Nhân chứng

Nhân chứng

TRẦM THIÊN THU

VRNs (15.01.2014) – Sài Gòn – Nhân chứng hoặc chứng nhân là người kiên trì và trung tín làm chứng về một điều gì đó để bảo vệ Chân Lý và Công Lý, đặc biệt là làm chứng về Đức Kitô, Đấng-nhập-thể-và-nhập-thế. Chúa Giêsu ra lệnh: “KHÔNG ĐƯỢC LÀM CHỨNG GIAN” (Mt 19:18). Chính Ngài cũng đã nói rõ với chúng ta: “Việc Thiên Chúa muốn quý vị làm là tin vào Đấng mà Người đã sai đến” (Ga 6:29).

140115

Khi hành động cũng nên lưu ý: Cứ cố gắng làm theo khả năng Chúa ban (1 Cr 3:5), đừng quá chú trọng kết quả, vì kết quả là thuộc quyền của Chúa, như Thánh Phaolô nói: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3:6).

Thánh Phaolô xác định: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10).

Trong “Bài Ca Thứ Nhì” của Người Tôi Trung, ngôn sứ Isaia cho biết Thiên Chúa tiếp tục nói về Đức Kitô: “Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang” (Is 49:3). Mỗi chúng ta cũng phải luôn cố gắng trở thành người tôi trung của Thiên Chúa, như ngôn sứ Isaia nói thêm: “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi” (Is 49:5).

Thiên Chúa tiếp tục lên tiếng để nhấn mạnh và nhắc nhở: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49:6).

Ai cũng phải trở thành nhân chứng – nhân chứng của Tin Mừng, của Tình Yêu Thương, của Lòng Chúa Thương Xót, của Chân Lý, của Công Lý, của Ơn Cứu Độ, của Ngôi-Hai-Làm-Người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã trao nhiệm vụ cho mọi người: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi người mỗi cách, mức độ khác nhau, nhưng ai cũng phải thực hiện tích cực theo khả năng riêng, không thể đùn đẩy theo kiểu “không mợ thì chợ cũng đông”. Chúa Giêsu đã nói thêm cho rõ ràng: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết” (Mt 24:14).

Không có Chúa thì chúng ta chẳng làm nên trò trống gì ráo trọi (Ga 15:5). Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Vì thế mà phải luôn  tin tưởng và trông cậy nơi Chúa, như tác giả Thánh Vịnh nói: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu. Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:2 & 4).

Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Những gì chúng ta làm, gọi là làm cho Chúa nhưng thực ra cũng chẳng thêm gì cho Ngài, mà lại chỉ thêm ích lợi cho chính chúng ta. Dù Chúa không đòi hỏi, nhưng tác giả Thánh Vịnh vẫn thân thưa: “Này con xin đến! Trong sách có lời chép về con rằng: Con thích làm theo Thánh Ý, và ấp ủ Luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:8-9). Tự nguyện bao giờ cũng quý giá hơn miễn cưỡng. Chính Thiên Chúa cũng quý trọng động thái đó.

Không ai giấu được bất cứ điều gì đối với Chúa. Nếu chúng ta yêu sự thật thì sẽ dám chân thật với chính mình. Như thế, chúng ta không xấu hổ mà thân thưa với Chúa: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10). Không ngậm miệng làm thinh trước bất kỳ ai để bảo vệ chân lý và công lý, không luồn cúi kẻ khác, như vậy mới can đảm và xứng đáng, nếu không thì chỉ là yêu mình, là hèn nhát, là bợ đỡ là tâng bốc kẻ “to thế” hơn mình. Thế thì NHỤC NHÃ lắm!

Thánh Phaolô xác nhận bổn phận làm nhân chứng: “Tôi là Phaolô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Kitô Giêsu, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giêsu Kitô, là Chúa của họ và của chúng ta” (1 Cr 1:1-2).

Chứng nhân là một ơn gọi, nhưng Thiên Chúa không ép buộc ai, cho hoàn toàn tự do theo ý riêng. Muốn làm chứng thì không chỉ cần tự nguyện mà còn phải có lòng can đảm. Nghe chừng đơn giản và dễ dàng, nhưng lại phức tạp và khó khăn. Có lẽ vì vậy mà Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (1 Cr 1:3). Có Ân Sủng và Bình An thì chúng ta hoàn toàn an tâm!

Một hôm trước đó, có một số người đến chất vấn, ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1:26-27). Thánh Gioan cho biết rằng huyện này đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi chính ông làm phép rửa.

Ông Gioan rất thẳng thắn và khiêm nhường, sống giản dị tới mức như “bụi đời”, thế nhưng ông rất nghiêm túc. Bề ngoài của ông xem chừng quá đỗi “phong phanh”, tả tơi thấy thương, nhưng tâm hồn ông lại rất mạnh mẽ, cứng rắn, không sợ bất cứ một thế lực nào trên thế gian này. Nói như chơi mà làm thật, chứ không lẻo mép, bép xép, ba hoa, lắm chuyện. Thế mới “ngon” đấy! Mấy ai dám như ông? Bọn “giá áo túi cơm”, chuyên tâng bốc và hèn nhát thì chúng ta vẫn thấy hằng ngày. Hãy cố mà tránh “phong cách” của bọn giả hình có “máu” Pha-ri-sêu!

Và ngay hôm sau, khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30). Một lời chứng giản dị nhưng tuyệt vời lắm!

Tục ngữ Việt Nam nói: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Nghĩa là đừng “chảnh”, đừng “nổ”, đừng háo danh hoặc ảo tưởng. Chính ông Gioan đã không ngần ngại thú thật: “Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước” (Ga 1:31). Rồi ông còn làm chứng rạch ròi: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1:32-33).

Là người bản lĩnh, chứng nhân bất khuất, luôn sống thẳng thắn và dứt khoát, ông Gioan đã xác nhận: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:34).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con can đảm làm chứng nhân cho Ngài mọi nơi và mọi lúc, không sợ bất kỳ ai hoặc phe nhóm nào, dám thể hiện chính mình vì Chân Lý và Công Lý. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Suy tư Giáng Sinh

Suy tư Giáng Sinh

TRẦM THIÊN THU

chuacuuthe.com

VRNs (22.12.2013) – Sài Gòn – Lễ Giáng Sinh có nhiều điều khiến phải “động não”, xét mình, suy tư, chấn chỉnh, quyết tâm,… để chính tâm hồn trở thành “hang đá” cho Đấng Cứu Thế giáng sinh – chứ không phải hang đá vật chất.

Giáng Sinh cứ đến rồi đi như chiếc xe buýt chạy qua trên đường, tôi thấy kiểu nào và rút được bài học gì không? Đây chỉ là suy tư riêng, xin được chia sẻ…

1. ĐƠN SƠ

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về tính Đơn Sơ – đơn sơ trong lời nói, cử chỉ, thái độ, hành động, ánh mắt, nụ cười, tín thác, yêu mến,…

Chúa Giêsu sinh ra là một trẻ thơ. Trẻ thơ luôn đơn sơ, hoàn toàn tin tưởng vào cha mẹ, không so đo, không tính toán. Như vậy, sống đơn sơ cũng là sống khiêm nhường: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18:3).

Chính Đức Kitô cũng đã căn dặn và “mách nước” để sống giữa thế gian: “Hãy khôn như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10:16). Còn Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Tôi sợ rằng như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối bà Eva thế nào, thì nay trí lòng anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với Đức Kitô như vậy” (2 Cr 11:3).

2. MAU MẮN

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về sự mau mắn – mau mắn trong mọi việc, tâm linh hoặc đời thường.

Sự mau mắn liên quan sự dứt khoát. Không dứt khoát thì không thể mau mắn, và không mau mắn thì không thể dứt khoát. Thiên Chúa không thích thái độ lừng khừng, chần chừ, lần lữa. Chính Ngài đã thẳng thắn và dứt khoát: “Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:16).

Tôi phải bắt chước các mục đồng mau mắn đến với Chúa: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15).

3. KHÓ NGHÈO

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về đức Khó Nghèo – khó nghèo trong lối sống, sinh hoạt, tiêu xài, ý nghĩ,…

Mầu nhiệm Mai Khôi thứ Năm của Mùa Vui: “Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn”. Khó khăn ở đây là “sống đức khó nghèo” chứ không phải là “khó chịu”, “khó tính”, “khó ưa”,… Can đảm chấp nhận cảnh sống khó khăn là một nhân đức, vì chính Chúa Giêsu tự nguyện trở thành Đệ Nhất Hàn Vương – từ Belem tới Can-vê.

Theo Việt ngữ, “nghèo khó” cũng như “khó nghèo”. Vâng, hãy sống “khó nghèo” thực sự chứ đừng sống “KHÓ (mà) NGHÈO”, tức là chỉ nói suông, vẫn ung dung tự tại, “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.

Dụ ngôn Phú hộ và La-da-rô nghèo khổ (Lc 16:19-31) cho thấy cái Phúc của sự khó nghèo, và Chúa Giêsu cũng bảo người ta đãi tiệc thì mời những người nghèo (Lc 14:12-14). Cố gắng đừng nao núng như lời kể của Thánh Phaolô: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người giàu lòng quảng đại” (2 Cr 8:2). Một trong Tám Mối Phúc cũng nhắc đến đức khó nghèo: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3; Lc 6:20).

4. VÂNG PHỤC

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về đức Vâng Phục – vâng phục trong sự khiêm nhường và vui vẻ.

Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người” (Rm 11:30-32).

Vâng lời trọng hơn của lễ (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Thật vậy, Thiên Chúa luôn đề cao đức vâng lời. Về việc con cái vâng lời cha mẹ, Thánh Phaolô nói: “Vâng phục cha mẹ là làm đẹp lòng Chúa” (Cl 3:20). Thật vậy, dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Kitô vẫn giữ trọn đạo làm con đối với cha mẹ: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51).

5. BẢO VỆ SỰ SỐNG

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về việc Bảo vệ Sự sống – bảo vệ thai nhi, giúp đỡ bệnh nhân, người hoạn nạn,…

Tại nơi hang chiên lừa ở Belem, Chúa Giêsu đã giáng sinh trong hình hài một trẻ thơ. Trẻ thơ cũng là một con người với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Bảo vệ sự sống là trách nhiệm của mọi người.

Sự sống là Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã định nghĩa về Ngài: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6a). Rồi Ngài xác định: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6b).

6. CHIA SẺ

Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về Đức Ái – mến Chúa và yêu người, thậm chí là yêu loài vật, yêu thiên nhiên,… vì Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4:8).

Yêu thương liên quan việc chia sẻ. Chia sẻ tinh thần hoặc vật chất. Chia sẻ là “trả nợ”. Chia sẻ là yêu thương, tức là thực hành Luật Yêu của Thiên Chúa. Chia sẻ là yêu người, yêu người là mến Chúa; không yêu người là không mến Chúa: “Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22). Thánh Phaolô xác định: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8).

Dù là phàm nhân, cổ nhân cũng đã minh định rạch ròi: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” – Lưới trời lồng lộng, không ai thoát được!

7. TẠ ƠN

Tất cả là hồng ân, vì không có Chúa thì tôi chẳng làm được trò trống gì, chỉ là vô tích sự: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Tạ ơn là bổn phận và trách nhiệm của thụ tạo đối với Thiên Chúa, Đấng tác sinh muôn loài hữu hình và vô hình. Lễ Giáng Sinh là hồng ân cao cả, vì Con Chúa đến không chỉ để đồng cam cộng khổ với tôi trong thân phận kiếp người, mà Ngài còn cho tôi “được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết can đảm sống theo gương Con Một Ngài. Xin Chúa giúp con viết những gì con sống, và sống những gì con viết. Xin Chúa thương soi sáng, gợi ý và hướng dẫn con mỗi khi con viết lách về bất cứ điều gì hoặc ở dạng nào. Xin Chúa giúp con thành tâm chia sẻ chính Ngài với tha nhân, để làm vinh danh Ngài chứ không vì danh giá riêng con. Nếu có gì lệch lạc, xin Ngài dập tắt ngay từ khi manh nha. Xin Chúa cho bất kỳ ai gặp con thì cũng đều gặp được Chúa. Và con cũng chỉ xin Ngài như bổn mạng của con là Thánh Thomas Aquino: “Con chỉ muốn Chúa mà thôi”. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ của con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Giáng Sinh 2013

Đau khổ có giá trị cứu độ

Đau khổ có giá trị cứu độ

TRẦM THIÊN THU

Tại sao Thiên Chúa cho phép những điều đó xảy ra?

Đó là câu hỏi người ta vẫn đặt ra, hầu như là “vấn đề muôn thuở”. Đau khổ xảy ra mọi thời và mọi nơi: Giết người tập thể, giết người hàng loạt, đánh bom khủng bố, động đất, sóng thần,… Rồi những thảm họa cá nhân: Em bé chết đuối trong cơn giông bão, người trẻ chết trong vụ tai nạn, người già chết đơn độc, đám cưới bỗng trở thành đám ma,…

Hãy bắt đầu với sự thật là bất kỳ ai cũng không thể có câu trả lời rõ ràng về vấn đề đau khổ!

Trong Cựu ước, Thiên Chúa thẳng thắn “đặt vấn đề” với Thánh Gióp: “Ngươi ở đâu khi Ta đặt nền móng cho đất? Nếu ngươi thông hiểu thì cứ nói đi!” (G 38:4). Và cả chương 38 trong sách Gióp là một loạt câu hỏi, chúng ta không dễ trả lời.

Trong Tân ước, khi nói về người mù từ khi mới sinh (Ga 9:1-3) và những người bị chết khi tháp sụp đổ (Lc 13:2-5), Chúa Giêsu nói rằng các trường hợp bi đát đó là cách của Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của ai đó chứ không hẳn là tội lỗi của chính người đó.

Cũng vậy, có gợi ý để chúng ta nhận biết những vấn đề tương tự – tại sao Thiên Chúa để cho điều đó xảy ra? Có thể áp dụng cho cả điều tốt và điều xấu. Tại sao Thiên Chúa cho phép hôn nhân hạnh phúc? Được thăng cấp trong công việc? Thỏa mãn trong nghề nghiệp? Những điều vui này có thật như những điều bất hạnh, và vẫn có bàn tay của Thiên Chúa trong cả điều tốt lẫn điều xấu. Tại sao Ngài cho phép chúng xảy ra?

Về điều tốt, dĩ nhiên chúng ta dễ trả lời: Thiên Chúa cho phép chúng xảy ra vì Ngài muốn chúng ta hạnh phúc. Nhưng cách trả lời như vậy còn quá thiển cận. Thiên Chúa muốn con người chịu đau khổ để cảm nhận hạnh phúc. Vậy tại sao Ngài lại để họ chịu đau khổ?

Để hiểu rõ lý do Thiên Chúa cho phép mọi thứ xảy ra, cả tốt và xấu, chúng ta cần biết toàn bộ kế hoạch tiền định của Ngài. Nhưng đó là điều chúng ta không thể biết cho tới khi chúng ta đối diện Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Điều đó sẽ rõ ràng về mọi thứ phù hợp với nhau trong sự viên mãn của Ý Chúa. Hiện nay, chúng ta chỉ có thể phỏng đoán mà thôi.

Nhưng chúng ta có một số gợi ý để cố gắng xử lý. Trong tông thư Salvifici Doloris (11-2-1984, nói về “sự đau khổ mang tính cứu độ”), ĐGH Gioan Phaolô II đã noi gương Thánh Phaolô tìm kiếm “ý nghĩa sự đau khổ” theo Kitô giáo để thông phần đau khổ cứu độ của Đức Kitô. Đau khổ cho người ta cách trở nên người đồng công cứu độ với Đức Kitô, chia sẻ hoạt động cứu độ của Ngài, đền tội mình, và góp phần vào công cuộc cứu độ của Ngài mở ra cho mọi người.

Như vậy có sự khuyến khích đối với việc chịu đau khổ chăng? Không hề có. Cách giải thích này không không có ý nói về lý do Thiên Chúa cho phép đau khổ xảy ra, cũng không có ý nói chịu đau khổ là niềm vui. Về việc chịu đau khổ, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Giá trị của sự khám phá cuối cùng là niềm vui tiếp theo”.

Giá trị cứu độ của cuộc đời Chúa Giêsu không chỉ nằm trong sự đau khổ. Hiện tại trong cuộc đời Ngài là một tổng thể. Từ viễn cảnh đó, đau khổ tạo ý nghĩa để nghĩ về những điều hạnh phúc trong cuộc đời chúng ta để tham dự vào những khoảnh khắc vui mừng trong cuộc đời cứu độ của Đức Kitô: Ảnh hưởng gia đình tại căn nhà ở Nadaret, sự lao động trong xưởng thợ của Đức Thánh Giuse, cùng họp mặt với các tông đồ khi mọi sự êm xuôi. Mọi thứ đều có giá trị cứu độ cùng với Thập giá. Cũng như mọi thứ xảy ra trong cuộc đời chúng ta, cả đau khổ và hạnh phúc, đều có thể có giá trị cứu độ.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Lễ các Thiên thần Bản mệnh, 2-10-2013

Bài học từ Vua Salômôn

Bài học từ Vua Salômôn

Đăng bởi lúc 12:41 Sáng 2/10/13

VRNs (02.10.2013) – Sài Gòn – Cuộc đời Vua Salomon cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai và nhận ra các phước lành Thiên Chúa trao ban. Vua Salomon là người khôn ngoan đến nỗi trước và sau ông đều không có ai sánh bằng (1 V 3:12), ngài giúp chúng ta biết cách đánh giá các phước lành mà chúng ta nhận thấy hoặc không nhận thấy.

Mọi người sẽ phạm lỗi vì sự học là một phần thiết yếu của cuộc sống. Đây là các bài học về cuộc sống mà chúng ta khả dĩ học được từ Thánh vương Salomon.

CẦU NGUYỆN THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI. Lời cầu đã biến đổi cuộc đời Vua Solomon. Bạn đã bao giờ nghĩ về điều này?

Vua Salomon có trải nghiệm tâm linh kỳ lạ — đối thoại với Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Vua Salomon mọi thứ, và Vua Salomon xin điều giá trị nhất — Ngài đã xin Thiên Chúa biến đổi cuộc đời mình.

Nếu bạn gặp khó khăn trong cuộc sống, hãy dành thời gian cầu nguyện và suy niệm. Cầu nguyện có thể cho bạn biết câu trả lời hoặc sự soi sáng mà bạn cần.

TÔN KÍNH THIÊN CHÚA. Vua Đa-vít và Vua Salomon nhận được những hướng dẫn đặc biệt về việc xây dựng Đền Thờ Giêrusalem. Vua Salomon xây Đền Thờ theo đúng các chỉ thị của Thiên Chúa. Cả Thiên Chúa và dân Ngài đều được tôn trọng với nơi thờ phượng đẹp đẽ này.

Bạn không phải làm điều gì tỉ mỉ mà chỉ làm những gì phải làm theo khả năng của mình. Thiên Chúa muốn bạn trao tặng tất cả vì bạn đang tôn kính Ngài như Ngài xứng đáng.

SỰ KHÔN NGOAN TÔN VINH THIÊN CHÚA. 1 V 5:9 nói: “Thiên Chúa cho vua Salomon được dồi dào khôn ngoan, thông thạo, và một trái tim bao la như cát ngoài bãi biển”. 1 V 10:24 nói: “Thiên hạ ai nấy đều mong diện kiến vua Salomon để được nghe sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã ban cho vua”. Còn Gc 1:5 nói: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách”.

Sự quyết định đúng đắn làm vinh danh Thiên Chúa, và ngược lại, nếu bạn quyết định sai là làm ô danh Thiên Chúa. Nếu những người xung quanh bạn thấy bạn quyết định đúng và làm vinh danh Thiên Chúa, họ sẽ đến với bạn xin lời khuyên và nhờ tư vấn.

LIÊM CHÍNH KHI THÀNH CÔNG. Triều đại của Vua Salomon được đánh dấu bằng sự hòa bình chưa từng có, kể cả sự giàu sang và huy hoàng. Đúng là thời hoàng kim. Ngài là người khôn ngoan nhất.

Càng thịnh vượng hoặc thành công, chúng ta càng dễ lãng quên Thiên Chúa, dễ “ngủ quên trong chiến thắng”. Hãy sống khiêm nhường. Khi bạn xin Chua cho thành công, hãy chắc rằng bạn xin được ơn chịu đựng sự thịnh vượng.

BẠN XẤU LÀM HƯ BẢN TÍNH TỐT. Vua Salomon không “miễn nhiễm” với sự ảnh hưởng của người khác. Dù rất khôn ngoan và được Thiên Chúa xức dầu, ngài cũng vẫn là phàm nhân và bị ảnh hưởng người xấu.

Chúng ta cũng vậy, thế nên phải biết “chọn bạn mà chơi”, thấy không có lợi về tâm linh thì nên xa tránh, vì “tránh voi chẳng xấu mặt nào”.

TÔI TRUNG. Thiên Chúa phán với Vua Salomon: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp” (1 V 3:11-12).

Vua Salomon là vị vua khôn ngoan, thông thái, nhân hậu, người ta tin tưởng ngài và đến nhờ ngài hướng dẫn. Hãy học cách cầu xin của Vua Salomon.

GHEN GHÉT. Kn 6:23 nói: “Tôi cũng chẳng chung lối chung đường với thói ghen tương độc hại, bởi thói này chẳng phù hợp với Đức Khôn Ngoan”.

Cái Tôi rất lớn, ai cũng rất dễ ghen ghét người khác, con gà cũng còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà, nhưng bạn phải cố gắng sống khiêm nhường và giữ nền tảng đạo đức. Đừng để sự ghen tuông chiếm lĩnh tư tưởng vì đó là loại độc dược nguy hiểm lắm.

PHÙ VÂN. Vua Salomon thích dùng từ “phù vân”. Trong sách Giảng Viên, ngài đã dùng 38 lần. Theo tiếng Do Thái. “phù vân” nghĩa là “trống rỗng”, “vô ích”, hoặc “hão huyền”.

Do đó, cái gì mau đến thì cũng mau đi, và mọi thứ đều không bền vững. Đừng bao giờ ảo tưởng mà bám víu vào cuộc đời này vì cái gì là phù vân thì sẽ không tồn tại lâu và không có giá trị thật. Hãy trung thành và đừng cậy nhờ hoặc ỷ lại vào vật chất.

SỐNG SUNG MÃN. Gv 1:14 nói: “Sau khi nhìn thấy mọi công việc thực hiện dưới ánh mặt trời, tôi nhận ra : tất cả chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát”. Giống như kiểu “nhốt gió” vậy!

Hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời mình. Hãy đánh giá cao mọi thứ Thiên Chúa đã ban cho bạn và đừng bao giờ nhận như chuyện dĩ nhiên vậy.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ beliefnet.com)

Chấp nhận kế hoạch của Chúa

Chấp nhận kế hoạch của Chúa

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Bộ phim “Unstoppable” (Không Thể Ngăn Chặn) của đạo diễn Kirk Cameron tập trung vào kế hoạch của Thiên Chúa. Khi người ta gặp tình huống khó khăn hoặc không biết chính xác mình muốn gì, đa số đều đổ lỗi cho Chúa. Trong đa số trường hợp, người ta không nhận ra cách mà Thiên Chúa làm cho mọi người hằng ngày.

Bộ phim “Unstoppable” đào sâu đức tin và cách nó ảnh hưởng mọi người. Thiên Chúa đã hy sinh rất nhiều và chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận kế hoạch của Ngài – bằng mọi giá. Đây là vài bí quyết giúp bạn chấp nhậ kế hoạch của Thiên Chúa:

MẠNH MẼ

Nên nhớ rằng Thiên Chúa không bao giờ cho chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta khả dĩ xử lý. Chúng ta cố gắng thì chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn. Một lúc nào đó, chúng ta nhìn lại và chúng ta sẽ thấy Ngài đã đưa chúng ta đi xa theo kế hoạch của Ngài trong cuộc đời chúng ta. Trong những lúc khó khăn, chúng ta thấy có vẻ như thế giới này sắp tận cùng, nhưng hãy nhớ rằng vẫn còn chút ánh sáng ở cuối bất cứ đường hầm nào.

TÍCH CỰC

Sống tích cực và tìm kiếm điều tốt lành trong mọi thứ sẽ giúp bạn giữ được thái độ tốt và chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa. Chính thái độ tích cực sẽ tiến xa và làm cho thử thách giảm bớt mức độ khó khăn.

NHIỆM VỤ NHÂN BẢN

Thiên Chúa tìm kiếm mọi người, bạn cũng phải tìm kiếm những người khác ở xung quanh mình. Hãy biến điều đó thành nhiệm vụ nhân bản, nghĩa là đến với người khác và giúp đỡ những người thiếu thốn. Nếu chúng ta cùng nhau làm cho thế giới này tốt hơn, chúng ta sẽ làm cho Thiên Chúa vui mừng. Điều đó sẽ làm cho cuộc sống tròn đầy hơn.

ĐỪNG HOÀI NGHI

Đừng đặt ra những điều chúng ta muốn đề nghị với Thiên Chúa hằng ngày: Tại sao con lại thế này? Tại sao con phải làm việc này? Tại sao con không thể có điều đó?… Thay vì “chất vấn” Chúa, chúng ta hãy biết ơn Ngài về những gì bạn có trong cuộc sống và đừng coi mọi thứ là chuyện dĩ nhiên. Nếu bạn có thể chấp nhận những gì xảy ra, bạn sẽ làm cho kế hoạch hành động của Thiên Chúa xảy ra dễ dàng hơn.

CHẤP NHẬN

Hãy chấp nhận và để Thiên Chúa hướng dẫn bạn, đồng thời hãy biết rằng Ngài sẽ dẫn bạn đi đúng đường và không để bạn lạc hướng. Chấp nhận sẽ cho phép bạn loại bỏ lo lắng và sẽ giảm căng thẳng bằng cách hoàn toàn để cho Chúa kểm soát cuộc đời bạn.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ beliefnet.com)

Chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta

Chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ

Đăng bởi lúc 2:13 Sáng 8/09/13

chuacuuthe.com

VRNs (08.09.2013) – Sài Gòn – Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta cả đời đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai cấp và tôn giáo. Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực đại” và đầy lòng nhân ái. Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình”.

Cha mẹ của bà là người Albani. Bà sinh ngày 26-8-1910 tại Shkup (nay là Skopje), thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con. Lúc bà 7 tuổi, cha của bà bị giết, nên bà quan tâm chính trị. Tuổi thiếu niên, bà là thành viên của nhóm bạn trẻ trong giáo xứ, gọi là nhóm Tương tế Tôn giáo (Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan tâm việc truyền giáo. Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ai-len, một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào nhà tập. Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa (chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến năm 1950, nữ tu Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Dòng Thừa sai Bác ái, Missionaries of Charity). Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải Bharat Ratna (भारत रत्न, nghĩa là “Viên Ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người dân) năm 1980. Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu biết Quốc tế năm 1972.

Trong thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở Calcutta, nhưng đa số giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len. Nữ tu Têrêsa không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thi thoảng bà vẫn về thăm. Bà dạy ở các trường nữ khác trong 3 năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với người nghèo khổ”. Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân thiện, ít là phần các nữ tu Dòng Loreto.

Hình ảnh nữ tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm nhường. Bà luôn có một hoặc hai nữ tu choàng sari đi theo. Bà là con người kỳ lạ của thế kỷ XX. Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy nữ tu nào choàng sari như vậy. Nhưng đó là thói quen của nữ tu Têrêsa vùng Calcutta, bà “quên” mình là người Albani để hòa nhập và hoàn toàn nên giống các phụ nữ Ấn.

Chính phủ đã “ầm ĩ” chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các nữ tu truyền giáo.

Đầu thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi. Bà đang cứu vớt chúng để “dụ” đưa chúng vào đạo Công giáo? Cứ hai tuần một lần, Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ không phá thai và bảo vệ sự sống. Dự định của Mẹ Têrêsa là chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối, những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa”. Mẹ Têrêsa không mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của họ trong thời gian cuối đời. Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và sự chết là được giải thoát khỏi maya.

Mẹ Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do chính phủ cấp. Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị. Người phong cùi bị coi thường không chỉ ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không ai muốn bố thí cho họ. Ai cũng sợ bị lây nhiễm. Từ đó, người ta cũng có ánh mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.

Từ năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần cũng nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something Beautiful for God” (Điều tốt đẹp dành cho Chúa) của Malcome Muggeridge.

Bà không chỉ là nhà truyền giáo, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc người phong cùi. Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính các nữ tu Dòng Loreto cũng trở lại tìm bà.

Dân Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa. Các chị em ở trường nữ Loreto hồi thập niên 1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt động xã hội theo ý định của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong. Những năm sau, Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.

Số phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch. Những kẻ gièm pha đã kết tội Mẹ Têrêsa là phóng đại cảnh nghèo khổ của dân Calcutta. Mẹ Têrêsa luôn phải phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không suy giảm. Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi ngờ hoặc những người ghen ghét bà. Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.

Mẹ Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là bệnh-phong-của-Tây-phương. Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của chúng tôi tại Calcutta. Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao giờ, dù chỉ một”.

Năm 1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái, ĐGH Piô XII đã phê chuẩn dòng này. Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam, chính Gx Thanh Đa (giáo hạt Gia Định, Saigon) đã được vinh dự đón tiếp Mẹ.

Vì tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, sau hơn nửa thế kỷ phục vụ những người cùng đinh trong xã hội trong đức ái của Chúa Giêsu. Mẹ Têrêsa được ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

Lạy Chân phước Têrêsa, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người bị ngược đãi,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Kinh cầu Chân phước Mẹ Teresa Calcutta

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con truyền bá hương thơm của Ngài tới mọi nơi con đến. Xin đổ vào linh hồn con tràn ngập tinh thần và tình yêu của Ngài. Xin làm thấm nhuần và sở hữu con hoàn tòn để cả cuộc đời con là ánh sáng của Ngài. Xin chiếu sáng con và ở trong con để mỗi linh hồn con giao tiếp đều có thể cảm nhận sự hiện hữu của Ngài trong linh hồn con. Xin để các linh hồn nhìn lên và không còn thấy con nữa mà chỉ thấy Chúa Giêsu. Xin ở lại với con và con sẽ bắt đầu tỏa sáng như Ngài tỏa sáng, tỏa sáng để thành ánh sáng cho người khác. Amen.

+ Kinh cầu này dùng làm Tuần Cửu Nhật kính nhớ CP Mẹ teresa Calcutta từ 27-8 tới 5-9.

(http://catholicism.about.com/od/dailyprayers/qt/Daily-Prayer-Of-Mother-Teresa.htm)

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ

Tại sao tôi yêu mến Đức Tin Công giáo ?

Tại sao tôi yêu mến Đức Tin Công giáo ?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:26 Sáng 7/09/13

chuacuuthe.com

VRNs (07.09.2013) – Sài Gòn – Tôi là dân Công giáo “nòi” (Cradle Catholic) – Công giáo từ mới sinh, gọi là “đạo gốc”. Mẹ tôi muốn câu nói đầu tiên của tôi phải là “Giêsu”, vì bà thường đưa tôi đi lễ hằng ngày. Khi tôi lớn, tôi bắt đầu thắc mắc về đức tin và nguội lạnh vài năm sau khi tôi xa nhà. Tôi cảm thấy cuộc sống rất trống rỗng, cuối cùng tôi nhận thấy mình cần Giáo hội Công giáo, các nghi lễ và truyền thống. Tôi càng thực hành và tìm hiểu về Công giáo, tôi càng thêm yêu mến. Đây là vài lý do:

Thánh lễ – Thánh lễ không chỉ là việc cử hành phụng vụ tốt lành mà còn là phương tiện đạt được ân sủng bằng việc rước lễ. Hằng ngày, lúc nào trên thế giới cũng có Thánh lễ, hoàn tất yêu cầu của Đức Kitô: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Lc 22:19).

Tôi thích vì tôi có thể dự lễ bằng tiếng Tây Ban Nha, La-tinh hoặc bất kỳ ngôn ngữ nào, và tôi vẫn biết chính xác những gì đang diễn ra vì có nhịp điệu và nghi thức luôn giống nhau. Mỗi cộng đoàn còn có thể tạo nét riêng qua âm nhạc, cách trang trí nhà thờ và thói quen văn hóa của dân tộc mình. Tôi cảm thấy giống như ở xứ mình dù tham dự Thánh lễ ở bất cứ nơi nào.

Bí tích – Giáo hội Công giáo có bảy bí tích là dấu hiệu hữu hình về ân sủng, do chính Đức Kitô thiết lập. Bí tính Thánh tẩy, Thêm sức và Thánh Thể là các bí tích khai tâm và nền tảng của đức tin. Bí tích Hòa giải và Xức dầu bệnh nhân là các bí tích chữa lành. Bí tích Hôn phối và Truyền chức là các bí tích phục vụ.

Tôi thích các nghi lễ và truyền thống đã xác định các bí tích, tôi cũng có thể đi xưng tội và rước lễ theo ý ước muốn của tôi. Rất lạ là khi tôi rước lễ, tôi trở nên “nhà tạm” cho Chúa ngự, và tôi có thể đưa Ngài đi khắp nơi. Tôi phải khiêm nhường để thú tội mình nơi tòa cáo giải. Càng lãnh nhận bí tích thì tôi càng đón nhận nhiều ân sủng.

Truyền thống phong phú – Những ngọn nến lung linh, những nén hương trầm thơm ngát, những thánh tượng, những hạt trong xâu chuỗi, những cửa kính có hình ảnh Công giáo, những lễ phục màu sắc, bàn thờ và nước phép chỉ là một số dấu hiệu hữu hình của truyền thống và nghi lễ Công giáo. Người Công giáo hiểu rằng việc tham dự các nghi lễ là hiệp thông trong đức tin.

Tôi cũng yêu mến các lòng sùng kính lưu truyền từ đời nọ tới đời kia như Kinh Truyền Tin, 14 Chặng Đàng Thánh Giá, Chuỗi Mân Côi và Chầu Phép Lành Thánh Thể. Các thói quen tốt lành này thấm sâu vào đức tin của tôi và liên kết tôi với các Kitô hữu khác trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tôi cảm thấy mình phải dạy những điều đó cho con cái để chúng tiếp tục duy trì truyền thống Công giáo.

Các thánh – Các thánh là các anh hùng đức tin, các ngài cũng là những người bình thường nhưng thực hành nhân đức khác thường. Các thánh là những tu sĩ nam nữ, linh mục, giám mục, giáo hoàng, binh sĩ, vua quan, nữ hoàng, giáo dân, nông dân, mục đồng, nô lệ,… Có những thánh rất nghèo và sống rất khó khăn, có những thánh giàu có nhưng hảo tâm với người nghèo, mỗi vị thánh đều có hoàn cảnh sống khác nhau.

Bình đẳng – Nhà thờ Công giáo đầy người, họ quỳ bên nhau, không phân biệt giai cấp, nghề nghiệp, tuổi tác,… Người giàu sụ cũng quỳ ngang hàng người nghèo khổ nhất. Mọi người cùng nhau vui vẻ chúc bình an cho nhau. Người dân tộc này chúc bình an cho người dân tộc khác. Tất cả đều bình đẳng.

Nhà thờ – Kiến trúc của các nhà thờ Công giáo đa dạng. Giáo dục tôi đã đến nhiều nhà thờ ở Hoa Kỳ, đã đến nhà thờ ở California với lối kiến trúc Tây Ban Nha, nhà nguyện tân kỳ ở Georgia, đại giáo đường ở Texas, và nhà thờ ở Virginia với loại ghế đa dụng. Dù tới đâu, chúng tôi vẫn gặp những nhà thờ Công giáo cách nhau chỉ vài dặm.

Luân lý – Mặc dù nhiều người coi đức tin Công giáo là dạng đòi hỏi phải giữ nghiêm luật, tôi vẫn yêu thích luân lý của Giáo hội và tìm kiếm chân lý. Giáo hội Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng không nhượng bộ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, Chúa đã thiết lập bí tích Hòa giải để tha thứ tội lỗi và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống đời sống luân lý tốt hơn.

PEGGY BOWES

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ beliefnet.com)

(*) Peggy Bowes là cựu phi công, là tác giả cuốn “The Rosary Workout” và cuốn “Tending the Temple”. Bà sống tại Bắc Carolina với chồng và hai con.

Lời cầu nguyện mạnh mẽ

Lời cầu nguyện mạnh mẽ

Tác gi: Trầm Thiên Thu

Cầu nguyện là việc cần thiết đối với mọi người, không trừ ai. Cầu nguyện rất đơn giản, chỉ cần hướng tâm lên Chúa, không cần nói nhiều, vì Chúa không thích lải nhải lắm lời. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cách cầu nguyện, đây là 20 lời cầu nguyện mạnh mẽ mà Kinh Thánh đã cho chúng ta biết:

1. LỜI CẦU CỦA GIA-BẾT (JABEZ): “Nếu thật Ngài giáng phúc cho con, thì xin nới rộng bờ cõi của con và xin tay Ngài phù trợ con, làm cho sự dữ lìa xa và cho con thoát cơn khốn khổ” (1 Sbn 4:10).

2. LỜI CẦU CỦA ĐỨC MẸ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-49).

3. LỜI CẦU CỦA ĐỨC KITÔ: “Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con” (Ga 11:42).

4. LỜI CẦU CỦA NGƯỜI THU THUẾ: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18:13).

5. LỜI CẦU CỦA ĐA-VÍT: “Lạy Chúa, con nâng tâm hồn lên cùng Chúa. Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Ngài, xin Ngài đừng để con tủi nhục, đừng để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 25:1-2).

6. LỜI CẦU CỦA ANNA: “Tâm hồn con hoan hỷ vì Đức Chúa, nhờ Đức Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang.

Con mở miệng nhạo báng quân thù: Vâng, con vui sướng vì được Ngài cứu độ. Chẳng có Đấng thánh nào như Đức Chúa, chẳng một ai khác, ngoại trừ Ngài, chẳng có Núi Đá nào như Thiên Chúa chúng ta” (1 Sm 2:1-2).

7. LỜI CẦU CỦA SAMSON: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng của con, xin nhớ đến con và ban sức cho con lần này nữa thôi, ôi lạy Thiên Chúa, để chỉ đánh một trận là con trả thù được quân Phi-li-tinh đã móc mắt con” (Tl 16:28).

8. LỜI CẦU CỦA PHAOLÔ TÔNG ĐỒ: “Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng” (Ep 3:14-16).

9. LỜI CẦU CỦA NA-BU-CÔ-ĐÔ-NÔ-XO (NEBUCHADNEZZAR): “Khi mãn hạn, ta là Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta ngước mắt lên trời; cùng lúc, ta tỉnh trí lại và chúc tụng Đấng Tối Cao. Ta ca ngợi, tôn vinh Đấng Hằng Sống: Người nắm quyền thống trị muôn đời, vương quốc của Người tồn tại thiên thu” (Đn 4:31).

10. LỜI CẦU CỦA CÔ HẦU CỦA ÁP-RA-HAM: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ con, nếu Ngài thương cho chuyến đi con đang thực hiện được thành công, thì này con đứng gần suối nước: hễ thiếu nữ nào ra múc nước và con nói với cô ấy: Cô làm ơn cho tôi uống chút nước, mà cô ấy trả lời: Xin mời ông cứ uống, con sẽ múc cho cả lạc đà của ông nữa, thì đó là người vợ mà Đức Chúa đã xe duyên cho con trai chủ con” (St 24:42-44).

11. LỜI CẦU CỦA KHA-BA-CÚC: “Lạy Đức Chúa, con đã nghe truyền tụng về Ngài, công trình Ngài, lạy Đức Chúa, lòng con kính sợ! Qua mọi thời, xin cho tái diễn công trình ấy. Qua mọi thời, xin làm cho thiên hạ được tường! Trong cơn thịnh nộ, xin Ngài nhớ xót thương” (Kbc 3:2).

12. LỜI CẦU CỦA NGƯỜI PHONG CÙI: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mt 8:2).

13. LỜI CẦU CỦA NÊ-HÊ-MI-A: “Ôi lạy Đức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Thiên Chúa cao cả và đáng sợ! Ngài là Đấng giữ Giao Ước và tỏ lòng nhân nghĩa với những ai yêu mến Ngài và tuân giữ các mệnh lệnh của Ngài. Xin lắng tai nghe và ghé mắt nhìn mà nhậm lời cầu nguyện của con là tôi tớ Ngài giờ đây dâng lên trước Tôn Nhan, lời cầu nguyện mà ngày đêm con dâng lên Ngài cho các tôi tớ Ngài là con cái Ít-ra-en. Con thú nhận tội lỗi của con cái Ít-ra-en, vì chúng con đã phạm tội làm mất lòng Chúa. Con và tổ tiên con, chúng con đã phạm tội. Chúng con đã tệ bạc với Ngài, chúng con đã không tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ và quyết định mà Ngài đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Ngài” (Nhm 1:5-7).

14. LỜI CẦU CỦA GIÔ-NA: “Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu, Ngài đã nghe tiếng con. Con bị đuổi đi khuất mắt Chúa rồi! Nhưng con vẫn hướng nhìn về thánh điện của Chúa” (Gn 2:3 & 5).

15. LỜI CẦU CỦA TƯỚNG CƯỚP DIMAS: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42).

16. LỜI CẦU CỦA ASA: “Lạy Đức Chúa, khi Ngài muốn cứu giúp, thì đối với Ngài chẳng có chi khác biệt giữa người mạnh và người yếu. Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cứu giúp chúng con! Vì chúng con nương tựa vào Ngài và nhân danh Ngài mà chúng con giáp chiến với lũ đông này. Lạy Đức Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa của chúng con, xin đừng để cho phàm nhân nào chống lại được với Ngài” (2 Sbn 14:10).

17. LỜI CẦU CỦA GIÊ-RÊ-MI-A: “Lạy Đức Chúa, nếu tội ác chúng con đã phạm lại tố cáo chúng con, thì vì thánh danh, xin ra tay hành động. Đã bao lần chúng con làm phản, biết bao phen đắc tội với Ngài!” (Gr 14:7).

18. LỜI CẦU CỦA SALOMON: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế” (1 V 3:9).

19. LỜI CẦU CỦA CHÚA GIÊSU: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22:42).

20. LỜI CẦU CỦA STÊ-PHA-NÔ: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7:60).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ beliefnet.com)

CHIẾN ĐẤU VỚI NỖI THẤT VỌNG

CHIẾN ĐẤU VỚI NỖI THẤT VỌNG

TRẦM THIÊN THU

Trích EPHATA số 577

Mang thân phận phàm nhân yếu đuối, ai cũng đã từng hơn một lần nản chí, sờn lòng, chùn chân, thậm chí là thất vọng. Nhưng cố gắng đừng để sự thất vọng đè bẹp bạn. Mà dẫu có khi thất vọng nhưng đừng bao giờ tuyệt vọng ( x. 2Cr 4, 8 ). Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” ( Mt 11, 28 ).

Hãy hít sâu và dùng 10 lời cầu nguyện này để xua tan “tà khí” đang đè nặng tâm hồn…

1. Quẳng gánh lo đi

“Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” ( 1Pr 5, 7 ).

Lạy Chúa, con sẽ không lo lắng về ngày mai và luôn tin tưởng Chúa Quan Phòng luôn quan tâm nhu cầu của con hôm nay. Dù cho kẻ thù đến như bão táp, Chúa Thánh Thần sẽ đánh bại nó. Cảm tạ Chúa đã bảo vệ con và quan tâm các nhu cầu của con. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

2. Tập trung vào Chúa

“Khá lắm ! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” ( Mt 25, 23 ).

Lạy Chúa, xin giúp con nhận biết Chúa đã gọi con trở nên một tín hữu chứ không là người thành đạt. Xin giúp con chỉ tập trung vào việc làm đẹp lòng Chúa chứ không làm đẹp lòng người ta. Con muốn là tôi tớ trung tín của Chúa. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

3. Xin thêm Tin Cậy Mến

“Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” ( Pl 4, 8 ).

Lạy Chúa, xin chấn chỉnh suy nghĩ của con. Xin giúp con mạnh mẽ và can đảm suốt đời. Xin đẩy mọi lo sợ và nghi ngờ xa con. Xin đổ đầy Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến vào hồn con. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

4. Xin khôn ngoan

“Người công chính dẫn lối cho bạn bè, nhưng đường ác nhân đi khiến chúng bị lạc” ( Cn 12, 26 ).

Lạy Chúa, xin cho con gặp được những người can đảm khuyến khích con và nhắc nhở con về sự tốt lành của Chúa. Con cảm tạ Ngài động viên con lúc này, xin ban cho con sự khôn ngoan và sáng suốt. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

5. Nghỉ ngơi trong Chúa

“Ai đã vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa, thì cũng đã nghỉ sau khi làm xong công việc của mình, như Thiên Chúa đã nghỉ sau khi làm xong công việc của Người” ( Dt 4, 10 ).

Lạy Chúa, dù con đang phải chiến đấu với sự thất vọng và các trở ngại, con tin rằng Ngài vẫn ở trong con. Xin hướng dẫn con tới nơi nghỉ ngơi của Chúa và đừng để con bị ảo tưởng bao giờ. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

6. Kiên tâm bền chí

“Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” ( Rm 8, 28 ).

Lạy Chúa, con cảm tạ Ngài nâng đỡ con trong mọi trường hợp. Ngay khi con không thấy đó là đúng, con vẫn biết Ngài luôn hoạch định mọi sự giúp con. Xin giúp con trong lúc khó khăn vẫn biết làm sáng danh Ngài. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

7. Tất cả vì Chúa

“Hỡi người biếng nhác, hãy đến xem loài kiến sống thế nào và nhờ đó mà trở nên khôn. Nó chẳng có thủ trưởng, chẳng có giám sát, chẳng có lãnh đạo. Nhưng mùa khô đến, chúng biết tích trữ thức ăn, tới mùa gặt, chúng thu gom lương thực” ( Cn 6, 6 – 8 ).

Lạy Chúa, xin giúp con tổ chức cuộc sống của con theo đúng những gì mà Ngài chuẩn bị cho con trong những hoàn cảnh mà con không biết trước. Xin ban ơn để con xử lý mọi khó khăn theo lòng thương xót của Ngài. Xin tôn vình Ngài nơi con. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

8. Cầu nguyện liên lỉ

“Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” ( 1Tx 5, 16 – 17 ).

Lạy Chúa, xin giúp con kiên tâm cầu nguyện liên lỉ và bổ dưỡng con bằng sự hiện hữu của Ngài. Con biết khi con tỉnh thức mong chờ Ngài thì Ngài sẽ tăng lực cho con. Con sẽ đủ sức chạy đua mà không mệt mỏi, và con sẽ luôn vững bước. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

9. Chúc tụng, tạ ơn Chúa

“Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” ( Tv 103, 2 ).

Lạy Chúa là Thiên Chúa thật và chính trực, con tạ ơn Ngài hằng ngày vẫn ban ơn trọ lực và nâng đỡ gánh nặng cuộc đời con. Mặc dù đôi khi có vẻ con ở bước đường cùng, nhưng con quyết không bỏ cuộc. Con sẽ đăm đắm hướng mắt về phía Ngài và tin tưởng Ngài đã chuẩn bị tương lai cho con theo Ý Ngài. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

10. Tín thác

“Người có thể giết tôi, tôi chẳng còn gì để hy vọng, nhưng trước nhan Người, cách sống của tôi, tôi phải biện hộ. Đó chính là điều sẽ cứu tôi, vì trước nhan Người, ác nhân sẽ không dám xuất đầu lộ diện” ( G 13, 15 – 16 ).

Lạy Chúa, Ngài có thể lấy hơi thở của con bất cứ lúc nào, con vẫn chỉ tín thác vào Ngài và tập trung mọi sự trước Tôn Nhan Ngài. Xin ban cho con sức mạnh nội tại để cậy nhờ Ngài mỗi ngày một hơn. Con không muốn cậy sức mình, mà con xin được tín thác vào Ngài. Con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Đấng hiển trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU, ngày cuối tháng 8 năm 2013

Thánh Monica và Thánh Augustinô

Thánh Monica và Thánh Augustinô

26/08/2013

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Thánh Monica (331-387) là bổn mạng của những cha mẹ chịu đựng đau khổ vì gánh nặng gia đình. Bà được mệnh danh là “Người Bạn của Thánh Giá”. Giáo hội kính nhớ bà vào ngày 27-8 hằng năm, 28-8 là lễ Thánh Augustinô.

Thánh Monica sinh năm 332 tại Tagaste, Bắc Phi (nay là Souk Ahras, thuộc Algeria). Bà sống các nhân đức Kitô giáo nổi bật, nhất là chịu đựng sự ngoại tình của người chồng, bà khóc hằng đêm vì “cậu ấm” Augustinô hoán cải, chuyên cần cầu nguyện cho con hoán cải, điều mà chính Thánh Augustinô đã viết trong cuốn Tự Thuật (Confession).

Dù bà là một Kitô hữu, cha mẹ vẫn bắt bà sớm kết hôn với người ngoại giáo tên là Patrixiô, dân thành phố Tagaste, một người chồng có tính nóng như lửa, nghiện rượu, luôn khó chịu vì vợ hay làm việc từ thiện và cầu nguyện.

Thánh Monica có 3 người con: Augustinô là con trai trưởng, Navigius là con trai thứ hai, và Perpetua là con gái út. Thánh Augustinô bướng bỉnh, lười biếng, và được gởi vào học tại trường Madaurus. Thánh Monica bị coi là một người vợ hay bị cằn nhằn, là con dâu đau khổ và là người mẹ thất vọng, nhưng bà không đầu hàng trước mọi nghịch cảnh. Thánh Monica phải chịu đựng bà mẹ chồng cực kỳ khó tính. Nhưng lời cầu nguyện và gương lành của Thánh Monica đã khiến chồng và mẹ chồng trở lại Công giáo. Patrixiô mất năm 371, sau khi được rửa tội 1 năm, lúc này Augustinô 17 tuổi. Thánh Monica ở vậy nuôi dạy các con. Thánh Augustinô tiếp tục theo học tại trường Carthage, và tại đây chàng Augustinô bắt đầu ăn chơi trác táng.

Tại Carthage, sinh viên Augustinô theo tà thuyết nhị nguyên Manichean (Manichaeism), thuyết của Mani (216–276), Thánh Monica đã đuổi Augustinô đi chỗ khác, không được ăn uống và không được ngủ trong nhà. Đêm đó, Thánh Monica đã có thị kiến lạ là “đứa con trời đánh” sẽ trở lại, thế nên bà giải hòa với con. Từ đó, bà luôn theo sát con mọi nơi mọi lúc, cầu guyện và ăn chay vì con.

Rồi bà đã gặp một giám mục thánh thiện, giám mục này khuyên bà và nói tiên tri: “Đứa con của nước mắt sẽ không hư mất”. Thánh Monica bí mật theo con đi khắp nơi để tìm cách cứu con ra khỏi vũng lầy tội lỗi. Tại Manila (Ý), Thánh monica đã gặp Thánh Ambrôsiô và được chứng kiến con trai Augustinô trở lại sau nhiều năm ròng rã.

Lúc 29 tuổi, Augustinô quyết định đi Rôma để dạy khoa hùng biện. Thánh Monica quyết định đi theo. Một đêm nọ, Augustinô nói với mẹ là sắp đi tạm biệt một người bạn. Nhưng không, Augustinô lại lên tàu đi Rôma. Thánh Monica rất đau khổ khi biết con lừa dối mình, nhưng bà vẫn đi theo. Bà vừa đến Rôma thì biết tin con trai “trời đánh” Augustinô đã đi Milan. Dù việc đi lại khó khăn, Thánh Monica vẫn theo con tới Milan và bất cứ nơi nào.

Tại Milan, Augustinô chịu ảnh hưởng một vị giám mục là Thánh Ambrôsiô, đồng thời là linh hướng của Thánh Monica. Bà nghe lời khuyên của Thánh Ambrôsiô và khiêm nhường từ bỏ mọi sự. Thánh Monica trở thành trưởng nhóm của các phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi bà ở Tagaste.

Bà tiếp tục cầu nguyện cho Augustinô. Lễ Phục sinh năm 387, Thánh Ambrôsiô đã rửa tội cho Augustinô và vài người bạn của Augustinô. Ngay sau đó, nhóm của Augustinô đi Phi châu. Biết mình không còn sống bao lâu nữa, Thánh Monica nói với Augustinô: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”. Sau đó bà lâm bệnh, và sau 9 ngày bệnh nặng thì bà qua đời. Hầu như những gì chúng ta biết về thánh Monica là nhờ các tác phẩm của thánh Augustinô, đặc biệt là cuốn Tự Thuật (Confessions).

Thánh gia nhập Công giáo lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, và làm giám mục lúc 41 tuổi. Ngài là một tội nhân trở thành thánh nhân. Đó là nhờ nước mắt của người mẹ là thánh Monica, sự hướng dẫn của Thánh giám mục Ambrôsiô, và nhất là chính Thiên Chúa đã nói với Thánh Augustinô qua Kinh thánh để soi dẫn Augustinô từ tình-yêu-cuộc-sống đến cuộc-sống-tình-yêu.

Trong những năm đầu đời, ngài đắm chìm trong kiêu ngạo và tội lỗi, nhưng ngài đã trở lại và sống thánh thiện, chống lại mọi thủ đoạn của ma quỷ thời ngài – suy đồi về chính trị, xã hội và luân lý. Chính kinh nghiệm đời ngài mà ngài đã để lại cho chúng ta những câu nói bất hủ.

Cũng như tiên tri Giêrêmia và các tiên tri khác, Thánh Augustinô không thể im lặng: “Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa’. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20:9).

Không lâu sau khi con trai Augustinô trở lại, Thánh Monica qua đời ở tuổi 55.

Lạy Thánh Monica và Thánh Augustinô, xin cầu thay nguyện giúp. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Làm sao nhận biết Ý Chúa?

Làm sao nhận biết Ý Chúa?

Đăng bởi lúc 1:07 Sáng 16/08/13

chuacuuthe.com

VRNs (16.08.2013) – Sài Gòn – Cuộc sống đầy những chuyện chúng ta phải quyết định. Chúa có buồn khi tôi bê trễ công việc? Chúng ta có những khái niệm về sự thật, nhưng làm sao chúng ta biết chắc rằng các ý tưởng đó xuất phát từ Thiên Chúa? Đôi khi rất khó phân biệt ý Chúa hay ý mình.

Nếu sự thôi thúc của chúng ta thực sự do kẻ thù của linh hồn chứ không từ Thiên Chúa thì sao? Làm sao chúng ta “bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cr 10:5) khi chúng ta không chắc các ý tưởng đó xuất phát từ đâu? Thiên Chúa nói với mỗi người bằng nhiều cách. Ngài biết chúng ta sẽ đáp lại thế nào và Ngài sẽ dùng bất kỳ cách nào cần thiết để đạt tới chúng ta.

Có 3 cách Thiên Chúa thường giao tiếp với chúng ta: Qua lời cầu nguyện, qua Kinh thánh, và qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cũng vậy, Thiên Chúa có thể dùng một người khuyên nhủ (Cn 12:15). Nếu Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, không gì có thể ngăn cản Ngài. Ngài có thể dùng một cách, mọi cách, hoặc kết hợp các cách để chúng ta nhận biết Ngài, nhưng có một điều tương tự: Trách nhiệm của chúng ta là LẮNG NGHE và VÂNG LỜI.

CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, là cuộc nói chuyện hai chiều, chúng ta nói thì Chúa nghe và chúng ta im lặng khi Chúa nói – tức là lắng nghe Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta “phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống” (Gc 1:6). Nếu không có lòng tin, chúng ta sẽ “không nhận được cái gì của Chúa” (Gc 1:7). Chúng ta phải kiên trì cầu nguyện (Mt 13:16-17).

Hãy nói chuyện với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện và chăm chú lắng nghe cách trả lời của Ngài. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng đôi khi Ngài không trả lời theo ý chúng ta muốn. Ngài biết những gì chúng ta cần vào bất kỳ thời điểm nào, và Ngài sẽ cho chúng ta biết vào lúc tốt nhất.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA

Đọc Kinh thánh là cách tốt nhất để nhận biết Chúa và cách xử lý của Ngài qua lịch sử cuộc đời. Kinh thánh được Chúa Thánh Thần linh hứng: “Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3:16-17). Càng quen biết với cách hoạt động của Thiên Chúa, ý muốn của Ngài, và những điều Ngài đã nói trong quá khứ, chúng ta càng có thể nhận biết điều Ngài đang nói với chúng ta trong hiện tại. Khi chúng ta nói với Ngài qua việc cầu nguyện, Ngài sẽ thường xuyên nói với chúng ta qua Lời Chúa (Kinh thánh). Khi đọc Lời Chúa thì chúng ta phải lắng nghe.

LẮNG NGHE CHÚA THÁNH THẦN

Thánh Thần là Thiên Chúa – Thần linh có trí tuệ, cảm xúc và ý muốn. Ngài luôn ở bên chúng ta, không thể trốn khỏi Ngài (Tv 139:7-8). Mục đích của Ngài là can thiệp giúp chúng ta (Rm 8:26-27) và quyết định để làm lợi cho Giáo hội (1 Cr 12:7-11). Nếu chúng ta cầu xin thì Ngài sẽ ban cho Đấng Bảo Trợ (Ga 14:16).

Khi chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa hướng dẫn, chúng ta cần duy trì khôn ngoan (Cn 4:7), và phải “cân nhắc các thần khí” (1 Ga 4:1). Thế gian đầy sự ồn ào và sự xao lãng, và trí óc chúng ta cũng vậy. Sự sống trên trái đất là cuộc chiến đấu tâm linh. Kẻ thù luôn tìm cách làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, vì thế mà phải cảnh giác: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chúng ta phải cảnh giác để biết rõ điều chúng ta nghe chứ không là cảm xúc, tức là điều thực sự từ Thiên Chúa.

Hãy nhớ rằng Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết con đường đúng đắn mà đi. Ngài không giấu ý Ngài đối với những ai tìm kiếm Ngài. Ngôn sứ Isaia nói: “Khi ngươi lưỡng lự không biết quẹo phải hay trái, tai ngươi sẽ được nghe một tiếng nói từ phía sau: “Đây là đường, cứ đi theo đó!” (Is 30:21).

Đây là vài điều cần thiết khi chúng ta muốn biết có phải Ý Chúa hay không: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1 Cr 14:33), và : “Hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16).

Ngoài việc cầu nguyện, tìm hiểu Lời Chúa và lắng nghe Chúa Thánh Thần, có thể bạn cần lời khuyên của một người bạn, của gia đình, của người cố vấn hoặc linh hướng: “Thiếu bàn bạc, chương trình đổ vỡ; nhiều cố vấn, ắt sẽ thành công” (Cn 15:22).

Thiên Chúa không muốn chúng ta thất bại. Chúng ta càng lắng nghe Chua, chúng ta càng có thể phân biệt tiếng Chúa với tiếng của thế gian. Chúa Giêsu đã nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh” (Ga 10:4). Ngài xác định: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ” (Ga 10:8). Chúng ta càng nhận biết Chúa Chiên Lành, chúng ta càng ít chú ý tiếng nói sai trái.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ GotQuestions.org)

ĐỨC MẸ TIÊN BÁO THỜI CUỐI CÙNG

ĐỨC MẸ TIÊN BÁO THỜI CUỐI CÙNG

LOURDES POLICARPIO

TRẦM THIÊN THU

Trích EPHATA 574

Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng số Kitô hữu chưa được 10% dân số. Ai có thể quên được Hiroshima và Nagasaki, nơi những trái bom nguyên tử đầu tiên nổ tung ? Tại một đất nước bị bom nguyên tử khủng bố, Đức Mẹ đã cảnh báo nghiêm trọng với nhân loại vào năm 1973. Điều đó có còn thích hợp với ngày nay chăng ?

Sự kiện kỳ lạ xảy ra tại Akita ( Nhật ) bắt đầu bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ được phát hiện tại Dòng Nữ Tỳ Thánh Thể ( Institute of the Handmaids of the Eucharist ). Máu rỉ ra từ tay phải của bức tượng và máu rỉ ra từ tay trái của Nữ Tu Agnes Sasagawa ( người Nhật ). Bức tượng toát mồ hôi nhiều và chảy nước mắt. Phòng thí nghiệm tại Đại Học Akita xét nghiệm nước chảy ra từ đôi mắt của tượng Đức Mẹ và chứng thực đó là nước mắt thật của người. Khoảng 500 người đã chứng kiến tượng Đức Mẹ khóc, người ta còn quay phim được những chỗ Đức Mẹ khóc, vài lần được chiếu trên tivi và phát thanh khắp nước Nhật ( Ảnh chụp tượng Đức Mẹ bằng gỗ ở Akita, Nhật Bản ).

Nhiều cuộc nói chuyện và chữa khỏi bệnh đã được công nhận là của Đức Mẹ Akita. Một phụ nữ Hàn Quốc là Teresa Chun đã hồi phục cách kỳ lạ khỏi chứng u não sau khi cầu nguyện với Đức Mẹ Akita. Việc này đã được lưu tài liệu tại Bệnh Viện St. Paul ở Seoul và được các Giám Mục Hàn Quốc gởi về Rôma.

SỰ TRỪNG PHẠT GHÊ GỚM HƠN TRẬN HỒNG THỦY

Quan trọng hơn những sự lạ siêu nhiên là những điều Đức Mẹ Akita nhắn nhủ qua Nữ Tu Agnes. Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn trận Hồng Thủy thời ông Noe mà không hề báo trước nữa”.

Một số người có thể không tin vào tính nghiêm trọng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita. Tuy nhiên, những người theo sát các sứ điệp của Đức Mẹ thì nhận ra ngay rằng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita cũng lặp lại lời cảnh báo đã được nhắc nhở tại Fatima và Amsterdam. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của Cộng Sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam ( Hà Lan ), Đức Mẹ các Quốc Gia ( The Lady of all Nations ) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita nhấn mạnh đến “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo Hội”. Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa”.

Đã tròn 40 năm Đức Mẹ hiện ra ở Akita, nhưng có vài vấn đề vẫn được thắc mắc. Có nhiều thiên tai và chiến tranh đã xảy ra từ thập niên 1970, không có thế chiến và không có thiên tai thế giới như trận Hồng Thủy thời ông Noe. Vậy là lời đe dạo trừng phạt đã qua ? Các lời cảnh báo đã được cất vào văn khố lưu trữ ? Hay là chúng ta được cho thêm thời gian để ăn năn ?

TẠP HÔN

Nói rằng không có lời đe dọa trừng phạt của Thiên Chúa là tin rằng nhân loại trở nên tốt hơn qua thời gian. Tuy nhiên, hãy cân nhắc… Năm 1997, Viện Gallup đã thăm dò ý kiến tại 16 quốc gia với câu hỏi này: “Bạn có nghĩ rằng chỉ là bình thường khi hai người có con mà không kết hôn ?” Tại 12 nước, người ta trả lời rằng “đó là bình thường”. Trong đó có các nước Mexico, Tây Ban Nha và Pháp, những nước có số người Công Giáo chiếm đa số !

Trung tâm ủng hộ phá thai là Trung Tâm Luật Sản Sinh ( Center for Reproductive Law and Policy ) ở New York cho biết rằng hiện nay có 54 quốc gia không cho phép phá thai – các nước này chiếm 61% dân số thế giới. Trong danh sách các nước cho phép phá thai có Pháp, Anh, Ý, Nga, Hoa Kỳ, và Trung Quốc – các siêu cường quốc trong thế giới ngày nay !

Viện Alan Guttmacher ( AGI – Alan Guttmacher Institute ) có dữ liệu phá thai ở Hoa Kỳ, từ năm 1973 tới 2000, đã có hơn 40 triệu vụ phá thai tại Hoa Kỳ. Mỗi năm tại Hoa Kỳ ước tính có 1,5 triệu vụ phá thai. AGI lưu ý rằng những trường hợp tử vong do phá thai chỉ trong 1 năm ở Hoa Kỳ cũng nhiều hơn số tử vong do chiến tranh trong nhiều năm gộp lại, kể cả thế chiến I và II.

Ngày nay, theo số liệu ngày 16.11.2003, số vụ phá thai hàng tháng là 1.229 triệu vụ. Các nước có tỷ lệ phá thai cao phải kể tới Nga và Trung Quốc.

PHÁ THAI Ở NƯỚC NGA

Những người lạc quan sẽ cho rằng thế giới ngày nay tốt hơn vì Chủ Nghĩa Cộng Sản vô thần đã sụp đổ tại Đông Âu. Nhờ Cộng Sản sụp đổ mà nước Nga đã có thế hệ luân lý hơn.

Nếu chúng ta phê phán qua tin tức, nhất là về vấn đề phá thai, Nga vẫn xa rời những lời tiên báo của Đức Mẹ Fatima, không biết qua đối thoại chúng ta có ý nói một thế hệ luân lý hoặc quan trọng đối với Thiên Chúa hay không. Tỷ lệ phá thai ở Nga cao hơn rất nhiều ( cao hơn ở Hoa Kỳ ) dù mới đây đã giảm. Tại Nga, từ 4,6 triệu vụ phá thai hồi năm 1988, tổng số giảm còn 1,78 triệu vụ hồi năm 2002.

Ngày 28.8.2003, báo Christian Science Monitor nói rằng thống kê chính thức ở Nga cho biết rằng cứ 3 trường hợp sinh thì có 2 trường hợp phá thai. Khi tỷ lệ phá thai giảm 23% so với những năm từ 1993 tới 1997, điều này không vì lý do luân lý. Khi Liên Xô sụp đổ, lại có các dạng khác về hạn chế sinh sản. Bác sĩ phụ khoa Lyudmila Timofeyeva nói: “Nguyên nhân chính khiến giảm tỷ lệ phá thai trong những năm qua là các phụ nữ trẻ khéo léo hơn về cách dùng các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình”.

MA QUỶ XÂM NHẬP GIÁO HỘI

Cẩn thận đọc sứ điệp của Đức Mẹ Akita, chúng ta có thể thấy mối quan tâm của Đức Mẹ về Giáo Hội: “Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo Hội”. Vài năm trước, luận điệu lạm dụng tình dục của các Giáo Sĩ Hoa Kỳ đã gây chấn động. Điều làm người Mỹ bị sốc không chỉ là sự giống nhau trong các vụ ấu dâm của các Linh Mục mà còn là kiểu “văn hóa bí mật” ( culture of secrecy ) mà các viên chức Giáo Hội đã vận dụng các trường hợp khác nhau ( Báo Time, số ra ngày 1.4.2002 ). Lạm dụng tình dục thiếu niên là sai lầm luân lý ( moral aberration ) và được xử lý bằng cách xưng tội, đó cũng là trọng tội và có thể trừng phạt bằng luật pháp.

Tại Philippines, việc bỏ tù các Linh Mục có thể là lời nguyền rủa đối với dân chúng. Còn ở Hoa Kỳ, người ta thấy rằng từ năm 1950, có 1.341 Linh Mục đã bị kết tội lạm dụng tình dục – một con số quá lớn so với ước tính trước đây. Con số này chỉ được tính theo các vụ kiện có liên quan, chưa cho thấy những người không bị phát hiện, và có thể còn có các dạng khác liên quan tình dục mà không ai biết.

Với Giaxinta, một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho biết: “Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì phạm tội về xác thịt nhiều hơn vì các tội khác”.

TRƯỞNG THÀNH KITÔ GIÁO

Do đó, tranh luận rằng sứ điệp của Đức Mẹ Akita là không thích hợp và nhân loại đã biến đổi thì cũng giống như nhìn vào thế giới qua lăng kính màu hồng. Người ta phải bật tivi lên để tìm mức độ bi quan về giới tính đã nhấn chìm thế giới.

Mặt khác, cũng cần đáp lại sứ điệp của Đức Mẹ Akita bằng sự trưởng thành Kitô giáo. Phần khác trong sứ điệp của Đức Mẹ là kêu gọi cầu nguyện, ăn năn và đền tội. Điều sai lầm là chỉ tò mò và tuyên truyền ầm ĩ nhưng chính mình vẫn dửng dưng với lời kêu gọi của Đức Mẹ về việc cầu nguyện và sám hối.

Cách đáp lại của chúng ta phải tràn đầy Đức Tin. U sầu và thất vọng ư ? KHÔNG ! Ma quỷ trong thế giới ngày nay chắc chắn đang tràn ngập nhưng cũng có những tia hy vọng. Tòa Thánh cho biết rằng từ 1978 tới 2001, số Linh Mục trên thế giới giảm 4%. Tuy nhiên, để bù vào số Linh Mục thiếu hụt, chúng ta đang chứng kiến có sự góp phần của các Giáo Dân trong Giáo Hội. Thật vậy, sự anh hùng thầm lặng của đa số các Linh Mục và Tu Sĩ lại không được nhắc tới. Đó là vấn đề của truyền thông.

Ngay tại Nga, người ta hy vọng rằng việc giết hàng loạt những người vô tội sẽ phải chấm dứt vào một ngày nào đó, hoặc ít ra cũng là giảm bớt. Tháng 9 năm 2003, Nga đã ban hành luật hạn chế sinh sản lần đầu tiên trong vòng 50 năm. Luật mới này giới hạn các trường hợp phụ nữ có thể phá thai từ 12 – 22 tuần tuổi. Nhưng không may là luật mới này không được ban hành vì lý do luân lý mà về vấn đề sức khỏe của thai phụ. Thống kê cho thấy có 30% số thai phụ tử vong tại Nga và dân số giảm khiến tổng thống Vladimir Putin phải gọi là “thảm họa dần dần” ( creeping catastrophe ).

Thật khích lệ có tin liên quan các chính khách có Đạo đã nói rằng họ sẽ tiếp tục đưa vấn đề phá thai lên hàng đầu trong cuộc thảo luận công khai và sẽ chỉ cho phép phá thai nếu tính nạng người mẹ bị đe dọa. Thiểu số Kitô hữu thuộc Đảng Dân Chủ nói rằng đó là do có sự “hỗ trợ” của tôn giáo – gồm có Chính Thống Giáo, Hồi Giáo Nga, và Công Giáo.

Mặt khác, tại Hoa Kỳ, người ta chỉ có thể thắc mắc về những phim khiêu khích của Hollywood đối với hàng triệu khán giả khắp thế giới. Nhưng ở đây vẫn có tia hy vọng ! Phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa” ( The Passion of the Christ ) của đạo diễn Mel Gibson là “phim giật gân”. Những người không có niềm tin hoặc đa nghi không thể đọc Kinh Thánh hoặc sách Giáo Lý, nhưng họ vẫn có thể xem phim này. Đạo diễn Công Giáo Mel Gibson đã tận dụng sự ảnh hưởng to lớn này. Thật vậy, Chúa Thánh Thần có thể tác động ngay trong những cách ngoài quy ước !

Cuối cùng, chúng ta chỉ có thể trao phó mọi thứ cho Đức Mẹ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ Akita đã đặt tiền đề: “Nếu loài người không ăn năn và sống tốt hơn”. Dù chúng ta tin tưởng vào sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Mẹ, chúng ta cũng vẫn phải đáp lại một cách đại lượng. Chính Đức Mẹ đã nói: “Cầu nguyện, sám hối, và hy sinh có thể làm dịu cơn giận của Chúa Cha”.

LOURDES POLICARPIO

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com

ĐƯỜNG VỀ

ĐƯỜNG VỀ

TRẦM THIÊN THU

Trích EPHATA số 574

Mười lăm tháng tám mừng vui

Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang

Niềm hy vọng thật rõ ràng

Chúng nhân sẽ được hưởng chung Nước Trời

Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về Trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “Mông Triệu” ( * ). Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về Trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.

Thánh Gioan kể lại thị kiến, y như một đoạn phim dài đầy kịch tính và nhiều tình tiết: “Đền thờ Thiên Chúa trên Trời đã mở ra. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” ( Kh 11, 19a, 12, 1 – 6 ).

Thị kiến kỳ lạ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” ( Kh 12, 10 ). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.

Ngay cả Hồi Giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran ( Kinh Thánh của Hồi Giáo ). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ Vương Hòa Bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mai Khôi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt Nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ La Mã Bến Tre…

Tác giả Thánh Vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ôphia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” ( Tv 45, 10 – 12 ). Chắc hẳn phàm ngôn không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.

Tất cả phàm nhân đều phải bước qua ngưỡng-cửa-sự-chết theo quy luật sinh-tử, vì ai trong chúng ta cũng từng phạm tội nhiều. Nhưng chết không là hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chết đi để được sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.

Niềm hy vọng của Kitô hữu thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói:

“Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” ( 1Cr 15, 19 ). Niềm hy vọng của chúng ta không hề như vậy. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” ( 1Cr 15, 20 – 22 ).

Ai cũng lần lượt ra đi, kẻ trước người sau, như lá rụng về cội, dù lá xanh hay lá vàng, như Thánh Phaolô giải thích thêm: “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” ( 1Cr 15, 23 – 24 ). Tất cả đều xảy ra đúng theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” ( 1Cr 15, 25 – 26 ).

Đức Kitô dùng thập giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét ( x. Ep 2:16 ) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm của Thiên Chúa, tức là Lòng Chúa Thương Xót, điều mà không ai trong chúng ta khả dĩ hiểu thấu.

Thánh sử Luca kể…

Hồi ấy, cô em Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà ông anh Dacaria và chào hỏi bà chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng dì Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” ( Lc 1, 42 – 45 ).

Đây là cuộc gặp lịch sử. Một người là Mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của vị Tiền Hô Gioan. Thấy cô em họ Maria đến, chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, cô Maria cũng quá đỗi vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen ( Magnificat, Lc 1, 46 – 55 ), y như một bài thơ vậy:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;

Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,

Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,

Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,

Vì Người nhớ lại lòng thương xót

Dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Kinh Thánh cho biết rằng Đức Maria ở lại với bà chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở về nhà. Mẹ đã chứng tỏ lòng yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm bà chị Êlisabét, đồng thời lại muốn chứng tỏ tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.

Trong Mầu Nhiệm Mai Khôi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên Trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.

Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “ái mộ những sự trên Trời”, quyết tâm hành động vì Nước Trời, dám khước từ trần gian để ưu tiên mọi sự vì Nước Trời, nhờ đó mà chúng con xứng đáng trở thành công dân Nước Trời vĩnh hằng. Lạy Mẹ, xin đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

( * ) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ ( chúa ) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” ( triệu tập, hiệu triệu ). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” ( yêu mến ) nên được Chủ ( Chúa ) gọi ( về trời ), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Tác giả:Trầm Thiên Thu

LOURDES POLICARPIO

Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng số Kitô hữu chưa được 10% dân số. Ai có thể quên được Hiroshima và Nagasaki, nơi những trái bom nguyên tử đầu tiên nổ tung? Tại một đất nước bị bom nguyên tử khủng bố, Đức Mẹ đã cảnh báo nghiêm trọng với nhân loại vào năm 1973. Điều đó còn thích hợp với ngày nay?

Tượng Đức Mẹ bằng gỗ ở Akita

Sự kiện kỳ lạ xảy ra tại Akita (Nhật) bắt đầu bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ được phát hiện tại Dòng Nữ tỳ Thánh Thể (Institute of the Handmaids of the Eucharist). Máu rỉ ra từ tay phải của bức tượng và máu rỉ ra từ tay trái của nữ tu Agnes Sasagawa (người Nhật). Bức tượng toát mồ hôi nhiều và chảy nước mắt. Phòng thí nghiệm tại Đại học Akita xét nghiệm nước chảy ra từ đôi mắt của tượng Đức Mẹ và chứng thực đó là nước mắt thật của người. Khoảng 500 người đã chứng kiến tượng Đức Mẹ khóc, người ta còn quay phim được những chỗ Đức Mẹ khóc, vài lần được chiếu trên ti-vi và phát thanh khắp nước Nhật.

Nhiều cuộc nói chuyện và chữa khỏi bệnh đã được công nhận là của Đức Mẹ Akita. Một phụ nữ Hàn quốc là Teresa Chun đã hồi phục cách kỳ lạ khỏi chứng u não sau khi cầu nguyện với Đức Mẹ Akita. Việc này đã được lưu tài liệu tại Bệnh viện St. Paul ở Seoul và được các giám mục Hàn quốc gởi về Rôma.

Sự trừng phạt ghê gớm hơn Đại Hồng Thủy

Quan trọng hơn những sự lạ siêu nhiên là những điều Đức Mẹ Akita nhắn nhủ qua nữ tu Agnes. Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn Đại Hồng Thủy thời ông Noe mà không hề báo trước nữa”.

Một số người có thể không tin vào tính nghiêm trọng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita. Tuy nhiên, những người theo sát các sứ điệp của Đức Mẹ thì nhận ra ngay rằng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita cũng lặp lại lời cảnh báo đã được nhắc nhở tại Fatima và Amsterdam. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của cộng sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam (Hà Lan), Đức Mẹ các Quốc gia (the Lady of all Nations) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita nhấn mạnh đến “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa”.

Đã tròn 40 năm Đức Mẹ hiện ra ở Akita, nhưng có vài vấn đề vẫn được thắc mắc. Có nhiều thiên tai và chiến tranh đã xảy ra từ thập niên 1970, không có thế chiến và không có thiên tai thế giới như Đại Hồng Thủy thời ông Noe. Vậy là lời đe dạo trừng phạt đã qua? Các lời cảnh báo đã được cất vào văn khố lưu trữ? Hay là chúng ta được cho thêm thời gian để ăn năn?

Tạp hôn

Nói rằng không có lời đe dọa trừng phạt của Thiên Chúa là tin rằng nhân loại trở nnê tốt hơn qua thời gian. Tuy nhiên, hãy cân nhắc… Năm 1997, Viện Gallup đã thăm dò ý kiến tại 16 quốc gia với câu hỏi này: “Bạn có nghĩ rằng chỉ là bình thường khi hai người có con mà không kết hôn?”. Tại 12 nước, người ta trả lời rằng “đó là bình thường”. Trong đó có những nước Mexico, Tây Ban Nha và Pháp, những nước có số người Công giáo chiếm đa số!

Trung tâm ủng hộ phá thai là Trung tâm Luật sản sinh (Center for Reproductive Law and Policy) ở New York cho biết rằng hiện nay có 54 quốc gia không cho phép phá thai – các nước này chiếm 61% dân số thế giới. Trong danh sách các nước cho phép phá thai có Pháp, Anh, Ý, Nga, Hoa Kỳ, và Trung quốc – các siêu cường quốc trong thế giới ngày nay!

Viện Alan Guttmacher (AGI – Alan Guttmacher Institute) có dữ liệu phá thai ở Hoa Kỳ, từ năm 1973 tới 2000, đã có hơn 40 triệu vụ phá thai tại Hoa Kỳ. Mỗi năm tại Hoa Kỳ ước tính có 1,5 triệu vụ phá thai. AGI lưu ý rằng những trường hợp tử vong do phá thai chỉ trong 1 năm ở Hoa Kỳ cũng nhiều hơn số tử vong do chiến tranh trong nhiều năm gộp lại, kể cả thế chiến I và II.

Ngày nay, theo số liệu ngày 16-11-2003, số vụ phá thai hàng tháng là 1.229 triệu vụ. Các nước có tỷ lệ phá thai cao phải kể tới Nga và Trung quốc.

Phá thai ở nước Nga

Những người lạc quan sẽ cho rằng thế giới ngày nay tốt hơn vì chủ nghĩa cộng sản vô thần đã sụp đổ tại Đông Âu. Nhờ cộng sản sụp đổ mà nước Nga đã có thế hệ luân lý hơn.

Nếu chúng ta phê phán qua tin tức, nhất là về vấn đề phá thai, Nga vẫn xa rời những lời tiên báo của Đức Mẹ Fatima, không biết qua đối thoại chúng ta có ý nói một thế hệ luân lý hoặc quan trọng đối với Thiên Chúa hay không. Tỷ lệ phá thai ở Nga cao hơn rất nhiều (cao hơn ở Hoa Kỳ) dù mới đây đã giảm. Tại Nga, từ 4,6 triệu vụ phá thai hồi năm 1988, tổng số giảm còn 1,78 triệu vụ hồi năm 2002.

Ngày 28-8-2003, báo Christian Science Monitor nói rằng thống kê chính thức ở Nga cho biết rằng cứ 3 trường hợp sinh thì có 2 trường hợp phá thai. Khi tỷ lệ phá thai giảm 23% so với những năm từ 1993 tới 1997, điều này không vì lý do luân lý. Khi Liên Xô sụp đổ, lại có các dạng khác về hạn chế sinh sản. Bác sĩ phụ khoa Lyudmila Timofeyeva nói: “Nguyên nhân chính khiến giảm tỷ lệ phá thai trong những năm qua là các phụ nữ trẻ khéo léo hơn về cách dùng các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình”.

Ma quỷ xâm nhập Giáo hội

Cẩn thận đọc sứ điệp của Đức Mẹ Akita, chúng ta có thể thấy mối quan tâm của Đức Mẹ về Giáo hội: “Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Vài năm trước, luận điệu lạm dụng tình dục của các giáo sĩ Hoa Kỳ đã gây chấn động. Điều làm người Mỹ bị sốc không chỉ là sự giống nhau trong các vụ ấu dâm của các linh mục mà còn là kiểu “văn hóa bí mật” (culture of secrecy) mà các viên chức Giáo hội đã vận dụng các trường hợp khác nhau (Báo Time, số ra ngày 1-4-2002). Lạm dụng tình dục thiếu niên là sai lầm luân lý (moral aberration) và được xử lý bằng cách xưng tội, đó cũng là trọng tội và có thể trừng phạt bằng luật pháp.

Tại Philippines, việc bỏ tù các linh mục có thể là lời nguyền rủa đối với dân chúng. Còn ở Hoa Kỳ, người ta thấy rằng từ năm 1950, có 1.341 linh mục đã bị kết tội lạm dụng tình dục – một con số quá lớn so với ước tính trước đây. Con số này chỉ được tính theo các vụ kiện có liên quan, chưa cho thấy những người không bị phát hiện, và có thể còn có các dạng khác liên quan tình dục mà không ai biết.

Với Giaxinta, một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho biết: “Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì phạm tội về xác thịt nhiều hơn vì các tội khác”.

Trưởng thành Kitô giáo

Do đó, tranh luận rằng sứ điệp của Đức Mẹ Akita là không thích hợp vài nhân loại đã biến đổi thì cũng giống như nhìn vào thế giới qua lăng kính màu hồng. Người ta phải bật ti-vi lên để tìm mức độ bi quan về giới tính đã nhấn chìm thế giới.

Mặt khác, cũng cần đáp lại sứ điệp của Đức Mẹ Akita bằng sự trưởng thành Kitô giáo. Phần khác trong sứ điệp của Đức Mẹ là kêu gọi cầu nguyện, ăn năn và đền tội. Điều sai lầm là chỉ tò mò và tuyên truyền ầm ĩ nhưng chính mình vẫn dửng dưng với lời kêu gọi của Đức Mẹ về việc cầu nguyện và sám hối.

Cách đáp lại của chúng ta phải tràn đầy đức tin. U sầu và thất vọng ư? KHÔNG! Ma quỷ trong thế giới ngày nay chắc chắn đang tràn ngập nhưng cũng có những tia hy vọng. Tòa Thánh cho biết rằng từ 1978 tới 2001, số linh mục trên thế giới giảm 4%. Tuy nhiên, để bù vào số linh mục thiếu hụt, chúng ta đang chứng kiến có sự góp phần của các giáo dân trong Giáo hội. Thật vậy, sự anh hùng thầm lặng của đa số các linh mục và tu sĩ lại không được nhắc tới. Đó là vấn đề của truyền thông.

Ngay tại Nga, người ta hy vọng rằng sự giết hàng loạt nhữn người vô tội sẽ phải chấm dứt vào một ngày nào đó, hoặc ít ra cũng là giảm bớt. Tháng 9-2003, Nga đã ban hành luật hạn chế sinh sản lần đầu tiên trong vòng 50 năm. Luật mới này giới hạn các trường hợp phụ nữ có thể phá thai từ 12-22 tuần tuổi. Nhưng không may là luật mới này không được ban hành vì lý do luân lý mà về vấn đề sức khỏe của thai phụ. Thống kê cho thấy có 30% số thai phụ tử vong tại Nga và dân số giảm khiến Tổng thống Vladimir Putin phải gọi là “thảm họa dần dần” (creeping catastrophe). Với quân đội thì đó là phòng thủ yếu ớt!

Thật khích lệ có tin liên quan các chính khách có đạo đã nói rằng họ sẽ tiếp tục đưa vấn đề phá thai lên hàng đầu trong cuộc thảo luận công khai và sẽ chỉ cho phép phá thai nếu tính nạng người mẹ bị đe dọa. Thiểu số Kitô hữu thuộc Đảng Dân Chủ nói rằng đó là do có sự “hỗ trợ” của tôn giáo – gồm có Chính thống giáo, Hồi giáo Nga, và Công giáo.

Mặt khác, tại Hoa Kỳ, người ta chỉ có thể thắc mắc về những phim khiêu khích của Hollywood đối với hàng triệu khán giả khắp thế giới. Nhưng ở đây vẫn có tia hy vọng! Phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa” (The Passion of the Christ) của đạo diễn Mel Gibson là “phim giật gân”. Những người không có niềm tin hoặc đa nghi không thể đọc Kinh Thánh hoặc sách giáo lý, nhưng họ vẫn có thể xem phim này. Đạo diễn Công giáo Mel Gibson đã tận dụng sự ảnh hưởng to lớn này. Thật vậy, Chúa Thánh Thần có thể tác động ngay trong những cách ngoài quy ước!

Cuối cùng, chúng ta chỉ có thể trao phó mọi thứ cho Đức Mẹ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ Akita đã đặt tiền đề: “Nếu loài người không ăn năn và sống tốt hơn”. Dù chúng ta tin tưởng vào sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Mẹ, chúng ta cũng vẫn phải đáp lại một cách đại lượng. Chính Đức Mẹ đã nói: “Cầu nguyện, sám hối, và hy sinh có thể làm dịu cơn giận của Chúa Cha”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:15 Sáng 13/07/13

VRNs (13.07.2013) – Sài Gòn – Đã 2.000 năm qua kể từ khi Chúa Giêsu về trời mà Ngài vẫn chưa trở lại. Nhiều người thắc mắc tại sao Ngài “trễ hẹn” lâu như vậy. Trong cuốn “Why I Am Not a Christian” (Tại Sao Tôi Không Là Kitô hữu – New York: Touchstone, 1957), tác giả vô thần Bertrand Russell đã kết án Chúa Giêsu không giữ lời hứa “trở lại” (*). Có lẽ nào Russell nói đúng, và Chúa Giêsu không giữ lời hứa?

Tông đồ Phêrô tiên báo có những người nhạo báng như Russell về việc “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Trước tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. Họ nói: “Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành!” (2 Pr 3:4).

Có thể Russell và những người nhạo báng khác đáng lẽ phải xét kỹ lời của Thánh Phêrô, cũng như điều Chúa Giêsu đã nói về thời gian Ngài trở lại, và các sự kiện xảy ra trước. Chúa Giêsu nói rằng, dù không ai biết chính xác thời gian Ngài trở lại, nhưng có những “gợi ý” cho chúng ta biết thời cuối cùng đã gần, và phải luôn tỉnh thức (x. Mt 25:13).

Ngoài ra, các Tiên tri thời Cựu ước và các môn đệ của Chúa Giêsu cũng cho biết về cảnh tượng thế giới như thế nào trước giờ trở lại của Chúa Giêsu Kitô. Hãy nhìn vào vài “gợi ý” này trong trình thuật Mt 24:3-14 để biết thời gian Chúa Giêsu tái lâm:

– Động đất.

– Nạn đói.

– Chiến tranh.

– Dịch tễ.

– Bắt bớ các tín hữu.

– Phúc Âm được loan truyền khắp thế giới.

Động đất, nạn đói, dịch tễ, và chiến tranh đã và đang xảy ra xuyên suốt lịch sử nhân loại, nhưng Chúa Giêsu nói rằng sẽ có mức gia tăng đáng kể của các sự kiện này trước khi Ngài trở lại (x. Mt 24:3-51). Việc bách hại các tín hữu bắt đầu từ các Tông đồ và càng ngày càng gia tăng tới nay. Ngày nay các Kitô hữu đã và đang bị bách hại vì Đức Tin nhiều hơn trước đây. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những cuộc bách hại như vậy sẽ tiếp diễn cho tới khi Ngài trở lại, khi Tin Mừng được loan truyền khắp thế giới.

Theo Chúa Giêsu, khi các sự kiện này xảy ra trên khắp thế giới, chúng ta hãy “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, vì Ngài sẽ mau trở lại cứu độ chúng ta (x. Lc 21:28; Tt 2:13). Mặc dù các học giả Kinh Thánh không đồng ý về mọi chi tiết về việc Chúa Giêsu tái lâm, nhiều người vẫn tin rằng thời gian mà Chúa Giêsu nói tới đang đến rất gần. Chúng ta phải sẵn sàng mong chờ niềm hy vọng được chúc phúc và vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang của Đấng Cứu Độ Giêsu Kitô.

Tại sao Chúa Giêsu chậm trễ thực hiện lời hứa?

Thánh Phêrô giải thích lý do “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm” (2 Pr 3:8-10). Quả thật, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng” (Mt 24:14).

Thánh Phêrô đã viết cho các tín hữu chịu thử thách và bách hại. Họ muốn Chúa Giêsu đến sớm hơn. Tuy nhiên, Thánh Phêrô bảo họ rằng ưu tiên số một của Thiên Chúa là loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô đến tận cùng thế giới, đến với càng nhiều người càng tốt.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ GodResources.org)

CẢM ƠN TRỜI

Cảm ơn

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 8:32 Sáng 24/06/13

VRNs (24.06.2013)– Sài Gòn-

CẢM ƠN TRỜI

Cảm ơn Trời đã để tôi sống nghèo thê thảm

Nhờ đó tôi mới biết cảm thương người nghèo nàn

Cảm ơn Trời đã để tôi bị hàm oan

Nhờ đó tôi mới cảm thông người bị xét xử

Cảm ơn Trời đã để tôi bị người ta ghét bỏ

Nhờ đó tôi mới thấy cảm thương những người cô đơn

Cảm ơn Trời đã để tôi bình thường nhất trong những người bình thường

Nhờ đó tôi mới cảm nhận thế nào là mơ ước

Cảm ơn Trời đã để tôi bị thua thiệt

Nhờ đó tôi mới biết khao khát vươn lên

Cảm ơn Trời đã để tôi không hiểu thấu những điều cao siêu hơn

Nhờ đó tôi mới không sa vào hố kiêu ngạo

Cảm ơn Trời đã để tôi biết phân biệt thực, ảo

Nhờ đó tôi mới cảm nhận cuộc sống vô thường

Cảm ơn Trời đã để tôi tha phương

Nhờ đó tôi mới có thể hòa đồng với người xa, kẻ lạ

Cảm ơn Trời đã để tôi mồ côi cả Cha lẫn Mẹ

Nhờ đó tôi mới biết trân quý tình cảm gia đình

Cảm ơn Trời đã để tôi “lạc loài” giữa cuộc đời loanh quanh

Nhờ đó tôi mới cảm nhận thế nào là bóc lột, áp bức

Cảm ơn Trời đã để tôi không giống ai hết

Nhờ đó tôi mới hiểu đừng bắt chước, cứ là chính mình

Cảm ơn Trời đã để tôi không may mắn như bạn bè, thua chị, kém anh

Nhờ đó tôi mới cảm nhận cảm giác của người bị hại

Cảm ơn Trời đã để tôi có những lần thất bại

Nhờ đó tôi mới cảm nhận chút hạnh phúc khi thành công

Tất cả là bất đẳng thức, bất thường mà bình thường

Tôi cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời-tôi bằng nét-cọ-số-phận

Trông lên thấy mình chẳng bằng ai, vô duyên và lận đận

Nhưng khi nhìn xuống, thấy còn bao người khổ đau

Họ không thấy niềm vui ở đâu

Không thể có – dù họ vẫn khao khát sống thanh thản!

TRẦM THIÊN THU

Thơ: Tâm sự đời con

Thơ: Tâm sự đời con

Đăng bởi lúc 6:01 Sáng 23/06/13

VRNs (23.06.2013) – Sài Gòn- TÂM SỰ ĐỜI CON

Tâm hồn con tan nát

Tìm đến Chúa tựa nương

Trái tim con luân lạc

Giữa cuộc đời đau thương

Bao trở trăn suy nghĩ

Ngày đêm chật âu lo

Những ước mơ dang dở

Vẫn không ngừng giằng co

Giữa dòng đời xuôi ngược

Con như kẻ mộng du

Khoảng trầm tư đơn độc

Lạc lõng và ngu ngơ

Tâm hồn con tơi tả

Cúi xin Chúa xót thương

Và đại lượng tha thứ

Những hoài bão ngổn ngang

Khuya 20-5-2013

PHÙ SA HỒNG ÂN

Sinh ra khóc để chào đời

Mọi người hạnh phúc cười tươi đón chào

Tình thương cha mẹ ngọt ngào

Vòng tay âu yếm sớm chiều chở che

Lớn lên suy nghĩ bộn bề

Vui, buồn, sướng, khổ – Sớm khuya không ngừng

Đường đời đầy những gai chông

Buồn nhiều, vui ít, ngổn ngang lòng người

Vẫn chưa mãn nguyện nụ cười

Tuổi già vội đến đứng ngoài cửa kia

Sông đời bồi đắp phù sa

Là Hồng Ân Chúa bao la tháng ngày

Dù cho gian khổ vơi đầy

Vẫn luôn cảm tạ Tình Ngài xót thương

TRẦM THIÊN THU

Cách sống của cha tôi

Cách sống của cha tôi

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Người ta có thể CHỌN nhiều thứ cho cuộc đời mình, trừ hai thứ: Cha mẹ và nơi sinh. Cha mẹ nào cũng có điều đặ biệt riêng với con cái, nếu không thì làm gì có cha mẹ. Cha mẹ mà tuyệt vời như thế, huống chi Thiên Chúa. Chúa nhật thứ ba trong Tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ. Bạn còn cha? Bạn thật hạnh phúc. Bạn không còn cha? Thật bất hạnh: “Còn cha gót đỏ như son, Đến khi cha chết gót con lấm bùn” (Ca dao). Vậy đó, nhưng khi cha còn sống, con có nhiều cách nhìn về người cha của mình… Sự hối hận thường đồng nghĩa với sự muộn màng!

Tôi vẫn thắc mắc rằng không biết có ai phá kỷ lục viết thư của cha tôi hay không.

Khi còn là sinh viên, tôi rất nhớ nhà. Suốt ba năm ròng rã, cha tôi cứ cách một ngày lại viết cho tôi một lá thư. Viết là chuyện quá dễ đối với cha tôi, thế nhưng cứ cách ngày lại viết thư suốt ba năm thì quả là “tâm phục, khẩu phục”.

Thư của cha tôi luôn nâng đỡ tôi, khích lệ tôi, và an ủi tôi. Thư luôn mở đầu bằng câu: “Shuet, con gái yêu dấu nhất của cha”. Còn hạnh phúc nào hơn với một sinh viên xa nhà như tôi chứ? Cha tôi luôn viết trên loại giấy có in hoa hồng lớn như thể hiện tình thương của người dành cho tôi.

Cha tôi tên là Kwok-Chi Tam, một con người tự lập, giỏi lịch sử Trung quốc và văn chương Tây phương, nhưng cũng rất giỏi văn chương Trung quốc. Người thường làm anh Paul và tôi “quê độ” bằng cách trích ra những bài thơ mà chúng tôi quên tiệt. Đã đi dạy nhiều năm, cha tôi quen nhiều sinh viên. Các sinh viên đều nói cha tôi khả dĩ bật một mẩu phấn tào thành âm thanh thú vị.

Ban ngày cha tôi đi dạy, ban đêm viết kịch bản phim. Tôi biết cha tôi mệt mỏi nhưng không bao giờ than phiền. Căn hộ chật hẹp, cha mẹ ngủ trong buồng, còn anh em tôi ngủ trên sàn nhà. Vào những dịp sinh nhật, anh em tôi được ăn thịt gà, và thực sự cảm thấy hạnh phúc bên cha mẹ. Được học hết tú tài, ai học được nữa thì cha mẹ vẫn cho đi học, và luôn động viên học chứ không hề trách mắng. Chúng tôi hiểu giá trị của sự giáo dục và kiến thức, nhất là mang ý nghĩa từ những hy sinh của cha mẹ.

Khi cuộc sống tạm ổn, cha mẹ đỡ vất vả, anh em tôi đã có nghề nghiệp, lại là lúc cha tôi bị ung thư tuyến tụy bất khả trị. Năm 1981, gia đình có ba người sinh nhật vào tháng Năm, nhưng không tổ chức vì buồn khi thấy cha tôi bệnh nặng như thế. Và rồi định mệnh cũng cướp mất cha tôi vào năm sau.

Đám tang cha tôi được tổ chức rất lớn. Rất nhiều người đến phúng điếu, đường phố chật người đưa tiễn và đứng chào tỏ lòng thương tiếc khi linh cữu cha tôi đi qua. Tôi hãnh diện vì uy tín của cha tôi đối với mọi người ở mọi lứa tuổi.

Một năm sau, tôi sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Laura. Khi Laura bốn tuổi, tôi sinh con trai đặt tên là Paul. Khi chúng đủ hiểu biết, tôi luôn kể cho các con biết về ông ngoại của chúng, luôn yêu thương và quan tâm vợ con dù ông rất vất vả.

Đó là bài học cha tôi đã dạy tôi bằng chính cuộc sống mẫu mực của người: Tận tụy với gia đình, cần cù lao động, và kiến thức sâu rộng. Cha tôi nghiêm nghị mà không khắt khe, ít nói mà vẫn dễ gần gũi, thương yêu mà không nhu nhược, khắt khe với chính mình mà lại nhân hậu với người khác. Một ngày nào đó, khi các con khôn lớn, tôi sẽ cho chúng đọc những lá thư mà cha tôi đã viết cho tôi ngày xưa. Đó là gia bảo của người cha kính yêu đã để lại cho tôi. Quả là gia sản vô giá!

Tôi quyết tâm sống xứng đáng là con của cha tôi, và tôi sẽ giáo dục cac con cũng noi gương sống tốt của ông ngoại: Nói ít, làm nhiều.

MO-SHUET TAM

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

SỐNG THỬ VÀ BẤT ỔN

SỐNG THỬ VÀ BẤT ỔN

TRẦM THIÊN THU

Trích Ephata số 565

Ngày xưa người ta quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân”, quan niệm sống đầy tính luân thường đạo lý và nhân bản, nhưng ngày nay người ta “chỉnh sửa” quan niệm đó thành… “nam nữ cọ cọ sát thân”. Cách nghĩ quá “thoáng” như vậy trở thành phóng túng và tội lỗi !

Người ta còn cho rằng cứ sống thử trước, nếu hợp thì… sống tiếp, không hợp thì chia tay. Quá dễ dãi ! Và quan niệm mà người ta cho là tân kỳ và thoáng như vậy lại chỉ là quan niệm sai lầm mà thôi. Sự bất ổn gia đình tiếp tục tăng ở Hoa Kỳ mặc dù giảm tỷ lệ ly hôn đối với các gia đình. Các nhà nghiên cứu nói rằng mức tăng về việc sống thử ( sống chung chạ như vợ chồng mà không kết hôn ) là một phần của vấn nạn gia đình.

Ngày nay, tỷ lệ ly hôn cao. Nhiều người muốn cứu vãn hôn nhân của mình đang trên bờ vực thẳm ly hôn, người ta đã phải đôn đáo tìm nhà tư vấn. Vì thế, các trung tâm tư vấn ( tình yêu, hôn nhân, gia đình, và các vấn đề khác ) lần lượt xuất hiện nhiều, ngay cả báo chí cũng thường có mục tư vấn, và các đài phát thanh hoặc truyền hình cũng có các chương trình tư vấn.

Giáo sư W. Bradford Wilcox, thuộc Đại Học Virginia và Trung Tâm Hôn Nhân và Gia Đình của Viện Giá Trị Hoa Kỳ ( Institute for American Values’ Center for Marriage and Families ) tại New York, nhận xét: “Tỷ lệ ly hôn đối với các cặp vợ chồng đã trở lại mức mà chúng tôi thấy trước cuộc cách mạng ly hôn hồi thập niên 1970. Tuy nhiên, tính bất ổn gia đình lại đang gia tăng đối với con cái người Mỹ. Điều này có vẻ chiếm một phần vì nhiều cặp vợ chồng có con cái sống thử, và điều này rất bất ổn”.

Ngày nay, hơn 40% thanh thiếu niên Hoa Kỳ đều sống thử. Họ muốn có kinh nghiệm chia tay của cha mẹ hơn so với những đứa con của các cặp vợ chồng kết hôn. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ chia tay cao hơn so với những đứa con của các cặp sống thử, lên tới 170%. Việt Nam cũng đang có nguy cơ tương tự, đạo đức luân lý suy thoái nên sự “dễ dãi” về tình dục cũng dần dần “thoáng” hơn !

Gíao sư Bradford Wilcox nói rằng con cái của các cha mẹ sống thử sẽ bị rắc rối nhiều hơn về các vấn đề xã hội và tình cảm ( lạm dụng ma túy, trầm cảm, bỏ học sớm, yêu đương nhăng nhít,… ) so với những đứa con có cha mẹ kết hôn hẳn hoi. Nghiên cứu này được thực hiện với 250 bài viết về hôn nhân & gia đình ở Hoa Kỳ và khắp thế giới. Nghiên cứu này cũng phân tích các dữ liệu của số liệu khảo sát Xã Hội Tổng Quát và Khảo Sát Thu Nhập và Tham Gia Chương Trình ( General Social Survey and the Survey of Income and Program Participation ).

Bản tường trình cho biết thêm: “Dù chúng ta thành công hay thất bại trong việc xây dựng văn hóa hôn nhân lành mạnh thì rõ ràng cũng là mối quan tâm chung hợp pháp và là vấn đề tối quan trọng nếu chúng ta muốn đảo ngược tình trạng cách ly khỏi nhịp phát triển xã hội của các thành viên dễ bị tổn thương nhất trong xã hội của chúng ta: giới lao động, dân nghèo, dân tộc thiểu số, và con cái”.

Con cái của các cặp sống thử có thể bị lạm dụng về thể lý, tình dục hoặc tình cảm gấp 3 lần so với con cái của các cặp vợ chồng vẫn nguyên vẹn hôn nhân. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện tính bất ổn gia đình cũng góp phần phan biệt giai cấp, phe cánh. Con cái của các cha mẹ có học thức thấy cuộc sống gia đình họ ổn định, còn con cái của các cha mẹ ít học lại thấy cuộc sống gia đình họ càng ngày càng bất ổn. Những người sống dư dả tận hưởng gia đình “vững mạnh và ổn định”, còn những người khác đối mặt với gia đình “càng bất ổn, càng bất hạnh và càng mất tác dụng”.

Ly hôn liên quan con cái trở lại mức trước khi luật hôn nhân thay đổi để dễ ly hôn hơn. Khoảng 23% con cái có cha mẹ kết hôn đầu thập niên 1960 đều biết cha mẹ ly hôn khi chúng được 10 tuổi. Cũng gần tương đương tỷ lệ đó đối với con cái có cha mẹ kết hôn năm 1997.

Các tác giả của bản tường trình kết luận rằng hôn nhân nguyên vẹn giữa cha mẹ vẫn là “tiêu chuẩn vàng” đối với đời sống gia đình tại Hoa Kỳ. Ngày 16.8.2011, Viện Giá Trị Hoa Kỳ cho biết: “Con cái có thể phát triển tốt hơn về kinh tế, xã hội và thể chất nếu chúng sống trong các gia đình theo chuẩn này”. Hôn nhân là “điều tốt quan yếu của cộng đồng” với nhiều lợi ích về kinh tế, sức khỏe, giáo dục và an toàn, giúp ích hơn cho xã hội và chính phủ phục vụ công ích.

Lợi ích của hôn nhân cũng lan rộng tới người nghèo, giới lao động và dân tộc thiểu số, mặc dù có việc suy yếu hôn nhân trong 4 thập niên qua. Viện Giá trị Hoa Kỳ kết luận: “Việc sống thử gia tăng là mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng và tính ổn định của đời sống con cái trong các gia đình ngày nay”.

Tóm lại, sống thử hoàn toàn bất lợi – cả về tâm lý lẫn sinh lý, kéo theo hệ lụy làm suy giảm sức khỏe, điều mà khoa học cũng đã chứng minh. Xưa nay, xã hội vẫn đề cao việc “nam nữ thọ thọ bất thân”, chỉ bắt đầu “chuyện ấy” trong đêm động phòng, dành cho nhau những giây phút thăng hoa cao thượng nhất, và nhiều tôn giáo cũng khuyến cáo chuyện sống thử hoặc “ăn cơm trước kẻng”.

TRẦM THIÊN THU

Ngày Truyền thông thế giới

Ngày Truyền thông thế giới

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:05 Sáng 30/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (30.04.2013) – CatholicIreland.net – Hàng năm, trước lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội mừng thành tựu của ngành truyền thông và tập trung vào cách mà truyền thông có thể sử dụng tốt nhất truyền bá Tin Mừng.

Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 năm nay là Chúa Nhật lễ Thăng Thiên, 12-5-2013, với chủ đề đã được ĐGH Bênêđictô đưa ra là “Mạng lưới xã hội: Chân lý và Đức Tin; không gian mới cho việc Truyền bá Tin Mừng”.

Đó là gì?

Ngày Truyền thông Thế giới được Chân phước GH Phaolô VI thành lập năm 1967 nhằm khuyến khích chúng ta phản ánh các cơ hội và thách đố mà các phương tiện hiện đại về truyền thông xã hội (báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và internet) cho phép Giáo hội rao truyền sứ điệp Tin Mừng.

Việc kỷ niệm này có từ đầu Công đồng Vatican II, vì nhận thấy phải liên hệ với thế giới hiện đại. Thực tế này diễn tả trong lời mở đầu của Hiến chế Gaudium et Spes (1), có câu: “Niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và đau khổ của con người trong thời đại chúng ta, nhất là của những người nghèo hoặc đau khổ bằng cách nào đó, cũng chính là niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và đau khổ của những người theo Chúa Kitô”.

Tại sao cử hành Ngày Truyền Thông hằng năm?

Khi thành lập Ngày Truyền Thông vào thứ Bảy, 7-5-1967, chưa đầy 2 năm sau Công đồng Vatican II, Chân phước GH Phaolô VI biết rằng Giáo Hội thực sự liên quan mật thiết với nhân loại và lịch sử nhân loại, muốn chú ý tới các phương tiện truyền thông và và sức mạnh của nó đối với việc thay đổi văn hóa.

Các phương tiện truyền thông có những cơ hội phong phú hóa đời sống con người bằng các giá trị về sự thật, vẻ đẹp và sự thiện, nhưng cũng có thể có những hệ quả tiêu cực khi phát tán những điều kém giá trị và gây áp lực cho trí tuệ và lương tâm bằng vô số các điều mâu thuẫn.

Thế giới truyền thông: Tòa án Tối cao đầu tiên (first Areopagus) của thế giới hiện đại

Chân phước GH Gioan Phaolô II (1990) viết trong Tông thư Redemptoris Missio (2), số 37: “Thế giới truyền thông là Tòa án Tối cao đầu tiên của thời hiện đại, thống nhất nhân loại và hướng vào những gì được coi là ‘ngôi làng toàn cầu’. Các phương tiện truyền thông đòi hỏi tầm quan trọng như vậy để ủng hộ các phương tiện chính về thông tin và giáo dục, hướng dẫn và gợi hứng cho nhiều người trong cách cư xử của cá nhân, gia đình và xã hội. Đặc biệt là giới trẻ đang lớn lên trong một thế giới đầy thông tin trên các phương tiện truyền thông”.

Càng nhận biết thế giới là ngôi nhà chung và sức mạnh của truyền thông là thị trường tự do về các triết lý và các giá trị, Giáo hội đã tìm cách đưa vào đó các sứ điệp và dùng truyền thông để loan truyền các giá trị có lợi cho sự phát triển của con người và phúc lợi vĩnh hằng của con người.

Hai tài liệu quan trọng này của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội – Communio et Progressio (3) và Aetatis Novae (4) – đã phân tích về thế giới truyền thông và đưa ra lời khuyên để Giáo hội hành động. Tòa Thánh đã đặt tiêu đề cập nhật hóa cách sử dụng của hàng loạt phương tiện truyền thông. Trong dịp thăm Đài phát thanh Vatican, ĐGH Bênêđictô XVI đã giới thiệu chiếc iPod có âm nhạc của nhà soạn nhạc Mozart mà ngài rất quan tâm.

Năm 2002, Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội đã công bố hai tài liệu về Internet. Tài liệu thứ nhất phân tích các cơ hội và các thách đố mà Internet đưa ra để truyền bá Tin Mừng với tựa đề “Giáo Hội và Internet”. Tài liệu thứ nhì đặt ra quy luật đạo đức (ethical code) hướng dẫn cách sử dụng với tựa đề “Đạo đức trong Internet”.

Sứ điệp của ĐGH Bênêđictô XVI về Ngày Truyền Thông Thế giới năm 2012 đã tập trung vào trẻ em và các phương tiện truyền thông. Ngài thúc dục các bậc cha mẹ định hình cho con cái biết quan tâm việc dùng các phương tiện truyền thông, vì truyền thông luôn đề cao nhân phẩm. Ngài yêu cầu truyền thông đừng sản xuất những thứ kém luân lý, thúc đẩy bạo lực hoặc sự tầm thường của tình dục.

CatholicIreland.net

Từ năm 2002, j2.CatholicIreland.net đã cung cấp mạng lưới thu thập những hoạt động tốt nhất của Công giáo Ai-len với nối kết quốc tế. Mạng lưới này cung cấp nguồn trực tuyến về cầu nguyện, suy tư và hành động với các mục Tâm linh, Đức tin và Công lý, Giới trẻ, Văn hóa và Nghệ thuật. Mạng lưới này cũng cung cấp tin tức hằng ngày tại www.cinews.ie và xây dựng các website cho các giáo xứ, các giáo phận và các dòng tu tại địa chỉ www.GetOnline.ie.

Trách nhiệm mới

Các dạng truyền thông mới đã mở ra cho Giáo hội không chỉ có thể “thỏa mãn khát khao niềm tin”, mà còn giao tiếp trong Giáo hội bằng cách “xây dựng tính đồng nhất tôn giáo… qua sự tương tác của internet”. Trang CatholicIreland.net hy vọng tiếp tục vươn tới những người Công giáo truyền thống sử dụng các dịch vụ và tìm ra cách thức mới để vươn tới giới trẻ.

Theo giám đốc Tony Bolger, truyền hình trực tiếp đã hoàn tất với các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế tại Tu viện Clonard, Belfast, trên một trang khác là www.ChurchServices.tv.

Tháng Sáu có lễ phong thánh cho Chân phước Charles Mount Argus, đây là dịp đưa ra chương trình truyền hình thứ hai từ Tu viện Khổ Nạn (Passionist Monastery) ở Mount Argus tại Dublin. Truyền hình trực tiếp sẽ được truyền tới các nhà thờ nào muốn gia nhập mạng lưới này.

Inter Mirifica (Trong Số Những Điều Kỳ Diệu) là Sắc lệnh của Công đồng Vatican II về Truyền thông Xã hội, được bầu chọn của 1.960 to 164 giám mục đã nhóm họp, và được Chân phước GH Phaolô VI (1897-1978) công bố ngày 4-12-1963.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicIreland.net)

(1) Hiến chế “Vui mừng Và Hy vọng” là hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II. Đây là văn kiện dài nhất của Công đồng, chia làm hai phần chính: 1. Giáo huấn của Giáo hội về con người, thế giới họ sống và mối quan hệ với thế giới đó; 2. Các mặt đa dạng của cuộc sống ngày nay và xã hội con người, và đặc biệt các vấn đề luân lý khẩn thiết thời nay. Sự xử lý của vai trò Giáo hội trong thề giới ngày nay là hiện thực, công nhận rằng “thuyết vô thần phải được kể là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong thời đại này” (số 19). Cách xử lý cũng là thực tiễn, khi nhận định rằng cùng với mọi tiến bộ kỹ thuật của phương tiện truyền thông đang họat động hiện nay, “cuộc đối thoại huynh đệ giữa con người được hoàn hảo không phải ở trong những tiến bộ ấy, nhưng trong cộng đoàn nhân loại bằng cách sâu xa hơn” (số 23), trong đó cá nhân cùng chia sẻ trong tinh thần. Việc bàn về hôn nhân và gia đình Kitô hữu được mở rộng nhất trong lịch sử công đồng. Lập trường mạnh về chiến tranh và hòa bình phản ảnh ý nghĩ của Giáo hội trong thời đại hạt nhân (ngày 7-12-1965).

(2) Tông thư “Sứ vụ Đấng Cứu Thế” của ĐGH Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7-12-1990.

(3) Huấn thị Mục vụ “Hiệp thông và Tiến bộ”. Đây là Huấn thị của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, nhằm áp dụng Sắc Lệnh về các Phương tiện Truyền thông Xã hội (Inter Mirifica) của Công đồng Vatican II. Huấn thị này bàn thảo theo thứ tự: các nguyên tắc tín lý; đóng góp của truyền thông xã hội vào sự tiến bộ của con người; huấn luyện cho người tiếp thu và người truyền thông; cơ hội và nghĩa vụ của cả hai bên; hợp tác giữa công dân và chính quyền dân sự; hợp tác giữa mọi tín hữu và người thiện chí; sự dấn thân của người công giáo trong phương tiện truyền thông; công luận và truyền thông trong đời sống Giáo hội; họat động của người công giáo trong lĩnh vực viết văn, điện ảnh, truyền thanh, truyền hình, kịch nghệ, thiết bị, nhân sự, và tổ chức; nhu cầu cấp bách bởi vì các lực lượng khác ngoài Công giáo hoặc Tin lành có nguy cơ thống trị phương tiện truyền thông. Văn kiện này là một phần của giáo huấn hậu Công đồng về phương tiện truyền thông. Văn kiện bổ túc Tự sắc “Với Nhiều Hoa Trái” (In Fructibus Multis) của ĐGH Phaolô VI ban hành ngày 25-5-1971.

(4) Huấn thị Mục vụ “Bình minh Tân kỷ nguyên” của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, ban hành ngày 22-1-1992.

Tương lai gần của Giáo Hội Công giáo

Tương lai gần của Giáo Hội Công giáo

Đăng bởi lúc 2:34 Sáng 29/04/13

TRẦM THIÊN THU

VRNs (29.04.2013) – IntegratedCatholicLife – Một cuộc đối thoại về tương lai không xa…

Chris hỏi người cha khi ra khỏi khuôn viên nhà thờ:

– Ai mặc đồ đen ngồi phía sau cha Miguel trong Thánh lễ vậy hả ba?

Anh thấy vợ có vẻ lo lắng và gật đầu nhanh trước khi ông trả lời cho cậu con trai 13 tuổi:

– Chris nè, con có thể nghe mẹ và ba thảo luận vấn đề này. Bộ Tôn Giáo đã tuyên bố rằng các tôn giáo phải có một nhân viên tham dự khi có bất kỳ nghi thức thờ phượng của tôn giáo nào đó. Họ không được nói điều gì xúc phạm tới tôn giáo khác hoặc đối nghịch với luật hôn nhân, hạn chế việc thờ phượng và thảo luận về Thiên Chúa nơi công cộng. Cha mẹ bảo vệ con khỏi ảnh hưởng các tin tức xấu, nhưng… cha mẹ nghĩ rằng đã đến lúc con cần biết sự thật.

– Ba ơi, con không hiểu. Làm sao người ta nghĩ đức tin Công giáo phá bỏ pháp luật chứ? Chúng ta là những người luôn bảo vệ sự sống, nâng đỡ tính thánh thiện của hôn nhân và phục vụ người nghèo. Đó không là những điều tốt sao?

Điều này khó lắm. Khó ngay cả khi nói ra. Nhưng trong mấy năm qua, có những đợt tấn công nhắm vào Giáo hội Công giáo từ phía chính phủ và các nhóm chống tôn giáo bắt đầu leo thang và càng ngày càng tệ hơn. Các tôn giáo khác cũng chịu đau khổ trong thời buổi rất khó khăn này.

Chris cũng cảm thấy bị “sốc” trong thời đại ngày nay, nhưng điều này không xảy ra thoáng qua. Vài năm trước, chính phủ đã đưa ra luật y tế mới ở Hoa Kỳ, kể cả cái mà người ta gọi là “ủy thác”. Điều này bắt những nhà tuyển dụng Công giáo, kể cả các bệnh viện Công giáo, các tổ chức Công giáo phi lợi nhuận và các doanh nghiệp do người Công giáo điều hành để đưa ra phương cách ngừa thai và phá thai cho nhân viên, ngược với các giáo huấn tôn giáo. Có cuộc đấu tranh quan trọng để ngăn chặn điều này xảy ra, nhưng Tòa án Tối cao đã đưa ra luật mới này.

Trong những năm sau đó, chính phủ bắt đầu theo dõi tôn giáo và bắt chối bỏ đức tin. Điều quan trọng kế tiếp chống lại các hội từ thiện của các tôn giáo nhằm đánh thuế và chính phủ trở thành nguồn hỗ trợ từ thiện ở trong nước. Họ thường ủng hộ các nhóm giúp đỡ chính trị. Các tôn giáo bị bách hại, thúc đẩy ngừa thai và phá thai, kể cả các vấn đề khác, nhưng Giáo hội vẫn kiên cường tái xác định giá trị hôn nhân.

– Đó là lý do để chúng ta có Bộ Tôn Giáo sao? Rồi điều gì sẽ xảy ra nữa?

– Không ai biết, nhưng Bộ Tôn Giáo càng ngày càng xóa bỏ dấu vết về tự do tôn giáo ở đất nước chúng ta. Có vẻ như điều xảy ra từ vài năm trước đang thành hiện thực: Chính phủ muốn thay thế Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Các giám mục và linh mục đang phản đối, nhiều người đã bị bắt. Đức giáo hoàng đã kêu gọi cầu nguyện và tích cực hành động từ những người Công giáo, nhưng e rằng chúng ta đã đi quá xa theo vết xe cũ.

Người mẹ cầm tay con trai Chris, nhìn vào mắt con trai và hỏi:

– Chris, cha mẹ yêu con và Chúa Giêsu yêu con. Con biết vậy chứ? Chúng ta sẽ gặp khó khăn đang chờ chúng ta ở phía trước, chúng ta phải kiên cường mà vững tin vào Đức Kitô và Giáo hội. Chính phủ sẽ vui nếu mọi người rời bỏ nhà thờ, chùa chiền và các nơi thờ phượng, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ làm vậy. Con hiểu không?

– Dạ, con hiểu. Con chỉ thắc mắc là tại sao chúng ta lại ở vào tình trạng này.

– Chris nè, cha mẹ thường nói chuyện về những điều tương tự như vậy. Chúng ta có thể nhìn lại mấy chục năm qua và thấy rõ ở đất nước này. Tuy chậm nhưng chắc chắn gia đình truyền thống sẽ không tan rã vì hôn nhân đã được tái xác định. Dễ dàng ngừa thai, phá thai và chủ nghĩa duy vật không được phục hồi đã ảnh hưởng nhiều tới thế hệ của chúng ta. Người ta càng ngày càng ích kỷ và tham lam vì chúng ta đã tạo nên những thần tượng giả tạo trên thế giới này chứ không chú trọng những điều tốt được hứa ban ở trên trời. Hậu quả là chúng ta càng ngày càng xa Chúa và kỳ thị tôn giáo. Sự lãnh đạm và vô cảm đã khiến chúng ta im lặng trước sự bành trướng của sự chuyên chế và bất công khi mà đáng lẽ chúng ta phải nói thẳng nói thật và hành động để ngăn chặn.

Câu trả lời không dễ dàng và chúng ta phải cầu xin ơn can đảm, sức mạnh và khiêm nhường. Chúng ta vẫn bám chặt vào Đức Kitô và Giáo hội dù gặp khó khăn và đau khổ. Chúng ta phải rạch ròi: Chọn Nước Trời hoặc Hỏa Ngục. Hỏa Ngục là đường dễ đi, chỉ cần quay lưng lại phía Đức Kitô. Tức là chúng ta để cho chính phủ làm những gì họ muốn, còn chúng ta không trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta có thể chọn Nước Trời. Chúng ta có thể yêu mến và phụng sự Thiên Chúa, ghi nhớ sự hy sinh cao cả mà Ngài đã thực hiện trên Thánh Giá vì chúng ta. Người ta có thể chọn điều tốt hoặc xấu, cuộc đời chúng ta cũng sẽ thay đổi, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ tìm được Nước Trời nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chris nhìn cha mẹ rồi hạ giọng:

– Chúng ta có thể cầu nguyện ngay bây giờ để xin ơn sức mạnh và can đảm không? Chúng ta cần hỗ trợ nếu chúng ta gặp khó khăn và giúp đỡ Giáo Hội sinh tồn. Con không biết làm gì khác ngoài việc cầu nguyện.

Cha của Chris mau mắn cho xe vô khu mua sắm, dừng lại và lấy tràng hạt ra. Vợ và con trai ông cũng lấy tràng hạt ra và họ cùng làm dấu Thánh Giá: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình…”.

RANDY HAIN

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ IntegratedCatholicLife.org)

Y đức và trách nhiệm

Y đức và trách nhiệm

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:02 Sáng 8/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (08.04.2013) – Reader’s Digest – Ngày 7 tháng 4 là ngày Sức Khỏe Thế Giới. Homer định nghĩa: “Sức khỏe là một tinh thần trong sạch trong một thân thể tráng kiện”. Người Việt nói: “Sức khỏe là vàng”. Còn với thầy thuốc thì phải có y đức. Vậy bác sĩ phải làm gì khi bị bắt buộc sát nhân? Một sự giằng co mãnh liệt, một cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác. Phải can đảm và dứt khoát mới có thể vượt qua được chính mình. Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra với một bác sĩ trẻ, y như trong phim vậy. Hãy chung tay xây dựng văn minh tình thương, văn hóa sự sống, vì ai cũng có quyền cơ bản nhất là QUYỀN SỐNG!

Ngày 24-12-1989, một bệnh viện ở miền Nam Trung quốc rất nhộn nhịp từ sáng sớm. BS Wong, 24 tuổi, gặp một tình huống rất khó xử. Đêm đó là ca trực của bác sĩ trẻ này, trách nhiệm mới và đầy hãi hùng. Anh rất mệt vì đã nhịn đói suốt 8 giờ qua. Đó là một ca sinh ba.

Đến 1 giờ sáng anh mới được ngả lưng, nhưng anh không tài nào chợp mắt được. Anh nghĩ đến 3 trẻ sơ sinh, và nghĩ đến cha mẹ mình. Anh đã chọn nghề bác sĩ, một nghề mà ở Trung quốc chỉ được trả lương bằng 1/3 số lương của người phu quét đường. Anh thường nói: “Công việc cao quý nhất là cứu sống người khác”.

BS Wong được nhiều người quý mến vì anh sống khiêm nhường, ăn mặc giản dị, đến cái túi xách đã hư khóa kéo mà anh vẫn xách theo đi làm hằng ngày. Anh quan niệm: “Dụng cụ không làm nên bác sĩ, chính kiến thức và lòng trắc ẩn mới làm nên bác sĩ”.

Khi cảm thấy buồn ngủ, BS Wong chợt nhớ hôm đó là lễ Giáng Sinh. Như hàng triệu người Trung quốc khác, song thân anh cũng là tín đồ Cơ Đốc Giáo. Gia đình anh đã từng mừng lễ Giáng Sinh, trang trí cây Nô-en, và hát bài “Silent Night” (Đêm Thánh Vô Cùng) của Nhạc sĩ Franz Xaver Gruber.

Tiếng gõ cửa làm anh thức giấc. Một nữ hộ sinh nói với anh: “Mau lên, chúng tôi cần anh làm việc này”. Anh bước nhanh theo cô hộ sinh 20 tuổi kia. Anh nghe thấy tiếng khóc chào đời của đứa trẻ. Khi anh tới phòng sinh, một phụ nữ nhễ nhại mồ hôi đang quằn quại trên giường, miệng la to: “Đừng, đừng mà!”.

Cô hộ sinh hút chất iodine vào ống tiêm. Cô cho BS Wong biết rằng phụ nữ này sợ phá thai. Chị đã có một con và đang mang thai con thứ hai được 8 tháng, nhưng luật pháp Trung quốc cấm sinh con thứ hai. Ủy ban kế hoạch hóa gia đình đã bắt chị vào bệnh viện để phá thai. Nhưng đứa bé vẫn sống sau khi trục thai ra. Cô hộ sinh nói: “Tôi yêu cầu người ta chôn sống đứa bé nhưng trời mưa quá, không đem nó đi chôn được”. Gần bệnh viện có một ngọn đồi nhỏ để chôn các thai nhi như vậy.

Là người trực, BS Wong có trách nhiệm không được để cho ai biết chuyện. Nghĩa là tiêm 20 ml iodine hoặc rượu vào đầu đứa bé, và nó sẽ chết ngay trong vòng vài phút. BS Wong cảm thấy “chết đứng” khi nhận ống tiêm từ tay cô hộ sinh. Anh không do dự về ca phá thai đầu tiên của 3 tháng trước khi bắt đầu hành nghề bác sĩ, nhưng lần này khác hẳn. Từ khi anh làm ở bệnh viện này, anh luôn để cho các bác sĩ khác làm nhiệm vụ thay mình. Lần này, người mẹ của đứa bé nhìn anh bằng ánh mắt van lơn. Chị biết mũi kim oan nghiệt kia mang ý nghĩa gì. Chị khóc: “Xin hãy thương hại cháu!”.

Trước vẻ phản đối của người mẹ, anh đi vào phòng tắm. Bên cạnh thùng rác là thùng nhựa màu đen có hàng chữ trên nắp: “Các trẻ em chết”. Tiếng cục cựa và tiếng khóc vang lên. Anh quỳ xuống xin cô hộ sinh mở nắp thùng ra. Anh tưởng tượng ra những đứa trẻ sơ sinh đang ở lằn ranh giữa sự sống và sự chết. Trong thùng có một bé trai nặng khoảng 2,5 kg đang nắm chặt hai tay và đạp chân. Môi nó tím bầm vì thiếu ô-xy. Anh bế nó lên, sờ vào thóp (soft spot) thấy vẫn ấm. Tim anh đập mạnh và nghĩ: “Đây là sự sống, là một con người”.

Tiếng người mẹ vẫn gào lên: “Bác sĩ ơi! Dừng tay lại!”. Cô hộ sinh dúi ống tiêm vào tay anh. Không dưng sao anh thấy nó trĩu nặng. Anh bị giằng co giữa cái thiện và cái ác. Ngay lúc đó, đứa bé đạp chân làm cho ống tiêm đâm vào người nó. Anh liền rút kim ra. Anh nghĩ: “Hôm nay là lễ Giáng Sinh, tôi không thể làm điều này!”. Anh đưa tay sờ lên môi đứa bé. Nó liền bú đầu ngón tay anh. Nó đói. Nó muốn sống. Anh như chết lặng và làm rơi ống tiêm xuống nền nhà và vỡ tan tành!

Anh bảo cô hộ sinh đưa đứa bé tới phòng săn sóc đặc biệt. Anh xin được trực tiếp săn sóc đứa bé. Anh tin rằng một bác sĩ sản khoa ngoài 50 tuổi sẽ không nỡ làm hại một đứa bé vô tội. Anh nói với bà: “Có một bé trai còn sống sau khi đã bị chích thuốc. Xin bà cho nó vào phòng săn sóc đặc biệt”. Bà cương quyết: “Tuyệt đối không được! Đây là đứa con thứ hai rồi!”. Anh năn nỉ: “Nhưng nó vẫn khỏe mạnh. Bà nhìn nó mà xem”. Bà vẫn nhất định không chịu: “Tại sao anh yêu cầu tôi làm như thế? Anh biết chính sách mà!”. Giọng bà đanh lại khiến anh sợ, nói “xin lỗi” rồi bế đứa bé đi.

Tại buổi họp ban cán sự bệnh viện, bác sĩ trưởng thường nhắc nhở tầm quan trọng của chính sách hạn chế sinh sản, và cho biết đã có người phải vào tù vì để cho đứa bé sống. Đó là một đàn ông mập mạp, ít nói, hơn 50 tuổi, chuyên đi buôn bán trẻ em. Mỗi lần được trả 30 tệ. Trung bình mỗi ngày được 4 đứa. Như vậy số tiền ông ta kiếm được gấp đôi lương tháng của một bác sĩ. Anh hỏi một đồng nghiệp: “Sao nhiều vậy?”. Người bạn trả lời: “Vì không ai dám làm như ông kia”. Nghĩa là sau khi trục thai mà đứa trẻ còn sống thì ông ta sẽ chôn sống nó, dù sao thì cũng buộc phải tuân thủ chính sách hạn chế sinh sản của nhà nước.

Vài tuần sau, một cô hộ sinh đưa đến một thai nhi bị trục ra mà vẫn còn sống, rồi bỏ nó bên vệ đường. Nghe tiếng khóc, viên cảnh sát phát hiện và xin được can thiệp. Sau đó liền có lệnh: “Không được đưa thai nhi còn sống ra khỏi bệnh viện, phải tiêm thuốc cho chết”.

Trở lại phòng sinh, BS Wong gặp một đàn ông với khuôn mặt bị nhiều vết roi da. Đàn ông này vội nắm lấy tay anh và nói: “Bác sĩ ơi! Đây là đứa con trai mà chúng tôi mong đợi. Xin đừng giết nó!”. Anh tới phòng tắm. Đứa bé vẫn nằm trên sàn nhà. Anh hỏi cô hộ sinh: “Tại sao cô không làm theo hướng dẫn của tôi?”. Cô hỏi: “Nhưng ai sẽ đưa đứa bé này đi?”. Cô có ý nói đứa bé không có quyền sống. Cô ngạc nhiên khi thấy BS Wong đưa đứa bé đi và đặt nó vào chiếc nôi.

Dưới ánh đèn tia cực tím, với sự hỗ trợ của các ống dẫn dưỡng khí chụp vào mũi và miệng, chân tay đứa bé hồng hào dần. Anh còn cẩn thận quấn cho nó một lớp chăn mềm.

Cô hộ sinh chuẩn bị một ống tiêm khác – lần này là rượu – và đặt trên chiếc khay bên cạnh chiếc nôi. Người mẹ lại khóc lóc, van lơn. BS Wong đặt tay lên vai chị và trấn an: “Chị bình tĩnh. Tôi không muốn hại con của chị đâu. Tôi đang tìm cách cứu nó”. Sản phụ nhẹ giọng: “Tôi sẽ mang ơn bác sĩ suốt đời”.

Cô hộ sinh hỏi bản báo cáo, BS Wong nói: “Đừng viết gì hết!”. Cô hộ sinh thất vọng bỏ đi. Nhìn đứa bé có khuôn mặt kháu khỉnh, tóc đen, anh nghĩ: “Cuộc sống này là QUÀ TẶNG CỦA THƯỢNG ĐẾ, không ai có quyền lấy đi. Có phải đây là cách mà Thượng Đế nói với con người chăng?”.

Anh đến gặp bác sĩ trưởng: “Xin lỗi, tôi không thể làm khác hơn. Tôi cảm thấy đó là tội sát nhân, và tôi không muốn là kẻ sát nhân”. Bác sĩ trưởng hét lên: “Làm sao mà anh nhận mình là bác sĩ sản khoa được chứ? Đừng làm phiền tôi nữa. Cứ làm theo mệnh lệnh!”.

Trở lại phòng sinh, anh thấy đứa bé đang ngủ ngon. Anh chạm tay vào miệng nó thì nó lại bú tay anh. Anh bật khóc và nói: “Vẫn đói hả bé?”. Anh chợt thấy sợ. Anh nhớ tới cha mình. Người có thể giúp gì chăng? Anh gọi điện về nhà. Lương tâm nhắc nhở anh: “KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI!”. Cha anh nói với anh qua điện thoại: “Ba rất hãnh diện về con, con trai ạ!”. Mẹ anh cũng xúc động nói: “Mẹ cũng vậy. Nhưng con phải cẩn trọng đấy. Đừng viết gì hoặc để lại bất kỳ dấu vết nào, con trai nhé!”.

Anh hiểu. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Wong mới 8 tuổi. Cha anh đã bị bắt vì cứu một viên chức bị coi là chống đối chính quyền. Cha anh bị đi đày tới một vùng quê hẻo lánh, còn mẹ anh bị đưa đi tập trung lao động. Lúc đó, Wong và em trai 4 tuổi phải sống nhờ hàng xóm. Hoàn cảnh rất khó khăn!

Anh lưỡng lự, nhưng cha anh nói: “Con có một cuộc sống, đứa bé kia cũng vậy. Giết nó là giết đồng loại của mình”. Anh cúp máy và vội vàng tới phòng sinh. Cửa khóa chặt, cha của đứa bé đập cửa và kêu la: “Xin đừng giết con tôi!”.

Anh chạy vào phòng bằng cửa hông. Bác sĩ trưởng đã có mặt bên chiếc nôi của đứa bé và đưa tay sờ vào thóp nó. Khăn quấn và ống dưỡng khí đã bị lấy đi. Nó đang khóc dữ dội. Anh gào lên khi đưa tay giật lấy ống tiêm: “Xin đừng tiêm nó!”. Bác sĩ trưởng la lên: “Anh làm cái quái gì vậy?”. BS Wong không sợ, tâm hồn anh bình an. Anh nói: “Đứa bé này vô tội. Sao lại giết nó?”. Bác sĩ trưởng lườm anh, và gằn giọng: “Nếu anh tiếp tục cãi lệnh, anh không bao giờ được hành nghề thầy thuốc nữa”. Anh nói: “Tôi thà không làm bác sĩ chứ tôi không giết nó”. Bác sĩ trưởng lầm bầm: “Mày điên rồi!”. Bác sĩ trưởng bỏ đi, anh lại cho đứa bé thở dưỡng khí.

8 giờ sáng, BS Wong bị gọi lên văn phòng để chịu khiển trách và làm bản kiểm điểm: “Tại sao anh không làm tròn trách nhiệm của mình? Họ là bạn bè hay thân nhân của anh sao? Anh nhận tiền của họ à?”. Anh nổi nóng: “Tôi không hiểu ngôn ngữ của họ thì làm sao tôi biết họ muốn gì? Còn tiền ư? Cứ khám tôi sẽ rõ!”.

Các nhân viên trong Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình đến bắt buộc anh tiêm thuốc cho đứa bé chết, nhưng anh nhất định từ chối. Và anh bị bắt. Sau đó, họ giết chết đứa bé bằng một mũi thuốc. BS Wong đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không cứu được đứa bé.

Tuy nhiên, lương tâm anh vẫn thanh thản vì anh không giết người, lương tâm anh không bị cắn rứt, không bị dày vò. Anh rất nhân đạo. Anh là một bác sĩ còn trẻ tuổi đời và tuổi nghề, nhưng anh hành nghề y với cả y đức và trách nhiệm của người thầy thuốc: Cứu người chứ không giết người.

Anh bị đẩy lên cao nguyên, vùng sâu vùng xa, rồi sau đó anh trốn sang Hoa Kỳ. Anh đã thay tên đổi họ là Yin Wong để tránh hậu họa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Tản mạn ngày Lễ Phục Sinh

Tản mạn ngày Lễ Phục Sinh

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:07 Sáng 1/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (01.04.2013) – Sài Gòn – Người Việt có câu “cửa miệng” rất bình dân: “Chó chết là hết chuyện”. Nói vậy là sao? Vì “chó” là loài động vật “phổ biến” đối với dân Bắc (mà miền Bắc là “gốc” của Việt quốc, miền Nam là do “giành dân chiếm đất” từ cuộc Nam Tiến xưa kia).

Câu nói đó giản dị mà thâm thúy, liên quan nhiều thứ, thậm chí liên quan cả đức tin Kitô giáo. Tại sao? Có nói ngoa không? Thưa là “không”. Tại sao là “không”? Thánh Phaolô xác định: “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không trỗi dậy” (1 Cr 15:13). Đức Kitô phục sinh là “ấn tín” chắc chắn rằng chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Bài “Công bố Tin Mừng Phục Sinh” (Exultet), trong đêm Vọng Phục Sinh, nói rõ: “Nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”.

Nếu Đức Kitô không phục sinh vinh thắng, tất nhiên chúng ta cũng không bao giờ sống lại, thế thì niềm tin của chúng ta là hão huyền, cuộc sống của chúng ta vô ích, chúng ta chẳng khác gì “chó chết”, sống rồi chết, người ta ăn tiết canh và “sống trên đời ăn miếng dồi chó”, thế là xong, và thế là “hết chuyện”. Thế thì chúng ta chẳng hơn gì loài động vật hoặc sinh vật. Động vật có giác hồn (sống và biết buồn, biết vui,…), sinh vật có sinh hồn (sống mà không biết vui, buồn,…), nhưng ct có linh hồn (sống và biết buồn, biết vui,… đặc biệt là có đời sống tâm linh).

Sống cũng có những cách sống khác nhau, sống cũng có “điều kiện”. Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Đó mới thực sự là niềm tin của chúng ta.

Tiếng A-lê-lu-ia quá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là trong Mùa Phục Sinh. Tôi không rành khoa ngôn ngữ (ngữ học), chỉ mày mò Việt ngữ cũng chưa “nên thân”, dĩ nhiên là không dám “múa rìu qua mắt thợ”, nhưng thấy người ta nói rằng âm Việt ngữ đọc là A-lê-lu-ia, theo tiếng Hy Lạp là Αλληλούϊα (Ha-lê-lu-ia), thấy các nhà ngữ học trích dẫn Kh 19:3 ghi: “Ha-lê-lui-a! Khói lửa thiêu nó cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp!” (Καὶ δεύτερον εἴρηκεν, Ἁλληλούϊα: καὶ ὁ καπνὸς αὐτῆς ἀναβαίνει εἰς τοὺς αἰῶνας τῶν αἰώνων).

Hallelujah, Halleluia, Allelluja, Alleluia, thậm chí có người còn viết là Alleluya. Viết thế nào? Thực ra đó chỉ là quy ước của nhân loại. Chẳng biết Tây hay Ta, mà chỉ là “ba rọi”, theo thiển ý của tôi, âm “ia” phát âm gần giống Việt âm là “da”, thế thì sao không Việt hóa luôn? Cứ đọc “toạc móng heo” ra là Ha-lê-lu-da hay A-lê-lu-da cho… “khỏe”. Nửa nạc nửa mỡ, chả ai biết thế nào, mà dân Việt mình đâu có vốn ngoại ngữ nhiều, không khéo lại hóa “ngại ngữ” đấy! (Vì cách phiên âm của Việt Nam không thống nhất. Vì dụ: Giê-su hay Giê-xu?).

Viết này viết nọ rồi “minh chứng” là “h aspiré” hoặc “haleine” để làm gì? Có thực sự cần không? Có chăng chỉ cần đối với các nhà nghiên cứu hoặc người biết loại ngôn ngữ đó. Giới bình dân có mấy ai hiểu? Còn hơn là “vịt nghe sấm”. Sao không nói dùng Việt ngữ là “câm” cho mọi người cùng hiểu? Tục ngữ Việt Nam có câu hay lắm: “Thà chết đống hơn sống một mình”. Chí lý thật!

Sự thật mất lòng, nói thẳng như ruột ngựa chứ “vòng vo tam quốc” chi cho rắc rối. Mà bản chất ngôn ngữ là giản dị, nói sao người ta hiểu đúng ý là được, “màu mè” và “rườm rà” chỉ là dạng “chảnh”, muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình. Khi dịch từ tiếng nước này sang tiếng nước nọ cũng vậy, ai cũng “mắc dịch”, vừa khôi hài vừa thâm ý! Thế nên người ta thường phải sử dụng “ngôn ngữ cơ thể” – Hán Việt gọi là “thể ngữ”.

Chị Maria Mađalêna đã từng bị người ta lôi ra ném đá và được Chúa Giêsu tha bổng (x. Ga 8:2-11), Chị cũng lại bị người ta chê trách khi Chị lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau (x. Ga 12:1-8), rồi Chị còn hoảng hốt khi thấy mộ trống, tưởng thi hài Thầy bị lấy mất (Ga 20:1-2). Thế nhưng Chị lại là người đầu tiên được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh (x. Ga 20:11-18). Sau khi được Chị báo tin, Giáo hoàng tiên khởi Phêrô còn ngớ người ra khi thấy mộ trống. Đặc biệt là trong Lễ Phục Sinh, Giáo Hội còn có phần Ca Tiếp Liên nói về việc này. Ai dám nói gì thêm không???

Chúa Giêsu phục sinh, đó là niềm hạnh phúc tột đỉnh của nhân loại, của mỗi tội nhân chúng ta. Phàm ngữ không thể đủ từ ngữ để diễn tả, điều duy nhất chúng ta có thể làm là chỉ còn biết cúi đầu cảm tạ không ngừng, đồng thời phải loan truyền về Đức Kitô Phục Sinh hằng ngày, qua từng động thái!

TRẦM THIÊN THU

Chúa Nhật Phục Sinh – 2013

Biệt ly

Biệt ly

(Thứ Sáu Tuần Thánh, năm C)

nguồn: thanhlinh.net

Biệt ly – hai tiếng trĩu buồn

Lệ sầu, lưu luyến, nguồn cơn đoạn trường!

Thứ Sáu Tuần Thánh là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 3 giờ chiều), giờ của Lòng Chúa Thương Xót. Nếu không có Lòng Chúa Thương Xót thì nhân loại chỉ là hư vô!

Cuộc chia ly nào cũng bịn rịn, lưu luyến, đau khổ và nước mắt, nhất là cảnh biệt ly khi người thân về bên kia thế giới. Lúc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội. Giây phút biệt ly là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong tích tắc, nhưng lại nặng nề trôi… Và phút cuối là lúc người ta nói thật nhất.

Chúa Giêsu có 2 bản tính: Thiên tính và nhân tính. Và theo nhân tính, Ngài cũng rất đau đớn vì đã kiệt sức do đòn roi, vác Thập giá lên đồi cao theo đường ngoằn ngoèo, té lên té xuống nhiều lần, rồi không chỉ chịu đói chịu khát mà còn bị những gai nhọn đâm thấu đầu, tiếp theo lại bị đinh ghim chặt chân tay và lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn. Rất nhức buốt. Thân xác Ngài tàn tạ, chảy ra đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng. Chúng ta chỉ bị cái dằm đâm vào tay cũng la toáng lên rồi!

CON CHIÊN VÔ TỘI

Thiên Chúa xác định: “Người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” dù cho “tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52:13-14). Nhưng mọi người đều phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn. Người tôi trung đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15). Người tôi trung đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ, “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).

Chúng ta đã được biết về “hành trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên thấy… bình thường, và cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Kinh thánh nói: “Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được?” (Is 53:1). Thật khó tin, nhưng lại là sự thật!

Ngôn sứ Isaia mô tả: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật nghịch lý, có lẽ vì chúng ta quá ảo tưởng!

Bảng đối chiếu liệt kê rõ: “Chính Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, Ngài bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, Ngài đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Trí óc loài người không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”, là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”. Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”, nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãi mà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn “bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu” (Is 53:8a). Thậm chí “Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và “vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b).

Cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy mà Ý Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi tội” đó có nhiều tội của mỗi chúng ta!

Thánh vịnh đã nói lời cuối của người hấp hối: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv 31:15-16).

Người Ấy chấp nhận mọi thiệt thòi và cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17), đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18).

Thánh Phaolô nói: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa” (Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong các ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta.

Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu van khóc lócdâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:7). Thật không hề đơn giản chút nào! Nhưng chính lúc đó là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9). Trước khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới sự phục sinh vinh quang.

CHẤP NHẬN TANG THƯƠNG

Phúc âm hôm nay là tấn bi kịch, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng. Thật kỳ diệu!

Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong 12 môn đệ “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo. Người ta lục soát, tìm cách gài bẫy và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “ghế”, thế nên họ làm mọi cách để hạ nhục Ngài đủ kiểu. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!

Ngài hỏi: “Các anh tìm ai?”, thì họ đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài vừa nói “chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Có lẽ lúc này Giuđa đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài!

Ngài lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?”. Họ vẫn cương quyết: “Tìm Giêsu Nadarét”, mà không hề tởn chút nào. Lì thật! Đức Giêsu thản nhiên: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai” (Ga 18:9). Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi” một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11). Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.

Họ bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do Thái: “Nên để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14). Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm độc. Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!

Nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Đâu phải”. Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng công 3 lần trước khi gà gáy. Với bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay!

Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói gì, không tự biện minh cho mình là đúng, không một lời kêu oan.

Đến khi bị tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn, Đức Giêsu mới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” (Ga 18:22). Hỗn láo thật! Nhưng Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá!

Sau đó, ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan” (Ga 18:30). Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không nhận và nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Vậy mà ông Philatô vẫn không hiểu nên hỏi: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Ông Philatô “dốt đặc cán mai” nên ngớ ngẩn hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38).

Theo tục lệ Do Thái, vào dịp lễ Vượt Qua, thường có một tội nhân được tha. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay không, thì họ la lên: “Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40). Baraba là một tên cướp khét tiếng, vậy mà họ còn thương và quý hơn là Chúa Giêsu.

Thế là tổng trấn Philatô truyền đem Đức Giêsu đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!”, và vả vào mặt Ngài. Như vậy, nhân vị của Ngài bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tước đoạt. Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy” (Ga 19:6). Một người nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, thì quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác. Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không đề cao nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?

Ai nói gì Chúa Giêsu cũng chỉ im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt! Và Chúa Giêsu nói với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.

Cuối cùng, ông Philatô đành cho thi hành án tử đối với Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập giá lên đồi Gôngôtha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp. Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22). Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen!

Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ. Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Nhưng người ta lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:32). Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí.

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội. Sự kiện hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế Giáo hội không cử hành thánh lễ hôm nay mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh giá và rước lễ.

Tình Giêsu là “tình cho không biếu không”, nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử, nên Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).

Một điểm khác chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”, như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo”. Rất nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó!

Lạy Chúa, chúng con thật khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành hơn người khác, chúng con đã a dua và đồng lõa với cái ác mà cứ tưởng mình chân chính hơn người khác. Chúng con chân thành nhận mọi lỗi lầm, thành tâm xin lỗi Chúa và xin lỗi tha nhân. Xin thương xót chúng con và ban cho chúng con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Cô đơn, Sợ hãi và Yêu thương

Cô đơn, Sợ hãi và Yêu thương

Tác giả:Trầm Thiên Thu

nguồn:thanhlinh.net

Bạn có bao giờ cảm thấy cô đơn tột cùng? Hoặc có bao giờ hoang mang và sợ hãi? Cô đơn thường liên quan lo sợ, và lo sợ có liên quan cô đơn. Phải chăng đó là một hệ lụy tất yếu?

“Cô đơn” khác “một mình”. Bạn có thể chỉ có một mình (sống một mình, ngồi một mình, làm việc một mình,…), nhưng có thể bạn không hề cô đơn, vì bạn đang “bận” suy nghĩ điều gì đó: Tìm tứ thơ, tìm ý nhạc, tìm cách xử lý vấn đề nào đó, đang nghĩ về người thân yêu, và nhất là đang cầu nguyện,… Nhưng khi bạn có điều gì buồn, bạn vẫn có thể cảm thấy cô đơn và trống trải, dù xung quanh bạn có rất nhiều người, bạn có thể cô đơn ngay trong đám tiệc, thậm chí cô đơn ngay trong gia đình mình.

Nỗi cô đơn thật đáng sợ biết bao!

CÔ ĐƠN

Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giêsu tâm sự với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” (Mt 26:38). Nỗi lo buồn quá lớn đến nỗi có thể “chết được”. Ngài muốn các môn đệ thân tín cùng canh thức để chia sẻ nỗi buồn “chết người” kia, nhưng bản chất con người yếu đuối, thân xác nặng nề, họ không đủ sức canh thức với Thầy mình nên họ đã “vô tư” lăn ra ngủ khò. Thấy vậy, Chúa Giêsu càng buồn hơn và càng cô đơn hơn.

Cô đơn nối tiếp cô đơn. Chúa Giêsu càng cô đơn hơn khi Giuđa lại nỡ lòng dùng chính nụ hôn để phản bội Ngài: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13:18). Rồi nỗi cô đơn của Chúa Giêsu lại nhân lên khi thấy môn đệ thân tín nhất là Phêrô cũng đang tâm chối bỏ Thầy mình, không chỉ 1 lần mà đến 3 lần (x. Mt 26:69-75).

Cuối cùng, nỗi cô đơn ấy lên tột đỉnh khi Chúa Giêsu bị treo trên Thập giá, loại hình xử tử nhục nhã nhất thời đó chỉ dành cho những tử tội độc ác khét tiếng. Cô đơn quá, thế mà Chúa Cha vẫn lặng im, cho nên Ngài đã thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:45). Điều này đã được tác giả Thánh vịnh 22 tiên báo: “Lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?” (Tv 22:2).

Đầu năm 2012, cái lạnh kéo dài cả tháng trời, hằng trăm người Âu châu đã chết vì lạnh cóng, lạnh đến nỗi những tảng đá trong suốt như pha lê. Những người Phi châu đang phải “sống mòn” trong nỗi cô đơn vì sự đói khát từng ngày. Nỗi cô đơn cũng đồng nghĩa với “cái lạnh tâm hồn”. Cái lạnh thời tiết không đáng sợ bằng cái lạnh trong tâm hồn. Người khác bị cô đơn cũng có phần trách nhiệm của chúng ta, đó liên đới trách nhiệm. Sự im lặng đáng sợ của chúng ta là cách chúng ta loại bỏ và giết chết người khác không cần vũ khí!

Thánh Thomas Aquinô nói: “Khi chúng ta cho là cô độc thì Thiên Chúa ở bên chúng ta. Khi tất cả đều bỏ chúng ta thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta”. Còn Thánh Augustinô nói: “Ngài có đó khi ta tưởng mình đơn côi, Ngài nghe ta khi chẳng có ai đáp lại, Ngài thương ta khi tất cả đều hững hờ”. Chúng ta không là “cái đinh” gì, chỉ là bụi đất hèn mọn, thế mà Ngài vẫn yêu thương: “Thiên Chúa yêu chúng ta, ban ơn cho chúng ta mà hoàn toàn không muốn chúng ta báo đáp; phàm tất cả những gì của chúng ta, ngay cả cái yếu đuối, Ngài cũng yêu” (Thánh Têrêsa Hài Đồng). Thật may mắn và hạnh phúc!

Nỗi cô đơn của chúng ta chắc chắn không là gì so với nỗi cô đơn của Chúa Giêsu. Ngài không chỉ cô đơn từ vườn Ghết-si-ma-ni tới đồi Gôn-gô-tha, mà Ngài còn gánh chịu đủ loại nỗi cô đơn cho chúng ta dù chúng ta chỉ là những người hoàn toàn bất xứng.

Ngày nay Chúa cũng vẫn phải chịu cô đơn vì chúng ta. Tại sao? Vì chúng ta vẫn thờ ơ với Ngài, quay lưng lại với Ngài, bỏ ngoài tai những lời Ngài truyền dạy, không tìm đến tâm sự với Thánh Thể, không tắm gội trong Nước Hồng Ân Tha Thứ từ Bí tích Hòa giải, không thể hiện lòng thương xót và không quan tâm tha nhân. Chính chúng ta đã và đang làm nỗi cô đơn của Chúa Giêsu tăng theo cấp số nhân!

SỢ HÃI

Tại vườn Ghết-si-ma-ni, Chúa Giêsu chỉ cho 3 môn đệ thân tín nhất đi theo, đó là 3 trong 4 môn đệ đã được Ngài kêu gọi đầu tiên: Phêrô và hai anh em con ông Dêbêđê. Nhưng họ không an ủi Ngài mà lại làm cho Ngài cô đơn và sợ hãi hơn khi họ vẫn “vô tư”. Thời gian cứ ngắn dần. Toát mồ hôi hột. Giờ G sắp đến, giờ của sự ác. Nỗi sợ hãi bao trùm như màn đêm tối đen, và theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng thấy run sợ trước viễn cảnh hãi hùng khi tưởng tượng những nhát búa căm hờn đóng những cây đinh ghim thấu chân tay Ngài, nên Ngài xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39).

Vâng, “nếu có thể” thôi. Và đó chỉ là một giả thuyết. Chúa Cha vẫn im lặng như giả câm giả điếc, Chúa Giêsu càng sợ hãi, nhưng khi Ngài biết đó là Ý Cha và vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Ngài lại thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng Ý Cha” (Mt 26:42). Một lời “xin vâng” vì tuân phục trong sự vui mừng chứ không hề miễn cưỡng.

Chúa Giêsu khi mặc xác phàm còn sợ hãi như vậy huống chi chúng ta, những phàm nhân “thuần túy”. Tuy nhiên, rất nhiều lần Chúa Giêsu động viên: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20). Chúa Giêsu hiểu và thông cảm với chúng ta, thế nên Ngài không chỉ động viên chúng ta can đảm “đứng dậy” mà Ngài còn hứa chắc nịch: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Ngài không bao giờ hứa suông, không bao giờ nuốt lời. Khi chúng ta cô đơn và sợ hãi, chính Ngài vác chúng ta trên vai. Hãy tín thác vào Ngài, vì Ngài dày kinh nghiệm đau thương, chắc chắn Ngài không bỏ rơi chúng ta phải “đơn thương độc mã” đâu. Vả lại, “không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được gì” (Ga 15:5).

YÊU THƯƠNG

Con người đầy Tham-Sân-Si nên thường bị cô đơn và sợ hãi, do đó mà cần lắm tình yêu thương, vì chính Chúa Giêsu nhắn nhủ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13:34).

Nói yêu thương thì dễ, mà thực hành yêu thương thì không dễ chút nào: “Ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20).

Thiếu yêu thương đích thực thì con người rất dễ thay lòng đổi dạ, như trở bàn tay. Mới vài ngày trước, người ta lũ lượt, kẻ trước người sau, đua nhau lấy áo và lá lót đường cho Chúa Giêsu cưỡi lừa đi qua, họ tung hô vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21:9), thế mà chỉ vài ngày sau họ “lật mặt” ngay mà nói: “Hắn đáng chết!” (Mt 26:66) và đồng thanh hô to: “Đóng đinh hắn vào thập giá!” (Mt 27:22 & 23; Mc 15:13 & 14; Lc 23:21; Ga 19:6 & 15).

Ai muốn nói gì thì nói, Chúa Giêsu vẫn im lặng, ngay cả khi bị người ta nhục mạ và thách thức: “Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27::40). Ngay cả tên cướp cùng chịu án tử với Ngài cũng chưa biết thân mà vẫn gân cổ sỉ vả Ngài. Thế nhưng, tình yêu Thiên Chúa vẫn cuồng si, lòng thương xót của Chúa vẫn trước sau như một, thế nên Ngài không chỉ không oán trách mà còn xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).

Chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta thường xuyên nhục mạ và mưu sát Chúa Giêsu nhiều lần, thế mà Ngài vẫn cho là chúng ta lầm, là không biết việc mình làm. Kỳ diệu quá!

Lạy Thiên Chúa, nỗi cô đơn “chết người” và nỗi sợ hãi tột cùng vẫn không thể vượt qua Lòng Thương Xót vô biên của Chúa Giêsu, Con Yêu Dấu của Cha, xin thương giúp chúng con can đảm vượt qua mỗi khi gặp nghịch cảnh, dám chết cho tội mình, dám chết với Đức Kitô để chúng con có thể được phục sinh với Người. Xin Chúa thương xót và đồng hành với chúng con. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU