Một cô học trò của tôi mới mua một MÁY CHẠY BỘ (treadmill) được vài tháng nay, và kết quả cải thiện sức khoẻ rất khả quan.
Vậy mà sáng nay mặt mày cô buồn hiu, tôi hỏi thì cô nói rằng:
– Trong một bài viết lan truyền trên mạng xã hội mới đây, kể cả Facebook, có bài viết sau đây:
NHỮNG ĐIỀU BẤT NGỜ!
Người phát minh ra máy chạy bộ qua đời ở tuổi 54.
Người phát minh ra thể dục dụng cụ qua đời ở tuổi 57.
Nhà vô địch thể hình thế giới qua đời ở tuổi 41.
Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất thế giới, Maradona, qua đời ở tuổi 60.
NHƯNG…
Người phát minh ra KFC (Gà rán Kentucky) qua đời ở tuổi 94.
Nhà phát minh ra thương hiệu Nutella qua đời ở tuổi 88.
Hãy tưởng tượng, nhà sản xuất thuốc lá Winston qua đời ở tuổi 102.
Người phát minh ra thuốc phiện chết ở tuổi 116 trong một trận động đất.
Nhà phát minh ra Hennessy qua đời ở tuổi 98.
10.Làm thế nào mà các bác sĩ đã đi đến kết luận là tập thể dục kéo dài tuổi thọ?
Con thỏ luôn nhảy lên và nhảy xuống, nhưng chỉ sống được 2 năm, trong khi đó con rùa không vận động gì sống được 400 năm.
*****
NHẬN ĐỊNH –
Tôi đọc bài viết xong, bảo cô:
– Bài viết này tôi đã đọc. Toàn những điều sai quấy độc địa, không hiểu sao lại lan truyền đến tận giờ, mà lại có người tin!
Nguyên tắc tối thiểu của một thông tin là phải MINH BẠCH, CHÍNH XÁC và phải dẫn NGUỒN chứ! Có thể người viết biện bạch rằng mục đích của họ chỉ là trò cười, nhưng tôi nghĩ đó là bất nhân!
+ CÂU 1 – Người phát minh ra máy chạy bộ QUA ĐỜI Ở TUỔI 54!
Trả lời: SAI!
Có 3 nhân vật liên quan đến lịch sử phát minh và phổ biến MÁY CHẠY BỘ trên thế giới.
Thứ nhất là WILLIAM CUBITT (1785 – 1861) – một kỹ sư người Anh, thọ 76 tuổi.
Source : [ Sir William Cubitt | British inventor | Britannica]
Thứ hai là WILLIAM STAUB (1915 – 2012) – một kỹ sư người Mỹ, thọ 97 tuổi!
Source : [William Staub, Pioneer of Affordable Treadmill, Dies at 96 – The New York Times (nytimes.com)]
Thứ ba là KENNETH COOPER một bác sỹ người Mỹ, sinh năm 1931- năm nay đã 91 tuổi!
Source : [ CooperAerobics – Cooper Aerobics – Full Biography of Kenneth Cooper, MD, MPH]
+ CÂU 2 – Người phát minh ra thể dục cụng cụ qua đời ở tuổi 57!
Trả lời: SAI!
Người phát minh ra thể dục dụng cụ là thầy giáo dạy thể dục người Đức tên FRIEDRICH LUDWIG JAHN (1778 – 1852), thọ 77 tuổi!
Source : [ Friedrich Ludwig Jahn | German educator | Britannica]
+ CÂU 3- Nhà vô địch thể hình thế giới qua đời ở tuổi 41.
Trả lời : SAI!
Tuyệt đại đa số nhà vô địch thể hình thế giới sống điều độ không ai chết sớm thế.
Nói đúng hơn những năm gần đây có một số nhà thể hình thiệt mạng do dùng chất Steroid làm tăng cơ bắp.
Riêng trong năm 2021, có những tên tuổi thể hình thế giới thiệt mạng vì dùng chất cấm trên như sau: Shawn Rhoden (1975 – 2021) – 46 tuổi; George Peterson (1984 – 2021) – 37 tuổi; John Meadows (1972 – 2021) – 49 tuổi; Andy Haman (1966- 2021) – 55 tuổi.
+CÂU 4 – Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất thế giới, Maradona, qua đời ở tuổi 60.
Trả lời : SAI!
Diego Maradona là cầu thủ Argentina (1960 – 2020)– chết không phải do luyện tập bóng đá, mà vì bệnh tim mạch, hậu quả của một lối sống bê tha truỵ lạc, sử dụng ma tuý…
Từ giữa những năm 1980 cho đến năm 2004, Maradona nghiện COCAINE. Ông bị cáo buộc bắt đầu SỬ DỤNG MA TUÝ ở Barcelona vào năm 1983.
Source: [ Diego Maradona – Wikipedia tiếng Việt]
+ CÂU 5 – Người phát minh ra KFC (Gà rán Kentucky) qua đời ở tuổi 94.
Trả lời : Doanh nhân người Mỹ Harland Sanders người phát minh ra món gà rán KFC (1890 – 1980) – 90 tuổi.
Nhưng ông thọ không phải vì ăn gà rán, mà nhờ một lối sống điều độ và chừng mực.
Source: [ Colonel Harland Sanders – KFC, Story & Death – Biography]
+ CÂU 6- Nhà phát minh ra thương hiệu Nutella qua đời ở tuổi 88.
Ông Pietro Ferrero, người Ý, giám đốc Công Ty Ferrero, phát minh ra thương hiệu mứt Nutella (1898 – 1949) – 51 tuổi-
+ CÂU 7. Hãy tưởng tượng, nhà sản xuất thuốc lá Winston qua đời ở tuổi 102!
Trả lời : SAI!
Doanh nhân người Mỹ R. J. Reynolds sản xuất thuốc lá Winston (1850-1918) – 68 tuổi
+ CÂU 8- Người phát minh ra thuốc phiện chết ở tuổi 116 trong một trận động đất.
TRẢ LỜI : SAI!
Friedrich Wilhelm Adam Sertürner (1783- 1841) một dược sỹ người Đức phát hiện chất Morphine năm 1804; ông mất năm 1841, thọ 58 tuổi.
+ CÂU 9. Nhà phát minh ra Hennessy qua đời ở tuổi 98.
TRẢ LỜI : SAI!
Doanh nhân người Ireland tên là Richard Hennessy (1724 – 1800) sản xuất rượu Hennessy. Ông thọ 76 tuổi
+ CÂU 10-Làm thế nào mà các bác sĩ đã đi đến kết luận là tập thể dục kéo dài tuổi thọ? Con thỏ luôn nhảy lên và nhảy xuống, nhưng nó chỉ sống được 2 năm, trong khi đó con rùa không vận động gì sống được 400 năm.
TRẢ LỜI: Quý bạn thấy đó, những luận điệu vô căn cứ và bịa đặt trong 9 phát biểu trên đã được chỉ rõ! Bởi thế câu phát biểu thứ 10 là vô nghĩa và vô đạo đức.
Phải luôn biết rằng: Tập thể dục để sống khoẻ và đẹp là một chân lý!
Tuổi thọ của Thỏ từ 4 – 10 năm. Cớ gì hạ xuống còn 2 năm?
Rùa sống được từ 50 – 100 năm. Hãn hữu có một
vài loài Rùa cạn có thể sống đến 200 năm!
Cớ gì tăng đến 400 năm?
Rùa có di chuyển – nhưng không nhiều, chỉ vài km một ngày thôi. Tốc độ bò chậm khoảng 0,3km – 0,4 km / giờ, nhưng khi khẩn cấp nó có thể “ chạy” với vận tốc 10km/ giờ! Nghĩa là bằng với tốc độ chạy bền của một người bình thường đấy!
Riêng cơ chế sinh học đằng sau tuổi thọ của rùa phức tạp hơn. Tôi sẽ đề cập đến trong một bài khác. Ở đây chỉ xin vắn tắt thế này.
Một trong những thuyết được công nhận rộng rãi cho rằng tuổi thọ loài rùa có liên quan tới SỰ CHUYỂN HOÁ CHẤT chậm chạp của chúng.
Sự chuyển hóa chất là các quá trình vật lý cũng như hóa học diễn ra bên trong sinh vật để giữ cho chúng sống sót. Nói một cách chính xác hơn, chuyển hóa chất là quá trình tạo ra năng lượng.
Chuyển hóa chất chậm đồng nghĩa với việc rùa đốt năng lượng rất ít, giúp gia tăng tuổi thọ. Chúng có thể sống rất lâu mà không cần thức ăn. Hơn nữa, loài rùa nói chung di chuyển rất chậm nên cũng không tốn quá nhiều năng lượng.
Loài rùa còn có lớp mai cứng cáp bao phủ hầu hết cơ thể để bảo vệ chúng khỏi các loài săn mồi. Khi đã phát triển đầy đủ, rùa có thể tự bảo vệ bản thân khỏi hầu hết các loài.
Đặc biệt, chúng có lối sống rất lành mạnh. Chúng thường chỉ ăn rau, cây xanh, tránh khỏi các chất béo và cholesterol.
*****
TẠM KẾT-
Trên đây chỉ là một ví dụ về sự bất nhân của những thông tin khoa học nguỵ tạo – có thể gây hại cho cá nhân và cộng đồng. Xin quý thân hữu và các bạn lưu ý khi tiếp nhận thông tin, và không nên làm lan truyền những bài viết có hại tương tự.
Hãy luôn biết rằng: Tập thể dục để sống khoẻ và đẹp là một chân lý!
Ngày xưa, khi gã còn trẻ, ai nói đúng sai gì, gã cũng tìm cách phản bác.
Bây giờ già rồi, kinh nghiệm đầy mình, nhìn thấy cuộc đời muôn mặt, gã trở nên dễ dãi hơn, ai nói gì cũng… gật, ai nói gì cũng thấy có lý…
Gã nói: “Ấy là dấu hiệu đã về già”.
Rồi gã lại lẩn thẩn suy nghĩ: “Bao nhiêu tuổi mới gọi là già nhỉ?”
Hồi gã mới 14,15 tuổi, thấy các chị hàng xóm 18, đôi mươi, gã cứ nghĩ là những bà cô thuộc loại già khú đế!
Bây giờ, gần 60 tuổi, nhìn các bà 50 tuổi gã lại cho là trẻ, nhìn các mẹ bốn chục, gã cho là con nít ranh!
Thế thì, bao nhiêu tuổi mới gọi là già?!!!
Ở xóm trên có bà cụ tuổi 90, chiều qua, than vãn với gã:
“Giờ tôi còn khỏe, mai mốt già rồi chẳng biết nương dựa vào ai!”
90 tuổi mà còn nói: “…mai mốt già rồi…”.
Thế thì, bao nhiêu tuổi mới gọi là già?!!!
Mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, đừng tưởng mình sắp trở thành người thông thái, mà phải biết đó là chứng rụng tóc, đó là dấu hiệu của tuổi già…
Nếu mình thấy thiên hạ dường như trẻ lại, thì chính là mình đang già đi.
Những lúc khề khà bên chén rượu với mấy ông bạn đồng liêu, gã nói: Khi về già thì tai điếc đặc, nghe nhạc cứ như “đàn gảy tai trâu”. Nhưng có cái lợi là ai chê bai, trách móc, thậm chí chửi bới, mình cũng chẳng nghe. Họ nói, họ nghe.
Khi về già, mắt kém, đọc sách báo một lúc, chữ cứ nhòe đi, nghĩ cũng bực nhưng lại có thời gian đi tản bộ quanh làng ngắm cảnh thiên nhiên.
Khi về già, đầu óc không còn minh mẫn nữa, nói trước, quên sau. Cũng hay, bởi nhiều thứ đang cần vứt bỏ bớt đi cho tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng, giữ lại cũng chẳng sinh ích lợi gì mà khiến mình cứ phải suy nghĩ vẩn vơ.
Khi về già, chân tay trở nên lóng cóng, ăn uống không được gọn gàng, thức ăn rơi vãi ra ngoài, dính cả lên râu, lên mép. Gã nhớ đến câu chuyện đứa bé đẽo máng gỗ để dành cho cha mẹ lúc về già có cái mà dùng, thật là chí lý.
Khi về già, ăn uống thứ gì cũng phải kiêng khem. Kiêng mặn, kiêng ngọt, kiêng chất béo, kiêng thuốc lá, kiêng rượu,…
Riêng gã, kiêng gì cũng được, nhất định không kiêng rượu. Đi khám bệnh, cố nèo cho được thang thuốc bắc về ngâm rượu. Bữa cơm nào cũng phải có tí rượu. Chán rượu, có nghĩa là sức khỏe có vấn đề.
Gã quan niệm, kiêng cũng chết mà không kiêng cũng chết.
Chết là quy luật của tạo hóa.
Chết là một phần tất yếu của cuộc sống, nếu như không muốn nói đó là một kinh nghiệm kỳ thú mà mỗi chúng ta chỉ được trải nghiệm một lần duy nhất trên đời…
Ai rồi cũng sẽ chết, kẻ chết già người chết trẻ.
Người già chết, chúng ta mừng cho họ vì họ thoát khỏi hệ lụy trần gian, không còn là gánh nặng cho con cháu.
Người trẻ chết, chúng ta cũng mừng cho họ vì họ không còn phải bận tâm công ăn việc làm, cơm áo gạo tiền, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo yêu thương, giận hờn, ghen ghét, khỏi lo…
Khi về già, sức khỏe là vốn quý. Nhưng nếu không hề đau ốm, thì cũng rất nhàm chán, không cảm nhận hết được cái vốn quý ấy. Theo kinh nghiệm của gã, thỉnh thoảng nên ốm một trận.
Nhẹ thì chỉ cần bảo vợ con cho ăn bánh đúc mắm tôm, đấm lưng, cạo gió, nấu nồi nước xông. Xông xong rồi lau người cho khô, lên giường ngủ một giấc. Sáng mai thức dậy thấy đời tươi phơi phới!!!
Nếu bệnh nặng, phải đi nằm bệnh viện thì chớ vội nản lòng. Ngoài vợ con cháu chắt chạy ra chạy vào chăm sóc, thể nào cũng có một vài ông bạn cố tri tìm đến an ủi, thăm nom. Thế chẳng phải là hạnh phúc lắm ru?!
Nói thế thôi, khỏe mạnh thì vẫn hơn. Sáng sáng, ra đường đi bộ cho giãn gân cốt, hít thở khí trời trong lành, mà suy ngẫm về cuộc đời đã cho mình nhiều may mắn, mà tạ ơn Trời Đất.
Có một hôm, vô tình, không hẹn mà gặp, gã đi bộ cùng với bà hàng xóm. Chẳng biết bà nghĩ gì, nhưng gã thấy bà vui, gã cũng vui. Bà kể chuyện huyên thuyên, đủ mọi thứ trên đời, chẳng đâu vào đâu. Lúc chia tay, gã cảm thấy có một chút lưu luyến, bà ấy cũng vậy. Gã cảm thấy yêu đời hơn.
Gã cảm thấy yêu đời hơn, thế nên, gã đi nhuộm tóc. Tối hôm sau, gã rủ vợ đi ăn cơm tiệm. Chưa kịp yên vị, bà chủ tiệm hỏi: “Hai chị em dùng gì?”. Gã bực lắm. Hồi trẻ, chắc chắn sẽ to chuyện. Bây giờ già rồi, lão tự nhủ: “Một câu nhịn, chín câu lành”.
Già rồi, nhịn riết cũng quen.
Nhiều người già tự đặt cho mình một quy luật để sống, răm rắp tuân theo, sáng trưa chiều tối…
Gã nghĩ, thế cũng tốt nhưng khắt khe với bản thân mình quá thì cũng không nên.
Không nên để tâm bực bội những chuyện vu vơ.
Không nên tranh luận chuyện thiên hạ làm chi để hao mòn sinh lực, tổn hại tình thân hữu. Đánh cờ cũng vậy, đánh cờ là để giải trí, không nhất thiết phải thắng, thắng chưa chắc đã lợi, thua không hẳn là thiệt.
Già rồi, khi bị chê bai, gã cười, không buồn, không oán trách.
Già rồi, nghe thiên hạ khoe khoang, gã cứ giả vờ tin như thật. Gã chẳng mất gì mà làm cho thiên hạ sướng, lên tận mây xanh.
Già rồi, còn làm được gì giúp ích cho đời, cho gia đình, cho bản thân mình thì cố gắng mà làm. Đừng nuôi mộng ước cao xa để rồi đến chết vẫn không thực hiện nổi. Hôm trước gã đi thăm ông nhà văn sắp chết vì ung thư. Nằm thoi thóp trên giường bệnh mà cứ thở vắn than dài do tác phẩm để đời, ấp ủ bấy lâu nay, vẫn chưa viết được chữ nào!
Già rồi, thỉnh thoảng gặp gỡ bạn bè, lếu láo vài ba chung rượu, ôn lại buồn vui sự đời, đó là hạnh phúc.
Già rồi, còn gặp nhau được ngày nào biết ngày đó, nên phải trân trọng, yêu quý.
Già rồi, ai nói đúng sai gì, kệ họ. Cuộc đời muôn mặt, nên ai nói gì cũng có cái lý của riêng họ. Gã chỉ biết lắng nghe và cảm nhận.
Tiện đang nói về “già”, gã cầu chúc mọi người “già” thêm một tí, “lẩn thẩn” thêm một tí, “dở hơi” thêm một tí để tuổi già vui thêm một tí, để cuộc đời tươi thêm một tí và để thiên hạ “sướng” thêm một tí, “sướng” lên tận trời cao, ấy chứ lỵ….!
BẮC KINH – Trong ba thập kỷ, Jiang Lin giữ im lặng về cuộc tàn sát mà cô đã thấy trong đêm khi Quân đội Trung Quốc cho xe tăng lăn bánh qua Bắc Kinh để đè bẹp các cuộc biểu tình của sinh viên ở Quảng trường Thiên An Môn. Nhưng những ký ức ấy dày vò cô – về những người lính bắn vào đám đông trong bóng tối, họ ngã xuống vũng máu và tiếng gậy vụt khi có người lính dúi cô ngã xuống.
Cô Jiang là một trung úy trong Quân đội Giải phóng Nhân dân hồi đó, với cái nhìn trực tiếp về vụ thảm sát và một nỗ lực thất bại của các chỉ huy cấp cao khi can ngăn các nhà lãnh đạo Trung Quốc sử dụng lực lượng quân sự để đè bẹp các cuộc biểu tình dân chủ. Sau đó, khi nhà cầm quyền đưa người biểu tình vào tù và xóa sạch ký ức về vụ giết người, cô không nói gì, nhưng lương tâm đã không ngừng gặm nhấm cô.
Bây giờ, trong dịp kỷ niệm 30 năm ngày 4 tháng 6 năm 1989, bà Jiang, 66 tuổi, đã quyết định kể câu chuyện của mình lần đầu tiên. Bà nói rằng bà cảm thấy cần phải kêu gọi các lãnh đạo Trung Quốc một sự nhìn nhận công khai đối với sự kiện này, kể cả Chủ tịch Tập Cận Bình. Họ đã không bày tỏ sự hối hận về bạo lực.
Cơn đau đã gặm nhấm tôi suốt 30 năm qua, cô ấy nói trong một cuộc phỏng vấn ở Bắc Kinh. Những người tham gia phải lên tiếng về những gì họ đã biết. Đó là nhiệm vụ của chúng ta đối với người chết, những người sống sót và những đứa trẻ của tương lai.
Góc nhìn của cô Jiang làm sáng tỏ một góc khác. Các chỉ huy quân sự đã cố gắng chống lại mệnh lệnh sử dụng lực lượng vũ trang để giải tỏa những người biểu tình khỏi quảng trường mà họ đã chiếm trong bảy tuần.
Các sinh viên, chủ nghĩa duy tâm vô tư, tuyệt thực, quở trách các quan chức và những hành động táo bạo như xây dựng tượng Nữ thần Dân chủ trên quảng trường đã thu hút sự đồng cảm của công chúng và khiến các nhà lãnh đạo chia rẽ về cách ứng phó.
Cô mô tả vai trò của mình trong việc truyền bá một lá thư từ các tướng lĩnh cao cấp chống lại quân luật, và đưa ra chi tiết về những lá thư khác từ các chỉ huy cảnh báo giới lãnh đạo không được sử dụng quân đội ở Bắc Kinh. Và cô nhìn thấy trên đường phố những người lính thực hiện mệnh lệnh của nhóm đã bắn bừa bãi khi họ vội vã chiếm lại Quảng trường Thiên An Môn.
Ngay cả sau 30 năm, vụ thảm sát vẫn là một trong những chủ đề nhạy cảm nhất trong chính trị Trung Quốc, chịu sự nỗ lực bền bỉ và phần lớn thành công của chính quyền để xóa nó khỏi lịch sử. Đảng đã bỏ qua các cuộc gọi liên tục để thừa nhận rằng việc bắn súng vào học sinh và cư dân là sai lầm, và chống lại yêu cầu về một kế toán đầy đủ về số lượng người chết.
Chính quyền thường xuyên giam giữ các cựu lãnh đạo biểu tình và phụ huynh của học sinh và người dân thiệt mạng trong vụ đàn áp. Một tòa án đã kết án bốn người đàn ông ở tây nam Trung Quốc trong năm nay vì bán chai rượu có liên quan đến vụ đàn áp Thiên An Môn.
Trong những năm qua, một nhóm nhỏ các nhà sử học, nhà văn, nhiếp ảnh gia và nghệ sĩ Trung Quốc đã cố gắng ghi lại các chương trong lịch sử Trung Quốc mà đảng muốn lãng quên.
Nhưng quyết định thách thức sự im lặng của cô Jiang, mang một trách nhiệm chính trị vì cô không chỉ là cựu quân nhân mà còn là con gái của giới quân sự. Cha cô là một vị tướng, và cô sinh ra và lớn lên trong các hợp chất quân sự. Cô tự hào gia nhập Quân đội Giải phóng Nhân dân khoảng 50 năm trước, và trong những bức ảnh từ thời còn là một nhà báo quân đội, cô đứng rạng rỡ trong bộ đồng phục quân đội màu xanh lá cây, một cuốn sổ tay và máy ảnh treo trên cổ.
Cô chưa bao giờ tưởng tượng rằng quân đội sẽ quay súng chống lại những người không vũ trang ở Bắc Kinh, cô Jiang nói.
Làm thế nào số phận có thể đột ngột quay đầu để bạn có thể sử dụng xe tăng và súng máy chống lại người bình thường? Đối với tôi, đó là sự điên rồ.
Qian Gang, người giám sát cũ của cô tại Nhật báo Quân đội Giải phóng, hiện đang sống ở nước ngoài, đã chứng thực các chi tiết về tài khoản của cô Jiang. Cô Jiang đã chia sẻ hàng trăm trang màu vàng của một cuốn hồi ký và nhật ký mà cô đã viết trong khi cố gắng hiểu ý nghĩa của cuộc tàn sát.
Nhiều hơn một lần tôi mơ mộng đến thăm Thiên An Môn mặc đồ tang và để lại một bó hoa huệ trắng tinh khiết, cô viết vào năm 1990.
Cô Jiang cảm thấy sợ hãi vào tháng 5 năm 1989 khi tin tức trên đài phát thanh và truyền hình nổ ra với thông báo rằng chính phủ Trung Quốc sẽ áp đặt luật thiết quân luật đối với phần lớn Bắc Kinh trong nỗ lực giải tỏa những người biểu tình khỏi Quảng trường Thiên An Môn.
Các cuộc biểu tình đã nổ ra vào tháng Tư, khi các sinh viên tuần hành để thương tiếc cái chết đột ngột của Hồ Diệu Bang, một nhà lãnh đạo cải cách nổi tiếng, và đòi hỏi chính phủ sạch sẽ hơn, cởi mở hơn.
Bằng cách tuyên bố thiết quân luật trên toàn đô thị Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, lãnh đạo đảng đảng, đã báo hiệu rằng lực lượng vũ trang là một lựa chọn.
Cô Jiang vẫn hy vọng rằng những vụ ầm ĩ bên trong quân đội sẽ ngăn cản Đặng gửi lính đến để giải tỏa những người biểu tình. Nhưng vào ngày 3 tháng 6, cô nghe nói rằng quân đội đang tiến từ phía tây thành phố và bắn vào người dân.
Quân đội đã có lệnh dọn dẹp quảng trường vào đầu ngày 4 tháng 6, sử dụng bất kỳ phương tiện nào. Thông báo ra ngoài cảnh báo cư dân ở lại bên trong.
Cô đi vào thành phố bằng xe đạp để theo dõi quân đội tiến vào, biết rằng cuộc đối đầu đại diện cho một bước ngoặt trong lịch sử Trung Quốc. Cô biết mình có nguy cơ bị nhầm là người biểu tình vì cô mặc quần áo dân sự. Nhưng tối hôm đó, cô nói, cô không muốn bị đồng nhất với quân đội.
Đây là trách nhiệm của tôi, cô ấy nói. Công việc của tôi là báo cáo những tin tức lớn.
Cô Jiang đi theo những người lính và xe tăng khi họ tiến vào trung tâm Bắc Kinh, xông vào những cuộc phong tỏa tạm thời được hình thành bằng xe buýt và bắn dữ dội vào đám đông cư dân tức giận rằng chính phủ của họ đang sử dụng lực lượng vũ trang.
Cô Jiang nằm sát đất, tim đập thình thịch khi những viên đạn bay trên đầu. Những tiếng súng nổ và tiếng nổ từ những thùng xăng nổ tung làm rung chuyển không khí, và sức nóng từ những chiếc xe buýt đang cháy trên mặt cô.
Gần nửa đêm, cô Jiang đến gần Quảng trường Thiên An Môn, nơi những người lính đứng im lặng trước ánh lửa. Một người gác cổng lớn tuổi cầu xin cô đừng tiếp tục, nhưng cô Jiang nói rằng cô muốn xem chuyện gì sẽ xảy ra. Đột nhiên, hơn một tá cảnh sát vũ trang chán nản cô, và một số đánh đập cô bằng những cú điện. Máu tuôn ra từ đầu cô và cô Jiang ngã xuống.
Tuy nhiên, cô không rút thẻ xác định mình là nhà báo quân đội.
Hôm nay, tôi không phải là thành viên của Quân đội Giải phóng. Mùi tôi là một trong những thường dân bình thường.
Một người đàn ông trẻ đã đỡ cô trên chiếc xe đạp của mình để mang cô đi, và một số nhà báo nước ngoài đã nhanh chóng đưa cô đến một bệnh viện gần đó, cô Jiang nói. Một bác sĩ khâu vết thương ở đầu của cô. Cô nhìn, bàng hoàng, khi hàng chục người chết và bị thương đến.
Cảm giác giống như nhìn mẹ tôi bị hãm hiếp, cô nói. Điều ấy không thể chịu đựng được.
Cô Jiang đã do dự từ lâu để kể câu chuyện của mình. Chấn thương ở đầu năm 1989 khiến cô bị sẹo và đau đầu tái phát.
Cô bị thẩm vấn trong những tháng sau cuộc đàn áp năm 1989, và bị giam giữ và điều tra hai lần trong những năm sau đó về cuốn hồi ký riêng mà cô viết. Cô chính thức rời quân đội năm 1996 và từ đó sống một cuộc sống bình lặng, phần lớn bị chính quyền phớt lờ.
Khi nhớ lại các sự kiện qua nhiều cuộc phỏng vấn trong những tuần gần đây, giọng nói của cô Jiang Giang thường chậm lại và tính cách đầy nắng của cô dường như rút lui dưới cái bóng ký ức.
Trong nhiều năm, cô nói, cô đã chờ đợi một nhà lãnh đạo Trung Quốc tiến lên để nói với đất nước rằng cuộc đàn áp vũ trang là một lỗi thảm khốc.
Nhưng ngày đó không bao giờ đến.
Cô Jiang cho biết cô tin rằng sự ổn định và thịnh vượng của Trung Quốc sẽ rất mong manh miễn là đảng không chuộc lỗi.
Tất cả điều này được xây dựng trên cát. Có một nền tảng vững chắc, cô nói. Nếu bạn có thể phủ nhận rằng mọi người đã bị giết, thì mọi lời nói dối đều có thể.
BBC Vietnam: “Xe tăng chạy tới lui trên thi thể những người bị giết chết, cho đến khi xác của họ bị nghiền nát. Những gì còn lại sau đó bị xe ủi chất thành đống, để rồi bị súng phun lửa thiêu ra tro”.
Cựu Thủ tướng Úc Bob Hawke nói trong nước mắt khi ông đọc lại báo cáo từ tòa đại sứ Úc ở Bắc Kinh, 5 ngày sau cuộc thảm sát diễn ra trên Quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989.
“Nghiền nát tâm hồn và thân xác của tuổi trẻ, có khác nào nghiền nát tương lai của chính đất nước Trung Quốc,” ông nói trước các sinh viên Trung Quốc đang có mặt tại lễ tưởng niệm ở tòa nhà Quốc hội Úc, nhiều người quấn băng tang.”
Ngày này 30 năm trước, lãnh đạo Trung Quốc đã gây một tội ác vô cùng dã man đối với chính những người trẻ đẹp nhất của họ. Đây là một vết nhơ tởm lợm ngàn đời không rửa được của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Có lẽ vì vậy mà chúng ta được xem những clip chứng tỏ sự vô cảm gần với súc vật của xã hội Trung Quốc ngày nay.
Ở Việt Nam, những kẻ mang danh con người với trái tim dã thú nên ngẫm về sự kiện này. Khi con người mất đi những giá trị đẹp đẽ thì chúng là những con vật ghê tởm và đáng sợ nhất. Mà bạn biết rồi đấy, con vật thì không thể sinh ra được con người, không thể vẽ ra được những điều quý giá để dạy con cháu khi chính chúng không thuộc những bài học ấy. Chưa nói tới luật nhân quả nhưng chắc chắn là khi làm một hành động tàn ác, lương tâm chúng sẽ mãi mãi không yên. Mà sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn lại là điều tuyệt vời nhất của CON NGƯỜI, phải không các bạn?
Trong một trận đấu bò căng thẳng tột độ, matador Álvaro Múnera đã làm điều không ai ngờ tới. Khi đám đông cuồng nhiệt đang chờ đợi cú đâm kết liễu, anh đột ngột lùi khỏi con bò, chậm rãi bước về phía rìa đấu trường và ngồi xuống. Cả khán đài sững sờ chìm trong im lặng.
Sau này, anh kể lại khoảnh khắc đã làm thay đổi cả cuộc đời mình:
“Lúc ấy, tôi quên đi nguy hiểm từ cặp sừng. Thứ duy nhất tôi thấy là đôi mắt của nó – không phải ánh mắt giận dữ, mà là ánh nhìn vô tội. Nó không tấn công tôi, nó đang cầu xin được sống. Tôi chợt hiểu ra: đây không phải là một trận chiến, mà là sự tàn nhẫn không thể biện minh. Tôi buông kiếm, rời khỏi đấu trường và thề sẽ không bao giờ chiến đấu nữa. Từ nay, tôi sẽ đấu tranh – chống lại một thế giới biến nỗi đau thành trò tiêu khiển.”
Múnera đã quay lưng với đấu bò, trở thành một nhà hoạt động bảo vệ động vật đầy nhiệt huyết, cất tiếng nói cho những sinh linh mà anh từng đối đầu.
Câu chuyện của anh là minh chứng cảm động cho sức mạnh của lòng trắc ẩn và dũng khí để thay đổi.
Đôi khi, chỉ một khoảnh khắc kết nối là đủ để ta nhìn thế giới bằng một đôi mắt hoàn toàn khác.
Sẽ đến lúc bạn nhận ra rằng vàng bạc châu báu trên đời này chẳng có thể mua được sức khỏe, sự tận hưởng hạnh phúc mỗi ngày.
Cuộc đời con người có thể vì TIỀN mà vào sinh ra tử, cả nửa cuộc đời ai cũng mong mình có nhiều tiền tài, vật chất để có cuộc sống sung sướng. Nhưng rồi tiền tài cũng tựa như xiềng xích, càng tham lam thì càng tự đào hố để chôn mình.
Chừng nào chúng ta càng để đồng TIỀN chi phối, trở thành nô lệ của đồng TIỀN thì chừng đó chúng ta chưa thể có được hạnh phúc.
Rất nhiều người dành cả tuổi trẻ, sức khỏe để kiếm TIỀN, lao vào con đường làm việc không ngừng nghỉ với quan điểm: “Còn trẻ là còn làm việc”. Nhưng tiền kiếm ra mà không biết tiêu xài cho bản thân thì đâu còn ý nghĩa gì nữa.
Trên đời này chiếc giường đắt giá nhất đó chính là giường bệnh. Kiếm TIỀN cả đời rồi về mang đốt hết vào nằm viện, TIỀN thuốc thang thì đâu còn gì là hạnh phúc nữa.
Người chết vì tiền tài là đau khổ nhất, đừng để danh vọng, tiền tài và vật chất che mờ đôi mắt, buông thả ham muốn vô độ, cuối cùng đánh mất chính mình.
Có những đêm ở Manila không cần trăng, ánh đèn đường cũng đủ soi rõ những vũng máu chưa kịp khô. Đó không phải tai nạn, càng không phải tai ương. Đó là chính sách. Và người ban hành chính sách ấy là Rodrigo Duterte.
Khi súng nổ từ miệng Tổng thống
Từ năm 2016, khi Duterte bước vào điện Malacañang với tư cách Tổng thống, ông mang theo một lời hứa giản đơn đến rùng mình: “Tôi sẽ giết lũ nghiện.” Không phải “xử lý,” không phải “cải tạo” – mà là “giết.” Và ông đã thực hiện lời hứa đó một cách triệt để.
Chiến dịch chống ma túy do ông phát động – mang tên “Oplan Tokhang” – không chỉ truy quét tội phạm, mà giết luôn cả người bị nghi là tội phạm. Không cần tòa án. Không cần chứng cứ. Chỉ cần một cáo buộc từ ai đó trong xóm. Cảnh sát, hoặc dân phòng, hoặc “tay súng lạ mặt,” sẽ thay trời hành đạo.
Tính đến khi ông rời nhiệm sở năm 2022, theo chính phủ, có hơn 6.200 người chết. Theo các tổ chức nhân quyền quốc tế: trên 30.000 người. Trong đó, có cả trẻ vị thành niên. Có cả người vô tội.
Động cơ chính trị – hay chiếc mặt nạ của độc tài?
Có người bênh ông: “Ông ấy chỉ muốn bảo vệ dân.” Nhưng cách bảo vệ ấy sao mà giống tàn sát?
Khi Duterte làm thị trưởng Davao trước đó, ông đã sử dụng “biệt đội tử thần” – Davao Death Squad – để giết nghi phạm. Thành công ấy, ông mang lên cả quốc gia.
Chiến dịch ma túy không chỉ nhằm “diệt trừ” ma túy – nó còn là công cụ chính trị. Ai trái ý? Kẻ chỉ trích? Báo chí độc lập? Nhân quyền quốc tế? – đều có thể bị gán cho cái mác “bảo kê ma túy.” Từ đó, dư luận bị chia cắt: một bên khiếp sợ, một bên tung hô “người hùng hành động.”
Chống ma túy, thực chất, trở thành quân bài dân túy. Duterte khoác áo đạo đức lên nòng súng của mình.
Người ủng hộ – kẻ lên án
Trong nước, không ít người hoan hô ông. Những khu nghèo nơi cái chết là quen thuộc, họ coi ông như “vị cứu tinh.” Báo chí thân chính phủ thì biến từng xác chết thành chiến công. Họ tin rằng xã hội cần một bàn tay sắt.
Nhưng cũng chính trong lòng dân, có tiếng nức nở. Có những bà mẹ ôm xác con vì bị bắn nhầm. Có luật sư, giám mục, nhà báo dũng cảm lên tiếng và rồi bị đe dọa. Tổ chức Human Rights Watch gọi chiến dịch ấy là “vết nhơ cho nhân loại.”
Hậu quả và lời buộc tội từ thế giới
Khi Duterte mãn nhiệm, ông tưởng đã thoát. Nhưng Công lý có trí nhớ. Năm 2021, Tòa Hình sự Quốc tế (ICC) mở điều tra. Đến tháng 3/2025, ông bị bắt tại sân bay Manila – bị cáo buộc tội “chống lại loài người” (crimes against humanity).
Tội ác chống lại loài người là một khái niệm pháp lý: khi nhà nước – hoặc một hệ thống cầm quyền – tổ chức các cuộc tấn công có hệ thống, nhắm vào dân thường. Duterte phù hợp cả ba yếu tố: quy mô, chính sách, chủ ý.
Hệ quả không chỉ nằm ở xác người. Nó còn ở niềm tin lung lay vào pháp quyền. Khi lãnh đạo ra lệnh giết người không cần xét xử, thì ranh giới giữa chính phủ và mafia là gì?
Một lời cảnh tỉnh
Duterte không phải người đầu tiên dùng bạo lực nhân danh đạo đức. Ông chỉ là minh chứng mới nhất cho sự nguy hiểm của chủ nghĩa độc đoán dân túy – nơi cái thiện bị cưỡng bức theo ý kẻ cầm quyền.
Nhân dân có thể vì sợ hãi mà im lặng. Nhưng lịch sử thì không. Và nay, trước Tòa án Hình sự Quốc tế, lịch sử đang hỏi ông:
“Nhân danh điều gì, ông đã giết cả một thế hệ người nghèo?”
Chuyện kể rằng, có một quốc gia nọ muốn dùng phương pháp khoa học để tuyên truyền thuyết ‘Vô Thần’.
Để chứng minh không có thần linh và muốn người dân không có tín ngưỡng, không tin vào Thần, Phật, Chúa, …
Họ mời 3 vị tiến sĩ lên thuyết giảng trước công chúng.
Người đầu tiên bước lên bục diễn thuyết là một vị tiến sĩ thiên văn.
Ông lý giải về thuyết Vô Thần.
Cuối cùng ông nói lớn: Tôi đã dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ trong hơn 20 năm nhưng chưa bao giờ trông thấy Thần.
Vì thế chắc chắn là không có Thần linh!
Một tràng pháo tay của quần chúng.
Người thứ hai là tiến sĩ Y khoa.
Ông nói rất nhiều về con người, tuyệt nhiên cho rằng, thế giới này không có linh hồn.
Ông tuyên bố:
Tôi đã từng giải phẫu hàng trăm thi thể, quan sát tỉ mỉ các bộ phận.
Nhưng không phát hiện có nơi nào để linh hồn gửi gắm.
Trong tim ư?
Trong đầu ư?
Trong máu ư?
Tôi đều giải phẫu nhiều lần nhưng không thấy gì cả.
Vì thế chắc chắn, không có linh hồn!
Một tràng pháo tay nữa vang lên.
Người thứ ba là một nữ tiến sĩ, nhà luận lý học. Bà ta nói:
Người chết giống như cái đèn bị tắt.
Chết là hết, tuyệt đối không có cái gọi là Thiên Đàng hay Địa ngục để phán xét.
Tôi từng đọc qua các sách cổ kim Đông Tây nhưng không thấy ghi chép gì về chuyện này.
Sau khi ba tiến sĩ thuyết giảng xong.
Người chủ trì hướng về phía công chúng nói lớn: Nếu ai cảm thấy không thỏa mãn, hoặc muốn tranh luận, đều có quyền lên phát biểu công khai!
Một bà cụ bước lên sân khấu, nói với người chủ trì: Tôi có thể hỏi vài câu hỏi được không?
Người chủ trì nói: Rất hoan nghênh cụ!
Bà cụ nhìn vị tiến sĩ đầu tiên:
– Anh dùng kính viễn vọng nhìn được hơn 20 năm.
Thế anh có nhìn thấy gió không?
Nó có hình dạng thế nào?
Tiến sĩ trả lời:
– Thưa cụ, kính viễn vọng sao có thể trông thấy gió?
Bà tiếp lời:
– Trên thế giới có gió nhưng anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy gió. Anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy Thần linh, sao có thể hồ đồ kết luận, không có Thần linh?
Vị tiến sĩ đầu tiên im lặng.
Bà cụ quay sang vị tiến sĩ Y khoa là chuyên gia giải phẫu:
– Anh có yêu vợ anh không?
Vị tiến sĩ:
– Dạ, có yêu. thưa cụ!
Bà cụ tiếp lời:
– Vậy anh đưa con dao giải phẫu cho tôi, tôi thử mổ bụng anh xem thử cái gọi là ‘yêu’ đó nằm ở bộ phận nào?
Trong gan ư?
Trong dạ dày ư?
Hay trong ruột ư?
Hay tim?
Mọi người cười vang.
Cuối cùng, bà cụ lại nhìn sang nữ tiến sĩ:
– Cô đã đọc quyển sách này chưa?
Nó gọi là ‘Kinh Thánh’.
Chẳng phải quyển sách này rõ ràng có nói rằng, mọi người sau khi chết đều phải chịu phán quyết dựa trên những việc làm của mình khi còn sống đó sao?
Cô đừng tưởng chết là hết.
Phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống vô vàn!
Bà cụ nói tiếp:
– Khi cô còn là bào thai trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng, không lâu nữa cô sẽ có mặt trên trái đất, ở đó có trời, trăng, núi và biển nhưng cô sẽ phải ăn cơm mặc quần áo, cô có tin không? Lúc đó cô chỉ loanh quanh trong bụng mẹ, cảm thấy thế giới này đối với cô chật chội như thế.
Nhưng hôm nay, cô không chỉ tin mà còn thực sự đã và đang sống trong không gian này, chứng kiến trời, biển, núi, sông.
Thế giới sau khi chết rồi, cuối cùng, cô cũng sẽ biết thôi!
Hàng tràng pháo tay không dứt vang lên tán thưởng bà cụ.
« Những gì chúng ta chưa nhìn thấy không có nghĩa là nó không tồn tại, những gì chúng ta biết được của ngày hôm nay chưa phải là những gì chúng ta sẽ biết vào ngày mai.
Hãy luôn mở lòng và đón nhận những điều kỳ diệu quanh ta! »
Vụ một người dân vào Đại Nội Huế bẻ gãy ngai vàng của vua nhà Nguyễn cho thấy nhiều vấn đề về việc bảo vệ di tích lịch sử, bảo tồn bảo vật quốc gia.
Sáng 24 Tháng năm, ông Phương Tâm mua vé vào cổng Đại Nội Huế. Vào khu vực điện Thái Hòa, ông leo qua hàng rào bảo vệ, ngồi lên ngai vàng triều Nguyễn rồi bẻ phần tựa bên trái của ngai vàng, đập phá làm gãy thành nhiều mảnh. Vụ việc này khiến người dân quan tâm hơn tới ngai vàng của một đế chế hùng mạnh nhất lịch sử Việt Nam.
Ông Phương Tâm nghiễm nhiên vào Đại Nội Huế bẻ gãy ngai vàng của vua nhà Nguyễn. (Hình chụp qua video/báo Dân Trí)
Người Việt đã coi nhiều bộ phim về các hoàng triều tại Trung Quốc, nên trong hình dung của người dân, ngai vàng phải hoàn toàn được làm bằng vàng rồng, uy nghi lộng lẫy thể hiện vị thế của nhà vua. Rồi xảy ra vụ ngai vàng bị bẻ gãy, khiến dư luận bất ngờ vì ngai vua chẳng khác gì cái ghế bình thường, được bọc thêm một ít vàng mỏng mà thôi.
Có người đặt nghi vấn rằng liệu ngai vua có bị làm giả, thay thế ngai vàng nguyên bản thành sản phẩm trưng bày hay không? Nhưng nếu coi lại các hình ảnh sử liệu chụp từ lúc các vua nhà Nguyễn còn tại vị, cũng là cái ghế bằng gỗ đơn sơ. Sử sách ghi lại là ngai được làm bằng gỗ quý, chạm khắc tinh xảo, sơn son thếp vàng chứ cũng không phải bằng vàng ròng toàn bộ.
Một số tài liệu cho rằng ngai vàng này được làm từ thời vua Gia Long, hoặc vua Minh Mạng, sau đó được vua Khải Định cho sửa lại vào năm 1923.
Nhắc lại một chút về lịch sử, Gia Long là vị hoàng đế đầu tiên có công thống nhất hai miền Nam – Bắc trọn vẹn từ Ải Nam Quan tới mũi Cà Mau. Nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê thì chỉ gồm miền Bắc và một phần miền Trung. Tới thời Trịnh – Nguyễn phân tranh thì mỗi bên chiếm giữ một nửa. Thậm chí thời Quang Trung Nguyễn Huệ tuy mạnh nhưng cũng không thể thống nhất đất nước được. Đại Việt giai đoạn đó tới ba người xưng vương xưng đế, gồm Nguyễn Huệ xưng đế lấy hiệu là Quang Trung, đóng đô ở Phú Xuân (Huế); anh ruột Nguyễn Huệ là Nguyễn Nhạc cũng xưng đế, lấy hiệu là Thái Đức, đóng đô ở Quy Nhơn (Bình Định); và Nguyễn Ánh xưng vương ở Nam bộ. Khi Nguyễn Nhạc từ bỏ đế hiệu, nhường toàn quyền lại cho Nguyễn Huệ thì Nguyễn Ánh cũng đang dần lấy lại thanh thế ở miền Nam. Tức là giai đoạn đó vẫn có hai vua phân chia đất nước.
Chỉ tới khi đánh bại hoàn toàn quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu Gia Long, đổi tên nước thành Việt Nam thì đất nước mới thống nhất, giang sơn liền một dãy. Nói như vậy để thấy sự hùng mạnh và những chiến công lỗi lạc của vua Gia Long. Nếu ngai vàng được làm vào thời Gia Long thì nó quá đơn giản so với vị thế của nhà vua lúc đó.
Chưa hết, con trai vua Gia Long là vua Minh Mạng còn nâng tầm đất nước lên thành một siêu cường trong khu vực thời bấy giờ. Vua Minh Mạng đổi tên Việt Nam thành Đại Nam. Thôn tính gần như toàn bộ Chân Lạp (Campuchia) và Ai Lao (Lào), thời vua Minh Mạng thì biên giới Đại Nam từng giáp với Thái Lan. Vua Minh Mạng đã mở rộng diện tích lãnh thổ lên một con số chưa từng có trong lịch sử người Việt: tới 557,000km2 (bây giờ chỉ là 331.698km2). Nếu vua Minh Mạng cho làm ngai vàng này thì có thể thấy nhà vua quá khiêm tốn so với tầm vóc vĩ đại mà ông đã đóng góp cho giang sơn đất nước.
Trong khi đó, cái ghế của các quan chức cộng sản thì uy nghi bệ vệ gấp 100 lần ngai vua. Cái ghế đáng chú ý nhất là ghế của ông Nông Đức Mạnh. Năm 2015, dư luận dậy sóng với hình ảnh ông Mạnh ngồi tiếp khách trên ghế chạm trổ hình rồng, nội thất dát vàng toàn bộ.
Ngai vàng trong nhà ông Nông Đức Mạnh. (Hình: báo Tiền Phong)
Ngoài ghế ông Mạnh ra thì cũng hiếm khi thấy các lộ ra nội thất trong nhà các quan chức cộng sản. Vì họ giấu rất kỹ hình ảnh bên trong nhà để tránh bị dân lên án. Nhưng nhìn vào bề ngoài biệt phủ của những bí thư, chủ tịch cấp tỉnh, cấp huyện, hoặc công an, giám đốc, trưởng phòng các sở ban ngành thì có thể đoán chắc rằng cái ghế nhà quan không hề đơn giản như ngai vua.
Cũng có một số hình ảnh chỉ bị lộ ra khi quan huyện bị khám nhà, chụp hình đăng báo để dễ hình dung. Như nhà ông Đặng Thanh Minh, phó bí thư kiêm chủ tịch huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu). Lúc ông Minh bị công an bắt (2022), công an tới xét nhà, ông Minh ngồi trên cái ghế làm bằng gỗ quý, chạm khắc hình hai con rồng bên tay vịn. Bộ ghế này bự mấy lần ngai vua nhà Nguyễn.
Bộ ghế nhà ông Đặng Thanh Minh, phó bí thư kiêm chủ tịch huyện Xuyên Mộc. (Hình: báo Bà Rịa – Vũng Tàu)
Thậm chí các thầy tu cộng sản, sống bằng tiền bố thí của người dân còn ăn xài xa hoa, bàn ghế lộng lẫy hơn ngai vua chứ đừng nói gì các cán bộ quan chức nhà nước. Như ông Thích Trí Quảng, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo CSVN thì thường xuyên ngồi trên những cái ngai gỗ quý tiền tỷ, chạm rồng tinh xảo.
Sự đối lập giữa ngai vàng của các hoàng đế triều Nguyễn và ghế ngồi của quan huyện, sư sãi cộng sản cho thấy sự xa hoa của đám tham quan, ma tăng thời nay khủng khiếp như thế nào. Chưa kể, ngai vua thì chỉ có một, nhưng ngai của các ma tăng sư sãi thì rất nhiều, từ trung ương tới mỗi tỉnh, mỗi huyện, mỗi xã đều có… Mà lũ sâu dân mọt nước đó càng ngày càng nhiều. Người sau tiếp bước người trước, nên ngai quan sẽ ngày một nhiều thêm, chứ không chỉ có một như ngai vua.
Kẻ Đi Tìm: Ngày xưa dưới thể chế của Việt Nam Cộng Hòa áp lực thi cử và sự quan trọng của bằng cấp đã làm một vài thí sinh buồn tủi và tự vận, quyên sinh. Ngày nay, có lẽ áp lực cũng không kém nhất là ở những nơi như Trung Cộng, mời các bạn xem chuyện áp lực mùa thi.
Bức thư tuyệt mệnh đau lòng của một cô gái 18 tuổi tự tử vào tháng 4 đã làm dấy lên cuộc thảo luận trực tuyến về gánh nặng học tập nặng nề mà trẻ em ở Trung Cộng phải chịu đựng.
Trong thư, cô gái – đang học năm cuối tại một trường trung học hàng đầu ở Bạng Phụ, một thành phố ở tỉnh An Huy, miền trung của Trung Cộng, cô đã viết về áp lực phải học thật giỏi và cho biết cô đã bị gục ngã bởi các kỳ thi liên tục, đặc biệt là môn toán và vật lý.
“Em không thể chịu đựng được cách anh tỉ mỉ kiểm tra điểm của tất cả các kỳ thi và bài kiểm tra. Em không thể chịu đựng được cách điểm của em xuất hiện thường xuyên trong các tin nhắn văn bản giữa anh và bạn bè và người thân của anh. Nhưng sau đó anh sợ rằng em có thể nhìn thấy chúng và anh đã bí mật xóa chúng sau đó”, cô gái nói trong bức thư được viết ở mặt sau của các bài kiểm tra của trường, được đăng trên phương tiện truyền thông xã hội gần đây.
Cô gái cho biết cô đã căng thẳng đến mức không thể ăn gì vào ngày trước kỳ thi và tình trạng căng thẳng đã trở nên nghiêm trọng đến mức cô quyết định kết thúc cuộc đời mình.
Cô gái này đang theo học tại một trường trung học ở Bạng Phụ, tỉnh An Huy. Ảnh: Getty Images
Cha cô bé cho biết trong tin nhắn gửi cho bạn bè và người thân rằng con gái ông đã che giấu cảm xúc của mình, và ông kêu gọi các bậc phụ huynh khác chú ý hơn đến sức khỏe tâm thần của con mình . Ông cho biết trong tin nhắn được lan truyền trực tuyến rằng cô bé luôn làm tốt trong các kỳ thi và thường có điểm cao nhất hoặc cao thứ hai trong lớp.
Cái chết của cô gái này không phải là một vụ việc đơn lẻ ở Trung Cộng – số liệu thống kê chính thức cho thấy số ca tử vong do tự tử ở trẻ em và thanh thiếu niên đang gia tăng. Và các chuyên gia cho biết, học quá nhiều và áp lực từ quan niệm truyền thống rằng thành tích học tập là con đường duy nhất dẫn đến thành công là những yếu tố.
Mặc dù thỉnh thoảng có báo cáo về việc học sinh tự tử, vẫn còn rất nhiều vụ tự tử không được đưa tin trên phương tiện truyền thông.
Ví dụ, trong một cuộc họp báo gần đây, các cơ quan giáo dục đã thông báo rằng có năm học sinh từ các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông tại một thành phố ở An Huy đã tự tử chỉ trong một tuần vào tháng 3, theo lời một phụ huynh tham dự cuộc họp báo và từ chối nêu tên.
Số liệu thống kê mới nhất về tình trạng tự tử trên toàn quốc đối với trẻ em và thanh thiếu niên là từ năm 2021 và được trích dẫn trong một bài báo do hai cảnh sát Hà Nam viết và đăng trên trang web của Hiệp hội Cảnh sát Trung Cộng vào tháng 12.
Họ ước tính có 10.000 vụ tự tử ở những người trẻ tuổi từ 15 đến 24 tuổi mỗi năm. Con số này dựa trên tỷ lệ tự tử là 3,53 trên 100.000 người trong Niên giám thống kê y tế chính thức năm 2022 của Trung Cộng, với 310 triệu người trong nhóm tuổi đó vào cuối năm 2022.
Tại sao kỳ thi tuyển sinh đại học gaokao của Trung Cộng lại khó khăn đến vậy?
Mặc dù chưa có ước tính gần đây hơn, một cuộc khảo sát về tình trạng tự tử của sinh viên Trung Cộng trong thời kỳ hậu Covid-19 đã vẽ nên một bức tranh ảm đạm.
Hơn 82.000 thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 12 đến 24 đã được phỏng vấn cho cuộc khảo sát tại tỉnh Tứ Xuyên, phía tây nam, từ tháng 12 năm 2022 đến tháng 2 năm 2023.
Khoảng 25 phần trăm số người được hỏi cho biết họ đã nghĩ đến việc tự tử ít nhất một lần trong đời, trong khi 12,5 phần trăm cho biết họ đã nghĩ đến việc tự tử trong 12 tháng qua. Và 1,4 phần trăm – hoặc 1.123 người được hỏi – đã cố gắng tự tử trong năm trước.
Kết quả được công bố trên tạp chí Frontiers in Psychiatry được bình duyệt ngang hàng vào tháng 6 năm 2024. Các nhà nghiên cứu từ Đại học Tứ Xuyên cho biết học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông có nhiều khả năng có ý định tự tử và cố gắng tự tử hơn sinh viên đại học, một phần vì họ kém trưởng thành và bốc đồng hơn. Việc bị cô lập trong đại dịch khi còn nhỏ cũng có tác động lớn hơn đến họ.
Các nhà nghiên cứu viết rằng: “Học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông có nguy cơ nghĩ đến tự tử hoặc cố gắng tự tử cao gấp 1,7 đến 5,5 lần trong vòng 12 tháng trước đó”.
Theo nghiên cứu được công bố bởi China CDC Weekly, ấn phẩm chính thức của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Cộng, trên khắp cả nước, tỷ lệ tử vong do tự tử ở trẻ em từ 5 đến 14 tuổi đã tăng trung bình 9,3% mỗi năm từ năm 2010 đến năm 2021.
Tỷ lệ tử vong do tự tử ở thanh thiếu niên từ 15-24 tuổi đã giảm hàng năm trong giai đoạn 2010-2017, nhưng bắt đầu tăng trung bình 19,6 phần trăm mỗi năm từ năm 2017 đến năm 2021.
Điều đó trái ngược với sự suy giảm tỷ lệ tự tử ở nhóm tuổi lớn hơn 25 từ năm 2010 đến năm 2021.
Luật giáo dục gia đình mới của Trung Cộng cấm cha mẹ gây áp lực học tập nặng nề cho con cái
Cuộc khảo sát ở Tứ Xuyên cũng nêu bật một tình hình bất thường ở Trung Cộng, nơi trẻ em từ các gia đình giàu có và có cha mẹ có trình độ học vấn cao hơn có xu hướng tự tử cao hơn.
Theo nghiên cứu, “Những học sinh có mức thu nhập hộ gia đình cao hơn có nguy cơ nghĩ đến tự tử và cố gắng tự tử trong vòng 12 tháng trước cao hơn so với những học sinh có thu nhập hộ gia đình thấp hơn, điều này trái ngược với các nghiên cứu từ Hàn Quốc”.
“Mối liên hệ giữa rủi ro cao hơn và thu nhập hộ gia đình cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi có thể phản ánh rằng thanh thiếu niên lớn lên trong gia đình khá giả hơn có nhiều khả năng bị bỏ bê về mặt tâm lý, nhận được ít sự chăm sóc của cha mẹ hoặc bị cha mẹ từ chối, kiểm soát hoặc bảo vệ quá mức.”
Các nhà nghiên cứu cũng cho biết những bậc cha mẹ có trình độ học vấn cao hơn có xu hướng kỳ vọng nhiều hơn vào con cái mình, khiến chúng chịu nhiều áp lực hơn.
Cha mẹ tin rằng thành công của con cái họ phụ thuộc vào thành tích học tập của chúng trong thời thơ ấu
Zhang Jie, Đại học bang Buffalo SUNY
Một nghiên cứu năm 2017 của nhóm nghiên cứu từ Cao đẳng Y khoa Wannan ở An Huy cũng phát hiện ra rằng sinh viên đại học có cha mẹ có thu nhập và trình độ học vấn cao hơn có nguy cơ tự tử cao hơn.
Theo các chuyên gia, kỳ vọng cao về mặt học tập từ cha mẹ là yếu tố chính dẫn đến xu hướng tự tử ở học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Zhang Jie, một nhà nghiên cứu về tự tử và là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Trung Cộng tại Đại học bang SUNY Buffalo, cho biết: “Trẻ em ở Trung Cộng có sự cạnh tranh gay gắt và các bậc phụ huynh tin rằng thành công của con em họ phụ thuộc vào thành tích học tập của chúng trong thời thơ ấu”.
Zhang, cũng là giáo sư chủ nhiệm trung tâm phòng chống tự tử tại Đại học Sơn Đông, cho biết: “Văn hóa truyền thống Trung Cộng coi việc nuôi dạy trẻ em là cách chuẩn bị cho việc chăm sóc người già”.
“Họ cũng tin rằng không sao cả nếu con cái họ không giỏi ở những lĩnh vực khác, miễn là chúng có trình độ học vấn cao.”
Ông cho biết áp lực nặng nề phải đạt được thành tích học tập và sự khác biệt giữa kỳ vọng của cha mẹ và điểm mạnh của con cái có thể khiến một người trẻ chịu áp lực rất lớn. “Khi nỗi đau quá lớn, người đó có thể chọn tự tử”, ông nói.
Tự tử được cho là có liên quan chặt chẽ đến chứng trầm cảm. Các triệu chứng của chứng trầm cảm được tìm thấy ở 26,17 phần trăm trẻ em và thanh thiếu niên ở Trung Cộng, theo một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu từ Đại học Y khoa Thủ đô và Đại học Bắc Kinh được công bố trên tạp chí Child and Adolescent Psychiatry and Mental Health được bình duyệt vào tháng 11 năm 2024.
Báo cáo cho biết tỷ lệ mắc bệnh cao nhất được ghi nhận ở học sinh trung học, tiếp theo là sinh viên đại học và học sinh trung học cơ sở.
Xiong Bingqi, giám đốc Viện nghiên cứu giáo dục thế kỷ 21 có trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết nhiều cuộc khảo sát đã phát hiện ra các triệu chứng trầm cảm ở học sinh trung học Trung Cộng ở mức từ 30 đến 50 phần trăm.
Ông lưu ý rằng việc có triệu chứng không giống với việc mắc chứng rối loạn trầm cảm.
Dữ liệu mới nhất của Ủy ban Y tế Quốc gia công bố vào tháng 12 cho thấy rối loạn trầm cảm ảnh hưởng đến khoảng 2 phần trăm thanh thiếu niên Trung Cộng.
Ngay cả khi đó, Xiong vẫn cho biết vấn đề này “rất nghiêm trọng” và “áp lực học tập và thi cử quá mức đối với học sinh” thường là nguyên nhân.
“Mặc dù chính phủ đang thúc đẩy các biện pháp giảm khối lượng công việc của sinh viên, áp lực học tập vẫn tồn tại và thậm chí còn gia tăng ở một số nơi”, ông cho biết.
Chính quyền địa phương đã vào cuộc để cố gắng giảm bớt gánh nặng, một số trường vào tháng 2 đã ra lệnh cho các trường trung học đảm bảo học sinh của họ được nghỉ cuối tuần. Tại Bắc Kinh, mọi trường trung học hiện phải có một phó hiệu trưởng chịu trách nhiệm về sức khỏe tâm thần của học sinh.
Các cơ quan y tế cũng cho biết vào đầu năm nay rằng họ sẽ cố gắng cung cấp nhiều dịch vụ tâm lý hơn cho trẻ em và thanh thiếu niên từ năm 2025 đến năm 2027.
Theo kế hoạch ba năm được đưa ra vào năm 2023, hơn 95 phần trăm trường học ở Trung Cộng dự kiến sẽ có giảng viên toàn thời gian hoặc bán thời gian về giáo dục sức khỏe tâm thần vào cuối năm 2025.
Một trường đại học Trung Quốc đã yêu cầu sinh viên ký giấy miễn trừ trách nhiệm về thương tích cho nhà trường vì hành vi tự tử của mình.
Chính phủ cũng cấm dạy kèm riêng các môn học chính vào năm 2021 như một cách để giảm bớt áp lực cho học sinh và phụ huynh, nhưng Zhang từ Buffalo State cho biết nhiều phụ huynh vẫn thuê gia sư dạy kèm tại nhà.
Xiong cho biết việc tăng cường giáo dục sức khỏe tâm thần là một bước quan trọng, cũng như giải quyết nguyên nhân gây ra các vấn đề sức khỏe tâm thần, mà ông cho là “một hệ thống giáo dục tập trung vào điểm số”.
“Nhiều sinh viên tin rằng vào đại học là kết thúc của việc học, nhưng điều này là không đủ đối với xã hội”, ông nói. “Cần phải thay đổi tư duy thiển cận này”.
Ảnh vệ tinh cho thấy các phi cơ TU 95 ở căn cứ không quân Irkutsk, Nga bị drone của Ukraina phá hủy, ngày 04/06/2025.via REUTERS – MAXAR TECHNOLOGIES
Một tuần sau khi dồn dập không kích Ukraina trong ba ngày với cường độ cao chưa từng có tính từ khi nổ ra chiến tranh, với hơn 900 drone và vài chục tên lửa, gây nhiều thiệt hại nhân mạng cho đối phương, tuần này đến lượt Nga liên tiếp hứng chịu tổn thất vật chất khi bị Ukraina tấn công trên nhiều mặt trận, từ các căn cứ không quân sau trong lãnh thổ, cầu Kerch nối sang Crimée, cho đến hãng chế tạo máy bay danh tiếng Tupolev.
Sau 1 năm rưỡi bí mật chuẩn bị, Ukraina hôm 01/06/2025 đã tiến hành chiến dịch táo bạo « Mạng nhện », phóng hơn 100 drone tiêu diệt 1/3 số chiến đấu cơ mang tên lửa hành trình của Nga đang đậu tại nhiều căn cứ quân sự xa xôi của Nga, từ vùng Mourmansk, gần Bắc Cực, cho đến tận miền đông Siberie. Đây được xem là chiến dịch tấn công sâu nhất của Kiev vào lãnh thổ của kẻ thù từ khi Ukraina bị Nga xâm lược.
Chỉ hai ngày sau, đến lượt cầu Kerch nối từ Nga sang bán đảo Crimée bị Ukraina tấn công với khoảng 1,1 tấn thuốc nổ cài dưới một trụ cầu. Dẫu cầu không sập, nhưng vụ tấn công vào cây cầu không chỉ là biểu tượng cho sự thâu tóm Crimée của Nga, mà còn là tuyến đường chiến lược của Matxcơva, một lần nữa cho thấy quân đội Ukraina có khả năng và nguồn lực để tiến hành các hoạt động làm suy yếu kẻ thù. Trả lời báo Pháp Le Monde qua điện thoại, dân biểu Oleksandr Merezhko, người đứng đầu Ủy ban đối ngoại của Quốc Hội Ukraina, khẳng định đây là một thông điệp Kiev gửi tới Putin, rằng Nga đang ở trong tình thế dễ bị tổn thương hơn họ nghĩ, nhằm gây áp lực khiến Matxcơva phải đàm phán nghiêm túc hơn với Kiev.
Từ Kiev, thông tín viên Emmanuelle Chaze ngày 03/06 giải thích thêm về ý nghĩa vụ tấn công cầu Kerch :
« Đây không phải là lần đầu tiên các lực lượng của Ukraina tìm cách phá hủy cây cầu này, mà là lần thứ 3 kể từ năm 2022. Tình báo Ukraina cho biết lần này hơn một tấn thuốc nổ TNT đã được đặt và kích nổ phía dưới trụ cầu.
Thách thức đặt ra cho Ukraina là rất lớn, bởi vì cây cầu này cho phép Matxcơva chuyển quân, thiết bị hạng nặng và đạn dược từ Nga đến bán đảo Crimée và sau đó đi dọc theo đường chiến tuyến tại vùng bị chiếm đóng ở miền đông lãnh thổ Ukraina. Phá hỏng cầu Crimée sẽ ngăn chặn việc vận chuyển này của quân Nga và khiến các đội quân Nga ở miền đông giảm các cuộc tấn công chống quân đội Ukraina.
Trong khi Nga mô tả hành động phá cầu là khủng bố, Kiev khẳng định đã hoạt động đúng theo khuôn khổ luật của luật chiến tranh, không gây ra thương vong cho dân thường.
Cây cầu vẫn còn đó, nhưng vụ tấn công này của Ukraina cho Nga và các đồng minh của Ukraina thấy rằng, kể cả sau hơn 3 năm chống chọi với cuộc chiến xâm lược trên mọi mặt trận và đang phải chịu áp lực rất lớn dọc theo chiến tuyến, Kiev vẫn có thể chứng tỏ họ có nhiều sáng kiến về quân sự ».
Chưa dừng ở đó, hôm 04/06, tình báo Ukraina lại thông báo đã tấn công tin tặc vào hãng chế tạo máy bay nổi tiếng Tupolev của Nga và lấy được nhiều dữ liệu quan trọng của nhà sản xuất này. Hãng Tupolev đặc biệt nổi tiếng với các oanh tạc cơ tầm xa có thể mang theo vũ khí hạt nhân, ví dụ Tupolev-95 và Tupolev-160, thuộc lực lượng răn đe hạt nhân trên không của Nga. Nhiều thông tin mật của Tupolev đã bị Kiev đăng tải lên các mạng xã hội.
Đến ngày 06/06, quân đội Ukraina khẳng định trong đêm đã oanh tạc thành công 2 căn cứ không quân của Nga, nhắm trúng ít nhất 3 kho nhiên liệu của đối thủ.
Có lẽ khi có những hành động tấn công táo bạo làm Nga « mất mặt » như vậy, Kiev cũng hiểu sẽ sớm phải hứng chịu đòn trả đũa gay gắt của đối phương. Quả thực, không phải chờ lâu, trong đêm 05 rạng sáng 06/06, Nga đã ồ ạt oanh tạc Ukraina bằng drone và tên lửa đạn đạo. AFP cho biết tại Kiev, ít nhất 4 người thiệt mạng. Ngoài thủ đô Kiev, có 9 vùng khác trên cả nước bị Nga tấn công (Volyn, Lviv, Ternopil, Kiev, Soumy, Poltava, Tcherkassy, Tcherniguiv, Khmelnytsky). Tổng cộng, theo Phòng không Ukraina, Nga đã phóng 407 drone tấn công và drone mồi bẫy, cùng 45 tên lửa.
Sau 3 năm điều quân đi xâm lược nước láng giềng, giờ đây chính quyền Nga xem chiến tranh Ukraina là « một vấn đề liên quan đến sự tồn vong, một vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, an ninh, tương lai của chúng tôi và con cháu chúng tôi ».
Ghi chú của tác giả: Loạt bài viết này chia sẻ những kết quả sơ bộ của một nghiên cứu độc lập, tập trung vào chủ đề hòa hợp dân tộc trong ba khía cạnh: hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp. Con số 100 tượng trưng cho trăm trứng từ bào thai của mẹ Âu Cơ. Một trăm người Việt tuổi từ 25 đến 99, từ đủ mọi nẻo đường của cuộc sống đã góp tiếng nói vào dòng chảy của những câu chuyện này. Những phần trong ngoặc kép là lời của nhân vật. Tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp tình cờ và không chính xác.
Trong những bài viết trước, các ý kiến cho rằng hàn gắn dân tộc bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ (bài 3, bài 4, bài 5, bài 6), bối cảnh lịch sử (bài 7) và đứt gãy văn hóa (bài 8).
Bài viết kỳ này tập trung vào giả thiết cho rằng quá trình hàn gắn khó khăn vì mất mát của hai bên quá lớn.
Trong dự án này, có nhiều cuộc nói chuyện mà 90% thời gian được dùng để kể lại nỗi đau, đến mức sau đó chính tác giả cũng phải tìm trợ giúp tâm lý. Từ khóa quay lại nhiều nhất là “bị hiếp” và “bị giết.” Sự tàn phá ấy quá lớn khiến ai cũng bị dày vò để tìm lý do biện minh cho hận thù. Quá khứ mất mát trở thành một phần cơ bản của cuộc đời. Thậm chí nếu được chữa lành thì hy sinh bỗng trở thành “vô nghĩa.”
Ta đã mất mát quá nhiều, hận thù là chính đáng
Nhà văn Đỗ Kh. từng miêu tả cuộc sống của những cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại như những “ốc đảo của quá khứ. Cách hai thế kỷ và 10.000 cây số, người Việt vẫn tin rằng số phận long đong trốn chạy của Kiều chính là số phận của họ.”
Thoạt tiên, họ “bỏ chạy vào Nam sau cải cách ruộng đất.”
“Lần thứ hai là khi họ sợ sẽ bị “tắm máu sau ngày thống nhất.”
Không có “tắm máu,” nhưng “người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo.” “Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc. Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn.”
“Cuộc sống bế tắc.” “Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm ăn.”
“Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột, bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học, dù điểm thi rất cao: ‘Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ hội?’ Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là ‘con ngụy’, rồi dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi vào một cái tủ tối và bỏ đi.”
Thế nên “gia đình tôi liều mình trốn chạy.” Khi ấy “vượt biên là tội phản quốc. Nếu bị bắt có tiền cũng 2-3 năm, không tiền 10 năm tù.” “Vụ tàu Việt Nam Thương tín là kinh khủng nhất. Những người trên đó tự nguyện hồi hương vì tin là chính phủ khoan hồng. Nhưng về tới Nha Trang là bị dồn lên xe bít bùng. Ai cũng vào tù. Nhỏ nhất là một đứa bé 7 tuổi. Tù ít nhất 9 tháng. Trung tá Trần Đình Trụ ở tù tới 13 năm.”
Nhưng người ta vẫn trốn. “Ở Vũng Tàu sáng nào cũng thấy xác người vượt biên trôi.” Ngày ấy dân miền Nam bảo nhau: “Một là con nuôi mẹ. Hai là mẹ nuôi con. Ba là con nuôi cá.”
Bởi trên những chuyến tàu ấy là địa ngục trần gian. “Có người phải ăn chay cả đời, phải đi tu, phải vào trại tâm thần vì đã chứng kiến, hoặc phải tự mình ăn xác chết để cầm hơi.”
Trẻ em miền Nam trong một trại tị nạn ở Vũng Tàu vào cuối tháng 4/1975
Gặp hải tặc Thái Lan, “đàn ông thì nó bẻ răng lấy vàng. Còn phụ nữ nó hiếp.” “Có bé bị hiếp mới mười hai tuổi.” “Có cô bị hiếp nhiều lần trong khi bị bắt phải chứng kiến anh trai mình bị chặt làm ba khúc.”
“Có cô bị xâm hại nhiều đến mức vết thương hôi thối lựng một góc lán. Lại còn dính thai đôi. Mà thai lại bị dị tật. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc cầm mã tấu bắt chồng và bốn đứa con đứng xem. Người chồng là một nông dân chất phác. Anh nói mấy cái bào thai không có tội. Thôi để chúng ở lại với vợ chồng tôi.”
Ở trại tị nạn Songkhla, “ai cũng nhớ ngày xác của 11 cô gái trẻ bị trói cổ vào nhau, không mảnh vải che thân, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Đến giờ ở đó vẫn còn cái am, thờ một cái thuyền đã mục. Một bà già mộ đạo đã hương khói cho nó suốt 17 năm.”
Trên khắp các trại tị nạn, “hàng trăm nấm mồ tập thể đã được dân địa phương chôn cất.” “Riêng đảo Koh Kra có 3.000 xác người nằm lại.”
Rồi “mỗi trại lại là một thế giới đau thương thu nhỏ.” “Thoát chết rồi nhưng khắp trại là những người rách rưới lang thang, miệng lẩm bẩm, thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc lóc thảm thiết.” “Có những cô gái mỗi lần nhìn thấy biển là lăn đùng ra, mắt trợn ngược”. Có những đôi vợ chồng “không thể nhìn mặt nhau khi chăn gối,” “phải tắt đèn.” Nhiều cặp “chia tay nhau,” “rồi người vợ treo cổ vào hôm kỷ niệm ngày cưới vì không thể vượt qua được ký ức bị hãm hiếp.”
“Biển trở thành một tấm lưới, bủa vây cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai.”
“Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển/ Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi/ Những năm trước bao người ngon miệng cá/ Thì sá gì thêm một xác cong queo” – (Du Tử Lê).
“Sau chấn thương bao giờ người ra cũng cần thời gian phục hồi. Nhưng điều đó không xảy ra với người Việt tị nạn. Chưa qua cái này thì cái kia đã đến. Khi vừa đặt chân đến quê hương mới, nhu cầu sống sót lập tức chiếm vị trí ưu tiên. Mai con mình có cơm ăn không?” Quần quật cho đến khi ngẩng đầu lên thì những “nỗi đau đã kịp kết tinh thành tính cách.”
“Hôm ấy tôi tới đám tang một thuyền nhân. Mọi người đau buồn khóc lóc. Rồi bỗng có một ông đứng lên. Nói hùng hồn quá trời. Ông chửi chính quyền, chửi cộng sản. Ông nói văng cả nước miếng. Người già gật gù nhưng đám trẻ thì có đứa bỏ về. Lúc đó tôi sốc, nhưng giờ nghĩ lại thấy thương đứt ruột.”
Càng đau càng không muốn tha thứ. Hận thù phải tiếp tục để “nỗi đau không bị vô nghĩa,” để ta không “phản bội lại chính mình.” “Mình đã mất mát quá nhiều, mình phải hận thù.” “Ngày ‘quốc hận’ là ngày mà nỗi đau trở thành danh tính.”
“Nhưng cứ hận thù thế này thì sống tiếp sao đây?”
Hòa giải với nỗi đau trở thành một mâu thuẫn tâm lý khiến “người ta kiệt sức.”
Một em bé miền Nam Việt Nam trong trại tị nạn Pendleton ở California vào năm 1975
Ta đã mất mát quá nhiều. Cái giá phải trả hẳn là chính đáng
Với bên “thắng cuộc,” mất mát là bằng chứng để khẳng định nó đã được đánh đổi cho một điều thiêng liêng. Đó là sự “thống nhất Bắc Nam,” là “Mỹ đã cút và ngụy đã nhào.”
Vậy nên với nhiều người, nhắc lại nỗi đau là để khẳng định tính chính danh của những gì mình từng làm, khẳng định rằng quá khứ của mình vẫn còn giá trị. “Hòa giải đồng nghĩa với việc chấp nhận mình sai, mất mát đó không còn cao cả nữa mà bỗng thành ra vô ích.”
Tuy nhiên, điều cao cả ấy ở mức độ cộng đồng, còn sự hy sinh thì lại ở tầng cá thể. Để dung hòa được khoảng cách đó không dễ dàng.
“Ở hải ngoại, người ta gắn kết bởi nỗi đau trong quá khứ. Ở trong nước, người ta gắn kết bởi vinh quang trong dĩ vãng.”
Nhưng “người chiến thắng cũng đau chứ, chỉ có điều đó là nỗi đau của những anh hùng.” “Nó phải được gói ghém trong màu vinh quang,” bởi chiến tranh không phải là những câu chuyện buồn. Nó là “sử thi và tráng ca.”
Có rất ít không gian cho những chấn thương hậu chiến, nơi kẻ chiến thắng được “quyền đau đớn,” được quyền “hoang mang,” được quyền “tự chất vấn,” được quyền “nhận ra mình sai đúng ở đâu,” và quan trọng nhất là được quyền “trợ giúp để chữa lành.”
“Mẹ hay kể chuyện đang ăn cơm thì bị đánh bom. Cô bạn của mẹ mới vừa cầm bát ngồi đây. Bom nổ đùng một cái. Thân đã ở trên cây. Đầu vướng cành trên cao. Chân vương cành dưới thấp. Mẹ thường chửi bới cậu (em trai mẹ) một cách tàn nhẫn. Rằng mày không đi chiến đấu. Cả nhà này chỉ mình tao hy sinh. Chúng mày ở hậu phương ăn sung mặc sướng… Cái sai nhất của cậu là mày dám sướng. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ cười thành tiếng. Cả đời cho đến khi chết, nỗi đau của mẹ không có câu trả lời thỏa đáng.”
“Gia đình tôi chia đôi theo cuộc chiến quốc-cộng. Sau 75, bác vượt biên đi nước ngoài. Bố ở lại. Khi bác về thăm, bố bảo: ‘Việt Kiều nhưng cũng mất nước’. Bố lúc nào cũng uẩn ức, giận dỗi, mâu thuẫn rất khó hiểu. Rồi tôi nhận ra là bố luôn muốn đi. Hóa ra bố ghen tị. Bố không có sự tự hào của người ở lại. Bố bị mắc kẹt trong việc cố gắng lý giải nỗi đau của mình.”
“Cô (chỉ tác giả) nói ba cô lúc sắp chết mới sám hối khi nhìn thấy ma quỷ đúng không? Ba tôi lúc còn sống đã sám hối rồi. Đó là khi ông biết về tù cải tạo, về đánh tư sản, về thuyền nhân. Tuyền là những thứ mà ông cho rằng mình phần nào có lỗi.”
“Bố tôi 5 lần là dũng sĩ diệt Mỹ. Khi bố mất, tôi tìm thấy những huy chương ấy gói kín, để sâu trong tủ. Bố chỉ ghét Mỹ thôi. Bố không bao giờ nhắc tới những huy chương này, vì bố phải giết cả đồng bào mình. Nên ông giấu đi. Các cựu chiến binh đi hội nghị đeo đầy ngực, nhưng bố không bao giờ. Bố bảo người ta cũng yêu nước giống mình, chỉ có điều lý tưởng của người ta giống Mỹ.”
“Bố tôi rất ghét bọn trẻ trâu khi chúng nó tự hào ầm ĩ trên mạng. Kể lại chuyện thắng Mỹ thắng Pháp, Đại Việt thần thánh nọ kia với sự kiêu hãnh như thể chính chúng nó lập công. Trong khi chúng không hề biết mùi máu là gì.
Tự hào về chiến tranh bây giờ toàn bọn trẻ con quen chơi game bắn nhau. Người thực sự cầm súng họ không kiêu hãnh kiểu như thế. Bố bảo lũ oắt con có giỏi thì tự mình thành công đi. Rồi tha hồ mà tự hào. Đừng có yêu nước bằng máu của bọn tao.
Bọn trẻ ranh ấy không hiểu rằng, những ai đã giết người, dù chính nghĩa đến đâu, thì rất khó nhắc lại mà trong lòng không tý gợn. Viết ra được những câu kiểu như ‘Dưới kia chúng nó đang cười. Cười đi nhé, chúng bay ơi, rồi chết!‘ thì chỉ có mấy ông nhà thơ. Ra chiến trường đi, không bao giờ còn viết được thế.”
“Những người thực sự đi qua chiến tranh mà chưa hóa đá với nỗi đau, họ viết như Bảo Ninh cơ. Họ cũng sống như Bảo Ninh luôn.
Cái hôm sống sót trở về nhà, Bảo Ninh đã đi lên cầu thang rất khẽ để không đánh động đến hàng xóm. Cả nhà cũng ôm nhau rất khẽ. Bởi vì ngay phòng bên cạnh là một gia đình có con trai không trở về.”
Thế nên “bố không muốn chết cùng với những tấm huy chương. Bố không muốn chết rồi vẫn thành đồ trang sức. Cả đời bố là chiến binh, nhưng ảnh đám ma của bố không mặc áo lính. Trên bàn thờ, bố mặc áo trắng.”
Cụ Nguyễn Thị Phải, người được phong Mẹ Việt Nam anh hùng ở Sóc Trăng, có 4 người con trai đối đầu nhau ở hai chiến tuyến
“Có lần tôi xem triển lãm thấy bức ảnh mẹ Thứ ngồi bên cái mẹt có bày bát hương và 9 cái bát không. Mẹ có 9 người con là liệt sĩ.
Tôi không hiểu nếu gặp nhau, mẹ Thứ sẽ nói gì với mẹ Phải?”
Mẹ Nguyễn Thị Phải có ba người con chết trận. Trong một cuộc tấn công, anh Năm và anh Bảy ném lựu đạn vào đồn địch nơi anh Tư cố thủ. Khói súng tan, hai em trai soi đèn đi tìm xác anh trai.
Anh Năm và anh Bảy được phong liệt sĩ. Anh Tư chết không danh hiệu. Mẹ Phải được phong “Mẹ Việt Nam anh hùng.”
“Bao năm qua, mẹ đã sống như thế nào với nỗi đau ấy? Mẹ có cảm thấy mình là anh hùng không?”
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/ Một trăm năm đô hộ giặc Tâу/ Hai mươi năm nội chiến từng ngàу.
Gia tài của mẹ, một rừng xương khô/ Gia tài của mẹ, một núi đầу mồ” – (Trịnh Công Sơn).
Play video, “Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng”, Thời lượng 6,45
06:45
Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng
Sau 1975, Việt Nam không thực sự có một chương trình hòa giải. Thậm chí hận thù còn được “tạo mới” bởi các “chính sách sai lầm.” Điều này khiến người Việt thiếu một không gian chung “để cùng nhìn lại, cùng nhận lỗi và cùng tha thứ. Những vết thương vẫn rỉ máu trong im lặng. Nó truyền đời từ này sang đời khác, từ cá nhân sang cộng đồng.”
“Có lần tôi thấy một em bé 8 tuổi trên ti vi khóc vì ‘con thương Bác Hồ quá’.
Tại sao một đứa nhóc chưa từng gặp Bác, thậm chí ông bà nó cũng không đủ già để có thể gặp Bác, mà nó vẫn có thể khóc một cách rất chân thành vì nhớ Bác?”
Có lẽ chúng ta ai cũng như em bé ấy, “kế thừa cả một đại dương của kiêu hãnh và sợ hãi, của yêu mến và căm thù.” Chúng ta lớn lên với một gánh non sông nặng đầy quá khứ.
Cho nên “chiến tranh không chỉ diễn ra hai lần, trên chiến trường và trong ký ức như nhà văn Nguyễn Thanh Việt nói. Nó sẽ còn tiếp diễn mãi.” Mỗi người, mỗi gia đình, mỗi thầy cô, mỗi nhà lãnh đạo, mỗi thế hệ lại “thêm vào những ý nghĩa mới.”
Như “một bức tường liên tục được vẽ bồi lên những hình graffiti mới.”
Dù “bức tường quá khứ” không thể thay đổi, nhưng “tương lai chính là những hình vẽ mới” ấy. Hòa giải là cho phép bức tường được (1) đa nguyên sự thật với những mảng màu đối lập nhau; (2) dựa trên một nền tảng nhân văn, không sỉ nhục nhau trên tường, không trừng phạt người vẽ; (3) không đổ lỗi cho cả một cộng đồng.
Bức tường quá khứ sẽ tồn tại mãi. Nhưng ý nghĩa của nó có thể thay đổi để trợ giúp cho một tương lai cộng sinh, hòa hợp.
Hình vẽ trên tường của bạn có hiệu ứng gì? Nó khiến người ta “dừng lại để ăn năn và chiêm nghiệm”? Hay nó khiến họ sùng kính đến mức muốn “đóng lên đó một cái bàn thờ,” hoặc giận dữ muốn “…đái vào chân tường cho bõ ghét”?
Di truyền biểu sinh xuyên thế hệ
Chúng ta không chỉ kế thừa tổn thương qua ký ức mà còn qua con đường sinh học (transgenerational epigenetics).
Sau sang chấn, các gien (DNA) thay đổi cách hoạt động. Sự biến đổi đó có thể di truyền lại và biểu hiện ra bệnh tật, hành vi, cảm xúc cho vài thế hệ về sau. Các nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này được thực hiện với thế hệ thứ 2 và thứ 3 của nạn nhân diệt chủng và nạn đói gây ra bởi Đức Quốc xã.
Khi còn trong bụng, bào thai nhận tín hiệu từ cơ thể mẹ để “hiểu” về thế giới bên ngoài. Nếu đó là trải nghiệm đau buồn, tín hiệu ấy sẽ nói với bào thai rằng: “Thế giới ngoài kia đầy cạm bẫy. Con hãy chuẩn bị tinh thần”.
Bào thai tiếp nhận thông tin, các gien lập tức thay đổi cách làm việc. Một số gien ngừng hoạt động. Một số gien kích hoạt hết cỡ. Cơ chế sinh học chuẩn bị sẵn sàng cho một thế giới bất ổn. Như một căn nhà mà các ô cửa được đóng mở một cách chiến lược để tồn tại như một pháo đài. Bào thai phát triển theo hướng lấy “phản vệ” làm phương châm sống.
Khi sinh ra, thế giới có thể không còn tệ như trí nhớ sinh học lưu giữ. Tuy nhiên, cơ thể đã hoàn thiện, pháo đài đã khởi động.
Bé lớn lên có thể dễ bị rối loạn tâm lý, căng thẳng, tăng cân, béo phì, tim mạch, tiểu đường… Kể cả khi chất lượng cuộc sống tốt lên thì cuộc đời của một người như thế vẫn tiếp tục gửi tín hiệu sinh học tới cho bào thai thế hệ tiếp theo. Hiệu ứng này chỉ giảm dần qua vài thế hệ chứ không mất hẳn.
Và tất nhiên, tín hiệu sinh học sẽ tệ hơn nếu sinh ra cơ thể đã phản xạ như một pháo đài, mà cuộc sống xung quanh vẫn đầy hận thù. Sinh học cộng hưởng với môi trường sẽ tạo thành vô thức cộng đồng, tác động đến lối sống, tư duy và căn tính dân tộc.
Ở Việt Nam, các thế hệ sau 75 “không trực tiếp bắn giết, không bị tù cải tạo, bị đói, bị mất mát,” bị “phản bội,” bị “bội tín,” bị “trả thù.” Họ có lẽ còn không hề biết điều đó từng xảy ra với gia đình mình.
Nhưng họ vẫn có thể kế thừa “cảm giác sợ hãi, nghi kị, lo âu, u uất, rối loạn cảm xúc, phản xạ cực đoan.” Họ có thể dễ mắc bệnh mà không ý thức được tại sao, hoặc sẽ gán cho nó những lý do nhất thời.
Rất có thể đây là một phần “trầm tích sinh học” của bao thương đau mà người Việt đã trải qua, khiến cái “cơ thể còi cọc của chúng ta luôn xù lông lên với cả thế giới.”
Nếu ta không thực sự hàn gắn dân tộc, chặn lại cỗ xe di truyền ấy, hậu quả sẽ là một vòng xoáy với nhiều thế hệ mang trong mình “khuyết tật,” là “hàng núi tiền đổ vào chữa bệnh,” là sự “suy giảm năng suất sáng tạo,” là sự tụt hậu sinh học của cả dân tộc khi phải chạy đua với một “cơ thể bạo bệnh.”
Nạn đói Hà Lan (Dutch famine) di truyền lại cơ chế sinh học cho vài đời kế tiếp, khiến con cháu họ dễ mắc bệnh béo phì, tim mạch, tiểu đường, và thần kinh
Cùng gọi tên nỗi đau
Ở nhiều xã hội hậu chiến, hòa giải được hiểu là “khép lại quá khứ,” “đừng nói nữa.”
Nhưng nếu “khép lại” mà không “ghi nhận” thì chỉ là đóng băng xung đột. Nỗi đau không được gọi tên sẽ biến thành nghi ngờ, oán giận. Nỗi đau cần được thừa nhận trước khi có thể chuyển hóa. Đó là nguyên tắc cốt lõi. “Ta không thể chữa lành những gì ta không thể gọi tên” (James Baldwin).
Tuy nhiên, chữa lành nỗi đau cá nhân khác với những sang chấn cộng đồng. Rất khó có thể “dùng trị liệu, gặp bác sĩ tâm lý, đi thiền, đi tu để tự chữa lành trong không gian riêng tư.”
“Một người lính có thể được trị liệu tâm lý, sống hạnh phúc trong gia đình. Nhưng nếu xã hội xung quanh vẫn phủ nhận nỗi đau của họ thì cuộc chiến ấy không bao giờ kết thúc.”
“Chấn thương cộng đồng thì phải được chữa lành trong cộng đồng. Người ta phải cùng nhau làm điều đó. Họ phải được chứng kiến. Họ phải không đơn độc. Chỉ như thế thì ký ức mới được ‘rã băng’.”
Hòa giải không cần công lý?
Một số nhân vật nhắc tới chương trình “Như chưa từng có cuộc chia ly” như một ví dụ hiếm hoi từ truyền thông chính thống.
“Cứ nghe thấy giọng Thu Uyên là tôi khóc.” “Thật kỳ diệu khi nỗi đau có thể hàn gắn đến vậy. Bởi nó không phán xét. Người ta đau, nhưng không đổ lỗi cho nhau.”
Ở Như chưa từng có cuộc chia ly, những người “bị chính sử gạt ra ngoài được phục hồi phẩm giá trong tư cách người cha, người mẹ, người con chứ không còn bị rút gọn thành kẻ địch.” Ở chiều ngược lại, “những anh hùng được phép trở thành người thường, với tất cả sự yếu đuối, tổn thương và sai lầm của họ.”
“Nó dùng nỗi đau chung để tái tạo ký ức (reconstructed memory), khiến đau thương sau khi được ghi nhận có thể mang một ý nghĩa khác.”
“Nó cũng bám vào một kết cấu vững chắc của văn hóa Việt Nam. Đó là gia đình. Người Việt vốn nặng gánh máu mủ, chỉ cần một tý tình nghĩa chân thành là có thể bỏ qua cho nhau.”
Tuy nhiên, Như chưa từng có cuộc chia ly cũng nhận được nhiều góp ý.
“Tôi muốn thấy những câu chuyện đa dạng hơn, liên quan nhiều hơn đến phía bên kia, đến tù cải tạo, đến thuyền nhân. Ví dụ, trên mạng có rất nhiều diễn đàn nhỏ lẻ tìm người thân thất lạc sau khi vượt biển và ở trại tị nạn.”
“Cái lỡ cỡ của Như chưa từng có cuộc chia ly là nó chuyển hóa chấn thương tập thể thành những chuyện riêng tư, chữa lành theo logic tân tự do (neoliberalism), bắt cá nhân phải tự chịu trách nhiệm thay vì hệ thống phải sửa sai.” “Nó từ chối đối thoại chính trị, từ chối chạm vào gốc rễ của lịch sử. Và cũng tức là từ chối mở đường cho công lý.”
(Nhân vật minh họa bằng nghiên cứu Collective wound, private healing của Nguyen-Thu Giang).
“Người ta có thể kết nối bởi nỗi đau và không đổ lỗi cho nhau. Nhưng cái hệ thống đã gây ra nỗi đau thì không thể bị tảng lờ đi.”
“Có điều trong bối cảnh bây giờ, những cuộc đối thoại như thế cũng đã là tốt lắm rồi.”
Trong bộ phim tài liệu Hành trình thống nhất của VTV, một gia đình có nhiều anh em ở cả hai chiến tuyến được chia sẻ câu chuyện riêng của họ; phía sau lưng họ là di ảnh của những người thân, không đứng cùng chiến hào nhưng ngồi chung một bàn thờ
Vai trò của lãnh đạo trong ‘công lý ghi nhận’
Trong quá trình hàn gắn, ghi nhận sai lầm là một bước công lý căn bản, có sức mạnh khôi phục niềm tin lớn hơn bất kỳ hành động bồi thường vật chất nào.
“Ở Việt Nam, sự ghi nhận ấy phải đến từ người lãnh đạo.”
Thứ nhất là yếu tố “tập quyền chính trị và tôn sùng cá nhân” khiến cho “tiếng nói của lãnh đạo trở thành cái thẻ bài,” thành “tín hiệu an toàn” để người dân “được bảo vệ khi bước vào không gian và quỹ đạo của sự thật.”
Thứ hai là tại Việt Nam, đối tượng cần hòa giải là giữa chính quyền với nạn nhân của những “chính sách sai lầm sau 75.” Tiếng nói của lãnh đạo đặc biệt quan trọng vì nó đại diện cho chính quyền.
“Sau cải cách ruộng đất, tất cả nồi, niêu, xoong, chảo, lúa, gạo, quần áo đều bị cướp sạch. Đến cái cánh cửa cũng bị tháo.” “Nhà có 15 người thì 11 người chết. Hai đứa trẻ con bị làng đuổi ra gò. Ăn trộm sắn vì đói. Nuốt sống ngộ độc. Rồi cũng chết.”
“Nhưng mà họ cũng chỉ kể lại thôi. Không có sự căm thù ngùn ngụt trong giọng nói. Không đầy uất hận như kể về những gì diễn ra ở miền Nam sau ‘giải phóng’.”
“Tại sao ư? Tại Bác Hồ xin lỗi.”
“Hàng nghìn người chết thảm trong những tòa án nông dân man rợ. Người bị bắn đầu tiên là một phụ nữ đã nuôi giấu lãnh đạo Việt Minh như con cái trong nhà, đã hiến hàng trăm lượng vàng cho cách mạng (địa chủ Cát Hanh Long). Thương đau ngút ngàn. Oan thấu trời xanh. Thế mà sau khi Cụ Hồ xin lỗi, bao nhiêu người lại tiếp tục gửi con đi bộ đội.”
“Sau này có ông Kiệt. Ông nói một câu trong dịp 30/4/2005 là sự kiện này triệu người vui, triệu người buồn. Tổ chức rình rang ít thôi. Vậy mà người ta nhớ mãi, thương yêu ông mãi. Giá có thêm nhiều ông Kiệt.”
“Giờ có ông Tô Lâm cũng mạnh. Ông chỉ nói một câu Sài Gòn từng là ‘hòn ngọc viễn đông’ là người miền Nam trút được nhiêu bao uất ức.” “Phải ghi nhận miền Nam thực lòng như thế thì dân Nam mới khôi phục lại lòng tin.”
“Cái sức mạnh của người lãnh đạo trong một cơ chế tập quyền nó khủng khiếp lắm. Chưa cần đến chính sách. Chỉ cần một câu của lãnh đạo là đủ tạo bước ngoặt, tiết kiệm hàng thập kỷ nỗ lực của dân đen.” “Như một đàn số 0, lãnh đạo tốt là con số 1 đứng trước dãy số 0 đó.”
“Lãnh đạo dở thì chắc là… dấu phẩy.”
Bà Nguyễn Thị Năm (tức Cát Hanh Long), người có công với cách mạng nhưng đã bị đem ra đấu tố và bị xử bắn đầu tiên trong Cải cách Ruộng đất; Bên phải là hình ông Hồ Chí Minh khóc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 1 (29/12/1956-25/1/1957) khi nói về sai lầm trong Cải cách Ruộng đất
Mỗi nỗi đau là một nhịp cầu
Một điều thú vị là trong nghiên cứu này, khá nhiều bạn trẻ cảm nhận được nỗi đau cộng đồng thông qua những tổn thương cá nhân.
“Hồi cấp 2, tôi từng bị bắt nạt. Cô giáo bảo nếu nhận lỗi thì cô sẽ tha. Nhưng cô không giữ lời. Tôi cứ thế lớn trong sự bạo hành của bạn học và người lớn.
Khi vào Nam sinh sống và nghe câu chuyện của người nơi đây, tôi thấy họ cũng có những tổn thương y như mình. Tôi và những cựu binh đều là nạn nhân của bạo lực tinh thần. Nếu như không có những tổn thương trong quá khứ, chưa chắc tôi đã nhìn ra nỗi đau của họ. Chưa chắc tôi đã có thể nối những đau thương của mình với trải nghiệm của cả dân tộc.”
“Hồi năm nhất tôi đi học ở Mỹ. Trong trường có treo cờ vàng. Tôi viết thư đòi hạ cờ.
Khi ấy, tôi có ý tốt. Tôi muốn họ thôi hận thù. Tôi muốn họ phải đồng ý với tôi. Rằng, thôi đi, đau nó vừa thôi. 18 tuổi tôi chỉ nghĩ được đến thế.
Sau này, mắt tôi cứ kém dần đi. Mơ ước làm tiến sĩ của tôi tan tành. Tôi sống nhiều năm với nỗi đau của một người tật nguyền và trầm cảm.
Lúc đấy bỗng nhiên tôi tìm thấy kinh Địa Tạng. Đọc xong tôi cứ khóc mãi. Tôi bắt đầu hiểu rằng ai cũng có nỗi đau riêng. Mình không phải họ, sao bắt họ hết đau?
Thế nên tôi bắt đầu biết thương. Không yêu, mà thương. Yêu hơi ích kỷ. Nhưng trong cái thương thì có cái đau. Khi mình thương, mình chấp nhận nỗi đau là một phần để vỗ về, an ủi.”
Play video, “Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam”, Thời lượng 18,04
18:04
Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam
Mỗi người giữ một chút tử tế
Dù chính quyền được xác định là chịu trách nhiệm chủ yếu trong tiến trình hòa giải, nhiều nhân vật vẫn cho rằng “hàn gắn dân tộc cũng là nghĩa vụ của một người tử tế.”
“Trước khi chết, ba của cô (tác giả) đã sám hối, vì ông nhận ra mình giết nhiều người quá.
Nhưng làm sao để khoảnh khắc ấy xảy ra sớm hơn mà không cần phải viện đến sức mạnh của cái chết?”
“Tôi chọn trở thành người tốt khi có thể. Tôi chấp nhận là một kẻ xám xịt, trắng không ra trắng, đen không ra đen. Nhưng tôi ý thức được rằng mình không muốn bị đen tuyền, bị tha hóa. Khi nào tốt mà không hại đến bản thân thì phải tốt.”
“Tôi dặn mình phải giữ chút liêm sỉ nghề nghiệp. Tôi không bao giờ dùng từ ‘ngụy’, ‘giải phóng’, ‘lưu vong’, ‘phản động’. Nếu lỡ mồm thì xin lỗi ngay. Hàng chục năm làm biên tập, không bài báo nào qua tay tôi mà có dính những từ đó.”
“Bố tôi tự hòa giải bằng sử ký và văn học chấn thương. Bố đọc Chuyện ba người, Nỗi buồn chiến tranh, Bên thắng cuộc, Gia đình, Tôi là con gái của cha tôi, Hai bên chiến tuyến, Tổ quốc ăn năn, Đèn cù, Đêm giữa ban ngày, Giải khăn sô cho Huế, Mùa hè đỏ lửa… Bố chia sẻ cho bạn bè. Bố kể cho tôi nghe.”
“Tôi xem ti vi cùng con.” “Thỉnh thoảng tôi kể cho con một câu chuyện ngược lại để thách thức đầu óc phản biện của con.”
“Hồi trẻ tôi nghĩ mình phải đi khỏi Việt Nam để không bị chết chìm trong sự ngu si của thiên hạ. Nhưng giờ tôi kệ. Nếu chết ngộp thì chết ở đây. Kỳ lạ thế. Máu hỏng thịt hỏng, nhưng là máu thịt mình. Mình có phần mình, nên xã hội này mới thế.
Hiểu được vậy thì sẽ không thù hận nữa. Hiểu được vậy thì sẽ thương cả những kẻ ngu si. Hiểu được vậy thì mới thấy trách nhiệm của mình.
Hiểu được vậy thì sẽ không còn hỏi ‘Chuông nguyện hồn ai?’
Bởi chuông nguyện chính hồn nhà ngươi đấy. Biết không?“
Mời quý vị đón đọc phần tiếp theo
Bài 10: Có thực mới vực được đạo – di sản kinh tế
Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai là chuyên gia đào tạo trong lĩnh vực ứng dụng Khoa học Não bộ vào Giao tiếp-Quản trị đa văn hóa và Phát triển năng lực cá nhân. Đây là một phần trong loạt bài viết về nghiên cứu hòa hợp dân tộc của tác giả.
Toyota tiết lộ công nghệ pin EV thể rắn của mình, được cho là có phạm vi hoạt động 745 dặm và thời gian sạc 10 phút. Pin thể rắn có thể giảm 39% lượng khí thải carbon của pin xe điện (EV), nhưng cần nhiều hơn 35% lượng lithium.
Nhà sản xuất ô tô lớn nhất thế giới tính theo doanh số đã khiến thị trường bị bất ngờ khi công bố kế hoạch thương mại hóa công nghệ pin thể rắn vào năm 2027.
Công nghệ pin EV thế hệ tiếp theo của Toyota
Tháng trước, Toyota đã công bố rằng khi xe điện thế hệ tiếp theo tiếp tục sử dụng pin mới, họ “quyết tâm trở thành công ty dẫn đầu thế giới về mức tiêu thụ năng lượng của xe điện chạy bằng pin”.
Tuần này, nhà sản xuất ô tô Nhật Bản, vốn đang tụt hậu so với các đối thủ trong việc tung ra xe điện, đã công bố bước đột phá về pin thể rắn . Nhà sản xuất ô tô cho biết họ có thể đơn giản hóa các cách sản xuất vật liệu được sử dụng để chế tạo pin thể rắn.
Toyota lưu ý thêm rằng khám phá này sẽ cho phép hãng giảm một nửa kích thước, chi phí và trọng lượng của pin EV. Điều đó cũng có nghĩa là cắt giảm đáng kể thời gian sạc xuống còn 10 phút hoặc ít hơn trong khi tăng phạm vi lái xe lên 1.200 km (745 dặm). Hiện tại, thương hiệu hạng sang Lucid Air nắm giữ phạm vi lái xe dài nhất là 516 dặm.
Chủ tịch trung tâm R&D về tính trung hòa carbon của Toyota, Keiji Kaita, bình luận rằng họ đang có kế hoạch giảm lượng khí thải ở cả pin thể lỏng và thể rắn. Ông cũng cho biết loại pin mới này sẽ dễ sản xuất hơn so với pin lithium-ion thông thường.
Công ty sản xuất ô tô này đã nghiên cứu công nghệ này từ năm 2012 và nó đang trở thành hiện thực khi Toyota hiện có hơn 1.000 bằng sáng chế về pin thể rắn – nhiều hơn bất kỳ nhà sản xuất ô tô nào khác.
Lưu ý đến thông báo của Toyota, các nhà phân tích nhận xét rằng đây có thể là một bước ngoặt cho ngành công nghiệp. Và nó cũng có thể giúp nhà sản xuất ô tô Nhật Bản tiến gần hơn đến nhà sản xuất xe điện hàng đầu Tesla. Hầu hết các đơn vị xe điện của Tesla đều được cung cấp năng lượng bằng pin lithium-ion thông thường sử dụng chất điện phân lỏng.
Kaita cũng cho biết họ đã tìm ra cách giải quyết các vấn đề về độ bền của pin EV. Và hiện tại họ tự tin có thể sản xuất hàng loạt pin thể rắn vào năm 2027 hoặc 2028.
Ford và BMW cũng đã thử nghiệm những loại pin này vào cuối năm ngoái.
Pin thể rắn là gì?
Pin thể rắn được các chuyên gia trong ngành coi là công nghệ hứa hẹn nhất để khắc phục các vấn đề lớn về pin EV. Cụ thể bao gồm thời gian sạc, phạm vi lái xe, dung lượng và rủi ro an toàn như bắt lửa.
Một số chuyên gia gọi pin thể rắn là “nụ hôn tử thần” đối với các loại xe chạy bằng xăng và dầu diesel.
Những loại pin này thay thế chất điện phân dạng lỏng bằng vật liệu rắn và sử dụng kim loại lithium thay vì than chì ở cực dương. Sau đây là cách pin thể rắn của Toyota khác với phiên bản hiện tại dựa trên chất lỏng và cách nó có thể thay đổi ngành công nghiệp.