NHỮNG NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN SAU 1975…- Nguyễn Văn Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Nguyễn Văn Tuấn

Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là “Thời Bao Cấp”. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v…

Tem phiếu:

Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là “chế độ tem phiếu”. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.

Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành). Nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tùy theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.

Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dân bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.

Danh từ “ăn độn” có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70 % để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quý hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quý, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.

Đổi tiền:

Screenshot

Ngày 22 Tháng Chín 1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.

Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”

Đốt sách:

Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu hủy. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.

Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh “lạc hậu” về “tình yêu ủy mị” và “tìm kiếm niềm vui thể xác” đã bị đốt bỏ.

Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80.000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt “văn hóa tư sản”.

Đánh tư sản:

Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.

Đợt X1 khởi động sáng 09 Tháng Chín 1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.

Đợt X2 bắt đầu từ Tháng Ba 1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hỗ trợ.

Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TPHCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.

Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.

Nhà báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10 Tháng Tư 1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.”

“Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. ”

Kinh tế mới:

Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ “Kinh tế mới”, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19 Tháng Năm 1976):

  • Người thất nghiệp
  • Người cư ngụ bất hợp pháp
  • Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa
  • Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
  • Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.

Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc Việt Nam Cộng Hòa tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.

Tù cải tạo:

Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.

Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ tù khoảng hơn 1.000.000 người trên tổng dân số Nam Việt Nam lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500.000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200.000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250.000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60.000 người bị giữ lại.

Theo một bài báo: “Trong số trên 1.000.000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165.000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.

“Thuyền nhân”:

Screenshot

Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.

Chế độ mới áp dụng “chủ nghĩa lý lịch”, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong quy chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lý lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của “gia đình cách mạng” và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của “những sĩ quan cao cấp, hay là người công giáo”.

Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: Vượt biển.

Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưng theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800.000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100.000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là “cao trào” của làn sóng vượt biển.

Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50 %) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10 % người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, “vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa”. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100.000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.

Nguyễn Văn Tuấn


 

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN

Dành cho Bò Đỏ và DLV

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN — GIỜ TÔI ĐÃ GIÀ, ĐÊM NÀO CŨNG SỐNG TRONG ÁC MỘNG†

Năm 1970, giữa cao trào Cách mạng Văn hóa, Trương Hồng Binh mới 16 tuổi nhưng đã là một hồng vệ binh cuồng tín. Với cậu, Mao Trạch Đông là chân lý tuyệt đối, còn mọi nghi ngờ đều là tội ác. Một buổi tối trong gia đình ở An Huy, khi tranh luận về sách vở, mẹ cậu – bà Phương Trung Mưu – buột miệng nói rằng có những câu người ta gán cho Mao thực ra không phải do Mao viết, và việc thần thánh hóa lãnh tụ là không bình thường. Chỉ vài câu nói ấy thôi cũng đủ làm không khí trong nhà nổ tung. Đối với người mẹ, đó có thể chỉ là lời than mệt mỏi; nhưng với cậu con trai đã được giáo dục bằng đấu tranh giai cấp, đó là lời “phản cách mạng” không thể tha thứ.

Cơn phẫn nộ nhanh chóng biến thành hành động. Trương Hồng Binh cùng cha mình viết đơn tố cáo chính người mẹ, người vợ trong gia đình, lên chính quyền địa phương. Không yên tâm, cậu còn tự tay viết thêm một bản tố cáo khác, đeo huy hiệu hồng vệ binh, lén gửi để chắc chắn vụ việc không bị bỏ qua. Chỉ trong một đêm, ranh giới giữa mẹ và “kẻ thù giai cấp” bị xóa sạch. Ngày hôm sau, bà Phương Trung Mưu bị bắt.

Vài tuần sau, tại một buổi “đấu tố” công khai với hàng nghìn người, bà bị trói, treo bảng “phản cách mạng” trước ngực, ép quỳ giữa quảng trường. Bản án được tuyên rất nhanh: tử hình, thi hành ngay. Khi đoàn xe chở bà ra pháp trường, Trương Hồng Binh đứng trong đám đông nhưng không dám tiến lên. Người mẹ bị bắn chết, còn cậu con trai – người đã góp phần đẩy bà đến cái chết – chỉ biết đứng chết lặng, vừa sợ hãi vừa trống rỗng.

Bi kịch không kết thúc ở đó. Gia đình tan nát, cha mẹ ly hôn trên giấy tờ để “cắt đứt quan hệ với kẻ phản cách mạng”, bản thân Trương Hồng Binh và cha cũng bị xã hội xa lánh. Nhiều năm trôi qua, khi Cách mạng Văn hóa kết thúc và sự cuồng tín dần lắng xuống, ông mới bắt đầu hiểu điều mình đã làm. Ông viết đơn, viết hồi ký, cố xin phục hồi danh dự cho mẹ, thú nhận rằng ngày ấy ông đã đặt khẩu hiệu lên trên tình mẫu tử.

Giờ đây, khi đã già, Trương Hồng Binh nói rằng mỗi đêm ông vẫn mơ thấy mẹ. Trong những cơn ác mộng ấy, không có khẩu hiệu, không có quảng trường, chỉ có ánh mắt của người phụ nữ đã sinh ra ông – ánh mắt của một người mẹ trước khi bị chính con mình đẩy ra trước họng súng. Đó là bản án không tòa án nào tuyên, nhưng kéo dài suốt phần đời còn lại.

https://hk.aboluowang.com/2021/0308/1565844.html

Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1:23-24)- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Ước mong bạn cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận bởi Thiên Chúa đang “ở cùng chúng ta” hôm nay.

Cha Vương

Thứ 5 T3MV: 18/12/2025. (t4-24)

TIN MỪNG: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1:23-24)

SUY NIỆM: Mùa Giáng Sinh, mùa của hy vọng, an bình và niềm vui, đang đến gần, bạn hãy cố gắng đừng để những tổn thương của quá khứ làm bạn cáu kỉnh, khó chịu hoặc căng thẳng—thay vì mong đợi sự ra đời của Hoàng Tử Bình An. Như Thánh Giuse và Đức Mẹ đã một lòng một dạ “xin vâng” với Chúa, bạn hãy noi gương các ngài sống lời “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, hãy dừng lại và suy gẫm mầu nhiệm Cứu Độ—Ngôi Hai Thiên Chúa có mặt sống động với chúng ta “ở đây và lúc này” giữa một xã hội đầy xáo trộn, đe dọa, một thế giới ngập tràn thử thách… Mời bạn hãy cầu nguyện cho nhau để chúng ta biết hết lòng tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa của ngay trong lúc chúng ta đang bị lo lắng, cáu kỉnh, bối rối dằn vặt.

LẮNG NGHE: Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. (Is 9:5)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là Đấng từ bi và giàu lòng xót thương, xin mở lòng con để con chuẩn bị đón Chúa cho xứng đáng. Xin giúp con biết loại bỏ những cảm xúc không lành mạnh đang làm con xa lìa Chúa và anh em.

THỰC HÀNH: Tặng cho người thân yêu của mình món quà “tha thứ” hôm nay nhé.

From: Do Dzung

************************

Ở Lại với Con – Hiền Thục

Từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

17/12/2025

Salomé Saqué là một nhà báo trẻ của Pháp, được biết đến bởi sự thẳng thắn, trí tuệ và lòng can đảm trong việc bảo vệ các giá trị dân chủ. Những điều cô nói không nhằm chỉ trích một dân tộc hay một chính quyền cụ thể nào. Đó là những lời cảnh tỉnh dành cho bất cứ xã hội nào đã sống quá lâu trong áp lực, hoặc mệt mỏi đến mức quên mất rằng: dân chủ không phải là thứ tự nhiên tồn tại – mà là thứ phải được nuôi dưỡng mỗi ngày.

Salomé Saqué

Dưới đây là một đoạn trong bài nói của cô:

“Nền dân chủ không bao giờ biến mất trong một ngày.

Nó chỉ tàn lụi khi người ta quen với bóng tối.”

Các xã hội không sụp đổ vì một biến cố bất ngờ, mà vì một quá trình dài: nỗi sợ được chấp nhận, sự bất công được coi là bình thường, và con người dần từ bỏ quyền lên tiếng của chính mình. Điều nguy hiểm nhất không phải là bạo lực, mà là sự thích nghi.

Bao giờ cũng vậy, trước khi tự do biến mất, một “giai điệu” quen thuộc sẽ vang lên:

rằng im lặng là khôn ngoan;

rằng phục tùng là an toàn;

rằng chân lý không quan trọng bằng sự yên ổn.

Thứ nhạc nền ấy ru con người vào trạng thái tê liệt, khiến họ tin rằng họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận. Đó chính là cách một xã hội đánh mất khả năng tự quyết: không phải vì con người thiếu hiểu biết hay thiếu dũng cảm, mà vì họ đã sống quá lâu trong một thế giới, nơi nỗi sợ trở thành thói quen, nơi sự thật bị bóp méo đến mức không còn nhận ra, nơi mỗi người thì thầm với chính mình: “Thôi, cố sống cho xong.”

Nhưng lịch sử chưa bao giờ được viết bằng sự cam chịu.

Không một nền dân chủ nào lớn lên từ sự im lặng kéo dài.

Tự do chỉ tồn tại khi con người tin rằng mình xứng đáng có nó.

Lịch sử luôn bắt đầu lại từ những khoảnh khắc rất nhỏ như thế.

Những lời nói trên của Salomé quả thật rất đáng suy ngẫm.

Nhưng tiếc thay, đó chỉ là… dân chủ tư sản.

Còn khi chúng ta đi học, chúng ta đã được dạy rất rõ ràng rằng:

“Dân chủ vô sản gấp một triệu lần dân chủ tư sản.”

Vậy nên, về nguyên tắc, những lời nhắc nhở của Salomé không dành cho Việt Nam.

Ở nước ta, dân chủ đã được giải quyết gọn gàng từ lâu. Đã có Đảng lãnh đạo tuyệt đối. Người lãnh đạo cao nhất của đất nước không cần dân bầu, vì Đảng đã bầu thay. Nhân dân, nhờ đó, được giải phóng khỏi một gánh nặng tinh thần rất lớn: khỏi phải suy nghĩ xem nên chọn ai.

Những ngày gần đây, trong nội bộ Đảng hình như đang có những cuộc đấu tranh khá quyết liệt để xem ai sẽ là người… được chọn. Tôi không có hiểu biết gì về các nhân vật chính trị này. Tôi chỉ thấy mạng xã hội xôn xao đủ loại tin đồn: ông nọ lên, bà kia xuống, người này “đang nguy”, người kia “sắp về”. Tin thật hay tin giả thì không ai biết, vì Đảng họp kín, chỉ có nhân dân là… họp hở.

Tôi cũng xin nói rõ: tôi không có hiểu biết gì về chính trị. Nhưng nếu buộc phải tổng kết một cách giản dị hai nền dân chủ, tư sản và vô sản, thì tôi thấy thế này:

Dân chủ tư sản thể hiện ở chỗ toàn dân tham gia bầu chọn người lãnh đạo cao nhất của mình. Dĩ nhiên, cũng có thể bầu sai. Ví dụ điển hình là… ông Trump hahaha.

Còn dân chủ vô sản thì khác. Toàn dân không bầu gì cả. Toàn dân chỉ… hóng.

Hóng xem ai được chọn.

Hóng xem ai bị loại.

Hóng xem ai “đi lò”.

Có thể gọi ngắn gọn là: dân chủ hóng hớt.

Nghĩ cho cùng, dân chủ như thế cũng đỡ mệt. Không phải bầu, không phải chịu trách nhiệm. Chỉ cần cập nhật tin đồn mỗi sáng là đủ cảm giác “tham gia đời sống chính trị”. Nếu dân chủ tư sản là quyền lựa chọn, thì dân chủ vô sản là nghệ thuật… chờ đợi. Ở những nơi khác, người ta đi bầu để quyết định tương lai; còn ở ta, người ta hóng để biết mình sẽ… chịu tương lai nào. Mà hóng hớt hình như lại là sở trường và môn thể thao yêu thích nhất của dân ta.

Dân chủ vô sản hiện đại, suy cho cùng, không cần phiếu bầu. Chỉ cần wifi mạnh, trí tưởng tượng phong phú và một tinh thần hóng hớt bền bỉ. Thế là đủ.


 

LỠ TÀU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên!”

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay kể chuyện về hai cặp đôi luống tuổi. Cựu Ước tường thuật cuộc truyền tin cho một người mẹ son sẻ; Tân Ước tường thuật cuộc truyền tin cho một người cha héo hắt. Thật thú vị – một đôi kịp tàu, đôi kia suýt ‘lỡ tàu!’.

Trong Thánh Kinh, không hiếm những bà mẹ chưa từng sinh con, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, được diễm phúc làm mẹ; thường là một bé trai mang một sứ mạng đặc biệt. “Đừng nói điều đó là không thể nếu còn có một lối – Thiên Chúa!” – Richelle Goodrich. Câu chuyện chào đời của Samson là một ví dụ. Vợ chồng Manôác đã mau mắn tin lời sứ thần, “Bà sẽ sinh một con trai và đặt tên là Samson”. Họ tin – nên họ kịp tàu!

Với Zacharia, câu chuyện ly kỳ hơn. Ông dâng hương trong Đền Thờ, cơ hội ngàn năm một thuở. Đó là khoảnh khắc đặc quyền trong một không gian linh thánh; hơn nữa, một Tổng lãnh thiên thần hiện ra với ông. Thế nhưng, trớ trêu thay, ông không tin! Tin Mừng xác nhận, “Hai ông bà là người công chính, không ai chê trách được điều gì”; vậy mà, sự công chính ấy không đủ giúp ông có niềm tin vào đúng thời điểm quyết định. Thiếu chút nữa, ông ‘lỡ tàu!’. “Nghi ngờ là dấu hỏi; đức tin là dấu chấm than!” – Criss Jami.

Zacharia nghĩ tuổi tác mình không còn phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa; ông đánh giá thấp quyền năng của Ngài. Nhưng Thiên Chúa không bị giới hạn; chính con người mới giới hạn quyền năng vô hạn của Ngài. “Kế hoạch của Thiên Chúa vẫn sẽ được thực hiện theo thời gian của Ngài!” – A.W. Tozer. Trước một người thiếu niềm tin, kế hoạch của Thiên Chúa sẽ ra sao? Không sao cả! Ngài vẫn tiếp tục chương trình của Ngài. Và điều Ngài cần lúc này là con người lặng yên, đừng động đạc! “Này đây ông sẽ bị câm cho đến ngày các điều ấy xảy ra!”.

Thời gian thinh lặng ấy không phải là trừng phạt, nhưng là một quãng thai nghén, đợi ngày Thiên Chúa ra tay hầu mỗi người có thể cất lên “Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày chẳng ngớt tôn vinh Ngài!” – Thánh Vịnh đáp ca. Tiếng Chúa thường rất khẽ. Chúa chỉ cần con người không bướng bỉnh, không nổi loạn, biết lặng yên và mềm mỏng. Đến ngày con trẻ chào đời, Zacharia vâng lời sứ thần, đặt tên cho con là Gioan. Và ông đã kịp tàu.

Anh Chị em,

“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?”. Câu hỏi của Zacharia thường cũng là câu hỏi của mỗi người chúng ta. Bạn và tôi yếu đuối, chúng ta thiếu đức tin; không có một đức tin trọn vẹn như Maria, như Giuse hay các thánh. Nhưng khi khiêm tốn nhìn nhận điều đó, chúng ta đang ở một vị trí thuận lợi để Thiên Chúa hành động. “Đức tin là bước đi những bước đầu tiên dù bạn chưa thấy hết cầu thang!” – Martin Luther King Jr. Hãy để Ngài toàn quyền! Trước sau gì, Thiên Chúa – Đấng xót thương từ ái một niềm – không muốn ai phải lỡ tàu, nhất là chuyến tàu cuối.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trước nghi nan, khủng hoảng, cho con biết lặng yên chờ đợi Chúa. Đừng để con bướng bỉnh, vùng vằng mà lỡ mất ngày giờ của Chúa… khi phải đợi con lên tàu!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*****************************************

Lời Chúa Ngày 19/12, Thứ Sáu Tuần III Mùa Vọng

Gio-an Tẩy Giả sinh ra theo lời sứ thần Gáp-ri-en báo.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,5-25

5 Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông tên là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi, và cả hai đều đã cao niên.

8 Vậy một ngày kia ông Da-ca-ri-a đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông. 9 Theo tục lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.

11 Bấy giờ một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và phát sợ. 13 Nhưng sứ thần bảo ông : “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin : bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan vì con trẻ chào đời. 15 Vì em sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Em sẽ không uống rượu và thức có men. Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” 18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần : “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã cao niên.” 19 Sứ thần đáp : “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” 21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và họ biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.

23 Khi thời gian phục vụ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ : “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”


 

BỆNH KHOE CỦA NGƯỜI VIỆT…

Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.

Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.

Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.

Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.

Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”! 

Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…

Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.

Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!

From: Tu-Phung


 

TÂM SỰ NGƯỜI CÔNG CHÍNH- Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

 Nếu ai đã từng xem cuốn phim “Đức Giêsu thành Na-da-rét” của đạo diễn Franco Zeffirelli (sản xuất năm 1977) chắc còn nhớ phân cảnh Thánh Giuse nằm mơ thấy Đức Maria bị ném đá chết vì tội ngoại tình.  Nếu không thì cũng đã có lần được xem một vở kịch diễn lại bài Tin Mừng hôm nay, trong đó có cảnh Thánh Giuse khắc khoải, lo âu, dằn vặt, thậm chí xấu hổ, trước sự kiện Đức Maria mang thai mà ông chẳng biết nguyên do.  Đó là những tình tiết lâm ly, bi đát, đầy kịch tính, làm khán thính giả bồi hồi xúc động, nhưng có nằm trong nhãn giới của tác giả Tin Mừng chăng?  Ngoài ra, ý tưởng “tố giác” (ám chỉ Giuse nghi ngờ – mà nghi bậy – Maria ngoại tình, chửa hoang) nằm bên cạnh ý tưởng “công chính” (một danh hiệu vinh quang, hiếm người được Kinh Thánh trao tặng) đã khiến nhiều học giả phải lý luận vòng vo đủ cách, trưng dẫn bản văn đủ kiểu để hòa hợp hai ý tưởng này.  Tất cả những cái đó, theo nhiều nhà chú giải hiện đại, là do cách dịch chưa đúng về một vài từ ngữ trong văn bản.

 Khúc Mắc Tâm Tư 

Mở đầu bản văn bằng câu “Đây là gốc tích Đức Giêsu Ki-tô” và bằng chi tiết “Trước khi hai ông bà về chung sống, Maria đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần,” Mát-thêu đã muốn chứng minh cho độc giả Do-thái của mình thấy làm sao Đấng Cứu Thế sinh ra thiếu cha trần gian mà vẫn thuộc về dòng dõi Do-thái và con cháu Đa-vít được (trong lúc Lc 1, 26-38 thì chỉ trình bày mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho độc giả lương dân hiểu).  Việc lạ lùng này, chắc hẳn Đức Maria đã tỏ lộ cho người bạn đời yêu quý (bà chị họ Ê-li-sa-bét mà còn được biết nữa là, vì thiên thần đâu có cấm Maria tiết lộ: x. Lc 1,39-45).  Với hai lý do: xin ông thông cảm cho quyết định của bà là vâng phục thánh ý lạ lùng lẫn bất ngờ của Thiên Chúa, và như thế sẽ chấm dứt kiểu chung sống chồng vợ thông thường; hai là chia sẻ niềm vui và vinh dự của bà được chọn làm mẹ Con Đấng Tối Cao.  Ngoài ra, việc Mát-thêu khẳng định đầy đủ sự kiện nhiệm mầu ấy ngay từ đầu bài Tin Mừng (ông chẳng viết đơn giản: “Maria đã có thai”) hàm ý Giuse đã biết rõ công chuyện.  Thế nhưng việc tỏ lộ này đặt ông vào một hoàn cảnh khó xử. 

Theo nhiều nhà chú giải Công giáo hiện đại, khi kết hôn với nhau, hai ông bà Giuse Maria chắc dự tính sẽ có con với nhau một cách bình thường (Cựu Ước luôn cho hôn nhân là tốt đẹp và con cái là hồng ân cao cả, còn không có chồng hoặc có chồng không con là tủi nhục lớn lao, tương tự quan niệm Á đông: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”), đồng thời cầu mong con họ sẽ được Thiên Chúa chọn làm Đấng Thiên Sai (Mêsia) như bao mộng ước của mọi gia đình và mọi thiếu nữ Do-thái thời đó.  Thế nhưng, đang lúc chưa chung sống như vợ chồng, Maria đã được sứ thần báo tin cho biết Thiên Chúa đã chọn bà làm mẹ Đấng Thiên Sai, nhưng bà sẽ sinh con một cách nhiệm lạ – do quyền năng Chúa Thánh Thần – vì thai nhi đó chính là Con Thiên Chúa!  Đây là điều mà Cựu Ước cũng như hai ông bà không thể ngờ nổi. 

Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, Giuse đâm băn khoăn.  Từ nay, Thiên Chúa đã can thiệp vào mối dây liên hệ của đôi bạn, đã sử dụng Maria như phương tiện để thực hiện kế hoạch lớn lao của Người.  Từ nay Maria đã trở thành một vật thánh, thuộc quyền sở hữu của Đấng Tối Cao.  Giuse tự nghĩ mình đâu có quyền động đến nàng nữa.  Và dù không động đến nhưng nếu tiếp tục chung sống trong một nhà, tới lúc con nàng sinh ra, chắc thiên hạ sẽ nói là con của đôi bạn.  Để cho ai nấy lầm tưởng như thế là một sự bất công với Thiên Chúa, vì Hài nhi là con của Người mà.  Công bố chuyện này cho thiên hạ ư?  Ai mà tin nổi và hiểu nổi!  Có dấu chứng nào về một chuyện lạ lùng xưa nay chưa từng gặp như vậy?  Vả lại đây là bí mật giữa Thiên Chúa với Maria mà Người đâu đã tỏ ý định hãy loan truyền nó cho bá tánh.  (Phải 30 năm sau, chính Đức Giêsu mới làm rõ được chuyện này)!  Thế là Giuse dự tính ra đi, ra đi âm thầm, để mặc Thiên Chúa đích thân giải quyết mọi chuyện.  Ông xử sự như bao người công chính trong Cựu Ước là run khiếp trước sự hiện diện của Đức Chúa và không dám đoạt lấy một thành quả bởi tay Người.  Vả lại, hiểu cách tự nhiên tức thời, công chính, công bình – hay just, juste trong tiếng Anh tiếng Pháp – có nghĩa là của ai thì trả cho người ấy, không vi phạm quyền lợi và sở hữu của tha nhân.  Ngoài ra, từ Hy-lạp dùng ở đây là “deigmatisai”, cùng gốc với từ “paradeigmatisai”.  Nhưng trong lúc “paradeigmatisai” có nghĩa là “tố giác, bêu nhục” thì “deigmatisai” lại chỉ có nghĩa là “tiết lộ, bày tỏ”, theo nhiều Giáo phụ (Origène, Eusèbe de Césarée…) và nhiều học giả hiện đại (Lm Paul Joüon, SJ, thành viên Viện Kinh thánh Giáo hoàng, Lm Nil Guillemette, SJ, giáo sư Kinh thánh lỗi lạc…).  Thành ra, chính cách dịch mới: “Giuse là người công chính và không muốn tiết lộ chuyện bà” hoàn toàn hợp lý đồng thời hỗ trợ cho lối giải thích vừa nói trên đây. 

Lối giải thích cho rằng Giuse công chính chiếu luật (vâng lời Lề luật) là không ổn, vì chả có luật nào buộc phải ly dị hôn thê mới bị coi như ngoại tình cả (x. Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng).  Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì việc ly dị chỉ được phép và mang giá trị pháp lý nếu có chứng thư ly dị rõ ràng và đưa ra công khai (Đệ Nhị Luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành).  Thành ra đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động từ trời.

 Gỡ Mối Tơ Vò

  “Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông.”  Thiên Chúa cuối cùng đã can thiệp: “Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, đừng sợ [Hy ngữ: phobethes] đón Maria vợ ông về.”  Đến đây, các nhà chú giải hiện đại đề nghị cách dịch khác cho từ Hy-lạp gar mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “vì” (“Vì người con bà cưu mang…”) và cho từ Hy-lạp mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “và” (“và ông phải đặt tên…”).  Từ “gar” còn có nghĩa: “vẫn biết, quả thật, hẳn nhiên, phải rồi”, và thường gặp trong Tân Ước (x. Mt 18,7; 1Cr 9,19; 1Tx 2,20…); từ “dé” cũng còn có nghĩa “nhưng”: “Vẫn biết/hẳn nhiên người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.  Bà sẽ sinh con trai, nhưng ông phải đặt tên con trẻ.”  Từ “vẫn biết/hẳn nhiên” nói lên một sự thật mà Giuse đã rõ (nên không có chuyện thiên thần mặc khải mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho ông lúc này).  Maria sẽ sinh con, “nhưng” Giuse sẽ đặt tên cho con trẻ.  Đặt tên (quyền của người cha theo pháp luật Do-thái) là thừa nhận kẻ được đặt tên như con của mình.  Rồi con đẻ hay con nuôi đều có giá trị như nhau trước pháp luật Do-thái, nghĩa là con nuôi cũng hoàn toàn thuộc về dòng dõi cha nuôi với mọi quyền lợi và nghĩa vụ y như con đẻ.  Cách giải quyết của Thiên Chúa thật tài tình: lợi dụng một điều khoản trong luật pháp Do-thái (con nuôi # con đẻ, mà chắc Người đã từ lâu xui khiến cho có), Thiên Chúa hoàn tất lời Thánh Kinh: Đấng Thiên Sai sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít dù là con của một trinh nữ, với Thiên Chúa là Cha. 

Còn một lý do thực tế: cần phải tạm thời che giấu mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể (khó chấp nhận khi chưa có ngôn hành khẳng định của chính Đức Giêsu) bằng cách để thiên hạ lầm tưởng Giuse là cha đẻ của Người.  Sự hiện diện của Thánh Giuse trong ngôi nhà Na-da-rét còn cần thiết để bảo vệ thanh danh Đức Trinh Nữ cũng như để chăm sóc nuôi dưỡng Ấu Chúa và Mẹ Người.

 Đến đây, ta có thể hiểu rõ thêm nữa về sự công chính của Thánh Giuse: đó là sự thức tỉnh nội tâm đối với Thiên Chúa, một sự thức tỉnh vốn giúp người có khả năng đón nhận và hiểu rõ sứ điệp, dẫn người tức khắc tới chỗ vâng phục.  Dẫu cho đến nay người đã bối rối trước các chọn lựa khác nhau của mình, giờ đây người biết đâu là đường lối hành động đúng đắn.  Là một người công chính, người vâng theo các mệnh lệnh Thiên Chúa truyền dạy. 

Hiểu Ra Mầu Nhiệm

 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ: ‘Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’.  Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.”  Vậy là bên cạnh Đức Maria, bà Ê-li-sa-bét, Thánh Giuse nay cũng hiểu: vừa là con Thiên Chúa, vừa là con loài người, Đức Giêsu đúng là Em-ma-nu-en thật (x. Is 7,14).  Ngay cả cho dù không thực sự mang cái tên độc đáo này, Người vẫn là Em-ma-nu-en, như toàn bộ Tin Mừng sẽ cố gắng minh chứng, là Thiên-Chúa-ở-cùng-nhân-loại trong chính bản thân Người.  Hai bản tính trong một ngôi vị này khiến Người có thể đền tội xứng đáng, đầy đủ cho chúng ta và nhất là có thể thần hóa chúng ta, làm chúng ta nên con Thiên Chúa, thông phần bản tính Người: “Con Thiên Chúa đã làm người để biến chúng ta thành Thiên Chúa” (thánh Athanasiô), “Thiên Chúa đã làm người, để biến chúng ta thành thần linh” (thánh Irênê).  (Tương tự chúng ta vì là vật chất và tinh thần nên có thể tinh thần hóa vật chất vậy).

 Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

 From: Langthangchieutim 


 

ĐỒNG TRINH SINH HẠ – Ronald Rolheiser, OMI

Ronald Rolheiser, OMI

 Truyền thống Kitô luôn luôn nhấn mạnh đến việc Chúa Giêsu được sinh ra do một trinh nữ.  Đấng Thiên sai chỉ được sinh ra từ dạ người đồng trinh.  Đương nhiên lý do chính cho sự nhấn mạnh này là để nêu bật Chúa Giêsu không có người cha thế gian và việc Ngài được sinh ra là do Thần Khí.

 Nhưng cũng có một nghĩa thứ hai, ít được nói đến trong Thánh Kinh.  Thường thường trong nghĩa này, ý tưởng cho rằng Chúa Giêsu sinh từ một trinh nữ vì dục tính là cái gì không tinh khiết, quá phàm tục so với một sự việc thiêng liêng như vậy.  Thiêng liêng phải được tách bạch ra khỏi cái gì phàm tục. 

Không những Chúa Giêsu được sinh ra từ một trinh nữ, vì Người không có cha trần thế, mà Người còn được sinh ra từ trinh nữ vì sự sinh ra này đòi hỏi phải tinh tuyền, mà theo định nghĩa, tinh tuyền là loại trừ dục tính.  Khái niệm của chúng ta về đồng trinh sinh hạ đã chịu sự thấm nhuần của lòng mộ đạo, mà với tất cả lý do có thể có, không thể nào chấp nhận dục tính đi với thiêng liêng.

 Có cái gì sai ở đây?  Vượt ra ngoài sự chê bai cái tốt đẹp do Chúa ban của dục tính, ở đây thiếu một trong những khía cạnh chủ yếu của sự mặc khải trong việc đồng trinh sinh hạ.  Có một thách đố mang tính luân lý trong việc đồng trinh sinh hạ, một điều gì đó mời gọi bắt chước hơn là thờ phượng. 

Truyền thống Kitô nhấn mạnh đến đồng trinh sinh hạ (cũng như nhấn mạnh đến hầm mộ chưa từng chôn ai, nấm mộ trinh khiết đi đôi với tử cung còn trinh) không phải vì truyền thống cho rằng dục tính là không tinh khiết và quá thế tục nên không thể sinh ra một cái gì thiêng liêng. 

Ngược lại, ngoài khía cạnh nhấn mạnh Chúa Giêsu không có cha trần thế, truyền thống Kitô muốn nhấn mạnh đến quả tim và tâm hồn cần có một khoảng không gian linh thiêng để một cái gì đó có tính cách linh thiêng có thể được sinh ra.  Vấn đề ở đây không phải là chuyện độc thân thay vì dục tính, nhưng là kiên nhẫn thay vì hấp tấp, tôn trọng thay vì không tôn trọng, chấp nhận sống trong căng thẳng thay vì đầu hàng và bù đắp cho một ước muốn không được đáp ứng.  Quả tim tinh khiết sẽ để cho tình yêu đi theo tiếng gọi của nó chứ không lèo lái nó.  Quả tim tinh khiết để cho quà tặng là quà tặng chứ không cưỡng bức nó, dù theo cách tinh vi đến đâu đi nữa.  Quả tim tinh khiết chấp nhận đau khổ của khiết tịnh thay vì ngủ với cô dâu trước ngày cưới.  Rốt cuộc, đó là điều tạo nên khoảng không gian tinh tuyền, là khoảng không gian trong đó Chúa có thể sinh ra.

 Cách đây ba mươi năm, trong ý hướng muốn diễn tả điều này, tôi viết một bài thơ có đầu đề là Đồng trinh sinh hạ.  Bây giờ tôi mắc cỡ bởi vì lý tưởng của tuổi thanh xuân trong bài thơ này, nhưng, trong những ngày đẹp đẽ của tôi, tôi lại nhận lấy lời khuyên từ những dòng thơ của chàng trai trẻ năm nào:

 Đồng trinh sinh hạ

Nghịch lý đời đời, đặc biệt cho cả hai Đấng Cha và Con
Những vị đã kết hợp đặc biệt minh triết con người từ điều kỳ diệu.
Một trinh nữ sinh hạ
Không phải ra một chủng tử vô sinh
Mà là một Đấng Cứu Thế.

Đồng trinh thì liên quan gì tới việc hạ sinh?  Không gì cả!
Khi minh triết phí phạm lời lẽ để đi mông lung
tìm một sự thật sẽ không giải thoát chúng ta.

Đồng trinh và không ăn nằm: quả tim chưa trọn đủ và thân xác,
Vật lộn với một vị Chúa không có thịt da
Người không để xác thịt gặp xác thịt
cảm thấy đớn đau, vẫn mong chờ sự trọn đủ
Để tránh hiếm muộn, một tội lỗi thật sự không thể tha thứ chống lại tinh thần của sự sống
Nhưng hiếm muộn đã mang thai lòng khao khát cái tinh thần đã ngủ với Thiên Chúa trong đêm
đã mang thai tinh thần cứu thế – những ai đã kiên nhẫn đợi chờ và thà một mình khóc thầm
hơn là làm hư món quà
vì thiếu kiên nhẫn.

Chỉ dạ của các trinh nữ mới cưu mang được Đấng Cứu Thế
vì chỉ các trinh nữ mới sống một mình trong chờ đợi
chờ đợi một chàng hôn phu
khuya khoắt, đã sau mười một giờ đêm, không còn hy vọng gì.
Không nản lòng, dạ người trinh nữ vẫn chờ đợi
Khước từ tất cả những người tình giả dối và tất cả nôn nóng
cái đòi hỏi xác thịt trên xác thịt và
một Xứ sở thần tiên theo điều kiện của con người

Đấng Cứu Thế chỉ được sinh hạ
từ trong dạ người trinh nữ
từ trong kiên nhẫn của người trinh nữ
cái làm cho
Thiên Chúa là Thiên Chúa
tình yêu là quà tặng.

 Ronald Rolheiser, OMI
14, tháng mười hai, 1981


 

‘Tiền trong dân còn rất nhiều’ và niềm tin trong dân đã cạn-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 13, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Trong nhiều năm qua, các nhà lãnh đạo cao cấp CSVN liên tục nhắc đi nhắc lại một cụm từ, mà thoạt nghe, tưởng như rất “kinh tế học” nhưng thực chất lại rất “chính trị học”: “Tiền trong dân còn rất nhiều”.

Khi còn sinh tiền, Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng CSVN nói “Các đồng chí nói “Tiền trong dân còn nhiều” như thế là không đúng, thậm chí, rất lệch lạc. Dân không mang tiền ra làm ăn là vì họ không yên tâm, không có môi trường thuận lợi chứ đâu phải vì họ không muốn phát triển? Chính cán bộ yếu kém, quản lý chồng chéo, thủ tục nhiêu khê, hết kiểm tra lại thanh tra… mới làm dân sợ rủi ro, đành để tiền nằm một chỗ…”.

Các nhân viên (bên trái) một ngân hàng thương mại tại Hà Nội tiếp khách hàng trong dịch vụ thường lệ từ ký thác, chuyển khoản, đến tín dụng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Sau khi kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư, Tô Lâm cũng đã lập lại câu nói này với lời chê trách nhân dân “…vì nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất, không mở được doanh nghiệp, thì tỉnh làm sao có thuế được, thu được thuế ở đâu được”.

Cho thấy, tuy cùng một câu nói “Tiền trong dân còn rất nhiều”, nhưng ít ra, Nguyễn Phú Trọng còn nói được về nguyên nhân “dân sợ rủi ro”, nên chưa huy động được nguồn tiền trong dân, khác với Tô Lâm chỉ nói về lợi ích của tiền sinh ra tiền một cách đầy thực dụng.

Nhưng nói cách nào đi nữa, hàm ý phía sau câu nói ấy không phải để suy tư về niềm tin xã hội, mà là để ám chỉ một điều khác, rằng dòng tiền đang nằm im trong túi dân, chúng chưa được huy động cho mục tiêu phát triển, và vì thế, chế độ muốn “khai thông”.

Nhưng vấn đề của người dân lại không nằm ở đồng tiền, lại càng không phải ở chỗ khơi thông, mà nằm ở niềm tin. Điều mà chế độ đã sớm “phung phí” đến cạn kiệt từ lâu! Thú vị là chính Nguyễn Phú Trọng, người cứ hay bị công chúng đùa với hỗn danh “Trọng lú” lại công khai thừa nhận nguyên nhân cốt lõi của tình trạng này. Dĩ nhiên, với ông Trọng, đây không phải lời “tự diễn biến”, chúng là lời tự thú chính trị.

Nó cho thấy ông ấy hiểu khá rõ bản chất vấn đề, rằng dân không thiếu tiền, mà là dân sợ hãi, dân thiếu niềm tin. Khiến cho nguồn lực tài chính khổng lồ trong dân phải ngủ yên, chúng chưa được khai thác hiệu quả. Đó là sự lãng phí nguồn lực khi không tạo ra được giá trị gia tăng trong bối cảnh thiếu vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, y tế, giáo dục… làm chậm sự phát triển chung.

Thế nhưng, thay vì chữa bệnh từ gốc, người kế nhiệm Tổng Bí thư, Tô Lâm, lại nhìn vấn đề theo hướng ngược lại, rằng “Tiền trong dân rất nhiều… nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất…”. Cách tư duy này đánh dấu một sự trượt dài nhận thức, thay vì tự kiểm điểm cấu trúc quyền lực lại quay sang đổ lỗi cho người dân! Đó là vấn đề của chế độ CSVN lúc này.

Nước Anh thế kỷ XVII và giải pháp dân chủ hóa tài chính

Lịch sử thế giới cũng từng có dịp ghi nhận về giải pháp huy động nguồn lực tài chính trong dân rất hiệu quả, đó là Anh quốc vào thế kỷ thứ XVII.

Năm 1689, ngay trong cuộc Chiến tranh Chín Năm (Nine Years’ War) nổ ra giữa Anh và Pháp. Tình thế tài chính của Anh lúc đó vô cùng kiệt quệ, nhà vua không có uy tín để đi vay tiền, ngân khố trơ khốc. Chiến tranh đã gây tiêu hao các nguồn lực của nước Anh một cách khủng khiếp.

Giải pháp mà họ chọn không phải là tịch thu tài sản nhân dân bằng các chiến dịch “Đánh tư sản mại bản”, “Tư sản công thương nghiệp”, quốc hữu hóa, cũng không phải vận động nhân dân đóng góp, mà là một bước đột phá bằng tạo dựng lòng tin thể chế.

Đó là việc thành lập Ngân hàng Anh (Bank of England) vào năm 1694. Đây là ý tưởng của một nhà quý tộc Scotland, ông tên William Paterson, được giao thành lập ngân hàng tư nhân Anh quốc. Theo đó, ông có quyền thành lập Ngân hàng Anh với những đặc quyền ngân hàng của chính phủ bao gồm phát hành giấy bạc.

Sắc lệnh hoàng gia hợp thức các quyền này ngày 27 Tháng Bảy 1694. Thị trường tài chính lúc đó rất nghèo nàn nên khoản vay bị tính lãi suất tới 8% một năm cộng thêm phí quản lý của khoản vay là £4.000 mỗi năm.

Bản chất của ngân hàng này là một công trình của niềm tin. Khi ấy, người dân góp vốn, nhưng đổi lại họ có: Quyền sở hữu rõ ràng, được bảo đảm pháp lý và một thể chế buộc phải tôn trọng cam kết của mình. Kết quả hết sức ngoạn mục, chỉ trong chưa đầy hai tuần, nước Anh huy động được 1,2 triệu bảng Anh, một số tiền khổng lồ ở thế kỷ XVII.

Câu chuyện không nằm ở chỗ người Anh ít hay nhiều tiền hơn người Việt hôm nay, mà điều quan trọng nhất là họ đã đồng ý góp rất nhiều tiền vào ngân hàng khi có lòng tin rằng tài sản của họ được bảo vệ bởi luật pháp.

Bài học từ Anh quốc và sự bất khả thi trong thể chế độc đảng Việt Nam

Chúng ta sẽ tự hỏi, liệu chăng mô hình huy động tài chính thành công tại Anh quốc có thể áp dụng tại Việt Nam hay không? Câu chuyện của Anh quốc là một lý thuyết rất đẹp. Nhưng hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam hiện nay lại đối lập hoàn toàn với những tiền đề căn bản của mô hình này.

Để huy động được tiền trong dân theo cách văn minh như Anh, cần tối thiểu 5 điều kiện nền tảng: Chính quyền có tính chính danh, nếu ở Anh Quốc là sự truyền ngôi chính đáng thì ở Việt Nam cần thông qua bầu cử tự do; Một nền tư pháp độc lập tuyệt đối để có thể ban phát công bằng, công lý mà không bị tác động bởi chính trị, đảng phái; Quyền tài sản được Hiến pháp bảo đảm thực chất; Minh bạch hóa ngân khố và chi tiêu công; Không có nỗi sợ bị tước đoạt tài sản tùy tiện.

Nhưng Việt Nam hiện nay có gì?

Chính quyền không chính danh, do độc tài đảng trị; Tư pháp bị đặt dưới sự “lãnh đạo toàn diện của đảng Cộng Sản”, tác động bởi những cơ chế như Ban An ninh Nội chính và tình trạng hối lộ, tham nhũng; Quyền tài sản không được bảo đảm, như nhà đất bị giải tỏa bất công mà không được bồi thường đầy đủ; Tình trạng công an trị và tham nhũng có hệ thống; Doanh nhân vi phạm pháp luật để có thể tồn tại và trở thành con tin của công an.

Trong môi trường ấy, khuyên người dân mang tiền ra kinh doanh, sản xuất, làm dịch vụ chẳng khác nào bảo người ta bước ra khỏi nhà mà không khóa cửa, không có công an bảo vệ, không có tòa án độc lập, rồi trách họ sao “không dám ra đường!?

Tiền nằm trong dân là phản ứng phòng vệ

Một thực tế cần được thẳng thắn, rằng người dân Việt Nam gửi tiền tiết kiệm vì không phải không biết làm ăn, mà họ gửi tiền tiếp kiệm vì đó là phương thức phòng vệ cuối cùng trước một hệ thống bất định, bất lương và đầy rủi ro.

Họ hiểu rất rõ xã hội, nơi chế độ CSVN tạo ra môi trường, mà: Làm ăn lớn ⇒ dễ bị thanh tra. Mở rộng doanh nghiệp ⇒ dễ “va chạm” lợi ích. Thành công quá ⇒ có thể trở thành mục tiêu chính trị. Trong xã hội như vậy, lựa chọn an toàn nhất không phải là “khởi nghiệp”, mà là trú ẩn tài sản. Đó không phải tâm lý tự ti, đó là phản ứng sinh tồn.

Bài học cốt lõi từ Anh quốc — Niềm tin

Nhiều người nhầm tưởng rằng bài học huy động tài chính trong dân từ giải pháp của nước Anh là “hãy tạo lập một ngân hàng mới”. Điều này sai một cách cơ bản. Vì lẽ, bài học thật sự là: Hãy lập một thể chế mang lại cho dân niềm tin mới.

Người dân tại Việt Nam tới nay vẫn quen dùng tiền mặt trong mọi giao dịch trong khi trị giá đồng bạc CSVN thì rất thấp nên số tiền bỏ vào hay rút ra đều chồng đống như những cục gạch. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Thể chế đó chỉ có thể là: Một chính quyền dân chủ được hình thành từ bầu cử tự do. Một nền tư pháp hoàn toàn độc lập . Một hệ thống quyền lực chính trị có thể kiềm chế, giám sát được. Quyền tài sản, quyền tự do được bảo đảm bởi luật pháp … thì “Tiền trong dân còn nhiều” sẽ được huy động vào nền kinh tế một cách tự nhiên mà không cần đến lời kêu gọi.

Nhưng trong một thể chế độc tài, đảng trị, nơi công an mạnh hơn tòa án, nơi hiến pháp có hiệu lực thấp hơn nghị quyết, nơi luật pháp yếu hơn chỉ thị, nơi tài sản có thể bị “thu hồi” chỉ bằng một quyết định hành chính bất kỳ, nơi tham nhũng tràn lan, thì vĩnh viễn, “Tiền trong dân còn nhiều” đến mức nào đi nữa, sẽ vẫn mãi mãi nằm trong hầu bao của họ.

Nước Anh đã trở thành đế quốc, nơi được xưng danh “Mặt trời không bao giờ lặn”, không phải vì họ giàu hơn dân tộc khác, mà vì họ tạo được một thể chế để dân dám tin.

Còn Việt Nam hôm nay, nơi được hứa hẹn “Kỷ nguyên vươn mình”, không phải vì giàu, vì mạnh, mà vì chế độ nơi ấy rất hào phóng hứa hẹn điều mà họ và dân của họ đều quá hiểu nhau, rằng chẳng có cơ sở gì để kỷ nguyên hão huyền ấy trở thành sự thật.

Vì lẽ, “Tiền trong dân còn rất nhiều” nhưng niềm tin trong dân đã cạn.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 9 Tháng Mười Hai 2025

Đặng Đình Mạnh.


 

2 ĐỨA TRẺ CHỊU CHẾT CHỨ QUYẾT KHÔNG NHỔ NƯỚC BỌT LÊN KINH THÁNH

Cộng Đoàn CGVN Birmingham

Câu chuyện này diễn ra vào thời Thế chiến thứ II, ngay trước lúc Đức quốc xã tiến hành cuộc thảm sát hàng loạt người Do Thái tại các trại tập trung của phát xít…

Khi đó, một sĩ quan Đức quốc xã bước ra, cầm cuốn Kinh Thánh ném xuống đất. Hắn đảo mắt nhìn nỗi hoảng sợ đang hiện rõ trên khuôn mặt của những nạn nhân người Do Thái và nói:

“Ai trong số các người muốn sống sót thì hãy nhổ nước bọt lên cuốn Kinh Thánh này rồi đứng vào hàng người được phép sống sót ở phía bên phải. Nếu muốn đứng vào chỗ người sẽ bị xử chết ở hàng bên trái thì không cần khạc nhổ lên cuốn sách này!”.

Một người đàn ông Do Thái đầu tiên bị tên lính Đức quốc xã gọi tên, người này đến chỗ cuốn Kinh Thánh rồi dang hai tay ra ôm cuốn sách vào ngực và tha thiết cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho con, con là kẻ có tội”. Sau khi cầu nguyện, anh nhẹ nhàng đặt cuốn Kinh Thánh lại chỗ cũ, nhổ nước bọt lên, và đứng vào hàng người được sống ở bên phải theo đúng chỉ định của tên sĩ quan Đức quốc xã.

Tiếp theo – dù là phụ nữ hay nam giới, họ đều lặp lại hành động giống hệt như vậy, không có sai khác gì. Họ ôm Kinh Thánh trước ngực, sùng kính cầu nguyện rồi nhổ nước bọt lên cuốn sách và đứng vào hàng người được sống. Đám binh lính và sĩ quan Đức quốc xã đứng chứng kiến cảnh tượng này mà cảm thấy thích thú.

Lúc này, một bé gái 8 tuổi người Do Thái, tên Esther, đã đi xuyên qua đám đông tới thẳng vị trí trước mặt đám lính Đức quốc xã, cô bé cầm cuốn Kinh Thánh đầy nước bọt rồi lấy tóc lau sạch và dùng hai tay nâng cuốn sách lên trước trán cầu nguyện: “Lạy chúa, xin tha thứ cho họ, xin hãy nhận lấy linh hồn của con”. Sau đó, cô bé bước sang bên trái theo chỉ định của lính Đức quốc xã và đứng một mình trong hàng người chết.

Những người Do Thái tiếp theo lại tiếp tục khạc nhổ lên cuốn Kinh Thánh mà Esther vừa lau sạch, rồi tiếp tục đứng về hàng người sống.

Tiếp đó, một cậu bé 10 tuổi tên là David bước ra. Cậu học theo hành động của Esther, lấy mặt lau sạch nước bọt trên cuốn sách rồi thành kính cầu nguyện. Sau đó, cậu tiến đến bên Esther theo chỉ định của lính Đức quốc xã, David nắm chặt tay Esther và thì thầm: “Dưới Chúa, bạn không đơn độc”.

Giờ hành quyết đã đến, đám lính Đức quốc xã nói cười ầm ỹ và bắn điên cuồng vào hàng người Do Thái ‘chọn sống’ đang đứng ở phía hàng bên phải. Những người này tỏ ra tuyệt vọng ngã xuống đất với vẻ mặt méo mó. Sau đó, một tên lính Đức bước đến chỗ Esther và David, hắn giơ tay lên trán tỏ ý thành kính. Và rồi… tiếng súng vang lên, Esther cùng David nắm chặt tay nhau mỉm cười ngã xuống vũng máu.

Đây đúng là câu chuyện làm rung động tâm hồn người đọc. Khi đối mặt với thế lực xấu xa tà ác, nếu đã không thể sống thì dù có thỏa hiệp cũng không tránh khỏi cái chết. Người ta có thể không lựa chọn được giữa sống và chết nhưng lại có thể chọn được cách chết như thế nào. Người chọn thỏa hiệp thì chết một cách hèn nhát; còn người giữ vững đức tin, không chịu khuất nhục thì sẽ chết giống như một anh hùng. Và lẽ dĩ nhiên, nếu có trở về Thiên Đàng, họ sẽ chắp tay và mỉm cười trước Chúa.

San San biên dịch | Theo Vision Times

Hình minh hoạ

Cảnh trong phim ‘Schindler’s List’

Nữ diễn viên đóng vai “Cô bé mặc áo khoác đỏ” trong phim ‘Schindler’s List’ hiện đã 32 tuổi và đang giúp đỡ những người Ukraine vào Ba Lan tị nạn


 

NGAY LÀNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”.

“Khủng hoảng bạn gặp – có thể gọi là ‘tai ương’ – thường mang lại những cơ hội lớn hơn. Chúng thúc đẩy trưởng thành tâm linh, chứng tỏ sự chính trực, và chuẩn bị bạn cho một sứ vụ đáng kinh ngạc… với điều kiện, bạn phải ngay lành!” – Kin Hubbard.

Kính thưa Anh Chị em,

Nhận định trên ứng nghiệm tuyệt đẹp nơi thánh Giuse. Tin Mừng hôm nay hé lộ một tiểu tiết ít ai chú ý, nhưng rất đáng suy nghĩ: thiên thần chỉ hiện ra với Giuse ‘sau khi’ ông đã quyết định làm một điều tốt. Dường như Thiên Chúa chỉ mặc khải sâu hơn kế hoạch của Ngài cho ai – trước khủng hoảng – biết phản ứng cách ‘ngay lành!’.

Đối diện với việc Maria có thai – một bất thường nơi người phụ nữ vốn được biết là không thể chê trách – Giuse không vội phản ứng. Ông nghĩ suy, cầu nguyện và phân định. Về pháp lý, Giuse có quyền công khai “chuyện tình buồn” của mình; nhưng ông đã không làm vậy. Trái lại, Giuse chọn rút lui lặng lẽ, như để giao phó cho Chúa phần còn lại. Đặc biệt, Giuse dường như ‘ưu tiên’ cho Maria trong mối ngờ vực này. Nghĩ điều tốt cho người khác – nhất là khi có lý do để nghi ngờ – luôn là một nhân đức hiếm hoi; nó được gọi là ‘ngay lành’. “Tình yêu chọn tin điều tốt nhất ở người khác!” – Marvin J. Ashton.

Bao xung đột bùng nổ, bao tình bạn vỡ tan, chỉ vì người ta dễ kết luận, “Không phải do tôi!”. Giuse không đi con đường ấy. Và chính trong sự ‘ngay lành’ đó, Thiên Chúa lên tiếng, “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu!”. “Ở giữa khó khăn là cơ hội!” – Albert Einstein. Từ một khủng hoảng tưởng chừng bế tắc, Thiên Chúa mở ra cho Giuse một mầu nhiệm vĩ đại – Đấng Cứu Thế sẽ được trao vào tay ông. Người Con ấy là “Chồi non chính trực” – bài đọc một; và “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời” – Thánh Vịnh đáp ca.

Giuse đã tin, vâng theo – dù tất cả chỉ đến qua một giấc điệp. Đó không phải là một giấc điệp mơ hồ; nhưng là giấc điệp được đỡ nâng bởi một đức tin quảng đại và một con tim ‘ngay lành’ đủ chín. Nhờ thế, Giuse ôm lấy Hài Nhi và trung thành với sứ vụ đến cùng. “Nếu phán xét người khác, bạn không còn thời gian để yêu thương họ!” – Mẹ Têrêxa.

Anh Chị em,

“Bạn phải ngay lành!”. Với chọn lựa ấy, tai ương của Giuse đã trở thành cơ hội lớn hơn. Mùa Vọng, mùa con tim được đào tạo và chữa lành, hầu chúng ta biết sống chính trực, tín thác trọn vẹn vào Chúa; nhờ đó, có thể đi qua khủng hoảng mà không đánh mất điều lành. “Mỗi nghịch cảnh, mỗi thất bại, mỗi nỗi đau đều mang trong nó mầm mống một lợi ích ngang bằng hoặc lớn hơn!” – Napoleon Hill. Và kìa, như với Giuse, Thiên Chúa cũng đang âm thầm chuẩn bị cho bạn và tôi một sứ vụ đáng kinh ngạc!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con vuột mất những ‘cơ hội lớn hơn’, cho con luôn ngay lành trong thử thách, để ôm lấy sứ vụ không tưởng Chúa đang âm thầm chuẩn bị!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

********************************

Lời Chúa Ngày 18/12, Thứ Năm Tuần III Mùa Vọng

Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 1,18-24

18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.