NGƯỜI THỢ ĐIÊU KHẮC

NGƯỜI THỢ ĐIÊU KHẮC

Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính.  Không giao du qua lại với ai.  Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa.  Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi.  Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ.  Danh tiếng ông khá lẫy lừng , nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng.  Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả.

Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ ngàng.  Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao tiếp với ông, thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!

Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện.  Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giê-Su cao một mét bảy.

–    Nhưng thưa ông, Chúa Giê-Su là ai, tôi không biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?

Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân:

–       Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng… Chúa!  Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần.  Đối với Chúa, tôi cảm thấy xa lạ lắm.  Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần.  Ông biết đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…

Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:

–       Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.

***********************

Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh.  Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình.  Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận!

Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu.  Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi, hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!

Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm.  Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc.  Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy khó khắc hơn!  Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn!  Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này!  Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!

Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận.  Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt.  Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế!  Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá.  Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi!  Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả!  Chỉ một Lời, thế là thành sự!  Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!

Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải?  Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự!  Cái điệp khúc “ Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi.  Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp, mới thánh thiện làm sao!

Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải.  Có một điều gì đó làm ông băn khoăn.  Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ.  Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông đốc chết (*), nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.

Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn.  Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-Su trong cả bốn quyển Tin Mừng.  So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giê-Su phải chịu.  Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật.  Răng nghiến lại?  Ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không?  Miệng có bị méo đi không?  Còn mắt?  Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng?  Mồ hôi và máu thì dĩ nhiên rồi!  Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn.  Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha.”  Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”  Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại!

Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ.  Gương mặt Chúa Giê-Su đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục.  Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế!  Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại?  Gương mặt Chúa Giê-Su thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.

Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt.  Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường.  Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.

***********************

Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi.  Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên.  Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa!

Ông bước xuống giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông.  Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này.  Một niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…

***********************

Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng Thánh Giá.

Sưu tầm

THƯ GỬI MẸ LÊN TRỜI

THƯ GỬI MẸ LÊN TRỜI

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Mẹ Maria kính yêu,

Việc Mẹ được đặc ân lên trời cả hồn và xác là biến cố trọng đại và ý nghĩa cho toàn thể nhân loại. Trọng đại vì đó là phần thưởng tuyệt hảo mà Thiên Chúa đã dành riêng cho Mẹ; ý nghĩa vì Mẹ là người khởi đầu của Hội Thánh viên mãn, là niềm vui và hy vọng lớn lao cho dân thánh trong cuộc lữ thứ trần gian.  Trên quê trời, Mẹ tiếp tục mời gọi chúng con bước theo Thầy Giêsu để mai này chúng con cũng được cùng Mẹ hưởng niềm vui Thiên quốc.  Hôm nay (15/08) cả Giáo Hội chung chia niềm vui này với Mẹ để tán dương Thiên Chúa!

Còn nhớ ngày sứ thần truyền tin, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” để trở thành Mẹ Thiên Chúa.  Mẹ chấp nhận thánh ý để cùng với Con của Mẹ lao tác trong chương trình cứu độ.  Chiêm ngắm hành trình Mẹ theo chân Thầy Giêsu, Con Mẹ, ai ai cũng nhận ra tình yêu và lòng tín thác tuyệt đối mà Mẹ dành cho Thiên Chúa.  Đúng như lời hát du dương của Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi!”  Không vui mừng hớn hở sao được bởi Mẹ thật diễm phúc vì hoa trái trong lòng Mẹ là Đấng cứu độ trần gian.  Cả cuộc đời, Mẹ luôn ngân nga tiếng hát ấy với niềm vui thiêng liêng và lòng xác tín thẳm sâu!

Trên dương thế, Mẹ chẳng xa rời Đức Giêsu.  Mẹ và Thầy Giêsu như hình với bóng.  Lúc nào Mẹ cũng quảng đại cộng tác trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa.  Có thể nói Mẹ là đóa hoa hướng dương luôn hướng về ánh Mặt Trời.  Đóa hoa ấy luôn đầy tràn ân phúc vì Đức Chúa ở cùng Mẹ.  Nhờ đó, Thiên Chúa ban cho Mẹ vô nhiễm khi hoài thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm mẹ và ơn thăng thiên cả xác lẫn hồn.  Mẹ cũng được gìn giữ khỏi bị hư nát trong mồ giống như Con của Mẹ.  Chúng con hãnh diện lắm, mừng vui lắm khi Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác!  Giờ đây Mẹ biết không, chúng con sung sướng chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ chuyển cầu cho chúng con trước nhan thánh Chúa.

Mẹ ơi!  Đã từ lâu Giáo Hội có những thánh lễ nói về giây phút chấm dứt cuộc đời dương thế của Mẹ đấy.  Mừng với Mẹ vì ai cũng tin rằng lần ra đi của Mẹ phải tốt đẹp, không chút đớn đau.  Rồi dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, ngày 1/11/1950, Đức Piô XII long trọng tuyên bố: “Đức Maria, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác.”  Mẹ ơi, Ngài còn nói với chúng con rằng: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái Tim Mẹ.  Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ.” (“Corporis Mystici”, 29-6-1943).

Trái tim hiền mẫu của Mẹ luôn ước mong từng người con hãy tin yêu Chúa Giêsu.  Mẹ cầu mong chúng con cũng được hưởng niềm vui Thiên Quốc như Mẹ.  Ước gì chúng con luôn được ở trong Trái Tim nhân hiền của Mẹ.  Mẹ ơi!  Chúng con tin rằng thân xác sẽ sống lại trong ngày sau hết.  Nếu tin yêu Chúa Giêsu Kitô, chúng con chắc chắn sẽ được sự sống đời đời, Mẹ nhỉ!  Khi ấy, Mẹ-con mình sẽ trùng phùng vui sướng, hạnh phúc vô bờ!  Hơn nữa, khi chiêm ngắm Mẹ lên trời cả hồn và xác, chúng con còn xác tín rằng: thân xác sẽ được cứu độ.  Cho dẫu cuộc sống gian trần còn nhiều khổ đau thân xác và tâm hồn, nhưng nhờ Mẹ, chúng con sẽ được Thiên Chúa nhận lời đưa vào cuộc sống vĩnh hằng, thưa Mẹ!

Sau cùng, chúng con muốn cùng với Mẹ dâng lời “Ngợi khen” Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa, … Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”  Chính Người đã ban cho Mẹ nên Hiền mẫu tuyệt vời trên dương thế, nên Đức Mẹ rạng ngời trên Thiên quốc.  Hôm nay và ở đây, Mẹ vẫn đang hát vang bài ca ấy để cầu mong từng người con dù sống dưới trần gian, nhưng hãy hướng tâm trí về Quê Trời.  Nơi ấy Mẹ đang vẫy gọi và cầu nguyện cho mỗi người chúng con!

Lạy Mẹ Maria, trên Thiên quốc, xin Mẹ đoái nhìn đến cuộc sống lữ hành của chúng con.  Xin Mẹ nhắc nhớ chúng con đừng quá mê man với cuộc sống chóng qua mà quên mất thực tại Nước Trời.  Bên ngai tòa Thiên Chúa, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có sức mạnh thần linh để chúng con một lòng tin yêu Thiên Chúa.  Được như thế, chắc chắn chúng con sẽ gặp được Mẹ, để Mẹ dẫn chúng con đến hưởng nhan thánh Chúa.  Amen.

Chúc mừng đặc ân Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn và xác!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

THÁNG HOA ĐỨC MẸ

THÁNG HOA ĐC MẸ

Lm. Đoàn Quang, CMC

Là người Công giáo Việt Nam, nhất là những người đã lớn lên trong một xứ đạo miền Bắc, Trung hoặc Nam, có lẽ họ không lạ gì sinh hoạt tôn giáo trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ.

Khi ngàn hoa xanh, đỏ, trắng, tím, vàng nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời.  Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhất là bài “Đây Tháng Hoa” của nhạc sĩ Duy Tân với điệu 2/4 nhịp nhàng:

“Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà.  Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc.  Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc.  Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa.

– Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần.  Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng.  Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời.  Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời.

– Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về.  Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi.  Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ.  Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”.

Nếu có ai tự hỏi:  Tháng Hoa có từ đời nào?  Do ai khởi xướng?  Gốc tích như thế này:  Vào những thế kỉ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng những cuộc tổ chức gọi là những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.  Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên.  Họ tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.

Có nơi người ta tổ chức các cuộc “Rước xanh.”  Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ.  Các thi sĩ cũng như các thánh đua nhau sáng tác những bài hát, bài giảng ca tụng những ngày lễ đó cũng như ca tụng Đức Mẹ.

Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.

Thánh Philipe đệ Nêri, cũng vào ngày 1 tháng 5, thích tập họp các trẻ em lại chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Ngài dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.

Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh.  Từ ngày đó, tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.

Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.

Đầu thế kỷ 19, hết mọi xứ trong Giáo hội đều long trọng kính tháng Đức Mẹ.  Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ.  Trong việc này linh mục Chardon đã có nhiều công.  Không những ngài làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.

– Đức Giáo hoàng Piô 12, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, cho “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.

– Đức giáo hoàng Phaolô 6, trong Thông điệp Tháng Năm, số 1 viết:“Tháng Năm là Tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ.  Đó là dịp để “bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng.

Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ các tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt.  Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai tòa rất dồi dào của Đức Mẹ” (Dictionary of Mary, Catholic book Pub. 1985, p. 236).

Một câu truyện cũ đáng ta suy nghĩ:

Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu.  Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan.  Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình , nhưng chồng cứng lòng mãi.  Năm ấy đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ.  Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con.  Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ.

Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục.  Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa.  Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Vianey.

Cha Vianey là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người tặng là vị thánh sống.  Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:

– Đừng lo cho linh hồn chồng bà.  Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ?

Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?

– Cha sở nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết.  Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng.

Nghe xong lời cha Gioan, bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ. (Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trang 10).

Nếu chỉ vì mấy bông hoa mọn dâng kính Đức Mẹ cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy, thử hỏi, những ai trong tháng Năm này tham dự dâng Hoa, rước kiệu, đọc kinh Mân côi, hơn nữa, họ dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hi sinh, đau khổ, bệnh nạn… chắc sẽ còn được Đức Mẹ ban muôn ơn trọng hơn nữa?  Vì Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng Cậy, hoa Đỏ của Lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hãm mình, hoa vàng của niềm tin, hoa Hồng của kinh Kính mừng lắm lắm.

Thánh Anphongsô Ligori quả quyết rằng: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên đàng”.

Thánh Bênado diễn tả văn vẻ hơn: “Được Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không ngã.  Được Mẹ che chở, bạn sẽ không sợ.  Được Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ an lòng.  Được Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt đích mong chờ”.

Lm. Đoàn Quang, CMC
NS.TTDM tháng 5-08 trg 4

Tìm hiểu gốc tích Tháng Hoa Đức Mẹ

Tìm hiểu gốc tích Tháng Hoa Đức Mẹ

Là người Công giáo Việt Nam, nhất là những người đã lớn lên trong một xứ đạo miền Bắc, Trung hoặc Nam, có lẽ họ không lạ gì sinh hoạt tôn giáo trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ. Khi ngàn hoa xanh, đỏ, trắng, tím, vàng nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời. Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhất là bài “Đây Tháng Hoa” của nhạc sĩ Duy Tân với điệu 2/4 nhịp nhàng:

“Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà. Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay toả ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhoà.”

– Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần. Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng. Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời. Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời.

– Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về. Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi. Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ. Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”.

Nếu có ai tự hỏi: Tháng Hoa có từ đời nào? Do ai khởi xướng? thì câu trả lời cũng không khó khăn gì.

Gốc tích như thế này:

Vào những thế kỷ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng những cuộc tổ chức gọi là những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.

Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên. Họ tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.

Có nơi người ta tổ chức các cuộc “Rước xanh”. Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ. Các thi sĩ cũng như các thánh đua nhau sáng tác những bài hát, bài giảng ca tụng những ngày lễ đó cũng như ca tụng Đức Mẹ.

Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.

Thánh Philipe đệ Nêri, cũng vào ngày 1 tháng 5, thích tập họp các trẻ em lại chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Ngài dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.

Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh. Từ ngày đó, tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.

Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.

Đầu thế kỷ 19, hết mọi xứ trong Giáo hội đều long trọng kính tháng Đức Mẹ. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ. Trong việc này linh mục Chardon đã có nhiều công. Không những ngài làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.

– Đức Giáo hoàng Piô 12, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, cho “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.

– Đức giáo hoàng Phaolô 6, trong Thông điệp Tháng Năm, số 1 viết:

“Tháng Năm là Tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để ” bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng.

Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ các tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ” (Dictionary of Mary, Catholic book Pub. 1985, p. 236)

Một câu truyện cũ đáng ta suy nghĩ:

Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan. Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình , nhưng chồng cứng lòng mãi.

Năm ấy đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ. Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con. Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ.

Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục. Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa. Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Vianey.

Cha Vianey là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người tặng là vị thánh sống. Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:

– Đừng lo cho linh hồn chồng bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ?

Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?

– Cha sở nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng.

Nghe xong lời cha Gioan, bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ.(Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trang 10).

Nếu chỉ vì mấy bông hoa mọn dâng kính Đức Mẹ cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy, thử hỏi, những ai trong tháng Năm này tham dự dâng Hoa, rước kiệu, đọc kinh Mân côi, hơn nữa, họ dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hi sinh, đau khổ, bệnh nạn…chắc sẽ còn được Đức Mẹ ban muôn ơn trọng hơn nữa? vì Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng Cậy, hoa Đỏ của Lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hãm mình, hoa vàng của niềm tin, hoa Hồng của kinh Kính mừng lắm lắm.

Thánh Anphongsô Ligori quả quyết rằng: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên đàng”.

Thánh Bênado diễn tả văn vẻ hơn:

“Được Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không ngã. Được Mẹ che chở, bạn sẽ không sợ. Được Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ an lòng. Được Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt đích mong chờ”.

(Lm. ĐoànQuang, CMC NS.TTDM tháng 5-08 trg 4)

CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

GM Vũ Duy Thống

Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus.  Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý.  Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì.  Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt.  Mặc kệ tất cả.  Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được.  Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người.  Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:

1) Đấng phục sinh có mặt trong những bước đồng hành chia sẻ

Bối cảnh của bài Phúc Âm là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh.  Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát.  Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới.  Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ.  Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá.  Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng.  Vỡ mộng, thất vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.

Mà đâu có xong.  Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường.  Ngay trong Phúc Âm hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.

Vâng, Đấng Phục sinh là như thế.  Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ.  Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên Chúa.  Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hành chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.

2) Đấng phục sinh có mặt bằng những lời củng cố tin yêu

Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Âm cũng vẫn là thất vọng ê chề.  Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì.  Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra.  Chới với, chao nghiêng.  Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.

Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh.  Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta.  Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phái.  Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư.  Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cứ đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.

Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa.  Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Âm hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân.  Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.

3) Đấng phục sinh có mặt giữa những tấm bánh bẻ ra cho đời

Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phải là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ.  Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần.  Đấng Phục sinh mà không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại.  Đấng Phục sinh có mặt giữa con người không giống như kẻ hồi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa.”  Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng tin vốn đang chao đảo hoang mang của họ.

Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ.  Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui.  Thảo nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.

Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này.  Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mẩu cá, những tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.

Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa.  Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng.  Và thường thì vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những người quanh ta.  Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chủ động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.

Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.

GM Vũ Duy Thống

ĐƯỢC GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS

ĐƯỢC GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS
Tuyết Mai

Đường Emmaus đây cũng có nghĩa là đường đời, đường lữ thứ ở Trần Gian mà ai ai cũng phải trải qua, chỉ có khác nhau ở giai đoạn ngắn, dài mà chúng ta sống ở trên đời này mà thôi.   Mà hễ là con cái Chúa ai đã được gặp Thầy Giêsu hẳn người ấy vui mừng khấp khởi như bắt được viên ngọc quý, về tìm bán hết mọi thứ để mua cho được thửa ruộng có viên ngọc quý ấy!.

Thường ai đã may mắn tìm gặp được Chúa Giêsu và mãi đến hôm nay vẫn được Ngài cùng đồng hành trên con đường Emmaus thì thích giới thiệu, chia sẻ về Ngài cho mọi người cùng được biết với và cách thức để nhận biết về Ngài cách rõ rệt chứ không như hai môn đệ tuy có Chúa đi cùng bên nhưng vì để cho sự đời nó che mờ hai con mắt.   Mà cách thức duy nhất là hãy tập từ bỏ dần những đam mê thú trần rất dễ làm mất linh hồn sống đời của một người.

Xưa Chúa Giêsu chỉ có vỏn vẹn một món quà giá trị nhất trên trần đời mà Ngài luôn ban tặng, chúc phúc cho các tông đồ của Ngài ấy là “Bình an cho các con” trong suốt thời gian mà Ngài sống chung với các ông.   Thật cuộc sống của các tông đồ ấy chẳng khác nào đàn gà con luôn được có mẹ chăm sóc cách chu đáo, tận tình, yêu thương và chẳng một vướng bận trên đời.   Chỉ có thỉnh thoảng các tông đồ có bàn với nhau chuyện đời thì có sự ganh nhau không nhỏ qua việc ai trong họ sẽ được làm lớn nhất trên Nước Trời.   Mà đó cũng là lẽ rất bình thường vì các tông đồ họ cũng chỉ là con người tầm thường còn mang nặng tánh tham, sân, si …

Nói chung thì các tông đồ của Chúa Giêsu cũng rất ngoan ngoãn vì đã từ bỏ tất cả mà theo Chúa để được Chúa dẫn dắt, hướng dẫn, dạy bảo, không một ngày bị đói khát mà ngược lại các ông còn được đóng góp với Ngài vào phần thánh đức, tích đức qua việc luôn luôn được ở cạnh bên để nghe Chúa Giêsu giải thích cặn kẽ, rõ rệt về Nước Trời và ý nghĩa của những dụ ngôn.   Cùng làm việc giúp đỡ, chia sẻ cho người nghèo khổ.

Được chứng kiến Chúa Giêsu chữa lành cho rất nhiều người bị bệnh lạ mà từ xưa đến nay chưa ai từng làm được giống như thế bao giờ … Như Chúa chữa lành cho người mù được thấy, người cùi hủi được sạch, người hoại huyết được lành ngay, người què và khuyết tật được đi đứng bình thường và người chết được sống lại, v.v…

Thưa sống ở trên đời nhất là ở lứa tuổi còn “Ngựa non háu đá” thì cũng khó mà gặp được Chúa lắm và cũng là con số rất đông cho các cháu đang đi tu.   Nhất là các cháu muốn đi tu nhưng còn đang đứng ở ngã ba đường chưa có quyết định hay không nhất quyết chứ nếu đã có ơn gọi thì sự đi tìm hiểu dòng nào cho thích hợp với mình hơn thì là cái lẽ đương nhiên phải nên tìm hiểu thôi.

Ai trong chúng ta nếu có lòng cương quyết “muốn” thì đều sẽ được mãn nguyện trong mọi lãnh vực, mọi điều và mọi việc ở trên Trần Gian hẳn sẽ không khó để đến được sự thành công, sự gặt hái nếu chúng ta giữ vững lập trường, can đảm, kiên nhẫn và mạnh dạn bước tới với dự tính đã được thành hình.   Chỉ trừ những ai nóng không ra nóng, lạnh không ra lạnh thì mới không gặp được Chúa hay tận trong thâm tâm người ta không muốn được gặp Chúa nhất là ngay liền bây giờ, thưa có phải?.

Nên có rất nhiều người hiện đang sống một cuộc sống rất nông nổi, nông cạn, vô cảm, vô lương tâm và rất tội lỗi.   Họ chỉ muốn được gặp Chúa ở giờ sau hết như người trộm lành được Chúa Giêsu hứa cho anh lên Trời liền ngay khi Chúa lên Trời.   E rằng chẳng ai trong chúng ta lại được may mắn như anh trộm lành ấy đâu mà rồi phải vào ở Luyện Ngục khi mà thời giờ thì trôi qua rất chậm, rất nóng so với cái nóng khắc nghiệt và thời gian ở Trần Gian này … Trong đau khổ, trong tiếng khóc lóc thở than mà ngày ra khỏi đó chẳng ai được biết!.

Do đó sự ao ước để được gặp Chúa thiết nghĩ chúng ta hết thảy nên thực thi Lời Chúa dạy là “Kính Chúa và yêu người” là đã sống trọn lề luật yêu thương của Chúa.   Amen.

** Xin bấm vào mã số để nghe và hát:
https://www.youtube.com/watch?v=MyY5rOuNCts
(Kính Chúa Yêu Người)

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
04-08-15
————————–
Kính Chúa Yêu Người
(Cảm tác Lời Chúa CN 7TN, Năm A)

Trước tiên ta phải thờ Chúa
Vì Người chính thật là Vua vũ hoàn
Người, Đấng quyền năng vẹn toàn
Người càng vinh hiển Người càng thiết tha

Người có trái tim bao la
Người yêu nhân loại hơn ta yêu Người
Người tác tạo nên con người
Người cho hình dáng giống Người tạc in

Người tạo trời đất muôn hình
Bao la hùng vĩ cùng loài sinh linh
Người ban nhân loại Con mình
Làm giá cứu chuộc hy sinh cứu đời

Người dạy sống ở trên đời
Giới Răn phải giữ Lời Người phải tuân
Thánh Ý Chúa phải xin vâng
Ba đào sóng gió xin dâng lên Người

Cuộc đời ngắn ngủi người ơi!
Sống theo Lời Chúa Nước Trời của ta
Yêu nhau đối xử thực thà
Yêu nhau như thể người nhà của nhau

Đừng nên tranh chấp dành nhau
Đừng nên chống cự hãy mau làm hòa
Đừng nên dắt nhau ra tòa
Mà hãy phân xử hãy hòa trước đi

Kẻo bị người ta điệu đi
Ngồi tù chẳng biết có khi được về?
Chớ cười người chớ khinh chê!
Chớ nên kết án theo bè vu oan!

Yêu thù địch cả kẻ gian
Ai ghét bỏ, ta làm lành với họ
Cả kẻ vu khống bắt bớ
Hãy yêu thương hãy xóa bỏ hận thù

Để Cha ta, Đấng nhân từ
Trên Trời hằng luôn tha thứ yêu thương
Mỉm cười vì Người độ lượng
Cả Con Cha là tấm gương sáng ngời

Nguyện xin Thánh Linh Chúa Trời
Phù trợ nâng đỡ cuộc đời chúng con
Sớm hôm kinh nguyện véo von
Luôn sống bác ái thi ơn giúp đời

Để được kính Chúa yêu người
Giới Răn ta giữ được Người thưởng ban
Dẫu cho sống trong cơ hàn
Bình An bên Chúa cũng thành Giấc Mơ

Cuộc đời quả là giấc mơ
Sáng ngày ca hát ầu ơ ví dầu
Thiên Đàng chừ biết ở đâu?
Sống sao nên thánh dắt nhau cùng về

Quê Trời chẳng có ai chê
Nhưng sao lắm kẻ không mê tìm về?
Trần gian làm họ u mê?
Say sưa chìm đắm đam mê thú trần

Bởi chìm đắm hại bản thân
Hại chính mình, hại người thân, xã hội
Mất linh hồn mất cả Tôi
Chỉ vì hào nhoáng quỷ lôi vào tròng

Cả cuộc đời kể đi đong
Nếu không hối cải đừng mong có ngày
Nếu tin có Chúa có Thầy
Như Phê rô đắm cần tay của Ngài

Có Chúa hy vọng ngày mai
Anh em hết thảy đổi thay trong ngoài
Tâm hồn mạnh mẽ sống hoài
Kết hợp với Chúa, đồng loại hỉ hoan

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

Phải rửa chân cho nhau

Phải rửa chân cho nhau

Thứ năm Tuần Thánh

(ngày mai 2 tháng 4)

Dongten.net

LỜI CHÚA:  Ga 13, 1-15

1 Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.

2 Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su.3 Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa,4 nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng.5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
6 Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao? “7 Đức Giê-su trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.”8 Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu! ” Đức Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.”9 Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.”10 Đức Giê-su bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! “11 Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”

12 Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?13 Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa.14 Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.

SUY NIỆM

Người biết mình sắp qua đời thường để lại di chúc cho con cái.
Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.
Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến
cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu :
Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.
Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.

Có nhiều điểm giống nhau nơi việc Rửa chân và lập Bí tích Thánh Thể.
Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.
Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.
Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,
Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.
Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.
Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.
Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,
thì bây giờ Thầy làm cho trò.
Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.
Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.
Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.
Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.

Trong cả hai biến cố Rửa chân và Bí tích Thánh Thể,
Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.
Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,
hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.
Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.
Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.
“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).
“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).
Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể
sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.

Muốn ở lại trong tình thương của Thầy Giêsu,
cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).
Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy :
“Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).

Thứ Năm Tuần Thánh là ngày lễ của Tình Yêu theo đúng nghĩa nhất.
Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.
Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.

LỜI NGUYỆN

Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Bạn biết gì về Thứ Sáu Tuần Thánh?

Bạn biết gì về Thứ Sáu Tuần Thánh?

– Tin nổi bật, Công Giáo Trẻ

VRNs (01.04.2015) – Sài Gòn – Thứ Sáu Tuần Thánh là một ngày khủng khiếp nhất trong năm. Bạn đã xem phim “The Passion of the Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) chưa? Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày mà Chúa Giêsu chịu sự bất công oan sai nhất: bị phản bội, bị chế nhạo, bị nhục nhã, rồi bị giết chết bằng cách chịu đóng đinh vào Thập Giá – loại hình phạt tệ nhất dành cho các tử tội dạng “đại ca” thời đó. Tiếng Anh gọi Thứ Sáu Tuần Thánh là Good Friday – Thứ Sáu Tốt Lành. Thứ Sáu Tuần Thánh có là Ngày Tốt Lành không? Sao người ta sợ Thứ Sáu ngày 13 vậy?

Tại sao người ta cho rằng cái chết của Chúa Giêsu là ngày TỐT LÀNH trong khi lại là ngày Đại Tang của Kitô giáo?

150330016

Thứ Sáu Tuần Thánh đã được hoạch định

Từ đầu, Thiên Chúa đã biết những gì sẽ xảy ra nên Ngài đã hoạch định phương cách. Ngài hóa thân làm người để giải quyết tất cả mọi khúc mắc. Chúng ta đã biết điều này, đúng không? Nhưng đôi khi chúng ta bỏ lỡ Phụng Vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Thiên Chúa biết rõ: “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:30).

Khi Chúa Giêsu trở nên của lễ cứu chuộc, tất cả đã xong. Những gì còn dở dang cũng được hoàn tất. Cái chết của Ngài là “chất xúc tác” làm cho mọi điều nên trọn. Sự sống lại, Chúa Thánh Thần hiện xuống, sự tái lâm của Chúa Giêsu. Khi cái chết xảy ra, mọi thứ khác cũng được thực hiện theo cách nhìn của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi hướng thượng để được vào Nước Trời. Ngài muốn chúng ta hy vọng sự sống lại và mong đợi ngày Ngài tái lâm. Ngài đã hoàn tất mọi sự, không còn gì dở dang. Sự chết không còn quyền gì đối với linh hồn chúng ta, vì mọi sự đã hoàn tất. Tội lỗi không còn có thể làm chúng ta dơ bẩn khi Thiên Chúa nhìn chúng ta, vì mọi sự đã hoàn tất.

Ngày duy nhất không có Thánh Lễ

Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hợp với truyền thống cổ xưa: Không có Thánh Lễ – tức là không có truyền phép Thánh Thể. Tuy nhiên, Thánh Thể vẫn được giữ từ Thánh Lễ hôm trước, và chúng ta vẫn được đón nhận Thánh Thể. Các bí tích khác vẫn được cử hành trong trường hợp khẩn cấp, như rửa tội cho người hấp hối hoặc xức dầu cho người bệnh nặng. Nghi thức an táng được cử hành nhưng không có đàn hát hoặc chuông.

Chúa Giêsu bị phản bội hai lần

Lần thứ nhất là Tông đồ Giuđa Ítcariốt. Ông nhận 30 đồng bạc, tiền “bán đứng” Thầy mình, ở một góc tối trong Vườn Ghếtsimani, nơi Chúa Giêsu thường tới cầu nguyện vào ban đêm. Lúc đó Giuđa thay đổi ý định, nhưng không thể được. Vì thất vọng, Giuđa đã treo cổ tự kết liễu đời mình. Lần thứ hai là Tông đồ Phêrô. Chỉ vài giờ sau khi Chúa Giêsu bị bắt, ông đã sợ nên chối phăng là không biết Thầy Giêsu khi có người nhận ra ông là người đi theo Chúa Giêsu. Ông không chối một lần mà chối tới ba lần. Khi bị dẫn đi, ánh mắt Chúa Giêsu đã nhìn Phêrô với ánh mắt nghiêm nghị và đầy lòng trắc ẩn.

Sự phản bội đã biến đổi Phêrô

Sau khi thấy ánh mắt Chúa Giêsu, Phêrô sợ hãi và hoảng hốt vì tính hèn nhát của mình, ông bật khóc ăn năn. Ông được Chúa tha thứ và can đảm rao giảng Tin Mừng. Bài giảng của ông vào ngày lễ Ngũ Tuần đã khiến 3.000 người xin được rửa tội. Ông trở nên giáo hoàng tiên khởi và chịu tử đạo tại Rôma. Khi người Rôma đóng đinh ông vào thập giá, ông cảm thấy mình không xứng với Chúa Giêsu nên xin được đóng đinh ngược. Quân lính đã lật ngược thập giá theo ý ông muốn. Hằng trăm năm sau, các Kitô hữu bị bách hại đã bí mật đến viếng mộ Thánh Phêrô, và rồi Kitô giáo được công nhận thời Hoàng đế Constantine. Hài cốt Thánh Phêrô được cải táng về Đền thờ Thánh Phêrô. Ngày nay, Vatican lưu giữ những gì được tin là hài cốt Thánh Phêrô, được phát hiện những năm trước đây tại hầm mộ bên dưới bàn thờ của đền thờ này.

Không ăn uống gì từ 12 giờ tới 15 giờ

Ăn chay và kiêng thịt là truyền thống ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Tại sao? Vì đây là ngày Thiên Chúa bị phản bội, hạ nhục, hành hạ, mỉa mai bởi chính đám người mà mới vài ngày trước tung hô vạn tuế Ngài, rồi giết chết Ngài như một tên tội phạm. Truyền thống nói rằng Chúa Giêsu bị treo Thập Giá từ trưa cho tới 3 giờ chiều. Đây là khoảng thời gian nắng gay gắt. Đây cũng là khoảng thời gian tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn cứu độ, nhưng chúng ta đã rũ bỏ. Để nhớ ba tiếng đồng hồ ghê rợn này, nhiều người nhịn ăn uống bất cứ thứ gì. Tại sao? Để than khóc chính mình, để đền tội mình, để thông phần đau khổ với Chúa Giêsu, đặc biệt là để sám hối về những lần chúng ta đã hèn nhát, không dám đứng lên bảo vệ sự thật, không dám đấu tranh chống lại bất công, hoặc không dám tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ.

Thứ Sáu Tuần Thánh: Tôn kính Thánh Giá

Trong Giáo Hội Công giáo, Thứ Sáu Tuần Thánh không cử hành Thánh Lễ, nhưng có nghi thức tôn kính Thánh Giá để tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu. Nghi thức này thường được cử hành lúc 3 giờ chiều, giờ Con Thiên Chúa trút hơi thở trên Thánh Giá. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh, có thể cử hành trễ hơn, nhưng phải trước 9 giờ tối.

Thứ Sáu Tuần Thánh: Tử thần chiến bại

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày ảm đạm, ngày đại tang, nhưng lại là ngày tốt lành vì Con Thiên Chúa đã hoàn tất mọi sự. Chính cái chết của Ngài khiến Tử Thần phải bó tay, đành thua cuộc. Kẻ thù vẫn tìm cách hãm hại chúng ta, muốn kéo chúng ta về phe chúng, nhưng chúng không thể chiến thắng vì chúng đã thua Con Thiên Chúa.

Thứ Sáu Tuần Thánh: Khởi đầu phục sinh

Thứ Sáu Tuần Thánh là khởi đầu của sự chết, nhưng cũng chính là khởi điểm của sự phục sinh. Alleluia, Chúa Giêsu đã sống lại vinh quang!

Người ta sợ Thứ Sáu ngày 13 vì người ta thấy trong Bữa Tiệc Ly có 13 người: Chúa Giêsu và 12 môn đệ. Giuđa Ítcariốt là người phản bội, bị coi là người mang “bí số” 13. Đừng dị đoan nhảm nhí mà “sợ” ngày này. Thứ Sáu nào cũng tốt lành, Thứ Sáu Tuần Thánh càng tốt lành hơn!

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo Beliefnet.com)

Xem phim “The Passion of the Christ” của đạo diễn Mel Gibson: httpv://www.youtube.com/watch?v=o-ZcbjLBtls&list=PL-dE3EzobLKc2rbRuakYsRNpwta9zSR2I

*HÃY TRẢ LỜI CHO CHÍNH BẠN…*


*HÃY TRẢ LỜI CHO CHÍNH BẠN…*

*Cố G.S.Trần Duy Nhiên*

*Cuộc đối chất giữa một giáo dân thế kỷ 21 và nhân vật lịch sử Philatô*

*Thanh nữ*: Này ông Philatô! Theo tôi, chính hành động trốn trách nhiệm của
ông đã giết chết Chúa chúng tôi.

*Philatô*: Tôi không hề thấy mình trốn trách nhiệm. Sở dĩ tôi rửa tay là vì
không muốn liên can đến những vấn đề mà tôi cho là chuyện nội bộ Do Thái
giáo.

*Thanh nữ*:  Ông biết rõ ràng là Đức Giêsu vô tội.  Chính ông đã tuyên bố
với mọi người là ông không thấy Người ấy có tội.  Thế mà ông vẫn tuyên án
tử hình.

*Philatô*:  Tôi đã làm đủ mọi cách để trả tự do cho Giêsu.  Tôi cho đánh
đập thê thảm để kêu gọi lòng từ tâm của dân chúng.  Nhưng họ không buông
tha.  Tôi lợi dụng thông lệ Vượt Qua để họ chọn lựa trả tự do hoặc cho
Giêsu hoặc cho Barabas, tên tử tội ghê gớm nhất tôi đang cầm giữ và họ đã
chọn Barabas.  Chị còn đòi hỏi tôi làm gì nữa?

*Thanh nữ*:  Tất cả những việc đó chỉ là mánh khóe.  Điều tôi mong là ông
áp dụng luật pháp cho đúng đắn, nghĩa là trả tự do cho một người vô tội mà
không cần một điều kiện gì.

*Philatô*:  Tôi không có quyền đó.

*Thanh nữ*:  Thế ông không phải là người đại diện La mã để duy trì luật
pháp sao?

*Philatô*:  Chính vì tôi là người đại diện La mã mà tôi không có quyền tha
bổng Giêsu.

*Thanh nữ*:  Tôi không hiểu ông muốn nói gì.

*Philatô*:  Chị hiểu rõ câu nói của tôi.  Điều chị không hiểu là nhiệm vụ
của tôi.  Tôi là một nhà chính trị chứ không phải là một nhà luân lý.  Bổn
phận của tôi là duy trì an ninh trật tự một nước thuộc địa của Mẫu quốc La
mã.  Chúng tôi để cho người Do Thái thờ Giavê và tiếp tục lễ nghi của họ
trong khi chúng tôi thờ thần Jupiter.  Chị tưởng chúng tôi làm thế là vì
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người Do Thái à?  Nghĩ như thế là
lầm.  Chúng tôi làm như thế vì lợi ích của chúng tôi, những người La mã.
Nếu cấm đoán, họ có thể nổi dậy làm loạn…

*Thanh nữ*:  Ông nói những điều đó để đi đến đâu?

*Philatô*:  Để chị hiểu vì sao tôi không có quyền tha Giêsu.

*Thanh nữ*:  Nhưng ông biết rằng Đức Giêsu không hề xúi dân làm loạn.  Và
trong giờ phút đau đớn đó Ngài không có lấy một người lính, thậm chí một
người bạn cũng không cơ mà.

*Philatô*:  Chính vì thế mà tôi không có quyền chọn lựa.  Nếu dân chúng ủng
hộ Giêsu, và cái chết của Giêsu có thể đem đến một sự nổi loạn, thì tôi
phải suy nghĩ.  Đàng này mọi người đã bỏ rơi Giêsu. Trong khi đó nhóm biệt
phái xúi dục dân chúng lên án Giêsu vì những chuyện riêng tư của tôn giáo
họ.  Nếu tôi buông tha Giêsu, họ sẽ bất bình và có thể làm loạn.

*Thanh nữ*:  Vì thế mà ông đã tuyên án Chúa chúng tôi à?

*Philatô*:  Tôi đã nói rằng tôi không tuyên án kết án ai cả.  Tôi trao
Giêsu lại cho người Do Thái để họ làm gì mặc họ.

*Thanh nữ*:  Ông là một người vô liêm sỉ.

*Philatô*:  Đấy chỉ là vấn đề quan điểm.

*Thanh nữ*:  Quan điểm gì nữa? Ông đã không dùng quyền hạn mình để bảo vệ
một người mà ông biết là vô tội.  Không quan điểm nào cho phép một bất công
như thế.

*Philatô*:  Với tư cách cá nhân, tôi thấy rằng người ấy vô tội, nhưng với
tư cách là Tổng trấn La mã, tôi không có quyền để những tình cảm cá nhân
len vào.  Tôi chỉ có quyền làm những gì có lợi nhất cho Hoàng Đế của tôi mà
thôi.

*Thanh nữ*:  Tôi không cần biết ông nhân danh gì mà hành động. Tôi chỉ biết
rằng nếu Chúa Giêsu vô tội thì ông là kẻ có tội.

*Philatô*:  Sao chị lại buộc tội tôi?  Tôi chỉ là một người bên ngoài giáo
hội Do Thái, làm việc theo lập trường của mình.  Những người có tội là
những người nhân danh Thiên Chúa của họ để giết Giêsu.  Chính những hạng
người như chị đã đặt tôi vào tình trạng không thể buông tha Giêsu.

*Thanh nữ*:  Ông là một người thủ đoạn. Ông muốn bịt miệng tôi bằng cách
buộc tội tôi, dù ông biết rằng ông không có cơ sở.

*Philatô*:  Có chứ!… Ngày Giêsu vào Giêrusalem thì một số người hăng hái
tiếp đón Giêsu, hô to khẩu hiệu. Và một tuần sau thì cũng chính những người
đó hét to hơn ai hết: “*Hãy thả Barabas. Hãy đóng đinh Giêsu vào thập giá*.”
Tôi thấy lợm giọng, chị à!  Hôm nay cũng vậy, giữa những thân hữu của chị,
chị cũng ra vẻ bênh vực Giêsu và mạt sát tôi…  Tôi thấy sợ!  Tôi thấy
mình trở lại cái ngày hôm ấy.  Ngày xử án Giêsu, khi tôi lên tiếng hỏi,
không có một nhân chứng nào bênh vực cho Giêsu! Ngày hôm đó, tôi chỉ thấy
những kẻ chứng gian, những người phẫn nộ, những bọn tò mò, còn những người
có cảm tình với Giêsu thì trốn biệt tăm tích.  Ngày hôm đó, *chỉ có* *một
mình tôi*, chị nhớ cho, *tôi*, *Phongxiô Philatô,* người mà chị vừa gọi là
vô liêm sỉ đấy, *chỉ có một mình tôi* là *người duy nhất* nói rằng *Giêsu
vô tội*.  Nếu hôm đó chị có mặt, chị sẽ là ai?  Chị sẽ là một người trốn
biệt hay một người la hét?  Chị đừng nói rằng chị sẽ bênh vực, vì không có
ai bênh vực Giêsu, ngoài *tôi*.  Nếu chị gọi tôi là vô liêm sỉ thì chị sẽ
là gì?  *Chị tự xét lấy, đừng trả lời tôi, hãy trả lời cho chính chị*!

*Trần Duy Nhiên*

Chị Ngyễn Kim Bằng gởi

Ước Gì Thế Giới có thật nhiều Simon Kyrênê

Ước Gì Thế Giới có thật nhiều Simon Kyrênê

Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa.

Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau :

Trong ngày Lễ Lá, Ðức Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy.  Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.

Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ.  Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án.  Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.

Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?

Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan.  Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).

Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường.  Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này.

Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.  Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài.  Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải.  Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn.  Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn.  Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.

Ðức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ.  Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài.  Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn.

Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?

Ðức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi? »

Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa :

* Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi.

* Ðôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con.

* Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát.

* Ðôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh.

* Ðôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.

Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.

Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng.  Ðức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng.  Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không?  Ðức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh.  Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!

Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.

Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.  Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.

Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.

Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,

vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,

xin cho những người nghèo khổ được no đủ.

Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,

xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện

với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.

Vì Chúa bị kết án bất công,

xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.

Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,

xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.

Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,

xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.

Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,

xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.

Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,

xin cho đất nối lại với trời,

con người nối lại mối dây liên đới với nhau.

Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ,

xin cho chúng con biết đón lấy đời thường

với tâm hồn thanh thản bình an.

Amen.

Chị Nguyễn Kim Bằng

NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

Lm Jos. Trần Xuân Chiêu

Thứ Năm Tuần Thánh được bắt đầu bằng Thánh lễ Truyền Dầu, và ban chiều, khởi đầu Tam Nhật Vượt qua, Phụng vụ đưa mỗi người đến bữa Tiệc Li của Đức Giê-su, diễn tả việc Người rửa chân cho các môn đệ, tưởng niệm việc Chúa lập phép Thánh Thể và chức vụ Linh mục.  Như vậy có quá nhiều đề tài cho người ta khai thác, học hỏi.  Tuy nhiên, giờ đây mỗi người được mời đi sâu vào cội rễ của các tưởng niệm trên, đó là tình yêu của Chúa Kitô đối với loài người.

Nhiều người đặt vấn đề, có cần Chúa phải làm việc hèn hạ, là rửa chân cho các môn đệ không?  Có phải đây là kiểu xu nịnh, như nhiều người thường đi bằng hai đầu gối để đạt mục tiêu không?  Liệu Chúa có đối xử gì tệ bạc với Giuđa không, mà sao ông lại có hành vi tồi tệ và đê hèn, đến nỗi bán Thầy của mình với giá bèo bọt 30 đồng bạc?

1. Trong bữa Tiệc Li

Đức Giêsu đã cùng ăn bữa tối quan trọng với các môn đệ, để chuẩn bị cho việc ra đi của Người.  Tất cả những sự kiện báo trước đang diễn ra trong bữa Tiệc Li này, đó là Giuđa phản bội bán Thầy với giá 30 đồng bạc, đó là Phêrô môn đệ thân tín nhất sẽ chối Chúa 3 lần.  Đề tài chủ yếu trong Phụng vụ chiều nay cũng như tuần Tam Nhật Vượt qua là tình yêu.  Tất cả việc Chúa lập phép Thánh Thể, bí tích Truyền Chức Thánh, đặc biệt là cử chỉ khiêm nhường rửa chân cho môn đệ, đều xuất phát từ tình yêu cao vời của Thiên Chúa.

Đức Kitô đã thiết lập Bí tích Thánh Thể: Chúa đã nhập thể để đến với nhân loại, Chúa đã sinh ra trong nghèo hèn để cảm thông cuộc sống với con người, Chúa đã giảng dạy để kêu gọi và mở ra con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực, Chúa chịu chết để cứu độ tất cả mọi người.  Nhưng như thế chưa đủ, Chúa muốn làm hơn thế, để chứng tỏ tình yêu của Người: đó chính là phép Thánh Thể, mà Chúa lấy chính Máu Thịt mình để nuôi loài người.  Tình yêu của Người luôn được tiếp tục bằng việc cung cấp thức ăn thiêng liêng cho nhân loại.  Chúa muốn đi sâu vào thân xác, thấm vào máu thịt, để biến dòng máu đen ngòm tội lỗi của con người, thành dòng máu tươi hồng trong sạch của Chúa, Chúa muốn con người có sức mạnh phi thường, để họ có đủ sức vượt dặm trường, chống lại những vật cản tiến về Nước Chúa.

Đức Kitô đã lập ra chức vụ linh mục: Ôi lạ lùng huyền nhiệm, Chúa đã nên lương thực qua đôi tay linh mục thừa tác viên để phục vụ, để ban phát hồng ân, để tha thứ lỗi lầm, để giải hòa với Chúa và với nhau.  Qua tác vụ linh mục, người tín hữu được lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, làm của ăn tinh thần, được giao hòa với Thiên Chúa tình yêu, được ánh sáng và sức mạnh để thăng tiến cuộc sống con người.

2. Rửa chân cho các môn đệ

Trong bữa Tiệc Li, Đức Giêsu còn thể hiện cử chỉ rất đặc biệt:  rửa chân cho các môn đệ.  Bỏ qua mọi rào cản,  những kinh nghiệm đau thương, và những mất mát sẽ diễn ra, Đức Giêsu đã đứng dậy, cởi áo ra, lấy chậu nước và rửa chân cho các môn đệ.  Người ta rất ngạc nhiên, cũng như Phêrô đã rất ngạc nhiên, tại sao Chúa làm như vậy?  Đây là một việc làm của một tên nô lệ theo thói quen người Israel. Mỗi người có thể hiểu được việc làm này của Chúa vì nhiều lí do:

Trước hết là để ứng nghiệm những gì đã viết về Đức Kitô:  Chúa là Người Tôi Tớ Thiên Chúa trong sách Isaia, Đấng đã chuộc lại loài người bằng những hy sinh của Người.  Việc Chúa tự động đứng dậy rửa chân cho họ, cũng để chứng tỏ rằng Người tự nguyện chịu chết để cứu độ nhân loại.  Những từ “cởi ra” “mặc vào” nói lên việc Người chịu chết và sống lại, việc con người đánh mất Hồng Ân Chúa khi phạm tội, và Đức Kitô đã chuộc lại ơn làm nghĩa tử của Chúa.

Việc rửa chân là bài học giáo dục, Đức Giêsu muốn nêu cao tấm gương trong cách sống mà các môn đệ phải noi theo: Sống để phục vụ chứ không phải để được phục vụ, “Thầy nêu gương cho anh em, để anh em hãy làm cho nhau” (Ga.13, 15).

Rửa chân bằng nước còn nói lên việc thanh tẩy; Đức Giêsu muốn nói với con người rằng, Chúa đến để làm mới lại con người, thanh tẩy tội lỗi họ, để không những thân xác, chân tay, mà cả tâm hồn cũng nên trong sạch, loại bỏ những hiềm khích, đam mê, tội lỗi…

Việc rửa chân dạy loài người bài học khiêm nhường: Con người muốn làm lớn thống trị người khác, như hai anh em con ông Giêbêđê muốn chỗ nhất nhì trong Nước Trời.  Quyền lực vẫn là cái gì làm cho người ta cuồng nhiệt tranh giật, ngoài xã hội cũng như trong tôn giáo, xưa cũng như bây giờ, Đức Giêsu dạy các môn đệ muốn làm lớn, hãy trở nên đầy tớ trước đã.

Cuối cùng, Đức Giêsu muốn chứng tỏ tình yêu trổi vượt của Người với nhân loại:  Chúa muốn làm tất cả vì yêu.  Một thứ tình yêu mãnh liệt không đắn đo tính toán, đã khiến Người có thể làm những điều người ta không tưởng, đó là việc quỳ xuống rửa chân cho môn đệ của mình.

3. Tình yêu đáp trả

Qua những hành vi trên đây, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy đáp trả tình yêu của Người dành cho họ:

Trước hết là hãy đón nhận: Qua việc cúi xuống rửa chân cho đầy tớ, Đức Giêsu muốn nhắc con người: những gì là trịch thượng, quyền thế, là cái tôi, là hạ cố, cần phải loại trừ:  Một Thiên Chúa quỳ xuống, để ngước mắt nhìn lên loài người, nhằm dạy người ta phải khiêm nhường đón nhận những ân sâu tận Trời của Chúa.  Chỉ khi con người biết khiêm nhường, họ mới gặt hái thành công, mới có thể đạt mục tiêu Nước Trời.  Thế gian chỉ biết hưởng thụ, chờ mong người khác hầu hạ.  Người ta thường bị cám dỗ bởi tiền bạc vật chất, ăn trên ngồi trốc.  Chúa không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ, vậy con người là ai, mà chỉ muốn người khác hầu hạ mình?

Hãy tôn vinh Thánh Thể Đức Kitô: Thánh Thể là kết quả tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Qua Thánh Thể, con người được nên một với Người, sống với Người.  Chính vì thế, Thánh lễ trở thành trung tâm Phụng vụ.  Đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội để tận hưởng lương thực thần hiệu này, hãy để Chúa sống với mình hằng ngày, hãy lắng nghe tiếng Chúa mời gọi:  Hãy đến mà ăn.  Đừng để Chúa cô đơn và nhục mạ bằng việc từ chối của mình.

Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Người sống khiêm nhường, hi sinh và phục vụ để xứng đáng làm môn đệ Đức Kitô.

Lm Jos. Trần Xuân Chiêu

NHỮNG CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ CHÚA GIÊSU

NHỮNG CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ CHÚA GIÊSU

“Sau đây là tên mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là ông Phê-rô, rồi đến ôngAn-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Giê-bê-đê và ông Gio-an em của ông; ông Phi-lip-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô ; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế ; ôngGia-cô-bê con An-phê và ông Ta-đê-ô ; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, chính là kẻ nộp Người”. (Mt 10,2-4)

1- Simon Peter (Phêrô): Chúa Giêsu gọi ngài là đá, còn được gọi là Simon con Giôna. Ông là một ngư phủ đến từ thành Bethsaida xứ Galilee. Đã bị đóng đinh ngược trên thập giá. Theo lời truyền của giáo hội thì ngài đã nói với những người lý hình rằng, ngài cảm thấy không xứng đáng chết cùng một thể thức giống như Chúa Giêsu, cách Thầy mình đã chết.

2- Andrew (Anrê): Em của Phêrô, ngư phủ thành Bethsaida. Ngài bị đóng đinh trên thập giá hình chữ X ở Patras, Greece, sau khi bị bảy người lính đánh đòn nhừ tử. Người ta dùng những sợi dây trói thân xác ngài vào thập giá cốt ý kéo dài sự đau đớn của ngài. Những môn đệ của ngài thuật lại rằng, khi ngài bị dẫn đến trước thập giá, ngài đã kính cẩn chào thập giá và nói những lời này: “Tôi đã từng ước mong và dự đoán sẽ có giờ vui mừng này. Thánh giá đã được tận hiến nhờ thân xác của Chúa Kitô treo trên đó”. Ngài tiếp tục rao giảng cho những tên lý hình trong hai ngày cho đến khi tàn hơi.

3- James the Great (Giacôbê Cả): con ông Giê-bê-đê, là anh em với thánh Gioan. Là người chài lưới khi Chúa Giêsu gọi ngài làm môn đệ hiến trọn đời cho sứ mạng rao giảng tin mừng. Là người lãnh đạo can trường của Giáo hội, Giacôbê đã bị chặt đầu ở Giêrusalem. Người lính Rôma có nhiệm vụ canh gác Ngài đã kinh ngạc chứng kiến thánh nhân bảo vệ niềm tin trước toà án. Sau này, người lính này cùng đi với Giacôbê tới nơi xử hình. Bị thuyết phục bởi niềm tin, chính ông đã tuyên xưng niềm tin mới với quan toà, và quỳ xuống bên cạnh thánh Giacôbê chấp nhận bị chặt đầu vì là người Kitô hữu.

4- John (Gioan): con ông Giê-bê-đê, được Chúa Giêsu gọi là Môn đệ yêu dấu. Đối diện với cái chết tử đạo khi bị nấu trong nồi dầu sôi trong cuộc bách hại tôn giáo ở Rôma. Nhưng lạ thay, ngài được cứu thoát khỏi cái chết. Thánh Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải Huyền chứa đầy những lời tiên tri. Thánh Gioan được trả tự do, và trở về làm Giám mục ở Edessa, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài chết vì già yếu. Ngài duy nhất là tông đồ đã chết một cách bình an.

5- Philip (Philiphê): người thành Bethsaida xứ Galilee, bị đóng đinh.

6- Bartholomew (Batôômêô): con trai của Talemai. Ngài làm chứng cho Chúa ở Thổ Nhĩ Kỳ. Batôômêô tử vì đạo vì đã giảng đạo ở Armenia, nơi mà ngài bị quất bằng roi cho tới chết.

7- Thomas (Tôma): vị thánh duy nhất không tin Chúa Phục sinh, và sau đó đã tin vì đã được thọc tay vào vết thương nơi cạnh sườn của Chúa. Ngài chết vì bị đâm bởi lưỡi đòng ở Ấn độ, trong một chuyến đi truyền giáo nhằm thiết lập hội thánh tại tiểu lục địa này.

8- Matthew (Mát-thêu): người thu thuế, con trai của Alphaeus. Tử đạo ở Ethiopia, chết vì vết thương của lưỡi gươm.

9- James (Giacôbê): con ông Alphaeus. Là người lãnh đạo hội thánh ở Giêrusalem, bị quăng hơn một trăm feet xuống đất từ hướng Đông Nam trên đỉnh của Đền thờ, sau khi ngài không chịu từ chối niềm tin vào Chúa Kitô. Khi người ta khám phá ra là ngài vẫn còn sống mặc dù bị quăng xuống đất từ trên cao, những kẻ thù của ngài đã đánh ngài tới chết bằng cây gậy của người thợ hồ vải. Đỉnh đền thờ này cũng là nơi mà ma quỷ trước kia đã đưa Chúa Giêsu lên để cám dỗ Ngài.

10- Thaddaeus (Tađêô): trong Phúc âm Luca gọi là Giuđa, con của Giacôbê. Bị đóng đinh.

11- Simon: người Canaan, bị đóng đinh.

12- Judas Iscariot (Giuđa “kẻ bội phản”): người đã nộp Chúa Giêsu cho người Do Thái, sau đó hối hận và đi treo cổ tự tử.

13- Mathias (Mátthia): thay thế môn đệ Giuđa phản bội, bị ném đá và bị chặt đầu.

14- Thánh Paul (Phaolô): trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, sau khi bị Chúa cho té ngựa trên đường đi Đamát bách hại dân Chúa. Phaolô đã tán thành việc ném đá ông Têphanô. Ngài bị tra tấn và sau đó bị chặt đầu bởi hoàng đế Nerô ở Rôma. Thánh Phaolô đã bị giam trong tù một thời gian dài, nhờ đó mà ngài đã có thời gian viết các thư gởi cho các tín hữu của các hội thánh, mà ngài đã thiết lập khắp nơi. Những thư này đã dạy những giáo điều làm nền tảng của Kitô giáo, và các thư này chiếm phần lớn trong sách Tân Ước.

15- Têphanô Vị tông đồ tử vì đạo đầu tiên. Ngài bị ném đá cho tới chết vì bị cho là nói phạm thượng.

16- Mark (Maccô): tác giả sách Tin Mừng. Qua đời ở Alexandria, Ai cập, sau khi bị ngựa kéo trên đường cho tới chết.

17- Luke (Luca): tác giả sách Tin Mừng. Bị treo cổ ở Greece sau cuộc rao giảng cho người ngoại.

Những cái chết của các tông đồ Chúa Kitô nhắc nhở chúng ta rằng, những đau khổ và thử thách của chúng ta thì nhỏ bé so với những sự bách hại lớn lao và sự đối sử tàn nhẫn mà các tông đồ xưa đã phải chịu trong việc bảo vệ niềm tin. Lời Chúa Giêsu đã nói: ”Vì danh Thầy, người ta sẽ ghét bỏ các con, nhưng những ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát:. (Mt 10:22).

Mỗi người Chúa ban cho sức mạnh đủ để chịu những thử thách như lời Chúa nói: Ơn Thầy sẽ đủ cho con. Hãy vững niềm tin vào Chúa.

Xem thêm:

Các Tông Đồ Đã Chết Cách Nào & Cái Chết Của Đức Giêsu

VƯỜN CÂY DẦU

VƯỜN CÂY DẦU

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Cách đây vài năm, diễn viên Mel Gibson đạo diễn và sản xuất một bộ phim được công chúng đặc biệt hưởng ứng.  Với tựa đề, Cuộc Thương khó của Chúa Kitô, bộ phim khắc họa lại cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, từ vườn Cây Dầu cho đến cái chết trên Núi Sọ, tác giả nhấn mạnh đến các đau đớn thể xác của Ngài.  Bộ phim thể hiện sống động từng chi tiết các đau đớn mà một người bị đóng đinh thập giá phải chịu, khi bị đánh, bị tra tấn, và bị sỉ nhục.

Trong khi hầu hết các phái trong Giáo hội tán thưởng bộ phim, cho rằng cuối cùng thì cũng có người làm một bộ phim khắc họa thật về những đau đớn của Chúa Giêsu, thì nhiều học giả Kinh thánh và nhiều ngòi bút thiêng liêng khác lại lên tiếng chỉ trích.  Tại sao lại thế?  Có gì sai khi chiếu một bộ phim dài với chi tiết sống động, những máu me của việc đóng đinh thập giá, vốn thực sự rất hãi hùng?

Có gì sai (hay nhẹ hơn là không hợp) khi đây chính là những gì mà Kinh thánh đã không ghi lại về cái chết của Chúa Giêsu.  Tất cả bốn Tin mừng đều cố gắng không tập trung vào đau đớn thể xác của Chúa Giêsu.  Các mô tả trong Tin Mừng về những đau đớn thể xác của Ngài đều hết sức ngắn gọn: “Họ treo ngài giữa hai phạm nhân.”  Philatô cho “đánh đòn Đức Giêsu rồi giao ngài cho người ta đem đi đóng đinh.”  Tại sao lại rút gọn như thế?  Tại sao không mô tả chi tiết?

Lý do mà các tác giả tin mừng không tập trung vào những đau đớn thể xác của Chúa Giêsu là họ muốn chúng ta tập trung vào một điều khác, cụ thể là những đau đớn trong cảm xúc và tinh thần của Ngài.  Cuộc thương khó của Chúa Giêsu, xét theo chiều sâu thực sự, là một tấn kịch tinh thần, chứ không phải tấn kịch thể lý, là đau khổ của một người đang yêu, chứ không phải đau đớn của một vận động viên.

Do đó, chúng ta thấy khi Chúa Giêsu tiên liệu cuộc khổ nạn của mình, những gì Ngài lo lắng không phải là đòn roi hay mũi đinh đóng vào tay mình.  Mà Ngài đau đớn và lo lắng cho sự cô độc mình sẽ phải đối diện, cho kết cuộc bị những người đã nói yêu mến Ngài phản bội và bỏ rơi, và cho tình cảnh, theo cách diễn đạt của Gil Bailie là, “bị tất cả loại bỏ.”

Như thế cuộc thương khó của Chúa Giêsu rõ ràng là một tấn kịch tình yêu.  Nó bắt đầu với mồ hôi máu đổ ra trong vườn Cây Dầu, và kết thúc với việc mai táng Ngài trong vườn.  Chúa Giêsu đang đổ mồ hôi máu trong vườn, chứ không phải trên đấu trường.  Vậy, việc ở trong vườn, có gì đặc biệt?

Về mặt tượng hình, vườn không phải là nơi trồng rau và dĩ nhiên cũng không phải là nơi trồng hoa.  Vườn là nơi của những người yêu nhau, là nơi cảm nhận hạnh phúc, nơi uống rượu, nơi Adong và Evà đã trần truồng mà chẳng biết, nơi người ta yêu nhau.

Và các tác giả Phúc Âm đặt khởi đầu và kết thúc cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong vườn để nhấn mạnh rằng, Chúa Giêsu, một người đang yêu (chứ không phải Chúa Giêsu Vua, Pháp sư, hay Ngôn sứ), đang trải qua tấn kịch này.  Và chính xác tấn kịch này là gì?  Khi Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong vườn và van xin Chúa Cha đừng bắt Ngài “uống chén này,” thì lựa chọn thực sự của Ngài không phải là: Ta sẽ để mình phải chết hay sẽ dùng đến sức mạnh thần thiêng để cứu mạng mình? Nhưng đúng hơn, lựa chọn của Ngài là: “Ta sẽ chết cách nào?  Ta sẽ chết trong giận dữ, cay đắng, và không tha thứ, hay Ta sẽ chết với một tấm lòng nồng ấm thứ tha?”

Tất nhiên, chúng ta biết Chúa Giêsu đã đi qua tấn kịch này như thế nào, Ngài đã chọn lấy lòng bao dung và tha thứ cho những người hành hình mình, và trong toàn bộ những u ám đó, Ngài vẫn giữ vững những gì Ngài đã giảng dạy trong suốt đời rao giảng, chính là tình yêu, tình thương, và tha thứ sẽ tuyệt đối chiến thắng.

Hơn nữa, những gì Chúa Giêsu đã làm trong tấn kịch tâm hồn này là những gì chúng ta phải noi theo hơn là đơn thuần ngưỡng mộ, vì tấn kịch này cũng hoàn toàn là tấn kịch tình thương trong đời chúng ta với vô vàn cách thể hiện khác nhau.  Cụ thể là:

Đến cuối đời, chúng ta sẽ chết thế nào đây?  Lòng chúng ta sẽ giận dữ, bám víu, bất dung, và cay đắng vì sự bất công của cuộc đời?  Hay, lòng chúng ta sẽ khoan dung, biết ơn, cảm thông, nồng ấm, như tấm lòng Chúa Giêsu khi Ngài thưa với Chúa Cha là xin theo ý Cha đừng theo ý Con?

Hơn nữa, đây không phải là chọn lựa cốt yếu và duy nhất mà chúng ta phải đối diện trong giờ chết, nhưng là chọn lựa chúng ta phải đối diện hằng ngày, nhiều lần mỗi ngày.  Biết bao lần khi va chạm hàng ngày với người khác, với gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, và cả xã hội nói chung, chúng ta đã phải chịu những lạnh lùng, hiểu lầm, bất công, và cả bạo hành chủ ý nữa.  Từ sự lãnh đạm của một thành viên trong gia đình trước lòng tốt của chúng ta, cho đến một lời bình luận ác ý chủ tâm làm tổn thương chúng ta, đến một sự bất công hết sức ở nơi làm việc, đến việc bị thành kiến và xúc phạm, và bàn ăn, nơi làm việc, phòng họp, và cả trên đường, tất cả đều là những nơi chúng ta cảm nghiệm hàng ngày, ít hay nhiều, những gì Chúa Giêsu đã trải qua trong vườn Cây Dầu, cảm giác, bị tất cả loại trừ.  Trong bóng đêm đó chúng ta có đi theo ánh sáng của mình?  Đối diện với những thù ghét đó, chúng ta có theo tiếng gọi của tình yêu hay không?

Đó đích thực là tấn kịch trong Cuộc Thương khó của Chúa Kitô, và ở đó những đòn roi, đinh nhọn không phải là tâm điểm.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ĐÓN HÀI NHI GIÊSU VÀO NHÀ TÂM HỒN CHÚNG TA

ĐÓN HÀI NHI GIÊSU VÀO NHÀ TÂM HỒN CHÚNG TA

Tuyết Mai

Đón nhận một hài nhi Giêsu vào từng nhà tâm hồn của chúng ta thiết nghĩ ai cũng sẽ dễ dàng để chấp nhận vì hầu hết mọi người đều yêu con trẻ. Nhất là một con trẻ được sinh ra đời do tình yêu của cha mẹ, mới có bé.

Riêng hài nhi Giêsu thì tình yêu phát nguồn từ Trời cao. Con trẻ Giêsu hẳn cao trọng hơn mọi sự có mặt trên vũ hoàn này vì Ngài là con một duy nhất của Thiên Chúa Cha, Đấng tối cao mà vì yêu thương con người ở Trần Gian này mà Người đã cho Con Trẻ xuống trần; một nơi tăm tối và đầy tội lỗi.

Hình ảnh con trẻ Giêsu phải được nhắc nhở và khắc ghi sâu đậm trong tâm khảm con người chúng ta … Ngài là nguồn an ủi tinh thần duy nhất, chóng cho chúng ta sự bình an trong tâm hồn khi chúng ta bị thất chí, thất tình, thất nghiệp và đang sống trong tuyệt vọng.

Bởi hình ảnh con trẻ Giêsu cũng ở trong thân xác của người phàm, nhỏ bé, yếu đuối và không tự làm được điều gì. Cũng biết kêu khóc khi bị đói khát, nóng lạnh, đau đớn, khó chịu, v.v… Một hài nhi Giêsu cũng rất cần được chúng ta ẵm bồng, chăm lo và có trách nhiệm trên Ngài. Để Con Trẻ Giêsu được dần lớn lên trong tâm hồn của chúng ta. Ngài ngăn chúng ta làm điều xấu xa, tội lỗi có ảnh hưởng hay làm gương xấu cho Con Trẻ (là Ngài). Để từ đó Ngài sẽ được lớn mạnh trong ta nhờ Chúa Thánh Thần. Rồi Ngài sẽ lo liệu cho Linh Hồn sống đời của chúng ta y như con cái Trần Gian chúng trả hiếu khi cha mẹ đến tuổi già.

Tuy ngày đại lễ Giáng Sinh đã qua nhưng cầu mong cho hết thảy chúng ta vẫn tiếp tục đón Chúa hài đồng Giêsu vào ngự trị trong căn nhà tâm hồn của chúng ta luôn mãi. Có thế chúng ta mới luôn cảm thấy cuộc đời có Chúa Con là niềm vui, là hạnh phúc khi có Chúa (Emmanuel) ở trong và ở cùng. Ngài giúp chúng ta sống có ý nghĩa, có trách nhiệm và trưởng thành hơn. Sống có hy vọng ở tương lai. Trở nên thánh cách dễ dàng qua sự yêu thương người như yêu bản thân nhất là Ngài giúp chúng ta tin mạnh mẽ hơn vào cuộc sống viên mãn ở Đời Sau. Amen.

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
12-27-14

TÌNH MẸ BAO LA DẠT DÀO

TÌNH MẸ BAO LA DẠT DÀO
(Tâm tình mùa Vọng)
Tuyết Mai

Các bà mẹ Trần Gian mang con trong dạ hiện đang đếm từng ngày để chờ con trẻ chào đời, hẳn vui mừng khôn tả vì gia đình từ nay sẽ có thêm một em bé, sẽ mang lại cho gia đình niềm vui khó tả mà không chữ nghĩa nào tả xiết.

Cùng với sự vui mừng khôn tả ấy thì Đức Trinh Nữ Maria Mẹ cũng có cùng niềm vui với các bà mẹ đang có mang nhưng Mẹ vui hơn gấp bội lần vì Mẹ được mang trong dạ một Con Thiên Chúa mà Trần Gian đã và đang rất trông chờ.   Nhưng xin thưa niềm vui của Mẹ Maria không cho phép Mẹ có thời gian để suy nghĩ tới nhiều mà Mẹ chỉ giữ lại trong Mẹ và gẫm suy trong lòng.   Vì Mẹ và Thánh Cả Giuse phải lên đường lánh nạn cho đến khi Giờ của Chúa Con phải được chào đời.

Chúng ta cũng nên hiểu là ở thời xa xửa xa xưa khi mọi vận chuyển chỉ là lạc đà và lừa mà Thánh Cả Giuse chỉ có thể tìm được cho Mẹ Maria là con lừa vừa đủ sức để cho Mẹ và Chúa Con mang trong dạ đi suốt chặng đường dài xa xôi năm ấy!.   Không kể những con đường xấu khó đi, đá nhiều phải chịu nhiều dằn xốc nhưng cả ba Đấng cũng phải cố gắng mà vượt qua.

Nên cuộc hành trình của ba Đấng đã an ủi thật nhiều cho các bà mẹ Trần Gian khi gặp những rủi ro, những bất trắc, những khổ đau và những tình cảnh không được xuông xẻ trong thời gian chờ sanh nở thì hãy tưởng nhớ về Mẹ Maria, Chúa Con Giêsu và Thánh Cả Giuse cũng đã chịu cảnh chạy lánh nạn khổ cực mà không buông một lời than thở nào.

Mẹ Maria đã cho tất cả các bà Mẹ Trần Gian bài học can đảm, kiên nhẫn chịu đựng và lòng quyết liệt.   Vì có phải con trẻ và tình mẫu tử thiêng liêng luôn làm cho các bà mẹ cố gắng chịu đựng tất cả, hy sinh tất cả, vượt qua tất cả mọi nghiệt ngã của cuộc đời?.   Và do lòng quả cảm của Mẹ Maria nên Chúa Giêsu mới được giáng trần để cho chương trình của Thiên Chúa mới được thể hiện qua Chúa Con Giêsu?.   Amen.

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
12-11-14

Nhờ Mẹ đến với Chúa

Nhờ Mẹ đến với Chúa

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

140820005

VRNs (21.08.2014) – Sài Gòn – Ngày xưa, tại tiệc cưới Cana, khi thấy họ hết rượu, Mẹ thương họ nên đã xin Chúa Giêsu giúp họ. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Mẹ ơi, chuyện đó can gì đến mẹ và con? Giờ của con chưa đến” (Ga 2:4). Dù thấy Con Trai Yêu Dấu nói vậy mà Mẹ vẫn tin tưởng và căn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2:5). Sáu chum đá đựng đầy nước lã (mỗi chum khoảng 80-100 lít) đã được Chúa Giêsu hóa phép thành rượu hảo hạng. Đó là phép lạ đầu tiên. Điều đó chứng tỏ lời đề nghị của Đức Mẹ rất có hiệu quả, vì thế mà chúng ta cần nhờ Mẹ và qua Mẹ để đến với Chúa Giêsu – Ad Jesum Per Mariam. Đó là cách khôn ngoan tuyệt vời để chúng ta khả dĩ gặp gỡ chính Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Đi tới bất cứ nơi nào cũng phải qua ít nhất một con đường, chắc hẳn không có con đường nào an toàn bằng Con-Đường-Mẹ-Maria, trong đó còn chứa cả Tình Mẫu Tử kỳ diệu.

Với cảm thức tâm linh như vậy, Cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) TGP Saigon đã tổ chức chuyến hành hương về linh địa La Vang từ ngày 11 tới 19-8-2014.

Năm nay có điều đặc biệt vì là Đại Hội La Vang lần thứ 30 (ba năm một lần). Đại hội năm 2014 có chủ đề “PHÚC ÂM HÓA ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH” vì là Năm Phúc Âm Hóa Gia Đình: Gia đình cầu nguyện, Hiệp nhất thủy chung, Bảo vệ sự sống, và Loan báo Tin Mừng.

Điểm đến chính là La Vang, đường xa thăm thẳm và quanh co, các đoàn hành hương đều phải dừng chân nhiều chỗ trên hành trình. Hành hương nhắc nhở chúng ta về chuyến lữ hành trần gian về Nước Trời, đặc biệt là khi kính mừng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

Đức Mẹ được đưa về trời qua một “giấc ngủ” (dormition), tức là “chết mà như ngủ”. Ngày 1-11-1950, qua Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng đại), ĐGH Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Maria lên trời cả hồn và xác.

Thật hạnh phúc khi chúng ta có được niềm tin Công giáo, niềm tin đó không mơ hồ hoặc ảo tưởng, mà là chắc chắn, đúng như chúng ta vẫn tuyên tín: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Chắc chắn đúng như như vậy, vì Chúa Giêsu đã hứa để củng cố niềm tín đó: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi” (Ga 14:2-4).

Đoàn chúng tôi khởi hành từ 5 giờ sáng thứ Hai, 11-08-2014, xe chuyển bánh trực chỉ Phú Yên – nơi có biển Cà Ná và biển Đại Lãnh, nhưng đặc biệt nhất là Nhà Thờ Mằng Lăng (1), nơi sinh của Chân phước Anrê Phú Yên (1625–1644), vị thánh bổn mạng giáo lý viên và giới trẻ Công giáo Việt Nam. Ngài được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 5-3-2000.

Sau khi tham dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ Mằng Lăng sáng thứ Ba 12-8-2014, đoàn khởi hành đi Đà Nẵng, và ghé thăm Tòa Giám Mục Đà Nẵng vào buổi chiều, sau đó đến nghỉ đêm tại nhà hưu dưỡng của Dòng nữ Thánh Phaolô.

Sáng thứ Tư 13-8-2014, đoàn trực chỉ Thánh Địa La Vang (2). Quảng trị là vùng đất khô cằn sỏi đá, thời tiết khắc nghiệt, nắng cháy da, kèm theo cái nóng bức của gió Lào khiến người ta như ngộp thở. Tuy nhiên, năm nay trời nắng nhẹ nên cái nóng cũng giảm bớt, nhưng so với những nơi khác thì cái nóng bức của Quảng Trị vẫn khiến những giọt mồ hôi đổ ra như tắm. Buổi chiều có mưa nhẹ, dân địa phương gọi đó là Mưa Ngoi – không như mưa phùn, mưa thưa hạt và nhẹ, không đủ ướt áo. Họ cho biết về loại mưa đặc biệt này là những ngày sau có gió nhiều, có thể có giông. Nhưng thật kỳ lạ, ở Đông Hà có mưa lớn nhưng không mưa ở La Vang, nơi có khoảng 200.000 con cái từ khắp nơi về với Mẹ La Vang. Nếu mưa thì hàng trăm ngàn người sẽ cực khổ khi đi lại. Đó là phép lạ chứ đâu xa!

17 giờ ngày 13-8-2014, Đại Hội La Vang lần thứ 30 chính thức khai mạc bằng Thánh Lễ vọng Kính Đức Mẹ Hồn xác lên Trời. Đoàn đồng tế gồm có 10 giám mục và khoảng 150 linh mục.

Nhập lễ là bài thánh ca Nữ Vương Hòa Bình của cố NS Hải Linh. Giai điệu trầm hùng vang dội cả trời La Vang, như dìu đưa mọi người thành tín đến với Đức Maria, Thánh Mẫu Mông Triệu, với niềm hy vọng sẽ được cùng Mẹ về Quê Trời vĩnh hằng.

Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, TGP Saigon, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, nói: “Mẹ Maria cũng đang yêu thương đến La Vang và muốn an ủi chúng ta. Mẹ dạy chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin vào những gì Thiên Chúa đã làm và sẽ thực hiện. Thiên Chúa không ngừng tiếp tục ban Chúa Thánh Thần xuống cho chúng ta”.

Năm 2014 là Năm Gia Đình, Đức TGM Leopoldo Girelli nói: “Chiêm ngắm gia đình Thánh Gia, các ngài đã hoàn tất ý định của Thiên Chúa. Các gia đình Kitô hữu phải có khả năng thưa lên như Đức Maria: không phải vì tôi, nhưng để cho ý định Thiên Chúa được thành sự. Chúng ta chiêm ngắm đời sống cầu nguyện rất sâu từ Mẹ, Mẹ cũng do ảnh hưởng từ cha mẹ mình. Vì thế, tôi muốn kêu gọi anh chị em, những bậc cha mẹ, hãy trao cho con cái mình đức tin, một đời sống cầu nguyện. Đức Trinh Nữ Maria, khi hay tin bà Isave thụ thai, Mẹ bỏ công việc của mình để đến giúp đỡ và ở lại với bà 3 tháng. Quý gia đình thân mến, như Mẹ Maria chúng ta loan báo Tin Mừng cho lương dân với một tình yêu xuất phát từ lòng bác ái. Quả thế, Đức Trinh Nữ Maria là mẫu gương của niềm tin, cầu nguyện, yêu thương bác ái. Lạy Đức Mẹ La Vang chúc lành cho anh chị em. Lời nguyện tín hữu cầu cho Hội Thánh, cầu cho mỗi người, mỗi gia đình và cho tất cả những ai đau khổ tinh thần lẫn thể xác”.

Sau đó, 20 giờ có rước kiệu Mình Thánh Chúa. Sau đó là giờ cầu nguyện Lòng Chúa Thương Xót (LCTX).

Ngày 14-8-2014, 6 giờ sáng có Thánh lễ kính Đức Mẹ. 8 giờ 30 có thuyết trình và chia sẻ đề tài “Phúc Âm Hóa Gia Đình”. 14 giờ có thuyết trình và chia sẻ đề tài “Chứng nhân Đức Tin trong Đời sống Gia đình”. 15 giờ 30, đoàn chúng tôi tập trung cầu nguyện tại Đài Chúa Thương Xót tại linh địa La Vang. 20 giờ có chương trình “Canh Thức Bên Mẹ” tại linh đài Mẹ La Vang.

Sáng thứ Sáu 15-8-2014, đúng 6 giờ, rước kiệu Đức Mẹ La Vang, tiếp theo là Thánh Lễ Đại Triều Kính Trọng thể Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, cũng là Bế mạc Đại Hội. Chủ tế là Đức TGM Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng – TGP Huế, Phó Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Đồng tế có Đức TGM Leopoldo Girelli – Đại Diện Tòa Thánh tại Việt Nam, ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt, ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm, ĐGM Giuse Nguyễn Tấn Tước, ĐGM Lôrensô Chu Văn Minh, ĐGM Giuse Đặng Đức Ngân, ĐGM Matthêu Nguyễn Văn Khôi, ĐGM Stêphanô Tri Bửu Thiên, ĐGM Anphong Nguyễn Hữu Long, ĐGM Giuse Châu Ngọc Tri, ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Đệ, ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh, ĐGM Tôma Nguyễn Văn Trâm, và hơn 300 linh mục.

Đầu lễ, Đức TGM Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, TGP Huế, mời gọi cộng đoàn cùng hiệp thông: “Hôm nay chúng ta về với Linh Địa La Vang trong dịp Đại Hội La Vang 30. Về với Mẹ trong những ngày hè oi bức, khí hậu nghiệt ngã, thiếu mọi tiện nghi, ăn chay nằm đất, nhưng chúng ta muốn thưa lên với Mẹ rằng không gì có thể cản trở con cái Mẹ trở về La Vang, mặc dầu phải chấp nhận hy sinh, gian khó vì tình Mẹ yêu con và tình con mến Mẹ. Về với Mẹ trong đại lễ mừng Mẹ được Chúa trọng thưởng hồn xác lên trời, chúng con khẩn khoản cầu xin Mẹ giúp chúng con luôn sống trong vui mừng và hy vọng sẽ được Mẹ đồng hành, nâng đỡ, phù trì, giữa bao thử thách gian nan của cuộc đời, để sau này chúng con sẽ được lên trời với Mẹ. Chúng con chiêm ngắm hình ảnh trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, một người nữ ‘mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao’, chính là hình ảnh vinh quang của Mẹ và cũng là hình bóng của Hội Thánh khải hoàn mai ngày trên trời, bên Mẹ”.

Sau Tin Mừng, ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Đệ, GP Thái Bình, đặc trách Ủy Ban Tu sĩ, chia sẻ: “Kính mừng Mẹ Đầy ơn phúc… Mẹ có phúc hơn mọi phụ nữ. Chúa có một chương trình kỳ diệu đối với Đức Mẹ và vì Mẹ đã tin, nên được chúc phúc. Khi Đức Giêsu rao giảng thì có người lên tiếng nói: Thưa Thầy, có Mẹ và anh em Thầy muốn gặp Thầy. Nhưng Đức Giêsu trả lời: Ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi. Đây chính là Mẹ và anh em tôi, đó là những ai tin và thi hành ý Cha tôi, Đấng ngự trên trời, đó là Mẹ tôi, anh chị em tôi. Mỗi gia đình chúng ta được Chúa tiên liệu trong một chương trình kỳ diệu, đó là bảo vệ sự sống. Chúa tuyên bố ai tin và thi hành chương trình kỳ kiệu đó, là Mẹ và anh chị em với Ngài. Ai tin và đón nhận sự sống như là quyền năng của Thiên Chúa, người đó là mẹ và anh chị em với Chúa”.

Sau lời nguyện hiệp lễ, Đức TGM Leopoldo Girelli nói với cộng đoàn hành hương: “Tôi xin Đại diện cho ĐGH Phanxicô mang đến phép lành và lời chúc phúc của ngài cho anh chị em hành hương Đại Hội lần thứ 30 này. ĐGH Phanxicô không chỉ là Giám mục của Rôma, của Âu châu, mà của cả toàn cầu và Á châu nữa. Hôm nay, ngài đang ở tại Hàn Quốc, chắc chắn chúng ta không quên cầu nguyện cho Ngài. Xin cộng đoàn lặp lại với tôi: Xin Đức Mẹ La Vang cầu cho chúng con. Lạy Đức Mẹ La Vang, xin cầu cho ĐGH Phanxicô”.

Thánh lễ kính Đức Mẹ Mông Triệu kết thúc, Đại Hội La Vang 30 cũng khép lại, nhưng ân phúc vẫn đọng lại và âm vang trong lòng của hàng trăm nghìn khách hành hương, đong đầy tâm tình cảm tạ Thiên Chúa và Thánh Mẫu La Vang. Mọi người hân hoan ra về trong bình an của Thiên Chúa giàu lòng thương xót và Đức Mẹ La Vang nhân lành luôn phù hộ các giáo hữu thành tín.

Đức Mẹ là hòm bia, là tư tế, là bàn thờ, là chén thánh, và là nhà tiệc ly. Nguyện xin Đức Mẹ giúp chúng con tìm ra nguồn sống mới để mỗi chúng con sống cuộc sống thánh đức trong Thiên Chúa. Xin Thánh Mẫu La Vang dẫn chúng con tới Chúa Giêsu, Con Yêu Dấu của Mẹ.

Năm nay trời nắng dịu, dù đã trưa nhưng trời La Vang cũng không nắng nóng như mọi năm. Đoàn chúng tôi khởi hành đi Trà Kiệu (3), nơi có sự kiện Đức Mẹ hiện ra năm xưa.

6 giờ sáng thứ Bảy 16-8-2014, đoàn chúng tôi chia tay Trà Kiệu để đến Tòa Giám Mục Quy Nhơn, nơi có Tiểu chủng viện Quy Nhơn (tức là TCV Làng Sông ngày xưa). Tại đây, lúc 15 giờ, đoàn chúng tôi lần chuỗi LCTX. Sau đó, ĐGM Matthêu Nguyễn Văn Khôi đã dâng lễ tạ ơn kính LCTX và làm phép Tượng đài LCTX.

Đến Quy Nhơn, đặc biệt là Ghềnh Ráng, người ta không thể không nói tới thi sĩ Hàn Mặc Tử (4). Ông là thi sĩ Công giáo đầu tiên và có lòng sùng kính Đức Mẹ. Ông có tài mà bạc mệnh, chết vì bệnh phong (cùi) khi mới 28 tuổi – độ tuổi sung sức của đời người. Thơ của ông nổi tiếng không chỉ trong giới Công giáo mà cả người ngoài Công giáo cũng biết đến. Chịu đau khổ vì bệnh tật, nhưng ông vẫn tin yêu Thiên Chúa và Đức Mẹ. Trong thi phẩm “Ave Maria”, ông đã cảm nhận:

Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh,

Run như run thần tử thấy long nhan,

Run như run hơi thở chạm tơ vàng,

Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.

Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,

Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi…

Bệnh nhân phong rất đau đớn vào những ngày có trăng, trăng càng tỏ thì vi trùng càng rúc rỉa, và họ càng đau nhức. Do đó, thi sĩ Hàn đã rao bán trăng: “Trăng! Trăng! Trăng!… Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” (Trăng Vàng Trăng Ngọc). Chính đau khổ đã tạo nên một Hàn thi sĩ với những tứ thơ bí ẩn và những vần thơ bất hủ, chắc hẳn đó là sự công bằng của Chúa và không ngoài Thánh Ý Chúa.

Sua những ngày “nằm gai” tại linh địa La Vang, đoàn chúng tôi đi “nếm mật” tại Nha Trang ngày Chúa Nhật 17-8-2014 (tham quan chợ Đầm và Nhà Thờ Đá – Nhà thờ Chính tòa Nha Trang), và tại Đà Lạt ngày thứ Hai 18-8-2014 để biết thế nào là “thành phố vừa đi đã mỏi”, thế nào là “đường quanh co quyện gốc thông già” – theo cách mô tả của cố NS Lam Phương trong ca khúc “Thành Phố Buồn”.

Sáng thứ Ba 19-8-2014, đoàn khởi trở về Saigon. Trên đường về, chúng tôi có ghé Nhà thờ Bảo Lộc và lần chuỗi LCTX tại Đài Chúa Thương Xót tại sân trước của nhà thờ này. Cuối cùng, chúng tôi ghé cầu nguyện tạ ơn tại Đài Đức Mẹ An Bình trước khi kết thúc 10 km đường đèo Bảo Lộc: “Tạ ơn Đức Mẹ An Bình – Xin Mẹ chúc lành suốt kiếp nhân gian”.

Cuộc hành hương La Vang kết thúc, nhưng cuộc lữ hành trần gian vẫn tiếp diễn…

Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Thương Xót. Có thể nói rằng, người được hưởng LCTX là tướng cướp Dismas – một trong hai tử tội chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Cả đời gian ác, coi trời chỉ bằng nắp bia và coi mọi người là rơm rác, nhưng nhờ sám hối chân thành, tướng cướp Dismas được Chúa Giêsu tha thứ và cho về trời ngay: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 22:43).

Chúa Giêsu đã cho biết: “Thà rằng trời đất này biến ra không, nhưng Lòng Thương Xót của Cha luôn ấp ủ một linh hồn biết tín thác”. Thật là tuyệt vời và vô cùng hạnh phúc cho các tội nhân chúng ta, nhờ tin mà được cứu độ và được sống. Được cứu độ là được về trời với Đức Mẹ, được hưởng phúc trường sinh để đời đời yêu mến Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong ba đức đối thần (Tin, Cậy, Mến), đức mến quan trọng nhất. Tại sao? Bởi vì đời sau chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy.

Thiết tưởng cũng nên nói thêm một chút: Thật buồn khi thấy có vài người (phụ nữ) đi hành hương nhưng thiếu sự hòa đồng, coi trọng “cái Tôi” quá. Hành hương chứ không là “hành hung”. Đừng lầm lẫn mà chia phe, kết bè với nhau. Thiếu hòa đồng nghĩa là thiếu hy sinh, thiếu hy sinh là thiếu yêu thương, miệng nói mến Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối (1 Ga 4:20), thiếu yêu thương cũng là không thương xót. Mình không thương xót người khác thì làm sao có thể xin Chúa thương xót? Vậy là đối nghịch. Ai yêu thương thì mới có thể “vác thập giá” và “từ bỏ mình” (Mt 10:37-39; Lc 14:26-27). Từ bỏ mình để vác thập giá tức là từ bỏ “cái Tôi” của mình. Như vậy, từ bỏ mình và vác thập giá liên quan gần gũi với yêu thương, tức là thương xót. Đọc kinh nhiều, lần chuỗi nhiều, xin khấn nhiều,… cũng vô ích, nếu không cố gắng thực hành – tức là sống tình yêu thương, thể hiện lòng thương xót.

Người ta tỏ ra thành kính đến với Đức Mẹ La Vang, xin ơn này hoặc ơn nọ, xin cho mình và người khác, nhưng người ta không “làm ơn” cho người khác, không đâu xa mà chính những người đồng hành với mình, vậy thì làm sao Đức Mẹ có thể ban ơn? Nếu Đức Mẹ ban ơn cho họ, mà họ làm như vậy thì họ “vô tình” lại đổ hết ơn phúc đi rồi! Gương tốt là bài học để chúng ta noi theo, gương xấu cũng là bài học nhưng để chúng ta nên tránh, cố gắng đừng tái diễn điều tương tự.

Dọc đường đi theo hình chữ S, người ta không thể không thấy ít nơi sầm uất, còn quá nhiều người thiếu thốn và nghèo khổ, hãy thương xót họ nếu bạn muốn Thiên Chúa xót thương bạn, đó là thực hành mối phúc thứ Năm trong Tám Mối Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Thương xót bằng cả con tim và đôi tay, đừng thương xót bằng miệng!

Nhân dịp này, chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho các Kitô hữu I-rắc, vì họ đang bị bách hại dữ dội. Họ bị tàn sát rất dã man!

Xin tạ ơn THIÊN CHÚA giàu lòng thương xót và ĐỨC MẸ tràn đầy ơn phúc. Xin Thánh Mẫu La Vang đoái thương và luôn cầu thay nguyện giúp cho chúng con, những dân con nước Việt Nam vẫn thiếu thốn đủ thứ, phải chịu nhiều bách hại cả tinh thần và thể lý. Xin Chúa thương cứu các tín hữu I-rắc, và xin Đức Mẹ che chở họ. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(1) Nhà thờ Mằng Lăng thuộc huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Giáo xứ Mằng Lăng là nơi sinh của Chân phước Anrê Phú Yên. Với lịch sử gần 120 năm tồn tại, nhà thờ Mằng Lăng được coi nhà thờ cổ nhất tỉnh Phú Yên và là một trong những nhà thờ lâu đời nhất của Việt Nam. Tại đây có hang động lưu giữ thánh tích (mớ tóc) của Chân phước Anrê Phú Yên và cũng là nơi lưu giữ cuốn cuốn “Phép Giảng Tám Ngày” của Lm Alexandre de Rhodes (in năm 1651 tại Roma, Ý), đây là sách bằng chữ quốc ngữ đầu tiên.

(2) Vua Cảnh Thịnh lên ngôi năm 1792. Ông ra chiếu chỉ cấm đạo toàn quốc ngày 17-8-1798, giáo dân phải tìm nơi lánh nạn tại vùng núi Lá Vằng – tức là La Vang. Trong cảnh thiếu thốn, dân lâm bệnh nhiều mà không có thuốc chữa. Họ họp nhau bên gốc cây đa cổ thụ để lần chuỗi Mai Khôi cầu xin Đức Mẹ cứu giúp. Đức Mẹ hiện ra trong ánh sáng ngời rực rỡ, tay bồng Chúa Hài Đồng, có hai thiên thần cầm đèn chầu. Một hôm, Đức Mẹ an ủi và động viên họ chịu đau khổ, cố gắng giữ vững Đức Tin, rồi dạy họ hái lá Vằng ở xung quanh đó mà nấu nước uống (màu như trà, hơi đắng) thì sẽ khỏi các chứng bệnh. Đức Mẹ nói: “Các con hãy tin tưởng, hãy vui lòng chịu đau khổ, hễ ai chạy đến cầu khẩn cùng Mẹ ở chốn này, Mẹ sẽ nhậm lời và ban ơn theo ý nguyện”. Đức Mẹ còn hiện ra nhiều lần khác để an ủi và nâng đỡ các giáo dân trốn cơn bách hại đạo. Năm 1972, chiến tranh khốc liệt, gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”, nhưng đài Đức Mẹ La Vang vẫn không bị bom đạn làm hư hỏng chút nào. Quả là một phép lạ của Đức Mẹ!

(3) Đền thờ Đức Mẹ Trà Kiệu được xây dựng năm 1898 trên Ðồi Bửu Châu, phía đông Trà Kiệu (xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam). Đền thờ dâng kính Đức Maria với tước hiệu Ðức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, mục đích ghi nhớ sự kiện Ðức Mẹ hiện ra ngày 10 và 11-9-1885 để phù hộ cho giáo hữu nơi đây trong cuộc chiến chống lại Phong trào Cần Vương. Đức Mẹ đã động viên: “Các con chớ lo, này Mẹ đây!”.

Theo truyền thuyết, chữ Trà được lý giải là do người xưa gọi người Chiêm Thành là Chùm Chà, chữ Chà được đọc trại ra là Trà, gợi ý nhắc nhở đó là phần đất xưa của người Chàm. Còn chữ Kiệu, do chữ Kiều đọc trại ra, vì “kiều” nghĩa là người ở xa đến, tức là dân Ðàng Ngoài di cư và lập nghiệp tại đây.

(4) Hàn thi sĩ tên thật là Phêrô Phanxicô Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 tại Quảng Bình, an nghỉ trong vòng tay Đức Maria ngày 11-11-1940 tại Quy Hòa (Quy Nhơn), được cải táng tới vị trí hiện nay ngày 13-2-1959. Lên hết dốc Mộng Cầm sẽ thấy mộ Hàn thi sĩ bên tay phải, bên tay trái là Nhà thờ Núi, cũng là Trung tâm Thánh Thể và Thánh Mẫu, nơi tôn nghiêm nhưng đầy chất thi ca, có thể cầu nguyện theo thi hứng. Lên cao hơn sẽ thấy khu tư quán với các câu thơ đặc trưng của chàng thi sĩ muốn bán trăng.

ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜIš

ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜIš

Tác giả:Lm Phêrô Nguyễn Hữu Hạnh

Cùng với toàn thể Hội Thánh, chúng ta long trọng cử hành lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời. Đây là một tin vui lớn cho con cái Mẹ khắp nơi, đồng thời cũng là niềm hy vọng cho mỗi người chúng ta. Giờ đây, chúng ta cùng tìm hiểu tại sao Đức Mẹ lại được Thiên Chúa ban đặc ân cao trọng như vậy và việc Mẹ Maria hồn xác về trời nói gì với chúng ta ngày hôm nay.

Lịch sử Hội Thánh cho chúng ta biết, niềm tin tưởng Đức Maria hồn xác lên trời đã có từ thế kỷ thứ 6. Nhiều nơi trong Giáo Hội đã mừng lễ này với nhiều tên gọi khác nhau như lễ Đức Mẹ ngủ, lễ sinh nhật lên trời của Mẹ. Mãi đến thế kỷ 13 mới có tên là Đức Mẹ Lên Trời. Kinh Thánh không nói gì về những ngày sau hết của Đức Maria. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào sự âm thầm và cầu nguyện. Mẹ không còn xuất hiện nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa các tông đồ và Hội Thánh để nâng đỡ và khích lệ tinh thần. Theo truyền khẩu, sau khi Thánh Giacôbê tử đạo năm 42, Mẹ Maria lui về sống ở Êphêsô với Thánh Gioan. Mẹ đã qua đời vào khoảng năm 54, thọ 72 tuổi.

Truyền thống lâu đời của Hội Thánh cho rằng, chân lý Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa dựa trên vai trò đặc biệt của Mẹ Maria trong sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu con Mẹ. Quả vậy, Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân hậu đã muốn hoàn tất việc cứu độ thế giới bằng cách “sai con mình đến sinh làm con một người nữ” (Gal 4,4-5), người nữ này đã được phát họa trong cựu ước nơi lời hứa chiến thắng con rắn: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa giòng giống mi và giòng giống người ấy. Giòng giống ấy sẽ đạp nát đầu mi”. Cuối cùng, sau những đêm dài mong đợi, lời hứa được thực hiện với lời xin vâng của Mẹ Maria. Nói lời xin vâng ấy, Mẹ đã kết chặt đời mình với cuộc đời Đức Giêsu Kitô. Sự liên kết giữa mẹ và con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai hạ sinh con một Chúa cho đến chân thập giá trên đồi Canvê. Mẹ đã trải qua những giây phút háo hức đem Chúa đến cho bà Elisabeth và Gioan Tẩy giả, đã trãi qua những vất vả của cuộc sống nơi xứ lạ quê người, những giây phút hoang mang trước lời loan báo của cụ già Simôn, những giây phút lo sợ khi con mình bị người ta chống đối, đe dọa, đòi ném đá, những giây phút đau thương khi con mình bị tra tấn, tù tội và giây phút cắt lòng khi nhìn con tắt hơi trên thập giá. Quả thật, Mẹ đã gắn chặt số phận của Mẹ với số phận Giêsu Con Mẹ. Suy nghĩ theo hướng đó, các Thánh giáo phụ đã đặt những lời sau đây trên môi miệng Đức Giêsu khi đưa Mẹ về trời “Con ở đâu thì Mẹ cũng phải ở đó, Mẹ không bao giờ lìa xa con”. Thánh Gioan Đamascô nhấn mạnh tới mối tương quan giữa sự tham dự vào cuộc khổ nạn và sự tham dự vào số phận vinh quang. Cần phải để cho Đấng đã thấy con mình ở trên thập giá và đã nhận lãnh lưỡi gươm đau khổ vào lòng… được chiêm ngưỡng người con đó ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Dưới ánh sáng của Mầu Nhiệm Phục Sinh, thật xứng hợp để cho người Mẹ được tôn vinh sau khi chết cùng với con mình. Công đồng Vat.II, khi nhắc đến mầu nhiệm Đức Maria lên trời đã lôi kéo sự chú ý đến đặc ân “vô nhiễm nguyên tội”, chính vì được gìn giữ cho khỏi tội nguyên tổ, Đức Maria không thể ở lỳ trong tình trạng chết chóc giống như bao người khác cho đến ngày tận thế. Việc Đức Maria hồn xác lên trời được Thiên Chúa tiền định trong vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, sự cộng tác vào công trình cứu chuộc loài người. Tất cả như những luận chứng chắc chắn đưa đến việc định tín của Đức Giáo Hoàng Piô 12 vào ngày 1/11/1950: “Đức Trinh Nữ Maria, sau khi mãn cuộc đời dương thế, được đưa về trời cả hồn lẫn xác”.

Việc Đức Maria hồn xác lên trời nói gì với chúng ta ngày hôm nay?

Sự kiện Đức Maria được đưa lên trời cả hồn lẫn xác là một lời tiên báo, là hình ảnh tiên trưng cho cuộc sống lại của chúng ta. Sự kiện ấy có được là nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côrintô đã viết: “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Mỗi người theo thứ tự của mình, mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (1Cr 15, 20-26). Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi các tín hữu: “Đức Maria được đưa về trời, các Thiên Thần hãy vui lên! Hội Thánh hãy vui lên!”. Đối với chúng ta, ngày đại lễ hôm nay giống như ngày lễ Phục sinh kéo dài. Đồng thời, cũng là dấu chỉ và là nguồn hy vọng về cuộc sống muôn đời và ngày sống lại trong ngày sau hết.

Mừng lễ Mẹ hồn xác lên trời, chúng ta tin tưởng cầu xin Mẹ vì Mẹ là trạng sư bàu chữa chúng ta. Trong cuộc lữ hành trần gian, xin Mẹ luôn là người đồng hành. Xin Mẹ nhắc cho chúng ta đừng ngủ quên trên những giá trị trần thế mà quên đi  quê hương đích thật là sống hạnh phúc bên Chúa và Mẹ. Đức Trinh Nữ Maria không chỉ là mẫu gương cho chúng ta mà Mẹ còn là Mẹ Hằng cứu giúp. Chúng ta hãy tin tưởng chạy đến cầu khẩn cùng Mẹ, tỏ cho Mẹ nghe những nhọc mệt, những thử thách và gai chông trong cuộc sống để được Mẹ nâng đỡ chở che, hầu mai sau chúng ta cũng được vui hưởng phúc thiên đàng bên Mẹ.

Lm Phêrô Nguyễn Hữu Hạnh dcct

Maria Mẹ đầy ơn phúc

Maria Mẹ đầy ơn phúc

Suy niệm Lễ Vọng Đức Maria Hồn Xác về Trời

(Lc 11, 27-28)

Tác giả: Lm Nguyễn Văn Độ

Kính mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc 1, 28 ). Đó là lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ. Hôm nay từ miệng của một người nữ thích giả đang nghe Chúa Giêsu  giảng cũng cất cao giọng nói : “Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú” ( Lc 11, 27 ).

Vâng Đức Maria là đấng đầy ơn phúc, Mẹ là người diễm phúc. Bài Tin Mừng theo thánh Luca Thánh lễ vọng chiều nay được Giáo hội dùng, dìu chúng ta về với tước hiệu Đức Maria đầy ơn phúc. Người việt ta vẫn thường nói : “Phúc đức tại mẫu“, nghĩa là theo quang niêm truyền thống, con cái được thừa hưởng điều tốt lành, may mắn từ người mẹ, do cách ăn ở cư xử, sự gương mẫu, cách giáo dục của người mẹ mà ra. Người mẹ chính là thầy dạy đầu tiên của việc hình thành nhân bản nơi đứa con. Chẳng thế, George Herbert đã viết một câu rằng: “Một bà mẹ tốt thì giá trị hơn cả trăm ông thầy!

Người Do thái cũng vậy, khi Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ vì ngưỡng mộ con người cũng như cách giảng dạy của Chúa Giêsu, bà cho rằng, Thầy tài giỏi như thế này, hẳn là Mẹ Thầy phải là người có phúc lắm, nên bà đã không ngần ngại vượt qua rào cản của chính mình là phục nữ, bà đã cất tiếng nói với Đức Giêsu về Mẹ của Ngài : “Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú” (Lc 11, 27).

“Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy” ( Lc 11, 27 )

Đức Maria là người diễm phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. “Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! ” (Ps 65,5). Câu này ám chỉ, dân có phúc là dân được Thiên Chúa trị vì, nhất là được Thiên Chúa thiết lập ngai báu vương quốc của Ngài ngay giữa họ; người có phúc là người được Thiên Chúa đến ở cùng, và dĩ nhiên chúng ta nghĩ ngay đến Đức Maria, người diễm phúc như lời Thiên Thần Grabirel chào và nói : “Thiên Chúa ở cùng bà ” (Lc 1, 28 ), lời bà Êlisabeth xác nhận cái phúc của Mẹ : “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc” (Lc 1, 42 ). Phúc của Mẹ trổi vượt trên mọi thần thánh trên trời, Mẹ có phúc vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là Hồng Phúc đã chọn Mẹ, cư ngụ trong dạ Mẹ chín tháng mười ngày, đến khi chào đời, Mẹ đã ôm ấp bú mớm nâng niu… những điều đó đã làm cho vai trò làm mẹ của Đức Maria trở thành mật thiết, gắn liền với cuộc sống của Chúa Giêsu hơn ; không những thế, Chúa Giêsu  còn ở với Mẹ trong suốt nhiều năm và đã vâng phục Mẹ. Giờ đây, Mẹ thật diễm phúc và Mẹ luôn hạnh phúc, Chúa Giêsu Con Mẹ đã phủ đầy vinh quang của Ngôi Lời nhập thể trên Mẹ bên trong cũng như bên ngoài, hạnh phúc của Mẹ vượt quá sự hiểu biết của chúng ta.

Phúc cho vú đã cho Thầy bú( Lc 11, 27 )

Mẹ là người trinh nữ duy nhất đã được vinh dự cưu mang và sinh hạ và dưỡng nuôi Con Một Thiên Chúa Chúa cho trần thế. Người đàn bà khi nghe Chúa Giêsu giảng đã không ngần ngại nói đến những nét đặc trưng và kín đáo của một người mẹ, những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống của con. Ngoài lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy, mà còn “vú đã cho Thầy bú mớm” ba năm. Như thế, thân xác và tâm hồn mẹ là cái nôi ru cho con lớn lên. Mẹ vừa cưu mang, vừa lo sinh, lo dưỡng.

Nếu “yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời” như kiểu nói của văn hào shakespears, thì Đức Maria là người diễm phúc, vì Mẹ được Chúa yêu thương, chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu của mình cho Thiên Chúa. Ngay trong mầu nhiệm lên Trời, Mẹ Maria đã được diễm phúc hưởng nếm ơn phục sinh “hồn xác lên trời” trước bất cứ ai, vì Mẹ chẳng vướng mắc tội truyền. Mẹ hạnh phúc tự nhiên vì cưu mang Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng chính Mẹ biết rõ hơn ai: Mẹ hạnh phúc siêu nhiên vì được Tình Yêu Thiên Chúa cưu mang từ thủa đời đời. Mẹ hạnh phúc là như thế đó, và trong hạnh phúc của Mẹ chúng ta tìm thấy hạnh phúc của mỗi người chúng ta.

Mẹ sẵn sàng cưu mang hạnh phúc của mỗi chúng ta

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã cưu mang và cho bú mớm là Đấng Cứu Độ thế gian, mặc lấy xác phàm nhân loại và thánh hiến với tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Trái đất là bệ dưới chân của Đấng là Hồng Phúc. Nên trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Như Mẹ hiền, khi bồng ẵm Chúa Giêsu Con Mẹ, với vòng tay rộng mở của tình mẫu tử, Mẹ ôm cả nhân loại trong tình yêu của Người Con ấy, “vì nhân loại là chi thể của Thân mình Ngài” (Ep 5,30), và Mẹ không xấu hổ vì được gọi là Mẹ của tất cả những ai được sinh ra trong Chúa Kitô nhờ ơn cứu chuộc của Người. Mẹ được gọi là Evà mới “Mẹ của tất cả chúng sinh” (St 3,20), nhưng trong thực thế, Mẹ là Mẹ của những kẻ chết… Vì Evà cũ đã không thực hành ý định của Chúa cách trung thành, Mẹ là người đã hoàn thành mỹ mãn mầu nhiệm ấy. Cũng như Giáo hội là mẹ của tất cả những ai tái sinh trong đời sống Giáo hội. Giáo hội là mẹ của những người sống làm cho mọi người được sống (Ga 11,25; 5,25s). Khi trao ban sự sống cho trần gian dưới nhiều hình thức, Giáo hội đã trao bao sự sống cho tất cả những ai tìm thấy sự sống của mình trong Đấng Hằng Sống.

Chính vì thế, người mẹ diễm phúc của Chúa Kitô là mẹ chúng ta nhờ mầu nhiệm thân thể này, Mẹ cũng tỏ cho chúng ta biết Mẹ rất ân cần và trìu mến… Và giờ đây chúng ta  “ở trong sự che chở ” của Mẹ “Đấng Tối Cao“, chúng ta “ngụ cung cấm của Ðấng Tối Cao, và trọ dưới bóng của Ðấng Toàn năng; Tôi đã đặt Chúa luôn luôn trước mắt, vì có Người bên hữu, tôi sẽ không lay! ” (Ps 90,1; 16,8). Hơn nữa, vì Vua vinh quang đã ngự nơi Mẹ, với tình mẫu tử hải hà, Mẹ sẽ chia sẻ vinh quang ấy cho chúng ta.

Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy : “Người bảo gì các con cứ làm theo” (Ga 2, 5 ). Chúa Giêsu bảo: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn” ( Lc 11, 28 ). Xin Mẹ giúp chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để trở nên những người con diễm phúc của Mẹ.  Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sức mạnh Chúa Thánh Thần

Sức mạnh Chúa Thánh Thần

Chuacuuthe.com


140602005

VRNs (03.05.2014) – Sài Gòn – Mỗi người Công giáo nên đọc Kinh Thánh và luôn nói về Kinh Thánh. Mỗi ngày hãy đọc vài câu. Kinh Thánh sẽ nói với bạn. Đừng chỉ đọc những câu bạn thích vì thấy “hợp” với bạn, mà hãy đọc tất cả, bất cứ câu nào, càng “khó nghe” càng tốt. Đôi khi chúng ta phải làm điều gì đó dù cảm thấy miễn cưỡng.

Theo chu kỳ Mùa Phục Sinh, vợ chồng tôi bắt đầu đọc sách Công Vụ Tông Đồ hàng ngày. Chúng tôi đọc Kinh Thánh nhiều lần trong cuộc sống, nhưng chưa bao giờ thấy vui với các câu chuyện của Giáo hội sơ khai. Các câu chuyện đầy tính nhân bản, lộn xộn, và thực tế. Các tín hữu thời đó đối mặt với quá nhiều thử thách đối với đức tin của họ và cách sống mới của họ. Các thành phố như bị đảo lộn bởi những người ít học nhưng đầy Thánh Thần. Hãy nhớ rằng họ có là những người như thế trước đó vài tuần? Không. Họ chạy trốn, ẩn náu, nhút nhát, sợ hãi,…

Chúng ta hiểu tại sao Phó tế Stêphanô hiên ngang bảo vệ Đức Kitô trước mặt các vị lãnh đạo Do Thái, không sợ sệt, mạnh dạn nói, và chịu chết.

Chúng ta đọc câu chuyện về Phaolô và Sila trong tù, vừa hát vừa cầu nguyện giữa đêm khuya sau khi họ bị đánh đập. Họ “điên” thật! Có bao giờ bạn thấy một người bị bệnh nặng mà vẫn ca tụng Thiên Chúa? Họ dại dột hay điên khùng? Chắc hẳn chỉ có thể là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Đó cũng là Chúa Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, vậy tại sao chúng ta sợ hãi như các Tông Đồ xưa? Phải chăng cuộc đời chúng ta trôi nổi vì chúng ta không nhận ra Chúa Thánh Thần?

Tại sao Chúa Thánh Thần được so sánh với lửa?

Nước biểu hiện sự sinh sản và hoa trái của cuộc sống được trao ban trong Chúa Thánh Thần, lửa biểu hiện năng lực biến đổi nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Khi cầu nguyện, Tiên tri Êlia “xuất hiện như ngọn lửa” và “lời lẽ cháy như ngọn đuốc”, đem lửa từ trời xuống hy lễ trên Núi Camêlô. Sự kiện này là “hình ảnh” của Lửa Thánh Thần, Đấng biến hóa những gì ông chạm vào. Ông Gioan Tẩy Giả “đi trước Chúa trong thần khí và sức mạnh của ông Êlia” và tuyên bố Đức Kitô là Đấng “làm phép rửa bằng Lửa và Thánh Thần”. Còn Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Thần: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Trong hình “lưỡi lửa”, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ vào sáng ngày Lễ Ngũ Tuần và lòng họ đầy Chúa Thánh Thần. Truyền thống Kitô giáo dùng biểu tượng lửa là một trong các hình ảnh diễn tả sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta thấy Giáo hội nhiệt thành trong sách Công Vụ Tông Đồ là một ĐGH Phanxicô đã nói về Đại hội Giới trẻ tại Rio: “Cha mong muốn kết quả của Ngày Giới Trẻ là gì? Một sự hỗn độn. Sẽ có điều đó. Sẽ có sự hỗn độn ở đây, tại Rio này ư? Sẽ có! Nhưng cha muốn có sự hỗn độn tại các giáo phận! Cha muốn mọi người phải ra đi! Cha muốn Giáo hội ra các đường phố! Cha muốn tất cả chúng ta chống lại những gì trần tục, máy móc, thoải mái, giáo sĩ trị, khép kín, ung dung tự tại. Các giáo xứ, các trường học, các tổ chức,… hãy ra đi!”.

Lễ Ngũ Tuần là ngày khai sinh Giáo hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta chính Ngọn Lửa đã xuống trên các Tông Đồ xưa và đã biến đổi cuộc đời họ.

Nguyện xin Mưa Thánh Linh tuôn đổ trên chúng ta và ban cho chúng ta sự can đảm để dám ra đi và hăng say loan báo Tin Mừng cho mọi người, đồng thời biến đổi chính cuộc đời của chúng ta và mọi người xung quanh chúng ta.

RACHEL ZAMARRON

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

XIN VÂNG

XIN VÂNG

http://www.vietcatholicsydney.net/images/picture/17_899_Me-Vo-Nhiem-Nguyen-Toi.jpg

Một linh mục nổi tiếng thánh thiện và nhiệt thành, có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:

Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc, đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.

Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích:

Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kế đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.

Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quãng đường về, và tôi đoán ra đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.

***

Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh Nữ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc 1,28). Vâng, Mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.

Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa” (Lc 1,30). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ” (Lc 1,35). Như vậy việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.

Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bảo đảm tuyệt diệu: “Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,38).

Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác liền thưa: “Xin vâng” (Lc 1,38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.

Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm toả của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát. Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế. Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.

Lời thưa “xin vâng” của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay cho tất cả, nhưng là tiếng “Xin vâng” liên lỉ trọn cả kiếp người. Từ tiếng “Xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “Xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.

***

Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm màu của Chúa. Nhất là, xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen!

Thiên Phúc

Chứng cớ phục sinh

Chứng cớ phục sinh

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

VRNs (19.04.2014) – Sài Gòn – Ngôi mộ thực sự trống trơn. Chúa Giêsu phục sinh hay thi thể Ngài bị đánh cắp? Chắc chắn có điều bất thường đã xảy ra, vì những người theo Chúa Giêsu không còn khóc thương Ngài, che giấu Ngài, và bắt đầu can đảm rao giảng: CHÚA GIÊSU ĐÃ PHỤC SINH.

14041901

Các nhân chứng đều nói rằng Chúa Giêsu bất ngờ hiện ra với họ trong thân xác như trước khi Ngài chết, trước tiên Ngài hiện ra với các phụ nữ. Trong thế kỷ đầu, các phụ nữ không có quyền gì, số phận lép vế lắm. Thế mà chính Chúa Giêsu lại ưu tiên hiện ra với họ trước, nghĩa là phụ nữ là những người đầu tiên thấy Chúa Giêsu phục sinh. Thật là độc đáo vô cùng. Phụ nữ cũng là những người đầu tiên phát hiện ngôi mộ trống, được nói chuyện với Ngài và đi làm chứng về Ngài.

Sau đó, các tông đồ mới được thấy Chúa Giêsu, và thấy hơn 10 lần. Ngài cho họ xem tay chân và cạnh sườn và bảo sờ thử xem sao. Ngài còn ăn uống với họ, và có lần Ngài hiện ra với hơn 500 người đi theo Ngài.

Học giả John Warwick Montgomery cho biết: “Năm 56 sau công nguyên, tông đồ Phaolô cho biết rằng có hơn 500 người đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh và nhiều người trong số đó vẫn còn sống (1 Cr 15:6-8). Điều đó không có nghĩa là các Kitô hữu thời sơ khai có thể dựng chuyện như vậy rồi rao truyền cho những người nhẹ dạ cả tin bằng cách làm ra thân thể Chúa Giêsu” (1).

Các học giả Kinh Thánh Geisler và Turek nói: “Nếu sự phục sinh không xảy ra, tại sao tông đồ Phaolô lại dám đưa ra con số nhiều các chứng nhân như vậy? Nếu không đúng, tông đồ Phaolô sẽ mất uy tín với các tín hữu Côrintô vì ông nói dối trắng trợn” (2).

Tông đồ Phêrô nói với đám đông ở Xê-da-rê về lý do ông và các tông đồ khác đã tin Chúa Giêsu sống lại: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:39-41).

Học giả Kinh Thánh Michael Green (người Anh) nói: “Những lần Chúa Giêsu hiện ra chính xác như bất cứ thứ gì cổ xưa… Không thể nói rằng những điều đó đã không xảy ra” (3).

Sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là một sự kiện lịch sử đã thực sự xảy ra, không là huyền thoại như nhiều người vô thần đã nói. Các cuộc nghiên cứu khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện sự chính xác mang tính lịch sử của Kinh Thánh. Ngoài các sách Phúc Âm và sách Công Vụ, còn có những chứng cớ về sự hiện hữu của Chúa Giêsu phục sinh trong các tác phẩm của Flavius Josephus, Cornelius Tacitus, Lucian Samosata, và Tòa án Tối cao Do-thái (Jewish Sanhedrin).

Đây là 7 chứng cớ về sự phục sinh cho thấy Đức Giêsu Kitô đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết:

1. Ngôi mộ trống

Ngôi mộ trống có thể là bằng chứng hùng hồn nhất về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Có 2 lý do chính được những người không tin đưa ra: Ai đó đã lấy trộm xác Chúa Giêsu, hoặc các phụ nữ và các tông đồ đến không đúng mộ. Người Do-thái và người Rôma không có động cơ để cướp xác, còn các tông đồ quá nhát đảm và phải trốn quân lính Rôma. Các phụ nữ thấy mộ trống và không còn thấy xác Chúa Giêsu, họ biết chắc đó là mộ an táng Chúa Giêsu. Giả sử họ đến không đúng mộ, Tòa án Tối cao Do-thái có thể lấy xác ở đúng mộ để ngăn cản chuyện phục sinh. Vải liệm Chúa Giêsu được xếp gọn gàng trong mộ, kẻ trộm nào cũng vội vàng, không ai lại cẩn thận như vậy. Chính các thiên thần nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại.

2. Các nữ chứng nhân đạo đức

Các nữ chứng nhân là bằng chứng rằng Phúc Âm là tài liệu lịch sử chính xác. Nếu được bịa đặt, không tác giả cổ nào lại dùng phụ nữ làm nhân chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô. Phụ nữ là giai cấp công dân thứ yếu trong thời đó, chứng cớ của họ không được xem xét ở tòa án. Nhưng Kinh Thánh nói rằng Đức Kitô phục sinh hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na và mấy phụ nữ đạo đức khác. Ngay cả các tông đồ cũng không tin bà Ma-ri-a khi bà nói về ngôi mộ trống. Chúa Giêsu luôn tôn trọng các phụ nữ này, Ngài đề cao họ bằng cách cho họ trở thành nhân chứng đầu tiên về sự phục sinh của Ngài. Các Thánh sử đã kể lại hành động lúng túng này, vì đó là cách nó xảy ra.

3. Các tông đồ can đảm

Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, các tông đồ đã trốn biệt trong các phòng khóa chặt cửa, sợ sẽ đến lượt mình bị lôi đi xử tử. Nhưng có sự thay đổi khác thường: Họ đang là những người nhát đảm trở thành những người rao giảng can trường. Bất kỳ ai biết bản chất con người thì đều hiểu rằng con người không thể thay đổi mau chóng như vậy nếu không có sự tác động lớn. Sự ảnh hưởng đó là được thấy Thầy sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn phòng còn khóa kín cửa, trên bờ biển Ga-li-lê, và trên núi Ô-liu. Sau khi thấy Thầy phục sinh, tông đồ Phêrô và các tông đồ khác đã ra khỏi phòng và đi rao giảng về Đức Kitô phục sinh, bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy ra với mình. Họ không còn trốn tránh vì họ đã biết sự thật. Cuối cùng, họ hiểu rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và cứu mọi người thoát khỏi tội lỗi.

4. Biến đổi Giacôbê và những người khác

Cuộc sống biến đổi là một bằng chứng khác về Chúa Giêsu phục sinh. Tông đồ Gia-cô-bê, anh em họ với Chúa Giêsu, đã từng nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có là Đấng Mê-si-a hay không. Nhưng sau đó, ông đã trở thành người lãnh đạo can đảm của giáo đoàn Giê-ru-sa-lem, thậm chí còn bị ném đá chết vì đức tin. Tại sao? Kinh Thánh nói rằng vì Đức Kitô phục sinh đã hiện ra với ông. Thật là cú sốc cho người anh em của ông còn sống, sau khi nghe tin này. Tông đồ Gia-cô-bê và các tông đồ khác cũng đều trở thành các nhà truyền giáo hăng say vì họ đã được thấy và chạm vào Đức Kitô phục sinh. Với các chứng nhân như vậy, Giáo hội sơ khai đã phát triển mau chóng, lan rộng từ Giê-ru-sa-lem tới Tây phương, tới Rôma và xa hơn nữa. Gần 2.000 năm qua, những người gặp được Đức Giêsu phục sinh đều thay đổi cách sống.

5. Đám đông

Đám đông hơn 500 người đã cùng nhau tận mắt thấy Chúa Giêsu phục sinh (1 Cr 15:6-8). Thánh Phaolô nói rằng đa số họ còn sống khi ông viết lá thư đó, khoảng năm 55 sau công nguyên. Chắc chắn họ nói với người khác về “sự lạ” này. Ngày nay, các tâm lý gia nói rằng không thể có số đông người như vậy mà chỉ là ảo giác cộng đồng. Các nhóm nhỏ cũng thấy Chúa Giêsu phục sinh, chẳng hạn như các tông đồ, ông Clê-ô-pa và người bạn đồng hành. Họ cùng thấy một sự việc, còn trường hợp các tông đồ, họ còn sờ vào Chúa Giêsu và xem rõ các vết thương của Chúa Giêsu, rồi tận mắt thấy Ngài ăn uống nữa. Không thể nào là ảo giác, vì sau khi Chúa Giêsu lên trời, họ mới không còn gặp lại Ngài.

6. Phaolô trở lại

Cuộc trở lại của Thánh Phaolô là bằng chứng mạnh mẽ về việc biến đổi cuộc đời mau chóng. Là Sao-lê cùa thành Tác-sô, ông là người bắt đạo dữ dội. Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với ông trên đường Đa-mát, ông trở thành nhà truyền giáo của Kitô giáo. Ông chịu 5 lần đánh bằng roi, 3 lần đánh đập, 3 lần đắm tàu, 1 lần bị nén đá, chịu nghèo nàn và bị chế nhạo. Cuối cùng, hoàng đế Nê-rô của Rôma đã chặt đầu Phaolô vì tội không chịu bỏ niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Điều gì khiến Phaolô chịu cực hình như vậy? Các Kitô hữu tin rằng cuộc trở lại của Phaolô là nhờ ông đã gặp được Đức Kitô phục sinh.

7. Người ta dám chết vì Chúa Giêsu

Vô số người đã dám thí mạng vì Chúa Giêsu, chắc chắn sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện có thật trong lịch sử. Truyền thống nói rằng có 10 tông đồ trong Nhóm Mười Hai đã tử đạo vì Đức Kitô phục sinh. Hàng trăm, hàng ngàn Kitô hữu thời sơ khai đã chịu chết tại đấu trường Rôma và tại các nhà lao tù vì họ vững tin vào Đức Kitô phục sinh. Ngày nay, người ta cũng vẫn bị bách hại vì tin vào Đức Kitô phục sinh. Rất nhiều vị tử đạo đã chết ở nhiều nơi suốt gần 2.000 năm qua, vì họ vững tin rằng Chúa Giêsu sẽ ban cho họ sự sống đời đời.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Y-Jesus.com và Christianity.about.com)

______________________________

(1) John W. Montgomery, Lịch sử và Kitô giáo (Downers Grove, ILL: InterVarsity Press, 1971), 78.

(2) Norman L. Geisler và Frank Turek, Tôi Không Đủ Tin Để Là Người Vô Thần (Wheaton, IL: Crossway, 2004), 243.

(3) Michael Green, Thập Giá Trống Trơn Của Chúa Giêsu (Downers Grove, IL: InterVarsity, 1984), 97, trích dẫn trong John Ankerberg và John Weldon, Biết Sự Thật Về Sự Phục Sinh (Eugene, OR: Harvest House), 22.

XIN MẸ CỨU GIÚP CON MỌI NƠI MỌI LÚC, NHẤT LÀ TRONG GIỜ CHẾT!

XIN MẸ CỨU GIÚP CON MỌI NƠI MỌI LÚC, NHẤT LÀ TRONG GIỜ CHẾT!

…. Câu chuyện xảy ra tại thành phố Hal nằm dọc theo kênh đào Charleroi. Hal chỉ cách Bruxelles – thủ đô vương quốc Bỉ – khoảng vài cây số. Tại đây có nhà thờ Công Giáo kiểu gô-tích tôn kính bức tượng ”Đức Mẹ Đen”. Bức tượng tạc từ thế kỷ XIII và nổi tiếng vì làm nhiều phép lạ.

Tại thành phố Hal cạnh con kênh Charleroi đã xảy ra tai nạn thảm thương. Một bà mẹ góa sống với đứa con trai duy nhất. Một ngày, cậu bé chơi với bạn cạnh con kênh. Không hiểu hai cậu bé rượt đuổi nhau thế nào mà cậu trai con bà góa trượt chân rớt xuống kênh. Cậu bạn hoảng hốt chỉ biết gào lên kêu cấp cứu. Bà mẹ càng hoảng hốt hơn và cũng chỉ biết hét lên những lời kêu cứu thảm thiết.

May mắn vào ngay lúc đó có một thanh niên đi về hướng này. Nghe tiếng kêu chàng đoán ngay sự việc. Chàng tức tốc nhảy xuống kênh và lặn sâu dưới dòng nước. Mấy phút sau chàng vớt được cậu bé và mang lên bờ, trước đôi mắt đẫm lệ của bà mẹ. Người ta xúm lại cấp cứu cậu bé. Cậu từ từ hồi tỉnh. Cậu thoát chết nhờ hành động mau mắn và dũng cảm của người thanh niên lạ mặt.

Trước công ơn to tát như thế làm sao cám ơn cho đủ người đã cứu mạng sống con mình??? Bà mẹ góa lại quá nghèo! Nghĩ lui nghĩ tới bà thấy không gì quý hơn là tặng chàng trai ảnh đeo có hình Đức Mẹ Đen của nhà thờ gô-tích thành phố Hal. Bà đưa tặng chàng và nói:
– Chắc chắn Đức Mẹ MARIA nghe lời tôi cầu cứu nên đưa đẩy cậu đến và cứu vớt kịp thời con trai tôi bị nạn.
Chàng thanh niên lúng túng trả lời:
– Tôi không biết là có đúng như thế không, bởi vì, thú thật với bà, tôi là người không tin!

Tuy nói thế nhưng trước cái nhìn khẩn thiết của bà mẹ chàng chấp nhận ảnh thánh Đức Mẹ MARIA. Chàng cũng hứa sẽ mang ảnh như lời bà xin để ghi nhớ cuộc gặp gỡ với cậu bé con bà ..

Gần mấy chục năm trôi qua .. chàng thanh niên dũng cảm năm xưa, nay là người đàn ông lớn tuổi. Ông bị bệnh nặng và được điều trị tại một nhà thương bên Thụy Sĩ. Nhà thương do các nữ tu điều khiển. Cùng vào thời kỳ đó, tại vùng này, có vị Linh Mục người Bỉ về đây nghỉ ngơi. Thỉnh thoảng Cha đến thăm viếng các bệnh nhân theo lời xin của các nữ tu. Một ngày, Cha đang trên đường gần nhà thương thì thấy một nữ tu chạy đến xin Cha tới giúp một bệnh nhân đang hấp hối. Chị nói:

– Xin Cha đến mau! Ông ta đang mê sảng!

Khi vị Linh Mục đến bên giường Cha hiểu rằng người bệnh nói tiếng Flamand. Ông muốn bịt tai và xua đuổi tất cả những gì có liên hệ đến tôn giáo. Bằng tiếng Flamand vị Linh Mục nói vào tai người bệnh:
– Xin ông an tâm, không ai dám làm trái ý ông! Chúng tôi chỉ cầu nguyện cho ông thôi!

Nói xong vị Linh Mục thoáng thấy nơi cổ bệnh nhân có lấp lánh ảnh đeo Đức Mẹ MARIA. Không giữ được bình tĩnh Cha ngạc nhiên nói:
– Ông mang một ảnh đẹp như vậy mà ông lại không muốn tôi nói với ông về Đức Chúa GIÊSU KITÔ và về Đức MARIA, Mẹ của Ngài và cũng là Mẹ của chúng ta sao???

Người hấp hối bỗng chốc như hồi tỉnh. Bằng từng câu rời rạc, ông kể lại câu chuyện vớt một cậu bé và lời hứa với bà mẹ cậu bé là sẽ mang ảnh Đức Mẹ MARIA suốt đời để ghi dấu cuộc gặp gỡ. Và ông đã giữ lời hứa. Vị Linh Mục thật cảm động. Ngài cúi xuống cầm tay người bệnh và nói:
– Chú bé mà ông cứu sống chính là tôi! Mẹ tôi vẫn kể lại câu chuyện ấy và nhắc tôi nhớ đến ông luôn. Chúng tôi suốt đời ghi ơn ông .. Và ông không thấy là chính Đức Mẹ MARIA đưa tôi đến đây gặp lại ông để giúp ông trong giây phút trọng đại cuối đời sao?

Người bệnh cũng cảm động không kém vị Linh Mục. Ông bỗng trở nên an bình hơn. Ông chấp nhận xưng tội và xin rước Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU làm của ăn đàng. Sau đó, ông nhắm mắt an nghỉ trong vòng tay trìu mến ghi ơn của vị Linh Mục.

… Kinh Cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.

Lạy Rất Thánh Đồng Trinh MARIA, Mẹ đã vui lòng nhận lấy tước hiệu là Mẹ Hằng Cứu Giúp, cho được giục lòng chúng con trông cậy vững vàng, thì con nài xin Mẹ dủ lòng thương, cứu giúp con trong mọi nơi mọi lúc, khi phải các cơn cám dỗ, khi sa phạm tội, và khi gặp các sự khốn khó trong đời con, và nhất là trong giờ chết. Lạy Mẹ hay thương, xin cho con siêng năng chạy đến cùng Mẹ luôn luôn. Con tin rằng, con siêng năng chạy đến cùng Mẹ, thì làm cho Mẹ càng sẵn lòng nghe lời con. Xin Mẹ ban cho con ơn trọng này, là siêng năng cầu xin Mẹ, và được lòng trông cậy Mẹ như con thảo, ngỏ cho Mẹ nghe lời con hằng cầu xin, mà hằng cứu giúp con, và ban cho con được ơn bền đỗ đến cùng. Lạy Mẹ yêu dấu hay thương giúp, xin Mẹ ban phúc lành cho con, và cầu bàu cho con khi này và trong giờ lâm tử. AMEN.

Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước Việt Nam con, cho gia đình con, cho kẻ thân nghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó. Sau hết cho các Linh Hồn đáng thương trong Lửa Luyện Ngục.

Thánh MARIA, lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin cầu bàu cho con. Lạy Thánh Anphongxô là quan thầy bào chữa con, xin giúp đỡ con trong những khi khó ngặt thiếu thốn biết chạy đến cùng Đức Bà MARIA.

Lạy Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Anphongxô, cầu cho chúng con.

(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Éditeur 1992, trang 57-58)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt