NHỮNG CHUYẾN XE CUỘC ĐỜI

Sau cơn tai biến mạch máu não, cha tôi yếu đi nhiều, không còn khả năng đi lại nữa. Chúng tôi mang về nhà một chiếc xe lăn tay cho cha. Nhìn cha ngồi tù túng trong chiếc xe với không gian nhỏ hẹp, chúng tôi vừa ái ngại, vừa xót xa.

Cha tôi, một người lính từng vào sinh ra tử, một người luôn hoạt động và mạnh mẽ… Bây giờ cha ngồi im lặng trên chiếc xe lăn hàng giờ liền. Tôi biết lòng cha đau đớn vì bất lực trước tình trạng bệnh tật của mình.

Thấy chúng tôi quấn quít, cha vui lắm, nhưng cha lại bảo:

Tụi con đừng lo cho cha nhiều, đứa nào có việc phải làm, phải học, cứ đi! Cha biết cách thích nghi với hoàn cảnh mà! 

Rồi cha cười nói:

Các con à, cuộc đời con người có nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn gắn với một chiếc xe. Khi sinh ra, con người nằm xe nôi. Nhỏ bé, yếu ớt, con người được yêu thương và chăm sóc bởi cha mẹ, người thân. Lớn lên một chút, con người chập chững bước những bước đi đầu tiên với chiếc xe tập đi. Giã từ thời thơ ấu, chúng ta bắt đầu hòa nhập vào thế giới với bao nhiêu phương tiện: xe đạp, xe máy, xe hơi… Và từ đây, chúng ta cứ luôn ao ước thay đổi chiếc xe đời mình sao cho mới hơn, hiện đại hơn, tốt hơn…

Các con ơi, cha cũng đang ngồi trên một chuyến xe của đời mình. Chiếc xe lăn này là một chiếc xe trong cuộc đời của cha và cha không tuyệt vọng vì điều đó. Cái chính là cha vẫn sống lạc quan, yêu đời trên chuyến xe đời mình.

Xung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời vất vả, cực nhọc, những người gắn mình với chiếc xe ba gác chở thuê, xe xích lô, xe đẩy bán hàng rong trên phố, nhưng họ vẫn sống, vẫn vươn lên.

 Có những người đi toàn xe hơi đắt tiền, đời mới, nhưng những chuyến xe cuộc đời họ lại không có bến đỗ phẳng lặng, hạnh phúc…

Ai rồi cũng phải đi chuyến xe cuối cùng của đời mình. Phải làm thế nào để trong chuyến xe đó, chúng ta ra đi trong sự thanh thản, yên bình, trong sự thương tiếc của người thân, bạn bè.

 Làm được điều đó không phải là điều đơn giản, dễ dàng vì những chuyến xe trong cuộc đời mỗi người. Không có vé “khứ hồi”, chúng ta chỉ được đi có một lần!

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen


 

THÁNH THẤT THIÊNG – Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

“Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người!”.

Một trong các triết gia ảnh hưởng đến việc trở lại của thánh Augustinô là Victorinus; ông nổi tiếng đến nỗi được dựng tượng trong tòa án Rôma. Về già, ông đọc Thánh Kinh và các tác phẩm Kitô giáo. Ngày kia, ông nói với Simplicianus, “Tôi muốn ngài biết, tôi là một Kitô hữu!”; Simplicianus đáp, “Tôi sẽ không tin cho đến khi ông đến nhà thờ!” – “Nhà thờ làm cho người ta thành Kitô hữu sao?”. Sau đó, ông học đạo và công khai trở lại!

Kính thưa Anh Chị em,

 

Đúng như Victorinus nhận định, “Nhà thờ không làm cho người ta thành Kitô hữu!”. Hôm nay, lễ Cung Hiến Thánh Đường Latêranô, chúng ta không chỉ tôn vinh một công trình bằng đá, nhưng tôn vinh một “Thánh Thất Thiêng” – chính Chúa Kitô – linh hồn của mọi thánh đường!

Không có toà nhà nào đủ lớn để chứa nổi Thiên Chúa, nhưng con người vẫn cần một nơi để gặp gỡ Ngài. Ban đầu, các tín hữu tụ họp tại các tư gia để cầu nguyện và “bẻ bánh”; dần dần, các cộng đoàn sáng tạo những “ngôi nhà” dành riêng cho việc cầu nguyện, đọc Lời Chúa và cử hành phụng vụ. Từ những cuộc đàn áp đầu tiên cho đến ngày được tự do, Kitô giáo đã xây các nhà nguyện, nhà thờ và vương cung thánh đường; trong đó, quan trọng nhất là đại giáo đường Gioan Latêranô, Rôma. “Thật kỳ diệu biết bao khi thấy Sự Hiện Diện Thần Thiêng của Đấng nhìn ra ‘gần như tận’ các đường phố từ các nhà thờ!” – Henry Newman.

“Latêranô” biểu trưng cho sự hiệp nhất của mọi Giáo Hội với Giáo Hội Rôma. Trên hiên chính, Latêranô tự hào mang danh hiệu “Mẹ và Đầu của tất cả các nhà thờ trong thành phố và trên thế giới”. Nó còn quan trọng hơn cả đền thờ Phêrô – được xây trên mộ vị Tông đồ trưởng – vì Latêranô mới là nhà thờ chính toà của Giáo Hoàng, Đấng đại diện Chúa Kitô. Chính Ngài là dòng sông ân sủng ban sự sống mà bài đọc một và Thánh Vịnh đáp ca tiên báo.

Đền thờ bằng đá có thể sụp đổ, nhưng “Thánh Thất Thiêng” – Chúa Kitô và mỗi tâm hồn nên một với Ngài – thì không. Khi nói, “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa” – bài đọc hai, Phaolô không nói về nơi chốn, mà nói về một mối tương quan. Thiên Chúa không chỉ ngự trong các cung thánh, mà còn trong những trái tim biết mở ra cho Ngài.

Anh Chị em,

Nếu “Thánh Thất Thiêng” là Chúa Kitô, thì mọi không gian thánh không còn bị giới hạn bởi tường vách hay thánh điện, vì Ngài đã là nơi gặp gỡ giữa Trời và Đất, giữa Chúa và người. Từ đó, ai kết hợp với Ngài đều được thánh hiến, trở nên “đền thờ sống động”, nơi Thần Khí Thiên Chúa hiện diện và hoạt động. Vì thế, điều cốt yếu không phải là kiến trúc, nhưng là hiệp thông – với Chúa và với nhau. “Thánh Thất Thiêng” chỉ sáng rực khi được thắp sáng bởi tình yêu, đó là một trái tim được thanh tẩy, biết yêu và tha thứ – một thánh đường đẹp nhất mà Thiên Chúa luôn muốn ngự vào. Từ đó, nhịp sống mỗi người dâng lên Ngài như một phụng vụ của tình yêu. “Đền thánh thật không phải nơi những tảng đá ‘đứng’, mà là nơi tình yêu ‘chảy’ và các tâm hồn hiệp nhất!” – Thomas Merton.

Chúng ta có thể cầu nguyện:

“Lạy Chúa, xin ngăn ngừa mọi ngẫu tượng ngấp nghé, ngó nghiêng, hay ngỗ ngáo dành chỗ Chúa trong cung thánh lòng con!”, Amen.

Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

*****************************************************************

LỜI CHÚA CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ, 9/11, CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN 

Đền thờ Đức Giê-su muốn nói là chính thân thể Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.    Ga 2,13-22

13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán bồ câu : “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh : Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.

18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su : “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế ?” 19 Đức Giê-su đáp : “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” 20 Người Do-thái nói : “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao ?” 21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.


 

Những người con hoang của J. P. Sartre-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục 

05/11/2025

Sau chiến tranh thứ hai, nước Pháp hoang tàn, đổ nát. Có một De Gaulle trở về, đem vinh dự và hy vọng cho cả nước Pháp. Nhưng chưa đủ. Nước Pháp cần một biểu tượng văn hóa: J.P. Sartre. J.P. Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức, của cả nước Pháp, nhất là sau khi ông làm giám đốc tờ Les temps modernes. Ít khi nào có một trí thức, nếu không nói là lần đầu tiên, vừa là triết gia, vừa là nhà văn tài hoa đến như ông.

Sau khi xuất bản La nausée (1938), Le Mur (1939), ông thay thế dần chỗ ngồi của A. Malraux, và chẳng bao lâu sau của André Gide, trong văn học Pháp. Ông đã tạo cho mình một chỗ đứng, một thế giới của riêng Sartre, Univers Sartrien… Rồi Sartre cho ra đời Chemins de la liberté, Les mouches, 1943; tác phẩm lớn L’être et le Néant, 1943; Huis clos, 1944; Morts sans sépulture, 1946; La Putain respectueuse, cuốn sách gây xì căng đan ở nước Pháp năm 1946; Critique de la raison dialectique, Les mains sales, 1948; Le diable et le bon Dieu, 1951.

Bên cạnh Sartre là một nhà văn trẻ hơn, A. Camus, sau này trở thành cặp Sartre-Camus; mỗi tác phẩm của A. Camus như thể hiện linh hồn của tư tưởng Sartre. Cả hai đã ảnh hưởng toàn bộ giới trẻ và trí thức Pháp, mặc dầu A.Camus luôn luôn từ chối cái nhãn Hiện Sinh mà người ta gán cho ông.

Tác phẩm của hai nhà văn này đề cập đến những vấn đề con người, chẳng hạn như mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, vấn đề trách nhiệm, dấn thân, nhập cuộc, hoài nghi, phủ nhận mọi chủ nghĩa, mọi giáo điều… Rồi vấn đề hiện hữu và hư vô, hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính… Ðời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn… Những tư tưởng đó đã gây ra trong văn chương Pháp không biết bao tranh luận, thậm chí cả ngộ nhận, hiểu lầm từ nhiều phía.

Năm 1980, Sartre chết. Nước Pháp đã tiễn đưa một nhà trí thức sáng chói với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Victor Hugo đúng 100 năm trước đó.

1945-1955 là thời kỳ vàng son của Sartre và Camus. Nhưng họ đã chẳng có ảnh hưởng gì tới sinh hoạt văn học Việt Nam. Tình hình Việt Nam lúc đó rối như mớ bòng bong, ai còn bận tâm tới văn chương, triết lý? Ðó cũng là cái khoảng thời gian trống và nghèo nàn nhất của văn học Việt, từ Nam ra Bắc. Các trào lưu văn học Tiền chiến hay Tự Lực Văn Ðoàn đều tắt tiếng. Người tản cư trôi dạt xuống các vùng Hà Ðông, Phủ Lý, Nam Ðịnh, vào đến Thanh Hóa, rồi sau đó quay về dinh tê. Kẻ khác tham gia kháng chiến. Mỗi người tứ tán mỗi nơi…

Nhưng kể từ sau Hiệp định Genève với cuộc di cư từ miền Bắc của một triệu người, Sartre và Camus có cơ hội có mặt ở miền Nam và ảnh hưởng của họ kéo dài hơn một thập niên. Ở đây cần xác định rõ là tư tưởng của họ gây ảnh hưởng trong văn chương, tiểu thuyết, một thứ sản phẩm thị dân, đối tượng là các thành phần thanh niên, trí thức thành thị. Dù sao đi nữa, thành phần này cũng là mặt nổi của một xã hội. Nói tới sinh hoạt văn học, nghệ thuật, là nói tới họ.

Còn phần triết học thì quá ít người được biết tới. Thật vậy, vào thời kỳ từ cuối 50 đến 70, tại các đại học Văn Khoa Sài Gòn, Huế, Ðà Lạt và sau này Vạn Hạnh… triết lý Hiện sinh của Sartre đã không được giảng dạy. Thảng hoặc có dạy đi nữa trong các chứng chỉ Siêu hình và Lịch sử Triết học, các giáo sư thời bấy giờ cũng chọn Nietzsche, Kierkergaard, Merleau-Ponty, và nhất là Heideigger. Cùng lắm là có đả động qua loa đến G. Marcel hay E. Mounier, những triết gia hữu thần, trái ngược hẳn với trào lưu Hiện sinh của J.P. Sartre.

Xét về mặt nghiên cứu thì ngay các trường đại học quốc gia ở Huế, Sài Gòn, cũng không có điều kiện cung cấp đầy đủ tài liệu cho sinh viên sử dụng, ngoại trừ Viện Ðại học Ðà Lạt, một đại học bán công mà thành phần ban Giảng huấn hầu hết là các cha Dòng Tên người ngoại quốc – có thể coi đây là một hình thức du học tại chỗ. Nơi đây, có hơn 5000 ngàn đầu sách đủ loại về văn chương và triết học bằng tiếng Pháp.
Nhưng vì Sartre không có trong học trình, tôi không dám chắc đã có bao nhiêu sinh viên có đủ điều kiện để miệt mài hết cuốn L’être et le Néant hay Critique de la raison dialectique? Cái sự không dám chắc đó, tôi đặt ngay cả vào bản thân thành phần Giáo sư trong ban giảng huấn nữa! Thật khó mà biết được có bao nhiêu người đã đọc?
Vì thế, triết học Hiện sinh ở chiều sâu, ở phần căn cốt sách vở của Sartre, số người biết rành rõi có thể đếm trên đầu ngón tay. [1]

Nhưng âm vang của “hư vô,” “hữu thể,” “tồn thể,” “những xao xuyến siêu hình,” “dấn thân,” “nhập cuộc,” “trách nhiệm,” “người trong cái toàn thể,” “người trong hoàn cảnh,” “tha nhân,” “đời phi lý,” “con người phản kháng”… là những từ ngữ quyến rũ đến độ người ta phải nói tới, phải suy nghĩ. Nó như một thứ ma lực lôi cuốn giới trẻ, sinh viên, trí thức. Những cuốn tiểu thuyết của họ, nhất là của Camus, đặt tâm thức giới trẻ vào những suy nghĩ miên man về ý nghĩa cuộc đời, đặt nghi vấn về tất cả mọi vấn đề, của chính tự thân và của người khác, rồi cuối cùng rơi vào sự trống rỗng không lời giải đáp. Có thể nói, tâm trạng thanh niên trí thức lúc bấy giờ là thử tìm hiểu xem cuộc đời đáng sống hay không đáng sống?! Một câu hỏi đáng lý chẳng nên đặt ra cho một người trẻ tuổi sắp sửa bước vào đời. Cái để lại trong tâm thức người trẻ, sau khi nghi vấn, tra hỏi về đủ mọi vấn đề là tâm trạng trống rỗng, vô nghĩa như người khách lạ. Và có lẽ đó là ảnh hưởng lớn nhất mà triết lý này để lại.

Ví giả J.P. Sartre chỉ là một triết gia thuần túy và không bao giờ là nhà văn; Ví giả A. Camus là một nhà văn không mang trọng trách rao truyền một tư tưởng triết lý. Nếu họ không có chức năng đó, hoặc họ chỉ đảm nhiệm một vai trò, một chức năng nhất định, như các triết gia hiện sinh khác như Heidegger, Kierkergaard, thì hẳn triết lý hiện sinh đã không gây ồn ào, náo nhiệt như thế. Cái ồn ào mà tôi muốn nói ở đây là nó đã làm nảy sinh ra rất nhiều những đứa con hoang đủ loại.

Triết lý hiện sinh vỉa hè là bằng chứng của vô số những nhận định ngộ nhận, hiểu lầm và qui chụp, đẻ ra những đứa con hoang mà chính J.P Sartre cũng chẳng bao giờ có thể nhìn thấy hết được. Bởi vì nó đã trở thành một sản phẩm xã hội và bất cứ một hiện tượng xã hội nào cũng có thể bị đưa lên giàn phóng để tra xét và nguyền rủa.

Cái triết lý hiện sinh vỉa hè ấy, qua F. Sagan, đã trở thành sản phẩm tiêu thụ xã hội có tính cách thời thượng mà thực chất không dựa trên một suy lý nghiêm chỉnh nào để có thể quy chiếu vào Sartre hay Camus được. Sản phẩm của đứa con hoang đó được du nhập vào Việt Nam và được đón tiếp ồn ào ở thành thị. Từ kiểu ăn mặc, đi đứng, kiểu lái xe, ngồi lên xe; rồi âm nhạc, điện ảnh với “nouvelle vague,” với James Dean. Sagan một bên, James Dean một bên. Phải chăng đó chính là hai đứa con hoang của Sartre? Từ lối sống, lối nghĩ, lối làm tình, đến cả lối chết… Tại miền Nam, trong thi ca, tiểu thuyết và báo chí, chỗ nào cũng thoáng ẩn hiện bóng dáng của thứ triết lý này. Ðến độ, người ta thấy rằng từ Mai Thảo đến Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền đều là những kẻ truyền thừa của thứ triết lý ấy. Khi mà Quách Thoại chẳng may mệnh yểu, Mai Thảo nói tới sự tự do chọn lựa cái chết, buộc mọi người phải liên hệ tới sự tự do tuyệt đối của triết lý Hiện sinh. Hiện tượng bề ngoài được bao trùm bởi cái không khí hiện sinh đó thật ra chỉ phù phiếm, chẳng có căn bản gì. Tờ Sáng Tạo, được tiếng là cửa ngõ đi vào triết lý hiện sinh, từ đầu tới cuối chỉ có bốn bài viết về hiện sinh, trong khi tờ Ðại Học ở Huế có 21 bài, tờ Bách Khoa có 24 bài.

Một số nhà văn nữ thập niên 60, như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Chu Tử, Nguyễn đình Toàn v.v… ít nhiều cho thấy bóng dáng của Sagan hiện diện trong truyện của họ. Tôi không dám bảo là họ bắt chước, nhưng có nhiều người cho rằng đó là thứ triết lý thời thượng, một kiểu theo đuôi hay làm dáng trí thức. Vậy thì phải chăng đây cũng là một thứ con hoang của Sartre? Trong giới giáo sư dạy triết thời đó, thế hệ thứ hai với những người như Ðặng Phùng Quân, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh, Trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam… Hầu như tất cả các luận án cao học ngành Triết thời đó đều đề cập đến các triết gia hiện sinh, nhưng đặc biệt không thấy một luận án Triết nào trong số họ đề cập đến triết hiện sinh của Sartre. Cắt nghĩa điều này như thế nào? Huỳnh Phan Anh viết Văn chương và kinh nghiệm hư vô. Nguyễn Quốc Trụ viết Văn chương và sự khả hữu. Trần Công Tiến viết Từ Hiện Tượng luận Husserl đến Hiện tượng luận Heidegger.
Liệu có bao nhiêu độc giả đã đọc họ và có bao nhiêu người hiểu họ?
Tôi chỉ có thể đặt câu hỏi, nhưng không thể trả lời thay cho những người khác. Cách trình bày khó hiểu và đôi khi khúc mắc, tối tăm trong những tác phẩm vừa kể đôi khi cho thấy một trí tuệ phi thường của người viết. Ðộc giả có tâm trạng mặc cảm khi đọc những bài viết như thế.
Nơi đây, triết học thực sự trở thành một món quà mà Thượng đế chỉ dành cho một số người đã được lựa chọn.
Không ai dám truy vấn chính mình đến ngọn nguồn về trình độ đọc sách và truy vấn người viết về khả năng hiểu biết và diễn đạt.
Người viết không cần biết người đọc hiểu được bao nhiêu. Nếu người đọc không hiểu thì lỗi thuộc về họ. Phải chăng nơi các giáo sư triết này thấp thoáng bóng những đứa con hoang của Sartre? Một hình thái theo đuôi, bắt chước, thời thượng? Liệu phê phán như thế có oan cho họ không? Với thiện chí của người trí thức trẻ, cố gắng nghiên cứu triết lý hiện sinh, họ trở thành đứa con hoang của Sartre, bị xếp ngang hàng với những cô cậu hippy choai choai.

Trong nghiên cứu văn chương, người ta đọc thấy những đề tài như Chinh phụ ngâm với tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đầy, Nguyễn Công Trứ với cảm thức hư vô, Tản Ðà với khát vọng vĩnh cửu.
Ðến Phật giáo, Lão giáo cũng nhập cuộc. Người ta vào đạo Phật qua lối ngõ của J.P. Sartre. Từ lăng kính Nho, Phật, Lão đến lăng kính Hiện tượng luận.

J.P. Sartre

Công giáo bảo thủ nhập cuộc kiểu khác: hạ bệ và nguyền rủa thứ triết lý này. Ðại loại như “Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong Văn nghệ”, “Lại một trạng thái cuồng loạn phơi bày trong tiểu thuyết”, “Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dã thú hóa ra con người của ông Thạch Chương”, “Tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, sự buôn lậu tư tưởng trong một con bịnh dân thành phố…” .
Ðấy là những bài viết nhằm phê phán triết học ấy ở bình diện luân lý. Họ không nhằm phê phán Sartre, bởi một lẽ dễ hiểu, họ không có điều kiện để hiểu Sartre. Họ chỉ có thể phê phán những sản phẩm xã hội mà họ nghi ngờ là từ Sartre mà ra, những sản phẩm bị coi là con hoang của Sartre. Vì sự phê phán trên bình diện luân lý của tiểu thuyết đã đi trật đường, liệu có thể xếp sự chống đối của họ cũng vào loại con hoang của Sartre không? Con hoang của những đứa con hoang?

Hết văn chương, tôn giáo lại thêm chính trị nhập cuộc. Những người anh em theo phía bên kia nay chửi thứ triết lý hiện sinh với ẩn ý chính trị ở Lữ Phương, Khải Triều… Chẳng hạn như các bài “Ðọc các tác phẩm của Chu Tử”, “Hiện tượng dâm ô, đồi trụy trong văn học hiện nay”, “Từ văn hóa cải lương đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang”. Ðã hẳn những bài viết như thế không cần đòi hỏi bất cứ một chút kiến thức nào về chủ nghĩa hiện sinh cả.
Ðó chỉ là những thứ con hoang đến hoang tưởng, gán cho Sartre bất cứ cái gì mà họ muốn.

Người ta tưởng rằng những đứa con hoang của J.P Sartre sau ngày 30-04 đã tiêu tan theo cuộc cách mạng ấy. Nhưng không, Sartre vẫn đội mồ sống dậy. Sartre cùng với Camus vẫn còn đó, bằng xương, bằng thịt.

Theo dịch giả nổi tiếng thời 60-70 Trần Thiện Ðạo, cuốn L’étranger của Camus đã có 3 dịch giả dịch rồi. Chuyên gia dịch hàng đầu của miền Bắc, ông Dương Tường, lại cất công dịch một lần thứ tư, 1995. Rồi Nguyễn Văn Dân là người thứ 5 lại mới dịch lại vào năm 2002.
Dịch lại như thế vì tác giả quá nổi tiếng? Vì tác phẩm quá hay? Vì người đọc ham chuộng? Vì người dịch trước dịch dở, tồi tệ? Vì có người dịch rồi thì dịch sau đỡ tốn công sức? Camus có bao nhiêu tác phẩm, tại sao lại cứ nhè cuốn đó mà dịch?
Cái hiện tượng dịch lại sách đã dịch cũng thấy được ở cuốn Bác sĩ Zivago, dịch lần thứ ba. Hay hơn thế nữa, lấy sách dịch in lại mà không cần đề tên dịch giả như trường hợp nạn nhân là Phùng Khánh?

Sự tụt hậu về sinh hoạt dịch ở Việt Nam có đến 50 năm và một thế kỷ.
Sách mới không dịch, cứ nhè sách cũ, sách đã dịch rồi dịch lại như một nhu cầu đọc giải trí, thay vì nhu cầu nghiên cứu. Một hiện tượng quái gở không hiểu được. Tại sao lại dịch lại những cuốn như vừa kể, mà trước đây được xếp vào loại sách phản động, không phản động thì đồi trụy?

Phải chăng vì những đứa con hoang của Sartre vẫn tiếp tục hoành hành trên thị trường chữ nghĩa ở miền Nam?

Ðứa con hoang có thể là cuối cùng của Sartre có lẽ là giáo sư tiến sĩ Trần Trọng Ðăng Ðàn. Ðối với văn học miền Nam nói chung, ông giáo sư này là kẻ chém treo ngành. Ông chém, chặt, nhổ, bứng từng dây mơ rễ má cái văn học, văn hóa đồi trụy ấy. Ông viết cuốn Văn hóa văn nghệ, Nam Việt Nam, 1954-1975 dày hơn ngàn trang mà tôi phải bỏ ra 50 đô la để bê nó về. Sót ruột lắm!
Gọi là nghiên cứu của một tiến sĩ giáo sư mà từ trang đầu đến trang cuối chỉ thấy chửi là chửi.
Ông chửi rất bài bản, nhìn đâu cũng thấy đồi trụy, đĩ điếm, thấy nọc độc của chủ nghĩa thực dân. Ông chửi các nhà văn, nhà văn hóa miền Nam kể như không trừ một ai. Chửi tất cả các sách dịch bất kể tác giả, bất kể loại, trong đó có Camus, Sagan.
Giáo sư đi theo vết chân của Lữ Phương, Khải Triều, mắc bệnh quáng gà mất rồi.

Ra khỏi khuôn viên đại học Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực thời đó, ra khỏi Sài Gòn, người dân miền Nam vẫn sống hiền hòa, vẫn chịu đựng chiến tranh, không có chút nào là triết nọ. Thần tượng của họ là Bà Tùng Long, cùng lắm là Lê Xuyên, là Bạch Tuyết, Hùng Cường, là Kim Dung. Ðổ oan cho toàn miền Nam cái tiếng văn hoá đồi trụy, nọc độc chế độ thực dân mới thật là hồ đồ.

Nếu cho rằng cái văn chương ấy, cái nọc độc ấy, cái âm mưu ấy làm ung thối miền Nam đến toàn là đĩ điếm, đồi trụy thì phải cắt nghĩa thế nào về hiện trạng xã hội Việt Nam hiện giờ?
Nó là do cái nọc độc nào, cái âm mưu nào đã đưa xã hội đất nước con người đến một tình trạng sa đọa được hợp lý hóa, được hợp pháp hóa và nhất là được bình thường hóa.
Cái sa đọa đạo đức, xã hội trầm kha nhất của đất nước hiện nay là bình thường hóa sự sa đọa, mất ý thức về sa đọa. Chữ mà người ta dùng để chỉ về điều này được gọi là thời mạt. Phải chăng đây là thời mạt của Sartre còn sót lại?

________________________________________
Một số dữ kiện về tên các bài viết, các con số đã được trích dẫn ra từ bài viết công phu: “Hiện sinh ở miền Nam 1955-1975,” của Nguyễn Văn Trung, từ trang 346 đến 390, trong bộ sách: Nhìn lại những chặng đường đã qua 1955-1995. Nxb Nam Sơn. Montréal 2000.


 

Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được. (Lc 16:13)- Cha Vương

Chúc bạn ngày cuối tuần vui tươi bình an trong tinh thần chia sẻ nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 8/11/2025

TIN MỪNG: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được. (Lc 16:13)

SUY NIỆM: Khi Chúa nói anh em không thể “làm tôi hai chủ được”, Ngài muốn nói với bạn điều gì hôm nay? Nhà thần học Scott Hahn, giải thích rằng chữ “Mammon” là “một từ tiếng Hi có nghĩa là “Tiền Của.” Điều này không có nghĩa là tiền của tự bản thân nó là xấu xa mà bạn phải từ bỏ hoàn toàn. Nhìn vào thực tế, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, bạn không thể sống mà không tiền. Nhà thờ cần tiền để bảo trì cơ sở và duy trì các sinh hoạt mục vụ. Đến ngay cả người chết cũng cần tiền để được chôn cất :). 

Vậy khi nào “tiền của” của bạn trở thành điều xấu? Câu trả lời là khi bạn thấy tiền của dẫn bạn đến lòng tham lam, ghen tị và chia rẽ với người khác, và khi của cải làm bạn sao nhãng việc “mến Chúa và yêu người”, thì lúc đó bạn cần phải đặt lại vấn đề về sự lựa chọn của bạn. 

Điều gì đang ngăn cản bạn thực thi giới răn “mến Chúa và yêu người”?

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giêsu, / Xin dạy con biết sống quảng đại, / biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, / biết cho đi mà không tính toán, / biết chiến đấu mà không sợ thương tích, / biết làm việc mà không tìm an nghỉ, / biết hiến thân mà không mong chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã hành động theo Thánh ý Chúa. Amen. 

(Thánh Inhaxiô Loyola)

THỰC HÀNH: Làm một việc bố thí hôm nay. 

From Do Dzung

*************************

Cho Đi Là Lãnh Nhận – Angelo Band

 CHỮ ‘BUÔNG’ TRONG ĐỜI TU-Sr Mây Trắng, SPP

Gieo Mầm Ơn Gọi

Có những ngày trong đời tu, tôi chợt nhận ra mình sống quá chặt, nắm giữ quá nhiều điều mà chính tôi không hay biết. Tôi tưởng rằng mình đã “trao hết cho Chúa”, nhưng sâu thẳm bên trong, vẫn còn những góc nhỏ tôi siết lại và sợ phó thác. Chỉ đến khi những biến động âm thầm gõ cửa lòng, tôi mới hiểu rằng: buông không phải là một quyết định duy nhất, nhưng là một hành trình dài, lặng lẽ, và cần ơn Chúa từng ngày.

Khi trái tim còn kẹt lại: Tôi nhớ những năm đầu đời tu, lòng tôi còn nhiều nỗi sợ: sợ không đủ thánh thiện, sợ không được yêu, sợ bước sai, sợ đánh mất chính mình. Nhiều đêm, tôi nằm trong căn phòng nhỏ, nghe tiếng quạt kêu đều đều, mà lòng nặng như đá. Tôi biết mình đang “giữ” điều gì đó, nhưng không có can đảm mở tay ra. Thậm chí, có những điều tôi mang theo từ thời tuổi trẻ: một lời nói vô tình làm tổn thương tôi, một thất bại khiến tôi mặc cảm, một người tôi thương nhưng phải chọn từ bỏ, một tương lai tôi từng mơ mà không còn thuộc về tôi nữa. Tôi giấu những điều đó trong sâu thẳm tâm hồn, như thể nếu không nhìn vào thì chúng sẽ biến mất. Nhưng chúng không biến mất. Chúng đợi tôi đối diện.

Khi Chúa nhẹ nhàng chạm vào những điều tôi muốn tránh: Nhiều lần trong giờ chầu, tôi không cầu nguyện được, Chúa không nói gì với tôi, mà chỉ để tôi ngồi đó với chính mình. Không có ánh sáng bất ngờ, không có cảm xúc thăng hoa. Chỉ là sự thinh lặng kéo dài cho đến khi tôi phải hỏi chính mình: “Con đang giữ điều gì vậy? Tại sao con không buông được? Tại sao lòng con còn nhiều ngổn ngang đến vậy?” Tôi đã luôn xin Chúa thay đổi hoàn cảnh, chữa lành nỗi đau, quên đi ký ức của tôi, chờ mãi vẫn không có gì khác. Nhưng rồi một ngày, tôi cảm thấy Ngài nói: “Con hãy đưa cho Cha trước đã.” Đưa cho Chúa nghe thì dễ, nhưng để đưa được, tôi cần nhận ra điều tôi nắm. Tôi cần chạm vào nỗi đau ấy. Tôi cần thừa nhận rằng tôi yếu đuối. Và rằng tôi đang cố tự chữa lành bằng sức riêng mình. Chính lúc ấy, tôi hiểu: Buông không phải là từ bỏ trách nhiệm, buông là từ bỏ sự kiểm soát, mà tôi như bao người vẫn thích kiểm soát hơn là tin tưởng.

Buông là bước vào tự do, dù chân còn run: Có những điều buông xuống làm tôi đau, có những điều buông xuống làm tôi khóc, và có những điều buông xuống khiến tôi như mất một phần mình. Nhưng đã bao lần sau khi buông, tôi thấy lòng nhẹ đi mà không hiểu vì sao mình từng ôm chặt đến vậy.

Tôi nhớ có lần mang trong lòng một hiểu lầm kéo dài nhiều tháng. Tôi chạy trốn cuộc đối thoại, tránh ánh mắt người chị em đã vô tình khiến tôi đau. Nhưng Chúa thì không để tôi chạy mãi. Trong giờ cầu nguyện, tôi cảm nhận Ngài mời gọi: “Đi đi con. Hãy nói sự thật trong yêu thương. Hãy buông sự tự ái.” Tôi run rẩy, nhưng tôi đã đi. Và chính ngày hôm đó, tôi học thêm một bài: Buông không làm ta nhỏ đi, nhưng làm ta trưởng thành trong sự thật và yêu thương.

Ở những lúc khác, Chúa lại dạy tôi buông những dự định của mình để đón nhận ý Chúa. Tôi từng có những ước mơ rất đẹp, rất tốt, tưởng rằng đó là điều Chúa muốn. Nhưng rồi Ngài lại dẫn tôi qua một hướng khác xa hơn, khó hơn, và cũng thật bất ngờ. Và khi tôi chấp nhận buông ước mơ cũ, tôi mới thấy câu này là thật: Không có gì Chúa lấy đi mà không thay bằng điều tốt hơn cho linh hồn.

Lúc tôi buông, tôi nghe được tiếng Chúa rõ hơn:  người ta nói: hai bàn tay chỉ có thể nhận khi nó trống, và lòng người cũng vậy. Khi tôi còn giữ chặt nỗi buồn, tôi không thấy niềm vui. Khi tôi còn giữ chặt kỳ vọng, tôi không thấy sự tự do. Khi tôi còn giữ chặt cái tôi, tôi không nghe được tiếng Chúa. Và khi tôi buông, không phải một lần, mà là từng chút, từng ngày, tôi khám phá một điều rất nhỏ mà rất thật: Chúa chưa bao giờ đòi tôi hoàn hảo. Ngài chỉ muốn tôi để Ngài làm Chúa của cuộc đời tôi. Buông là để Ngài dẫn, chứ không để tôi tự lèo lái. Buông là tin rằng Ngài đủ. Buông là chấp nhận rằng tôi chỉ là một trẻ nhỏ trong vòng tay Người Cha hiền.

Trong thế giới tạm bợ, buông là cách để không đánh mất chính mình: Giữa một thế giới quá nhiều tiếng ồn, quá nhiều so sánh, quá nhiều lỡ làng, tôi thấy “buông” không phải là trốn chạy, nhưng là một nghệ thuật để tâm hồn được giữ nguyên sự trong lành: buông để lòng nhẹ hơn, buông để tim được chữa lành, buông để mỗi tối ngủ bình yên, buông để sáng hôm sau sống mỉm cười, và buông để còn chỗ cho bình an của Chúa cư ngụ.

Với tôi là một nữ tu sống giữa đời tạm bợ này, buông chính là hành vi đức tin đẹp nhất mà tôi dâng lên Chúa mỗi ngày: buông chính mình, để thuộc trọn về Ngài. Buông để không còn gì chất chứa trong tôi khác ngoài Chúa và Thánh Ý của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, con trao vào tay Chúa những điều con vẫn còn giữ chặt: những nỗi sợ, những vết thương, những kế hoạch chưa trọn, những người con thương, những người con chưa thương được và cả những điều con chưa dám gọi tên. Xin dạy con biết buông bỏ trong bình an, để con không bước đi với trái tim nặng nề. Xin cho con đủ khiêm nhường để phó thác, đủ tin tưởng để mở tay ra, và đủ tình yêu để đón nhận điều Chúa muốn cho đời con. Lạy Chúa, giữa thế giới chóng qua này, xin gìn giữ con trong sự tự do của con cái Chúa, để từng ngày, con biết buông xuống chính mình và thuộc trọn về Chúa, Đấng yêu con không mỏi mệt. Amen.

Sr Mây Trắng, SPP


 

SUY NGHĨ NHẸ NHÀNG HƠN VỀ MỘT CHỦ ĐỀ NẶNG NỀ- Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Vài năm trước đây, một cô bạn của tôi đang phải đối diện với việc sinh đứa con đầu lòng.  Mặc dù rất vui vì sắp được làm mẹ nhưng cô thú nhận cô rất sợ tiến trình sinh nở này, những cơn đau, những nguy hiểm, những điều chưa biết.  Cô tự an ủi, hàng trăm triệu phụ nữ đã đi qua con đường này và đã vượt qua được.  Chắc chắn, cô cảm thấy mình cũng sẽ vượt qua được.

Đôi khi tôi lấy kinh nghiệm này để áp dụng vào bối cảnh cái chết.  Cái chết là chủ đề đáng sợ, khó chịu và nặng nề nhất, dù chúng ta thường nói một cách giả tạo.  Khi chúng ta nói mình không sợ chết thì phần lớn chúng ta đang huýt sáo trong bóng tối và cả ở đó, líu lo thì dễ dàng hơn khi cái chết của chính mình vẫn là một ý tưởng trừu tượng, một điều gì đó trong tương lai không xác định.  Nói lên trọn vẹn suy nghĩ của tôi về cái chết chắc chắn phù hợp với mô tả đó, huýt sáo trong bóng tối.  Nhưng tại sao không?  Chắc chắn là huýt sáo trong bóng tối tốt hơn là tự hành hạ mình bằng nỗi sợ hãi không cần thiết. 

Vì vậy, tôi dùng phương pháp của bạn tôi khi cô muốn có thêm can đảm để đối diện với việc sinh con và điều chưa từng biết này.  Một cách đơn giản, hàng triệu triệu người đã vượt qua được quá trình chết, vì vậy tôi cũng phải vượt qua được!  Hơn nữa, không giống như việc sinh con, chỉ ảnh hưởng đến một nửa nhân loại, còn cái chết thì ảnh hưởng đến toàn nhân loại, kể cả tôi đều sẽ đi qua.  Một trăm năm nữa, những ai đang đọc bài này sẽ vượt qua cái chết của mình. 

Vì vậy, đây là cách để nhìn nhận về cái chết của chính chúng ta: hàng tỷ tỷ người đã vượt qua được điều này, đàn ông, phụ nữ, trẻ em, kể cả trẻ sơ sinh.  Một số người đã già, một số người còn trẻ; một số đã chuẩn bị, một số thì không; một số đón nhận, một số cay đắng phản kháng; một số chết vì nguyên nhân tự nhiên, một số chết vì bạo lực; một số chết trong vòng tay yêu thương, một số chết cô đơn không có vòng tay yêu thương nào chung quanh; một số chết trong thanh thản, một số chết trong tiếng khóc vì sợ hãi; một số người chết khi đã già, một số ở tuổi thanh xuân; một số bị bệnh mất trí vô nghĩa trong nhiều năm làm cho những người chung quanh hỏi vì sao Chúa và thiên nhiên lại tàn nhẫn khi giữ họ sống; lại có những người khỏe mạnh có đầy đủ để sống nhưng họ lại tự tử; có những người chết trong đức tin và hy vọng, có những người chỉ thấy bóng tối và tuyệt vọng; một số khi chết có lòng biết ơn, một số khi chết lòng đầy oán giận; một số chết trong vòng tay tôn giáo và nhà thờ, một số hoàn toàn ở ngoài vòng tay này; một số chết như Mẹ Têrêxa, một số lại như Hitler.  Nhưng tất cả họ đều làm được điều đó, điều vô danh vĩ đại, điều vô danh vĩ đại nhất.  Có vẻ như có thể làm được. 

Hơn nữa, không ai trở về từ thế giới bên kia với những câu chuyện kinh dị về cái chết, như thế cho thấy tất cả những bộ phim kinh dị của chúng ta về việc bị hành hạ sau khi chết, bị ma quỷ và những ngôi nhà ma ám đều hoàn toàn hư cấu. 

Tôi nghĩ ai cũng có trải nghiệm như tôi khi nghĩ về người chết, đặc biệt là những người tôi biết đã chết.  Nỗi đau buồn và sự mất mát ban đầu của họ cuối cùng cũng qua đi và được thay thế bằng một cảm giác mơ hồ rằng mọi chuyện vẫn ổn, rằng họ ổn, và rằng cái chết theo một cách kỳ lạ nào đó đã rửa sạch mọi thứ.  Cuối cùng, chúng ta có một cảm giác khá tốt về những người thân yêu đã khuất của mình và về những người đã khuất nói chung, ngay cả khi sự ra đi của họ không hề lý tưởng, khi họ chết trong tức giận, thiếu chín chắn, hoặc vì họ đã phạm tội, hoặc tự tử.  Bằng cách nào đó, cuối cùng tất cả đều được rửa sạch và những gì còn lại là một cảm giác mơ hồ, một trực giác vững chắc, rằng bất kể họ đang ở đâu, họ đều ở trong một vòng tay tốt hơn và an toàn hơn chúng ta.

 Khi còn là chủng sinh trẻ, chúng tôi phải dịch chuyên luận của tác giả cổ đại Cicero về tuổi già và về cái chết từ tiếng La-tinh sang tiếng Anh.  Khi đó tôi mười chín tuổi, nhưng rất ấn tượng với những suy nghĩ của Cicero về lý do vì sao chúng ta không nên sợ chết.  Ông là người theo phái khắc kỷ nổi tiếng; nhưng, cuối cùng, việc ông không sợ chết cũng giống như cách bạn tôi đối diện với việc sinh nở, xét theo mức độ phổ biến của nó, chúng ta đều có thể quản lý được! 

Tôi đã đánh mất ghi chép của tôi về Cicero từ lâu nên bây giờ tôi tra cứu chuyên luận này trên Internet.  Đây là một đoạn trích từ chuyên luận này: “Cái chết không nên được cho là quan trọng!  Vì rõ ràng tác động của cái chết là không đáng kể nếu nó hoàn toàn hủy diệt linh hồn, ngay cả là mong muốn, nếu nó dẫn linh hồn đến một nơi nào đó để sống mãi mãi.  Vậy thì, tôi sẽ sợ gì, nếu sau khi chết, tôi được định sẵn là không bất hạnh hoặc hạnh phúc?” 

Đức tin của chúng ta cho chúng ta biết rằng, với tình yêu và với lòng nhân từ của Chúa mà chúng ta tin tưởng, chỉ có lựa chọn thứ hai là hạnh phúc đang chờ chúng ta.  Và chúng ta đã trực giác được điều đó. 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim


 

“M. Reynolds… Tại sao ông vẫn ở đây?”-Truyện ngắn HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 Karoline Leavitt phát hiện ra một cựu nhân viên vệ sinh ở trường trung học của cô ấy vẫn đang làm việc ở tuổi 80 – và những gì cô ấy làm tiếp theo khiến cả trường không nói nên lời!

…  … 

Mặc áo blazer đơn giản, Karoline kín đáo, một mình, bước vào phòng tập thể dục của trường trung học cũ, chỉ hy vọng tìm lại ký ức đã định hình cho cô.

Nhưng khi cô ấy nhìn xuống hành lang và phát hiện, một khuôn mặt thân quen – người đàn ông yêu quý vẫn với cây lau nhà trong tay khi đã 80 tuổi – Karoline Leavitt rất ngạc nhiên.

Cô ấy nhìn chằm chằm vào người đàn ông này, quên đi rất nhiều điều, và sau đó đưa ra quyết định… mà không ai có thể tưởng tượng được.

Những gì đã xảy ra tiếp theo đã khiến các giáo sư, bạn học cũ của cô và cả trường đều choáng váng… bởi vì, một người tận tụy kín đáo với công việc, cuối cùng cũng nhận được sự công nhận mà ông ta không bao giờ dám hy vọng.

Phòng tập gym luôn có mùi giống nhau – sáp sàn, quạt cũ và bỏng ngô từ chiếc xe đẩy đồ ăn vặt chưa bao giờ thực sự biến mất.

Karoline Leavitt, bây giờ gần 30 tuổi, và là ngôi sao đang lên trong chính trị, đã không đặt chân đến trường trung học Jefferson kể từ khi tốt nghiệp.

Cô ấy đã nghĩ rằng cô ấy sẽ chỉ cảm thấy một chút lưu luyến trong buổi họp mặt cựu sinh viên này.

Nhưng những gì cô ấy cảm thấy buổi chiều đó hoàn toàn khác biệt.

Một cái gì đó sâu sắc hơn.

Một thứ gì đó sẽ ở trong tâm trí cô ấy và sau khi số tiền quyên góp được tính.

Dưới chân hành lang, bên cạnh một cái xô màu vàng cũ, cô ấy nhận thấy một chiếc áo silhouette mà cô ấy sẽ không bao giờ tưởng tượng được gặp lại.

Khuôn mặt thân quen, già cỗi theo thời gian.

M. Reynolds.

Nhân viên vệ sinh hay phát kẹo trước khi học sinh ra sân chơi.

Đất nước này đang vĩ đại trở lại trong khi ông ấy vẫn dọn dẹp nhà ăn.

Và bất cứ ai đã nhờ sửa cửa tủ đựng đồ của mình…

… và đặc biệt là người mà ngày xưa, không thắc mắc, kín đáo cho cô ấy mượn gì để mua bữa trưa khi cô ấy xấu hổ khi nói rằng cô ấy không có gì.

Và ông ấy vẫn ở đó – đẩy chổi của mình xuống những hành lang đó,

Vẫn nụ cười tốt bụng đó, nhưng giờ đã nhiều nếp nhăn hơn rồi.

Ông ấy 80 tuổi.

Bước đi của ông ấy chậm hơn.

Tay ông ấy hơi run với cây lau nhà.

Karoline luôn bình tĩnh.

Các nhóm cựu sinh viên cười, mặc trang phục và váy của nhà thiết kế – và đi ngang qua ông ấy mà không cần nhìn.

Tại sao ông ấy vẫn làm việc?

Cô ấy đã không đến gần ngay.

Cô ấy lặng lẽ theo dõi ông ấy từ một góc sảnh.

M. Reynolds lau sạch những chiếc cốc bị đổ, đặt ghế trở lại vị trí, với niềm tự hào thầm lặng như trước đây.

Khi ông ấy nghiêng mình, mệt mỏi, vào chổi của mình, Karoline tiến tới mà không cần suy nghĩ.

— “M. Reynolds?” – cô ấy nói, giọng cô ấy run rẩy.

Ông ấy nhìn lên – và ánh mắt của ông ấy sáng lên như một ngọn đèn nhấp nháy cũ.

— “Karoline Leavitt! Chà, đã lâu rồi!” – ông ấy nói với một nụ cười – “Tôi đã không gặp cô kể từ lúc bầu cử vào hội đồng sinh viên, phải không?”

Cô ấy cười, mắt cô ấy ướt: – “Ông còn nhớ điều đó không?”

— “Không thể nào quên được-một quả cầu năng lượng-như cô!”

Nhưng khi cô ấy đặt câu hỏi đã ám ảnh cô ấy…

— “M. Reynolds… Tại sao ông vẫn ở đây?”

Ông ấy nhún vai lên. Một cử chỉ đơn giản. Từ tốn: – “Nghỉ hưu rất đắt. Muốn ăn thì phải tiếp tục làm việc dọn dẹp”

Không cay đắng. Không phàn nàn. Chỉ là sự thật.

Cô ấy không thể ở lại mà không làm gì cả.

Họ đã nói chuyện. Lắng nghe cuộc sống của ông ấy, những chuyến đi của ông ấy. Ông ấy đã rạng rỡ với niềm tự hào.

Nhưng Karoline đang mủi lòng bên trong.

Cô ấy nhớ ngày khi ông ấy đặt tay lên vai cô nói:

– “Cô đáng giá hơn cô nghĩ. Đừng bao giờ quên điều đó.”

Cô ấy chưa bao giờ quên.

Và bây giờ đến lượt cô ấy vươn tay ra.

Sáng hôm sau, cô ấy đã gọi cho một người bạn cũ, Jessica Moore, bây giờ là tư vấn tài chính: – “Tôi muốn lập một quỹ. Có việc khẩn cấp, Jessica!” – cô nói mà không do dự.

Sau đó cô ấy gọi cho hiệu trưởng trường trung học của mình, ông Eagle.

– “Bất cứ điều gì cô muốn, Karoline. M. Reynolds xứng đáng được điều đó”.

Cùng một buổi tối, một buổi quyên góp trực tuyến đã được bắt đầu: “Giúp ông Reynolds nghỉ hưu đàng hoàng”.

Không phô trương. Chỉ là sự thật.

Karoline đã quyên góp đầu tiên: $1.000. Vô danh.

Sau đó cô ấy chia sẻ liên kết:

— “Bạn còn nhớ M. Reynolds. Bạn biết phải làm gì rồi đấy.”

Câu trả lời là ngay lập tức.

$25.000 trong đêm.

Sau đó là một liên kết vào buổi sáng

Lời chứng đang vang lên:

— “Ông ấy cho tôi tiền ăn trưa.”

— “Ông ấy đã ở lại muộn để tôi hoàn thành dự án của mình.”

— “Ông ấy luôn đối xử với chúng ta với sự tôn trọng.”

Khoảnh khắc tuyệt vời!

Hai ngày sau, một cuộc họp khác được tổ chức.

Karoline đã gặp lại M. Reynolds trong phòng tập thể dục.

Ông ta không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Đạo diễn lên sân khấu:

— “Hôm nay chúng ta ăn mừng một người đàn ông không bao giờ từ bỏ chúng ta.

Một người đàn ông đã dạy chúng ta lòng tốt mà không nói một lời.

Một người đàn ông đã giữ nơi này – và trái tim của chúng ta – nguyên vẹn.”

Cô ấy đã chuyển sang M. Reynolds:

— “M. Reynolds… Ông sẽ nghỉ hưu. Kể từ hôm nay. Tài trợ hoàn toàn bởi những người mà ông đã ghi dấu trong cuộc sống của họ”

Màn hình hiển thị số lượng:

137.492 $

Căn phòng bùng nổ với những lời chúc mừng.

M. Reynolds đã thả chổi xuống. Ông ta đang khóc.

Karoline là người đầu tiên ôm ông ta.

– “Chúng tôi đã tự lo” – cô ấy nói với ông ta.

— “Tôi không nghĩ là họ nhớ tôi…”

– “Làm sao chúng tôi có thể quên?”

Đêm đó, các tờ báo đã kể câu chuyện của ông ấy.

Không dành cho vụ bê bối. Không phải vì danh vọng.

Nhưng bởi vì một cử chỉ đơn giản có thể khiến cho một số phận buồn nhận được niềm vui.

M.Reynolds không chỉ nghỉ hưu.Ông ta có xe hơi, nhà ở, bảo hiểm y tế. Và tự do.

Bởi vì một cựu sinh viên không nghĩ “cảm ơn” là đủ.

– Cang Huỳnh lược dịch từ Chaque jour une histoire.

————-

Sưu tầm


 

Đồ ngu, lão già vô dụng – Truyện ngắn HAY

Mãi mãi một tình yêu

 Trong bữa cơm, cháu gái tôi dùng tiếng Anh mắng tôi ngu, tôi vừa mở miệng, cả nhà liền sững sờ!

“Grandpa is so stupid.” (Ông nội thật ngu ngốc)

Giọng trẻ con trong veo vang lên trên bàn ăn, mang theo chút ngây thơ và vẻ đắc ý không hề che giấu.

Cháu gái mười tuổi của tôi, Trần Manh, đang khoe với cha nó — cũng chính là con trai tôi, Trần Quốc Kiên — mấy từ tiếng Anh mới học được.

Nó vừa nói xong, con trai tôi chẳng những không mắng, ngược lại còn bật cười.

“Not just stupid, he is a useless old man.”(“Không chỉ ngu, mà còn là ông già vô dụng nữa”)

Nó dùng tiếng Anh lưu loát hơn nhiều để phụ họa, khóe môi nhếch lên, giọng điệu khinh khỉnh.

Nó nâng ly rượu, khẽ lắc về phía tôi, ánh mắt đầy vẻ trêu chọc, như đang thưởng thức một con vật cưng không hiểu tiếng người.

Con dâu tôi, Lý Quyên, cúi đầu, vừa ăn vừa run vai, rõ ràng là đang cố nhịn cười.

Trong khoảnh khắc đó, không khí trên bàn cơm lạnh buốt đến tận xương.

Tay tôi cầm đũa, dừng lại giữa không trung.

————-

Các khớp ngón tay vì nắm chặt mà trắng bệch.

Stupid.

Useless old man.(“Đồ ngu. Ông già vô dụng”)

Đồ ngu, lão già vô dụng.

Mỗi từ như một cây kim thép nung đỏ, đâm sâu vào tim tôi.

Họ nghĩ tôi nghe không hiểu.

Họ nghĩ tôi chỉ là một ông già quê mùa, mới được đón lên thành phố, nói tiếng phổ thông còn chưa chuẩn.

Một kẻ chỉ biết ăn bám, chiếm chỗ, tiêu cơm — thứ vướng víu chẳng giúp ích được gì.

Tôi đặt đũa xuống, tiếng va chạm khẽ vang lên.

Tiếng cười trên bàn cơm lập tức tắt ngấm.

Ba đôi mắt đồng loạt nhìn tôi, mang theo vẻ khó chịu vì bị quấy rầy.

“Ba, sao vậy? Không hợp khẩu vị à?” – Trần Quốc Kiên cau mày, giọng chẳng có chút quan tâm.

Tôi không nhìn nó.

Ánh mắt tôi rơi trên người con trai mà tôi từng hãnh diện biết bao.

Ngày xưa, nó là đứa con luôn chạy theo tôi, nài nỉ tôi dạy chữ, dạy kể chuyện.

Từ khi nào, nó lại thành ra như bây giờ?

Phải chăng là vì tôi già rồi, vô dụng rồi, không còn che chở được cho nó, không thể mang đến cho nó vinh quang hay lợi ích gì nữa?

Một cơn đau thắt bóp chặt lồng ngực tôi.

Cả đời tôi từng oanh liệt, từng đứng nơi đỉnh cao, nhìn xuống phong vân thế gian.

Vì đất nước, tôi giấu đi tên tuổi, từ bỏ mọi vinh dự, cam tâm làm người bình thường.

Tôi từng nghĩ, bình yên là phúc.

Tôi từng nghĩ, con cháu quây quần bên gối, chính là chốn về tốt nhất đời mình.

Nhưng hiện thực lại tát tôi một cái đau điếng.

Tôi nhìn Trần Quốc Kiên, áo vest chỉnh tề, tóc chải bóng loáng, đồng hồ hàng hiệu trên cổ tay lấp lánh dưới ánh đèn.

Mọi thứ của nó — đều là tôi cho.

Thế mà hôm nay, nó lại dùng chính những thứ đó để sỉ nhục tôi.

“A full belly, a dull brain.”(“Ăn no quá hoá ngu”)

Tôi chậm rãi mở miệng, giọng không lớn, nhưng vang rõ trong căn phòng yên lặng.

Nụ cười trên mặt Trần Quốc Kiên đông cứng lại.

Lý Quyên đột ngột ngẩng đầu, mặt đầy kinh ngạc.

Ngay cả cô bé Trần Manh cũng há hốc miệng, chiếc nĩa trong tay rơi xuống đất.

Bọn họ đều nghe hiểu.

Ăn no rồi thì đầu óc đần độn.

Tôi dùng chính thứ ngôn ngữ mà họ vừa dùng để chế nhạo tôi.

Hơn thế, còn là một câu ngạn ngữ cổ điển mà họ chưa từng nghe.

Sắc mặt Trần Quốc Kiên thoáng chốc từ đỏ chuyển trắng, rồi từ trắng lại hóa xanh.

“Ông… ông biết nói tiếng Anh sao?”

Giọng nó khàn khàn, đầy vẻ không tin nổi.

Tôi không đáp.

Chỉ chậm rãi đứng dậy, tấm lưng vốn đã còng, trong khoảnh khắc ấy lại dường như thẳng tắp hơn bao giờ hết.

Tôi cầm tờ tờ rơi trên bàn — quảng cáo của một trường mẫu giáo song ngữ, in đầy những câu tiếng Anh màu mè.

“Tomorrow and tomorrow and tomorrow, creeps in this petty pace from day to day.”

(“Ngày mai, rồi lại ngày mai, rồi lại ngày mai, lê bước chậm chạp tẻ nhạt từ ngày này sang ngày khác.”)

Tôi chậm rãi đọc, nhưng không phải đọc quảng cáo, mà là mượn lời Shakespeare để nói điều khác.

Phát âm của tôi, là thứ tiếng Anh Anh chuẩn mực mà họ chưa từng nghe — giọng London trầm ấm, dày dạn năm tháng, mang theo quyền uy và khí chất.

Mỗi từ tôi nói ra, như một viên đạn, xuyên thủng thứ tự tôn giả tạo của họ.

“To the last syllable of recorded time.”

Tôi tiếp tục, ánh mắt quét qua ba khuôn mặt đang méo mó vì kinh ngạc.

“And all our yesterdays have lighted fools the way to dusty death.”

Tất cả những ngày hôm qua, chỉ là ánh sáng dẫn lũ ngu xuẩn bước vào cái chết đầy bụi bặm.

Đọc xong câu cuối, tôi khẽ đặt tờ rơi xuống bàn.

Không gian trong phòng ăn im lặng đến đáng sợ.

Trần Quốc Kiên như bị bóp nghẹt cổ, không thốt nổi một lời.

Thứ ngôn ngữ mà hắn từng dùng để chia ranh đẳng cấp, để sỉ nhục người cha già — giờ yếu ớt như tờ giấy bị gió thổi.

Tôi nhìn hắn, ánh mắt bình thản như mặt hồ.

Nhưng chỉ mình tôi biết, dưới làn nước ấy là sóng ngầm cuộn trào.

“Ông… rốt cuộc ông là ai?”

Trần Quốc Kiên cuối cùng cũng bật ra một câu, giọng run run, mang theo thứ sợ hãi mà chính hắn cũng không nhận ra.

Tôi vẫn không trả lời.

Chỉ quay lưng, từng bước chậm mà vững, đi về phòng mình.

Sau lưng, là ba ánh mắt kinh hoàng như nhìn thấy ma.

Tôi biết, từ giây phút này, mái nhà này — đã không còn như trước.

Và tất cả mới chỉ là khởi đầu.

Tôi trở lại phòng, khép cửa, cách biệt tiếng xôn xao và hỗn loạn bên ngoài.

Ngọn lửa giận trong ngực dần lắng xuống, chỉ còn lại cảm giác trống rỗng đến buốt lòng.

Tôi bước đến bàn làm việc, kéo ngăn tủ đã bị bụi phủ kín bao năm.

Bên trong không có vàng bạc, chỉ có một quyển Từ điển Oxford đã bạc màu, và vài tấm huân chương phủ bụi.

Trong đó, có một tấm là Huân chương danh dự cao nhất của Hiệp hội Phiên dịch Hoàng gia Anh.

Trên toàn thế giới, người từng nhận được nó — chưa đến mười người.

Và tôi, Trần Lập Phong, là một trong số đó.

Danh hiệu bí mật: “Người đưa tin.”

Từng là phiên dịch trưởng cấp quốc gia, phục vụ cho tầng lớp lãnh đạo cao nhất, chứng kiến vô số khoảnh khắc xoay chuyển cục diện thế giới.

Giọng nói của tôi, từng vang vọng qua sóng điện trong hội trường Liên Hiệp Quốc.

Ngòi bút của tôi, từng ký vào những hiệp ước hợp tác trị giá hàng nghìn tỷ.

Những năm ấy, tôi sống dưới ánh đèn sân khấu — cũng sống giữa lưỡi dao và bóng tối.

Mỗi lần dịch, không chỉ là chuyển đổi ngôn ngữ, mà là cuộc đấu trí về lợi ích quốc gia.

Sai một từ thôi, có thể là rơi xuống vực thẳm.

Vì bảo mật, cũng vì an toàn của gia đình, tôi sớm xin về hưu, mang theo vinh quang và thương tích, lặng lẽ biến mất khỏi thế giới ấy.

Tôi chọn im lặng, chọn làm một người cha bình thường, một người ông hiền lành.

Tôi từng nghĩ, đó là cách bảo vệ họ tốt nhất.

Nhưng không ngờ, sự im lặng và giản dị của tôi, trong mắt họ — lại thành ngu ngốc và vô dụng.

“Đinh linh linh——”

Tiếng chuông điện thoại đột ngột vang lên, xé tan không gian yên tĩnh.

Là điện thoại của Trần Quốc Kiên, phát ra từ phòng khách — giọng chuông gấp gáp, dồn dập, mang theo dự cảm chẳng lành.

“Alo? Tổng giám đốc Vương! Vâng vâng vâng, tôi đang chuẩn bị… Cái gì cơ? Sáng mai là hạn nộp sao? Nhưng chẳng phải ngài nói là…”

Giọng Trần Quốc Kiên run rẩy, vừa nịnh nọt vừa hoảng loạn.

“Được được được, ngài yên tâm! Tuyệt đối không có vấn đề! Tôi đảm bảo sẽ nộp cho ngài một bản kế hoạch hoàn hảo nhất!”


 

Các thánh trong giáo hội công giáo – Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

1.Các thánh tông đồ: 12 thánh tông đồ đều tử đạo chỉ có thánh Gioan là chết tự nhiên mà thôi.

Các Thánh Tông Đồ đều có kết cục khác nhau, phần lớn đều bị sát hại vì đức tin của mình. Một số cái chết bi thảm được ghi nhận bao gồm: Phêrô bị đóng đinh lộn ngược, Anrê bị đóng đinh trên cây thập tự hình chữ X, Giacôbê Tiền bị chặt đầu, Tôma bị đâm chết bằng giáo và Simon bị đóng đinh hoặc chặt đầu. 

  • Phêrô: Bị đóng đinh ngược tại Rome.
  • Anrê: Bị đóng đinh trên cây thập tự hình chữ X.
  • Giacôbê Tiền: Bị chặt đầu.
  • Gioan: Chết già tại Ephesus, là vị tông đồ duy nhất qua đời bình thường.
  • Philípphê: Bị đóng đinh trên cây thập tự ở Hierapolis.
  • Batôlômêô: Bị lột da rồi đóng đinh hoặc bị xử lý tàn bạo ở Armenia.
  • Tôma: Bị đâm chết bằng giáo ở Ấn Độ.
  • Mátthêu: Bị chặt đầu hoặc bị xử tử theo nhiều cách khác nhau ở Ethiopia.
  • Giacôbê Hậu: Bị ném đá hoặc chặt đầu ở Jerusalem.
  • Simon: Bị đóng đinh hoặc chặt đầu ở Persia hoặc Ai Cập.
  • Giuđa (Tađêô): Bị đóng đinh hoặc bị đánh bằng chùy ở Ba Tư. 

Từ năm 64 đến năm 313 CN, đạo Chúa bị cấm đoán, bắt bớ, bị hành quyết vì niềm tin, phải sống dưới các toại đạo, bí mật thờ phụng Chúa để tránh sự báchh hại của nhà cầm quyền Roma.

Năm 313, chiếu chỉ Milan chính thức chấm dứt sự bách hại và dưới thời Hoàng đế Constantine giáo hội mới dành được nhiều ảnh hưởng chính trị. 

2.Các thánh tử đạo Việt Nam

Vài tiêu biểu như sau:

Thánh Anrê Trần Anh Dũng (Lạc) Linh mục (1795-1839) tử đạo ngày 21-12-1839

Anna Lê Thị Thành (Đê) 1781-1841, tử đạo ngày 12 tháng 07 dưới triều vua Thiệu Trị

Khi vào thăm mẹ, cô Nguyễn thị Nụ khóc nức nở khi nhìn thấy tấm áo mẫu thân loang lổ vết máu, nhưng bà Đê âu yếm an ủi: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu sao con lại khóc”.

Một lần viếng thăm khác bà Đê nhắn nhủ: “… Không bao lâu nữa, mẹ con chúng ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”

118 vị thánh tử đạo Việt Nam

Các vị này đã hy sinh mạng sống làm chứng cho Tin mừng trong những đời vua chúa sau đây:

2 vị duới thời chúa Trịnh Doanh (1740-1767)

2 vị dưới thời chúa Trịnh Sâm (1767-1782)

2 vị do sắc lệnh của vua Cảnh Thịnh (1782-1802)

58 vị dưới thời vua Minh Mạng (1820-1847)

3 vị dưới thời vua Thiệu Trị (1841-1847)

50 vị dưới thời vua Tự Đức (1847-1883)

Trong thế kỷ 18 và 19 có khoảng 130 ngàn đến 300 ngàn người công giáo bị giết vì đạo.

Nguồn:  TÓM LƯỢC TIỂU SỬ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tom-luoc-tieu-su-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-31171

3.Các thánh trong đời thường

Ngày nay, trong thế kỷ thứ 21 này, ít có người chịu chết thể xác, tuy nhiên vẫn có người tử đạo (chết) vì đức tin, nhưng rất hiếm.

Nhưng mỗi ngày, chúng ta đều có dịp để tử đạo (từ bỏ những cám dỗ xấu xa do lòng ích kỷ của chúng ta). Chúng ta phải bỏ qua tánh nóng giận hay gây gỗ, chịu nhịn nhục, chấp nhận những sự thua thiệt, trái ý, khác với quan điểm của mình. Chấp nhận làm thinh, chịu đựng lời nói khó nghe, sống vui vẻ với người “khó ở” là chúng ta đang đi trên con đường nên thánh đó.

Phải vậy không?

Chúng ta, mỗi người, đều tập làm thánh mỗi ngày? Thì gia đình, cộng đoàn, hội đoàn mới hoà thuận, yên ổn, mới có thể tồn tại được? Có phải không?

Sống tinh thần tám mối phúc thật, khiêm nhường chớ kiêu ngạo, (một trong 7 mối tội đầu), an ủi kẻ âu lo (thương người 14 mối), sống với tinh thần bác ái (giúp đỡ người nghèo khó) và luôn yêu thương và tha thứ như Chúa dạy.

Xét mình thường xuyên, biết ăn năn, sám hối những lỗi lầm của mình để trở thành con cái của Thiên Chúa tình yêu đầy lòng thương xót.

Để chi vậy?

Chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng, “sống như ngày hôm nay là ngày cuối cùng” để lúc nào Chúa gọi thì bình an về với Thiên Chúa tình yêu.

Có phải vậy không?

Phùng Văn Phụng

Ngày 06 tháng 11 năm 2025


 

MÙI ĐẤT, MÙI TRỜI –  Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thiên Chúa thấu biết lòng các ông!”.

“Tôi làm hết sức những gì có thể. Nếu kết thúc của nó tốt đẹp, tôi an lòng, những lời chống đối sẽ không là gì cả. Nếu tôi sai, thì dẫu mười thiên thần cho rằng, ‘Tôi đúng’, điều đó vẫn không tạo nên một sự khác biệt. Chúa biết mọi sự!” – A. Lincoln.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chúa biết mọi sự!”, xác tín của Lincoln được gặp lại qua Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói với các biệt phái, “Thiên Chúa thấu biết lòng các ông!” – những người sống theo ‘thói đất’, đánh bóng chính mình. Ngài muốn họ thanh thoát – rũ ‘mùi đất’, ngát ‘mùi trời!’.

Trong cuộc sống, có những sai lầm khi chúng ta nghĩ về người khác, và cũng bao điều không đúng khi người khác nghĩ về chúng ta. Kết luận của Chúa Giêsu nhắm đến một khuynh hướng chung của nhiều người – tô hồng một bản ngã giả tạo – một ảo tưởng khiến con người khép kín trước chân lý, tha nhân và Thiên Chúa. Ai không dám nhìn vào lòng mình dưới ánh sáng của Ngài, người ấy chỉ lệt đệt ‘ngang đất’. “Nếu không biết mình, bạn sẽ chẳng đâm rễ nơi bản thân; bạn có thể chịu đựng một thời, nhưng khi gặp đau khổ hay bách hại, đức tin của bạn sẽ lung lay!” – Henry Newman.

Chúa Giêsu ‘biết tỏng’ lòng dạ các biệt phái, Ngài cũng ‘biết tỏng’ lòng dạ bạn và tôi! Chúng ta thường tự đề cao, tạo nên một hình ảnh lệch lạc về bản thân. Nhiều đổ vỡ khởi đi từ đó! Vì thế, mấu chốt của đời sống thiêng liêng chính là “biết mình trong ánh nhìn của Thiên Chúa” – cũng là cánh cửa nơi ân sủng đi vào. ‘Biết mình’ giúp chúng ta không còn bận tâm điều Thiên Chúa không bận tâm, nhưng bận tâm những gì Ngài nghĩ về tôi, cuộc sống tôi, linh hồn tôi. “Một khi dám để Thiên Chúa đi vào toàn bộ bản thân run rẩy của mình, bạn càng cảm nhận được rằng, Tình Yêu Ngài – tình yêu hoàn hảo – đuổi hết mọi sợ hãi!” – Henri Nouwen.

Phaolô hiểu rõ điều ấy, ngài nhận ra sự yếu hèn của mình và biết ơn những người đã nâng đỡ ngài trong sứ vụ, “Họ đã liều mất đầu để cứu mạng tôi. Không chỉ mình tôi, mà còn các Hội Thánh!” – bài đọc một. Nhờ sự cộng tác đó, danh Thiên Chúa được chúc khen, “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Chúa biết mọi sự!”. Ngài biết chúng ta ‘từ đất’, ‘thuộc về đất’ và lòng luôn ‘dính đất’; vì thế, với những tiêu chí ‘ngang đất’, chúng ta luôn tìm cho mình những ‘trọng vọng’ theo ‘thói đất’. Không được như vậy, chúng ta chắp vá, vay mượn… chỉ để tạo nên một ‘giá trị rẻ tiền’ nào đó trước người đời. Kết quả, cuộc sống chúng ta đượm ‘mùi đất’ – nặng nề, giả tạm – hơn là toả ‘mùi trời’ – thanh thoát, chân thật. Nhưng ân sủng – không phá huỷ tự nhiên, mà kiện toàn nó – có thể thánh hoá đất ấy. Chính từ ‘phận đất’, Chúa muốn làm bừng dậy ‘hồn trời’; Ngài mơ về chúng ta luôn nhìn vào Chúa Kitô, nên giống Ngài, Đấng sẽ chỉ cho mỗi người cách sống tư cách con trai, con gái của Trời; phần còn lại, Ngài lo!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sống theo thói đất, đượm mùi đất; cho con vương hương mùi trời, xứng với phẩm tính con cái Vua Trời!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ 

Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 16,9-15

9 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thầy bảo cho anh em biết : hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. 10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn ; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. 11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ? 12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?

13 “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.”

14 Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su. 15 Người bảo họ : “Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.”


 

Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc 16:8b)- Cha Vương

Tạ ơn Chúa một ngày mới! Xin Chúa cùng đi với bạn trên mọi nẻo đường hôm nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 7/11/2025

TIN MỪNG: Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc 16:8b)

SUY NIỆM: Trong dụ ngôn người quản gia bất lương Chúa muốn đề cập đến hai loại khôn ngoan—khôn ngoan của Thiên Chúa và khôn ngoan của thế gian. 

    Khôn ngoan của Chúa chỉ nhắm vào một mục đích đơn giản duy nhất đó là quy mọi sự về Chúa. Nó giúp bạn nhìn thế giới từ góc nhìn của Chúa, điều này có thể giúp bạn hiểu được mục đích và kế hoạch của Ngài để rồi vui vẻ sống theo thánh ý Ngài. Người sống trong sự khôn ngoan của Chúa không cho rằng mình hiểu biết mọi sự mà là người chấp nhận những giới hạn của bản thân và cậy dựa vào ‘ơn trên’ trong mọi hoàn cảnh. 

    Còn khôn ngoan của của thế gian thì chỉ nhắm tới các mục đích trần thế, tìm mọi cách để bảo vệ mạng sống mình, chỉ lo kiếm tìm của cải và vinh quang thế gian, mà chẳng bận tâm đến gia nghiệp vĩnh cửu. Thay vì hy sinh cho người khác để được sự sống vĩnh cửu thì họ lại chà đạp nên nhân phẩm người khác để sống.

    Để có được sự khôn ngoan của Chúa, sách Khôn Ngoan có viết: “Bước đầu để đạt tới Đức Khôn Ngoan là thật lòng ham muốn học hỏi. Chăm lo học hỏi là yêu mến Đức Khôn Ngoan. Mà yêu mến là tuân giữ lề luật” (Kn 6:17-18). Ước mong bạn thể hiện sự khôn ngoan của Chúa trong cuộc sống với những hành vi cụ thể dù to hay nhỏ bé.

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha nhân từ, xin lấp đầy tim con khôn ngoan của Chúa để con biết phân biệt được sự lành sự dữ hầu luôn sống xứng đáng với phẩm giá mà Chúa đã tạo nên con. 

THỰC HÀNH: Nói “không” với lọc lừa gian dối của thế gian. 

From: Do Dzung

******************

Sống Một Đời Cho Chúa

40 phi trường bị cắt giảm chuyến bay do chính phủ đóng cửa

Ba’o Nguoi-Viet

November 6, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Hàng chục phi trường lớn khắp nước Mỹ sắp bị cắt giảm chuyến bay do chính phủ vẫn đóng cửa, theo USA Today hôm Thứ Năm, 6 Tháng Mười Một.

Hôm Thứ Tư, ông Sean Duffy, bộ trưởng Giao Thông Vận Tải, loan báo 40 phi trường lớn sẽ bị cắt giảm 10% chuyến bay. Trước đó trong tuần này, ông cảnh báo chuyến bay có thể bị cắt giảm do nhân viên kiểm soát không lưu đang chịu nhiều áp lực.

Hành khách xếp hàng tại Phi Trường Quốc Tế George Bush ở Houston, Texas, hôm Thứ Năm, 6 Tháng Mười Một. (Hình: Brandon Bell/Getty Images)

“Sẽ có thêm chuyến bay bị hủy, nhưng chúng tôi sẽ phối hợp với hãng hàng không để làm việc này sao cho có thệ thống,” ông Duffy cho hay trong buổi họp báo hôm Thứ Tư.

Ông Bryan Bedford, giám đốc Cơ Quan Hàng Không Liên Bang (FAA), cũng cho biết cơ quan này sẽ làm việc với hãng hàng không về cách cắt giảm chuyến bay.

“Chúng tôi sẽ không làm bất cứ điều gì gây mất an toàn cho việc đi lại bằng phi cơ ở Mỹ,” ông Bedford khẳng định.

FAA cảnh báo hàng loạt phi trường lớn, bao gồm ở thành phố New York, Atlanta và Los Angeles, sẽ bị cắt giảm chuyến bay từ Thứ Sáu tuần này nếu phía Cộng Hòa và Dân Chủ không đạt thỏa thuận chấm dứt đóng cửa chính phủ, theo CNN. Theo dự trù, có tới 1,800 chuyến bay bị cắt giảm một ngày, AP đưa tin.

Sau đây là danh sách 40 phi trường dự trù bị cắt giảm chuyến bay, nhưng danh sách này có thể thay đổi khi FAA công bố danh sách chính thức, theo ABC News và CBS News.

-Anchorage International (ANC)

-Hartsfield-Jackson Atlanta International (ATL)

-Boston Logan International (BOS)

-Baltimore/Washington International (BWI)

-Charlotte Douglas International (CLT)

-Cincinnati/Northern Kentucky International (CVG)

-Dallas Love (DAL)

-Ronald Reagan Washington National (DCA)

-Denver International (DEN)

-Dallas/Fort Worth International (DFW)

-Detroit Metropolitan Wayne County (DTW)

-Newark Liberty International (EWR)

-Fort Lauderdale/Hollywood International (FLL)

-Honolulu International (HNL)

-Houston Hobby (HOU)

-Washington Dulles International (IAD)

-George Bush Houston Intercontinental (IAH)

-Indianapolis International (IND)

-New York John F. Kennedy International (JFK)

-Las Vegas Harry Reid International (LAS)

-Los Angeles International (LAX)

-New York LaGuardia (LGA)

-Orlando International (MCO)

-Chicago Midway (MDW)

-Memphis International (MEM)

-Miami International (MIA)

-Minneapolis/St. Paul International (MSP)

-Oakland International (OAK)

-Ontario International (ONT)

-Chicago O`Hare International (ORD)

-Portland International (PDX)

-Philadelphia International (PHL)

-Phoenix Sky Harbor International (PHX)

-San Diego International (SAN)

-Louisville International (SDF)

-Seattle/Tacoma International (SEA)

-San Francisco International (SFO)

-Salt Lake City International (SLC)

-Teterboro (TEB)

-Tampa International (TPA)

Hôm Thứ Tư, USA Today liên lạc với một loạt hãng hàng không về việc cắt giảm chuyến bay.

Trong thông báo nội bộ gửi nhân viên và được chia sẻ với USA Today, ông Scott Kirby, tổng giám đốc United Airlines, cho hay hãng này chỉ cắt giảm chuyến bay cấp vùng và chuyến bay nội địa nào không liên hệ với phi trường chính của họ.

Ông Kirby cho biết hành khách nào bay trong thời gian chuyến bay bị cắt giảm sẽ hội đủ điều kiện được hoàn tiền nếu không muốn bay “cho dù chuyến bay của họ không bị ảnh hưởng.” Cả hành khách mua vé loại không được hoàn tiền cũng hội đủ điều kiện được hoàn tiền.

American Airlines (AA) loan báo họ dự trù “đại đa số” hành khách của họ sẽ không bị ảnh hưởng. “Khi nào lịch bay có thay đổi, chúng tôi sẽ chủ động liên lạc với khách hàng bị ảnh hưởng,” AA cho hay. Hãng này cũng kêu gọi “giới lãnh đạo ở Washington” chấm dứt đóng cửa chính phủ.

Southwest Airlines cho biết họ “đang đánh giá kế hoạch cắt giảm chuyến bay của FAA ảnh hưởng ra sao đối với lịch bay của chúng tôi và sẽ liên lạc trực tiếp với khách hàng càng sớm càng tốt.”

Trả lời khách hàng trên mạng xã hội X, JetBlue lưu ý, “Vui lòng để ý chuyến bay của quý vị có bị ảnh hưởng hay không, quý vị sẽ nhận được email càng sớm càng tốt. Chúng tôi cảm ơn quý vị đã thông cảm.”

Delta Air Lines chuyển câu hỏi của USA Today cho Bộ Giao Thông Vận Tải và FAA.

Allegiant và Spirit chưa trả lời câu hỏi của USA Today. (Th.Long) [kn]