KINH LẠY CHA CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

KINH LẠY CHA CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 


Câu chuyện xảy ra tại đền thánh Đức Mẹ MARIA ở Einsiedeln bên Thụy Sĩ vào ngày Lễ Nến mùng 2 tháng 2 năm 1968. Đền thánh rất được các tín hữu Công Giáo năng lui tới kính viếng, hành hương.

Nhưng ngày mùng 2 tháng 2 năm 1968 là một ngày trong tuần và trời mùa đông thật lạnh. Đền thánh vắng vẻ không một bóng người. Bà Aloisia Lex đến viếng đền thánh cùng với mấy người bà con. Đang quỳ cầu nguyện, bỗng bà đưa mắt nhìn lên bàn thờ chính và trông thấy một Nữ Tu cao tuổi đang đứng đó. Nữ Tu mang y phục đan sĩ nhưng y phục trông thật cổ xưa như thuộc về mấy thế kỷ trước. Bà Aloisia liền tiến về phía Nữ Tu và được Chị trao cho một tờ giấy Kinh. Bà nhận lấy và lơ đãng bỏ vào túi. Cùng lúc ấy, một hiện tượng lạ lùng diễn ra. Cửa nhà thờ bỗng mở toang và bà Aloisia trông thấy một đoàn ngũ tín
hữu hành hương, đông vô kể, tiến vào nhà thờ. Các tín hữu ăn mặc thật nghèo nàn, và chân đi lướt trên mặt đất, giống như những bóng ma. Đoàn tín hữu hành hương dài như bất tận cứ tiếp tục nối đuôi nhau tiến vào nhà thờ. Trong nhà thờ, có một vị Linh Mục đang đứng đó và hướng dẫn cho các tín hữu biết phải đi đâu.

Trông thấy đoàn tín hữu đông vô kể bà Aloisia tự hỏi:

– Làm sao đền thánh nhỏ bé lại có thể chứa hết một đoàn người hành hương đông
đảo đến như thế?

Vừa thắc mắc tự hỏi bà vừa quay mặt đi hướng khác, trong khoảnh khắc bằng thời
gian thắp lên một ngọn nến. Nhưng khi nhìn lui thì bà lại thấy nhà thờ trống
trơn, vắng vẻ y như trước!

Lòng đầy kinh ngạc, bà Aloisia Lex chạy đến hỏi những người bà con thì họ cho biết là không trông thấy một ai kể cả vị Nữ Tu cao tuổi! Bà Aloisia bối rối không biết mình mơ hay thật. Nhưng khi cho tay vào túi thì bà lại rút ra tờ giấy Kinh mà vị Nữ Tu đã trao cho bà. Tờ giấy Kinh là bằng chứng bà không mơ! Đây là lời Kinh do chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã dạy thánh nữ Mechtilde đọc, trong một lần Ngài hiện ra với thánh nữ.

Thánh nữ Mechtilde (1241-1299), người Đức, được đặc ân trông thấy Đức Chúa GIÊSU hiện ra nhiều lần. Và một trong những lần hiện ra ấy, Đức Chúa GIÊSU dạy cho chị Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục.

Tiếp đó, cứ mỗi lần đọc Kinh LẠY CHA này, thánh nữ Mechtilde lại trông thấy đông đảo các Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục được Chúa rước về Trời. Sau đây là Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Hình.

Lạy CHA chúng con ở trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Thiên Quốc, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không yêu mến CHA đủ, cũng không tôn vinh CHA cân xứng, đúng với địa vị của CHA, Đấng vừa là CHÚA vừa là CHA, đã vì lòng nhân lành mà nhận các Linh Hồn làm con của CHA. Trái lại, các Linh Hồn vì phạm tội mà xua đuổi CHA ra khỏi lòng họ, nơi mà CHA vẫn hằng mong muốn ở lại.

Để đền bù các lỗi phạm này, con xin dâng CHA tình yêu và lòng kính trọng mà Con CHA nhập thể, đã bày tỏ cùng CHA, suốt thời gian sống tại thế. Con cũng xin dâng CHA mọi việc hãm mình, mọi đền bù mà Con CHA đã làm và chính nhờ các việc lành này mà Con CHA tẩy xóa và chuộc đền các tội lỗi của loài người. Amen.

Chúng con nguyện danh CHA cả sáng. Con nài van CHA, lạy CHA Chí Lành, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tôn vinh danh thánh CHA cách cân xứng. Các Linh Hồn đã nhiều lần gọi tên CHA cách bất cẩn và đã làm ô danh tên gọi Kitô-hữu bằng đời sống bất xứng của mình.

Để đền bù tội lỗi các Linh Hồn đã phạm, con xin dâng lên CHA mọi danh dự mà Con Chí Ái CHA đã làm cho danh CHA được cả sáng, bằng lời nói và bằng việc làm, suốt trong thời gian tại thế của Con CHA. Amen.

Nước CHA trị đến. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tìm kiếm cũng không hề ước mong cho Nước CHA trị đến, ước mong với lòng nhiệt thành và chú tâm đến Nước CHA, là Nước duy nhất nơi được an nghỉ đến muôn đời.

Để đền bù cho sự hờ hững làm việc lành của các Linh Hồn, con xin dâng lên CHA niềm mong ước dạt dào của Con Chí Thánh CHA, Ngài không ngừng cầu mong cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục được mau mau vào hưởng hạnh phúc trong Nước của Ngài. Amen.

Ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn đặt ý muốn của họ dưới thánh ý của CHA; họ đã không chu toàn thánh ý CHA trong mọi sự và rất thường khi, họ chỉ sống và hành động theo ý muốn của họ mà thôi.

Để đền bù cho sự bất tuân của các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, con xin dâng lên CHA sự thuần thục hoàn hảo của Trái Tim đầy tình yêu của Con Chí Thánh CHA đối với thánh ý CHA và sự tuân phục sâu xa nhất mà Con CHA bày tỏ cùng CHA khi Con CHA vâng phục CHA cho đến chết trên Thánh Giá. Amen.

Xin CHA cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể với lòng ao ước đủ; các Linh Hồn cũng thường nhận lãnh Bí Tích này với sự lo ra chia trí và không có lòng mến, hay đôi lúc còn dám nhận lãnh cách bất xứng, hay tệ hại hơn nữa, đó là chểnh mãng trong việc nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể.

Để đền bù mọi tội lỗi trên đây mà các Linh Hồn đã vấp phạm, con xin dâng lên CHA sự thánh thiện cao cả và sự trầm mặc lớn lao của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Chúa chúng con, Con Chí Thánh CHA, cũng như tình yêu nhiệt thành mà qua đó Đức Chúa GIÊSU đã ban cho chúng con hồng ân khôn sánh này là bí tích Thánh Thể. Amen.

Xin CHA tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con. Concầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục
vì đã vấp ngã phạm bảy mối tội đầu, cũng như không muốn yêu thương cũng chẳng
tha thứ cho kẻ thù của mình.

Để đền bù cho mọi tội lỗi trên đây, con xin dâng lên CHA lời kinh đượm đầy tình yêu mà Con Chí Thánh CHA đã thân thưa cùng CHA, xin CHA thứ tha cho kẻ thù của Ngài, lúc Ngài bị đóng đinh trên Thánh Giá. Amen.

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì, rất thường khi các Linh Hồn đã không chống trả lại các cơn cám dỗ và các dục tình nhưng đã đi theo kẻ thù của điều lành và đã chìu theo các quyến rũ của xác thịt.

Để đền bù cho các tội lỗi trên đây dưới mọi hình thức mà các Linh Hồn nơi  Luyện Ngục đã phạm, con xin dâng lên CHA chiến thắng vinh quang mà Đức Chúa GIÊSU KITÔ Chúa chúng con đã chiến thắng trên thế gian này, cũng như đời sống rất thánh thiện, việc làm và những lao cực, sự đau khổ và cái chết nhục nhã của Ngài. Amen.

Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA hãy giải thoát chúng con khỏi mọi biến loạn, nhờ công nghiệp của Con Chí Ái CHA và xin dẫn đưa chúng con, cũng như dẫn đưa các Linh Hồn nơi Luyện Ngục vào trong Nước CHA, Nước của vinh quang vĩnh cửu, giống y như CHA vậy. Amen.

(”STELLA MARIS”, mensuel d’informations religieuses, Novembre/1993, trang 5)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn : vietvatican.net

Maria Thanh Mai gởi

 

ĐẠO CÔNG GIÁO THAY ĐỔI HẲN CUỘC ĐỜI TÔI!

ĐẠO CÔNG GIÁO THAY ĐỔI HẲN CUỘC ĐỜI TÔI!
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

… Anh Stephane Mauriac là tín hữu tân tòng người Pháp. Là tín hữu tân tòng nhưng anh lại chào đời trong một gia đình Công Giáo. Lý do là vì Cha Mẹ không muốn rửa tội khi con còn nhỏ. Hoàn cảnh không thuận lợi cho việc lãnh nhận Đức Tin nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng đã dẫn dắt và giúp anh tiến đến bí tích Rửa Tội. Xin nhường lời cho anh Stephane Mauriac.
Tôi sinh ra và lớn lên tại Paris, thủ đô nước Pháp. Sống ở Paris nên tôi thường đến kính viếng nhà nguyện của các Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh Sơn Phaolô ở số 140 đường du Bac, nơi Đức Mẹ MARIA hiện ra với thánh nữ Catherine de Labouré (1806-1876) vào năm 1830. Có lẽ ơn gọi tín hữu Công Giáo nẩy sinh từ đó. Thỉnh thoảng tôi đem vấn đề rửa tội ra trình bày với Cha Mẹ nhưng ông bà gạt đi và nói:
– Để thủng thẳng rồi tính, đợi khi nào con bước vào tuổi trưởng thành hẳn hay!
Phản ứng của Ba Má tôi là thế. Đối với bạn bè lại càng tệ hơn. Nơi học đường và
trong môi trường làm việc, chúng tôi không bao giờ đề cập đến vấn đề tôn giáo
và chúng tôi trốn tránh danh xưng ”Kitô hữu”!
Năm 1988 tôi rời thủ đô Paris và chuyển về sống tại miền quê. Nơi đây, sau nhiều
biến cố dồn dập xảy ra, tôi quyết định đến gặp Cha Sở. Tôi xin theo lớp giáo lý
tân tòng để chuẩn bị lãnh bí tích Rửa Tội. Rủi thay, trong giáo xứ không có lớp
giáo lý cho người lớn nhưng chỉ có các lớp giáo lý dành cho trẻ em. Tôi đành
kiên nhẫn chờ đợi.
Bốn năm trôi qua và vào năm 1992, có hai thanh niên khác cũng muốn xin gia nhập
Giáo Hội Công Giáo. Chúng tôi làm thành một lớp giáo lý gồm 3 người. Chúng tôi
họp nhau mỗi tháng một lần. Ban đầu Cha Sở trao cho chúng tôi cuốn giáo lý nhỏ.
Sau đó, chúng tôi học hỏi, bàn thảo và đào sâu giáo lý Công Giáo bắt đầu từ cuốn
Phúc Âm. Riêng tôi, tôi may mắn được đôi vợ chồng trẻ hướng dẫn và đồng hành
trên con đường tiến đến Đức Tin Công Giáo.
Trước khi lãnh phép Rửa Tội, tôi vẫn có thói quen cầu nguyện. Rồi tôi cùng đi lễ
Chúa Nhật với Cha Mẹ đỡ đầu. Giờ đây, sau khi được Rửa Tội, cầu nguyện trở
thành cần thiết như hít thở. Tôi rất thích cầu nguyện và hoàn toàn bám chặt vào
cầu nguyện. Tôi chỉ gặp chút vấn đề khi đọc kinh LẠY CHA tới câu ”Và tha nợ
chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Tôi thích đổi câu này thành: ”Và tha nợ chúng con, như chúng con cố gắng tha kẻ
có nợ chúng con”. Đôi lúc tôi không hiểu tại sao khi đi lễ Chúa Nhật, các tín hữu
Công Giáo âu yếm mỉm cười với nhau lúc bắt tay trao đổi bình an, nhưng rồi sau
đó, trong cuộc sống hàng ngày lại không tiếc lời chửi rủa và thóa mạ nhau!
Nơi miền quê, tôi nhận thấy người dân sống gần Đức Chúa GIÊSU KITÔ hơn là tín hữu
Công Giáo sống ở thành thị hoặc thủ đô! Đối với dân làng cũng như đối với tôi, đi nhà thờ có nghĩa là đi dự cuộc họp giữa những người cùng tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ và cùng tìm kiếm một giải đáp cho các vấn đề của cuộc sống con người.

Bí tích Rửa Tội trở thành một sự kiện quan trọng trong đời sống tôi. Tôi đã vượt qua một giai đoạn và tôi cảm thấy thật thoải mái và hạnh phúc. Giờ đây, nếu có ai xin tôi đồng hành với các tân tòng thì tôi sẵn sàng chấp nhận. Bởi lẽ, đã có người sẵn sàng giúp tôi thì sao tôi lại không sẵn sàng giúp đỡ người khác? Trở thành tín hữu Công Giáo đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi. Tôi cảm thấy cởi mở hơn đối với tha nhân, điều mà trước đó tôi không làm được. Trước kia, chỉ cần ai đó làm phật ý, tức khắc tôi loại trừ người ấy khỏi mối quan hệ với tôi!
Giờ đây tôi có thể nói như thánh Phaolô tông đồ, sau khi lãnh bí tích Rửa Tội rằng:
”Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ sống
trong tôi!”
… ”Tôi quỳ gối trước mặt THIÊN CHÚA CHA là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời
dưới đất. Tôi nguyện xin THIÊN CHÚA CHA, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh chị em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh chị em được vững vàng. Xin cho anh chị em, nhờ lòng tin, được Đức Chúa GIÊSU KITÔ ngự trong tâm hồn; xin cho anh chị em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên Đức Ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh chị em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết Tình Yêu của Đức Chúa GIÊSU KITÔ là Tình Yêu vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh chị em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của THIÊN CHÚA. Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới. Xin tôn vinh Người trong Hội Thánh và nơi Đức Chúa GIÊSU KITÔ đến muôn thưở muôn đời. Amen”
(Êphêsô 3,14-21).
(”Annales d’Issoudun”, Janvier/1996, trang 15)
Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt

Tác động của Chúa Giêsu Kitô trong gia đình Công Giáo(Ông Gioan Ngô Kinh Hùng)

Tác động của Chúa Giêsu Kitô trong gia đình Công Giáo

nguồn: Gplongxuyen.net

Ông Gioan Ngô Kinh Hùng (1899-1986) chào đời tại tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Ông mồ côi mẹ năm lên bốn tuổi và mồ côi cha lúc mới lên 10. Ông Ngô là nhà luật học quốc tế danh tiếng, một nhà nhân bản học đặc sắc, một người kết hợp hài hòa những nét tuyệt hảo của nền văn hóa cũ mới, Đông Tây.

Năm 1937, Nhật chiếm Thượng Hải, ông Ngô trú ẩn tại nhà người bạn là ông Nguyễn Gia Hoàng, giáo sư Luật tại Đại học Rạng Đông. Nhờ sống trong một gia đình Công Giáo nhiệt thành, và nhất là, sau khi đọc truyện thánh nữ Têrêsa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897), ông Ngô đã quyết định theo đạo Công Giáo. Ngày 23-12-1937, ông lãnh bí tích Rửa Tội do Cha Georges Germain, dòng Tên, Viện trưởng đại học Rạng Đông. Sau đó ông đã đưa vợ và toàn gia đình 12 người con theo đạo Công Giáo. Từ ấy, gia đình ông Ngô sống trong hòa hợp yêu thương, kính sợ THIÊN CHÚA và kính mến Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA.

Sau đệ nhị thế chiến, năm 1947, giáo sư Gioan Ngô Kinh Hùng được chính phủ cộng hòa nhân dân Trung Quốc bổ nhiệm làm công sứ đầu tiên cạnh Tòa Thánh, một chức vụ ở liền dưới cấp đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Ông Gioan Ngô Kinh Hùng mô tả chỗ đứng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong gia đình ông như sau.

Từ ngày tôi trở thành tín hữu Công Giáo và toàn gia đình cũng nối gót tôi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, Đức Chúa GIÊSU KITÔ Vua đã hiển trị trong nhà chúng tôi. Hiền thê tôi và tôi, hai vợ chồng chúng tôi tìm được niềm thanh thản trong Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Cả hai chúng tôi được nối kết bằng một tình yêu chung. Nhờ tiến tới trong Tình Yêu THIÊN CHÚA chúng tôi cũng cùng lúc tiến tới trong tình yêu hỗ tương. Trong mấy năm gần đây, hiền thê tôi và tôi, chúng tôi rước Mình Thánh Chúa hầu như mỗi ngày. Điều này trở thành một thói quen lành thánh.

Khi tôi bị ngăn trở, hiền thê tôi đi lễ một mình và nói với tôi:

– Sáng nay anh mệt, cần ở nhà nghỉ ngơi dưỡng sức. Em đi lễ và rước lễ. Em sẽ cầu nguyện cho anh. Cũng giống y như là cả hai chúng ta cùng được rước Mình Thánh Chúa vậy!

Nhưng điều này chỉ thỉnh thoảng xảy ra mà thôi. Cứ sự thường, cả hai chúng tôi cùng sánh bước đến nhà thờ. Mỗi lần tiến lên bàn thánh rồi quì cạnh hiền thê tôi để lãnh Mình Thánh Chúa, lòng tôi rộn lên niềm vui và thán phục. Tôi có cảm tưởng buổi cử hành rượu tình yêu, san sẻ mỗi ngày, không ngừng canh tân cuộc sống chúng tôi. Hình như chính hôn nhân của chúng tôi cũng được đổi mới vào mỗi buổi sáng, khi chúng tôi đi tham dự Thánh Lễ và rước lễ, và mỗi cuộc canh tân lại làm cho tình yêu vợ chồng chúng tôi trở nên đậm đà hơn. Tôi thường than thở cùng Chúa:

– Ôi lạy Đức Chúa GIÊSU KITÔ dấu ái, làm sao lại có thể như thế được? Phải chăng đây là giấc mơ hay là một kinh nghiệm tỏ tường? Chúa đã làm cho đời sống vợ chồng chúng con thành tuần trăng mật triền miên. Và đời sống chúng con tại thế chỉ là điều báo trước. Lạy Đức Chúa GIÊSU KITÔ dấu ái, đôi lòng chúng con nên một trong Tình Yêu của Chúa. Trong Trái Tim Chí Thánh của Chúa, chúng con tìm thấy ngôi nhà mái ấm chúng con, nên đâu còn ai có thể nói được là bị lưu đày? Ôi lạy Chúa, ý chí chúng con chính là định mệnh đời chúng con và tự do chúng con chính là thực thi thánh ý Chúa!

THIÊN CHÚA Nhân Lành đã mở đôi mắt vô cảm của tôi trước các đức tính cao quí
kín ẩn của hiền thê tôi. Trước đây tôi khinh khi vợ, cho rằng nàng không xứng đáng làm hiền thê tôi. Giờ đây tôi xấu hổ vì cảm thấy mình không xứng đáng làm chồng nàng! Đức Chúa GIÊSU KITÔ là mối giây sống động nối kết hai vợ chồng chúng tôi lại với nhau. Chúng tôi trở thành ”đôi tay chấp lại trong tư thế thờ lạy triền miên”.

Mặc dầu từ lúc chúng tôi theo đạo Công Giáo, cuộc sống trên bình diện chính trị và kinh tế có bị suy giảm, nhưng trên bình diện thiêng liêng, chúng tôi như được bơi lội trong hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng tôi không ”tôn thờ” lẫn nhau. Không, chúng tôi không xem nhau như thần tượng. Chúng tôi chỉ tôn thờ duy nhất Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ hiệp nhất vợ chồng chúng tôi nên một. Mỗi người chúng tôi càng tiến lại gần Đức Chúa GIÊSU KITÔ thì cả hai chúng tôi lại tiến đến gần nhau hơn.

… ”Anh chị em là những người được THIÊN CHÚA tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh chị em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, kơiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh chị em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh chị em, thì anh chị em cũng vậy, anh chị em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh chị em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn
bình  an của Đức Chúa GIÊSU KITÔ điều khiển tâm hồn anh chị em, vì trong một thân thể duy nhất, anh chị em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh chị em hãy hết dạ tri ân”
(Côlôxê 3,12-15).

(John Ching-Hsiung Wu, ”Par-delà l’Est et l’Ouest”, traduit de l’anglais par Franz Weyergans, Editions Casterman, 1960, trang 97-107)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

CHÂN PHÚC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, MỘT NGƯỜI CẦU NGUYỆN

CHÂN PHÚC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, MỘT NGƯỜI CẦU NGUYỆN

22-10-2012                    nguồn: Vietvatican.net

Ngày 31-10-2007, vọng lễ Các Thánh Nam Nữ, nhà xuất bản Fayard bên Pháp phát hành tác phẩm ”J’ai senti battre le coeur du monde” (Tôi cảm nhận nhịp tim đập của thế giới). Cuốn sách là thành quả các trao đổi chuyện trò giữa ký giả Bernard
Lecomte và Đức Hồng Y Roger Etchegaray, người Pháp. Năm ấy Đức Hồng Y 85 tuổi và là Phó Niên Trưởng Hồng Y Đoàn. Xin trích một đoạn ngắn Đức Hồng Y nói về Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005): một người cầu nguyện (unhomme de prière).

(Đôi hàng giới thiệu về Đức Hồng Y Roger Etchegaray).

Đức Hồng Y Roger Etchegaray chào đời ngày 25-9-1922 tại Espelette thuộc
miền Pyrénées-Atlantiques ở miền Nam nước Pháp, giáp giới với nước Tây Ban Nha.
Thụ phong Linh Mục ngày 13-7-1947, 12 năm sau, Cha Roger được Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI (1963-1978) chỉ định làm Giám Mục phụ tá Tổng Giáo Phận Paris. Vỏn
vẹn một năm sau – 1970 – Đức Cha Roger Etchegaray lại được thuyên chuyển về
Tổng Giáo Phận Marseille. Năm 1979 ngài được vinh thăng Hồng Y và 5 năm sau,
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đưa ngài về Roma trao phó nhiệm vụ Chủ Tịch Hội
Đồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình và COR UNUM Đồng Tâm. Đức Hồng Y Roger Etchegaray chu toàn nghĩa vụ này trong vòng 14 năm từ 1984-1998. Sau đó Đức Hồng Y Roger Etchegaray lại được chỉ định làm Chủ Tịch Ủy Ban Đại Năm Thánh 2000. Có thể nói
trong vòng 20 năm trời (1984-2005) Đức Hồng Y Roger Etchegaray đã sát cánh bên
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cử làm đặc
sứ trong những chức vụ tế nhị vào những thời điểm thảm khốc nhất của vận mệnh
thế giới và của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ. Đức Hồng Y đã đi đến các vùng có
chiến tranh hoặc xung đột sôi sục khói lửa hận thù như Kosovo, Cuba, Messico,
Haiti, Rwanda, Irak, Trung Quốc và Việt Nam.

Riêng Việt Nam, Đức Hồng Y Roger Etchegaray đã đến đây 3 lần. Lần đầu tiên từ
ngày mồng 1 đến 13-7-1989. Đức Hồng Y viếng thăm Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
theo lời mời của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Lần thứ hai – với tư cách đặc sứ
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II – Đức Hồng Y Roger đến Hà Nội chủ sự Thánh Lễ
an táng Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn (1921-1990) ngày 23-5-1990. Lần
thứ ba, Đức Hồng Y Roger Etchegaray dẫn đầu Phái Đoàn Tòa Thánh chính thức
viếng thăm và thảo luận với các cơ quan chức trách của chính phủ Việt Nam. Cuộc
viếng thăm kéo dài từ ngày mùng 5 đến 14-11-1990.

Xin nhường lời cho Đức Hồng Y Roger Etchegaray nói về Đức Chân Phúc Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II.

Vị Giáo Hoàng có ngôn từ cao cả, có cử điệu rộng rãi phong phú ấy trước tiên là
một con người cầu nguyện. Tôi trải qua thời gian 20 năm làm việc cho Đức Giáo
Hoàng và bên cạnh Đức Giáo Hoàng. Nhưng chúng tôi không bao giờ tiến sâu vào
chỗ thân mật, có lẽ do cá tính khác biệt giữa hai chúng tôi. Đức Giáo Hoàng
người Ba Lan trong khi tôi người vùng Basque.

Không bao giờ ngài trao cho tôi những chỉ thị rõ ràng có tính chất bắt buộc
trước mỗi khi tôi lên đường thi hành một nhiệm vụ do ngài sai đi tại một vùng
đất này hay nơi một xứ sở kia ở tận cùng bờ cõi trái đất. Ngài hoàn toàn tin
tưởng nơi tôi. Hay nói đúng hơn, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II luôn luôn đặt
trọn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA .. Đây cũng là điểm nổi bật nhất nơi con
người Đức Gioan Phaolô II khiến cho tất cả các cộng tác viên thân cận nhất của
ngài phải ngỡ ngàng thán phục.

Vị Giáo Hoàng từng quyến dũ giới truyền thông bằng nhân cách ”trung gian”, vị
Mục Tử có ngôn từ cao cả, có cử điệu phong phú dồi dào, lại là con người – trước
hết và trên hết – của cầu nguyện. Từ sáng tinh sương đến tối khuya của ngày
tàn, Đức Gioan Phaolô II không bao giờ ngừng cầu nguyện.

Chính ký giả André Frossard (1915-1995) – nếu tôi nhớ không lầm – từng ví Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với một khối cầu nguyện (bloc de prière) sau một lần
ông được diễm phúc tham dự Thánh Lễ do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cử hành
nơi nhà nguyện riêng ở nội thành Vatican.

Tất cả những ai từng cộng tác, từng làm việc chung với Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, cũng như tất cả những ai từng tháp tùng ngài trong các chuyến công
du mục vụ đều ngạc nhiên thán phục trước khả năng của Đức Giáo Hoàng – ở bất cứ
nơi đâu trong bất cứ hoàn cảnh và trạng huống nào – cũng đều có thể tách rời
khỏi mọi ồn ào huyên náo bên ngoài để lắng đọng vào bên trong và cầu nguyện.
Chính vì lý do này mà đôi lúc Đức Gioan Phaolô II gieo rắc hoảng hốt lo âu cho
những người có trách nhiệm tổ chức các chuyến công du, khi thấy Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đắm mình trong cuộc chuyện trò thân mật với Đấng Cứu Thế, mặc
cho sự chậm trễ của chương trình đã được hoạch định tỉ mỉ trước từng giây từng
phút!

Tôi còn nhớ trong chuyến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm nước Pháp
lần thứ 5 vào năm 1996 từ ngày 19 đến 22 tháng 9, với trạm dừng đầu tiên là thành
phố Tours. Trong Tu Viện nơi chúng tôi trú ngụ, tôi tình cờ bắt gặp Đức Gioan
Phaolô II, vào sáng sớm thứ sáu 20-9-1996, đang một mình gẫm Đàng Thánh Giá
trong nhà nguyện. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không bao giờ bỏ qua một ngày
thứ sáu nào mà không Đi Đàng Thánh Giá – dù cho ngài ở bất cứ nơi đâu.

Mỗi khi di chuyển bằng máy bay, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II luôn luôn cầm
tràng hạt Mân Côi trong tay và ngoài những nghi thức ngoại giao ngài bắt buộc
phải chu toàn, hoặc phải trả lời các cuộc phỏng vấn của các ký giả quốc tế tháp
tùng chuyến công du mục vụ mà ngài luôn luôn nhã nhặn thi hành, ngoài tất cả
các việc này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lại đắm mình trong kinh nguyện.
Ngài không bao giờ nhìn qua khung cửa sổ máy bay để chiêm ngắm cảnh vật. Không
bao giờ. Ngài chỉ thinh lặng cầu nguyện cho đến khi máy bay đáp xuống phi đạo
của đất nước ngài sắp viếng thăm.

… Kinh xin ơn nhờ lời chuyển cầu của Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Lạy Ba Ngôi Chí Thánh,

chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội

Đức Chân Phúc Gioan Phaolô II

và biểu dương nơi người

lòng ưu ái của tình phụ tử Chúa,

vinh quang Thánh Giá của Đức KITÔ

và sự huy hoàng của Thánh Thần Tình Yêu.

Khi hoàn toàn phó thác

nơi lòng thương xót vô biên của Chúa

và nơi sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Mẹ MARIA

người đã cho chúng con một hình ảnh sống động của Đức GIÊSU

Đấng Chăn Chiên Nhân Lành

và đã chỉ cho chúng con đường nên thánh

như chiều kích thanh cao

của đời sống kitô thường ngày

là con đường duy nhất đạt tới

niềm hiệp thông vĩnh cửu với Chúa.

Nhờ lời chuyển cầu của người,

xin Chúa ban cho chúng con,

tùy theo thánh ý Chúa,

ơn chúng con van nài,

trong niềm hy vọng mãnh liệt

người sẽ sớm được nâng lên hàng Các Thánh của Giáo Hội.

Amen.

(”Pèlerin”, L’Hebdo du Quotidien, n.6518, Jeudi 1er Novembre 2007, trang
32-39)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Ngày 26-11-1929, sau trận chiến nội tâm ”tàn-khốc”, ông Einar Berrum quyết định gởi thư đến trụ sở hội tam điểm tại Na-Uy, xin rút tên ra khỏi hội.

Thư gửi đi, ông tức khắc tìm được niềm an bình hạnh phúc khôn tả! Cùng ngày đó, ông đến gặp Cha Sở nhà thờ chính tòa Công Giáo Oslo, thủ đô Na-Uy, xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo .. Bốn năm sau, ông lấy giấy ghi lại cuộc trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Con đường dẫn tôi đến với Giáo Hội là con đường bình thường. Có lẽ không bao giờ tôi viết lại, nếu không có người xin tôi viết. Và khi chấp nhận lời yêu cầu, cùng lúc tôi muốn bày tỏ lòng yêu mến và ghi ơn Giáo Hội Công Giáo, Mẹ chúng ta.

Tôi sinh năm 1872 tại Osolo và được may mắn lớn lên trong gia đình Kitô. Thân phụ tôi là tín hữu tin lành mộ đạo.

Sau khi mãn bậc tiểu học, tôi được cha mẹ gửi sang Anh quốc, bắt đầu bậc trung học đệ nhất cấp tại trường Thánh Olave ở thành phố York.

Đây là trường học tin lành. Dĩ nhiên người ta nói với chúng tôi về ông tổ tin lành Luther và trình bày cho chúng tôi biết tất cả thành kiến xấu về Giáo Hội Công Giáo và Vị Giáo Hoàng của Giáo Hội này! Chính trong bầu khí bài xích Giáo Hội Công Giáo mà tôi đi vào thế giới của tôn giáo và của văn chương khoa học.

Tôi không bao giờ quên Chúa Nhật đầu tiên tại thành phố York. Hôm ấy tôi bước vào nhà thờ mang tên Thánh Olave, vị thánh người Na-Uy. Đó là nhà thờ Anh giáo. Ban đầu tôi cứ ngỡ mình đang ở trong nhà thờ Công Giáo, vì lúc ấy, tôi chưa thạo tiếng Anh cho lắm..

Lần đầu tiên trong đời, tôi học biết quỳ gối. Và những nghi lễ trang trọng cùng với thánh ca có nhạc cụ đi kèm, nghe thật du dương và thật sốt sắng. Buổi phụng vụ Chúa Nhật ghi vào lòng tôi một ấn tượng tốt đẹp. Từ đó, tôi có thói quen đến nhà thờ này vào mỗi Chúa Nhật để tham dự các nghi lễ phụng vụ.. Sau này, khi trở lại Oslo, tôi cũng thường đến tham dự các buổi cử hành phụng vụ tại nhà thờ Anh giáo. Tôi đến đây không phải vì tâm tình mộ đạo cho bằng bị lôi cuốn bởi nét đẹp của các buổi cử hành. Thế thôi.

Sau khi mãn bậc trung học đệ nhất cấp tại Anh quốc, tôi trở về Na-Uy học tiếp. Đến năm 1908 – tôi 36 tuổi – xảy ra biến cố làm thay đổi cuộc đời. Thân phụ tôi giữ chức vụ cao trong hội tam điểm. Ông muốn các con trai ông phải ghi tên vào hội này. Ngày 24-4-1908, anh em tôi chính thức ghi tên gia nhập hội tam điểm.

Năm 1918, tôi thành hôn với thanh nữ Đan-Mạch sống tại thủ đô Copenhagen. Hiền thê tôi là tín hữu tin lành đạo đức và là phụ nữ trí thức. Nàng say mê văn chương và thích nghe bài giảng hay. Khi thành hôn với tôi, nàng về sinh sống tại tỉnh nhỏ ở Na-Uy. Chỉ có điều duy nhất nàng cảm thấy nhung nhớ, đó là những bài giảng hay trong các nhà thờ tin lành ở thủ đô Copenhagen.

Một Chúa Nhật mùa chay năm 1928, khi trở về nhà, nàng hớn hở nói với tôi nàng vừa tìm ra vị giảng thuyết thật hay, tại nhà thờ Công Giáo thánh nữ Brigitte. Tôi tỏ dấu tức giận và hờn dỗi, vì thấy vợ tự ý đi tìm nhà thờ Công Giáo, với vị giảng thuyết Công Giáo. Dầu vậy, từ đó, chúng tôi đều đặn đến nghe giảng tại nhà thờ này .. Tuy nhiên, hạnh phúc lứa đôi bắt đầu lung lay. Đôi khi chúng tôi còn cãi vả to tiếng với nhau nữa. Trong khi đó, vợ tôi mỗi ngày một đến gần Giáo Hội Công Giáo.

Ngày 2-12-1928, Chúa Nhật Mùa Vọng, sau khi bất bình với nhau về nhiều sự, vợ tôi vẫn cố gắng thuyết phục tôi đi lễ nơi nhà thờ Các Linh Mục dòng Đaminh tại Oslo. Tôi miễn cưỡng nghe lời vợ. Đến nơi, tôi chọn ngồi vào hàng ghế sau cùng. Nhưng thay vì cảm thấy khó chịu, tôi lại cảm thấy lòng thanh thản lạ thường. Vị Linh Mục chủ lễ và giảng hôm đó là
người Pháp. Vậy mà ngài nói rành tiếng Na-Uy, không thể chê được. Thêm vào đó, bài giảng thật hay. Tôi xúc động thật sự.

Năm sau, ngày 4-10-1929, vợ tôi chính thức gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Cuộc chiến nội tâm của tôi còn kéo dài đến ngày 26-11 cùng năm. Sau đó tôi quyết định ra khỏi hội tam điểm và xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tôi tận hưởng niềm an bình hạnh phúc thật sự.

(”Stella Maris”, Octobre/1993, trang 30-31).


Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Maria Thanh Mai gởi

ÔI ĐỨC TIN CÔNG GIÁO THẬT TUYỆT ĐẸP!

ÔI ĐỨC TIN CÔNG GIÁO THẬT TUYỆT ĐẸP!

Bà Gaelle là tín hữu Công Giáo Pháp được rửa tội và theo học giáo lý
trong thời niên thiếu. Bà từng đi nhà thờ tham dự Thánh Lễ cho đến khi xưng tội và rước lễ lần đầu. Sau đó thì xa lìa Giáo Hội, tuy vẫn thỉnh thoảng đến nhà thờ vào những dịp lễ lớn cùng với gia đình. Nhưng đó chỉ là hành động tôn giáo hoàn toàn vì ”thói quen”. Không hơn không kém.

Lớn lên đi vào cuộc sống bà thi hành một nghề nghiệp đôi khi nặng chĩu âu lo và đầy xúc động. Cứ mỗi lần như thế bà cảm thấy nhu cầu đẩy cửa bước vào một thánh đường để kín múc nhiên liệu thiêng liêng.

Rồi bà gặp đức lang quân, xuất thân từ một gia đình Công Giáo sống đạo chân thành. Hai vợ chồng có ba con và đều xin rửa tội cho cả ba đứa.

Dòng đời lặng lẽ trôi qua cho đến khi một biến cố đau thương xuất hiện trong đại gia đình. Người anh họ của bà Gaelle đột ngột từ trần sau một tai nạn thảm thương. Mặc dầu đau đớn vô cùng, nhưng Thánh Lễ an táng – do các thân nhân trong gia đình chuẩn bị chu đáo – diễn ra thật đẹp và thật trang trọng. Đặc biệt, chính Đức Tin kiên cường của hiền thê người quá cố là động lực khiến bà Gaelle đặt lại vấn đề tôn giáo của mình. Bà như được mời gọi phải canh tân cuộc sống nội tâm. Bà ngỡ ngàng kêu lên:

– Ôi Đức Tin Công Giáo tuyệt đẹp! Ôi sức mạnh thiêng liêng kỳ diệu đáng quý
biết bao! Tôi thật sự cảm nhận sự hiện diện của THIÊN CHÚA là CHA khoan nhân,
là Đấng từ ái vô biên!

Biến cố thứ hai góp phần vào việc đưa bà Gaelle trở lại với Giáo Hội Công Giáo là
khi gia đình bà dọn về sống nơi thành phố Orléans cách thủ đô Paris 120 cây số.
Thái độ đón tiếp niềm nỡ của giáo xứ mới như gieo vào lòng bà ước muốn phải đi
xa hơn trên con đường thiêng liêng. Bà liên lạc với một nhóm gồm những người
”tái khởi hành” ở cùng trường hợp như bà để chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức. Bà
Gaelle kể lại lộ trình thiêng liêng trải qua như sau.

Trong nhóm, mỗi người đều hoàn toàn tự do đặt các câu hỏi. Không ai có mặc cảm bị xét đoán. Nhóm không đông người lắm khiến cho việc trao đổi dễ dàng. Câu hỏi của người này cũng giúp ích cho người kia và chúng tôi cùng tiến bước trong thanh thản an bình. Chúng tôi cũng được nghe giải thích về một số việc thực hành đạo hoặc được làm sáng tỏ về một số kinh đã dọn sẵn. Chẳng hạn đối với tôi, trước đây tôi rất khó đọc Kinh Tin Kính. Giờ đây tôi cảm thấy dễ dàng hơn khi đọc Kinh này. Rồi chúng tôi đọc Kinh Thánh. Nhờ một số văn bản Kinh Thánh,chúng tôi đào sâu ý nghĩa Lời của Đức Chúa GIÊSU KITÔ và tìm cách ứng dụng vào đời sống thường nhật.

Tôi không hối tiếc gì về hành trình trở về với Đức Tin Công Giáo. Hay nói theo ngôn ngữ ngày nay là ”tái khởi hành”! Trái lại tôi cảm thấy thật hài lòng. Bởi vì, khi đi vào hành trình thiêng liêng lúc đã trưởng thành giúp tôi ý thức rõ ràng hơn về Đức Tin của tôi. Chính tôi chọn lựa con đường trở về với Giáo Hội Công Giáo. Nếu tôi làm cuộc hành trình này lúc còn nhỏ tuổi, hẳn sẽ có một hiệu quả khác. Phần tôi năm nay đã 40 tuổi rồi. Tôi ước ao tiếp tục học hỏi và đào sâu về Lời Chúa. Tôi cũng ghi tên tham dự một khóa huấn luyện trong giáo phận.

… Đó là một trường hợp tín hữu Công Giáo Pháp trở về với Đức Tin và việc sống đạo. Thời gian gần đây, Giáo Hội Công Giáo Pháp hân hoan đón rước con số đông đảo các người trưởng thành xin học đạo, lãnh phép rửa tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Lý do nào thúc đẩy họ đi đến quyết định chọn Kitô Giáo? Thưa là vì hầu hết họ cùng có ước nguyện chung về sự sống, về tình yêu và muốn tìm kiếm một ý nghĩa cho cuộc đời.

Người tân tòng không bao giờ nói suông trên lý thuyết. Trái lại, họ đi vào thực tế. Họ kể lại cuộc đời họ. Nếu họ kể lại cuộc đời mình chính vì họ linh cảm rằng, những gì không có lợi lộc vật chất lại ẩn chứa một giá trị khác. Nhưng họ không biết diễn tả ra sao. Họ chưa có thể nói về THIÊN CHÚA và tác động của Ngài trong đời sống của họ. Đây là điều khó khăn vì họ đang ở trong giai đoạn đầu. Họ chờ đợi THIÊN CHÚA tỏ lộ cho họ. Và THIÊN CHÚA dần dần tỏ lộ trong thời gian họ học giáo lý. Có các Linh Mục hướng dẫn và có các người đồng hành với các tântòng để giúp họ tiến đến cuộc gặp gỡ thân tình với Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Một người tháp tùng các tín hữu tân tòng kể lại kinh nghiệm như sau.

Niềm hạnh phúc lớn lao nhất của chúng tôi là tham dự vào tiến trình biến đổi mà Đức Chúa GIÊSU KITÔ tác động nơi mỗi tân tòng. Các khuôn mặt khép kín ban đầu dần dần tiếp nhận ánh sáng cho đến lúc hoàn toàn mở rộng cho tha nhân và cho cuộc sống!
Rõ ràng là có một ”cái trước” và một ”cái sau” của tín hữu tân tòng. Hiệu quả của
ơn thánh Chúa thật tuyệt vời!

… Ông Phaolô nói với các kỳ mục trong Hội Thánh Êphêxô rằng: ”Anh em hãy
ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm  người coi sóc. Hãy chăn dắt Hội Thánh của THIÊN CHÚA, Hội Thánh Người đã mua bằng Máu của chính mình .. Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho THIÊN CHÚA và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến .. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Đức Chúa GIÊSU đã dạy: ”Cho thì có phúc hơn là nhận”
(Sách
Công Vụ tông đồ 20,28+32+35).

(”Catholiques dans le Loiret”, La vie du diocèse d’Orléans, No 5, Mai 2012,
trang 14-15).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

CẦN PHẢI KÊU VAN THIÊN CHÚA TRỢ GIÚP!

CẦN PHẢI KÊU VAN THIÊN CHÚA TRỢ GIÚP!

                                                           Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt 

 

… Tôi thay đổi. Dù muốn dù không, tôi thay đổi. Tôi thay đổi nơi hình dáng, cách cư xử và tư tưởng. Đúng thế, bởi vì cuộc sống có một điều kiện cơ bản chính xác, đó là mối quan hệ. Thật vậy, không thể nghĩ rằng tôi có thể sống mà không liên hệ với điều gì đó, với người nào đó sống chung quanh tôi. Mỗi một kiểu trao đổi nào đó ở bên ngoài, vẫn khiến tôi phải can dự bằng sự đáp trả, bằng tư tưởng và bằng thái độ tương ứng với con người của tôi. Vậy thì, nếu có thay đổi nào đó liên hệ đến tất cả mọi người thì đáng cho chúng ta phải dành thời giờ để suy tư. Nhưng có sự khác biệt: có những thay đổi đưa con người vào tình trạng khủng hoảng, chẳng hạn như: thay đổi việc làm, thay đổi xứ sở mình đang sống hoặc phải đặt lại vấn đề khi có một biến cố bất ngờ xảy ra. Tôi bị bó buộc phải cố gắng tối đa hầu có thể thích ứng với hoàn cảnh mới, cũng như tìm kiếm một quân bình mới cho chính tôi để đáp ứng với thế giới bên ngoài. Thế là tôi bị mất hướng, xem ra như thể các chắc chắn cổ xưa giờ đây trở thành suy yếu, không còn đáng tin nữa. Bị mất hướng nhưng tôi vẫn hy vọng có các điểm tựa mới hầu giúp tôi được ổn định.

Cách đây vài năm, nếu nhớ không lầm, tôi có đọc một bài báo trong đó có một câu làm tôi suy nghĩ mãi và không bao giờ quên:
– Không ai được cứu rỗi nếu không biết tha thứ!

Khi chúng ta bị rơi vào vòng vây của chính mình hay bị cuốn hút vào các biến cố, hoặc khi xảy đến cho chúng ta điều gì đó làm cho chúng ta bị bấn loạn đảo điên, thì có lẽ, bước đầu tiên chúng ta phải làm là: Tha Thứ!

Tôi muốn nói rằng: Không hẳn chúng ta đã phạm một lầm lỗi nào đó khiến chúng ta phải rơi vào tình trạng hoang mang hoảng sợ. Không phải như vậy. Tôi chỉ muốn nới rộng tư tưởng đi đến chỗ: Hãy thương xót chính chúng ta! Cứ chấp nhận coi như chúng ta bị thua và chúng ta cần trở về tìm kiếm mối quan hệ quân bình với chính mình và với thế giới chung quanh chúng ta.

Đừng từ chối xem như thể đó là những ”chuyện bên ngoài chúng ta”, nhưng phải nhận biết và tái nhận biết cái khủng hoảng khiến chúng ta bị treo lơ lửng trên hố thẳm. Nên chấp nhận là chúng ta cần được giúp đỡ. Vậy hãy xin giúp đỡ và tiếp nhận sự giúp đỡ.

Mỗi khi có một thay đổi làm lo âu bấn loạn thì việc đầu tiên phải làm là thân thưa cùng THIÊN CHÚA. Khiêm tốn nhìn nhận với chính mình rằng sức lực hạn hẹp không cho phép chúng ta có thể thoát ra khỏi những giai đoạn trầm trọng của cơn khủng hoảng. Cần phải kêu van THIÊN CHÚA trợ giúp. Ngài làm được mọi sự và luôn luôn cứu giúp mọi người, không trừ ai.

Không ai được cứu rỗi nếu không biết tha thứ!

Thật vậy! Tha Thứ là ngôn ngữ của THIÊN CHÚA, là phương tiện Ngài ban cho để nói với chúng ta và nói với người khác. Hãy tìm nương ẩn nơi niềm tin vào THIÊN CHÚA trong những lúc gặp gian nan thử thách, giống y như thể là chúng ta trở về Nhà Cha. Xin Chúa ban cho chúng ta thoáng trông thấy ánh sáng mà trước đó chúng ta không còn trông thấy nữa, mặc dầu ánh sáng luôn luôn ở đó. Ngay trong những hoàn cảnh thay đổi khốn khổ nhất, xem ra không còn có hy vọng nào nữa, vẫn có một chút ánh sáng mặt trời len lỏi vào. Chẳng hạn như một cử chỉ nhỏ nhặt, một đóa hoa, một nụ cười, một tư tưởng. Hoặc dưới bất cứ hình thức nào khác. Điều quan trọng là phải quyết định mở rộng cửa để cho ánh sáng tràn vào nhà. Nên luôn luôn ghi nhớ rằng chúng ta không hứng chịu một thay đổi nhưng là sống một thay đổi. Và phải luôn luôn tha thứ như chính THIÊN CHÚA luôn luôn tha thứ cho chúng ta.

Chứng từ của nữ tu Maria Giacomina Stuani thuộc Đan Viện Agostiniano Thánh Nữ Rita thành Cascia (Trung Ý).

… Khi đến nơi gọi là ”Đồi Sọ”, họ đóng đinh Đức Chúa GIÊSU vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Chúa GIÊSU cầu nguyện rằng: “Lạy CHA, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23,33-34) .. Được đầy ơn Thánh Thần, ông Têphanô đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang THIÊN CHÚA và thấy Đức Chúa GIÊSU bên hữu THIÊN CHÚA. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu THIÊN CHÚA”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ông ra ngoài thành mà ném đá. Họ ném đá ông Têphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ (Công Vụ 7,55-60).
 
(”Dalle API alle ROSE”, Bimestrale Del Monastero Agostiniano Santa Rita Da Cascia, Gennaio-Febbraio 2012, Nr.1, trang 31-33)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt 

Nguồn : vietvatican.net

Maria Thanh Mai gởi

CHÍNH ĐỨC TIN HƯỚNG DẪN ĐƯỜNG ĐI NƯỚC BƯỚC CỦA TÔI

CHÍNH ĐỨC TIN HƯỚNG DẪN ĐƯỜNG ĐI NƯỚC BƯỚC CỦA TÔI

trích: vietvatican.net

… Từ một năm qua bà Claudette Serafino – góa phụ Công Giáo 52 tuổi – là nhân viên thiện nguyện của Hội chăm sóc hòa-hoãn (Association des soins palliatifs) các bệnh nhân giai đoạn cuối đời. Ngoài việc thăm viếng các bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời bà Claudette cũng viếng thăm các thân chủ của dưỡng đường Thánh nữ Elisabeth ở Marseille miền Nam nước Pháp. Phần đông các thân chủ này là những người tàn tật với đủ loại khuyết tật tâm linh và thể xác khác nhau. Đôi khi có những người suốt ngày không mở miệng nói lời nào.

Với tất cả các bệnh nhân và người khuyết tật đau khổ, bà Claudette chỉ mong ước mang đến cho họ niềm vui hài hước, tâm tình lắng nghe, hoặc đôi khi chỉ là sự hiện diện trìu mến. Và nhất là, bà âm thầm cầu nguyện cho tất cả mọi người. Bà tâm sự: Chính Đức Tin Công Giáo hướng dẫn đường đi nước bước của tôi. Tôi không bao giờ nói với các bệnh nhân về tôn giáo nhưng chỉ tìm cách thông truyền cho họ điều chính yếu: Niềm Hy Vọng. Ngoài ra tôi cũng tháp tùng một số bệnh nhân ra đi về thế giới bên kia. Trong các trường hợp này, tôi cố gắng tối đa làm sao cho cuộc chuyển tiếp từ đời này sang đời sau được diễn ra trong an bình thanh thản.

Ngược dòng thời gian, cách đây đúng 5 năm, hiền phu tôi, lúc ấy mới 54 tuổi và là tài xế xe car, đang đong đầy sinh lực và sức khoẻ bỗng bị một chứng ung thư quật ngã. Anh qua đời chỉ vỏn vẹn sau ba tháng lâm trọng bệnh. Trong thời gian hiền phu tôi nằm liệt giường, đều đặn mỗi ngày có bác sĩ đến tận nhà chăm sóc anh và giúp thoa dịu nỗi đau đớn. Nếu không có sự hiện diện tốt lành trìu mến của vị bác sĩ, chắc hẳn tôi cũng bị quật ngã và ra đi theo chồng về thế giới bên kia!

Nhưng trước đó rất lâu, vào năm lên 15 tuổi, tôi đã bị đau nơi hai khuỷu tay và nơi đầu gối khiến cho chân đi không vững, dễ bị lảo đảo hoặc bị té! Ngoài kinh nghiệm về bệnh tật, sau cái chết của chồng, tôi còn hiểu thế nào là nỗi cô đơn, mặc dầu vẫn có sự hiện diện dấu ái của ba đứa con. Thêm vào đó, nỗi lo âu về bệnh tật vẫn còn lẩn quẩn trong gia đình. Bởi vì, một trong ba đứa cháu của tôi bị một con vi-khuẩn tàn phá hồng huyết cầu.

Chính các kinh nghiệm về bệnh tật và nỗi cô đơn đã thúc đẩy tôi đi đến quyết định dành một số giờ trong tuần để làm công tác thiện nguyện. Tôi đến nhà thương nơi khu vực dành cho những bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời và đến dưỡng đường Thánh nữ Elisabeth với đủ hạng người mang đủ thứ khuyết tật khác nhau. Tôi mang đến cho họ nụ cười, chia sẻ nỗi khổ đau với họ và gieo rắc niềm hy vọng.

… Một nữ bệnh nhân là bà Mireille mắc chứng ung thư toàn diện đã nói về bà Claudette Serafino như sau.

Bà Claudette biểu lộ một sự nhẫn nại bao la. Bà lắng nghe hết mọi nỗi khổ đau của chúng tôi. Bà mang đến cho tôi một sự hiện diện tại một nơi chốn và vào một thời điểm mà tôi cần đến hơn bao giờ hết! Khi một người nằm yên suốt ngày trên giường bệnh giống như tôi và biết chắc chắn mình không bao giờ có cơ may xuất viện, thì người ấy thật sự cảm thấy cuộc đời bị vứt đi! Trong một hoàn cảnh đau thương như thế mà có một phụ nữ dành thời giờ đích thân đến thăm viếng ủi an thì quả thật đáng giá nghìn vàng! Bà Claudette có thể dành thời giờ để đi làm kiếm tiền và săn sóc những người thân yêu. Nhưng bà không so đo tính toán. Bà dành thời giờ để viếng thăm tôi y như thể đó là chuyện rất tự nhiên của một tình nghĩa không biên giới. Đức lang quân của tôi cũng thường xuyên viếng thăm tôi khiến tôi thật cảm động. Bởi vì tôi nghĩ rằng trong hoàn cảnh tang thương rách nát của tôi, anh không còn muốn đến thăm tôi nữa! Nhưng không phải như vậy! Anh đến thăm tôi. Rồi bà Claudette cũng đến thăm tôi. Và mỗi lần có sự hiện diện của một trong hai người này, tôi cảm thấy được khoẻ khoắn hơn.

… “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây; một thời để nhổ cây: một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui chơi; một thời để than van, một thời để múa nhảy; một thời để quăng đá, một thời để lượm đá; một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn; một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất; một thời để giữ lại, một thời để vất đi; một thời để xé rách, một thời để vá khâu; một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng; một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hòa” (Sách Giảng Viên 3,1-8).

(”OMBRES & lumière”, Revue Chrétienne Des Personnes Malades Et Handicapées, De Leurs Familles Et Amis, No 185, Janvier-Février 2012, trang 44-45)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt