Thương nhớ buổi tựu trường

  Thương nhớ buổi tựu trường

Tạp ghi Huy Phương

Ngày tựu trường. (Hình: Dân Trí)

Chúng ta, nhiều người không có một ngày tốt nghiệp với mũ áo ra trường, nhưng ai cũng có một ngày “Hôm nay tôi đi học!” Kỷ niệm đó thật đã xa vời, dễ chừng là đã năm mươi, sáu mươi năm hay đã bảy mươi năm dài tùy theo tuổi tác của mỗi người.

Bạn còn nhớ gì trong buổi tựu trường ngày xưa ấy với những hớn hở hay lo âu, chiếc áo mới còn thơm mùi băng phiến, tập vở mới, chiếc bình mực tòn ten trên tay và bàn tay, chỉ sau một buổi học đầu tiên, đã dính mực ra dáng học trò.

 

Ngày thơ ấu, chúng ta còn nhớ đến ba đoạn văn của ba tác giả về ngày tựu trường.

Trong chúng ta, với tuổi “cổ lai hy,” không ai là không biết đến đoạn văn “Tôi đi học,” của nhà văn Thanh Tịnh một thời, vẫn nằm trong trí nhớ, ghi lại “những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường:”

“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học!”

Tôi còn nhớ đến Tâm Hồn Cao Thượng (Emond de Amicis – Hà Mai Anh dịch,) với những câu gần như đã nằm lòng: “Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng Hè đã thoáng qua như giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi đưa tôi vào trường Bá Lệ Tư để ghi tên lên lớp ba…” Và thoang thoảng như bên tai, lời thầy giáo cũ của nhân vật bé bỏng này: “An Di ơi, thế là thầy trò ta không còn gặp nhau nữa!”

Anatole France, nhà văn Pháp với hình ảnh cậu học trò chân sáo, tung tăng đi qua khu vườn Luxembourg, lúc lá vàng rơi từng chiếc trên bờ vai của những pho tượng trắng. Đoạn văn bắt đầu bằng dòng chữ “Je vais vous dire ce que me rappellent tous les ans…” mà chúng tôi phải học thuộc lòng để “trả bài” cho thầy giáo. Cậu bé trong câu chuyện chính là cái bóng của chính Anatole France cách ngày ông nhớ lại đã hai mươi lăm năm, còn chúng ta, ngày tựu trường xa xôi ấy, dễ chừng đã hơn nửa thế kỷ.

Những nhân vật ngày đó gần gũi với chúng ta, như là người mẹ “âu yếm nắm tay tôi” của Thanh Tịnh hay như thầy giáo mới, ông Bích Niên trong “Tâm Hồn Cao Thượng” ngày nay đã không còn hiện diện trên thế gian này nữa. Chuyến tàu đời đã đỗ lại bao nhiêu sân ga, đã có những người xuống tàu và ra đi biền biệt không một lần gặp lại. Rồi chúng ta đã đóng vai người cha, người mẹ, ông hay bà, đưa con, cháu đến trường, để bùi ngùi nhớ lại một “ngày ấy đã xa rồi!”

Chúng ta có biết bao nhiêu bạn bè trong lớp cũ với những nỗi chia ly, những cô bạn học bỏ lớp lên xe hoa đi lấy chồng, những người bạn ra chiến trận không có ngày về, cuộc đời như nhánh sông chia làm trăm ngả. Những người bạn chung lớp này xưa ấy, mỗi người mang một số phận, nhất là ngày đất nước tan hoang sau cơn đại hồng thủy, như bầy chim vỡ tổ, chân trời góc biển, mỗi người một phương. Phải chăng còn sót lại với chúng ta ở cuối đời những người bạn cố tri, già nua, bệnh tật.

Mỗi lần tựu trường là mỗi lần thay đổi, những trang sách mới, lớp học mới, thầy cô giáo mới, và bạn bè mới. Ngày cha tôi đổi nhiệm sở đem gia đình đi đến một thành phố xa lạ khác, nghĩ đến chuyện từ nay không bao giờ gặp lại bạn bè, tôi đã khóc hết nước mắt. Nhưng rồi tuổi trẻ vô tư, mau quên, tôi sớm thích nghi với hoàn cảnh mới, tìm được bạn bè mới. Bây giờ, điều quý hóa trong đời là tình cờ chúng ta lại gặp những người bạn năm cũ, một trong ba vật quý cổ nhân thường nhắc tới là bạn xưa, sách cũ và rượu lâu năm.

Trong cuộc đời, tôi có hai điều hối tiếc, một là dở dang việc học hành quá sớm, như “con chuột chạy đầu sào,” và vì số phận“Dưa leo chấm với cá kèo, bởi con nhà nghèo mới học Normal” (Sư Phạm). Ngày bỏ trường, tôi thường bị ám ảnh bởi những giấc mơ của thời cắp sách. Điều thứ hai là bỏ nghề giáo nửa chừng vì đất nước chiến tranh, thầy hay trò đều chung màu áo trận, gặp nhau trong quân ngũ, gặp nhau ngoài chiến trường, gặp nhau trong nhà tù vì vận nước, và cuối cùng tái ngộ nơi chốn tha hương khi thầy trò, cả hai, tóc đều đã bạc.

Thưa thầy! Chắc thầy không còn nhớ đến con, con chẳng phải là đứa học trò giỏi giang lanh lợi, hoặc trái lại, là đứa học trò ngỗ nghịch tinh ma để thầy có thể nhớ tên! Con cũng chẳng phải là đứa học trò có danh phận, để có thể trở về thăm thầy mà nói: “Tôi là Carnot (1) đây, thầy còn nhớ tôi không?” Con cũng chẳng có sự nghiệp gì để có thể ngoảnh lại mà khuyên bảo học trò rằng: “…vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo, ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay.”

Những đứa học trò đi qua lớp thầy như những toa tàu qua sân ga, thầy không thể nhớ hết, nhưng những đứa học trò chẳng bao giờ quên thầy!

Chúng ta sẽ không bao giờ còn được một ngày “Back to school” nữa! Hôm nay ngoài phố xá, trong các cửa tiệm, nhìn những đứa trẻ hớn hở, phấn khởi đi sắm sửa dụng cụ ngày trở lại trường cùng với cha mẹ, chúng ta nghĩ gì? Cả một thời gian đã trôi đi biền biệt. Thương quá tuổi học trò mà cũng thương quá cho cuộc đời chúng ta!

Trong trí nhớ đã mòn mỏi, bạn còn nghe chăng tiếng trống trường vang lại trong lòng, từ một thời, một thời đã xa lắm! Tuổi thơ của chúng ta cũng như hình ảnh của dĩ vãng, cùng biết bao nhiêu khuôn mặt thân yêu, đã qua rồi như bóng nắng buổi chiều hôm nay.

Thương nhớ biết bao buổi tựu trường!


(1) Marie Francois Sadi Carnot (1837-1894), tổng thống Đệ Tam Cộng Hòa Pháp (1887-1894) 

Củ cà rốt

Củ cà rốt

Huy Phương/Người Việt

Nguoi-viet.com

Trên thế giới, lực lượng quân đội nào, với vũ khí, quân cụ trong tay cũng có khả năng làm đảo chính, lật đổ chính quyền. Có trường hợp vì chính phủ độc tài, tham nhũng, cũng có khi vì phe cánh hay có bàn tay bên ngoài của các quốc gia khác.

Việt Nam Cộng Hòa cũng đã có hai cuộc đảo chánh do quân đội cầm đầu năm 1960 (bất thành) và năm 1963, giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Với truyền thống can thiệp vào nền chính trị, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã ba lần làm đảo chính vào những năm 1960, 1971 và 1980. Năm 1987, quân đội Thổ không làm đảo chánh, nhưng lo ngại về sự hiện diện ngày càng tăng của các đảng phái Hồi Giáo trong nước, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự chỉ huy của tướng İsmail Hakkı Karadayı đã áp lực với chính quyền đóng cửa các trường học tôn giáo, cấm sinh viên đại học đeo mạng che mặt. Thủ Tướng Necmettin Erbakan bị các tướng lĩnh ép phải từ chức, một chính phủ lâm thời được lập ra, và quân đội cuối cùng cầm quyền vào năm 1998.

Thái Lan đã có tất cả 11 lần quân đội làm đảo chánh vào những năm 1932, 1933, 1946, 1951, 1957, 1971, 1976, 1977, 1991, 2006, 2014.

Một cuộc đảo chính Xô Viết năm 1991, được gọi là Cuộc Nổi Dậy Tháng Tám hay cuộc Đảo Chính Tháng Tám, một nhóm các thành viên của chính phủ Xô Viết đã hạ bệ trong một thời gian ngắn vị Tổng Bí Thư Liên Xô Mikhail Gorbachev và tìm cách nắm quyền kiểm soát đất nước.

Tháng Tám, 1982, Không Quân Kenya (Phi Châu) nổi dậy chống Tổng Thống Daniel arap Moi. Năm 2009, Tổng Thống Yahya Jammeh của Gambia bị quân đội đảo chánh. Năm 2015 Tướng Godefroid Niyombare của Burundi, làm đảo chánh chống Tổng Thống Pierre Nkurunziza, nhưng bất thành.

Chính phủ nào cũng đề phòng, cảnh giác những chuyện đảo chánh từ phía quân đội, nhất là trong những xứ độc tài. Để đề phòng hậu hoạn, chỉ trong vòng bốn năm, từ ngày ông Kim Jong-un của Bắc Hàn lên nắm quyền, đã có hơn 70 quan chức cấp cao bị xử tử, ngay cả các đại thần mà cha ông phó thác con côi như Jang Song-thaek, Ri Yong-ho và nay là Hyon Yong-chol. Theo tin Bắc Hàn, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hyon Yong-chol đã bị xử tử với một khẩu súng phòng không bắn gần, vì lý do mơ hồ là “không phục tùng lãnh đạo và ngủ gật trong buổi họp.” Thực sự là Kim Jong-un luôn luôn lo sợ các tướng lãnh làm đảo chánh. Có thời gian, mỗi tuần Kim Jong-un đem ra xử trảm một tướng.

Độc tài không thua kém Bắc Hàn, lại nô dịch Trung Cộng một cách quá đáng, mất lòng dân, đảng Cộng Sản Việt Nam cũng mang tâm trạng lo sợ bị làm đảo chánh, nhưng các cấp chỉ huy lực lượng vũ trang quân đội và công an đều là những người của đảng, xuất thân từ trung ương đảng như Nguyễn Minh Tiến, Tư Lệnh Quân Khu 1; Lê Xuân Dũng, Tư Lệnh Quân Khu 2; Vũ Hải Sản, Tư Lệnh Quân Khu 3; Võ Minh Lương, Tư Lệnh Quân Khu 7…

Thay vì thanh trừng nội bộ như Bắc Hàn, CSVN khôn ngoan hơn, lấy lòng tướng lãnh “quân đội nhân dân,” bằng miếng mồi ngon, có mùi thơm của đô la. Bộ Quốc Phòng, cơ quan bảo vệ đất nước cho đúng hai tiếng “quốc phòng” lại quản lý hơn 100 doanh nghiệp lớn nhỏ, trong đó có nhiều tổng công ty quân đội (tương đương các Quân Đoàn/Binh Chủng hay tương đương một Quân Khu/Quân Chủng (tập đoàn Viettel), Quân Đoàn/Binh Chủng (các tổng công ty), hoặc Sư Đoàn (các công ty). Một ví dụ là Thượng Tướng Lê Hữu Đức, một trong bảy thứ trưởng hiện thời của Bộ Quốc Phòng, Tư Lệnh Quân Chủng Phòng Không-Không Quân, là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, đại biểu Quốc Hội, nhưng lại là chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội (MBB), có một lô lốc tướng lãnh quân đội dưới quyền…

Trong 21 tập đoàn, tổng công ty được thống kê, có chín tướng quân đội giữ chức chủ tịch hay tổng giám đốc, bao gồm: một thượng tướng, sáu thiếu tướng và hai chuẩn đô đốc. Ở nhiều tổng công ty, chức vụ chủ tịch, tổng giám đốc có quân nhân mang cấp bậc đại tá nắm giữ. Có một sĩ quan cấp tá làm tổng giám đốc tổng công ty 789, đó là Trung Tá Nguyễn Công Hiếu. Tổng Công Ty 789 đã được chuyển làm công ty thành viên của Tổng Công Ty Thành An. Thiếu Tướng Nguyễn Quốc Dũng kiêm nhiệm vị trí chủ tịch của Tổng Công Ty Thành An cũng như Tổng Công Ty 789.

Một trường hợp tương tự khác là Tổng Công Ty Xăng Dầu Quân Đội là đơn vị thành viên của Tổng Công Ty Vạn Xuân. Hai tổng công ty này có chung chủ tịch là Thiếu Tướng Đào Ngọc Thạch.

Tập Đoàn Viễn Thông Quân Đội có một tổng giám đốc và bảy phó tổng giám đốc. Ba người trong đó có cấp bậc thiếu tướng. Các vị trí còn lại do ba đại tá và hai thượng tá nắm giữ.

Chủ tịch Tổng Công Ty Tân Cảng Sài Gòn là Chuẩn Đô Đốc Phạm Hoài Nam. Một tổng giám đốc là Chuẩn Đô Đốc Nguyễn Đăng Nghiêm.

Giữ chức vụ chủ tịch kiêm tổng giám đốc tại Tổng Công Ty Trực Thăng Việt Nam (VNH) là Thiếu Tướng Hà Tiến Dũng. Bốn phó tổng giám đốc tại VNH là Đại Tá Vi Công Hùng, Đại Tá Trần Đình Nam, Đại Tá Lê Trọng Đông, Thượng Tá Kiều Đặng Hùng.

Trong phạm vi của trang bài này, chúng tôi không thể liệt ra đây hết “phương danh” các vị tướng lãnh đội nón kết, đeo lon tướng, đi xe bảng đỏ, không còn lo việc chống giặc, giữ an ninh cho bờ cõi mà có nhiệm vụ làm… tiền. Theo con số của Bộ Quốc Phòng, hiện nay có 80,000 “ông nón cối” đang làm kinh tế, cầm trong tay nghìn tỷ trên thương trường!
Chúng ta thường hiểu “chức năng” là “nhiệm vụ.”

Chức năng của tim là bơm để đẩy máu theo các động mạch, đem dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình trao đổi chất. Chức năng của lực lượng công an là bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Đương nhiên chức năng của quân đội, bất kỳ của quốc gia nào cũng là bảo vệ quốc gia, bảo vệ quần chúng, chống sự xâm lược từ các quốc gia khác.

Nhưng gần đây, bộ trưởng Quốc Phòng, vì nhu cầu bảo vệ và kinh tài cho đảng lại uốn lưỡi cho rằng: “Tham gia sản xuất xây dựng kinh tế là một chức năng của quân đội! Quân đội làm kinh tế là củng cố tiềm lực quốc phòng, nâng cao vị thế quốc gia!”

Quân đội lãnh lương từ tiền thuế của dân hôm nay lại đi làm rừng, làm ngân hàng, bốc dỡ hàng hóa, những lối đi buôn, thay vì thao dượt, bảo vệ biên giới, đất biển cho tổ quốc, bảo vệ an ninh cho đồng bào tránh khỏi nanh vuốt của ngoại bang, bảo vệ ngư dân ngay trên vùng biển của quốc gia.

Bộ Trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch cũng cho rằng “Có những vùng khó khăn chỉ có quân đội mới đứng chân làm được. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế, doanh nghiệp quân đội không ngừng đổi mới, sáng tạo, chiếm thị trường trong nước, nước ngoài và trở thành đối tác kinh tế uy tín.” Lời văn nghe sang sảng trước hàng quân nhưng rõ ràng là lời ngụy biện vô cùng nguy hiểm cho dân tộc.

Tóm tắt việc cho quân đội làm kinh tế, theo Vũ Đông Hà (trang Danlambao) tổn hại cho đất nước:

-Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nay đã trở thành đội quân bạc nhược, lấy chủ trương “bám ghế – kiếm tiền,” làm suy yếu việc phòng thủ quốc gia.

-Tạo sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp quân đội với doanh nghiệp dân sự.

Nhân danh phục vụ mục tiêu quốc phòng, tài nguyên quốc gia đã bị các tập đoàn tướng tá Cộng Sản thu tóm để làm giàu mà không cần thuê và lại được hưởng những ưu đãi rất nhiều trong việc đóng thuế.

-Tướng tá được thăng chức tùy tiện dựa theo kết quả kiếm tiền cho đảng, thay vì bằng khả năng chiến trận.

-Hiện nay nhiều công trình, dự án đều lệ thuộc nguồn vốn và nguyên liệu của Trung Cộng, nên tất cả tướng tá đại gia đều lệ thuộc Bắc Kinh, đầu hàng kẻ thù vô điều kiện, xem dân là thù, lấy thù làm bạn.

Theo nguyên tắc không có một vụ chia chác quyền lực và đồng tiền nào làm thỏa mãn được mọi người, “Quân Đội Nhân Dân” hiện nay đang bị phân hóa, xé nát trầm trọng vì tranh nhau miếng ăn. Phe không ăn bất mãn, phe có ăn lo kiếm ăn, không ai quan tâm dến chuyện “rèn cán, chỉnh quân” trở thành một đội quân yếu và hèn.

Không ăn được thì đập phá, phe “trâu cột” không có miếng ăn lên tiếng đòi hỏi: “Quân đội không nên làm kinh tế.” Phe “trâu ăn” là tướng lãnh quân đội đang có đặc quyền làm kinh tế, tuyên bố sẽ ra tay làm đảo chánh nếu bị Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc cấm làm kinh tế? Rồi đây, đất nước có thể xẩy ra binh biến, không phải vị giặc vào nhà, mà vì gà tranh nhau vì thóc, lúa.

Trong khi Kim Jong-un non nớt dùng hạ sách với “cây gậy” xử trảm công khai các tướng lãnh nghi ngờ chống lại mình, thì đảng CSVN cao thủ hơn, cho tướng lãnh củ “cà rốt” để nắm quyền lực, khiến họ phải trung thành tuyệt đối, nhưng rồi đây tình trạng đất nước sẽ ra sao khi giặc tới biên giới?

Ngày xưa thời kháng chiến, mỗi cán bộ chỉ có một đôi đũa và cái chén nhôm giắt lưng, nói chuyện yêu nước dễ. Bây giờ quyền cao chức trọng hàng muôn, ngày đêm nghĩ cách kiếm tiền, giữ tiền, đến lúc “ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng” thì đã quá muộn.

‘Ðả đảo thương phế binh VNCH!’

‘Ðả đảo thương phế binh VNCH!’

Tạp ghi Huy Phương

Thương binh VNCH tại một buổi “Tri ân các ông thương binh” tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn. (Hình: chungnhan.org)

Thoạt nghe chúng ta không thể nào tưởng tượng ra có một câu hô hào, một khẩu hiệu tệ hại đến mức như vậy. Thương phế binh, dù ở phía nào, thì cũng khổ đau, bất hạnh như nhau. Chúng ta thường nghe, thường hiểu những khẩu hiệu đả đảo cường quyền, đả đảo xâm lược, đả đảo độc đảng,… nhưng chưa bao giờ ai nghe những lời đả đảo dành cho người què cụt, mù lòa đang sống ở những bước đường cùng trong những ngày cuối cùng.

Câu chuyện xảy ra tại Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Ðồng, Sài Gòn, tuần rồi, khi các lực lượng giấu mặt tung ra một truyền đơn kêu gọi dân chúng “phản đối Dòng Chúa Cứu Thế ở 38 Kỳ Ðồng, trong hoạt động tri ân thương phế binh VNCH,” và truyền đơn này được đọc trước sân nhà thờ.

Chúng ta cũng biết chương trình tri ân thương phế binh VNCH được tổ chức hàng năm tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, bắt đầu từ năm 2013. Số thương binh được giúp đỡ từ 5 năm nay đã lên đến con số 6-7 nghìn. Các thương binh được khám bệnh, phát thuốc, cấp xe lăn và có những món quà do các nhà hảo tâm giúp đỡ, với sự quan tâm săn sóc của các bác sĩ, linh mục tại đây.

Từ lâu nay, công an chế độ này làm khó khăn, ngăn cản, xét hỏi những nhà hảo tâm và các thương binh đến tham dự chương trình giúp đỡ này, nhưng đây là lần đầu, tại chỗ, có người công khai đọc bản văn truyền đơn, một truyền đơn kể tội thương phế binh VNCH, mà tệ hại nhất là truyền đơn không có xuất xứ, không ký tên, như một hành động loại ném đá giấu tay rất đáng xấu hổ.

Khởi đầu truyền đơn là một đoạn văn ca tụng sự đoàn kết dân tộc, chính sách hòa hợp, hòa giải của đảng Cộng Sản, lên án thái độ của một số linh mục và giám mục về những bất đồng với đường lối nhà nước trong thời gian qua. Nội dung chính của bản truyền đơn là công khai mạ lỵ và xúc phạm đến những người thương binh VNCH với loại ngôn ngữ “tụt quần, cởi áo,” “bán nước,” “lính đánh thuê,” và lên án họ là những người đã “cắt đầu, đóng đinh, bêu đầu” người khác. Câu văn này khiến người nghe không khỏi liên tưởng đến “danh ngôn đánh thuê,” “đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” được khắc trên cổng chào đền thờ Lê Duẫn, và một thời quê hương đẫm máu với những cảnh “cắt cổ, mổ bụng, thả trôi sông” thời Việt Minh Cộng Sản!

Bản truyền đơn cũng thêm một điều vô lý khi cho rằng, Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức tri ân thương phế binh VNCH chỉ sau một tuần ngày lễ kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ CSVN là một “xúc phạm đến anh hùng, liệt sĩ, bộ đội của Cộng Sản!”

Trong truyền đơn “đả đảo thương phế binh VNCH,” Cộng Sản cho rằng chương trình cứu trợ thương binh là ép buộc và dối trá. Ðã từng làm việc với một tổ chức từ thiện như Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH tại Hoa Kỳ, chúng tôi thấy các hồ sơ thương binh đều rõ ràng minh bạch, giấy trắng mực đen, từ tên tuổi, căn cước, hình ảnh, đơn vị đến thương tật đều có giấy tờ chứng minh, luôn có cả địa chỉ nơi cư ngụ, điện thoại để tiếp xúc điều tra hay minh xác. Thương binh tự động viết thư tường trình hoàn cảnh của mình để xin giúp đỡ, cũng không cần phải có cơ quan, đảng bộ giới thiệu như trong chế độ Cộng Sản.

Trong một xã hội tự do như Hoa Kỳ việc bác ái là do lòng tốt và tự nguyện của người giúp đỡ, hoàn toàn không có ai bắt buộc, dọa nạt ai như chuyện phường khóm hay công an khu phố đi gõ cửa, thu góp từng nhà, nửa dọa nạt, nửa xin xỏ, không có không được! Xin đừng như con ếch nhìn bầu trời qua miệng giếng, lấy cung cách hoạt động của xã hội qua con mắt hạn hẹp của mình mà chụp mũ, đánh giá sai lầm chuyện của người khác.

Chế độ Cộng Sản trong nước luôn luôn đưa ra chiêu bài hòa hợp, hòa giải, quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù để chiêu dụ người Việt nước ngoài, nhưng thực tâm, lòng chưa nguôi ngoai thù hận, nhất là về sau, càng ngày hình ảnh người lính VNCH càng sáng tỏ trong ý nghĩ và tâm tưởng của người Việt Nam, cả bên thua cũng như bên thắng.

Do vậy, những chương trình cứu giúp thương phế binh VNCH từ trước đến nay tại hải ngoại, nhất là những chương trình ca nhạc ngoài trời “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” do Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH, đài truyền hình SBTN, và Trung Tâm Asia tổ chức, đều không tránh khỏi sự xuyên tạc, đánh phá của những thành phần tay sai Cộng Sản trên đất Mỹ. Sự đánh phá, mạ lỵ nhiều lúc phải làm cho những người tổ chức phải có lần nản lòng, bật khóc như trường hợp của bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, chủ tịch hội, mà nay không còn nữa.

Tuy là một chương trình từ thiện, nhưng việc gây quỹ giúp thương phế binh VNCH có tác động chính trị. Một chiếc vé vào cửa, một tờ giấy bạc giúp thương binh được xem như là một lá phiếu vinh danh người lính VNCH, cũng có nghĩa là vinh danh chế độ VNCH, một chế độ mà hiện nay những người thắng cuộc luôn luôn muốn tẩy xóa, bôi bẩn hình ảnh. Càng ngày người ta càng có sự so sánh giữa hai chế độ, giữa hai người lính và giữa hai lối hành xử với hạnh phúc của người dân.

Chế độ Cộng Sản trong nước không thể làm gì với được với thái độ người Việt ở hải ngoại, nhưng ở trong nước chính quyền sao chịu để yên với những chuyện như cây gai nhọn đâm vào mắt, khi quần chúng còn muốn vinh danh, tri ân người lính VNCH qua các hoạt động của các cơ sở tôn giáo như chùa Liên Trì hay nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn.

Những hoạt động này cũng đánh động đến mối cảm xúc của thương binh của xã hội chủ nghĩa. Trong chiến tranh, VNCH có 300,000 người lính tử trận mà có đến 1,170,000 thương binh (1 tử trận /6 thương binh), trong khi miền Bắc có 1.1 triệu bộ đội chết mà chỉ có 600,000 thương binh (1 tử trận/2 thương binh).

Quân sử đã ghi nhận Bắc Việt không có phương tiện di tản thương binh, xa hậu cần và hầu hết thương binh đều phải bỏ lại chiến trường, để giữ chiến thuật đánh mạnh, rút nhanh. Ngày nay, trong khi đảng và chính phủ giàu sang tột đỉnh, thương binh Cộng Sản cũng sống trong những điều kiện thiếu thốn cơ cực, có chăng như những bà “Mẹ Liệt Sĩ” được đảng vinh danh, tặng ảnh chân dung “bác Hồ” để mẹ ngồi ngắm cho qua cơn đói!

Nhưng đánh đến cùng với những con người, dù ở bên kia chiến tuyến, mà ngày nay chỉ còn cây nạng gỗ, chiếc xe lăn, không còn tay, mà chẳng còn chân, cũng có khi không còn đôi mắt, là một thái độ hạ tiện, khốn nạn của những kẻ đã từng rêu rao một thời là những con người của lương tri, trí tuệ có đời sống “nhân văn,” “sống với nhau có nghĩa có tình…”

Rõ ràng là các anh đang sợ, nhưng biết sợ cũng là một thái độ tri thức.

Tuổi già và chuyện lái xe

Tuổi già và chuyện lái xe

By Huy Phương 

Ðối với người Việt Nam, đến tuổi 70 cũng chưa phải là già, kể cả những người lên 80, cũng không ai dám gọi là cụ ông, cụ bà, vẫn còn khả năng lái xe, nhưng đối với cảnh sát Mỹ thì chúng ta nên coi chừng, tuổi senior (từ 62 trở lên) là lớp tuổi dễ bị thu bằng lái nhất.

Các bạn già của tôi, hãy tưởng tượng đến lúc chúng ta không còn được phép lái xe, thì cuộc sống này trở nên bất tiện, buồn bã biết bao nhiêu. Ở Mỹ này không lái xe được xem như người què nằm một chỗ, nhất là ở những thành phố ít phương tiện giao thông công cộng. Chúng ta cũng không có được đời sống như ở Việt Nam, một bước lên xe xích lô, xe ôm hay gọi taxi đến tận nhà. Ở Mỹ đời sống tất bật, ngày thường bận đi làm, cuối tuần còn bao nhiêu việc nhà, con cái đâu có thời giờ để chúng ta đi nhờ xe, đến nơi này hay đi nơi nọ.

Tôi có một cô em họ, độc thân, 76 tuổi. Tuần rồi cô gây một tai nạn xe hơi. Thật ra không phải lỗi của cô. Cô đang lái xe trong lane sát lề bên tay mặt, thì một chiếc xe từ lane bên trái, xấn vào đầu xe của cô khá mạnh. Mất bình tĩnh, cô lái xe sang phải và đụng vào một chiếc xe khác đang đậu bên lề đường. Cô và người ngồi trên xe chỉ bị hoảng hốt, trầy trụa nhẹ, nhưng cả hai chiếc xe đều bị hư hại nặng (total loss.) Cảnh sát đến lập biên bản, lấy bằng lái của cô để ghi chi tiết, nhưng cô không ngờ, đây là ngày cuối cùng cô được lái xe. Cô không có con cái, có nghĩa là từ đây, việc di chuyển của cô sẽ gặp nhiều khó khăn, và đời sống của cô bước sang một khúc ngoặt mới.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cụ George Weller, 86 tuổi, và hiện trường tai nạn. Nguồn CBS los angeles

Chúng ta thử đặt mình vào hoàn cảnh của câu chuyện ở trên, để thấy giờ này mà chúng ta còn lái xe được, rong ruổi trên xa lộ, đi đây đó, hạnh phúc biết chừng nào!

Chiều ngày 16 tháng 7 năm 2003, cụ George Weller, 86 tuổi, đã lái chiếc xe Buick LeSabre năm 1992 của mình xuống đại lộ Arizona ở Santa Monica, California để đi tới khu mua sắm Third Street Promenade nổi tiếng ở đây. Cuối con đường, hôm đó người ta đã ngăn lại để dành cho một phiên chợ nông sản cuối tuần. Chiếc xe của cụ Weller đã chạy thẳng đâm xuyên những bảng chận đường, lao vào khu chợ đang đông người với tốc độ 60 miles/giờ, đã tông chết tại chỗ 10 người và đã làm 63 người khác bị thương. Weller nói ông đã đạp nhầm chân ga thay vì đạp thắng.

Ngày 8/11, năm 2011, tại một thị trấn Palm Coast, miền Bắc Florida, ông cụ Louis Nirenstein, một người “handicap” thường dùng xe lăn, lái xe hơi và lạc tay lái, chạy vào, cũng một chợ nông sản, làm bị thương 3 người. Cụ cho cảnh sát biết chân ga của cụ bị kẹt.

Cuối năm 2014, bà cụ Beryl Hughes, 84 tuổi đã bị giam giữ 24 tuần, đồng thời bị cấm lái xe 5 năm vì tội gây ra tai nạn chết người. Cụ lái chiếc Audi A3 đâm trực diện vào chiếc Honda Civic do ông Brian Bockmaster, 80 tuổi lái, khiến ông Brian phải nhập viện và qua đời một ngày sau đó. Trước khi gây ra vụ tai nạn, bà Hughes từng bị phạt vì lái quá tốc độ hạn định. Bản thân bà Hughes cũng thừa nhận nhiều năm trở lại đây, khả năng lái xe đã suy giảm.

Các vụ tai nạn đã thúc đẩy những cuộc tranh luận toàn quốc ở Hoa Kỳ về những tai nạn giao thông do những người lái xe cao tuổi gây ra.

Theo Cục Quản lý An toàn Giao thông Quốc gia (National Highway Traffic Safety Administration) những người lái xe lớn tuổi từ 65 tuổi trở lên đã gây ra 12.5% tai nạn giao thông trên đường phố.

Vấn đề được đặt ra là những người lái xe lớn tuổi có còn giữ được “an toàn trên xa lộ” không? Từ lâu, Anh quốc có quy định bắt buộc bằng lái xe  của những người từ 70 tuổi trở lên đều bị thu hồi. Ðể có thể tiếp tục lái xe, họ cần phải kiểm tra sức khỏe và thi lại bằng lái trước ngày sinh nhật lần thứ 70 và liên tục phải đổi bằng lái mỗi ba năm. Ở Mỹ, người lái xe trên 70 tuổi vẫn được cấp bằng lái có hiệu lực 5 năm, đến kỳ hạn 5 năm, họ chỉ việc thi lại bằng viết và kiểm tra lại thị lực, nhưng trong thời gian này, nếu gây ra tai nạn, chắc chắn bằng lái sẽ bị thu hồi.

Tuy nhiên, việc có nên cấm hẳn người già lái xe hay không luôn là chủ đề được bàn tán sôi nổi. Năm 2010, tỉ lệ người trên 70 tuổi lái xe trên toàn quốc tăng gấp 4 lần so với năm 1975. Ở California có hơn 5.5 triệu người trên 55 tuổi đang lái xe, và hơn 2.5 triệu người trên 70 tuổi.

Tại Anh Quốc, phụ nữ cao tuổi nhất đang lái xe đã 107 tuổi. Nước này có 191 người có bằng lái xe trên tuổi 100. Bộ Giao thông Anh (DfT) cho biết, tuy chưa có bằng chứng cho thấy người cao tuổi lái xe có nguy cơ gây tai nạn cao hơn nhóm tuổi trẻ, nhưng thực tế, báo chí tốn không ít giấy mực với các vụ người lớn tuổi lái xe vi phạm luật lệ hoặc gây tai nạn.

Người ta đưa ra những yếu tố giải thích người già gây ra nhiều tai nạn vì:

  1. Không còn minh mẫn, nhanh lẹ, nên phản ứng chậm chạp trước các tình huống.
  2. Bị ảnh hưởng các loại thuốc mà người già thường dùng.
  3. Phản ứng sai lệch do việc đau các khớp chân tay, hay cổ.
  4. Tai không nghe rõ, mắt đã mờ.

Ở các nước khác, để giảm tội ác và các tai nạn do súng đạn, chính phủ kêu gọi người dân đem súng đổi lấy tiền thưởng, trong khi ở Nhật người ta kêu gọi quý cụ đem bằng lái xe nộp cho cảnh sát để được giảm giá khi ăn mì ramen tại 176 địa điểm thuộc chuỗi nhà hàng Sugakiya, nghe thật tội nghiệp! Bằng lái của người già cũng nguy hiểm như súng đạn hay sao?

 

 

 

 

 

 

 

Hai cụ già selfie bên chiếc xe bị tai nạn – nguồn you tube

Một chiến dịch của cảnh sát Tokyo cũng khuyến khích người già từ bỏ việc lái xe bằng cách giảm giá xe buýt và taxi cho họ. Nhiều trường hợp người già gây tai nạn đã xảy ra, khi một người phụ nữ 83 tuổi mất kiểm soát khi đang lái xe, gây ra cái chết cho hai bộ hành. Một cụ ông khác, 87 tuổi lái xe tải đâm vào một nhóm học sinh, khiến một em 6 tuổi tử vong.

Người già lái xe xin đọc những lời của Thẩm phán Stephen Holt (Hoa Kỳ) sau đây “Bản thân người cao tuổi và gia đình, bạn bè cần có trách nhiệm theo dõi khả năng lái xe của mình và người thân, đối mặt với sự thật rằng – qua thời gian, khả năng lái xe của họ không còn an toàn. Việc người cao tuổi cần và muốn lái xe, ít để ý tới vấn đề an toàn, đặc biệt ở những khu vực xa đô thị, không có các phương tiện giao thông công cộng là điều dễ hiểu”.

Một nghiên cứu do Khoa Y học Cộng đồng Maliman thuộc Ðại học Columbia thực hiện và công bố đầu năm 2016 cho thấy, sức khỏe của người cao tuổi sẽ bị suy giảm khi họ không còn được lái xe. Không chỉ vậy, việc này sẽ đem lại cho người già triệu chứng trầm cảm, buồn phiền.

Các bạn già của chúng tôi, những người đang còn lái xe như hôm nay cảm thấy thế nào nếu một ngày nọ, không còn ngồi được vào chiếc xe, sau tay lái để tự ý đi đây, đi đó mà phải nhờ đến con cái, họ hàng. Ðiều đó có nghĩa là đời sống đã mất đi nhiều ý nghĩa.

Nhưng một ngày nọ, nếu các bạn nghe tin có người lái một cái xe đâm vào một đám đông gây chết người, thì đừng vội kết luận đó là một chuyện khủng bố của ISIS, mà nên xem lại có phải người lái xe là một trong mấy ông bạn già lạng quạng của chúng ta không?

Buổi tối một mình

Buổi tối một mình

Tạp ghi Huy Phương

(Hình minh họa: Scott Olson/Getty Images)

“Hãy giữ cho tôi những gì tôi yêu quý: cha mẹ, anh em, bạn bè và ngay cả kẻ thù của tôi, để không bao giờ tôi phải thấy, mùa hè không hoa đỏ thắm, cái lồng không chim, cái tổ không có con ong và cái nhà không con trẻ.” Victor Hugo (1802-1885)

Có người cảm thấy buổi sáng một mình cô đơn và buồn bã, nhưng theo tôi một mình buổi tối mới buồn thấm thía. Nhiều khi trên đường lái xe về nhà buổi chiều một mình, khi thấy trời đã bắt đầu tối, phố xá đã lên đèn, tôi bỗng tự hỏi, buồn biết bao nếu đêm nay không có một nơi để về, hay về một nơi hiu quạnh!

Biết bao người cô đơn, không gia đình, tối nay về nhà một mình, bật đèn, nhóm bếp sửa soạn cho bữa ăn tối, và trên bàn ăn chỉ có một mình. Không một tiếng nói, cũng không nghe một tiếng cười. Bữa ăn một mình trong một tiệm ăn đã buồn, nhưng còn có tiếng nói xôn xao, có sự hiện diện của mọi người chung quanh, có người hầu bàn bưng lại cho bạn ly cà phê nóng, nhưng tối nay trong căn phòng vắng vẻ này, bữa ăn một mình lặng lẽ, nỗi cô đơn như thấm đẫm vào lòng.

Và những kẻ không nhà, đang tìm một góc phố khuất gió, trải chiếc chăn ố vàng, cố tìm một giấc ngủ để ngày mai trở dậy, tiếp nối một ngày không có một niềm hy vọng.

Tôi có một người bạn là bác sĩ về hưu, ở New York, sắp xếp thời gian rỗi rảnh của anh để viếng thăm và an ủi thường trực những bệnh nhân cao niên đang ở trong “hospice hospital,” nghĩa là nơi an dưỡng cuối cùng, vì những bệnh nhân này không còn sống bao nhiêu ngày nữa. Một tuần, năm ngày, vào buổi sáng, anh đến thăm viếng, trò chuyện và tâm sự với bốn bệnh nhân, mỗi người nửa giờ, cho đến khi họ qua đời, thì anh lại tìm những bệnh nhân khác để thay thế vào.

Nghe anh trò chuyện và kể cho nghe những công việc làm của anh, vì đã có kinh nghiệm nằm dài ngày ở bệnh viện và trung tâm phục hồi (rehab center), tôi khuyên anh, thay vì sắp xếp thời gian đi thăm những người bệnh của anh vào buổi sáng, anh nên thay thời khóa biểu lại buổi chiều. Buổi sáng bệnh viện lúc nào cũng bận rộn, đông người, bác sĩ đi khám bệnh, y tá săn sóc, lấy máu, do nhiệt độ, y công vào phòng quét dọn, làm vệ sinh, nên bệnh nhân không thấy buồn. Nhưng vào buổi chiều thì rất vắng vẻ. Thời gian ở bệnh viện, tôi nhìn ra cửa, thấy nắng chiều nào cũng xuống bên kia dãy nhà đối diện, mặt trời xuống thấp dần, khuất sau những dãy nhà, rồi đến lúc trời tối hẳn. Đó là lúc nhớ nhà, nhớ vợ con nhất, nói chung là nhớ đến không khí ấm cúng sinh động của bầu không khí gia đình.

Rồi đêm xuống, đêm lúc nào cũng dài hơn ngày, nhất là những giờ thao thức!

Được trung tâm phục hồi cho tôi về nhà đúng chiều Ba Mươi Tết năm ấy, tôi mừng ứa nước mắt.

Tôi nghĩ đến những người già trong nhà dưỡng lão hay những “hospice,” những người rất ít có cơ hội được trở lại nhà như những bệnh nhân qua một thời gian điều trị trong bệnh viện. Đối với những người đã “lú lẫn,” nhớ nhớ, quên quên thì còn đỡ khổ, nhưng nếu còn minh mẫn, sáng suốt, những người này sẽ buồn biết bao! Bệnh nhân, ngoài sự cô đơn của một người tù, còn cái đau của thể xác.

Chúng ta đang sống trong một gia đình đông người, bỗng một hôm vì một lý do nào đó, gia đình đi du lịch, công tác hay về quê, để chúng ta phải sống một mình vài ngày trong một căn nhà rộng lớn, thử xem sự trống trải cô đơn là to lớn đến dường nào! Rồi còn những hoàn cảnh ly dị, hay người còn người mất, cô đơn luôn luôn là liều thuốc độc giết người:

“Giết nhau chẳng cái lưu cầu

Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?”

Trong cuộc chuyện trò mới đây trên nhật báo Người Việt, người nhạc sĩ bát tuần, độc thân, nhạc sĩ Lam Phương cho biết bây giờ ông sống một mình, với gia đình người em. “Cuộc sống rất giản dị: tối ngủ, không thức khuya. Sáng thức sớm, rồi ăn uống, ngủ trưa. Cuộc đời có vậy thôi!” Nghe ông nói, tôi cũng thấy cuộc sống cuối đời của ông cũng có phần tẻ nhạt và chắc chắn là ông rất buồn.

Và ao ước cuối đời của ông là gì, “Có một người bạn để mình hủ hỉ những lúc buồn. Bạn gái! Thế thôi. Bạn thôi!” Đến tuổi này, ai cũng hiểu, ông Lam Phương không cần phải nói thêm hai chữ “bạn thôi!”

“Hủ hỉ” trong tiếng Việt có nghĩ là chung sống với nhau đầm ấm, sớm tối, vui buồn có nhau. Dù chỉ “hủ hỉ” mà không cần “hú hí” cũng đã vui rồi.

Vậy thì các bạn của tôi, đang có một ông chồng bất như ý hay có một bà vợ lắm lời, nhưng sống với nhau, ban đêm khi tối lửa tắt đèn, mùa Đông còn nghe hơi ấm của nhau, ban ngày còn nghe tiếng nói của nhau, dù khi nặng khi nhẹ, âm thanh có thể thay đổi, có khi giận dữ, ồn ào, nhưng như vậy là hạnh phúc rồi. Người bạn của tôi, ngày đó, khi nàng đã đành đoạn bỏ tổ ấm ra đi, chàng sợ cả tiếng điện thoại reo, sợ cả tiếng đồng hồ gõ giờ, và nhất là sợ buổi chiều, vì sau buổi chiều, đêm sẽ đến.

Ai cũng sẽ phải đến một ngày thia lia không còn chậu, và chậu cũng nhớ thia lia!

Nhan đề bài viết hôm nay của chúng tôi là “Buổi tối một mình!” Các ông, các bà cứ tưởng tượng đi, tối nay về nhà ăn tối một mình, lên giường một mình, thức giấc quờ tay sang bên cạnh, chỉ thấy một nửa chiếc giường rộng trống vắng. Không nghe ai nói cũng không nghe ai cười, và chắc chắn đêm nay sẽ là một đêm khó ngủ!

‘A lô! Lương tri có nghe tôi rõ không?’

‘A lô! Lương tri có nghe tôi rõ không?’

Tạp ghi Huy Phương

Blogger Mẹ Nấm (trái) tại phiên tòa ở Nha Trang, bị tuyên án 10 năm tù. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Nhân chuyện có tình trạng gian dối của người sản xuất hiện nay ở Việt Nam, như chuyện hai chuồng lợn, hai luống rau, một để ăn, một để bán; rồi bơm hóa chất vào tôm, dùng thịt ôi làm ruốc, Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã phát biểu: “Phải kêu gọi lương tri của người sản xuất để họ không vì lợi nhuận mà cố tình làm trái pháp luật, bất chấp tính mạng, sức khỏe người tiêu dùng.”

Lương tri là gì? Có lương tri không? Lương tri ở đâu? Ai là người đứng ra kêu gọi lương tri? Để tôi ra đường bắc loa gọi lớn tìm lương tri về, vì đất nước này, lương tri đi vắng đã lâu: “A lô! Lương tri nghe tôi rõ không? Có người đang kêu gọi lương tri!”

Lương tri được xem như là cái trí thức người ta vốn biết, không cần phải suy nghĩ và học tập mới biết. Như vậy, nói chung đó là bản chất vốn có của con người, biết phải trái, biết thiện ác. Nếu định nghĩa như vậy, thì hiện nay con người cộng sản trong nước không có lương tri, vì đảng được nuôi dưỡng bằng giáo điều, sách lược, cương lĩnh, đường lối, qui định, phương hướng… Những điều này đã giết chết con người Việt Nam vốn chơn chất, đôn hậu, hiền lành.

Kêu gọi lương tri, lương tri ở đâu mà kêu gọi? Lương tri ở trong mỗi người, nhưng từ ngày theo đảng, con người đã đánh mất lương tri.

Liệu nếu có lương tri, nhà cầm quyền hiện nay có xử một người đàn bà yêu nước, chỉ biết tranh đấu bằng lời nói và cây bút, 10 năm tù như một tội phạm giết người cướp của như thế không. Nếu nói đến lương tri đúng nghĩa thì Mẹ Nấm, một người đàn bà yếu đuối, có mẹ già con dại, là một công dân có lương tri và bọn ngồi trên bàn xử án, hay những nhân vật quyết định bản án cho Mẹ Nấm từ trung ương xuống là những người hoàn toàn không có lương tri.

Là công dân có lương tri ai cũng phải có lòng ái quốc, thương nước, yêu nòi. Người yêu nước có lương tri phải hành động. Mẹ Nấm chính là một con người như thế. Nhưng nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay chính là những người thiếu lương tri, nên mới đem những người ái quốc ra tòa xét xử và cầm tù họ. Đảng Cộng Sản Việt Nam kết tội nhiều nhà tranh đấu cho nhân quyền là làm gián điệp, dựa thế lực ngoại bang, theo thế lực thù địch, diễn tiến hòa bình. Nhưng nếu những viên chức cao cấp ở Việt Nam ngày nay vẫn tuyên truyền đem chính nghĩa cho kẻ thù, tâng bốc bọn ngoại xâm, thì tội ấy kết là tội gì?

Một người có chút lương tri không thể nào có những câu nói, vùa ngu dốt, vừa ngược ngạo, vừa vô liêm sỉ như những người cộng sản hôm nay:

-“Đào mộ tổ tiên của tôi thì được, nhưng giật đổ tượng Lê-nin là thiếu văn hóa.” (Tiến Sĩ Vũ Minh Giang – Đại Học Quốc Gia Hà Nội)

-“Từ ngày còn bé, tôi đã được học, Hoàng Sa, trường Sa là của Trung Quốc rồi.” (Giáo Sư Nông Lập Phu)

-“Xin đừng vì vài cái đảo nhỏ ở Biển Đông mà làm mất đi tình hữu nghị láng giềng tốt đẹp giữa hai nước, bởi nếu không có đảng Cộng Sản Trung Quốc chống lưng, đảng ta sẽ không thể tồn tại cho đến ngày hôm nay. (Võ Thị Thu Thủy, phó chủ tịch UBND Quảng Ninh.)

Tiến Sĩ Alan Phan, người có kinh nghiệm với xã hội Trung Quốc dưới thời Cộng Sản, đã nêu lên những hình ảnh thiếu lương tri của đất nước này, và Việt Nam là một bản sao tuyệt hảo:

-Trung Quốc có bao nhiêu giáo sư đại học “luồn cúi quyền lực” hoặc “tham lợi bán điểm?”

-Có bao nhiêu người làm nghề chữ nghĩa vì chút tiền mà đưa tin giả, tô vẽ hỗ trợ bọn tham quan?

-Có bao nhiêu “nhà văn” viết tiểu sử cho lũ sâu mọt quốc gia?

-Có bao nhiêu “nhân sĩ nổi tiếng” vì áo quan đung đưa trước mắt mà vứt bỏ nguyên tắc?

-Có bao nhiêu kẻ biên soạn cái gọi là “Sổ tay danh nhân,” “Sổ tay nghệ thuật gia?”

– Có bao nhiêu thầy thuốc làm nghề “môi giới dược phẩm?”

– Có bao nhiêu thầy cô tìm mọi cách đào tiền trong túi học trò?

– Có bao nhiêu “nhà kinh tế học” vì “tiền thưởng” của bọn tài phiệt mà đứng trên danh nghĩa chức vị uy quyền nói ra những lời lẽ hoang đường?

– Có bao nhiêu tên lưu manh văn hóa biến bọn trùm xã hội đen thành doanh nhân?

Trở về câu chuyện bà Nguyễn Thị Kim Tiến ở đầu bài, người đã kêu gọi lương tri của những người sản xuất thực phẩm, nhưng chính bà, nếu có lương tri, đã từ chức từ lâu ngay từ vụ 108 trẻ em chết trong đợt dịch sởi năm 2014, vì Bộ Y Tế cố giấu những thông tin về bệnh sởi, “vì những nguyên nhân chưa rõ nguyên nhân!”

Trong những địa hạt khác, bọn cầm quyền vô lương tri muốn lấy tiền thuế của dân, xây tượng đài Hồ Chí Minh 1,400 tỷ đồng ở Sơn La (xin nhớ 1 tỷ đồng Việt Nam = $40,000) trong khi dân chết phải bó chiếu mang về nhà. Giáo Sư Ngô Bảo Châu đã thẳng thắn cho rằng đây là một ý tưởng “không thần kinh thì cũng khốn nạn!”

Nếu chúng ta là những người có lương tri, chúng ta đứng về phía dân tộc hay đứng về phía bọn tư bản Formosa. Nếu một nhà cầm quyền có lương tri, nỡ nào thấy ngư dân trong vùng biển quê nhà, phải chịu đòn bởi ngoại xâm, mà không mở miệng nói được một lời phản đối. Công an có đặc quyền xâm phạm an ninh của quốc dân, tướng lãnh được ân sủng của đảng, đặc lợi ngập mặt, hành động theo lợi lộc, chứ không phải hành động theo lương tri.

Kẻ sĩ có lương tri lấy làm đau lòng khi thấy đồng bào tứ tán, tha phương cầu thực, phụ nữ đánh mất phẩm giá, đạo lý suy đồi, nhân tâm ly tán.

Chúng ta đòi hỏi, kêu gọi gì ở những kẻ bần cùng, nghèo đói trồng rau bẩn, bán thịt ôi mà quên nói đến nhà cầm quyền đầy quyền lực, đang bán nước, bán rừng, bán biển, cho thuê cả tổ quốc. Những kẻ dựa vào thế lực được đảng bao che, phá rừng, lấp hồ xây nhà cao, cửa rộng, bịt mắt che tai, thì lương tri nằm ở đâu?

Bà Nguyễn Thị Kim Tiến muốn kêu gọi lương tri, nhưng chính bà cũng không biết lương tri là gì, lương tri ở đâu. Nếu biết hẳn bà đã thấy hổ thẹn khi còn tại vị ở cái ghế, liên quan đến mạng sống của người dân trong bao nhiêu năm nay, mà không biết liêm sỉ, biết xấu hổ. Cả cái bộ máy cai trị đất nước này không có lương tri, sá gì một mụ đàn bà tay chân, công cụ của đảng.

Lương tri nằm trong lòng mỗi người, đâu có xa xôi gì mà phải kêu gọi.

Mẹ Nấm lãnh bản án 10 năm tù giam, cũng chỉ vì bà là người của lương tri sống giữa một bầy thú! Vì đã là con người, ai cũng phải có lương tri!

Viết cho ngày lên tám… mươi

Viết cho ngày lên tám .  .   .  mươi

Tạp Ghi Huy Phương

(Hình minh họa: sscc.org)

“Cha mẹ già đã khuất núi, 
Quê hương đã thất lạc,
Mộng ước đã tàn phai!”
(Bùi Bích Hà)

Sống đến bao nhiêu tuổi thì được gọi là thọ? Người xưa quy định 80 được coi như là thượng thọ, vì ít ai sống đến tuổi này, vì ngay tuổi 70 xưa nay cũng đã rất hiếm rồi.

Tháng Mười, 1924, sau chuyến công du sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Marseille, vua Khải Định đã tổ chức lễ tứ tuần Đại Khánh rất long trọng và tốn kém, để mừng mình đến tuổi 40, nhưng chưa thêm được tuổi nào, thì chưa đầy một năm sau, nhà vua bị bệnh nặng mà băng hà, hưởng dương 40 tuổi. Trong sách vở đều ghi là hưởng thọ! Có lẽ là vua thì đặc cách được hưởng thọ thay vì hưởng dương chăng?

Người xưa, như ông Bạch Cư Dị cũng mới đến tuổi 40 cũng đã lấy làm mừng, khi thấy trong làng có người khóc chồng chết mới có 25 tuổi, có nhà khóc con chết chỉ mới 17, 18. “Dư kim quá tứ thập/ Niệm bỉ liêu tự duyệt!” (Ta nay đã tuổi bốn mươi/ Chuyện đời nghĩ lại cũng nguôi tấm lòng!) Văn Khốc Giả (Nghe Người Khóc).

Ở tuổi 50, ông Khổng Tử đã nói “Ngũ thập tri thiên mệnh!”

Ông Đỗ Phủ thì lại có thơ rằng: “Thấp thập cổ lai hy!” (Tuổi 70 xưa nay hiếm có!).

Khổng Tử có nói một câu về những người đến tuổi 70: “Thất thập nhi tùy tâm sở dục” (Người đến tuổi bảy mươi muốn làm gì làm!).

Cụ Khổng ơi! Đến tuổi này thì có người đã trở lại như con trẻ còn mặc tả, nằm một chỗ, không đi đứng được, ăn phải có người đút, áo quần phải có người thay, việc vệ sinh phải có người giúp đỡ, còn chi là “tùy tâm sở dục.”

Có lẽ cụ muốn nói đến một mặt khác, đến tuổi 70 muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, muốn ăn uống gì thì tùy thích, không còn dành dụm (cho ai), cũng không còn kiêng khem gì cho nhọc xác! Cũng đừng chuyển chủ quyền nhà cho con, không khéo ra nằm đường lúc nào không hay!

Nhưng cũng đừng ỷ tuổi già mà làm điều thất thố, ít ai dùng lời nặng mà mắng trẻ con lầm lạc, mà thường hay xách mé gọi ông già sai quậy là “già dịch,” “già lựu đạn,” “già mất nết!” Cho nên về già mà giữ được phẩm giá mình còn khó khăn hơn lúc trẻ.

Trong quan niệm truyền thống của người Trung Hoa, “Thọ” đứng đầu trong năm thứ phúc, người đời ai cũng mong thọ, y phục thêu chữ “Thọ,” gối nằm thêu chữ “Thọ,” chăn đắp thêu chữ “Thọ,” cây đòn tay nhà cũng có khắc chữ “Thọ,” bức bình phong trước nhà cũng xây chữ “Thọ,” gặp nhau ai cũng chúc chữ “Thọ.”

Nhưng sao người xưa lại gọi “Đa thọ là đa nhục!” Nhục không phải vì bị ai xúc phạm tinh thần hay thân thể, mà nhục vì thân thể yếu đuối, không làm chủ được mình, có khi không tự lo chuyện vệ sinh được cho mình, phải nhờ cậy đến người khác, đôi khi lại bị khinh bỉ, thậm chí bị chửi rủa, coi thường như số phận những người già nhớ nhớ quên quên trong nhà dưỡng lão!

Càng già nỗi buồn càng tăng: “Mối sầu như tóc bạc/ Càng cắt càng dài ra!” (Phan Khôi).

Bởi vậy nên mong không bệnh hơn là mong sống lâu. Vậy mà gặp ai cũng chúc thọ, kiểu “Sống lâu trăm tuổi!” Sống lâu 100 tuổi mà quanh quẩn từ “nursing home” đến nhà “hospice care” thì ai mà muốn sống!

Nhà văn Bùi Bảo Trúc ra đi lúc 73 tuổi, thiên hạ cho rằng đây là một cái chết trẻ, quá vội vàng, nhưng sao bà Hạnh Nhơn, người đứng đầu một hội thiện nguyện giúp cho thương phế binh VNCH, mất năm 90 tuổi, mà người ta vẫn thương tiếc, nghĩ giá mà bà sống thêm được vài năm nữa!

Vấn đề là sống như thế nào, hay sống mà người đời coi như đã chết! Mà cái chết không có định kỳ, không có giới hạn. Bao nhiêu tuổi là thọ, mà bao nhiêu tuổi là chết yểu?

Được chết như nhà báo Vũ Ánh, vừa gửi bài viết đi xong là ngã xuống; chết như nhà văn Bùi Bảo Trúc, đang giờ phát thanh mà nghẹn lời; chết như Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích đang trên đường đi họp chuyện Biển Đông mà tim ngừng đập, không khác gì cái chết như người lính xông xáo giữa trận tiền, chưa bắn hết băng đạn, nòng súng đang bốc khói trên tay. Người ta gọi đó là chết vì công vụ, hay chết lúc còn sống, chứ không phải chết khi đã chết, là “chết lâm sàng!”

Tuần lễ này người viết lên tuổi tám… mươi.

Sướng chưa! “Một sợi râu là một xâu bánh!”

Tuổi 80 đã được xếp vào loại “thượng thọ.” Rồi đây trên cáo phó, chia buồn trước cái tên mình có thêm hai chữ “Cụ Ông” trang trọng. Vậy mà cứ tưởng mình còn trẻ như ngày xưa, “đừng gọi Anh bằng Chú,” không lẽ giờ lại nói: “Đừng gọi Anh bằng Cụ Ông, tội nghiệp nghe em!”

Qua chiến tranh, tù đày, chiến hữu, bạn bè, con cái nằm lại trên rừng dưới biển, phần mình lưu lạc quê người, may mắn còn sống đến tuổi 80 có gì đâu mà vinh dự. Được sống càng lâu, càng thấm buồn.

“Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ 
Trông về sau, quạnh quẽ người sau 
Ngẫm hay trời đất dài lâu 
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.”
(Bài Ca Lên Đài U Châu của Trần Tử Ngang-Trần Trọng San dịch)

Hai tiếng ‘Việt Nam’


Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)
Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)

Từ khi chế độ Cộng Sản xâm nhập vào đất nước chúng ta, dân chúng thường đặt tên cho hai chế độ để phân biệt rõ ràng, một bên là Quốc Gia, một bên là Cộng Sản. Quốc gia phải được hiểu là quốc gia Việt Nam, nghìn đời từ cha ông để lại, còn Cộng Sản thì ai cũng hiểu là Cộng Sản Quốc Tế, đến từ cái đất nước Liên Xô xa xôi bên kia.

Không phải tự nhiên mà sau khi chia cắt đất nước, ở miền Nam, nhạc sĩ Hùng Lân đã ca tụng hai tiếng Việt Nam trong bản nhạc “Việt Nam, Minh Châu Trời Đông,” còn Phạm Duy thì dõng dạc cất cao hai tiếng “Việt Nam! Việt Nam!” với câu hát: Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời – Việt Nam hai câu nói trên vành môi Việt Nam, nước tôi. … Việt Nam!”

Với người quốc gia, tiếng nói đầu tiên của một người ngay lúc chào đời chính là tiếng gọi của đất nước, non sông, xã tắc, trong khi đối với người Cộng Sản ở miền Bắc tiếng gọi đầu tiên của đứa trẻ mới ra đời là Stalin! “Yêu biết mấy, nghe con tập nói. Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.” Stalin không phải là một cái tên Việt Nam, Stalin cũng không phải là tên của tổ tiên, anh hùng Việt Nam. Chắc chắn đối với chế độ miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, cái tên Stalin phải đẹp đẽ, cao cả nghìn lần hơn hai tiếng Việt Nam, nếu không thì há gì, người ta lại đặt tiếng Stalin vào miệng một đứa trẻ mới tập nói bập bẹ, cũng không Cha, không Mẹ, mà cũng chẳng phải liên hệ gì với đất nước non sông!

Nhưng đó chính là nhiệm vụ của những cán bộ Cộng Sản quốc tế nhận lệnh từ Mạc Tư Khoa, quyết nhuộm đỏ Việt Nam.

Những người cho rằng mình yêu đất nước, ai cũng đem hai tiếng Việt Nam ra để vinh danh, ca tụng nói bao nhiêu điều tốt đẹp, để cuối cùng hãnh diện nói rằng: “Tôi là người Việt Nam!”

Cách đây mấy năm, báo Thanh Niên trong nước đặt câu hỏi với độc giả: “Người Việt thông minh, chăm chỉ và anh hùng, đánh thắng ba đế quốc sùng sỏ, thế bạn có hãnh diện là người Việt Nam không?”

Có những lúc chúng ta hãnh diện vì hai tiếng Việt Nam, nhưng cũng có những lúc chúng ta phải cúi đầu hổ thẹn vì hai tiếng Việt Nam.

Đi Mã Lai, đến Kuala Lumpur, khi người tài xế taxi biết bạn là người Việt Nam, anh ta khen Việt Nam bằng câu nói: “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Nhưng anh ta lại nói thêm “Con gái Việt Nam rẻ lắm!” Đâu còn gì danh dự tốt đẹp cho hai tiếng Việt Nam nữa.

Đến phi trường Sanghi, Singapore, các thiếu nữ Việt Nam được mời riêng vào phòng để kiểm tra, lý lịch, giấy tờ, tiền bạc mang theo, điều tra những người quen biết của họ ở đất này, chỉ vì cảnh sát Singapore nghĩ rằng các thiếu nữ này là món hàng “đứng đường” tối nay ở khu đèn đỏ Joo Chiat, hay Geylang. Nếu bạn cùng đến Sanghi một lần với những cô gái này, bạn có còn dõng dạc nói rằng: “Tôi là người Việt Nam” nữa hay không?

Giám Mục Ngô Quang Kiệt không phải là một người tầm thường tào lao, những phát biểu của ông không phải nói cho qua chuyện, ông có cái đau của người Việt Nam đi ra ngoại quốc mà không được kính trọng: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế!”

Thế là bao nhiêu búa rìu dư luận chụp lên đầu vị Giám Mục “trung ngôn” này, nhưng sự thật vẫn là sự thật, chẳng qua là người ta thích nhắm mắt, bịt tai thôi.

Một phụ nữ ở Saigon kể chuyện với chúng tôi: “Năm 2008 vào dịp Tết Nguyên Ðán, tôi được con trai cho đi du lịch Doha (Qatar,) sẵn dịp công ty của con bảo lãnh qua chơi Dubai. Nhưng đến chiều về lại Doha thì bị giữ lại phi trường vì nghe nói có chuyện gì xảy ra ở một siêu thị mà có người Việt mình dính vô. Trong khi cả đoàn ‘check in’ thì riêng tôi bị giữ lại vì mang passport CHXHCN Việt Nam. Mang hộ chiếu Việt Nam đi nước ngoài buồn lắm ông ơi!”

Yêu hai tiếng Việt Nam, là người yêu nước, chúng ta phải làm sao để hai tiếng này vang lừng, chói lọi chứ không phải làm hoen ố nó, rồi kêu gào cho là người đời xuyên tạc, bất công.

Sau tháng 4-1975, Nhật Bản cũng tử tế hết lòng với Việt Nam, nhưng vì sao, về sau, trên nhiều diễn đàn của Nhật, người ta kêu gọi tẩy chay người Việt, đuổi hết người Việt về nước, cắt vĩnh viễn các khoản viện trợ cho Việt Nam. Có người so sánh viện trợ cho Việt Nam uổng hơn là đổ tiền vào… cống, bởi tiền thuế của họ đang được dùng để nuôi bọn “giòi bọ” ở Việt Nam. Một tập đoàn cung cấp dịch vụ của Nhật bị Việt Nam đòi hối lộ 15% để được trúng thầu các dự án dùng chính tiền viện trợ của Nhật tại Việt Nam; nhân viên, tiếp viên hàng không và phi công Vietnam Airlines, tổ chức đánh cắp hàng hóa trong các siêu thị Nhật để vận chuyển hàng gian về tiêu thụ tại Việt Nam; lãnh sự quán Việt Nam ở Nhật tại Osaka tổ chức bán giấy thông hành Việt Nam.

Như vậy, chính người Việt Nam để lại ấn tượng xấu xa về hai tiếng Việt Nam trong mắt người Nhật khi xuất ngoại sang đất nước họ.

Ở Nga, có đường dây buôn người đưa hàng nghìn phụ nữ Việt Nam vào các nhà chứa Nga, theo Tiến Sĩ Nguyễn Ðình Thắng: “Trong tất cả các trường hợp ở Nga này, thủ phạm là những người Việt được bao che bởi một số giới chức ở Tòa Ðại Sứ Việt Nam ở Nga, thậm chí họ thành Hiệp Hội May Dệt dưới sự bảo trợ của Tòa Ðại Sứ Việt Nam.”

Cảnh sát Nga vừa khám phá một xưởng may “đen” dưới lòng đất tại khu chợ Cherkizov ở thủ đô Moscow, bắt hằng trăm di dân lậu Việt Nam. Trong 80,000 người Việt ở Nga đã có 80% làm nghề buôn bán, phần lớn là chợ trời, mánh mung, nhưng toà Đại Sứ Việt Nam ở Nga chủ trương không biết, không nghe, không thấy, không nói!

Ông Trương Văn Món, Giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Chăm, kể chuyện ông từng ở Malaysia 3 năm, mỗi khi đến dịp lễ 2/9, toà Đại sứ Việt Nam tổ chức những bữa tiệc mời đại diện đại sứ quán các nước khác và người lao động Việt Nam ở nước ngoài tới dự, nhưng lần nào, đại diện Đại Sứ Quán Việt Nam tại đây phải chắp tay xin lỗi quan khách vì bị người Việt cướp hết đồ ăn trước giờ vào tiệc, và chuyện này năm nào cũng xảy ra như vậy!

Ông Đặng Xương Hùng lãnh sự Việt Nam ở Thụy Sỹ nói ông đã theo Đảng Cộng sản 30 năm, nhưng giờ đây có nhiều động lực khiến ông phải rời bỏ Đảng Cộng sản và xin tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ. Ông nói Việt Nam đã sang đến thế kỷ XXI rồi mà vẫn còn chủ nghĩa Mác Lê-nin, vẫn còn tương tự như Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba thì ra nước ngoài thật ngượng.” Đó là lời nói của một người đại diện cho Việt Nam hôm nay!

Nói về dân chủ, nhân quyền, Việt Nam đứng thứ 177 trong số 198 quốc gia trên toàn cầu về tự do báo chí, là nhận định của Freedom House trong phúc trình thường niên công bố tại Newseum – Viện Bảo tàng Tin tức ở Washington DC hôm thứ 28/4/2017, năm 2015, Việt Nam xếp hạng thấp nhất về quyền lợi chính trị (hạng 7) và hạng 5 về tự do công dân, nhưng lúc nào chúng ta cũng hét lên hai tiếng Việt Nam- Việt Nam vào lỗ tai thiên hạ.

Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí yêu nước, khi bị lên đoạn đầu đài ở Yên Báy, đã đồng thanh hô vang :”Việt Nam muôn năm!” Thậm chí báo chí miền Bắc cũng đã nhét vào miệng Nguyễn Văn Trỗi “đánh Mỹ” tiếng hô “Việt Nam muôn năm!” không quên kèm theo tiếng “muôn năm” cho Hồ Chí Minh, tức là Hồ Tập Chương, cán bộ KGB được đào tạo ở Liên Xô.

Nhưng Việt Nam là Việt Nam nào để cả dân tộc Việt Nam ngẫng đầu hãnh diện? Việt Nam là Việt Nam nào để khi ra nước ngoài, con người phải cúi mặt mà đi?

Người Tàu Đài Loan vẫn không bao giờ nhận mình là người Trung Hoa lục địa, và tôi, hãnh diện là người Việt Nam. Ngày xưa tôi nhận tôi là Nam Việt Nam, và bây giờ là Việt Nam, nhưng tôi nhận tôi là người Việt Nam lưu vong, không phải Việt Nam trong danh từ kép “Việt Nam – Hồ Chí Minh” mà đứa con bất hiếu Phạm Tuyên đã lớn tiếng, rêu rao, lặp đi, lặp lại nhiều lần!

Những đứa bạn thời thơ ấu

Những đứa bạn thời thơ ấu

Tạp ghi Huy Phương

(Hình minh họa: khoa668siquantrubithuduc.blogspot.com)

Trong một cuộc họp mặt của một trường trung học tại hải ngoại gần đây, bất ngờ tôi gặp lại một thằng bạn cũ của thời gian gần 70 năm về trước. Cả hai đứa mừng quá, ôm chầm lấy nhau, quên cả quan khách bên cạnh, và cùng rộn rã những tiếng “mày mày tao tao!” Cái sướng của tha hương ngộ cố tri mà, nhất là hai thằng bạn học cùng lớp, ngồi chung bàn của hơn nửa thế kỷ về trước, bây giờ nhìn nhau tóc đã bạc và khuôn mặt có thể đã đổi khác với những vết tàn phá của thời gian. Phải chờ khi người MC buổi lễ giới thiệu những người tham dự ở các tiểu bang xa về, nghe tên, trông mặt “nó” tôi mới nhận ra.

Có nơi gọi “mày-tao,” có chỗ gọi “mi-tau,” và cũng có vùng kêu “tớ với cậu” hay có một thời “toi với moi!” (toa-moa)

Một dịp khác, một buổi trưa ở cái vùng đất Little Saigon này, sau một buổi giới thiệu sách mới, ra xe đăng loay hoay tra chìa khóa mở máy, thì có tiếng gõ lên cửa, bên tay trái của tôi. Ngẩng đầu lên, tay xuống cửa xe, trong đầu óc vốn tối tăm, như có một tia chớp, miệng tôi bỗng thốt lên:

– Mi! Hậu. Nguyễn Hy Hậu phải không?

Một thoáng rất nhanh, tôi nhớ ra cả ngôi nhà, và tên đường và cả khuôn mặt của người bạn ngày xửa ngày xưa trong cái thành phố nhỏ thật thà, êm đềm ấy. Tôi bước ra xe, ôm lấy bạn. Đây là một người bạn thời tiểu học ở Huế, gia thế khá giả, được du học từ sau trung học, lưu lạc sang tới Pháp đã hơn nửa thế kỷ nay, học hành thành công, lấy bằng tiến sĩ hóa học, ở luôn xứ người không về nước. Trong suốt thời gian này, trong bạn bè tôi cũng chẳng bao giờ nhắc tên bạn, cũng không còn nhớ đến bạn. Thì ra thằng này, thường khi vẫn có dịp sang Mỹ chơi, biết tôi và vẫn thường “theo dõi” tôi, nhưng ở trong hội trường đông đúc, nó thấy bất tiện khi phải gặp lại một thằng bạn cũ mà không biết nó có nhớ mình hay không?

Hậu đi theo tôi ra xe, chờ khi tôi vào xe xong, sắp mở khóa chạy đi mới gõ cửa xe.

Tôi có một trí nhớ rất tồi, nhất là ở cái phần não thùy có chứa tên người, nên nhiều khi gặp người cũ mà ngớ ra, ấp úng một hồi rồi mới giả lả, quanh quẩn mà cũng không nhớ nổi cái tên. Cách đây hai năm, hồi nằm ở bệnh viện, có một bà bạn đến thăm tôi, lại mang quà cho, vậy mà mới tuần trước, trong một đám tang ở Bolsa, gặp lại chị, có lẽ thấy mặt tôi nghệch ra không vồn vã chào chị, chị vui vẻ hỏi:

– “Anh có nhớ tôi không?”

Tôi xin lỗi là hoàn toàn không nhớ, vì lấy lý do là nằm bệnh viện, thuốc mê nhiều quá, bây giờ “bộ nhớ” hư rồi.

Vậy mà trường hợp một thằng bạn thời thơ ấu, sau 70 năm, chỉ một thoáng, mà tôi nhớ ra tất cả. Nếu hôm đó, sau khi bạn cất công đi tìm tôi, mà tôi không nhớ ra, hẳn bạn buồn biết bao nhiêu! Trong khi bạn sống bình yên ở Pháp, không bao giờ nghe tiếng bom đạn, cũng như chẳng biết ánh sáng hỏa châu là gì, thì bạn bè một thời thơ ấu đều bị cuốn hút vào chiến tranh, nhiều đứa chết, đi tù, hay lưu lạc cùng khắp trái đất.

Từ nguồn ra, một dòng sông chia đi trăm ngả. Số phận không ai giống ai, mỗi người một hoàn cảnh, tâm tính đổi thay, người quên kẻ nhớ.

Tìm gặp lại được một thằng bạn cũ từ thời thơ ấu hay thiếu niên là món quà quý nhất! Cả một thời xưa hiện ra, tưởng chừng như mới hôm qua đây thôi.

Trong 30 cái “chẳng sướng ư!” của Kim Thánh Thán, có cái sướng 10 năm gặp lại bạn cũ, trong khi trước đó mấy nghìn năm, ông Khổng Tử cũng nghĩ như vậy: “Có bạn từ phương xa đến thăm, chẳng phải là điều vui mừng hay sao?” (Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ!)

Bây giờ dự những buổi tiệc tùng, cưới hỏi, lễ lạt với những khách phải bắt tay, cúi đầu, giới thiệu ông này bà nọ, với chức tước, danh xưng, làm sao vui, thoải mái bằng những cuộc gặp gỡ những đứa bạn thời xưa, ríu rít những tiếng “mày tao,” khỏi phải giữ gìn, khách sáo gì. Bạn thân thời thơ ấu, gọi là đã biết nhau, nhiều khi đấm vào ngực, vỗ vào vai hay chửi thề một câu cho đã miệng lúc mới gặp lại nhau. Nó không phải là điều bất nhã, mà là thứ ngôn ngữ cho biết hai người đã biết nhau lâu, phải có một thời gần gũi. Họ có những trò chơi chung, đã từng đi với nhau cùng một con đường, có thói quen giống nhau, có những người bạn chung và có những lỗi lầm thuở nhỏ mà chỉ riêng bạn mình biết!

Thế mà một người bạn của tôi đã gặp một trường hợp sượng sùng, khi anh cũng gặp lại một thằng bạn thời niên thiếu bất ngờ, đang “mày mày tao tao” thả giàn, thì bà vợ bạn ra chiều bất ý, lại nói thẳng:

– “Các anh bây giờ già đầu cả rồi, con đàn cháu đống, tôi không muốn anh gọi nhà tôi mày mày tao tao nữa!”

Thật ra, gặp lại một thằng bạn cũ, muốn giữ thể diện, kiểu cách với nhau cũng buồn, nhưng bỗng dưng như bị dội vào đầu một gáo nước lạnh, thôi thì cứ coi như chẳng hề quen biết nhau. Bạn bè ngày xưa còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, bây giờ đổi giọng ông ông, bà bà thấy ngượng nghịu làm sao ấy!

Chúng ta đã có cái dịp nào trong đời khi gặp một người bạn thân thiết ngày xưa, bây giờ là thượng tọa, gặp nhau trong một trai phòng, không “Bạch Thầy” mà gọi nó bằng “mày,” hay lính trơn gặp thằng bạn cũ nay là một đại tá chỉ huy trưởng ở chỗ nhà riêng mà thốt ra lời: “Không ngờ lại gặp mi ở đây!”

Cho đến lúc về già như hôm nay, vui khi còn được vài thằng bạn có thể xưng hô mấy tiếng “mày tao” để thấy mình không có tuổi, thời gian đứng lại. Những người không có bạn “mày tao” là những người không có tuổi thơ và cũng không có luôn dĩ vãng!

Tẩy chay, vũ khí của chúng ta

Tẩy chay, vũ khí của chúng ta

Tạp ghi Huy Phương

Nguoi-viet.com

(Hình minh họa: NOAH SEELAM/AFP/Getty Images)

Ở Hoa Kỳ, chúng ta chỉ có một cộng đồng tị nạn người Việt ở hải ngoại, không có quân đội, không có chính phủ, không có ngân khoản khổng lồ trong ngân hàng, nhưng thật sự là chúng ta có vũ khí trong tay. Đó là quyền sử dụng đồng đô la và quyền tẩy chay!

Dư luận tố cáo một tiệm bún bò Huế ở Bolsa còn lưu luyến chơi nhạc VC “Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây” trong quán ăn này, chúng ta có quyền tẩy chay không đến quán này nữa. Mở quán ăn, chủ nhân cần có khách, nhưng khách có thể chọn quán bún bò khác hay nghỉ ăn bún bò vì không muốn chịu nhục.

Chúng ta có quyền tẩy chay các ca sĩ, các đoàn văn công, các cuộc trao đổi văn hóa từ trong nước gửi ra với mục đích giao lưu hay trao đổi, mà không cần phải biểu tình, treo cờ, giăng biểu ngữ, la ó, chửi bới. Cách tốt nhất là xa lánh, không mua vé, không tham dự dù có giấy mời, không thèm đăng quảng cáo lấy tiền, thì đương nhiên sân khấu sẽ tắt đèn và ca sĩ, văn công sẽ cuốn gói về nước. Còn nói hô hào chống Cộng, chồng đã bị cầm tù, con chết vượt biên, mà còn trang điểm, ra tiệm làm tóc, mua vé danh dự để được ngồi hàng đầu, mỗi khi có gánh hát, có văn công, “soái ca” đẹp mã sang đây trình diễn, thì nên về nhà đóng cửa, soi kính, xem lại chân dung và bản sắc của mình.

Chúng ta có quyền tẩy chay các ca sĩ có gốc gác tị nạn, bây giờ kêu gào danh nghĩa quê hương, đồng bào, hòa giải, về quê hương “hát trên những xác người” vì những thương nữ này không muốn nghe, muốn thấy, bịt tai, nhắm mắt trước những sự thật đau lòng. Vì sao khi họ trở lại đây, chúng ta lại tiếp đón họ, chấp nhận cho họ đứng trên sân khấu hải ngoại, miễn họ biết đổi màu da cho thích hợp với phông cảnh sân khấu của mỗi nơi.

Chúng ta có quyền tắt TV, không đi xem ca nhạc, không bỏ một đồng bạc để mua vé, đi xem những ca, kịch sĩ, những tên hề hai mặt, đi đi, về về, sẵn sàng cười vào sự vô cảm, ngu ngơ của hải ngoại.

Nếu có quán ăn, dịch vụ sống nhờ trên đất tị nạn mà có lối văn hóa “bún mắng, cháo chửi” kiểu Hà Nội thì cho chúng trở về nơi hang ổ của chúng.

Cộng đồng tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại khi nghe tình cảnh của đồng bào trong nước hiện nay, mà nỗi oan khiên không kể hết, nên tẩy chay không gửi tiền, không du lịch Việt Nam, chứ không phải nuôi sống Cộng Sản mỗi năm lên hơn $10 tỷ, cuối năm “về quê ăn Tết,” với câu nhật tụng: “Việt Nam bây giờ đẹp lắm, vui lắm!”

Nói chung, chúng ta có vũ khí trong tay mà chưa biết dùng hay không muốn dùng.

Ở Việt Nam, vụ công ty nước ngọt Tân Hiệp Phát, sau khi tòa án tuyên phạt bảy năm tù đối với bị cáo Võ Văn Minh (Cái Bè, Tiền Giang), sau khi bị gài bẫy nhận 500 triệu đồng từ đại diện của Tân Hiệp Phát tại một quán giải khát, khi ông này tố cáo chai nước ngọt có ruồi chết. Bênh vực người cô thế, Tân Hiệp Phát đã bị làn sóng tẩy chay của dân chúng, không mua, không dùng sản phẩm của công ty này gồm tất cả 12 món hàng. Sơ khởi, Tân Hiệp Phát đã chịu thiệt hại nặng nề lên tới trên $90 triệu, và nếu dân chúng muốn chiến dịch tẩy chay này đi đến tận cùng thì Tân Hiệp Phát sẽ phải phá sản!

Tẩy chay được xem như là một thái độ bất hợp tác, không liên quan, không giao dịch nhằm đưa đối phương đến những khó khăn, gây thiệt hại cho bên bị tẩy chay. Phải nói là tẩy chay là một sức mạnh có thể làm kiệt quệ đối phương, gây ảnh hưởng không nhỏ, một cuộc chiến tranh không cần dùng đến vũ khí. Đối tượng của việc tẩy chay không chỉ là công ty kinh doanh tư nhân mà còn có thể một chính quyền thành phố hay tiểu bang.

Ở tầm mức lớn giữa một quốc gia với một quốc gia, đó là cấm vận.

Cấm vận là sự ngăn cấm quan hệ ngoại giao, viện trợ, buôn bán, đi lại, vận chuyển hàng hóa, trao đổi khoa học kỹ thuật… với một nước nào đó, được sử dụng như một sự trừng phạt chính trị do sự bất đồng về chính sách và hành động của quốc gia ấy.

Chúng ta thường nghĩ việc tẩy chay công ty kinh doanh tư nhân có ảnh hưởng đến số lượng hàng hóa bán ra, hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng bị sút giảm, nhưng thực tế gây thiệt hại rất nhiều, vì ảnh hưởng gián tiếp từ việc giảm giá cổ phần của công ty. Chúng ta chưa quên Target đã mất $10 tỷ cổ phần trong năm vừa qua vì bị thành phần bảo thủ tẩy chay chính sách cho người đổi giới (transgender) tự chọn nhà vệ sinh trong các cửa tiệm của họ, và mới đây, chỉ vì vụ kéo lê một khách hành, ông David Đào vừa qua trên sàn máy bay của United Airline, hãng máy bay này đã mất $1 tỷ chứng khoán. Việc mất giá cổ phiếu là do ảnh hưởng hình ảnh công cộng (public image) của công ty này trước công chúng.

Người Mỹ gốc Phi Châu đã tẩy chay việc đi xe buýt tại Montgomery, Alabama, để khởi động một cuộc đấu tranh trên phạm vi toàn quốc nhằm xóa bỏ nạn kỳ thị chủng tộc; người Ấn Độ tẩy chay hàng hóa của Anh do Thánh Gandhi khởi xướng; người Do Thái thành công khi tổ chức tẩy chay Henry Ford ở Mỹ, vào những năm 1920; người Trung Quốc tẩy chay các sản phẩm của Nhật sau phong trào Ngũ Tứ; người Do Thái tẩy chay hàng hóa của Đức Quốc Xã ở Lithuania, Mỹ, Anh và Ba Lan trong năm 1933; Mỹ dẫn đầu cuộc tẩy chay Thế Vận Hội Mùa Hè 1980 tại Liên Xô, và cuộc tẩy chay chống lại chính quyền phân biệt chủng tộc apartheid tại Nam Phi…

Ngay tại Mỹ, trong năm qua, “đạo luật phòng vệ sinh,” HB 2 của North Carolina, chỉ cho học sinh sử dụng theo giới tính lúc mới sinh ra, chứ không theo giới tính sau khi đã thay đổi, đã bị “tẩy chay” làm cho tài chánh tiểu bang bị thiệt hại lớn, từ việc công ty tài chính PayPal ngưng đặt một cơ sở khiến tiểu bang mất $2.66 tỷ cho ngân sách, đến việc ca sĩ người Anh Ringo Starr hủy bỏ cuộc trình diễn, làm cho nhà hát của một thành phố bị thất thu $33,000 và tiểu bang này có thể mất thêm hàng trăm triệu đô la vì Hiệp Hội Thể Thao Đại Học (NCAA) không tổ chức các cuộc thi đấu tại đây, nơi thường đứng ra đăng cai các sự kiện này. NCAA dự trù tẩy chay dài lâu khi loan báo địa điểm các trận thi đấu các giải vô địch từ nay cho đến năm 2022, sẽ không dành cho North Carolina. Thiệt hại vụ này lên đến $87.7 triệu.

Ngày nay Trung Quốc đầu độc cả thế giới với thực phẩm bẩn, hàng hóa thô sơ cẩu thả, cứ kiểm soát ngay các vật dụng trong gia đình mình, những gì đã phát xuất từ Trung Quốc, đều có thể đưa đến chuyện giết người. Từ cái xe nôi kẹp cổ trẻ em, đến món đồ chơi nhiễm nặng chất chì, sữa và sữa bột trẻ em đã bị lẫn hóa chất melamine, và chúng ta phải biết rằng tất cả thứ hàng hóa sản xuất từ quốc gia này đều dính máu của các công nhân nô lệ vị thành niên, mọi tù nhân khổ sai, gái mãi dâm, dân nghiền ma túy và học viên Pháp Luân Công trong cái nhà tù đau đớn, mạt hạng vĩ đại này.

Chỉ riêng năm 2013, Walmart đã nhập cảng hàng hóa Trung Quốc lên đến $49,1 tỷ, điều này cũng có nghĩa là Walmart đã làm mất 400,000 việc làm của dân Mỹ trong thời gian đó.

Ngay việc Trung Quốc hiện nay đang trở thành một loại thực dân mới, gieo hiểm họa cho cả thế giới, lấy đi hàng triệu việc làm, vơ vét tài nguyên, bắt đi các dân tộc này, giết họ, triệt sản họ hay pha giống với người Hán, cũng đủ cho cả thế giới tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, du lịch Trung Quốc. Những con buôn trong các siêu thị Á Châu tại Hoa kỷ sẵn sàng vì lợi nhuận với những món hàng rẻ, độc hại nhưng chúng ta quyết không đầu độc gia đình, con cháu chúng ta bằng thực phẩm Trung Quốc. Việc làm đó là tẩy chay!

Người Việt ở hải ngoại là những người mau quên. Sau Tháng Tư, 1975, không có gia đình nào không có người đi tù, không có người vượt biển, không có người khốn đốn vì chuyện đánh tư sản, đổi tiền, đuổi người đi vùng kinh tế mới, dãi dầu chốn chợ trời. Thế gian kêu gọi mọi người sẵn lòng tha thứ nhưng đừng quên, vậy mà người ta lại hay quên, đến nỗi trong tay có vũ khí mà chưa hề động thủ, thường than vãn mà không biết hành động, cuối cùng vì cái lợi của riêng mình, cái vui của gia đình mình mà quên hết cái đau của cộng đồng, cái khốn khổ của cả một dân tộc!

Nói như nhà thơ Nguyễn Chí Thiện: “Vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối!” và: “Lỗi lầm tại ai? Xét ra tất cả. Mấy ai người đem hết tâm can?”

Học chữ để làm gì?

Học chữ để làm gì?

Tạp ghi Huy Phương

(Hình minh họa: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Chưa bao giờ cái học trở nên vất vả cho nhiều học sinh như ở Việt Nam ngày nay. Phải đi bộ mất cả nửa ngày đường mới đến được trường để học “cái chữ,” các học sinh ở các vùng cao nguyên của Bình Định vẫn phải đến trường.

Ai cũng mủi lòng khi trời trở lạnh, mà thấy các em đến trường mong manh trong chiếc áo mỏng, chân đất không giày dép, đầy bùn đất, đỏ ửng. Trường thì bốn bề gió lộng, không có vách che chắn. Phần ăn trưa mang theo chỉ có nắm cơm với muối.

Đến trường, học sinh phải tự đu dây kéo bè, ghe tự vượt sông đến trường và về đến nhà khi trời đã tối mịt. Trong một trường hợp “bi thảm,” 19 em học sinh trong 57 em học sinh trường Lãng Khê, Nghệ An, phần lớn là gái, chết không tìm được xác, trong buổi sáng mùa mưa năm 2007, nước sông chảy xiết, thuyền nhỏ, chở nặng chết máy, bị sóng đánh chìm.

Cha mẹ như vậy, ai không khỏi xót xa chạnh lòng vì thương con, không cho con đến trường thì ngu dốt, mà cho con đi học, mạng treo sợi tóc, khốn khổ trăm bề, trong khi việc đồng áng không ai làm phụ, cơm ngày hai bữa không đủ ăn, tiền trường không đóng đủ, không áo quần cho con trẻ, lấy gì ăn để cho các con đi học.

Kỳ Anh là một trong những địa phương chịu thiệt hại nặng nề do thảm họa cá chết và đổ chất thải do công ty Formosa gây ra, cả nghìn học sinh tại địa phương này không đến trường trong năm học mới. Các phụ huynh cho biết nguyên do là họ không đủ tiền đóng học phí cho con. Mức học phí cho mỗi em là 1.7 triệu đồng, chính quyền cho giảm miễn 400,000 đồng, nhưng lấy đâu ra 1.3 triệu đồng để đóng cho con em, vì ngư dân không kiếm ra tiền, ngay hạt muối làm ra cũng không bán được.

Ở những nơi khác thì không thiếu những tệ nạn vô đạo đức của các giới chức trong ngành giáo dục, từ giáo viên đổi điểm lấy tính dục, hiệu trưởng khai gian, lạm thu nhiều khoản ngoài quy định của học sinh nghèo, cắt xén tiền ăn trưa của học sinh…

Trong tình trạng khó khăn của đời sống và hoàn cảnh xã hội như thế, nhiều phụ huynh học sinh nản chí, không muốn cho con đến trường để kiếm “cái chữ” như cách nói của người thiểu số vùng cao.

Vào thời buổi này, học chữ để làm gì?

Hơn 200,000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp đang được Bộ Lao Động xây dựng đề án xuất khẩu lao động kiếm việc làm ở nước ngoài.

Hàng chục nghìn thanh niên cần có tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật, tiếng Anh… để xuất ngoại kiếm việc làm, liệu có cần học tiếng Việt?

Quyền cao chức trọng trong xã hội này, chỉ cần lươn lẹo, luồn lọt, mềm lưng, phe đảng, hiến vợ, đâu cần đến kiến thức chuyên môn hay văn bằng thích hợp. Hoạn lợn như Đỗ Mười, bẻ ghi đường ray như Lê Duẫn gặp thời cũng là bậc Đế Vương, học luật trong rừng, đọc một tiếng Anh cơ bản “Made” chưa xong, cũng làm được Tể Tướng.

Thời nay có nên dạy con chữ trung tín, thật thà, để con chết đói không, hay nên dạy con mánh mung, luồn lọt!

Thời buổi sản sinh ra nhiều bí thư, chủ tịch, đại gia, thì đàn bà con gái, Trời cho có cái nọ, chẳng cần có thêm “cái chữ” làm gì!

Ở xứ “địa linh nhân kiệt” như đất Thanh Hóa, cô Trần Quỳnh Anh xuất thân chỉ là nhân viên tạp vụ (lao công tạp dịch) của liên đoàn lao động tỉnh, học vấn cỡ lớp Ba trường làng, nhờ nghệ thuật “lên giường” cũng được bí thư tỉnh ủy bổ nhiệm làm trưởng phòng nhà và bất động sản Sở Xây Dựng Thanh Hóa, một chức vụ dành cho những ứng viên có bằng đại học, tài sản không dưới triệu đô la. Nhờ thân xác Quỳnh Anh lại được ưu ái học thạc sĩ “tại chức,” được cử đi học lớp cao cấp lý luận chính trị để “làm hạt giống đỏ,” “cán bộ nguồn” và sắp sẵn vào vị trí phó rồi giám đốc Sở Xây Dựng Thanh Hóa nay mai, mà chẳng thấy đảng nói gì.

Ngay một tờ báo mang tên là Giáo Dục Việt Nam cũng công nhận: “Dù là do gì đi nữa thì phải thấy rằng, từ khi vòng 1 của các kiều nữ Việt căng tròn và đẫy đà hơn thì tên tuổi của họ cũng lên như ‘diều gặp gió.’ Một nhân vật ‘lừng danh’ của Việt Nam là Ngọc Trinh, xuất thân từ thị trấn Tiểu Cầu, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nghèo, học hành dở dang, nhưng nhờ cao 1m72, nhờ vòng số 1, số 3 phổng phao, eo thon, da trắng cũng trở thành “Nữ Hoàng Nội Y,” “Hoa Hậu Trang Sức,” “Người Đẹp Ăn Ảnh,” “ Siêu Mẫu Việt Nam.” Dù thiên hạ có ganh ghét gọi cô là” “chân dài não ngắn” hay “hoa hậu ao làng” gì gì đi nữa, giờ đây Ngọc Trinh cũng là chủ nhân khối tài sản hàng trăm tỷ đồng, nghĩa là có trong tay hằng triệu đô la, có đủ mọi thứ mà mỗi cô thiếu nữ Việt Nam lớn lên đều mơ ước.

Có nhan sắc như hoa hậu Lưu Thị Diễm Hương, thì dù trong thời gian ở Đại Học Hoa Sen, học hành quá tệ, bị 7 môn thi với điểm 0 và nhiều điểm 3, bị báo chí “lắm chuyện, ganh tỵ” phanh phui ra, thì cũng có sao đâu? Hoa hậu Thùy Dung chưa tốt nghiệp phổ thông, làm học bạ giả, cũng có sao đâu? Cái dốt không làm cho vòng eo con gái lớn ra, cũng không làm cho vòng ngực nhỏ lại kia mà.

Học chữ để làm gì, rốt cuộc sinh viên cũng… lên giường!

Các cụ ta ngày xưa vẫn khuyến học con cái bằng lời khuyên: “Ấu bất học, lão hà vi?” (nhỏ không học, lớn lên làm gì!). Ngày nay, dưới chế độ này, “Trí thức không bằng cục phân, chẳng bằng năm năm thẻ đảng!”

Xin các cụ đừng lo, ca dao thời đại lại có câu: “Học cho lắm tắm cũng ở truồng, học bình thường cũng cởi truồng rồi mới tắm!” Thời nay nghề ở truồng lại làm ra nhiều tiền hơn nghề mặc quần áo!

HẠNH PHÚC CÓ THẬT

 HẠNH PHÚC CÓ THẬT

 * Huy Phương

 

 

 

 

 

 

Đức Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vinh Khải Kỳ ngao du ngoài đồng, mặc áo cừu, thắt lưng dây, tay gẫy đàn cầm vừa đi vừa hát. Đức Khổng Tử hỏi:

“Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ như thế?” 

Ông Vinh Khải Kỳ nói:

“Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất mà ta được làm người. Trong loài người đàn ông quí hơn đàn bà mà ta được làm đàn ông. Người ta sinh ra có đui què, non yểu mà ta hoàn toàn khỏe mạnh, nay đã chín mươi tuổi. Đó là ba điều đáng vui, có gì mà phải lo buồn”. 

Đó là chuyện xưa bên Tàu. Chuyện nay bên Mỹ thì tôi vừa nhận được một thiệp Giáng Sinh, xin lược ghi lại vài câu hay hay để trình các bạn:

  1. Nếu bạn có thức ăn trong tủ lạnh, quần áo mặc trên người, một mái nhà để nương náu và một nơi để nghỉ ngơi, bạn đã giàu có hơn 75% dân số trên quả đất này. 
  2. Nếu bạn có tiền gởi trong ngân hàng, để trong ví và tiền lẻ rải rác đâu đó trong nhà, bạn đã ở trong 8% những người giàu có trên địa cầu này. 
  3. Nếu sáng nay thức dậy, bạn thấy khỏe mạnh hơn là đau ốm, bạn đã có phước hơn cả một triệu người sẽ không sống qua tuần lễ này. 
  4. Nếu bạn chưa bao giờ trải qua cơn dằn vật của đói khát, nguy hiểm của chiến tranh, lẻ loi vì tù đày hay đau đớn vì bởi tra tấn, bạn là người có phước hơn 500 triệu người trên hành tinh này. 
  5. Nếu bạn có thể đi đến nơi thờ phượng theo tôn giáo của bạn mà không sợ bị sách nhiễu, bắt bớ, nhục hình hay thậm chí bị mất mạng thì bạn đã có phước hơn 3 tỉ người trên thế giới này. 
  6. Nếu song thân của bạn còn sống và còn ở với nhau, trường hợp này rất hiếm hoi ngay tại nước Mỹ này. 
  7. Nếu bạn có thể đọc những dòng chữ này, bạn hạnh phúc hơn hai tỉ người khác mù chữ trên quả đất này.  

Và trong kinh Phật, chúng ta cũng đọc được những câu như sau: 

  1. Hạnh phúc thay, ta sống không hận thù giữa đám người thù hận.
  2. Hạnh phúc thay, ta sống mạnh khỏe giữa những người đau yếu.
  3. Hạnh phúc thay, ta sống không khao khát (dục lạc) giữa những người khao khát. 

Con người ta thường lạc quan hơn là bi quan: hy vọng trúng số độc đắc hơn là nghĩ mình sẽ chết chiều nay (số người chết vì tai nạn, bệnh tật trong ba ngày chờ xổ số ở Cali là hằng nghìn trong khi người trúng số độc đắc chỉ là một, hoặc đôi khi không có người nào).

Tuy vậy khi nhìn lại mình, hầu hết đều cho mình là khổ nhiều hơn là hạnh phúc. Chúng ta thường than cuộc đời buồn chán phải uống rượu, hút thuốc hay đánh bạc để giải sầu. Nào chuyện làm ăn khó khăn, nhà cửa bề bộn, chủ sở càu nhàu, gia đình xào xáo, mới bị ticket, con hư, bạn bè không tốt, trời hôm nay lạnh quá, kẹt xe trên xa lộ, bill ngập đầu…

Trời ơi, sao bao nhiêu chuyện khổ sở thế này? Tôi là người khổ nhất trên thế giới này… Bạn coi, có ai khổ hơn tôi không? 

Thật tình, các bạn, những người hôm nay giở trang báo này ra, tình cờ ghé thăm mục Tạp Ghi của chúng tôi, dù bạn đang ngồi trong xe, đứng ngoài đường, nơi chỗ làm việc, hay nằm nhà thì bạn là những người hạnh phúc nhất. Hạnh phúc vì những điều chúng tôi mạn phép ghi lại ở trên: 

  1. Mạnh khoẻ, mắt còn rõ và đọc được sách báo, có cơm ăn, có xe đi.
  2. Không thì cũng có tiền lên xe bus, có một mái nhà hay có thêm một hai người thân để tối nay có thể về nghỉ ngơi.
  3. Sum họp, trong ví chắc chắn là có tiền.
  4. Không nhiều thì ít, ăn được bát phở còn thấy ngon miệng, không bị ai hăm dọa, mắng nhiếc, đánh đập…

Ôi, quá sung sướng, hạnh phúc được làm người như bạn. 

Hiện nay chúng ta không làm ruộng mà có đủ cơm ăn, hơn hẳn những nông dân chân lấm tay bùn ở Việt Nam. Chúng ta không phải là phu mỏ mà có than đốt mùa đông, hơn cả triệu phu mỏ nghèo đói bất hạnh ở Trung Quốc. Chúng ta không dệt vải mà có áo quần mặc ấm, hơn cả trăm nghìn công nhân ngành dệt khốn khổ ở Bắc Hàn. 

Vậy mà cứ tới mùa Giáng Sinh vẫn có người đi theo Chúa khóc lóc, lải nhải: 

“Chúa ơi ! Chúa ơi ! Người ta lại bỏ con rồi, Chúa ơi !” 

Chúa bỗng quay lại nói với người ấy rằng:

“Con nhìn thế giới này chiến tranh, dịch bệnh, đói nghèo, tai ương, chết chóc, thù hận… Con có biết con là người hạnh phúc nhất không.

Hiện nay trên trái đất này có 800 triệu người bị vợ hay bạn gái đánh đập, mắng nhiếc hay khinh bạc mà không thể dứt ra, riêng con lại được nàng bỏ đi thì còn than vãn nỗi gì?

Nỗi khổ của con có đáng thá gì mà phải kể. Thôi về đi, chớ có theo ta mà rên rỉ mãi! 

Hy vọng đến đây, bạn có thể nở một nụ cười. Thêm một điều chứng minh rằng bạn đang hạnh phúc. Rồi ra bạn sẽ thấy được niềm hạnh phúc của mình, và xin nhắc nhở với mọi người là chúng ta đang sống trong hạnh phúc mà chúng ta không hề hay biết. Cũng xin bạn san sẻ hạnh phúc ấy với những người chung quanh bạn.

* Huy Phương

Chuyển từ Hùng Đỗ & Hồ Xưa