DÁM NGÃ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!”.

William Wilberforce viết, “Tôi đã sống quá nhiều cho chính trị; vì thế, linh hồn tôi chết đói, còm cõi và gầy gò!”. Sau một thất bại ê chề trên chính trường, ông tâm sự, “Tôi đã quá tằn tiện với Chúa”. Và ông kết luận, “Chúa cho phép tôi ngã!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chúa cho phép tôi ngã!”. Thật không? Vâng, không để huỷ hoại, nhưng để con người dám ngã và thôi bám vào những ảo tưởng. Tin Mừng hôm nay cho thấy, Maria đã ‘dám ngã’ trong tiếng “Xin vâng”; và chính nơi đó, ơn cứu độ mở ra.

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!”. Tiếng “Xin vâng” ấy không được thốt lên trong hào quang quyền lực, đó là lời thưa từ đáy thân phận – một thiếu nữ nhỏ bé, không quyền lực, không bảo đảm, không lối thoát. Xưng “nữ tỳ” là chấp nhận bị sai khiến, hiểu lầm, nghi ngờ và loại trừ. Trước mắt người đời, đó là một cú trượt dài; nhưng trước Thiên Chúa, đó là một cú ngã được chấp nhận, nơi ơn cứu độ bắt đầu. “Bạn phải tiến bước bằng hai đầu gối!” – Hudson Taylor.

Thế mà, cuộc ‘dám ngã’ ấy không bộc phát. Từ ngàn xưa, qua Isaia, Thiên Chúa đã hứa một dấu chỉ, không đến từ sức mạnh, nhưng từ một trinh nữ mang thai, sinh hạ Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta – bài đọc một. Và ‘Đức Vua vinh hiển’ Thánh Vịnh đáp ca nói đến, đã không bước vào bằng cổng quyền lực, nhưng bằng cánh cửa khiêm hạ của một nữ tỳ với tấm lòng dám mở ra. Chúa không chọn những người hoàn hảo, Ngài chọn những con người ‘có thể gãy’; không xây dựng lịch sử bằng những kẻ không ngã, nhưng bằng những người dám để Ngài bước vào đúng chỗ mình ‘dễ sụp đổ’ nhất. Truyền Tin không xảy ra trong đền thờ, giữa cung điện, nhưng trong một không gian kín, nơi một nữ nhi đối diện với nỗi sợ sâu kín nhất của mình. “Thật dịu ngọt khi trở thành không là gì, ít hơn cả không, để Đức Kitô có thể là tất cả trong mọi sự!” – David Brainerd.

Maria không kiểm soát được điều gì sau tiếng “Xin vâng”, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, phải giải thích làm sao, mình sẽ được bảo vệ hay bị ném đá? Nhưng chính trong sự mất kiểm soát ấy, Maria đã ‘dám ngã’ khỏi mọi bảo đảm quen thuộc, để Thiên Chúa tự do hành động. Cứu độ không bắt đầu khi con người nắm chắc mọi sự, nhưng khi họ buông tay. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”. Thiên Chúa không áp đảo, không chiếm đoạt, không bạo lực, Ngài bao phủ như bóng râm – không xoá đi mong manh, nhưng biến mong manh thành lối Ngài đi. Ơn cứu độ không đi vòng tránh sự mong manh của con người; nó đi xuyên qua đó!

Anh Chị em,

Chúng ta thường muốn theo Chúa mà không phải trả giá, muốn trung tín mà không phải rơi, muốn “Xin vâng” mà vẫn đứng vững. Nhưng Tin Mừng hôm nay nói rõ: không có “Xin vâng” nào mà không manh nha một rủi ro ngã xuống nào đó. Và có những cú ngã được Thiên Chúa cho phép, vì nếu không ‘dám ngã’, con người không bao giờ thuộc trọn về Ngài. “Khi chúng ta chẳng còn gì ngoài Thiên Chúa, ta mới nhận ra Ngài là đủ!” – Benson Idahosa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con yếu, con sợ, con dễ vỡ. Nếu cần, xin cho con ‘dám ngã’ để thôi bám vào chính mình!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

********************************

Lời Chúa Ngày 20/12, Thứ Bảy Tuần III Mùa Vọng

Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,26-38

26 Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

30 Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?”

35 Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà ; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37 vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.


 

ĐÁM CƯỚI KHÔNG CÔ DÂU…..! Truyen ngan cam dong

Xuyên Sơn

 ĐÁM CƯỚI KHÔNG CÔ DÂU…..!

Trong những thất bại của nghề áo trắng của tôi có lẽ thất bại sau đây là tôi ghi nhớ nặng nề nhất khi đã không cứu được người để xảy ra một thiên tình hận suốt đời.

Đó là một cô dâu của một đám cưới vẫn xảy ra khi cô còn đang nằm viện và sau đó không bao giờ trở về khoác lên chiếc áo cưới đó….!

Nhiều năm sau chiếc áo cưới đó vẫn còn nằm trên bàn thờ…!

Những thầy thuốc nhiều khi quá bận rộn, không còn thời gian để nhìn ngắm những khổ đau của kẻ khác trên con đường mình đi qua.

Chỉ có tôi, là kẻ lạc loài khi đi qua còn quay lại nhìn những con người và số phận của họ khi mà bất hạnh từ đâu rơi xuống.

Định mệnh tàn khốc trên số phận con người, có lẽ đó là điều khiến cho thế nhân luôn sống trong đau thương tiếp nối đau thương và những giây phút vui tươi của con người phải chăng chỉ là những phút giây ngắn ngủi vô cùng trong vòng quay của cuộc sống…?

Năm đó tôi được giao cho chức vụ Bác sĩ trưởng khoa cấp cứu hồi sức.

Khoa hồi sức cấp cứu luôn là tuyến lửa cho tất cả nhân viên bệnh viện.

Bệnh nặng, theo dõi liên tục, số lượng nhiều luôn luôn làm cho nhân viên bơ phờ mệt mỏi vì quá tải.

Các nhân viên trong khoa tôi phụ trách thường là những người trẻ, khỏe, nhiệt tình, kinh nghiệm và nhất là có lòng thương người.

Có điều khá kỳ lạ là quá hai phần ba  nhân viên lại…. ăn chay trường.

Có lẽ tiếp xúc gần kề giữa cái sống và chết, họ phần nào thiên về tâm linh.

Tôi cũng không hỏi vì tôn trọng quan niệm riêng của mỗi người….!

Hôm đó là một buổi sáng cuối trung tuần tháng chạp âm lịch.

Những ngày cuối năm mọi người hối hả dọn dẹp, sửa sang nhà cửa để đón năm mới, quên đi những vất vả lo toan của một năm sắp hết.

Bệnh nhân giảm đi thấy rõ ở các khoa nội trú, chỉ trừ phòng hồi sức cấp cứu.

Các nhân viên ngồi tán gẫu với nhau bàn chuyện mua sắm đồ tết.

Đột nhiên người ta đưa đến một cô gái rất trẻ, chỉ độ mười chín, hai mươi với gương mặt tái nhợt, nồng nặc mùi thuốc sâu, nghe qua là biết loại phospho hữu cơ.

Lập tức tôi cho rửa dạ dày ngay. Nhìn màu nước trắng như sữa bò trào ra khi cô gái nôn thốc, tôi lắc đầu.

Xin nói ngay là tôi đang đại diện Bệnh viện làm một đề tài nghiên cứu khoa học về ngộ độc thuốc sâu trong 5 năm  1976-1980 với trên 300 ca.

Do đó chỉ nhìn lượng nước rửa , màu sắc, mùi có thể ước đoán số lượng thuốc uống và qua đó dự hậu của bệnh nhân.

Kẻ nào uống hơn 100cc thì tỉ lệ tử vong có thể hơn 90%…!

Với khối lượng lớn, thuốc vượt qua hàng rào máu não gây tử vong dễ dàng vì ngày xưa ta chỉ dùng chống độc bằng Atropin, chất này chỉ hòa tan trong nước, không vào não được.

Thời này đã có Pralidoxim nhưng ở VN chưa bệnh viện nào đưa vào sử dụng.

Tôi cho rửa dạ dày thật sạch cho đến khi nước trong, hết mùi hôi đồng thời tiêm 2mg chống độc mỗi 5-10 phút cho đến khi không còn nghe khò khè do sự tăng tiết đàm dãi, và đồng tử phải dãn > 3mm.

Sau đó cứ mỗi 15-20 phút lại tiêm 2mg chống độc liên tục trong suốt ngày.

Đến chiều hôm đó cô gái khỏe khoắn trở lại, ngồi dậy được.

Đó là một cô gái trẻ, vóc dáng thon thả với khuôn mặt xinh xắn nhưng đượm nét buồn khôn tả.

Và lúc đó tôi mới biết nguyên nhân của việc làm dại dột kia.

Cô gái chuẩn bị lên xe hoa nhưng gia đình cô chê anh chồng sắp cưới không môn đăng hộ đối.

Hai người quen nhau trong những sinh hoạt văn nghệ xóm phường, nhưng gia đình anh thanh niên thì nghèo.

Lời ra tiếng vào, nhất là bà chị cô gái rất khinh bỉ gia đình em rễ tương lai.

Chịu không nỗi sự nhục mạ đó, một đêm về sáng cô uống cạn chai thuốc sâu có sẵn trong nhà…

Ngày hôm sau cô gái đã ngồi dậy đi từng bước khó khăn, nhưng có thể đi tiêu tiểu được với sự hỗ trợ của người nhà.

Gặp tôi cô cúi đầu, nói từng tiếng tuy yếu ớt nhưng rõ ràng:

-Em cảm ơn Bác sĩ đã cứu em.

Bây giờ em sợ chết lắm vì sẽ bỏ chồng em, bỏ mẹ cha.

Ngày mai là ngày đám cưới, hai bên họ đã mời rồi. Chắc phải tiến hành đám cưới không cô dâu thôi.

-Cô cứ nghĩ ngơi,.Tình trạng của cô vẫn chưa an toàn đâu. Chúng tôi còn phải theo dõi cho đến một tuần…

Theo đề tài nghiên cứu của tôi thì tình trạng ngộ độc tái diễn của thuốc sâu khi dùng atropin đối kháng có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong vòng 3-6 ngày sau khi uống.

Do đó tôi hết sức theo dõi cô gái ngộ độc trở lại. Tôi cứ cho tiêm atropin liên tục với liều cao mỗi 30 phút, duy trì một tình trạng ngộ độc nhẹ atropin cho cô gái.

Ngày thứ ba, đám cưới vẫn tiếp diễn, họ hàng ai cũng nghĩ rằng cô sẽ trở về, dù muộn và ai cũng cầu nguyện cho cô sớm hồi phục…

Một đám cưới không cô dâu có lẽ đó là đám cưới kỳ lạ nhất trên đời.

Ngày thứ tư sau khi nhập viện, vì dùng atropin liên tục, mặt cô lúc nào cũng đỏ hồng, tim nhanh, môi miệng khô khan, nứt nẻ, khát nước.

Cô vẫn còn yếu, phải ngồi tựa vào thành giường, tuy vậy khi gặp tôi đến cô nhoẻn miệng cười yếu ớt, nụ cười buồn rầu:

-Em không muốn chết… Em dại dột vì quá bức xúc. Bác sĩ làm ơn cứu em, mấy đêm nay em không ngủ được, dường như có ai đó muốn rủ em đi khỏi thế gian này…

Tôi rùng mình nhẹ. Phòng cấp cứu hồi sức này, gần như ngày nào cũng có người chết, có khi trong vòng một ngày đêm tới ba bốn người tử vong, khi giao ban sáng, mất cả giờ báo cáo với lãnh đạo.

Nếu ta có cặp mắt thần có thể thấy cả ngàn bóng ma lởn vởn khắp nơi….!

Ngày nào cũng vậy kể cả ngày ra trực, sáng, chiều tôi luôn đến thăm bệnh, khuyên nhủ, theo dõi ăn uống và nhất là tiếp tục tiêm atropine liều cao dù chưa thấy tình trạng ngộ độc tái phát.

Theo kinh nghiệm riêng của tôi và theo y văn, thà để bệnh nhân ở tình trạng ngộ độc nhẹ atropin còn hơn bị tái ngộ độc thuốc sâu.

Tôi dặn nhân viên cho cô gái nằm ở một góc riêng, theo dõi sát các diễn biến….

Ngày thứ năm, tình hình sức khỏe cô gái xấu đi dù không có triệu chứng tái ngộ độc thuốc sâu.

Hơi thở vẫn thông, không có dấu hiệu tăng tiết, ngạt. Tuy nhiên cô đi không nỗi phải dìu.

Huyết áp dao động nhẹ nhưng vẫn trong mức an toàn.

Ngày đó là ngày cuối tuần.

Hôm sau tôi phải về quê đi đám giỗ Cha mình vào đúng ngày chúa nhật.

Thứ Hai, khi đến Bệnh viện việc đầu tiên là tôi đến thăm ngay cô gái.

Chiếc giường trống trơn.

Tôi bàng hoàng khi nghe nhân viên báo cáo: cô đã mất vào trưa ngày chúa nhật.

Bao nhiêu cố gắng đã trôi theo dòng nước, tôi bàng hoàng một lúc lâu mới trấn tĩnh.

Cầm lấy bệnh án tôi xem lại thì thấy Bác sĩ trực ngày Chúa nhật đã cắt bỏ, không tiếp tục tiêm Atropine vì thấy sức khỏe cô kém quá và cũng do thấy đã khá lâu không còn dấu hiệu ngộ độc lại.

Cô chết đi trong tình trạng suy tim, suy kiệt.

Cô vẫn còn tỉnh táo cho đến phút giây cuối cùng khi thần chết đến đón mình đi….!

Một tuần sau, tôi đón tiếp hai con người buồn rầu đau thương đến nhà riêng của mình, trong lúc pháo nổ lác đác ngoài ngõ.

Đó là chú rể mồ côi vợ và mẹ cô gái.

Hai người đến cám ơn tôi và cho biết sau đám tang, đồ cưới cô gái đặt cả lên bàn thờ.

Ngày cô ra đi cô vẫn lúc nào cũng dõi mắt đau đáu nhìn ra cửa bệnh viện, có lẽ cô mong chờ tôi, vị cứu tinh mà cô tin tưởng sẽ đem lại cho cô một cuộc đời làm vợ, làm mẹ như bao cô gái khác.

Tôi đã không hoàn thành được kỳ vọng của cô…!

Ngay cả đến bây giờ sau ba mươi năm tôi vẫn còn hoài nghi, nếu mình không về quê thì có cứu được cô gái đáng thương đó hay không…?

Tôi đành thì thầm nhủ gửi không gian  cô tịch những lời khấn vái:

“Em ơi hãy tha lỗi cho tôi, tôi đã không làm tròn lời hứa với em, đã không giành giựt được em khỏi tay thần chết, đành để em ra đi với một tình yêu không trọn vẹn.

Kiếp sau nếu có, em hãy trở lại cuộc đời với một số kiếp tươi đẹp hơn….!”

Đối với những người tự tử, thái độ thông thường của nhân viên y tế là không thích, ghét bỏ ra mặt.

Trong khi mệt nhọc vì những bệnh nhân muốn sống khác thì những kẻ tìm cái chết này tạo một gánh nặng thêm cho những thày thuốc.

Nhưng trong câu chuyện trên chúng ta thấy thật đáng thương cho con bệnh, chỉ vì một phút kém suy nghĩ mà đánh mất tất cả.

Vì thế, đối với tất cả bệnh nhân dù là tự tử, ta phải có lòng bao dung như mẹ hiền…!

Có một câu danh ngôn: “Đối với thiên nhiên ta nên có trái tim của một đứa trẻ thơ, đối với nhân loại nên có trái tim của một người mẹ, đối với bản thân ta phải có trái tim của vị quan  tòa….!”.

(Bs Dung Le Ngoc)

Nguồn fb Đinh Trực


 

Nhà toán học John Nash

Lê Vi

Trong hình là nhà toán học John Nash. Ông từng là giảng viên của Princeton và MIT. Nhưng sau đó ông bị tâm thần hoang tưởng và phải nhập viên từ 1959. Tới 1970, ông ra khỏi bệnh viện tâm thần và nhất quyết không quay lại nữa.

Trường Princeton mời ông quay lại trường. Từ đó “người ta thường thấy một người đàn ông gày xơ xác, tóc tai bơ phờ, mắt đờ đẫn không hồn, suốt ngày lang thang trong khuôn viên ĐH Princeton như một bóng ma, đôi lúc dừng lại trước những tấm bảng đen trong vườn và cặm cụi viết lên đó hàng tá công thức toán học kỳ quặc.”

Có người không hiểu trêu chọc ông. Nhưng phần lớn bênh vực ông và để ông thoải mái làm gì thì làm. Ông về ở với vợ cũ, bà chăm sóc ông. Đồng nghiệp cũng cố gắng giúp ông chút nào hay chút đó.

Cứ vậy cho tới tận cuối thập niên 80, ông tỉnh dần.

Năm 1994, theo đề nghị của những nhà khoa học là bạn ông, người ta tìm lại đề cử giải Nobel cho Lý thuyết trò chơi bất hợp tác của ông đã có từ 1985. Mà lẽ ra ông đã nhận giải nếu không bị bệnh.

Cuối cùng, ngày 11 tháng 10 năm 1994, Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tuyên bố: ba nhà khoa học John F. Nash Jr., John C. Harsanyi (quốc tịch Mỹ) và Reinhard Selten (Đức) được trao giải Nobel Kinh tế “vì các phân tích mở đường của họ về khái niệm cân bằng trong lý thuyết Trò chơi bất hợp tác.”

Trong lý lịch tự khai gửi Ủy ban Nobel, Nash viết: sau 25 năm gián đoạn suy nghĩ, giờ đây ông tin rằng mình có thể đạt được một số giá trị nào đấy qua các nghiên cứu hiện nay của ông hoặc với bất kỳ ý tưởng mới nào sẽ đến trong tương lai.”

Các nhà làm phim Mỹ năm 2001 có làm một bộ phim vinh danh ông, tên là Một tâm hồn đẹp ( A Beautiful Mind). Một phim tiểu sử rất hay. Bộ phim ra mắt tại các rạp chiếu phim của Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 12 năm 2001 và thu về $313 triệu trên toàn cầu và thắng 4 giải Oscar

______________-

Câu chuyện về Jonh Nash chỉ là một trong số rất nhiều câu chuyện về các thiên tài.

Họ có thể mắc nhiều tật bệnh. Thậm chí với nhiều người là bệnh di truyền qua vài đời. Tuy nhiên họ vẫn làm ra những thành tựu khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa… thuộc loại cực đỉnh trên thế giới.

Điều đó cho thấy thuyết ưu sinh là một thứ rác rưởi vì phản khoa học và không có nhân tính.

Tinh hoa chính là một món quà bất ngờ của Thượng đế ban tặng cho con người. Điều này đã được minh chứng qua mấy ngàn năm lịch sử.

Hình vợ chồng ông bà John Naáh

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

Người tù thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu

Phạm Thanh Nghiên

 Hôm nay 19/12/2025, tròn 3 năm “người tù thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu về với Chúa.

Trong 75 năm hành trình dương thế, ông đã trải qua 37 năm bị đoạ đày sau song sắt, trở thành người bị cầm tù lâu nhất tại Việt Nam. Với kỷ lục bất đắc dĩ này, ông đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, như một bằng chứng không thể chối cãi về tội ác của ch.ế đ.ộ c.ộ.n.g sả.n đối với đồng bào mình.

Xin cầu cho linh hồn ông Gio-an Bao-ti-xi-ta được hưởng nước Thiên đàng.


 

Người đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.” (Lc 1:25)-Cha Vương

Một ngày tràn đầy niềm vui và ấm áp tình người nhé.

Cha Vương

Thứ 6 T3MV: 19/12/2025. (t5-24)

TIN MỪNG: “CHÚA đã làm cho tôi như thế đó, khi Người đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.” (Lc 1:25)

SUY NIỆM: Ông Da-ca-ri-a là một người công chính trước mặt Chúa. Một ngày kia ông Da-ca-ri-a đang lo việc tế tự trước nhan THIÊN CHÚA khi đến phiên của nhóm ông Theo tục lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của ĐỨC CHÚA. Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài. Sứ thần Gáp-ri-en của CHÚA hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và phát sợ. Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì THIÊN CHÚA đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan vì con trẻ chào đời. Vì em sẽ nên cao cả trước mặt CHÚA. 

   Trong hành trình đức tin của mỗi người, giống như ông Da-ca-ri-a, có lẽ bạn không thể nào tránh khỏi những lần bạn đã nghi ngờ, bối rối, cứng lòng, tỏ vẻ kém đức tin và không hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Kinh nghiệm mục vụ cho thấy trong thế giới ảo hiện nay con người đang dần dần từ bỏ Chúa. Đạo nghĩa là chuyện của người già. Họ sống như thể không bao giờ chết, rồi cuối cùng chết đi như thể chưa từng sống bao giờ. Thật là một điều đáng tiếc! Họ chọn lối sống “5 vờ” (Vội Vã Và Vô Vị) và đánh mất đi khả năng biết chậm lại để cảm nhận cuộc sống này là một món quà tuyệt đẹp Chúa dành cho mỗi người. Vì không cảm nhận được cho nên họ không trân quý những gì tầm thường nhất băng qua đời họ: Một bông hoa dại ven đường, một tiếng chim kêu thánh thót, một nghĩa cử đẹp nơi người thân, hay như một bữa cơm thanh đạm đầy tình thương gia đình, một nụ cười to, một điểm tựa với người đang đau khổ cần một bờ vai. V.v. Ngày Chúa Giáng Sinh đã gần kề, đây là thời điểm thuận tiện nhất bạn cần phải chậm lại để nhớ lại những việc Chúa đã làm mà sống đúng ý nghĩa sâu sắc của bài thánh ca: “ĐẾN MUÔN ĐỜI… con cảm tạ ơn Chúa.” “CHÚA đã làm cho tôi như thế đó!”

LẮNG NGHE: Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, xin mau đến cùng con, lạy Thiên Chúa! Ngài là Đấng phù trợ, là Đấng giải thoát con, muôn lạy CHÚA, xin đừng trì hoãn. (Tv 70:6)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa là Đấng giàu tình thường và lòng thành tín, xin giúp con biết chậm lại để chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh với một niềm kính tin toàn vẹn và một lòng vâng phục thẳm sâu.

THỰC HÀNH: Có lẽ bạn đang quá bận rộn mua quà Giáng Sinh cho người khác. Tâm hồn bạn đang khao khát gì vào lúc này? Hôm nay mời bạn hãy chuẩn bị cho tâm hồn mình một món quà Giáng Sinh nhé. 

From: Do Dzung

**********************

Khát Khao || Sáng tác: Lm – Thái Nguyên || Trình bày: Trương Diễm MV 

XỨ THIÊN ĐƯỜNG

Lê Ngọc Công

XỨ THIÊN ĐƯỜNG .

Cụ Bà đi nhặt ve chai mất bên vệ đường.

Một cái chết lặng lẽ và khoảng trống mang tên an sinh xã hội

Một cụ bà gục xuống bên vệ đường, bên cạnh là chiếc bao ve chai cũ kỹ.

Không còi hú, không bệnh viện kịp thời, không người thân bên cạnh.

Chỉ có một cuộc đời khép lại trong im lặng.

Cái chết ấy không phải là tai nạn hiếm hoi. Nó là hệ quả của một hệ thống an sinh xã hội thiếu vắng, nơi người già không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục lao động cho đến khi kiệt sức.

Ở những quốc gia phát triển, tuổi già là giai đoạn được chăm sóc. Người cao tuổi có lương hưu tối thiểu, có bảo hiểm y tế, có dịch vụ chăm sóc tại nhà, có nhà dưỡng lão, có những cơ chế bảo vệ để không ai phải chết trên vỉa hè vì mưu sinh. Xã hội coi việc bảo đảm phẩm giá cho người già là một nghĩa vụ căn bản.

Còn ở Việt Nam, quá nhiều người già không có lương hưu. Họ từng lao động cả đời trong khu vực phi chính thức: bán hàng rong, làm thuê, làm ruộng nhỏ lẻ. Khi sức khỏe cạn dần, họ không có điểm tựa. Không lương hưu. Không trợ cấp đủ sống. Không hệ thống chăm sóc dài hạn. Cuối cùng, họ ra đường—nhặt ve chai, bán vé số, bốc vác—đổi từng đồng lẻ lấy một bữa ăn.

Một xã hội được đo bằng cách nó đối xử với những người yếu thế nhất.

Và người già là thước đo không thể chối cãi.

Khi một cụ bà phải kéo lê tấm lưng còng trên đường phố để nhặt từng chai nhựa, đó không phải là “ý chí vượt khó”. Đó là sự thất bại của chính sách. Khi cụ chết bên vệ đường, đó không phải là “số phận”. Đó là khoảng trống của an sinh xã hội.

Người ta thường nói về tăng trưởng, về chỉ số, về thành tích. Nhưng tăng trưởng nào có ý nghĩa nếu nó không đủ để bảo vệ những người đã cống hiến cả đời? Thành tích nào có giá trị nếu cái kết của tuổi già là một cái chết lặng lẽ giữa phố?

Một bà cụ lớn tuổi đáng lẽ phải được chăm lo—được nghỉ ngơi, được chữa bệnh, được sống những năm cuối đời trong an toàn và tôn trọng. Thay vào đó, bà phải mưu sinh đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là lựa chọn của bà. Đó là lựa chọn mà xã hội đã không làm.

Cụ bà đã ra đi. Nhưng câu hỏi còn ở lại:

Bao nhiêu người già nữa sẽ phải đi nhặt ve chai cho đến khi không còn đứng dậy được?

Và bao lâu nữa, an sinh xã hội mới thôi là khẩu hiệu để trở thành điểm tựa thực sự cho những phận người yếu thế?

Im lặng trước những cái chết như vậy cũng là một hình thức chấp nhận.

Còn lên tiếng, ít nhất, là cách để nhắc nhau rằng: tuổi già không nên là một cuộc mưu sinh đến chết.

Nhật Ký Yêu Nước.

Từ Fb Van Nguyen


 

Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân

Nguyễn Xuân Thu

 – Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân.

– Một người thực sự có học vấn. Luôn luôn khiêm tốn,thật thà, lễ độ

– Người thực sự giàu có. Luôn luôn đơn điệu. Sẽ không gặp ai cũng khoe khoang.

– Người thực sự có đức hạnh. Luôn luôn có huệ tâm. Sẽ không gặp ai cũng thể hiện.

– Người thực sự có trí tuệ. Luôn luôn tan hòa. Sẽ không phô diễn tài năng.

– Người thực sự có phong cách. Luôn luôn tự nhiên. Sẽ không uốn éo giả tạo.

– Một người thực sự có tu tâm. Luôn luôn yên tĩnh. Sẽ không tranh giành trước sau.

– Khi cơn tức giận ập tới là phúc khí đi mất rồi. Cơn giận càng lớn, cơ thể càng yếu. Trí tuệ chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát cảm xúc của chính mình.

Dùng lời nói tổn thương người khác là một hành vi không nên.

Nước sâu thì chảy chậm. Nói chậm là quý nhân….!!!

Nguồn: cuocsongmoi


 

VỀ GIÀ …

VỀ GIÀ …

* Về già, là khi ta có một đôi mắt mờ đi nhưng lại nhìn cuộc đời rõ hơn trước.

Vì có những thứ không thể nhìn bằng mắt thịt, và cũng có những điều không thể nghe bằng tai trần.

* Về già, là khi đôi chân mỏi mệt khi đã bị kéo lê gần hết quãng đường đời nhưng khi ngoái đầu lại ta dường như mới là đứa trẻ ngày hôm qua.

Bây giờ ta bước chậm hơn trước, chắc hơn trước và cũng trân trọng hơn từng cái chạm đất, vì có thể ngày mai ta không còn bước đi được nữa.

* Về già, là khi ta dùng đôi tai điếc của mình để nghe thiên hạ đang xôn xao về chuyện đời và ta biết rằng hơn một nửa trong số ấy không là thật. Bây giờ, âm thanh êm dịu duy nhất chỉ có tiếng chim tiếng gió và những âm thanh còn đọng lại trong lòng ta, của những người ta từng trân quý nhưng bây giờ không còn thể gặp lại nữa.

* Về già, là khi ta nhận ra rằng ta đã may mắn như thế nào khi từng được hít thở không khí một cách thoải mái, vì bây giờ, mỗi hơi thở là một thước đo của sự sống.

Ta thở ra nhưng ta không thể biết có thể hít vào một lần nữa được hay không?

*Về già, là khi những người tri kỷ ta còn ngồi lại cùng ta hoài niệm về một thời xa xưa, tuy là không nhiều.

Âu đó cũng là quy luật tự nhiên, khi ta không còn giá trị, những bằng hữu sẽ rời xa ta, người còn ở lại nhất định ta phải trân quý.

Về già, là khi ta nếm đủ ngọt bùi đắng cay của cuộc đời.

Những thứ làm ta say đắm ngẫm lại vui sướng không là bao nhưng đau khổ lại rất nhiều.

Có những thứ ta cứ tưởng nắm chặt trong tay rồi thì ngày mai lại trôi đi mất.

Cuộc đời như một trò đùa mộng mị mà người chơi phải trả bằng cả tuổi thanh xuân của mình, bây giờ ngẫm lại chỉ toàn là hối tiếc…

Về già, ta ngẫm lại đời mình, thăng trầm mọi nẻo, bao nhiêu người thương ta, bao nhiêu người ghét ta trong cuộc sống lạc loài, trông ngóng ngày mai, chờ đợi mỏi mòn ánh sáng tự do!

Suốt đời quý nhất cũng chỉ là hai tiếng bình yên.

Hạnh phúc cũng không phải là điều gì quá xa vời, nhưng có những người gần lúc cuối đời mới nhận ra được điều đó.

Sưu tầm


 

ĐỪNG ĐỂ SỰ HỐI HẬN LẤP ĐẦY KHOẢNG TRỐNG CỦA YÊU THƯƠNG

 Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

Thứ Ba tuần trước, tôi suýt chút nữa đã đưa mẹ vào một trại dưỡng lão công cộng. Lúc đó tôi vừa giận, vừa kiệt sức. Tôi bị trễ cuộc họp online mất 5 phút, trên tay thì cầm cái hóa đơn viện phí của mẹ còn cao hơn cả tiền trả góp nhà của chính mình.

Tôi quăng chìa khóa lên bàn, càu nhàu với vợ: — Mẹ thật là quá đáng. Hết chê đồ ăn lại quên mất anh là ai. Mà hễ nhớ ra được một tí thì lại nhìn anh cái kiểu… phán xét.

Cuối tuần đó, tôi quyết định bán căn nhà cũ của mẹ. Căn nhà gỗ cổ kính trên phố Elm, nơi lúc nào cũng thoang thoảng mùi hoa oải hương và bụi bặm. Đã đến lúc dọn dẹp tất cả để rảnh nợ mà bước tiếp.

Chiều thứ Bảy, tôi leo lên gác mái, hậm hực tống khứ 50 năm cuộc đời của mẹ vào mấy cái túi rác đen ngòm. Nào là áo khoác cũ, đèn hỏng, đống tạp chí cũ rích… Tôi ném mọi thứ theo nhịp điệu của sự bực dọc: rác này, rác này, rác hết này!

Bỗng nhiên, tôi làm rơi một hộp đựng giày.

Cái hộp đập mạnh xuống sàn, nắp văng ra. Bên trong chẳng có vàng bạc châu báu gì, chỉ toàn là những cuốn sổ tay nhỏ và một xấp giấy tờ buộc bằng sợi thun đã mục nát. Tôi ngồi bệt xuống sàn đầy bụi, liếc nhìn đồng hồ: “Thôi thì xem qua 10 phút vậy.”

Tôi cầm xấp giấy lên đầu tiên. Đó là một tờ biên lai cầm đồ ở trung tâm thành phố. “Nhẫn cưới vàng 14k. Số tiền: 120 USD.” Ngày 12 tháng 6 năm 1998.

Tôi khựng lại. Tháng 6 năm 1998… đó là năm tôi học cuối cấp. Tuần đó tôi cần tiền đặt cọc cho chuyến dã ngoại cuối khóa. Tôi nhớ mình đã van nài mẹ thế nào. Tôi nhớ mẹ chỉ nói: “Để mẹ lo, Michael.”

Ngày đó, tôi cứ tưởng mẹ làm thêm giờ ở tiệm ăn. Tôi đâu biết mẹ đã bán đi thứ duy nhất mà bố để lại trước khi ông bỏ đi.

Tôi mở cuốn sổ tay đầu tiên. Nét chữ run rẩy, vội vã: “Hôm nay ngân hàng lại gọi. Mình bảo họ là séc đang trên đường gửi tới rồi. Thực ra là chẳng có đồng nào cả. Cả tuần nay mình đã nhịn bữa trưa để mua đôi giày đá bóng cho Michael. Thằng bé sướng phát điên khi được vào đội bóng. Lạy Chúa, xin đừng để con thấy con khóc khi về nhà. Mình phải mạnh mẽ lên. Phải là chỗ dựa cho con.”

Tôi mở một cuốn khác năm 2008, năm mà kinh tế sụp đổ. Tôi mất việc, phải lếch thếch dọn về nhà mẹ ở như một kẻ thất bại. Tôi nhớ mình đã gắt gỏng với mẹ, bảo mẹ chẳng hiểu gì về áp lực công việc của tôi cả.

Mẹ viết: “Michael đã về nhà. Thằng bé đang giận dữ với cả thế giới. Tim mẹ đau thắt lại vì con. Mẹ đã ngừng uống thuốc huyết áp để dành tiền mua đồ ăn đầy tủ lạnh. Mẹ muốn con cảm thấy an tâm, muốn con tin rằng mẹ vẫn lo liệu được mọi chuyện. Mẹ sẽ gánh lấy nỗi lo này, để con không phải bận tâm.”

Tôi ngồi đó một tiếng, rồi hai tiếng. Ánh nắng xuyên qua kẽ hở gác mái, soi rõ những hạt bụi đang nhảy múa trong không trung.

Suốt 40 năm qua, tôi đã luôn phán xét người phụ nữ này. Tôi tưởng bà lạnh lùng, cứng nhắc. Tôi tưởng sự im lặng của bà là vì thiếu tình thương. Nhưng hôm nay tôi mới hiểu, sự im lặng đó không phải là trống rỗng. Sự im lặng đó là một tấm khiên.

Mẹ đã một mình hứng chịu hết những đòn roi của nghèo khó, cô đơn và đau khổ, rồi lọc sạch hết thảy để thứ duy nhất chạm đến tôi là sự bình yên. Mẹ che giấu những vết sẹo rỉ máu mỗi khi hóa đơn ập đến hay ký ức ùa về, chỉ để tôi không phải mang gánh nặng trên lưng.

Nhìn những túi rác đen ngòm chứa đựng cả cuộc đời mẹ, một tiếng nấc nghẹn dâng lên cổ họng khiến ngực tôi đau nhói. Tôi phóng xe điên cuồng đến viện dưỡng lão.

Khi tôi bước vào phòng, mẹ đang ngồi trên chiếc xe lăn bên cửa sổ, nhìn ra bãi đậu xe. Mẹ trông nhỏ bé quá. Mái tóc đen dày ngày xưa giờ chỉ còn là một quầng trắng mỏng manh.

Mẹ quay lại, đôi mắt mờ đục nhìn tôi: — Michael hả con? Con ổn không? Trông con… mệt mỏi quá.

Thậm chí là ngay bây giờ. Thậm chí khi trí nhớ đã phai nhạt, phản xạ đầu tiên của mẹ vẫn là lo lắng cho tôi.

Tôi chẳng nói được lời nào. Tôi bước tới, quỳ xuống bên xe lăn và gục mặt vào đôi bàn tay mẹ. Đôi bàn tay thô ráp, da mỏng như giấy. Đôi bàn tay đã lau dọn sàn nhà, ký biên lai cầm đồ và kìm nén nước mắt suốt mấy chục năm qua.

— Tha lỗi cho con, mẹ ơi. Tha lỗi vì con đã không nhìn thấy những gì mẹ làm.

Bạn biết không, mẹ là nhịp đập của yêu thương, là nền móng của sự sống. Tình yêu của mẹ sâu đậm đến mức chẳng có từ ngữ nào, chẳng có sự bồng bột của tuổi trẻ hay sự bận rộn của tuổi trưởng thành nào có thể hiểu thấu.

Chúng ta quá vội vàng phán xét cha mẹ khi họ già đi. Chúng ta đưa họ vào viện này trại nọ. Chúng ta gắt gỏng khi họ chậm chạp, khi họ kể đi kể lại một câu chuyện, hay khi họ trở nên “khó tính”.

Nhưng chúng ta quên hỏi một câu: “Mẹ là ai trước khi có mình?”

Có thể bạn sẽ chẳng bao giờ biết được những trận chiến thầm lặng mà mẹ đã đi qua. Bạn chẳng thể hiểu được mẹ đã phải hy sinh “phần đàn bà” của mình như thế nào để “phần người mẹ” được ra đời.

Đừng phán xét mẹ. Hãy ngồi xuống bên cạnh bà. Nghe mẹ kể chuyện, dù là những chuyện chẳng đâu vào đâu. Hãy nắm lấy đôi bàn tay ấy. Hãy dịu dàng với mẹ như cách mẹ đã nâng niu bạn lúc bạn còn đỏ hỏn. Vì bây giờ, vị trí đã đảo ngược rồi.

Có một sự thật cay đắng mà tôi học được trên sàn gác mái đầy bụi đó: Cách bạn đối xử với mẹ, chính là cách cuộc đời sẽ đối xử với bạn.

Nếu bạn gieo sự thiếu kiên nhẫn và bỏ mặc, bạn sẽ gặt hái một tương lai cô độc. Nhưng nếu bạn trân trọng mẹ, bạn đang mời gọi sự bình an và ân sủng vào định mệnh của chính mình.

Mẹ chỉ có một trên đời. Không có bản nháp, không có phần tiếp theo. Nếu bạn không trân trọng mẹ ngay lúc này, một ngày nào đó, sự hối hận sẽ lấp đầy khoảng trống nơi yêu thương từng ngự trị. Và tin tôi đi, khi những đêm mất ngủ ập đến, thứ làm bạn thao thức không phải là hóa đơn viện phí đâu.

Đó sẽ là sức nặng ngàn cân của những lời chưa nói, những khoảnh khắc đã bỏ lỡ, và những cơ hội cảm ơn mẹ vì những nỗi đau mà mẹ đã giấu kín đằng sau nụ cười.

Hãy gọi cho mẹ đi. Hãy về thăm mẹ đi. Hãy tha thứ và yêu thương mẹ.

Trước khi sự im lặng trở thành vĩnh viễn.

TG Văn Chương

#anhchiquandiemcanhan


 

NHỮNG NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN SAU 1975…- Nguyễn Văn Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Nguyễn Văn Tuấn

Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là “Thời Bao Cấp”. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v…

Tem phiếu:

Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là “chế độ tem phiếu”. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.

Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành). Nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tùy theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.

Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dân bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.

Danh từ “ăn độn” có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70 % để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quý hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quý, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.

Đổi tiền:

Screenshot

Ngày 22 Tháng Chín 1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.

Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”

Đốt sách:

Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu hủy. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.

Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh “lạc hậu” về “tình yêu ủy mị” và “tìm kiếm niềm vui thể xác” đã bị đốt bỏ.

Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80.000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt “văn hóa tư sản”.

Đánh tư sản:

Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.

Đợt X1 khởi động sáng 09 Tháng Chín 1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.

Đợt X2 bắt đầu từ Tháng Ba 1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hỗ trợ.

Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TPHCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.

Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.

Nhà báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10 Tháng Tư 1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.”

“Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. ”

Kinh tế mới:

Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ “Kinh tế mới”, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19 Tháng Năm 1976):

  • Người thất nghiệp
  • Người cư ngụ bất hợp pháp
  • Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa
  • Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
  • Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.

Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc Việt Nam Cộng Hòa tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.

Tù cải tạo:

Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.

Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ tù khoảng hơn 1.000.000 người trên tổng dân số Nam Việt Nam lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500.000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200.000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250.000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60.000 người bị giữ lại.

Theo một bài báo: “Trong số trên 1.000.000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165.000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.

“Thuyền nhân”:

Screenshot

Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.

Chế độ mới áp dụng “chủ nghĩa lý lịch”, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong quy chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lý lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của “gia đình cách mạng” và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của “những sĩ quan cao cấp, hay là người công giáo”.

Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: Vượt biển.

Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưng theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800.000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100.000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là “cao trào” của làn sóng vượt biển.

Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50 %) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10 % người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, “vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa”. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100.000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.

Nguyễn Văn Tuấn


 

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN

Dành cho Bò Đỏ và DLV

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN — GIỜ TÔI ĐÃ GIÀ, ĐÊM NÀO CŨNG SỐNG TRONG ÁC MỘNG†

Năm 1970, giữa cao trào Cách mạng Văn hóa, Trương Hồng Binh mới 16 tuổi nhưng đã là một hồng vệ binh cuồng tín. Với cậu, Mao Trạch Đông là chân lý tuyệt đối, còn mọi nghi ngờ đều là tội ác. Một buổi tối trong gia đình ở An Huy, khi tranh luận về sách vở, mẹ cậu – bà Phương Trung Mưu – buột miệng nói rằng có những câu người ta gán cho Mao thực ra không phải do Mao viết, và việc thần thánh hóa lãnh tụ là không bình thường. Chỉ vài câu nói ấy thôi cũng đủ làm không khí trong nhà nổ tung. Đối với người mẹ, đó có thể chỉ là lời than mệt mỏi; nhưng với cậu con trai đã được giáo dục bằng đấu tranh giai cấp, đó là lời “phản cách mạng” không thể tha thứ.

Cơn phẫn nộ nhanh chóng biến thành hành động. Trương Hồng Binh cùng cha mình viết đơn tố cáo chính người mẹ, người vợ trong gia đình, lên chính quyền địa phương. Không yên tâm, cậu còn tự tay viết thêm một bản tố cáo khác, đeo huy hiệu hồng vệ binh, lén gửi để chắc chắn vụ việc không bị bỏ qua. Chỉ trong một đêm, ranh giới giữa mẹ và “kẻ thù giai cấp” bị xóa sạch. Ngày hôm sau, bà Phương Trung Mưu bị bắt.

Vài tuần sau, tại một buổi “đấu tố” công khai với hàng nghìn người, bà bị trói, treo bảng “phản cách mạng” trước ngực, ép quỳ giữa quảng trường. Bản án được tuyên rất nhanh: tử hình, thi hành ngay. Khi đoàn xe chở bà ra pháp trường, Trương Hồng Binh đứng trong đám đông nhưng không dám tiến lên. Người mẹ bị bắn chết, còn cậu con trai – người đã góp phần đẩy bà đến cái chết – chỉ biết đứng chết lặng, vừa sợ hãi vừa trống rỗng.

Bi kịch không kết thúc ở đó. Gia đình tan nát, cha mẹ ly hôn trên giấy tờ để “cắt đứt quan hệ với kẻ phản cách mạng”, bản thân Trương Hồng Binh và cha cũng bị xã hội xa lánh. Nhiều năm trôi qua, khi Cách mạng Văn hóa kết thúc và sự cuồng tín dần lắng xuống, ông mới bắt đầu hiểu điều mình đã làm. Ông viết đơn, viết hồi ký, cố xin phục hồi danh dự cho mẹ, thú nhận rằng ngày ấy ông đã đặt khẩu hiệu lên trên tình mẫu tử.

Giờ đây, khi đã già, Trương Hồng Binh nói rằng mỗi đêm ông vẫn mơ thấy mẹ. Trong những cơn ác mộng ấy, không có khẩu hiệu, không có quảng trường, chỉ có ánh mắt của người phụ nữ đã sinh ra ông – ánh mắt của một người mẹ trước khi bị chính con mình đẩy ra trước họng súng. Đó là bản án không tòa án nào tuyên, nhưng kéo dài suốt phần đời còn lại.

https://hk.aboluowang.com/2021/0308/1565844.html

Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1:23-24)- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Ước mong bạn cảm thấy mình được yêu thương và được đón nhận bởi Thiên Chúa đang “ở cùng chúng ta” hôm nay.

Cha Vương

Thứ 5 T3MV: 18/12/2025. (t4-24)

TIN MỪNG: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1:23-24)

SUY NIỆM: Mùa Giáng Sinh, mùa của hy vọng, an bình và niềm vui, đang đến gần, bạn hãy cố gắng đừng để những tổn thương của quá khứ làm bạn cáu kỉnh, khó chịu hoặc căng thẳng—thay vì mong đợi sự ra đời của Hoàng Tử Bình An. Như Thánh Giuse và Đức Mẹ đã một lòng một dạ “xin vâng” với Chúa, bạn hãy noi gương các ngài sống lời “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, hãy dừng lại và suy gẫm mầu nhiệm Cứu Độ—Ngôi Hai Thiên Chúa có mặt sống động với chúng ta “ở đây và lúc này” giữa một xã hội đầy xáo trộn, đe dọa, một thế giới ngập tràn thử thách… Mời bạn hãy cầu nguyện cho nhau để chúng ta biết hết lòng tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa của ngay trong lúc chúng ta đang bị lo lắng, cáu kỉnh, bối rối dằn vặt.

LẮNG NGHE: Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. (Is 9:5)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là Đấng từ bi và giàu lòng xót thương, xin mở lòng con để con chuẩn bị đón Chúa cho xứng đáng. Xin giúp con biết loại bỏ những cảm xúc không lành mạnh đang làm con xa lìa Chúa và anh em.

THỰC HÀNH: Tặng cho người thân yêu của mình món quà “tha thứ” hôm nay nhé.

From: Do Dzung

************************

Ở Lại với Con – Hiền Thục