HỒI ỨC – Truyện ngắn HAY

Thầy Lê Văn Thông

… Cách đây hơn ba chục năm, hồi tôi học phổ thông cấp III, đồng hồ đeo tay còn là thứ xa xỉ phẩm khan hiếm. Một hôm, thằng bạn cùng bàn sắm được một chiếc đồng hồ mới toanh; nó đeo đồng hồ rồi xắn tay áo lên trông thật oách làm sao, khiến cả lớp phục lăn. Chỉ vài hôm sau đã thấy mấy thằng khác cùng lớp đua nhau sắm đồng hồ đeo tay. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng ao ước được như chúng nó: sắm một chiếc đồng hồ để mọi người trông thấy mà thèm.

Hôm chủ nhật, tôi về nhà chơi. Lấy hết lòng can đảm, tôi nói với mẹ: “Mẹ ơi, con muốn mua một cái đồng hồ đeo tay, mẹ ạ !” Mẹ tôi trả lời: “Con này, nhà mình đến cháo cũng sắp sửa chẳng có mà ăn nữa, lấy đâu ra tiền để sắm đồng hồ cho con ?” Nghe mẹ nói thế, tôi rất thất vọng, vội quáng quàng húp hai bát cháo rồi chuẩn bị về trường. Bỗng dưng bố tôi hỏi: “Con cần đồng hồ làm gì thế hả ?” Câu hỏi của bố nhen lên một tia hy vọng trong lòng tôi. Rất nhanh trí, tôi bịa ra một câu chuyện: “Hồi này lớp con đang học ngày học đêm để chuẩn bị thi đại học, vì là lớp cuối nên bây giờ chúng con lên lớp không theo thời khoá biểu của trường nữa, cho nên ai cũng phải có đồng hồ để biết giờ lên lớp.” Nói xong, tôi nôn nóng chờ bố trả lời đồng ý; thế nhưng bố tôi chỉ ngồi xổm ngoài cửa chẳng nói câu nào.

Trở về ký túc xá nhà trường, tôi chẳng còn dám nằm mơ đến chuyện sắm đồng hồ nữa. Thế nhưng chỉ mấy hôm sau, bất chợt mẹ tôi đến trường, rút từ túi áo ra một túi vải hoa con tý rồi mở túi lấy ra một chiếc đồng hồ mới toanh sáng loáng. Tôi đón lấy nó, đeo ngay vào cổ tay, trong lòng trào lên một cảm giác lâng lâng như bay lên trời. Rồi tôi xắn tay áo lên với ý định để mọi người trông thấy chiếc đồng hồ của mình. Thấy thế, mẹ tôi liền kéo tay áo tôi xuống rồi bảo: “Con này, đồng hồ là thứ quý giá, phải lấy tay áo che đi để giữ cho nó khỏi bị sây xước chứ ! Con nhớ là tuyệt đối không được làm hỏng, lại càng không được đánh mất nó đấy ! Thôi, mẹ về đây.” Tôi tiễn mẹ ra cổng trường rồi hỏi: “Sao nhà mình bỗng dưng lại có tiền thế hở mẹ ?” Mẹ tôi trả lời: “Bố mày bán máu lấy tiền đấy !” Bố đi bán máu để kiếm tiền mua đồng hồ cho tôi ? Trời ơi ! Đầu óc tôi quay cuồng, ngực đau nhói. Tiễn mẹ về xong, tôi tháo chiếc đồng hồ ra, bọc kỹ mấy lớp vải như cũ cất vào cái túi con tý mẹ đưa.

Ngày hôm ấy, tôi hỏi thăm các bạn xem có ai cần mua đồng hồ mới không. Các bạn hỏi tôi tại sao có đồng hồ mà lại không đeo, tôi bảo tôi không thích. Họ chẳng tin, cho rằng chắc hẳn đồng hồ của tôi có trục trặc gì đấy, vì thế chẳng ai muốn mua nó. Cuối cùng tôi đành phải nhờ thầy chủ nhiệm lớp giúp tôi tìm người mua đồng hồ và thành thật kể lại đầu đuôi câu chuyện cho thầy nghe, vừa kể vừa nước mắt lưng tròng. Thầy chủ nhiệm nghe xong bèn vỗ vai tôi và nói: “Đừng buồn, em ạ. May quá, thầy đang cần mua một chiếc đồng hồ đây, em để lại nó cho thầy nhé!” Thầy trả tôi nguyên giá, còn tôi thì dùng số tiền đó nộp hai tháng tiền ăn ở nhà ăn tập thể. Có điều khó hiểu là sau đó chưa bao giờ tôi thấy thầy chủ nhiệm đeo đồng hồ cả. Mỗi lần tôi hỏi tại sao thì thầy chỉ cười không nói gì.

Về sau tôi thi đỗ đại học rồi ra trường và làm việc ở một tỉnh lỵ xa quê. Câu chuyện chiếc đồng hồ kia cứ mãi mãi đeo bám ám ảnh tôi. Trong một dịp về quê thăm gia đình, tôi tìm đến nhà thầy chủ nhiệm cũ và hỏi chuyện về chiếc đồng hồ ấy. Thầy tôi bây giờ đã già, tóc bạc hết cả. Thầy bảo: “Chiếc đồng hồ vẫn còn đây.”  Nói rồi thầy mở tủ lấy ra chiếc túi vải hoa nhỏ xíu năm nào mẹ tôi đưa cho tôi. Thầy mở túi, giở từng lớp vải bọc, cuối cùng chiếc đồng hồ hiện ra, còn mới nguyên. Tôi kinh ngạc hỏi: “Thưa thầy, tại sao thầy không đeo nó thế ạ ?” Thầy chủ nhiệm nhẹ nhàng trả lời: “Thầy đợi em đến chuộc lại nó đấy !” Tôi hỏi tiếp: “Thưa thầy, vì sao thầy biết em sẽ trở lại xin chuộc chiếc đồng hồ ạ ?”. Thầy bảo: “Bởi vì nó không đơn giản chỉ là chiếc đồng hồ, mà quan trọng hơn, nó là lương tâm của một con người.” …

Fb Khôi Nguyên


 

“ỦA ÔNG CHƯA TIẾN SĨ HẢ? SAO KHÔNG ‘LÀM’ MỘT CÁI”? B.S. Đỗ Hồng Ngọc

 Nhung Nguyen

B.S.Đỗ Hồng Ngọc

“PGS-TS-BS” – đó là viết tắt của “Phó giáo sư – Tiến sĩ’ – Bác sĩ”.

Nó là biểu hiện của căn bệnh mới phát sinh trong ngành y. Đó là bệnh hám danh, đang làm tan nát hệ thống y khoa và đang biến hóa thành một đại dịch nguy hiểm cho người bệnh.

Ngày nay, cái bằng tiến sĩ như là một cái bùa hộ mệnh. Nó cũng là cái vé xe cho những chuyến xe đò thăng quan tiến chức.

Nó là cái boarding pass để leo lên vị trí trưởng khoa, làm hiệu trưởng trường Y.

Tuần rồi đi dự một hội thảo chuyên đề và gặp một anh bạn đồng môn trên bàn cà phê.

“Ủa, ông chưa tiến sĩ hả? Sao không ‘làm’ một cái”? Anh bạn tôi hỏi.

Tôi ngạc nhiên về chuyện “làm một cái”. Tiến sĩ là một cái gì như đồ chơi. Tôi lắc đầu.

“Mình đã già. Mình không có khả năng làm nghiên cứu. Cũng chẳng có thầy đỡ đầu”.

Anh bạn tôi cười lớn nói: “Ông mà già gì, đâu cần khả năng làm nghiên cứu, cũng không cần thầy hướng dẫn, chỉ cần bỏ tiền ra mua thôi”.

Tôi cám ơn tấm lòng của bạn cũ và vẫn thấy mình vui với việc giúp người mà không có những râu ria trước tên mình. Bạn cũ tôi bây giờ là một PGS-TS-BS.

TS-BS bây giờ nhan nhản trong các bệnh viện. Thử dạo một vòng các phòng trong bệnh viện ngoài Hà Nội, sẽ thấy trước cửa phòng ai cũng có danh xưng TS-BS in ngay chính giữa cửa phòng. Bảng hiệu đó cho chúng ta biết người đang ngự trị hoặc chiếm lĩnh căn phòng là một bác sĩ và có bằng tiến sĩ.

Bằng tiến sĩ là học vị cao nhất trong thế giới khoa bảng. Tôi không có con số thống kê để nói, nhưng tôi cảm thấy số bác sĩ có danh hiệu TS-BS nhiều hơn bác sĩ trong các bệnh viện Hà Nội. Sài Gòn đang đuổi theo Hà Nội, sắp đến đích nay mai.

Với đà này, một ngày không xa bệnh nhân sẽ không còn gặp bác sĩ nữa, họ chỉ gặp TS-BS.

Danh và thực lúc nào cũng là hai khía cạnh nhức nhối trong y giới.

Bao nhiêu tiến sĩ của nước ta là do thực tài, bao nhiêu là giả, dỏm. Không ai biết được, nhưng xã hội biết.

Xã hội đã từ lâu phong danh tước “tiến sĩ giấy” cho những kẻ bất tài, hám danh, mua quan bán tước. Cụm từ “Tiến sĩ giấy” ngày càng xuất hiện nhiều trên báo chí, trong những câu chuyện thường ngày.

Tức là xã hội biết rằng ngày nay chúng ta có nhiều tiến sĩ dỏm hơn là tiến sĩ thực.

Anh bạn tôi vừa đề cập trên đây không ngần ngại nói rằng để có cái bằng tiến sĩ, anh phải chi ra nhiều tiền. Hỏi bao nhiêu, anh chỉ cười. Nhưng xã hội biết. Những cái giá 5.000 USD,10.000 USD, 20.000 USD đã được đề cập đến. 100 triệu đồng. 200 trăm triệu đồng. 400 triệu đồng. Có khi 500 triệu.

Đó là những con số chóng mặt cho bệnh nhân nghèo. Ai trả tiền?

Xin thưa không phải bác sĩ, mà là bệnh nhân. Họ sẽ ăn tiền các hãng dược. Hãng dược nâng giá thuốc. Bệnh nhân là người cuối cùng trong vòng tròn này. Bệnh nhân lãnh đủ.

Vì thế, mua bán bằng cấp là một trong những yếu tố làm cho giá thuốc cao đến mức “cắt cổ” như ở nước ta. Những kẻ hám danh và bất tài xem chuyện mua bằng tiến sĩ là một đầu tư. Họ có thể chi ra vài trăm triệu hôm nay, nhưng nay mai thì sẽ được chức quyền.

Một khi đã ngồi vào vị trí quyền lực, họ ra sức vơ vét tiền của người dân để trả lại chi phí mua bằng, mua chức vụ. Người dân

cũng chính là đối tượng sau cùng trong đường dây này.

Đừng trách tại sao dân mình nghèo vẫn hoàn nghèo. Cái cơ chế này làm cho họ nghèo. Đã nghèo thì thường chịu phận hèn.

  • BS. Đỗ Hồng Ngọc

 

Hai chị em thiệt mạng trong trận lũ lụt ở Texas được tìm thấy với tư thế ‘hai bàn tay nắm chặt’

Đức Giám Mục Mark Seitz của El Paso lên tiếng kêu gọi lời cầu nguyện của anh chị em giáo dân cho hai bé gái Brooke Harber và Blair Harber đã thiệt mạng trong hoàn cảnh hết sức bi thương.

Hai chị em, Blair 13 tuổi và Brooke Harber 11 tuổi, đã thiệt mạng trong trận lũ lụt ở Texas Hill Country và được tìm thấy cùng với tràng hạt và “hai bàn tay nắm chặt”, gia đình các em cho biết.

Lũ quét đã quét qua miền trung Texas vào thứ sáu. Hơn 80 người đã chết và nhiều người mất tích, theo hãng tin Associated Press. Lũ lụt xảy ra khi sông Guadalupe dâng cao hơn từ 6 m đến 8 m trong vòng 90 phút, gây ra sự tàn phá trên quy mô lớn và buộc phải di tản hàng loạt.

Cảnh báo lũ lụt đã được Cơ quan Thời tiết Quốc gia, gọi tắt là NWS, đưa ra trên khắp Texas và nhiều cảnh báo trong số này dự kiến sẽ kéo dài ít nhất đến sáng Thứ Ba, 08 Tháng Bẩy. Lũ lụt là mối nguy hiểm thời tiết gây tử vong thứ hai ở Hoa Kỳ sau đợt nắng nóng khắc nghiệt, theo dữ liệu của NWS.

Chị em nhà Harber đã qua đời khi đang đi nghỉ cùng gia đình đến Casa Bonita, một khu dân cư có cổng bảo vệ ở Hunt, Texas, dì Jennifer của họ đã chia sẻ trong một tin nhắn đăng trên trang GoFundMe.

Bố mẹ của các bé gái, hai ông bà RJ và Annie đang ở trong một cabin riêng gần đó. Họ thức dậy vì tiếng nước chảy xiết vào khoảng 3:30 sáng và cố gắng đập vỡ cửa sổ để đến chỗ các con gái, nhưng sức mạnh của dòng nước đã ngăn cản họ đến được ngôi nhà nơi các con gái đang ở.

Jennifer viết trên trang GoFundMe rằng Brooke Harber đã nhắn tin cho bố và ông bà ngoại cô lúc 3:30 sáng và nói rằng: “Con yêu bố mẹ”.

Hai chị em được tìm thấy cách đó 15 dặm tại Kerrville.

“Khi được tìm thấy, hai bàn tay của họ đã khóa chặt vào nhau”, trang GoFundMe viết.

Trang GoFundMe mô tả những gì xảy ra là một “cơn ác mộng”.

Một phần của GoFundMe được lập cho gia đình có đoạn viết: “Các con gái của RJ và Annie, là Brooke 11 tuổi và Blair 13 tuổi, đã ở cùng ông bà yêu quý của mình, Charlene và Mike Harber, khi họ mất mạng một cách bi thảm trong trận lũ lụt tàn khốc ở Hunt, Texas. Gia đình hiện đang phải đối mặt với mất mát không thể tưởng tượng nổi và một chặng đường rất dài phía trước.”

https://vietcatholic.net/News/html/296811.htm

Thuy Phan

Tin tức người ta đã kể rằng

Nhiều chuyện cảm động đang hằng loan ra

Lũ lụt tại bang Texas

Nhà cửa đường xá nước đà cuốn trôi

Một trăm mười tám (118) qua đời

Một trăm sáu bốn (164) hiện thời ở đâu?

Thảm họa gây bao thảm sầu

Đứng trước nguy khó ta cầu đến ai ?

Thượng đế : hãy ngừng thiên tai

Hay tha nhân hỡi ta ngoai mong chờ

Câu chuyện Blair, Brook Harber

Nạn nhân nước cuốn bất ngờ giữa đêm 

Biết mình chẳng sống được thêm

Hai trẻ bình tĩnh gọi tên gia đình

Giữa lúc mực nước lênh đênh

Lời cuối được nhắn bên thềm tử vong

Cho cha mẹ và bà ông

“I love you” đó từ lòng chúng con

Tình yêu vượt hết cuồng phong

Đến giờ phút cuối chỉ mong an bình

Chuỗi hạt mân côi đẹp xinh

Hai tay cùng nắm chúng mình ra đi

Vững tin vào Chúa kiên trì

Để cho dòng nước cuốn đi cuộc đời

Để cho gia đình chơi với

Cho nhân thế tiếc khôn vơi ngậm ngùi.

Trần Chính Trực


 

Thánh Biển Đức (480-547) – Cha Vương

Chúc Bạn và gia đình một ngày an lành nhé. Hôm nay Giáo hôm mừng kính Thánh Biển Đức (Benedict), mừng Bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy. Hãy cầu nguyện cho nhau. Nếu Bạn muốn đi tour Tổng Tu Viện Bênêdíctô ở Montecassino bên Ý thì hãy vào linh sau đây. Mình đã có cơ hội đến đó. Tuyệt đẹp!!! Thánh Bênêdíctô, cầu cho chúng con.

https://youtu.be/o2dtyIVBsec

Thứ 6: 11/07/2025

Thánh Biển Đức (480-547), ngài sinh năm 480 trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, Umbria thuộc miền trung nước Ý, anh em song sinh cùng với nữ thánh Scholastica, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất. Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một “Ðại Ðan Viện”, đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđích.

        Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng. Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđích.

Thánh nhân qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547 tại Monte Cassino, nước Ý. Thánh nhân được cho an táng trong cùng một ngôi mộ với em của ngài là Thánh nữ Scholastica dưới bàn thờ chính của đan viện Monte Cassino, nước Ý. Thánh tích của thánh nhân hiện đang giữ tại đan viện Monte Cassino và một phần tại đan viện Saint Bernoit-sur-Loire tại Fleury, nước Pháp.

        Lễ mừng kính ngài vào ngày 11 tháng 7 theo nghi lễ Roma, còn dòng Biển Đức thì cử hành lễ kính vào ngày 21 tháng 3 hàng năm để kỷ niệm ngày Thánh Nhân qua đời.

(Nguồn: Người Tín Hữu Online)

Mời Bạn:

❦  Hãy áp dụng câu châm ngôn của ngài vào những công việc hàng ngày : “Ora et Labora” (Cầu nguyện và Lao động).

❦  Suy niệm những câu đáng ghi nhớ trên huy hiệu kính thánh Bênêdíctô:

+ Chớ gì chúng con được củng cố bởi sự hiện diện của Chúa vào giờ chúng con chết!

+ Chớ gì Thánh giá của Chúa là ánh sáng cho con!

+ Hãy cút đi, hỡi Xatan, đừng gợi ý cho ta về những sự hào nhoáng của thế gian! Ngươi thèm khát sự dữ ư? Ngươi hãy uống lấy nọc độc của ngươi!

Câu nào đánh động Bạn nhất?

From: Do Dzung

*****************************

ÁNH SAO NÚI THIÊNG | Thánh ca về Thánh Bênêđictô – Viện phụ.

THUỶ CHUNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói!”.

Trong “Những Điều Nhỏ Nhặt” – “Bits & Pieces” – tác giả nhận xét, “Chính những gì mà những con người không quan trọng làm mới thực sự có ý nghĩa và quyết định tiến trình lịch sử nhân loại. Thế giới sẽ sớm tàn nhưng sự thuỷ chung, lòng trung thành và sự cống hiến của những con người vô danh này lại làm nên lịch sử!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay không chỉ nói đến những con người ‘thuỷ chung’ vô danh góp phần làm nên lịch sử, nhưng còn nói đến những con người ‘thuỷ chung’ hữu danh được Chúa sai đi làm nên lịch sử! Và Ngài, Đấng Thuỷ Chung – kiến tạo lịch sử – luôn ở cùng họ!

Câu chuyện Giuse – người được sai đi để cứu một dân – tiếp tục. Sau khi tỏ mình cho các anh, Giuse được Pharaô ban xa mã để nghinh đón cha già và họ hàng – bài đọc một. Khi Giacóp vừa vui mừng, vừa lo lắng vì sắp rời quê, thì Thiên Chúa trấn an, “Đừng sợ xuống Ai Cập. Chính Ta sẽ xuống với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên!”. Ôi! Đấng uy dũng, quyền năng sẽ ‘di cư’ với dân; để về sau, chính Ngài – rất ‘thuỷ chung’ – sẽ ‘hồi hương’ họ lên lại quê nhà! “Chúng ta có một Thiên Chúa của lịch sử, không ở trên mây, mà là Đấng cùng bước với dân – Ngài xuống Ai Cập với nhà Giacóp và không rời họ cho đến khi họ trở về đất hứa!” – Phanxicô.

Trong Tin Mừng hôm nay, khi sai các môn đệ đi, Chúa Giêsu không yêu cầu họ có khả năng đối mặt với những con sói; trở nên đông đảo, có uy tín và thế giới sẽ lắng nghe… và họ sẽ đánh bại bầy sói. Không! Ngài sai họ đi như chiên, và điều này quan trọng! Nếu bạn không muốn làm chiên, Chúa không bảo vệ bạn; nếu bạn là chiên, hãy yên tâm! Ngài yêu cầu bạn luôn là chiên – nhu mì, trong trắng, sẵn sàng hy sinh; và Ngài, Mục Tử ‘thuỷ chung’ sẽ nhận ra chiên mình và bảo vệ nó khỏi sói! “Có những lúc tôi thấy mình như một con chiên giữa bầy sói. Chính trong sự yếu đuối ấy, tôi nhớ rằng, Chúa đã chọn sống như chiên – để chiên không bao giờ đơn độc!” – Madeleine Delbrêl.

Anh Chị em,

“Như chiên đi vào giữa bầy sói”. “Chừng nào bạn và tôi còn là chiên con, chúng ta sẽ thắng; ngay cả khi bị vây hãm bởi nhiều con sói! Nhưng nếu chúng ta trở thành sói – ‘Ồ, thông minh làm sao, tôi cảm thấy hài lòng về bản thân!’ – chúng ta sẽ bị đánh bại, bởi sẽ bị tước mất sự giúp đỡ của Người Chăn Chiên. Ngài không chăn sói, mà chăn chiên!” – Gioan Kim Khẩu. Thánh Vịnh đáp ca tiết lộ, “Người công chính được Chúa thương cứu độ!”. Mỗi ngày, ‘Giêsu Thuỷ Chung’ – Emmanuel – đang ở với chúng ta. Vấn đề còn lại là liệu chúng ta có biết đến với Ngài để kín múc sức mạnh và nghị lực hầu có thể đương đầu với đủ ‘loại hình sói’ trong cuộc sống. “Chúng ta yếu đuối không phải vì không có sói, mà vì đã quên tìm đến Mục Tử. Sức mạnh thật không nằm nơi gươm giáo, nhưng nơi lòng gắn bó với Đấng đã chiến thắng thế gian!” – Fulton J. Sheen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con đi vào thế giới, không vô danh chút nào. Cho con luôn là chiên ‘thuỷ chung’; đừng để con là sói, ‘vô danh’ cũng không và ‘hữu danh’ lại càng không!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************

Thứ Sáu Tuần XIV Thường Niên, Năm Lẻ

Không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 10,16-23

16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.

17 “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. 18 Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại. 19 Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì : 20 thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.

21 “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. 22 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

23 “Khi người ta bắt bớ anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em : anh em chưa đi hết các thành của Ít-ra-en, thì Con Người đã đến.”


 

Tại sao ta thờ phượng Thiên Chúa? – Cha Vương

Một ngày an lành trong tình yêu và sự quan phòng của Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 10/7/2025

GIÁO LÝ: Tại sao ta thờ phượng Thiên Chúa? Ta thờ phượng Thiên Chúa vì Người hiện hữu, và khi tôn kính thờ phượng ta đáp lại việc Thiên Chúa hiện hữu và mặc khải cách xứng hợp. “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa Chúa ngươi và chỉ phụng thờ mình Người thôi” (Mt 4,10).(YouCat, số 353)

SUY NIỆM: Thờ phượng Thiên Chúa cũng giúp ích cho con người, vì giải thoát con người khỏi nô lệ các lực lượng của thế gian. Ở đâu không thờ phượng Thiên Chúa nữa, không coi Thiên Chúa như Chủ của sự sống và sự chết, thì những thứ khác tràn vào thay chỗ và gây nguy hiểm cho quyền của con người. (YouCat, số  354 t.t.)

❦ Con người không thể sống còn, nếu không thờ phượng gì. (Fedor Dostoievski)

❦  “Chủ nghĩa vô thần hiện đại có thể tóm lại trong ba trào lưu chính yếu, có ảnh hưởng lớn trên lịch sử nhân loại thời hiện đại, trong đó có Việt Nam như sau: (1) Thuyết hiện sinh vô thần; (3) thuyết vô thần của Karl Marx; và (3) thuyết vô thần khoa học.”

 (Phaolô  Nguyễn Văn Phục, Trích từ Tập san Đức Tin Và Văn Hóa, số 12)

LẮNG NGHE: CHÚA thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu. (Tv 145:3)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con biết rằng Chúa nhân lành và khôn ngoan, không ban một điều gì có hại cho con. Xin giúp con luôn vững tin vào Chúa, và xin dạy con biết cầu nguyện những điều hợp ý Chúa. Chỉ có Chúa mới biết được điều gì cần thiết và ích lợi thật cho đời con. Con xin dâng cuộc đời con cho Chúa. Con xin dâng gia đình con cho Chúa.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Lạy Cha. 

From Do Dzung

*************************

VÌ NGOÀI CHÚA RA || MINH CHÂU (ST: PHÙNG MINH MẪN)

ĐÁM TANG DÀNH CHO AI?

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

Tối chủ nhật, phòng cấp cứu nhận một bệnh nặng. Bệnh nhân nữ khoảng 47 tuổi đang suy hô hấp nặng, huyết áp không ổn định, tim đập rất nhanh. Bệnh nhân được các bác sĩ, y tá cấp cứu tích cực trong khi người nhà đứng hết bên ngoài, ai cũng bịt khẩu trang vì sợ lây bệnh.

Tôi được biết cô bị ung thư vòm họng giai đoạn cuối. Lúc bác sĩ mở chiếc tả giấy ra mọi người đều phải bịt mũi, phần hậu môn bị hoại tử rất lớn. Bác sĩ hỏi người nhà: ” Sao lại để đến mức này?”. Họ bảo: ” Mới có hôm qua à!” Bác sĩ lắc đầu.

Tối đó, tôi trực tại giường ba, tôi thấy cô giơ tay chới với, hơi thở cô rè rè… không một bằng tay nào dành cho cô. Chồng con cô chỉ ở bên ngoài, ngay cả thay tả cho cô cũng do điều dưỡng làm, họ xem cô là bệnh truyền nhiễm.

Cô nằm được một ngày thì mọi chỉ số của cô chỉ còn số 0, bác sĩ gọi người nhà bảo đem về. Chồng cô bảo: ” Chưa đến giờ tốt!”. Vậy là cô được tiêm thuốc, được đưa máy thở để duy trì một cơ thể đã chết.

Từ lúc đó đến khoảng 2h sáng là thời gian cơ thể cô quằn quại, cô thở khè khè, cô rên rỉ trong họng, bàn tay cô cứ đưa lên không trung, cô chới với… Tôi rớt nước mắt, tôi thấy: “Sự cô đơn đến tàn nhẫn!”

2 giờ sáng là giờ tốt, gia đình họ tập trung bên ngoài rất đông. Gia đình giàu lắm đi toàn xe hơi hình như cũng danh gia vọng tộc. Mọi người bàn chuyện mua hòm loại nhất, mua đất nghĩa trang nào, mới Thầy nào cúng… Ai cũng làm ra vẻ quan tâm đến việc làm ma chay cho cô mà họ quên đi cái cô cần lúc này là: “Một bàn tay nắm chặt để cô không chới với khi trút hơi thở cuối cùng!”

Rồi tôi tự hỏi: ” Đám tang rình rang là dành cho người sống hay người chết ” ???

Nguồn sưu tầm 

Ảnh minh họa.


 

TÔI ĐÃ ĐỂ ĐI QUA – Lm. Mark Link, S.J.

Lm. Mark Link, S.J.

Chủ Ðề: “Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn, như Đức Giêsu đã làm.”

 Một bà đứng bên lề đường đang chờ đèn báo để sang đường.  Đối diện với bà bên kia đường là một thiếu nữ khoảng 17 tuổi.  Cô ta cũng đợi để sang đường.

 Bà không thể nào không thấy là thiếu nữ này đang khóc.  Thật vậy, nỗi buồn của cô quá lớn đến nỗi cô không thèm giấu nó.

 Trong khoảng khắc ánh mắt hai người gặp nhau.  Dù chỉ là khoảng khắc nhưng cũng đủ để bà thấy được sự đau khổ lớn lao ngập đầy đôi mắt người thiếu nữ.  Cô gái xoay mặt nhìn chỗ khác.

 Khi đèn báo bật sáng.  Mỗi người bước khỏi lề và khởi sự bước sang đường.

 Khi thiếu nữ gần đến, người đàn bà có thể thấy cô thật xinh xắn, ngoại trừ nỗi buồn hiện rõ trên khuôn mặt.

 Ngay khi hai người sắp sửa gặp nhau, bản năng làm mẹ của bà bỗng nhiên nổi dậy.  Mọi thứ trong người bà như muốn đến với cô ta để an ủi cô.

 Ao ước đó lại càng gia tăng vì người thiếu nữ này cũng trạc tuổi cô con gái của bà.

 Nhưng bà đã để cô đi qua.  Ngay cả một lời thăm hỏi cũng không.  Bà chỉ để cô đi qua mà không nói một lời. 

Nhiều giờ sau, đôi mắt ngập tràn đau khổ của cô gái vẫn tiếp tục ám ảnh bà.  Bà luôn luôn tự hỏi, “Tại sao mình không quay lại hỏi thăm, “Cưng ơi, tôi có thể giúp gì cho cô không?”  Nhưng mình đã không làm vậy.  Mình bước đi.  Chắc chắc là cô ta có thể khước từ mình và nghĩ mình là người tò mò.  Nhưng có sao đâu! 

“Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ cho cô ấy biết được là có ai đó quan tâm đến cô.  Nhưng mình đã bỏ đi.  Mình đã làm như thể cô ấy không hiện diện.”

 Câu chuyện có thật đó là một trong các câu chuyện cho thấy điều Đức Giêsu muốn nói trong dụ ngôn thật hay của bài phúc âm hôm nay.  Đó là: Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn. 

Để hiểu rõ hơn dụ ngôn của Đức Giêsu, chúng ta cần biết chút đỉnh về hoàn cảnh thời bấy giờ. 

Con đường trong dụ ngôn của Đức Giêsu không phải trong tưởng tượng.  Thật vậy, đó là một con đường rất nổi tiếng.  Đó là con đường duy nhất thời xưa đi từ Giêrusalem đến Giêrikhô. 

Lúc ấy con đường ngoằn ngoèo vì các tảng đá lớn.  Hậu quả là con đường trở thành sào huyệt nổi tiếng của bọn cướp.

 Một lá thư viết từ năm 171 AD than phiền với nhà chức trách về tội ác xảy ra trên con đường này.  Có những hồ sơ lịch sử ghi nhận việc người đi đường phải nộp tiền mãi lộ cho bọn cướp để được yên ổn băng qua.

 Chính con đường nổi tiếng này đã làm khung cảnh thực tế cho dụ ngôn của Đức Giêsu về người Samari nhân hậu.

 Trong dụ ngôn, Đức Giêsu vẽ ra ba loại người khác nhau: một người tư tế, một thầy Lêvi, và một người Samari.

 Trước hết, người tư tế.  Có lẽ ông đang trên đường đến Giêrusalem để tế lễ trong Đền Thờ.  Có lẽ ông nghĩ nạn nhân nằm bên vệ đường đã chết nên ông đi qua. 

Nếu một tư tế chạm đến xác người chết, ông bị nhiễm uế và tạm thời bị cấm không được vào Đền Thờ.  Do đó, người tư tế không muốn dính dáng đến.

 Kế đó là người Lêvi.  Ông ta cũng giống như thầy phó tế ngày nay.  Không rõ lý do tại sao ông lại bỏ qua.

 Có lẽ lý do của ông cũng giống như của người tư tế.  Hoặc có lẽ ông sợ nạn nhân này chỉ giả vờ và sẽ tấn công ông nếu ông đến giúp.  Do đó, thầy Lêvi cũng không muốn dính líu tới. 

Sau cùng, đó là người Samari.  Khi đề cao người Samari thành anh hùng trong dụ ngôn, Đức Giêsu chắc đã làm thính giả phải bàng hoàng sửng sốt, vì họ thường tránh xa người Samari như quân phản loạn không đạo đức đàng hoàng. 

Người Samari bị cấm không được vào Đền Thờ.  Tiến lễ của họ bị từ chối, và lời chứng của họ không được chấp nhận ở tòa án.

 Nhưng Đức Giêsu biết việc Người làm khi đưa người Samari thành anh hùng trong câu chuyện.  Người muốn dạy cho lớp thính giả Do Thái thấy rằng tình yêu thì không có biên giới.  Tình yêu đến với mọi người đang có nhu cầu.  Nó không bỏ qua.  Nó dừng lại để giúp đỡ; nó muốn dính líu, bất kể người đó là ai. 

Và điều đó đưa chúng ta trở lại câu chuyện của người phụ nữ và cô gái phiền muộn.  Đến với cô ta và giúp đỡ cô ta thì thật dễ.  Như chính bà đã nói: “Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ để cô ta biết là có ai đó lưu tâm đến cô.”

 Và, nhiều khi, đó là điều mà tất cả những gì một người đau buồn muốn được biết.

 Thường những gì họ cần thì không tốn nhiều sức lực của chúng ta, không mất nhiều thời giờ của chúng ta, không tốn kém nhiều tiền bạc của chúng ta.  Thường tất cả những gì họ cần thì đơn giản là được thấy chúng ta lưu tâm đến họ. 

Và dụ ngôn hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn đến sự tương giao của chúng ta với người khác. 

Nó mời gọi chúng ta hãy tự hỏi chính mình: Chúng ta đáp ứng thế nào với nhu cầu của người khác?  Chúng ta có dừng bước và sẵn sàng giúp đỡ họ không?  Hay chúng ta bỏ đi, làm như họ không hiện diện?

Đặc biệt, chúng ta có thi hành điều này đối với các phần tử trong gia đình chúng ta hay không?  Một dữ kiện buồn thảm của đời sống là đôi khi chúng ta đối xử với người lạ còn tốt hơn với người thân, như vợ chồng, cha mẹ, hay con cái. 

Dụ ngôn hôm nay không mời gọi chúng ta đi ra xa, nguy hiểm đến tính mạng và trở thành anh hùng.  Nó mời gọi chúng ta đến với người khác, liều mất sự tự cao tự đại của mình và trở nên nhân bản hơn.  Nó mời gọi chúng ta lên tiếng hỏi, “Tôi có thể giúp gì không?”

 Và nếu lời ngỏ ý của chúng ta bị từ chối thì sao?  Như người phụ nữ trong câu chuyện trên, “Thì có sao đâu!” Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta lưu tâm đến họ.  Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta đã ngỏ lời, “Tôi có thể giúp gì không?”

 Lạy Chúa, xin ban cho chúng con cặp mắt để nhìn thấy sự đau khổ trong ánh mắt của người khác, nhất là những người trong chính gia đình chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đôi tai để nghe tiếng than khóc của người khác, nhất là những người cùng dòng máu với chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng trắc ẩn để dám dính dáng đến nhu cầu của người khác, nhất là nhu cầu của những người thân yêu của chúng con.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự khiêm tốn để đừng bao giờ bỏ qua vì sợ bị khước từ.  Nhưng xin ban cho chúng con sự can đảm để đến với họ và hỏi họ, “Tôi có thể giúp gì không?”

 Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

NGẪM !

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều

Một người đàn ông đồ sộ vỗ vai một vị linh mục, vừa hỏi vừa cười hóm hỉnh:

– Chỗ anh em với nhau, tôi hỏi thiệt tình, anh đừng giận tôi nha.

– Chuyện gì mà vô đề long trọng dữ vậy?

– Tôi nghe người ta nói: đạo của anh bắt tín đồ có tội phải đi xưng tội với cha và cha tha tuốt luốt. Cái đó có không?

– Có. Thì đã sao nào?

– Thì đạo của anh buồn cười quá à.

– Những gì làm anh buồn cười, thì kể cho tôi nghe coi.

– Nhiều lắm.

Thứ nhất: linh mục các anh là người như người ta; cũng biết ăn gian nói dối; cũng phạm tội… thì tại sao lại dám ngồi tòa tha tội cho người gian dối, phạm tội ?

Vị linh mục trả lời

– Thế tôi hỏi Ông chánh án ngồi tòa: tha bổng, kêu án tử hình, kêu án tù chung thân…, thì ông chánh án là người hay là thiên thần?

– Ông chánh án cũng là người nên cũng có thể phạm tội, nhưng ông ngồi tòa với tư cách là đại diện công lý, đại điện cho dân.

– Thì linh mục chúng tôi có tha tội cho tín đồ với tư cách của cá nhân mình đâu. Chúng tôi tha tội nhân danh Chúa và do yêu cầu của Chúa. Đức Giêsu trước khi về trời đã nói với các Tông đồ rằng: “Điều gì chúng con tha dưới đất, thì trên trời cũng tha”.

– Tội phạm tới Chúa thì xưng với Chúa và xin Chúa tha, hà cớ gì Chúa lại trao quyền ấy cho các anh?

– Để tôi kể cho anh một câu chuyện:

Có một người mẹ đang mổ cá, tay dơ quá. Thằng cu tí của bà đang chạy chơi trên sân sũng nước, vì trời mới mưa, bỗng té ạch một cái. Bà không dám bỏ rổ cá đang dang dở, vì con mèo cồ đang ngồi liếm mép. Bà kêu cô chị của thằng cu tí: “Hai! Con đi tắm cho em!”. Cô chị cũng chẳng sạch sẽ gì, mới quét chuồng heo xong, thoang thoảng mùi cháo thiu, vội vàng dìu cu tí đi tắm. Cu tí sạch boong, thay quần áo mới, tóc rẽ ngôi láng coóng, thơm thơm mùi nước hoa của mẹ, nhảy tưng tưng, cười toe toét, thương chị quá chừng.

Vậy đó. Bây giờ tôi hỏi anh: Ở trên đời này, có thằng cu tí nào thắc mắc với cô chị nó rằng: “Chị lấy quyền gì mà tắm cho tôi? Chị có sạch sẽ gì đâu mà dám tắm cho tôi, chải đầu cho tôi, thay đồ cho tôi, lại còn lấy dầu thơm của mẹ mà xức cho tôi nữa. Bày đặt!”. Xin lỗi anh. Nếu trên đời này có thằng cu tí nào nói như thế, thì nó chính là anh đấy.

– Anh trả lời hay. Cho anh mười điểm.

– Còn thắc mắc gì nữa nào?

– Thắc mắc thứ hai: Có tội thì phải phạt. Còn các anh thì tội gì cũng tha tuốt luốt. Như vậy là các anh vẽ đường cho hươu chạy, là xúi người ta cứ phạm tội tối đa.

– Linh mục chúng tôi là cô chị của thằng cu tí. Cô chị chỉ mong muốn một điều là thằng em hết dơ. Dĩ nhiên là thằng cu tí chẳng muốn té. Nhưng có thể là nó sẽ còn té nữa. Nếu nó té nữa, thì cô chị lại tắm cho nó, an ủi và khuyên nhủ nó. Như vậy đâu phải là cô chị vẽ đường cho hươu chạy. Nói cho vui vậy thôi, chứ vấn đề tha tội trong đạo không đơn giản như thế. Theo giáo lý, thì muốn được tha tội, thì phải có điều kiện. Điều kiện một là phải thành tâm sám hối, mà thành tâm sám hối, thì bao hàm việc quyết tâm chừa tội. Điều kiện hai là phải đền tội xứng đáng. Nếu ăn trộm, phá hoại thì phải bồi thường. Bồi thường tiền của. Bồi thường danh dự,… vân vân…

Xét về mặt tâm lý, người Công giáo xưng tội xong cảm thấy tâm hồn sung sướng, giàu nghị lực để tránh tội, chứ không có ý đồ phạm tội lại, phạm tội thêm. Đó chính là tâm tư của thằng cu tí sau khi được chị nó tắm cho. Chị tắm và em được tắm nảy ra một tình cảm rất thân thương. Thằng cu tí thấy mình sạch quá, đẹp quá, thơm quá và chẳng muốn ở dơ chút nào.

Sưu tầm.


 

MIỄN PHÍ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy!”.

Tháng 10/1971, Iran kỷ niệm 2.500 năm thành lập đế quốc Ba Tư. Để chứng tỏ là một cường quốc hiện đại, hoàng đế Iran – Reza Pahlavi – đã tổ chức một đại lễ “ngông cuồng!”. 600 quốc khách được mời từ 69 quốc gia; tiệc tùng xa hoa đến 4 ngày, với giá phải trả lên đến 100 triệu dollars. Điều đáng nói, 8 năm sau, ông bị lật đổ và phải đi lưu đày!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cũng nói đến giá phải trả! Giá con cái Giacóp phải trả khi xuống phía Nam mua lương thực; giá các môn đệ phải trả khi ‘nhận’ và ‘trao’ Tin Mừng. Tuy nhiên, tất cả đều ‘miễn phí’, “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy!”.

Câu chuyện Giuse tiếp tục khi con cái Giacóp đem một số tiền đáng kể xuống Ai Cập mua lúa thóc; nhưng họ không phải trả đồng nào – bài đọc một. Vì lẽ, khi không thể tiếp tục dồn nén cảm xúc, Giuse đã tỏ mình, “Tôi là Giuse, đứa em mà các anh đã bán sang Ai Cập!”. Giuse coi đây là sự quan phòng của Chúa; Thánh Vịnh đáp ca khéo nhắc, “Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện!”. Quả vậy, các con Giacóp không phải mở đãy; trái lại, cùng với lương thực, hẳn họ cũng được tặng không nhiều vàng bạc.

Với bài Phúc Âm, giá phải trả cho Tin Mừng là bao nhiêu? Giá nhận và giá trao? Phải trả bao nhiêu để một người được ‘nhận’ Tin Mừng? Câu trả lời là ‘không thể trả nổi’, vì Tin Mừng vô giá, không mua được bằng tiền! Cần bao nhiêu để Tin Mừng có thể được ‘trao?’. Vẫn là ‘không thể trả nổi’; vì không ai có quyền tính phí bất cứ điều gì họ không sở hữu. Tin Mừng ‘miễn phí!’. “Chúa Kitô không bán tình yêu, không rao bán tha thứ. Ngài trao ban mọi sự – và đòi chúng ta học cho đi như Ngài!” – Fulton J. Sheen.

Như vậy, chúng ta phải cung cấp Tin Mừng cho người khác vô điều kiện; và còn hơn thế, việc cung cấp này còn mang theo ‘một đòi hỏi tiềm tàng’. Nó đòi hỏi mỗi người phải hiến dâng toàn thân, toàn linh hồn và trái tim cách triệt để, vì lẽ mọi sự chúng ta nhận đều ‘miễn phí’. Điều chúng ta nhận không thuộc vật chất nhưng là ‘một con người’ – Đức Giêsu Kitô – Ngài đã tự hiến. Vì thế, bạn và tôi cũng tự hiến! “Tin Mừng là chính Đức Kitô. Không phải một ý tưởng, một luân lý hay một chương trình, nhưng là một con người sống động, yêu thương, đã chết và sống lại vì bạn!” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Phải cho không!”. Mỗi ngày, trên bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa, Con Thiên Chúa tiếp tục cho không; bên cạnh đó, bao hồng ân xác hồn Ngài ban. “Trong Chúa Kitô, chúng ta lãnh nhận từ ơn này đến ơn khác”; “Trong Ngài, chúng ta không thiếu một ơn nào!” – Phaolô. Lời Chúa mời gọi chúng ta sống niềm tri ân cảm tạ, thống hối; đồng thời, ý thức hơn sứ mệnh mở rộng Vương Quốc, trao tặng Tin Mừng cho tha nhân mà không một đòi hỏi. “Giá trị của việc loan báo Tin Mừng nằm ở chỗ: bạn không đòi trả công, nhưng bạn lại sẵn sàng trả giá!” – Fulton J. Sheen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con kỳ kèo với Chúa, với anh em con. Cho con hiểu rằng, Chúa không thể dùng trọn vẹn một con người còn giữ lại cho mình bất cứ thứ gì!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************************************

Thứ Năm Tuần XIV Thường Niên, Năm Lẻ

Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 10,7-15

7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : “Anh em hãy đi rao giảng : Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.

11 “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em. 14 Nếu người ta không đón tiếp và không nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. 15 Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”


 

NGƯỜI CHA – Truyện ngắn HAY

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều

Vợ ông mất từ khi đứa con gái thứ 2 được 2 tháng vì bệnh tim. Ông một mình nuôi 2 con khôn lớn. Với đồng lương hạn hẹp của một giáo sư đại học lúc bấy giờ, ông thật vất vả để cho hai cô con gái một cuộc sống no đủ. Rất nhiều cô gái thanh tân, phần vì thương, phần vì ngưỡng mộ tài học, phần vì kính trọng nhân cách của ông, sẵn lòng về làm vợ ông để chia sẻ với ông, cùng nuôi dạy hai con. Ông cũng có ý muốn đi bước nữa khi hai con đã hết cấp 3.

Nhưng sự đời khó đoán, khi ông mới dẫn vợ chưa cưới về nhà, hai cô con gái phản ứng quyết liệt. Có thể do ích kỷ không muốn chia sẻ ông với ai, có thể sợ sẽ bị dì ghẻ đày đọa, một cô bỏ nhà đi, một cô đi nhảy sông tự tử, mà không chết. Ông bị choáng nặng. Ông không ngờ, hai cô con gái ngoan hiền ngày nào lại đối xử với mình như thế. Vừa thương vừa giận, có lẽ thương con sợ hai con gặp bất trắc, ông lần lượt bỏ qua biết bao nhiêu cơ hội của cuộc đời. Lặng lẽ nuôi và nhìn con trưởng thành, ông ít nói ít cười hẳn, chỉ khi lên giảng đường, ông mới được là chính ông.

Các cô con gái lần lượt lấy chồng, sinh con và hay tụ tập ở nhà ông vào tối thứ bảy và chủ nhật. Ông vẫn một mình cơm niêu nước lọ. Chăm chăm chờ đến ngày được gặp con cháu. Ít lâu sau, ông phát hiện mình bị parkinson, tay chân run, không tự làm được gì. Hai cô con gái hớt hải chạy tới. Ai cũng phải lo cho gia đình riêng, ai cũng phải đi làm, ai đâu mà chăm cha. Họ rụt rè nói với ông, hay bố cưới cô nào về làm vợ để phục vụ bố lúc tuổi già đi. Ông giận run người, lắp bắp. Các con thật ích kỷ, bây giờ bố 65 rồi, lấy ai, người ta vì chờ bố đến giờ này vẫn ở vậy, mấy chục năm cấm cản bố, xỉ vả người ta chẳng ra gì, bây giờ bố bệnh thế này mặt mũi nào hỏi cưới người ta. Hai cô gục đầu xuống khóc, khi cơn giận khiến ông bị tai biến phải đưa vào cấp cứu ở bệnh viện.

Ông được ra viện, ánh mắt ông thật buồn, thật xa vắng. Hai cô nhờ người thuê được một người đàn bà lỡ thì rất xinh đẹp tới chăm ông. Lúc đầu bà chăm ông bằng nghĩa vụ, lâu dần bà chăm ông như chăm một người bạn già. Hằng ngày, khi đã xong hết việc, ông ra hiệu cho bà lại gần, ông viết tên các cuốn sách hay trên giá và khuyên bà đọc. Rồi ông bập bẹ phân tích cốt truyện cho bà nghe, cho bà biết cái hay cái dở của cuộc sống trong đó. Ông dần bình phục sau tai biến. Sau 5 năm bè bạn cùng ông, từ một người đàn bà ít học, sống trong gia đình nông dân nghèo, bà đã có thể đàm đạo với ông, một giáo sư nổi tiếng về rất nhiều lĩnh vực.

Ông dạy bà cắm hoa, nghe nhạc, làm thơ và vẽ tranh.

Bà cảm phục và hết lòng yêu quý ông. Bà chủ động nhờ hai cô con gái nói giúp với ông cho phép bà được gá nghĩa trăm năm cùng ông. Hai cô đồng ý ngay, vì tình cảm của họ rất tốt. Bà thì thật thà, chân thành và dịu dàng. Từ lâu bà coi các con ông như con mình. Song, ông từ chối. Ông cười rất rất buồn và nói, cảm ơn cô đã có lòng với tôi, tôi già rồi và bệnh tật thế này còn mang lại hạnh phúc cho ai được đâu, cô còn trẻ và xinh đẹp, cô vẫn có thể xây dựng hạnh phúc với người khoẻ mạnh hơn tôi, hãy coi tôi như người bạn và đọc hết kho sách trong tôi đi, cô sẽ học thêm được nhiều điều có ích cho cuộc sống này.

Ngày ông trút hơi thở cuối cùng, bà khóc ngất đi. Bà quỳ xuống chân 2 cô con gái ông, xin các con cháu cho cô để tang ông ấy như để tang một người thầy, một người bạn tri kỷ và một người chồng duy nhất của cô. Hai cô con gái đỡ bà dậy, oà khóc, mẹ ơi…

Đưa đám ông xong, hai cô biếu bà căn nhà của bố, để con cháu có chỗ chạy đi chạy lại như khi ông còn tại thế. Hằng ngày,

bà vẫn bầu bạn cùng ông và vợ ông trên bàn thờ, chuyện trò cùng họ, bàn bạc về mọi tác phẩm bà đọc và chờ đến thứ bảy và chủ nhật được đón các con cháu ông về cùng bà ăn cơm gia đình.