Tác Giả: Nguyễn Văn Lục –
28/12/2025
Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải
Phùng Thắng- Phùng Thăng. Từ khởi đầu hấp thụ với nền tảng triết lý Tây Phương thời thịnh đạt, Phùng Thăng, Phùng Thắng đã đưa ra những góc nhìn văn hóa mới.
Hai chị em Phùng Thắng, sau này là ni sư Trí Hải- và em là Phùng Thăng là những nhà văn hóa phụ nữ thế hệ tuổi trẻ chúng tôi. Thế hệ 1960- 1970.
Có nghĩa là khởi đầu cùng được đào tạo dưới mái trường của truyền thống triết lý Hy Lạp từ thời Platon-Aristote.
Nếu ví dòng triết lý ấy như một cái “Cây triết lý”, thì sau này, nó mọc ra rất nhiều nhánh rẽ. Có một J.P Sartre, nhưng cũng có nhiều nhánh như một Merleau Ponty, một Heidegger, một K. Jasper, một A. Malraux.
Nhưng trên hết như một biểu tượng là J.P. Sartre với rất nhiều tác phẩm: La nausée( 1938), Le Mur ( 1939), rồi Sartre cho ra đời nhiều tác phẩm đồ sộ như: Les chemins de la liberté, Les Mouches.
Phùng Thăng là người đầu tiên dịch tác phẩm Les Mouches ra tiếng Việt: Những ruồi.
Điều đó chứng tỏ rằng sau này một thiên tài cứ thế mà PT tỏa sáng.
Tác phẩm lớn tiếp theo của J.P. Sartre là L’Etre et le néant. Huis clos (1944) Les mains sales (1948), Le Diable et le bon Dieu(1951).
Với sự nghiệp như thế, Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức và của cả nước Pháp.
Bên cạnh đó, rất nhiều danh từ của Sartre trở thành thời thượng như vấn đề dấn thân, vấn đề trách nhiệm. Rồi hiện hữu và hư vô, vấn đề hoài nghi, phủ nhận, vấn đề hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính.. Đời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn.
Khi Sartre chết năm 1980, nước Pháp đã tiễn đưa ông với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Víctor Hugo 100 năm trước.
Về phía Việt Nam, cuộc di cư năm 1954 đã mở đầu cho sự có mặt của Sartre và A.Camus kéo dài trong suốt nhiều năm.
Những ngữ từ triết học trở thành sự quyến rũ mời gọi và biến hóa thành cái gọi là “mốt hiện sinh” mà những lời giải đáp đôi khi chỉ là một sự trống rỗng, những câu hỏi không có lời giải đáp..
Và tôi gọi giai đoạn này bằng một danh hiệu mới:
Những đứa con hoang của J.P.Sartre.
Nó ảnh hưỡng một cách nào đó trên các nhà văn như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại, Chu Tử và một số các nhà văn nữ thập niên 60 như: Túy Hồng, Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, ít nhiều cho thấy bóng dáng của F.Sagan hiện diện trong truyện của họ.
Bên cạnh đó, phải kể đến vô số các giáo sư dạy triết thế hệ thứ hai như Đặng Phùng Quân, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Trần Công Tiến, Nguyễn Trọng Văn..với những luận án cao học.
Thú thật, bản thân tôi đã mệt mỏi với những luận đề triết học nên không mấy quan tâm đến những luận đề triết học.
Tôi không hiểu có bao nhiêu người đọc họ và những luận văn ấy và nhất là hiểu họ viết gì?
Tôi không đủ tư cách để trả lời thay cho họ.
Hay liệu đó có phải chỉ là những luận án có tính thời thượng, theo đuôi hay bắt chước?
Câu trả lời có thể được trả lời một cách gián tiếp qua cái hướng nhìn của Phùng Khánh, nhất là Phùng Thăng theo cái hướng mà tôi tạm gọi là: Hướng nhìn về phương Đông.
Phần tôi, đã bước qua ngưỡng cửa triết học Tây Phương với nhữn câu hỏi, không có câu trả lời mà tìm cho mình một hướng đi mới, thiết thực và hấp dẫn hơn.
Nhưng trước hết, tôi xin được phép giới thiệu đến Tôn Nữ Phùng Thăng và Phùng Khánh.
Tên thật của PT là Công Tằng Tôn Nữ Phùng Thăng, sinh năm 1943, tại Huế. PT là em út trong một gia đình có 6 anh chị em. Chị của Phùng Thăng là Phùng Khánh, tức ni sư Trí Hải, sau này đi tù về vụ Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu hay Thích Mạnh Thát chống đối nhà cầm quyền cộng sản. Với tư cách bà là thủ quỹ, Sư bà Trí Hải lãnh án tù 4 năm. Sau này, Trí Hải bị tử nạn trong một tai nạn giao thông vào ngày 7-tháng 12- năm 2003.
Phần gia đình Phùng Thăng rất sùng đạo Phật.
Thuở nhỏ, PT ở thôn Vỹ Dạ, học tiểu học tại trường Thế Dạ. Lên Trung học, những năm đầu học tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Sau chuyển về học tại trường Đồng Khánh Huế. Nhưng hồi đó Đồng Khánh chưa có đệ nhất nên PT phải phải chuyển qua học triết học..ban C2, ở Quốc Học cùng với Thái Thị Kim Lan.
Theo Thái Thị Kim Lan, một người cùng học lớp đệ nhất C2 với bà cho thấy: PT hiền dịu, ít nói, chăm chú vào việc học, học giỏi nhiều môn làm cho các bạn đồng lớp có phần kính nể..
Trong khi đó, các bạn của bà như Thái thị Kim Lan bốc đồng và sôi nổi tuổi trẻ nhất thời chạy theo phong trào đấu tranh Phật giáo do Thích Trí Quang- một nhà sư với nhiều tham vọng, đôi mắt sắc sảo, giọng nói khàn đục đầy mê hoặc- đẩy một số tăng ni vào các vụ tự thiêu vô tiền khoáng hậu, coi mạng người như cỏ rác..
Thái kim Lan viết tiếp: bà dệt mơ ước học trò, hãnh tiến và không biết sợ, lên đường, tham gia vào các vụ biểu tình, tuyệt thực dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của Thích Trí Quang.
Trí Quang đã trao cho Thái Kim Lan như người đại diện chính thức thay cho Trí Quang.
Bạn đọc cần biết thêm, lúc 5 tuổi, cha của TKL vốn là một viên chức bưu điện đã bị cộng sản hạt sát. Sau này bà chị TKL có chồng là một sĩ quan phải đi học tập tập trung. Trong một lần đi tiếp tế cho chồng trở về, bà đã bị một tài xế việt cộng cán chết. Sau đó, bọn cộng sản đã đến đền bù bằng một bao gạo..
Phần TKL, bà như quên cái quá khứ đau buồn ấy và tiếp tục mê say Trí Quang vừa như người thày, vừa như một người tình trong rất nhiều năm trời như tôi được biết và được nghe kể từ chính Thái Kim Lan..
Và đây cũng có thể là ngã rẽ giữa bọn nữ sinh nông nổi, hãnh tiến khác với Phùng Thăng.
Xin ghi một đôi nét về Phùng Thăng dưới ngòi bút của Thái Kim Lan:
“Áo trắng, dáng ngồi thẳng, nghiêm trang, nét mặt thanh tú, làn da trong sáng, tóc bín hai con rết thắt nơ trắng. Hai con rết và cái nơ tòng teng tiết lộ sự trẻ thơ so với nét mặt có sống mũi cao, nghiêm nghị của “ người lạ ấy”. Chị không cười mặc dù đôi môi hồng tươi, như tiết kiệm hay muốn giữ bí mật của cả tâm hồn hay của đôi hàm răng mà sau này tôi có đôi lần nhìn được rất trong. Môi không cười cho nên nét diễn tả tâm tình hầu như dồn nơi đôi mắt sáng lấp lánh đầy chân thiện, chị cười bằng mắt rất lặng lẽ. Gương mặt ấy hầu như chỉ biết cúi xuống trang sách hay nhìn lên bảng đen, hiếm khi thấy chị nhìn ngang hay liếc dọc để quan sát chuyện chung quanh mình..”
Và cứ tính ngược lại những điều trên của PT thì chính là chân dung đích thực của Thái kim Lan
Trong khi đó, Phùng Thăng ở ngoài những vùng xoáy lịch sử ấy lấy việc chuyên tu làm hướng đi của đời bà. Bà tiếp tục học lên Đại học, bà học khoa Triết, đại học văn khoa, Huế.
Ra trường, luận văn tốt nghiệp của PT là: Chỉnh lý tư tưởng Tây Phương.
Rất tiếc, hiện nay, tôi không có cơ hội tiếp cận luận văn này. Tuy nhiên, cái từ chỉnh lý tự nó nói lên một sự giải trình không đồng ý hay hơn nữa là một chống đối các triết lý Tây phương..
(Xin đọc thêm Trần Hoài Thư trên Thư Quán bản thảo, số 59, tháng ba 2014).
Xin mở một dấu ngoặc là trước khi tôi được tiếp cận với các bản dịch của Trí Hải và Phùng Thăng như câu chuyện của dòng sông, tôi có cơ duyên đọc chuyện Đôi bạn chân tình của nhà văn Herman Hesse do bản dịch tuyệt vời của Vũ Đình Lưu, tự Cô Liêu.
Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính: một là nhà tu sĩ khổ hạnh, sống cuộc đời chiêm nghiệm, hy vọng tìm ra ý nghĩa cuộc đời đâu là hạnh phúc của cuộc đời, đâu là đau khổ?
Nhân vật thứ hai, một người trẻ, cũng một thời theo vết chân của người thầy là vị tu sĩ khổ hạnh.
Nhưng rồi, ông nhận ra rằng con đường chiêm nghiệm khổ hạnh là không có lối thoát.
Chàng trai trẻ ấy đã quyết định rời bỏ tu viện và lăn vào đời và với tuổi trẻ, thông minh, tài tuấn, ăn nói hay đày nghị lực nên được rất nhiều phụ nữ trẻ say mê, đeo đuổi.
Ông đã chan hòa hưởng thụ nhiều thân xác phụ nữ như một hiến dâng mà không đòi hỏi..
Chàng trai trẻ vì thế đã thỏa mãn những khát khao được nâng niu, được thăng hoa của người phụ nữ.
Anh đã lấp đầy những cơn bảo cảm xúc, lấp đầy những nỗi trống trải hoang sơ của người phụ nữ.
Anh đã cảm nghiệm được thế nào là mưa dầm thấm lâu.
Đồng thời, người trai trẻ đã hiểu được thế nào là nếm trải được trái cấm ngọt bùi giữa biển đời giông bão.
Nhất là chàng trai trẻ cũng đã được nếm trải nụ hoa hàm tiếu đầu đời của những người người con gái tinh tuyền..Cái đó nó mới quý lam sao, trân quý làm sao. Và ngoài kia nắng đã lên, thiên nhiên và con người quyện vào nhau như một bản hòa tấu..
Cuối cùng, chàng trai trẻ như đạt đỉnh đã gieo trồng những giọt hạnh phúc tưới mát vào những vùng sâu kín trên những vùng cỏ rậm rạp khôi nguyên trinh bạch của người phụ nữ và được nồng nhiệt đón nhận. Và người tình đã chờ đợi, đã sẵn sàng ẩm ướt và cuối cùng đạt tới đỉnh của một thứ hạnh phúc si mê, cuồng nhiệt của đôi lứa.
Đã không biết có bao nhiêu phụ nữ đã dâng hiến cái tiết trinh ngàn vàng cho chàng trai trẻ mà không một lời nuối tiếc.
Từ những trải nghiệm sống ấy, chàng thanh niên tuấn tú, thông minh và nay được trải nghiệm nắm bắt được thế nào là hạnh phúc ở đời mà nhà tu khổ hạnh đã không bao giờ có cơ hội nắm bắt được.
Và trong số những phụ nữ mà ông gieo trồng trên những thửa đất đã được cầy sới, gieo mầm đã tạo ra một mầm sống như một phép mầu.
Ông đã sống cận kề và chăm sóc người phụ nữ ấy trong tiến trình mang thai với rất nhiều khổ đau quặn thắt và nỗi cô đơn một mình của người phụ nữ mà không một ai có thể chia xẻ nỗi đau đớn tột cùng ấy.
Người phụ nữ ấy giống như như người đi biển một mình, hạnh phúc thì được xẻ chia, nhưng khi gian nan thì một mình trước những phong ba, bão táp của cuộc đời.
Chàng trai trẻ sau nhiều năm tháng tràn ngập nguồn vui hạnh phúc nay tóc đã hoa râm, ngậm ngùi nhìn ngắm thân thể người phụ nữ ấy mà đã có thời họ chan hòa hạnh phúc.
Nay mái tóc đã hai mầu, đi đứng đã có phần khó khăn, mắt đã mờ, tai đã nghễnh ngãng nhận thấy cái thân thể trần chuồng của người phụ nữ đã một thời ấy trong một nỗi bất lực như những cơn bão va vật, tiếng đau gào thét trước khi đứa bé chào đời mà bên ngoài là một trận đại dịch trong sự bơ vơ, cô quạnh.
Từ những trải nghiệm ấy, ông hiểu được thế nào là nỗi đau tận cùng, sự mong manh của kiếp người như thể một chân bước vào hư vô và ảo vọng.
Nhưng cũng từ khoảnh khắc ngắn ngủi và mong manh này, ông hiểu được thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ của kiếp người mà nhà tu khổ hạnh không bao giờ hiểu và đạt được.
Phải chăng, đó là luật của cuộc đời có trả vay, có được có mất mà con người không bao giờ nắm bắt và hiểu hết được trong cuộc hành trình nhân thế như một vòng xoáy mà không nắm bắt được đâu là điểm đến và đâu là cõi đi về!!!
Câu chuyện Đôi Bạn Chân tình, Câu chuyện của dồng sông cũng là một phần đời sau này của Phùng Thăng.
- Cuộc đời ngắn ngủi của Phùng Thăng.
Sau khi tốt nghiệp đại học văn khoa, Huế, Phùng Thăng được bổ nhiệm về dạy tại Hội An Huế.
Hội An như một mảnh đất chật hẹp với những biến động chính trị và với những tranh dành quyền lực nhỏ nhen của phe phái khiến bà nghĩ tới lúc phải rời bỏ cái khung trời nhỏ hẹp ấy.
Bà lập gia đình với Trần Xuân Kiêm. Hai người có với nhau một đứa con gái. Bà đặt tên con gái là Tiểu Phượng. Nhưng không hiểu vì lý do gì, sau đó hai người chia tay.
Phùng Thăng tiếp tục cuộc sống của một “Single mom” mà đời sống khá là vất vả.
Năm 1973, PT cho xuất bản một tác phẩm của Simone Well mà tựa đề là: “Kẻ lạ ở thiên đường”. Qua bản dịch của PT, người ta nhận thấy tâm hồn của Simone Well là một sự cô đơn, trống vắng đi tìm một quê hương đích thực cho đời sống tâm linh. Phải chăng đó cũng là phản ánh tâm hồn Phùng Thăng mà một nỗi cô đơn trống vắng của tâm linh? Kẻ lạ ở thiên đường được chọn làm tên chung cho bản dịch với 6 bức thư gửi cho linh mục Perrin và 5 bài trần thuyết về năm đề tài tôn giáo. Qua toàn văn phẩm, tâm hồn Simone Well vẫn là một tâm hồn quằn quại cô đơn, nhưng rất sáng suốt trong công cuộc đi tìm một quê hương tâm linh đích thực cho mình.. Chính sự sáng suốt ấy đã đưa Simone Well đến chỗ khước từ thiên đường hữu hạn để chọn hỏa ngục vô biên vì quá sót thương và muốn chia sớt những lầm than của trần thế.
Trong nguyện ước của nàng, như có vọng âm những lời phát nguyện của các vị bồ tát của Phật giáo của từ muôn nghìn thế kỷ. Trên thiên đường hữu hạn ấy, nếu được, Simone Well vẫn mãi mãi là kẻ xa lạ, lạc loài.
Nàng chỉ ước muốn Thiên Đường chính thực, Quê hương bình đẳng cho tất cả loài người.
Simone Well mất ngày 24-8-1943 . Phùng Thăng ra đời ngày 9-10-1943.
Bước chân của Simone Well đã được tiếp nối bước chân của Phùng Thăng. Simone Well là một triết gia. Phùng Thăng cũng vậy. Có khác gì đâu.
Thử xem nào, ngoài Phùng Thăng ra có một phụ nữ trẻ nào mang tư tưởng mình qua” Theo dấu tình yêu”, hay “chỉnh lý tư tưởng Tây Phương”..
Thử xem, những buồn nôn, những ruồi, Bắt trẻ đồng xanh, Con sói đồng hoang, Thế giới Thiền, Kẻ lạ ở Thiên đường, khi số tuổi của chị mới dưới 25.
Hãy lẳng lặng mà nghe khi Thái Kim Lan ngưỡng mộ, giật mình khi cả lớp ngồi lắng nghe bài triết của Phùng Thăng..
Thử xem, thử xem nhánh sông Vỹ Dạ thấy bóng hai nàng tôn nữ, mà trăng, mà sao, mà tiếng chuông chùa đã bềnh bồng trong giấc ngủ.. Để rồi một người tìm sự cứu rỗi cho mình bằng con đường xuất gia, người kia lại chọn con đường nhập thế, mang bình bát đựng cả ngàn năm lao khổ lên núi, xuống biển.
Vai thì mong manh mềm yếu. Vậy mà phải gánh cả một trời oan nghiệt xuống đôi vai.
Cộng với nỗi Buồn nôn của JP. Sartre, PT đã dẫn đưa người đọc vào một góc khác của tâm linh.
Một người trí tuệ và tài hoa, thông hiểu triết học Ấn Độ.
Một người có cái nhìn về Phương Đông trong bản dịch” Câu chuyện của dòng sông”, dịch từ chuyện Siddharta của văn hào Đức, thế kỷ XX.
Văn hào Đức mà các tác phẩm đều toát lên một nỗi niềm cô đơn tâm linh của con người, đi tìm một lối giải thoát ra ngoài của kiếp nhân sinh trong nỗi bơ vơ, bất lực.
Qua “câu chuyện của dòng sông”, “ Sói đồng hoang của Hermann. Hesse Băt trẻ đồng xanh, của J.D Salinger. Con người vẫn bám víu vào đời sống như một mẫu hình muôn thuở của cuộc đời. Câu chuyện một dòng sông vẫn là một hình ảnh cao đẹp, soi sáng trí tuệ và tư tưởng của cả một thế hệ tuổi trẻ mà cả hai chị em- họ cách nhau 5 tuổi- Phùng Thắng lấy cử nhân anh văn, Phùng Thăng cử nhân triết.
Cả hai chị em Phùng Khánh, Phùng Thăng như một của báu vật muốn trao gửi lại cho chúng ta, cho đời như một di sản văn hóa.
Đầu tháng 5, 1975, nghĩa là chỉ một tháng sau khi cs Bắc Việt thôn tính miền Nam, bà đã có một quyết định táo bạo là dẫn con gái, 9 tuổi theo đường bộ, tìm đường vượt biên. Trên một chiếc ghe ra đảo Thổ Chu, thuộc xã Nam Du với hy vọng được tàu Mỹ đón.
Nhưng thật quá trễ. Lúc bấy giờ quân Pol Pot, lợi dụng hòn đảo bỏ trống đã tấn công đảo và chiếm vào ngày 10 tháng 5, lùa theo hơn 515 người, trong đó có một số người vượt biên như mẹ con Phùng Thăng.
Và kể từ đó, gia đình chị không còn biết bất cứ tin tức gì về mẹ con chị.
Sau này, do một thày ngoại cảm tìm lại được thân xác và con gái, bị trói, đầu bị bể sọ, bị chôn vùi nông như một chúng tích dã man “cáp duồn” của bọn Pol Pốt
Phần gia đình chị, sau một thời gian tìm tung tích hai mẹ con đã lấy ngày 10-6-1975 làm ngày giỗ mẹ con chị.
Thật đau lòng và đứt ruột cho một tài hoa đã không may mắn mệnh yểu. Xin rỏ một giọt nước mắt xót thương chị mà số phận hình như đã được định trước theo nghĩa: tài hoa bạc mệnh (xin đọc thêm bài Tìm dấu Phùng Thắng).











