NGAY LÀNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”.

“Khủng hoảng bạn gặp – có thể gọi là ‘tai ương’ – thường mang lại những cơ hội lớn hơn. Chúng thúc đẩy trưởng thành tâm linh, chứng tỏ sự chính trực, và chuẩn bị bạn cho một sứ vụ đáng kinh ngạc… với điều kiện, bạn phải ngay lành!” – Kin Hubbard.

Kính thưa Anh Chị em,

Nhận định trên ứng nghiệm tuyệt đẹp nơi thánh Giuse. Tin Mừng hôm nay hé lộ một tiểu tiết ít ai chú ý, nhưng rất đáng suy nghĩ: thiên thần chỉ hiện ra với Giuse ‘sau khi’ ông đã quyết định làm một điều tốt. Dường như Thiên Chúa chỉ mặc khải sâu hơn kế hoạch của Ngài cho ai – trước khủng hoảng – biết phản ứng cách ‘ngay lành!’.

Đối diện với việc Maria có thai – một bất thường nơi người phụ nữ vốn được biết là không thể chê trách – Giuse không vội phản ứng. Ông nghĩ suy, cầu nguyện và phân định. Về pháp lý, Giuse có quyền công khai “chuyện tình buồn” của mình; nhưng ông đã không làm vậy. Trái lại, Giuse chọn rút lui lặng lẽ, như để giao phó cho Chúa phần còn lại. Đặc biệt, Giuse dường như ‘ưu tiên’ cho Maria trong mối ngờ vực này. Nghĩ điều tốt cho người khác – nhất là khi có lý do để nghi ngờ – luôn là một nhân đức hiếm hoi; nó được gọi là ‘ngay lành’. “Tình yêu chọn tin điều tốt nhất ở người khác!” – Marvin J. Ashton.

Bao xung đột bùng nổ, bao tình bạn vỡ tan, chỉ vì người ta dễ kết luận, “Không phải do tôi!”. Giuse không đi con đường ấy. Và chính trong sự ‘ngay lành’ đó, Thiên Chúa lên tiếng, “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu!”. “Ở giữa khó khăn là cơ hội!” – Albert Einstein. Từ một khủng hoảng tưởng chừng bế tắc, Thiên Chúa mở ra cho Giuse một mầu nhiệm vĩ đại – Đấng Cứu Thế sẽ được trao vào tay ông. Người Con ấy là “Chồi non chính trực” – bài đọc một; và “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời” – Thánh Vịnh đáp ca.

Giuse đã tin, vâng theo – dù tất cả chỉ đến qua một giấc điệp. Đó không phải là một giấc điệp mơ hồ; nhưng là giấc điệp được đỡ nâng bởi một đức tin quảng đại và một con tim ‘ngay lành’ đủ chín. Nhờ thế, Giuse ôm lấy Hài Nhi và trung thành với sứ vụ đến cùng. “Nếu phán xét người khác, bạn không còn thời gian để yêu thương họ!” – Mẹ Têrêxa.

Anh Chị em,

“Bạn phải ngay lành!”. Với chọn lựa ấy, tai ương của Giuse đã trở thành cơ hội lớn hơn. Mùa Vọng, mùa con tim được đào tạo và chữa lành, hầu chúng ta biết sống chính trực, tín thác trọn vẹn vào Chúa; nhờ đó, có thể đi qua khủng hoảng mà không đánh mất điều lành. “Mỗi nghịch cảnh, mỗi thất bại, mỗi nỗi đau đều mang trong nó mầm mống một lợi ích ngang bằng hoặc lớn hơn!” – Napoleon Hill. Và kìa, như với Giuse, Thiên Chúa cũng đang âm thầm chuẩn bị cho bạn và tôi một sứ vụ đáng kinh ngạc!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con vuột mất những ‘cơ hội lớn hơn’, cho con luôn ngay lành trong thử thách, để ôm lấy sứ vụ không tưởng Chúa đang âm thầm chuẩn bị!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

********************************

Lời Chúa Ngày 18/12, Thứ Năm Tuần III Mùa Vọng

Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 1,18-24

18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.


 

NGHÈO CHO MÌNH CON MẮT KHÁC VỀ TIỀN-Lm. Anmai, CSsR

Người Giồng Trôm

Có lẽ chẳng ai muốn sinh ra trong nghèo khó, nhưng chính cái nghèo lại là một người thầy khắc nghiệt và chân thật nhất, dạy cho ta những bài học mà không trường lớp nào có thể giảng giải tường tận được, đặc biệt là bài học về đồng tiền. Khi ta lớn lên giữa những thiếu thốn, khi đôi mắt trẻ thơ sớm phải chứng kiến cảnh cha mẹ cúi người cả ngày trên cánh đồng cháy nắng hay bên gánh hàng rong trĩu nặng chỉ để đổi lấy một bữa cơm chiều, tự nhiên ta sẽ hiểu rằng tiền không bao giờ là chuyện nói chơi. Tiền bạc, đối với người nghèo, chưa bao giờ là những con số vô tri nằm trên giấy hay trong tài khoản ngân hàng, mà nó là hiện thân của mồ hôi, của nước mắt, của sức khỏe mòn mỏi và đôi khi là cả sự hy sinh lòng tự trọng. Cái nghèo cho mình một con mắt khác về tiền, một cái nhìn không nhuốm màu toan tính tham lam nhưng lại trĩu nặng nỗi trân trọng và xót xa.

Tôi nhớ những ngày tháng cũ, khi cái nghèo còn đeo bám gia đình như một chiếc bóng dài lê thê không dứt. Trong ký ức ấy, hình ảnh ám ảnh nhất không phải là ngôi nhà dột nát hay mâm cơm đạm bạc, mà là tấm lưng của cha và đôi bàn tay của mẹ. Cha tôi, người đàn ông vạm vỡ nhưng lầm lũi, dường như cả cuộc đời chỉ biết cúi mặt xuống đất. Ông cúi xuống để cày xới, cúi xuống để gieo hạt, và cúi xuống để gặt hái những hy vọng mong manh từ đất đai cằn cỗi. Có những ngày nắng như đổ lửa, hơi nóng bốc lên từ mặt ruộng làm mờ cả mắt người, cha vẫn ở đó, lưng áo ướt đẫm, khuôn mặt sạm đen vì nắng gió. Mẹ tôi, người phụ nữ tần tảo, cũng dành cả đời để chắt chiu từng đồng xu lẻ. Tôi từng thấy mẹ ngồi đếm lại những tờ tiền lẻ nhàu nhĩ, vuốt thẳng chúng ra, xếp ngay ngắn rồi lại thở dài cất vào trong chiếc túi vải sờn rách. Cái thở dài ấy nặng nề hơn bất cứ lời than vãn nào. Nhìn cha mẹ cúi người cả ngày chỉ để đủ một bữa, đứa trẻ trong tôi bỗng chốc già đi trước tuổi. Tôi hiểu rằng, để có được tờ tiền đưa cho tôi đóng học phí, hay mua một chiếc áo mới, cha mẹ đã phải bán đi từng chút sức lực của chính mình. Tiền lúc ấy không còn là phương tiện trao đổi, nó là máu thịt.

Khi người ta chưa từng nếm trải cái nghèo, người ta dễ dàng nhìn đồng tiền bằng con mắt hời hợt. Người ta có thể vung tay quá trán cho những cuộc vui, có thể lãng phí thức ăn, có thể mua sắm những thứ vô bổ chỉ để thỏa mãn cơn thèm muốn nhất thời. Nhưng với những ai đã từng thấy cha mẹ phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, đồng tiền mang một sức nặng ngàn cân. Cầm đồng tiền trên tay, tôi không dám tiêu xài hoang phí, bởi tôi nhìn thấy trong đó là những giọt mồ hôi mặn chát của cha rơi xuống luống cày, là đôi bàn tay nứt nẻ rớm máu của mẹ vào những ngày đông giá rét. Sự chi tiêu dè sẻn không phải vì bần tiện hay keo kiệt, mà là vì xót. Xót cho công sức của người thân, xót cho những nhọc nhằn mà cha mẹ phải gánh chịu. Cái nghèo dạy cho ta biết sợ. Sợ cái cảm giác bất lực khi túng thiếu, sợ ánh mắt lo âu của mẹ khi hũ gạo đã vơi, sợ tiếng thở dài của cha trong đêm khuya thanh vắng. Nỗi sợ ấy biến thành ý thức trách nhiệm. Ta không dám lười biếng, không dám buông thả, bởi ta biết cái giá của sự lười biếng chính là sự đói khổ của những người ta yêu thương.

Con mắt nhìn về tiền của người nghèo cũng không nhuốm màu kiêu hãnh hay ngạo mạn. Nếu người giàu có thể dùng tiền để khẳng định vị thế, để mua lấy sự nể trọng, thì người nghèo dùng tiền chỉ để duy trì sự sống và bảo vệ phẩm giá tối thiểu của con người. Tôi đã thấy cha tôi, một người đàn ông đầy lòng tự trọng, phải cúi đầu vay mượn người khác khi trong nhà có người ốm đau. Cái cúi đầu ấy đau đớn hơn ngàn vết roi quất vào da thịt. Tiền lúc ấy trở thành một vị quan tòa phán xét, tước đi sự ngẩng cao đầu của một con người lương thiện. Từ đó, tôi học được rằng, kiếm tiền không phải để khoe khoang, mà là để không bao giờ phải rơi vào cảnh ngộ phải đánh đổi danh dự lấy sự tồn tại. Đồng tiền chân chính phải là đồng tiền sạch, được làm ra từ chính sức lao động lương thiện, dù ít ỏi nhưng đáng quý. Người nghèo hiểu rõ hơn ai hết rằng, đồng tiền bất chính có thể đến nhanh, nhưng nó sẽ cuốn trôi đi bình an và hạnh phúc. Chỉ có đồng tiền thấm đẫm mồ hôi mới mang lại giấc ngủ ngon, dù là trên chiếc chiếu manh rách nát.

Cái nghèo còn cho ta thấy một khía cạnh khác của tiền: đó là sự sẻ chia. Nghịch lý thay, đôi khi chính những người nghèo nhất lại là những người hào phóng nhất. Bởi họ hiểu cái cảm giác của sự thiếu thốn, họ thấm thía nỗi đau của cái đói, cái rét. Khi nhìn thấy cha mẹ tuy vất vả nhưng vẫn sẵn sàng san sẻ bát cơm cho người hàng xóm cơ nhỡ, hay cho đi mớ rau, con cá dù nhà mình cũng chẳng dư dả gì, tôi nhận ra giá trị của đồng tiền không nằm ở con số in trên đó, mà nằm ở cách ta sử dụng nó. Tiền có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được bữa cơm gia đình ấm cúng; tiền có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sự quan tâm chăm sóc. Người nghèo, dù thiếu tiền, nhưng không bao giờ để mình nghèo tình thương. Chính trong sự khốn khó, tình người lại tỏa sáng rực rỡ nhất, như bông hoa sen vươn lên từ bùn lầy, ngát hương thơm ngát. Bài học ấy theo tôi suốt cả cuộc đời, nhắc nhở tôi rằng dù sau này có khá giả đến đâu, cũng đừng bao giờ để đồng tiền làm mờ mắt, làm chai sạn trái tim, làm ta quên đi cái gốc rễ yêu thương của con người.

Nhìn sâu hơn vào khía cạnh tâm linh, cái nghèo và cái nhìn về tiền bạc còn là một hành trình đức tin đầy thử thách nhưng cũng đầy ân sủng. Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nhung lụa, Người chọn máng cỏ hang lừa, chọn cuộc đời của một người thợ mộc lam lũ. Phải chăng, Người muốn thánh hóa sự nghèo khó và lao động? Khi nhìn cha mẹ cúi người làm việc, tôi thấp thoáng thấy hình ảnh của Đấng Tạo Hóa đang tiếp tục công trình sáng tạo qua đôi tay con người. Lao động không phải là hình phạt, mà là sự cộng tác với Thiên Chúa. Tiền bạc kiếm được từ lao động chân chính, vì thế, cũng mang một giá trị thiêng liêng. Nó là phương tiện để ta nuôi sống bản thân, phục vụ gia đình và bác ái với tha nhân. Cái nghèo dạy ta biết trông cậy vào Chúa. Khi túi tiền rỗng tuếch, khi mọi cánh cửa dường như đóng lại, ta mới học được cách quỳ gối cầu nguyện với một lòng tin thác tuyệt đối. Ta nhận ra rằng, tiền bạc là vật ngoại thân, nay còn mai mất, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa và tình nghĩa giữa người với người mới là vĩnh cửu. Sự “nghèo khó trong tâm hồn” mà Tin Mừng nhắc tới, có lẽ cũng bắt đầu từ việc ta biết trân trọng những gì mình đang có, biết ơn từng tấm bánh, từng manh áo, và không để lòng tham lam tiền bạc chiếm ngự tâm hồn.

Sống trong một xã hội mà đồng tiền dường như đang chi phối mọi thang bậc giá trị, việc giữ cho mình một “con mắt khác” về tiền là điều không dễ dàng. Cám dỗ của vật chất luôn rình rập, mời gọi ta đánh đổi lương tâm để lấy sự giàu sang chóng vánh. Nhưng mỗi khi lòng tôi dao động, hình ảnh cha mẹ ngày xưa lại hiện về rõ mồn một. Tôi thấy lại giọt mồ hôi rơi trên trán cha, thấy lại vết chai sần trên tay mẹ, thấy lại mâm cơm đạm bạc mà chan chứa tiếng cười. Những hình ảnh ấy như một chiếc neo giữ con thuyền đời tôi không bị trôi dạt vào dòng xoáy của thực dụng và vô cảm. Tôi hiểu rằng, sự giàu có đích thực không được đo bằng số dư tài khoản, mà bằng sự bình an trong tâm hồn, bằng khả năng yêu thương và sẻ chia. Một người có thể nghèo tiền bạc, nhưng nếu họ biết sống ngẩng cao đầu, biết lao động chân chính và biết yêu thương, họ vẫn là những người giàu có nhất thế gian.

Đồng tiền, tự bản thân nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là tấm gương phản chiếu tâm tính của người sở hữu nó. Với người tham lam, tiền là ông chủ hà khắc sai khiến họ làm điều ác. Với người biết trân trọng giá trị lao động, tiền là người đầy tớ đắc lực giúp họ xây dựng cuộc sống và lan tỏa yêu thương. Cái nghèo đã cho tôi một đặc ân, đó là khả năng nhìn thấu bản chất của đồng tiền qua lăng kính của sự hy sinh. Tôi biết ơn những ngày tháng gian khó ấy, biết ơn sự hy sinh thầm lặng của cha mẹ. Chính nhờ những ngày “cúi người” của cha mẹ, mà tôi hôm nay mới có thể “đứng thẳng” làm người. Và bài học lớn nhất mà tôi mang theo trong hành trang cuộc đời mình, không phải là cách làm sao để kiếm thật nhiều tiền, mà là làm sao để sử dụng đồng tiền cho xứng đáng với những giọt mồ hôi nước mắt đã đổ xuống. Để mỗi khi cầm đồng tiền trên tay, tôi không chỉ thấy giá trị vật chất của nó, mà còn thấy cả một trời yêu thương, một đời hy sinh, và một lời nhắc nhở thiêng liêng về phẩm giá con người.

Cuộc sống hiện đại hối hả, con người lao vào cuộc đua kiếm tiền như những con thiêu thân. Đôi khi ta quên mất lý do thực sự ta cần tiền là gì. Ta làm việc bán sống bán chết để mua những ngôi nhà to hơn nhưng lại ít về nhà hơn; ta mua những chiếc giường đắt tiền hơn nhưng lại có ít giấc ngủ ngon hơn; ta mua những gói bảo hiểm cao cấp hơn nhưng lại ít quan tâm đến sức khỏe thực sự của cha mẹ già đang mòn mỏi ở quê nhà. Cái nghèo ngày xưa, dù khắc nghiệt, nhưng lại giữ cho gia đình một sự gắn kết bền chặt mà tiền bạc không thể mua được. Bữa cơm rau mắm ngày xưa tuy đạm bạc nhưng luôn đông đủ các thành viên, tiếng cười nói rộn ràng. Còn bây giờ, mâm cao cỗ đầy nhưng đôi khi lại thiếu vắng bóng người, hoặc nếu có đủ thì ai nấy cũng cắm cúi vào chiếc điện thoại, toan tính những chuyện làm ăn xa xôi. Phải chăng chúng ta đã “giàu” lên về vật chất nhưng lại đang “nghèo” đi về tình cảm? Phải chăng ta đã để đồng tiền làm chủ thay vì làm phương tiện? Nhớ về cái nghèo, về cha mẹ cúi người lam lũ, là cách để ta giật mình tỉnh thức, để sắp xếp lại thang giá trị của đời mình, để biết đâu là điểm dừng, đâu là hạnh phúc đích thực.

Mỗi lần dâng Thánh Lễ, khi nâng chén rượu và tấm bánh lên, tôi thường thầm thì cầu nguyện cho những người lao động nghèo khó, cho những bậc cha mẹ đang ngày đêm vất vả mưu sinh. Tôi xin Chúa thánh hóa những giọt mồ hôi của họ, biến những hy sinh thầm lặng ấy thành nguồn ân sủng nuôi dưỡng tâm hồn con cái họ. Và tôi cũng cầu xin cho chính mình, và cho tất cả chúng ta, những người có may mắn thoát khỏi cảnh nghèo, không bao giờ được phép quên đi quá khứ. Đừng bao giờ nhìn người nghèo bằng ánh mắt khinh miệt, bởi đằng sau manh áo rách ấy có thể là một tâm hồn vĩ đại hơn ta tưởng. Đừng bao giờ phung phí thức ăn, bởi đó là tội lỗi đối với những người đang đói khổ. Và quan trọng nhất, đừng bao giờ coi tiền bạc là mục đích tối thượng của cuộc đời. Hãy nhớ rằng, khi ta lìa bỏ thế gian này, ta không mang theo được một đồng xu nào cả, thứ duy nhất ta mang theo được là tình yêu ta đã trao đi và những việc lành ta đã làm.

Cái nghèo cho ta con mắt khác về tiền – một con mắt biết rưng rưng, biết trân trọng và biết yêu thương. Đó là một món quà vô giá mà có lẽ chỉ những ai đã từng đi qua giông bão của sự thiếu thốn mới có thể thấu hiểu trọn vẹn. Xin cho chúng ta luôn giữ được cái nhìn trong sáng ấy, để giữa dòng đời vạn biến, ta vẫn giữ được trái tim ấm nóng của một con người, biết sống xứng đáng với những hy sinh của tiền nhân, và biết dùng những gì mình có để làm đẹp cho đời, làm sáng danh Chúa. Bởi suy cho cùng, tiền chỉ là phương tiện để ta đi qua cuộc đời này, còn đích đến cuối cùng vẫn là Tình Yêu và Sự Sống đời đời. Nhìn cha mẹ cúi người, tôi học được cách ngẩng đầu sống đúng nghĩa, và tôi hiểu: Tiền không bao giờ là chuyện nói chơi, vì nó chứa đựng cả cuộc đời của những người tôi yêu thương nhất.

Lm. Anmai, CSsR


 

 Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi – Truyen ngan QUA’ HAY

Những Câu Chuyện Thú Vị – Kim Thoa

 Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.

Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói phải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.

Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.

Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả ruộng nương, bệnh không khỏi.

Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.

Vì thế bà mối đến, réo rắt: “Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà”.

Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: “Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!”.

Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!

Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mình , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.

Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.

Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.

Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.

Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.

Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v…

Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: “Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?”.

Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: “Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường…”

Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:

“Chị ơi, em yêu chị!”.

Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.

Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.

Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.

Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.

Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:

“Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành”.

Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.

Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?

Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.

Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.

Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.

Nhưng anh vẫn nói: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”.

Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.

Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.

Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.

Lúc đó chị đã 29 tuổi.

Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.

Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!

Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.

Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.

Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.

Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.

Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: “Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!”.

Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?

Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng cười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.

Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.

Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.

Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:

“Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?”.

Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:

“Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi”.

Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.

Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.

Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.

Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:

“Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy”.

Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.

Lê Xích Hải chuyển

(Tác giả :không rõ)


 

Thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời ngày 20/08/2025.

 Nghệ Lâm Hồng

“Trái tim dưới áo quan tòa” vừa qua đời

– by Vũ Thế Thành

Ảnh: quan tòa F. Caprio trong phiên xử người cựu chiến binh.

Sáng nay đọc báo Mỹ mới biết tin, thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời hôm qua, ngày 20/08/2025.

Hồi SG bị lockdown vì đại dịch, tôi thường xem show truyền hình “Caught in Providence” của Caprio, chiếu lại qua Youtube cho đỡ buồn.

Frank Caprio là chánh án tòa án thành phố Providence (Mỹ). Các show truyền hình về diễn biến những phiên tòa mà ông chủ tọa, thường là vụ án nhỏ như vi phạm luật giao thông. Phiên tòa vừa trang nghiêm, vừa vui vẻ, chẳng có gì là căng thẳng giữa thẩm phán, bị cáo và những người tham dự, nhưng đầy chất nhân bản trong đó.

Tôi nhớ mang máng có show thế này: Một bà mẹ vi phạm luật giao thông, xuất hiện ở tòa cùng với đứa con gái nhỏ. Quan tòa Caprio đọc nội dung vi phạm, bị cáo vui vẻ nhận tội. Quan tòa gọi đứa bé lên đứng cạnh ông, rồi hỏi. Mẹ có bị lỗi không? Có – Mẹ bị phạt bằng này tiền, có đúng không? Đúng – Giảm một phần tiền phạt cho mẹ nhé? Đứa bé cười toét miệng. Quan tòa lại hỏi, cháu sẽ dùng tiền giảm phạt đó làm gì? Nói mẹ mua kẹo mời mọi người trong tòa ăn. Cả tòa cười rộ lên vì câu trả lời của đứa trẻ.

Nhưng ấn tượng nhất với tôi  là phiên tòa xử một ông cụ 96 tuổi, bị phạt do chạy quá tốc độ gần khu vực trường học. Ông buồn rầu nhận lỗi. Tòa hỏi, vì sao? Tôi chở đứa con trai (60 hay 70 tuổi?)  đi cấp cứu. Đây là lần đầu tiên tôi vi phạm luật giao thông – Quan tòa quay sang hỏi về nhân thân của ông cụ, với những câu hỏi ngắn – Tôi là cựu chiến binh tham dự thế chiến II, được nhiều huân chương… Xuất ngũ làm công nhân cho đến khi về hưu, và chăm sóc đứa con tật nguyền. Vợ ông mất lâu rồi, không ai phụ giúp ông cả. Không khí trong tòa lặng đi khi ông cụ chậm rãi trả lời từng câu hỏi của thẩm phán, về cuộc đời cụ.

Quan tòa phán, mọi người trong tòa này đều mắc nợ cụ., rồi tuyên miễn phạt cho ông cụ. Thẩm phán Frank Caprio sau đó đã phát biểu một câu nói để đời “ Tôi không đeo huy hiệu dưới áo choàng thẩm phán. Tôi mang theo trái tim.”

Nghĩ lại mấy vụ gần đây trong nước, thầy hiệu trưởng tham nhũng 10 triệu ở Cà Mau, hay vụ án mấy con gà lôi.. Ngao ngán!

Cầm cân nảy mực, nếu luật pháp chỉ là công bằng không thôi thì chưa đủ, mà còn phải công minh. Nền tư pháp trong nước dường như nhân danh “công minh” để lạm dụng công bằng. Quan tòa đã đeo dao găm dưới áo choàng thẩm phán.

Cách đây hơn một năm, tôi có đọc bài báo phỏng vấn quan tòa Caprio, lúc này ông đã nghỉ hưu, và ngưng show “Caught in Providence” lâu rồi. Trông ông gầy hẳn vì đang chống chọi với bệnh ung thư tuyến tụy, nhưng nụ cười vẫn hiền hậu, toát ra vẻ nhân ái.

Sáng nay đọc NY Post mới biết tin Frank Caprio, vị quan tòa đã dấu trái tim dưới lớp áo choàng thẩm phán, vừa mãn phần hôm qua (20/08/25), ở tuổi 88. Judge Frank Caprio, R.I.P

Vũ Thế Thành


 

Thân bất lao tù , chí bất cao

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Cùng cầu bình an cho các TNLT/VN đang bị đày đọa trong chốn lao tù CS, trong đó có  TNLT cô Phạm Đoan Trang, được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới RSF kêu gọi trả tự do trong chiến dịch ưu tiên năm 2025.

***

“ Đời không cát bụi , đời không sạch

Thân bất lao tù , chí bất cao “ .

Tù không có gì phải sợ , chỉ sợ trong cuộc dạo chơi cõi nhân gian này không làm được gì cống hiến cho nhân thế.

Không ai muốn sống trong tù ( dù chỉ một ngày ) nhưng nếu cần cho một đất nước hồi sinh và thịnh vượng thì tù cả đời cũng không đáng sợ.

(PVT)

 Niềm vui Giáng Sinh là niềm vui cứu độ – Cha Vương

 Nào ta hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa vì tình yêu bao la của Ngài đã dành cho chúng ta.

Cha Vương

Thứ 3, T3MV: 16/12/2025.  (n17-24)

TIN MỪNG: Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:… từ ông Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.  (Mt 1:1,17)

SUY NIỆM: “Nước có Sử, nhà có Phả.”, “Chim có tổ, người có tông.” Là hai câu bạn thường thấy trong những quyển sách nói về gia phả của gia đình. Vào những ngày cuối của Mùa Vọng bạn được nghe đến gia phả của Đức Giê-su Ki-tô. Con người ta sinh ra ai cũng có nguồn cội. Chúa được sinh ra và cũng có cội nguồn vậy. Trong Tân Ước, Đức Giê-su được coi là một Đavít mới. Vậy Đavít mới có liên hệ gì đến Đavít cũ. Phúc Âm thánh Matthêu tuy trình bày một cách đơn giả nhưng cũng giúp bạn hiểu được mối liên quan của Đấng Cứu Độ và sự cần thiết của ơn cứu độ đối với con người. Mátthêu muốn bạn lưu ý đến con số 14 trong cách trình bày gia phả của Đức Giêsu: “Từ Abraham đến Đavít có 14 đời; từ Đavít đến thời lưu đày Babylon có 14 đời; từ thời lưu đày Babylon đến Đức Giêsu có 14 đời” (1:17). Tại sao lại là con số 14? Cách giải thích đơn giản và dễ hiểu nhất là bạn hãy đặt mình vào não trạng người Do Thái thời bấy giờ – bởi họ là những độc giả trực tiếp tác phẩm của Matthêu. Theo quan niệm của họ, con số 14 là con số ám chỉ Đavít. Thật vậy theo mẫu tự tiếng Hipri thì Đavít gồm ba chữ: Đ W Đ (Đawiđ). Đ tương đương với số 4, W số 6 và Đ số 4. Cộng chung lại, ta có số 14. Như thế, có thể nói, khi trình bày gia phả Đức Giêsu trong tương quan với con số 14, ngay từ đầu, Matthêu đã muốn so sánh và gắn liền Đức Giêsu với Đavít. Đức Giêsu là Đavít mới xuất hiện trong lịch sử dân Người. Đối với người Do Thái, Đavít là nhân vật nổi bật trong lịch sử của họ, không những trên bình diện chính trị xã hội, mà còn trên bình diện tôn giáo nữa. Đó là một khuôn mặt rất tiêu biểu của Israel trong Cựu Ước. Vậy, khi trình bày Đức Giêsu là Đavít mới, Matthêu cũng nhắm trình bày Người là khuôn mặt tiêu biểu, là trung tâm của Dân Chúa trong Tân Ước. Ý tưởng này, được Matthêu nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm của ngài. Thí dụ: Mt 9:27 có viết: “Đang khi Đức Giê-su ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: “Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi!”; và Mt 21:9: “Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.” (Nguồn: WHĐ) 

   Niềm vui Giáng Sinh là niềm vui cứu độ. Ơn cứu độ trước hết và trên hết là công trình của Thiên Chúa, Đấng tự đi vào trong lịch sử nhân loại, thông qua mạc khải trong cựu ước và cuối cùng với lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa ơn cứu độ ấy được mạc khải trọn vẹn nơi chính Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ là một ân ban như không của Thiên Chúa dành cho con người. Ngài không đòi hỏi nơi con người một điều kiện nào hết mà Ngài chỉ cần con người đáp lại lời mời gọi của Ngài mà thôi. Trong sự cứu độ này Thiên Chúa đã đích thân đến cắm lều cư ngụ giữa con người, Ngài tìm kiếm, hiện diện và trao ban chính Ngài cho bạn. Bạn có sẵn sàng chưa?

LẮNG NGHE: Hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em; Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. (Gc 1:21bc)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin hãy đến và ở lại với con luôn mãi.

THỰC HÀNH: Dọn đường cho ngay thẳng để đón Chúa Cứu Độ nhé. 

From : Do Dzung

***********************

Niềm Vui Ơn Cứu Độ – Vũ Phong Vũ

CỘI NGUỒN BẤT TỬ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria; bà là mẹ Đức Giêsu, cũng gọi là Đấng Kitô”.

“Trong đức tin, chúng ta được tháp nhập vào gia đình của Chúa Kitô. Ơn cứu độ đã thay đổi gốc gác hiện sinh của bạn và tôi: từ một cội nguồn chết chóc, nay trở thành cội nguồn bất tử – vì tất cả phát xuất từ tình yêu!” – Branon.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay tưởng như khô khan tựa một “danh bạ điện thoại”. Nhưng không! Đó là gia phả của Chúa Kitô: Thiên Chúa đi vào lịch sử, Ngài đã làm người. Ơn cứu độ không chỉ giải thoát tội lỗi, mà còn đổi mới gốc gác hiện sinh, ban cho chúng ta một ‘cội nguồn bất tử’.

Vậy mà ngoài gia phả của Chúa Kitô, Thánh Kinh còn có một gia phả khác: gia phả của Ađam – St 5. Hai gia phả ấy tạo nên một tương phản sâu sắc. Gia phả của Ađam là hồ sơ của sự chết – “rồi chết, rồi chết…”. Gia phả của Chúa Giêsu là hồ sơ của sự sống – “sinh ra, sinh ra…”. Trong gia phả của Chúa Kitô, tuyệt nhiên không có chữ “chết”. Một bên là cội nguồn dẫn tới hư nát; bên kia là cội nguồn khai mở sự sống.

Nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài, chúng ta được làm con Thiên Chúa. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta không chỉ được tha tội, nhưng được tháp nhập vào một gia phả mới, mang một căn tính mới, có cùng một cội nguồn và một sứ mệnh. Chính điều đó làm cho đời sống Kitô hữu có một ý nghĩa sâu xa nhất – trở nên con người mới trong Chúa Kitô và cùng Ngài mở rộng Vương Quốc. “Nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta được nhận dạng mãi mãi là con cái Thiên Chúa, được yêu thương trong tình yêu Ngài!” – Chloe Murphy.

Thiên Chúa là tình yêu. Ngài đã hứa với Abraham, “Ngươi sẽ là tổ phụ nhiều dân tộc”; “Vương trượng sẽ không rời khỏi Giuđa” – bài đọc một; và “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca. Tất cả những lời hứa ấy được hoàn tất trong Chúa Kitô. Chính Ngài là Đấng mà Phêrô tuyên bố, “Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ!”. Hưởng nhận ơn cứu độ ấy, chúng ta bước vào sự sống không hư nát. “Chúng ta không phải là sản phẩm ngẫu nhiên và vô nghĩa, nhưng bắt nguồn từ ý định yêu thương của Thiên Chúa. Mỗi người đều được Ngài mong đợi và yêu mến!” – Bênêđictô XVI.

Anh Chị em,

“Tên bạn được ghi trong gia phả nào?”. Gia phả của Chúa Kitô! Mùa Vọng, mùa tạ ơn Thiên Chúa đã làm người để con người được làm con Chúa; mùa trở về với ‘cội nguồn bất tử’ của mình; và cũng là mùa ‘chọn sống’ như những con người mới trong Chúa Kitô. Bởi lẽ, không chỉ được rửa tội, chúng ta được tái sinh vào một đời sống yêu thương, vui mừng và phục vụ tha nhân như Ngài chờ mong. Gần lễ Giáng Sinh, hãy để Thiên Chúa viết lại câu chuyện đời bạn bằng những gì thanh cao, thánh thiện nhất mà bạn có thể thực hiện để vui lòng Ngài. “Rửa Tội khích lệ chúng ta bỏ lại những lối sống cũ đằng sau!” – John Piper.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, nhìn lại gốc gác mong manh đời con, cho con nhớ, con đã được đổi đời, được tái sinh từ tình yêu Chúa, và được gọi để sống cho sự sống không hư nát!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*******************************************************

Lời Chúa Ngày 17/12, Thứ Tư Tuần III Mùa Vọng

Gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít.

✠Khởi đầu Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 1,1-17

1 Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham :

2 Ông Áp-ra-ham sinh I-xa-ác ; I-xa-ác sinh Gia-cóp ; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông này ; 3 Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác ; Pe-rét sinh Khét-xơ-ron ; Khét-xơ-ron sinh A-ram ; 4 A-ram sinh Am-mi-na-đáp ; Am-mi-na-đáp sinh Nác-son ; Nác-son sinh Xan-môn ; 5 Xan-môn lấy Ra-kháp sinh Bô-át ; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết ; Ô-vết sinh Gie-sê ; 6 Gie-sê sinh Đa-vít.

Vua Đa-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn ; 7 Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am ; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia ; A-vi-gia sinh A-xa ; 8 A-xa sinh Giơ-hô-sa-phát ; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram ; Giô-ram sinh Út-di-gia ; 9 Út-di-gia sinh Gio-tham ; Gio-tham sinh A-khát ; A-khát sinh Khít-ki-gia ; 10 Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se ; Mơ-na-se sinh A-môn ; A-môn sinh Giô-si-gia ; 11 Giô-si-gia sinh Giơ-khon-gia và các anh em vua này ; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon.

12 Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên ; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven ; 13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút ; A-vi-hút sinh En-gia-kim ; En-gia-kim sinh A-do ; 14 A-do sinh Xa-đốc ; Xa-đốc sinh A-khin ; A-khin sinh Ê-li-hút ; 15 Ê-li-hút sinh E-la-da ; E-la-da sinh Mát-than ; Mát-than sinh Gia-cóp ; 16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.

17 Như thế, tính chung lại thì : từ ông Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời ; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời ; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.


 

 Vì sao trong tranh luận, người ta thường tấn công cá nhân thay vì tập trung vào nội dung,

Đoàn Thị Thùy Dương

 Vì sao trong tranh luận, người ta thường tấn công cá nhân thay vì tập trung vào nội dung, và hiện tượng này đặc biệt phổ biến ở những xã hội có nhà nước tập trung quyền lực?

Trong một xã hội lý tưởng, tranh luận là công cụ để tìm kiếm sự thật, làm rõ vấn đề và thúc đẩy tiến bộ. Tuy nhiên, trong thực tế, đặc biệt ở những nơi quyền lực nhà nước được tập trung cao độ, tranh luận thường nhanh chóng trượt khỏi nội dung cốt lõi và chuyển sang tấn công cá nhân. Hiện tượng này không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của nhiều yếu tố mang tính cấu trúc chính trị, tâm lý xã hội và văn hóa quyền lực.

Trước hết, tấn công cá nhân là hậu quả trực tiếp của việc thiếu không gian an toàn phê bình – chất vấn. Trong các xã hội tập trung quyền lực, quyền lực chính trị thường gắn chặt với “chân lý chính thống”. Khi một quan điểm được nhà nước hoặc hệ tư tưởng cầm quyền bảo trợ, việc phân tích, phê bình nội dung không còn là tranh luận học thuật, mà bị xem như hành vi thách thức quyền lực. Trong bối cảnh đó, người tranh luận không còn mục tiêu tìm đúng – sai, mà là bảo vệ vị thế an toàn của bản thân. Tấn công cá nhân trở thành cách đánh lạc hướng: thay vì trả lời lập luận, họ phá hủy uy tín người nói, biến vấn đề trí tuệ thành vấn đề đạo đức hay chính trị cá nhân.

Thứ hai, tranh luận nội dung đòi hỏi năng lực lý luận, trong khi tấn công cá nhân chỉ cần quyền lực hoặc cảm xúc. Phê bình một lập luận cần kiến thức, tư duy logic và khả năng chấp nhận khả năng mình sai. Ngược lại, tấn công cá nhân không cần chứng minh điều gì về nội dung, mà chỉ cần gán nhãn: “thiếu đạo đức”, “động cơ xấu”, “không đủ tư cách”. Trong xã hội tập trung quyền lực, nơi giáo dục thường ưu tiên sự tuân phục hơn là tư duy phản biện, kỹ năng tranh luận lý tính không được nuôi dưỡng. Khi thiếu công cụ để phản biện nội dung, con người tự nhiên chọn con đường dễ hơn: công kích người nói.

Thứ ba, quyền lực tập trung tạo ra tâm lý “đứng về phía mạnh” thay vì “đứng về phía đúng”. Khi quyền lực không bị kiểm soát, đúng – sai không còn được xác định bằng lý lẽ mà bằng vị trí quyền lực. Do đó, trong tranh luận, việc chứng minh đối phương “không thuộc phe đúng” quan trọng hơn việc chứng minh lập luận của họ sai. Tấn công cá nhân lúc này mang chức năng chính trị: loại đối phương ra khỏi cuộc chơi bằng cách gắn họ với hình ảnh “kẻ thù”, “phản động”, “thiếu trung thành” hay “động cơ đen tối”.

Thứ tư, nỗi sợ hãi làm méo mó hành vi tranh luận. Ở những xã hội quyền lực tập trung, tranh luận không chỉ là hành vi trí tuệ mà còn tiềm ẩn rủi ro xã hội, nghề nghiệp, thậm chí pháp lý. Trong bối cảnh sợ hãi, con người ít khi dám đối thoại công bằng. Thay vào đó, họ chọn cách thể hiện sự trung thành bằng cách công kích cá nhân người đưa ra ý kiến trái chiều. Tấn công cá nhân vì thế không chỉ là phản ứng cảm xúc, mà còn là chiến lược tự bảo vệ.

Cuối cùng, khi quyền lực không bị chất vấn, sự thật trở nên thứ yếu. Tranh luận nội dung chỉ có ý nghĩa khi mọi bên đều thừa nhận rằng sự thật tồn tại độc lập với quyền lực. Nhưng trong hệ thống quyền lực tập trung, “sự thật” thường được định nghĩa sẵn. Khi kết luận đã có trước, tranh luận nội dung trở nên vô nghĩa; việc còn lại chỉ là xác định ai “được phép nói” và ai “không được phép nói”. Tấn công cá nhân, vì vậy, trở thành công cụ duy trì trật tự quyền lực hơn là công cụ tìm kiếm chân lý.

Tóm lại, hiện tượng tranh luận chuyển hướng sang tấn công cá nhân không đơn giản là vấn đề đạo đức cá nhân hay văn hóa ứng xử, mà phản ánh sâu sắc cấu trúc quyền lực của xã hội. Ở nơi quyền lực càng tập trung, tranh luận càng ít xoay quanh lý lẽ và càng nhiều xoay quanh con người. Khi lý trí không còn được bảo vệ, công kích cá nhân trở thành ngôn ngữ thay thế cho lập luận. Và đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy xã hội ấy không sợ sai, mà sợ bị chất vấn.


 

400 năm ngày giỗ Thuỷ tổ Quốc ngữ Việt Nam

My Lan Pham

Francisco de Pina (1585 – 15/12/1625)

Cách đây tròn bốn thế kỷ, ngày 15 tháng 12 năm 1625, tại vùng biển Đà Nẵng, linh mục Dòng Tên Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha, đã vĩnh viễn ra đi trong một tai nạn chìm tàu khi ông lao mình cứu giúp những hành khách gặp nạn. Cái chết của ông lặng lẽ, nhưng di sản mà ông để lại thì bền bỉ và sâu xa, gắn liền với lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ Việt Nam.

Francisco de Pina được xem là người châu Âu đầu tiên nói tiếng Việt một cách trôi chảy, không chỉ để giao tiếp mà còn để giảng dạy, truyền đạo và nghiên cứu ngôn ngữ. Trong bối cảnh đầu thế kỷ XVII, khi người Việt chưa có một hệ thống chữ viết ghi âm tiếng nói phổ thông bằng mẫu tự dễ học, cha Pina đã sớm nhận ra nhu cầu cấp thiết ấy. Từ đó, ông trở thành người tiên phong đặt nền móng cho việc ghi âm tiếng Việt bằng ký tự La-tinh.

Năm 1619, khi mới 34 tuổi, cha Pina đã biên soạn bản từ vựng tiếng Việt đầu tiên (nay đã thất lạc). Đến khoảng 1622–1623, ông báo cáo với Toà Thánh rằng mình đã hoàn thành một cuốn sách về luật chính tả và ngữ âm tiếng Việt ,điều cho thấy ông không chỉ học tiếng Việt, mà còn tiếp cận ngôn ngữ này bằng tư duy khoa học, có hệ thống. Đây chính là viên đá nền đầu tiên cho tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ sau này.

Năm 1624, khi linh mục Alexandre de Rhodes đến Thanh Chiêm (Quảng Nam), ông đã tận mắt chứng kiến cha Pina giảng Kinh Thánh hoàn toàn bằng tiếng Việt. Đối với các giáo sĩ châu Âu đương thời, đây là một hiện tượng chưa từng có: một người phương Tây không cần thông ngôn, giảng đạo bằng chính ngôn ngữ bản địa với sự uyển chuyển và chính xác hiếm thấy. Alexandre de Rhodes sau này nhiều lần thừa nhận rằng cha Pina là người thầy đầu tiên và quan trọng nhất của ông về tiếng Việt.

Đáng tiếc thay, khi công trình ngôn ngữ còn dang dở, cha Francisco de Pina đã qua đời quá sớm. Phần lớn các bản thảo của ông không còn lưu lại, nhưng tinh thần khoa học, phương pháp ghi âm và tư duy ngữ âm học mà ông khởi xướng đã được các thế hệ giáo sĩ kế tiếp tiếp thu, phát triển và hoàn thiện. Vì vậy, trong lịch sử chữ Quốc ngữ, Francisco de Pina xứng đáng được nhìn nhận là thuỷ tổ ,người đặt nền móng đầu tiên, trước khi chữ Quốc ngữ đạt đến hình thức hoàn chỉnh hơn vào giữa thế kỷ XVII.

Ngày nay, chữ Quốc ngữ đã trở thành linh hồn của văn hoá Việt hiện đại, là phương tiện giúp người Việt tiếp cận tri thức, xây dựng văn học, báo chí và bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới. Nhìn lại hành trình ấy, không thể không dành sự ngưỡng mộ đối với tài năng ngôn ngữ, và lòng biết ơn sâu sắc đối với Francisco de Pina ,người đã âm thầm gieo hạt giống đầu tiên cho một cuộc chuyển mình lớn lao của tiếng Việt.

400 năm sau ngày ông mất, tưởng nhớ Francisco de Pina không chỉ là một hành động tri ân lịch sử, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra rằng: ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp, mà là chiếc cầu nối giữa các nền văn hoá, giữa quá khứ và tương lai.

 


 

THA THỨ – ĐỂ TUỔI GIÀ ĐƯỢC THANH THẢN

Tu Le

Nhà ông Bảy nằm cuối con hẻm nhỏ, đi sâu thêm mấy chục bước là gặp một khoảng cây bàng già che bóng. Mùa này bàng rụng lá, lá vàng nằm rải trên nền xi măng, nhìn xa cứ như ai đó lén trải một tấm thảm cũ cho người già bước chậm.

Trong căn nhà ấy, ông Bảy và bà Mười sống cùng con trai cả là Hùng, con dâu là Linh, thêm hai đứa cháu nhỏ. Con gái út là Vy đi làm xa, thỉnh thoảng về, còn Lộc với Thủy thì mỗi người một ngả, bận bịu, đàng hoàng, đủ trách nhiệm.

Bề ngoài, nhà ấy không có chuyện gì lớn. Cơm ngày ba bữa, tiền điện nước đóng đúng. Con cháu vẫn chào hỏi, vẫn mua thuốc, vẫn gửi quà. Nhưng trong lòng bà Mười có một vết xước nhỏ, lâu ngày không chảy máu nữa, chỉ âm ỉ như đau khớp lúc trở trời.

Vết xước ấy đến từ một câu nói, một câu tưởng như rất bình thường.

Hôm đó, bà Mười đứng trong bếp, loay hoay nhặt rau. Đứa cháu nhỏ chạy vào đòi nước, bà rót vội nên làm rơi cái ly. Ly vỡ, tiếng “choang” vang lên giữa trưa. Linh từ phòng ngoài chạy vào, nhìn mảnh thủy tinh trên nền gạch rồi buột miệng:

“Trời ơi… má đừng đụng nữa, để con làm. Má vụng vậy nguy hiểm lắm.”

Lời nói không có ý xấu. Giọng cũng không gắt. Nhưng chữ “vụng” rơi xuống, nghe sao mà lạnh. Bà Mười đứng im, tay vẫn cầm cái ca nhựa, lòng tự dưng hụt một cái, như thể một phần giá trị vừa bị gạt qua một bên.

Từ hôm đó, bà ít làm việc hơn. Không phải vì lười, mà vì sợ. Sợ mình “vụng”, sợ mình “nguy hiểm”, sợ làm rơi thêm một thứ gì rồi lại nghe thêm một câu nữa.

Ông Bảy nhìn thấy hết. Ông không nói nhiều. Ông chỉ kéo ghế cho bà ngồi, rồi lẳng lặng quét mảnh ly, gói lại, đem bỏ. Xong việc, ông rửa tay rất lâu, như rửa cả cái buồn vừa dính vào lòng.

Tối ấy, khi con cháu đã vào phòng, ông Bảy đem ra hiên một ấm trà. Trà nóng, hơi bốc lên mỏng như sương. Ngoài sân, gió đi ngang qua giàn bông giấy, khẽ rung, làm rơi vài cánh hoa hồng tím xuống nền.

Bà Mười nhìn hoa rơi, bỗng thở rất khẽ:

“Già rồi… chắc vô dụng thiệt.”

Ông Bảy nhấp ngụm trà, giọng chậm rãi như đọc báo:

“Vô dụng sao nuôi được mấy đứa tới giờ? Vô dụng sao cái nhà này còn hơi ấm?”

Bà Mười không đáp. Người già nhiều khi không cần lời đúng. Người già cần một chỗ đặt nỗi tủi thân mà không bị cười.

Nhưng đời sống không cho phép nỗi tủi thân được ngồi yên lâu. Mấy hôm sau, cháu út sốt. Linh thức đêm, mắt thâm quầng. Hùng đi làm về muộn, mặt mệt. Cả nhà như một chiếc máy chạy nhanh, ai cũng quay cuồng trong phần việc của mình.

Trong lúc ấy, bà Mười lại bắt gặp thêm vài chuyện nhỏ.

Buổi sáng, bà nấu nồi cháo loãng cho cháu. Linh nhìn nồi cháo rồi nói, vẫn là giọng lo cho con:

“Má nêm nhạt quá… thôi để con làm lại.”

Lần khác, bà giặt áo cho cháu, phơi ra sân. Linh đi ngang, thu vội vào:

“Để con phơi, má phơi nắng gắt quá áo nó cứng.”

Những câu ấy đều đúng. Nhưng đúng quá, cũng làm người ta đau. Bà Mười nghe mà không cãi. Bà chỉ rút tay lại. Lâu dần, bà học cách “đứng yên cho khỏi sai”.

Và cũng từ đó, một khoảng cách lặng lẽ mọc lên trong nhà.

Không ai ghét ai. Không ai bỏ ai.

Chỉ là, bà Mười bắt đầu thu mình như một cái bóng.

Một chiều, Vy về. Vừa bước vào cửa đã thấy mẹ ngồi bên cửa sổ, mắt nhìn ra hẻm như nhìn qua một đời khác. Vy đặt túi xuống, ngồi xổm trước mặt mẹ:

“Mẹ sao vậy?”

Bà Mười cười cho qua:

“Có sao đâu.”

Vy nhìn đôi tay mẹ. Đôi tay xương xẩu, móng cắt gọn, nhưng run nhẹ. Vy nghe tim mình chùng xuống. Người già hay nói “không sao”, vì họ sợ làm phiền. Nhưng “không sao” của người già nhiều khi là một cái “sao lắm” họ không biết nói với ai.

Tối đó, Vy nói chuyện với cha trong bếp. Ông Bảy đang nhóm lại bếp gas, hâm nồi canh. Lửa xanh lên rồi xuống như hơi thở.

Vy hỏi nhỏ:

“Ba… mẹ buồn chuyện gì?”

Ông Bảy im một lát rồi nói:

“Không phải buồn chuyện lớn. Buồn mấy chuyện nhỏ. Mà chuyện nhỏ mới khó nói.”

Vy cúi đầu. Trong lòng Vy có một ý nghĩ chua chát: tuổi già giống như cái ly mỏng. Người ta không đập nó, chỉ cần đặt mạnh tay một chút là nó đã nứt.

Mấy ngày sau, xảy ra chuyện.

Sáng đó, Linh chạy vào bếp thấy bà Mười nằm dựa vào tủ gỗ, mặt tái. Bà bảo chóng mặt, tim đập nhanh. Linh hốt hoảng gọi Hùng, gọi xe. Ông Bảy luống cuống lục giấy tờ, tay run, miệng lẩm bẩm: “Bình tĩnh… bình tĩnh…”

Trên xe, bà Mười nắm tay ông Bảy. Ngón tay bà lạnh. Ông Bảy áp bàn tay mình lên tay bà, cố truyền một chút ấm. Ngoài cửa kính, nắng sáng rực, cây bàng ngoài hẻm trôi qua như một thước phim, lá vàng chao nhẹ.

Vào viện, bác sĩ bảo bà bị tụt huyết áp, thêm thiếu ngủ, thêm đau nhức kéo dài. Không nguy hiểm ngay, nhưng cần theo dõi. Linh đứng ở hành lang, mắt đỏ. Hùng gọi điện cho Vy, cho Lộc, cho Thủy.

Ai cũng về.

Trong phòng bệnh, bà Mười nằm im. Người già nằm bệnh viện không hay khóc, họ chỉ nhìn trần nhà và nghĩ nhiều điều. Nghĩ về những ngày mình trẻ, mình gồng lên lo cho con. Nghĩ về những câu nói vụn vặt, về những ánh mắt vội, về cái cảm giác “mình thừa”.

Ông Bảy ngồi cạnh, rót nước, mở nắp bình, đưa tận miệng. Bà Mười quay mặt, nói nhỏ:

“Ông về nghỉ đi. Ngồi đây làm gì, phiền con cái.”

Ông Bảy đáp:

“Không phiền. Ở cạnh bà là việc của tôi.”

Câu nói đơn giản, nhưng trong bệnh viện, nó giống như một miếng chăn mỏng đắp lên phần lạnh nhất của lòng người.

Chiều, Linh bế cháu vào thăm. Đứa nhỏ vừa thấy bà đã òa khóc, kêu “bà ngoại, bà ngoại”. Nó trèo lên giường, ôm cổ bà. Bà Mười đưa tay ôm cháu, nước mắt tự nhiên trào ra, không kìm được. Có lẽ trong đời người, có những lúc yếu nhất lại là lúc chạm được vào điều thật nhất.

Linh đứng cạnh giường, ngập ngừng. Lời xin lỗi nhiều khi mắc lại nơi cổ họng, vì sợ nói ra sẽ thành “mình sai”. Nhưng Linh nhìn mẹ chồng gầy đi, nhìn đôi mắt đỏ của Hùng, nhìn đứa trẻ đang ôm bà như ôm một cái neo, Linh bỗng thấy những điều hơn thua bỗng nhỏ xíu.

Linh cúi xuống, giọng khàn:

“Má… con xin lỗi. Con… nhiều khi con nói nhanh, con tưởng là con lo cho má… mà chắc làm má buồn.”

Bà Mười không đáp ngay. Bà chỉ nhìn Linh. Ánh mắt người già không sắc, chỉ sâu. Trong ánh mắt ấy có cả những năm tháng nuôi con, có cả những lần nuốt nước mắt, có cả cái mệt mỏi của người đã mang một vết xước quá lâu.

Ông Bảy nhìn sang vợ. Ông sợ bà nói một câu trách móc, rồi mọi thứ vỡ ra như cái ly bữa nọ. Nhưng bà Mười chỉ thở nhẹ, rồi đưa tay ra, chạm vào cổ tay Linh:

“Thôi… có gì đâu. Con mệt, con lo cho con nít… nói nhanh cũng phải.”

Linh bật khóc. Hùng quay mặt đi, mắt cũng ướt. Vy đứng cuối giường, bỗng thấy tim mình cay cay. Lộc thì lặng lẽ đặt túi trái cây lên bàn. Thủy gọi video, nghe tiếng mẹ, cũng khóc theo.

Người ta tưởng tha thứ là một lời lớn. Nhưng thật ra, tha thứ nhiều khi chỉ là một câu “thôi” nói ra đúng lúc, để người kia còn đường quay lại.

Đêm ấy, ông Bảy ngồi ngoài hành lang. Bệnh viện có mùi thuốc sát trùng, có tiếng dép kéo, có tiếng máy đo nhịp tim “tích… tích…”. Ông nhìn qua cửa kính thấy thành phố sáng đèn, bỗng nhớ lại hồi còn trẻ, ông từng chở bà Mười qua cầu, gió sông thổi lộng, bà ngồi sau lưng, tay bấu áo ông, cười giòn.

Nhớ vậy, lòng ông mềm đi.

Sáng hôm sau, bà Mười đỡ hơn. Bác sĩ cho về, dặn ăn uống điều độ, ngủ đủ. Cả nhà rước bà về. Lúc xe rẽ vào hẻm, cây bàng già vẫn đứng đó, lá vẫn rơi. Nhưng dường như ánh sáng hôm ấy dịu hơn.

Về nhà, Linh không còn “giật” việc khỏi tay mẹ chồng nữa. Linh chỉ nói chậm, hỏi trước:

“Má muốn làm món nào? Con phụ nhé.”

Bà Mười cũng không tự ái mà gạt đi. Bà gật đầu, chỉ cách rửa rau, chỉ cách nêm nếm. Bếp lại có tiếng nói chuyện, nhỏ thôi, nhưng đủ làm căn nhà bớt lạnh.

Có một buổi chiều, Vy rủ mẹ ra trước cửa ngồi. Gió thổi qua hẻm, mang theo mùi hoa sữa cuối mùa. Linh đem ra một đĩa ổi gọt sẵn, đặt xuống, rồi ngồi cạnh, không cầm điện thoại.

Bà Mười nhìn Linh, nói như nói chuyện thường:

“Con làm dâu cũng cực. Má hồi xưa… cũng từng là dâu.”

Linh khựng lại, rồi cười, mắt còn đỏ:

“Má… vậy mà con cứ tưởng má không hiểu.”

Bà Mười lắc đầu:

“Hiểu chứ. Chỉ là… già rồi, không muốn làm phiền.”

Câu “không muốn làm phiền” nói ra, không phải để trách, mà như mở cửa. Người trong nhà nghe được, thì căn nhà mới thật sự là nhà.

Từ hôm ấy, ông Bảy thấy bà Mười ngủ sớm hơn. Bà không còn ngồi một mình trước bếp tắt đèn. Những câu chuyện nhỏ bà bắt đầu kể lại: chuyện chậu hoa đổ, chuyện con mèo nhà hàng xóm, chuyện tiệm tạp hóa đổi chủ. Và kỳ lạ thay, Linh nghe đến hết.

Không phải lúc nào Linh cũng rảnh. Nhưng Linh học một điều: nghe hết một câu chuyện nhỏ là cách rẻ nhất để giữ người già ở lại trong cuộc đời mình.

Có lần, bà Mười làm rơi cái muỗng xuống nền. Linh quay lại, định nói như cũ, rồi kịp dừng. Linh chỉ nhặt muỗng lên, rửa lại, đưa cho bà:

“Không sao đâu má. Ai cũng rơi.”

Bà Mười nhìn Linh, mắt chợt ươn. Không phải vì cái muỗng. Vì câu “ai cũng rơi”. Câu đó trả lại cho người già một phần phẩm giá: già không phải là lỗi, chỉ là một nhịp khác.

Thời gian trôi. Vết xước trong lòng bà Mười không biến mất hẳn, nhưng bớt nhói. Bà hiểu rằng con cháu không cố làm bà buồn. Chúng chỉ vội quá. Và cũng như bà từng vội lúc trẻ mà không biết mình làm ai đó tổn thương, con cháu giờ cũng vậy.

Tha thứ, rốt cuộc, không phải vì người khác xứng đáng.

Mà vì người già không còn đủ sức mang gánh nặng đó tới cuối đời.

Một tối, trước khi ngủ, ông Bảy ngồi ở hiên, nhìn trăng mỏng. Trăng treo trên mái nhà, sáng vừa đủ. Bà Mười bước ra, đưa ông cái áo khoác:

“Trời lạnh.”

Ông Bảy cười:

“Bà cũng biết thương tôi hả?”

Bà Mười đáp, giọng nhẹ như gió:

“Già rồi… thương nhau đừng để muộn.”

Ngoài sân, giàn bông giấy rơi thêm một cánh. Cánh hoa nằm im, không làm phiền ai. Nhưng ai nhìn thấy, cũng biết: có những điều đẹp nhất là những điều rơi khẽ.

Và trong căn nhà nhỏ cuối hẻm, người già đã đi qua một ngã rẽ rất sâu: từ chỗ giữ trong lòng, sang chỗ đặt xuống. Từ chỗ mong được bù đắp, sang chỗ chọn bình an.

Tha thứ, đến sau cùng, không phải là câu chuyện của đúng sai.

Tha thứ là cách tuổi già tự cứu mình khỏi những ngày tháng còn lại bị nặng vì một câu nói lỡ.

Và khi lòng đã nhẹ, người già không cần phải cố “không làm phiền” nữa.

Bởi sự hiện diện của họ tự nhiên đã trở thành một điều êm.

– Tu Le – người viết giữa hai miền

#Gotacoffee#ngườiviếtgiữahaimiền


 

Bắt giữ 4 người âm mưu đánh bom khắp Nam California đêm Giao Thừa

Ba’o Nguoi-Viet

December 15, 2025

LOS ANGELES, California (NV) – Bốn người, bị nghi là thành viên nhóm cực đoan, bị bắt với cáo buộc âm mưu đánh bom khắp Nam California đêm Giao Thừa sắp tới, giới chức liên bang loan báo hôm Thứ Hai, 15 Tháng Mười Hai, theo đài ABC7.

Bà Audrey Carroll, ông Zachary Page, ông Dante Gaffield và bà Tina Chen Ting, bị truy tố tội đồng lõa và tàng trữ thiết bị phá hoại. Cả bốn bị nghi là thành viên nhóm chống chính phủ và chống tư bản có tên “Mặt Trận Giải Phóng Turtle Island” (TILF).

Bốn người bị bắt. (Hình: FBI)

Họ bị bắt tuần trước ở Lucerne Valley, gần thành phố sa mạc Twentynine Palms, California, nơi có căn cứ Thủy Quân Lục Chiến. Cả bốn là cư dân vùng Los Angeles.

Theo dự trù, bốn người này sẽ bị truy tố thêm tội khác, ông Bill Essayli, công tố viên liên bang ở California, cho hay. Giới chức cho biết TILF còn nhiều thành viên khác, nhưng họ tin đã bắt hết những người dính líu tới âm mưu này.

Bốn người này dự trù ra tòa chiều Thứ Hai.

Theo đơn truy tố hình sự, hồi Tháng Mười Một, bà Carroll trao cho mật báo viên Cơ Quan Điều Tra Liên Bang (FBI) tài liệu viết tay tựa đề “Chiến Dịch Mặt Trời Nửa Đêm,” trong đó ghi chi tiết kế hoạch gài giỏ xách chứa bom tự chế cho nổ tung cùng lúc tại năm địa điểm nhắm vào hai công ty ở Los Angeles County và Orange County đêm Giao Thừa.

“Những trái bom này sẽ nổ tung cùng lúc vào nửa đêm Giao Thừa,” ông Akil Davis, phụ tá giám đốc văn phòng FBI ở Los Angeles, cho hay. “Kế hoạch này nói đó sẽ bom ống phức tạp và hướng dẫn cách chế tạo bom cũng như cách tránh để lại bằng chứng có thể bị dò ra.”

Hình ảnh bằng chứng trong hồ sơ tòa án cho thấy một khu cắm trại trong sa mạc có những thứ mà điều tra viên cho hay là vật liệu chế tạo bom nằm vương vãi khắp những chiếc bàn nhựa gấp lại được.

Bốn bị cáo này “đều đem vật liệu chế tạo bom tới khu cắm trại đó, gồm ống nhựa đủ kích cỡ” và hóa chất, theo đơn truy tố. Bốn người này bị bắt sau khi bắt đầu chế tạo bom.

Bà Carroll và đồng bọn lập nhóm chat trên ứng dụng Signal có tên “Phái Sen Đen,” mà họ tự nhận là phái “cực đoan” của TILF, rồi sử dụng nhóm chat này để bàn âm mưu đánh bom, theo đơn truy tố.

Khi khám xét nhà bà Carroll, điều tra viên tìm thấy áp phích và tài liệu liên hệ với TILF, gồm một tấm ghi “Đả Đảo ICE” và tấm khác ghi “Đả Đảo Mỹ, Turtle Island và Palestine Trường Tồn.” (Th.Long) [kn]


 

Hội nghị Trung ương 15, cuộc chơi của những kẻ tiếm quyền-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 15, 2025

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng Cộng sản Việt Nam đang diễn ra trong một thời điểm đặc biệt, vì đây là hội nghị trung ương cuối cùng trước kỳ Đại hội đảng Cộng Sản lần thứ XIV, dự kiến tổ chức vào đầu năm 2026.

Theo thông lệ chính trị nhiều thập niên qua, Hội nghị Trung ương 15 không chỉ là một kỳ họp “chuẩn bị”, mà thực chất là nơi hoàn tất việc sắp xếp nhân sự cao cấp nhất của toàn bộ hệ thống chính trị, từ hệ thống trung ương đảng đến hệ thống chính quyền trung ương.

Trung ương đảng họp để “nhất trí” theo những gì mà Bộ Chính trị CSVN và các ban bệ thu hẹp đã quyết định trước. Những kẻ ngồi ở hàng ghế đầu không phải là cùng một đẳng cấp với những kẻ ngồi ở các hàng ghế sau. Ghế càng xa, vai vế càng kém. (Hình: Chinhphu.vn)

Nói cách khác, Hội nghị Trung ương 15 chính là nơi quyết định ai sẽ lãnh đạo đất nước trong 5 năm tới, dù danh nghĩa pháp lý của các quyết định này sẽ được “hoàn thiện” bằng thủ tục hợp thức hóa ở Đại hội XIV và các kỳ họp của Quốc hội sau đó.

Điều đáng bàn không chỉ là kết quả nhân sự, mà là cơ chế quyết định nhân sự – nơi mà ít nhất ba chủ thể chính trị căn bản của một quốc gia, gồm nhân dân, Quốc hội và ngay cả tuyệt đại bộ phận hơn 5 triệu đảng viên Đảng Cộng sản đều bị loại ra ngoài quá trình tấn cử.

Nhân dân, người “chủ đất nước” nhưng hoàn toàn bị “chầu rìa”

Theo nguyên tắc dân chủ của một chính thể cộng hòa và theo chính thể Hiến pháp Việt Nam, thì “Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước”. Tuy nhiên, trong thực tiễn chính trị hiện nay, nhân dân không có bất kỳ vai trò nào trong việc lựa chọn các lãnh đạo cao cấp nhất của quốc gia.

Nhân dân không được đề cử ứng viên mà mình tin cậy. Nhân dân không được tranh luận về các ứng viên lãnh đạo. Nhân dân không được bỏ phiếu bầu lãnh đạo. Nhân dân thậm chí không được biết trước danh sách ứng viên. Họ, nhân dân, chỉ là người cuối cùng nhận thông tin, sau khi mọi thỏa thuận, sắp xếp, cân bằng phe phái đã hoàn tất trong nội bộ một nhóm rất nhỏ các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản.

Điều nghịch lý là, mọi quyết định của những người được “tấn cử” này, sau khi được tấn phong chính thức, đều tác động trực tiếp và sâu sắc đến vận mệnh quốc gia, đến sinh kế, quyền tự do, cơ hội sống, học tập và làm việc của trăm triệu người dân. Nhưng người dân lại hoàn toàn bị gạt ra ngoài tiến trình lựa chọn. Trong bất kỳ nền chính trị nào có chính quyền tự nhận là “của dân”, thì đây là một nghịch lý khó có thể biện minh.

Quốc hội, cơ quan “quyền lực cao nhất” nhưng chỉ đóng vai trò “nghị gật”, hợp thức hóa sự tiếm quyền

Theo Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền bầu và phê chuẩn các chức danh quan trọng như Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và nhiều chức vụ then chốt khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, Quốc hội không hề được tham gia gì vào quá trình lựa chọn nhân sự, mà chỉ thực hiện vai trò bỏ phiếu chuẩn thuận các nhân sự đã được Đảng Cộng sản “quy hoạch, giới thiệu và quyết định trước”.

Nói cách khác, quyền lực hiến định của Quốc hội bị vô hiệu hóa bởi nghị quyết của đảng. Việc bỏ phiếu tại Quốc hội trở thành một thủ tục mang tính nghi lễ, nơi mà kết quả đã được định sẵn, và mọi lá phiếu chỉ có tác dụng hợp thức hóa quyết định đã được đưa ra từ nơi khác. Khi cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia không có quyền lựa chọn, không có quyền bác bỏ thực chất, thì danh xưng “quyền lực cao nhất” chỉ còn tồn tại trên giấy tờ.

Đảng viên cũng bị loại ra ngoài việc chọn lãnh đạo của chính đảng mình

Không chỉ nhân dân và quốc hội, mà ngay cả tuyệt đại bộ phận gồm hơn năm triệu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam cũng không có quyền tham gia vào việc lựa chọn lãnh đạo cao cấp nhất của đảng.

Hội nghị Trung ương 15, với số lượng rất hạn chế các ủy viên trung ương và một nhóm còn hẹp hơn nữa trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã sắp xếp xong toàn bộ nhân sự chủ chốt, từ chức vụ Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm các Ủy ban… cho đến các vị trí chiến lược khác.

Khi Đại hội đảng XIV diễn ra vào đầu năm 2026, việc bỏ phiếu của hàng nghìn đại biểu thực chất chỉ còn là hình thức hợp thức hóa những quyết định đã được định trước. Các phương án khác, nếu có, cũng không tồn tại như những lựa chọn thực sự. Như vậy, đảng viên, lại không có quyền lựa chọn lãnh đạo của chính tổ chức mà họ là thành viên và được yêu cầu “tuyệt đối trung thành với Đảng”.

Một cơ chế tấn cử tiếm quyền quyền lực quốc gia

Khi đặt ba chủ thể chính trị này cạnh nhau, có thể thấy một nghịch lý mang tính hệ thống: Nhân dân không được tham gia; Quốc hội không được quyết định; Đảng viên không được lựa chọn. Quyền lực tấn cử, vì thế không thuộc về bất kỳ chủ thể chính trị chính danh nào, mà tập trung vào một nhóm rất nhỏ những người đang nắm quyền lực cao nhất trong Đảng Cộng sản.

Đây không còn là “tập trung dân chủ” theo nghĩa lý luận mà đảng Cộng Sản thường rêu rao, mà là sự tập quyền, độc tài thuần túy, nơi dân chủ chỉ còn là mỹ từ bị lợi dụng triệt để, và tính cạnh tranh chính trị công bằng bằng bầu cử tự do gần như bằng không. Thay vào đó, là sự thanh trừng, đấu đá tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong đảng, trên cơ sở ngành nghề, hoặc địa phương cục bộ.

Hệ quả: khủng hoảng tính chính danh và trách nhiệm chính trị

Một cơ chế lựa chọn lãnh đạo như vậy tất yếu dẫn đến những hệ quả dễ nhìn thấy trước, gồm: Khủng hoảng tính chính danh, vì lãnh đạo không do dân chọn, không chịu sự cạnh tranh, không đối diện với khả năng bị thay thế bởi lá phiếu.

Khủng hoảng trách nhiệm chính trị, vì khi quyền lực không được giao từ nhân dân, thì người nắm giữ quyền lực không chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Gia tăng đấu đá phe phái, vì quyền lực không được phân xử bằng lá phiếu công khai, tự do mà bằng thỏa thuận hậu trường.

Quốc hội CSVN ngày 20 Tháng Mười 2025, khai mạc khóa họp cuối năm và cũng là cuối cùng của nhiệm kỳ này. Báo chí tây phương gọi quốc hội CSVN là “con dấu cao su” vì chỉ bấm nút hay giơ tay “nhất trí” theo lệnh đảng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Hội nghị Trung ương 15, trong bối cảnh đó, không chỉ là một sự kiện nội bộ của Đảng Cộng sản, mà là một tấm gương phản chiếu bản chất của cơ chế quyền lực hiện hành, rằng quyền lực được quyết định trong phạm vi hẹp, khép kín, và xa rời các chủ thể chính trị mà lẽ ra phải là trung tâm.

Tóm lại, một quốc gia hiện đại không thể được dẫn dắt lâu dài bằng một cơ chế tấn cử mà người dân đứng ngoài, Quốc hội đứng ngoài, và ngay cả đảng viên cũng đứng ngoài. Khi mọi quyết định then chốt đều được định đoạt trước trong những hội nghị kín, thì các thiết chế còn lại chỉ đóng vai trò sân khấu hóa cho một kịch bản đã hoàn chỉnh.

Hội nghị Trung ương 15, vì thế không chỉ là bước chuẩn bị cho Đại hội XIV của đảng CSVN, mà còn là một sự hình thức tiếm quyền quyền lực chính trị trong một quốc gia. Chúng sẽ không mang lại tính chính danh cho những người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo cao cấp, mà chúng chỉ giúp xác nhận kẻ chiến thắng trong cuộc thỏa hiệp từ việc tranh giành, đấu đá chiếm giữ quyền lực chính trị trong đảng mà thôi.

Viết từ Hoa Thịnh Đốn, ngày 14 Tháng Mười Hai 2025