Tổng Giám Mục Edgar Pena Parra, phụ tá quốc vụ khanh Tòa Thánh Vatican, cho biết, theo ý định của Đức Giáo Hoàng Leo XIV, nghi thức tuyên phong Chân Phước cho Đấng Đáng Kính Tôi Tớ Chúa Phanxicô Trương Bửu Diệp sẽ được cử hành vào vào Tháng Bảy, 2026, như đã nêu ở trên.

Nhà thờ Tắc Sậy 

Theo trang web vietnamtourist.com, nhà thờ Tắc Sậy, hay còn biết đến là nhà thờ Cha Diệp, được xem là một trong những nhà thờ Công Giáo đẹp nhất miền Tây sông nước. Đây cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của Linh Mục Trương Bửu Diệp.

Nhà thờ được xây dựng năm 1925 và Linh Mục Trần Minh Kính là chánh xứ đầu tiên, từ Tháng Tám, 1926. Năm 1930, Linh Mục Trương Bửu Diệp là chánh xứ.

Tên Tắc Sậy xuất phát từ đặc điểm địa hình vùng này, có nhiều lau sậy, muốn đi vào nhà thờ phải đi qua một con đường tắt. Do người Nam biến âm “tắt” thành “tắc,” cho nên có tên Tắc Sậy.

Ngày nay, nhà thờ là một trong những điểm hành hương nổi tiếng nhất Việt Nam, thu hút nhiều du khách và giáo dân đến chiêm ngưỡng, dâng lễ, cầu nguyện, và khấn vái,…nhất là trong dịp Tết, những ngày lễ lớn của người Công Giáo, và ngày giỗ Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Đ.D.)


 

NGHĨ KHÁC ĐI ĐỂ HẠNH PHÚC

Những Câu Chuyện Thú Vị

– Khi chán nản, hãy nghĩ xem mình còn lại bao nhiêu ngày để dằn vặt, còn bao nhiêu thời gian để phung phí? Bạn vui, một ngày cũng qua đi, bạn buồn một ngày cũng kết thúc. Nếu nhận ra điều này hẳn sẽ không dễ dãi để cuộc sống mình âm u nữa.

– Khi phiền muộn, hãy nghĩ xem thật ra cuộc sống là những phép trừ, gặp nhau một lần là ít đi một lần, sống hết một ngày là giảm đi một ngày, có gì đáng để phí hoài? Không quên tình nghĩa, không nghĩ thị phi, không chấp oan trái, không nợ nần ai, không thẹn với lương tâm là được.

– Khi thấy bi thương, hãy xem cuộc sống là một hành trình, chúng ta đến đây hai tay trắng thì rời đi cũng sẽ như vậy, không thể mang theo dù chỉ là hạt bụi hay một áng mây bay. Những công danh lợi lộc, những thế thái nhân tình, đều phải để lại. Hiểu rõ điều này rồi thì có gì phải bận tâm mà phiền lòng?

Khi không được như ý, hãy so sánh với sự bận rộn của những người giàu có, chúng ta sống biết đủ chính là niềm hạnh phúc. Rồi nhìn qua những người đang đau khổ trong bệnh viện, chúng ta vẫn mạnh khỏe chính là niềm hạnh phúc. Và hãy xem trên thế giới một giây có bao nhiêu người phải rời đi, chúng ta vẫn còn sống chính là niềm hạnh phúc… Con người muốn có một đời sống khỏe thì tâm phải đơn giản, thân phải nhẹ nhàng.

– Khi nổi giận, hãy nghĩ xem có nên vì những kẻ không đáng mà ấm ức? Có cần vì những việc không quan trọng mà bực mình? Ăn uống đúng cách, làm việc điều độ, vận động vừa đủ, nghỉ ngơi hợp lí, khoản nào tiết kiệm thì tiết kiệm, phần nào nên tiêu thì chi ra. Bạn tốt thì gia đình và người thân mới tốt, mọi người đều sẽ tốt.

– Khi tính toán, hãy nghĩ xem con người đi một vòng trong thế gian đều trở về điểm 0, sao phải chi li so bì, không biết nhường nhịn? Nói nhiều thì tổn thương người, tính nhiều thì tổn thần khí, chi bằng đừng so đo nữa, làm một người vui vẻ dễ chịu, không thẹn với lòng!

Làm người, còn sống được là tốt.

Có cơm để ăn, có nước để uống, có áo để mặc, có giường để ngủ, có núi để leo, có sách để đọc, có việc làm ổn định đó chính là hạnh phúc.

Bài và ảnh sưu tầm.