Cảnh sát giao thông Hà Nội nhận một tờ nghi là tiền từ một người vi phạm giao thông. Sau khi “clip mãi lộ” đăng trên mạng xã hội ngày 11 Tháng Ba, 2018, 20 cảnh sát giao thông thuộc các Đội Cảnh Sát Giao Thông số 3, 5, 6 (PC67, Công An thành phố Hà Nội) bị đình chỉ. (Hình: Tuổi Trẻ)
“Cũng bởi thằng dân ngu quá ‘lợn’ Cho nên quân ấy dễ làm quan!” (Tản Đà)
Một chế độ đào tạo ra những con người của đất nước luôn luôn hành động một cách tự nguyện, không cần roi vọt, không cần ai nhắc nhở, phải chăng là một chế độ “tuyệt hảo?”
Ngày 15 Tháng Năm, 1975, những tay mang băng đỏ, quân quản trong thành phố, cán bộ phường huy động, ra lệnh quần chúng từ 3 giờ sáng phải đưa cờ quạt, tập họp đi dự mít-tinh tại Dinh Độc Lập, mừng ngày “giải phóng” và đón những quan chức lãnh đạo từ Hà Nội vào. Sau đó trên báo chí, truyền hình đưa tin và hình ảnh, dân Sài Gòn “tự nguyện” đổ ra đường từ sáng sớm, tràn ngập sân cỏ Dinh Độc Lập. Báo chí, truyền thông đồng loạt đưa tin Sài Gòn phấn khởi, tự nguyện đổ ra đường mừng “ngày thống nhất!”
Ngày “cách mạng” mới vô, nhân gian thuộc lòng cái thủ tục “đầu tiên” là “tiền đâu?” Điếu thuốc lá đầu lọc được rút trong túi ra, ly cà phê sữa đá hột gà được đưa tận tay, không ai yêu cầu nhắc nhở!
Trong phường khóm, ngoài khu phố, làm ăn phải nhớ là “đất có Thổ Công, sông có Hà Bá,” nhớ chung chi cho đủ, tránh chuyện sạt nghiệp, ra toà hay vào tù, bởi muôn nghìn lý do. Sinh nhật lãnh đạo, vợ con lãnh đạo hay ngày “tứ thân phụ mẫu” qua đời, đừng để ai kêu réo nhắc nhở, công xa nối đuôi trước nhà, với phong bao trong tay, tự động bước tới quan tài, để tiền bên cạnh bát hương.
Ông Bùi Thanh Hiếu, tức Người Buôn Gió, kể chuyện “đi nghĩa vụ” dưới chế độ, lính về nhà hằng tháng cứ đóng tiền, thỉnh thoảng đến đợt huấn luyện thì vào. Còn khi đi lao động thì hằng tháng đóng tiền được về nhà khỏi phải đi lao động. Thấy cách đóng tiền hằng tháng nó cũng lằng nhằng, ông bố làm giá luôn cho gọn với “ông quân lực.”
Thay vì lãnh hình phạt đào ngũ, Người Buôn Gió được đưa về làm “tà lọt” cho đại đội trưởng, Hiếu tưởng mình được may mắn. Thời hạn nghĩa vụ của Người Buôn Gió có 2 năm 8 tháng, trong khi các bạn cùng lứa phải hơn ba năm mới hết hạn phục vụ. Hỏi ra, ông bố đã chạy hay đã mất hai chỉ vàng, lúc nhận giấy xuất ngũ một chỉ, lúc về nhà đóng thêm một chỉ. Toàn là tự nguyện, thấy “những việc cần làm ngay” thì làm, chẳng có ai ra giá cả gì!
Đã mấy chục năm nay, giữa ban ngày ban mặt, ngay giữa ngõ vào Sài Gòn, người ở nước ngoài về, khi đi qua hải quan, phải tự động kẹp tờ đô la vào passport. Cũng không có bảng thông báo giá cả, không có lệnh lạc, xin xỏ gì. Cứ nhìn vào khuôn mặt, ánh mắt của hải quan mà tự nguyện, tự động móc túi. Ở chỗ công đường, đơn từ muốn giải quyết nhanh thì luôn luôn có tờ bạc, tờ “bác” kèm theo. Không có lòng tự nguyện thì phải từ bị thương tới chết, bị chết hay tự nguyện chết.
Tại tòa đại sứ CSVN tại Kuala Lumpur, Malaysia, một phụ nữ Việt Nam tên Bạch Mai đã tự sát bằng dao, vì bị các nhân viên tòa đại sứ này từ chối làm thủ tục cho cô về nước. Thông hành của cô có hiệu lực trong 10 năm, trong khi cô chỉ mới nhập cảnh Malaysia cách đây bốn tháng. Đây rõ ràng là một sự xung đột văn hóa đưa đến cái chết oan khuất của cô. Quan chức Cộng Sản bản chất đã mang thứ văn hóa bôi trơn, văn hóa phong bì, người phụ nữ khốn khổ kia lại thiếu văn hóa tự nguyện, đành phải chọn văn hóa… tự sát.
Chạy xe ra đường, dù là loại xe nào, khi thấy mình có lỗi, hay có cảm tưởng rằng mình không có lỗi, bị công an đứng đường thổi còi chận lại, thì phải tự xét mình, “mỗi cái tóc là mỗi cái tội,” có văn hóa tự nguyện, thì tự động móc túi, giá cả theo buổi chợ. Dân vốn ngoan lẫn ngu, đưa tiền xong còn cảm ơn người thò tay ra nhận, coi mình như vừa được đại diện đảng và chính phủ ban phát đặc ân. Đó là “ơn đảng!”
Báo Dân Trí đưa tin, trả lời phỏng vấn tại hành lang Quốc Hội, đại biểu Quốc Hội Nguyễn Bá Thuyền nói với báo chí: “Có bộ trưởng đã phát biểu là cán bộ tôi không bao giờ đòi hối lộ cả, chỉ tại dân đưa, bởi thực tế, chúng tôi chỉ gây khó khăn, anh phải đưa tiền, không phải đòi.”
Cán bộ của ông bộ trưởng kia không ai đòi hối lộ cả. Thậm chí, người đưa tiền còn bị mắng cho là… không biết cách đưa, và vì hối lộ là tội hình sự. Song, có văn hóa tự nguyện thì quan chức chỉ “gây khó khăn thôi, còn việc đưa tiền là do anh!”
Cứ thử lên chốn công quyền nhờ việc gì đó, dù đó là công việc phục vụ của cán bộ, công chức, họ hạch sách đủ kiểu với hàng trăm lý do. Một trong những lý do là… thủ trưởng đi vắng, và dân hôm nay đợi, ngày mai đợi, ngày kia đợi… đợi mòn mỏi, đợi đến lúc phải có hành động tự nguyện.
Dạy cho người dân có tập quán và hành động tự nguyện không phải đất nước nào cũng làm được, mà phải được un đúc từ đường lối và nghệ thuật cai trị, “học tập và làm việc theo đường lối,” kinh qua một thời gian nhất là 70 tuổi đảng!
Đảng đã cho ta sáng mắt sáng lòng, phải biết “tự nguyện” mới xong việc này!
“Việt Nam là quốc gia khởi nghiệp hay quốc gia say xỉn?” Đó là câu hỏi của ông Nguyễn Phương Nam, nhân viên của cơ quan Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) tại Việt Nam về tệ trạng bia rượu ở nơi nầy.
Theo Ủy Ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia Việt Nam, năm 2009, cả nước có 12,492 vụ tai nạn giao thông, làm chết 11,516 người, làm bị thương 7,914 người. Con số này không bao giờ giảm mà tăng theo thời gian. Báo cáo tổng kết cũng của ủy ban này năm 2012 ghi nhận cả nước có 36,376 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9,838 người, làm bị thương 38,060 người. Chỉ trong vòng ba năm, con số tai nạn gia tăng gấp ba lần, tuy số người chết thấp hơn, nhưng số người bị thương tăng gấp gần năm lần (4.8)
Loại văn hóa ăn chơi, nhậu nhẹt đã gia tăng thêm tai nạn giao thông trong những ngày lễ Tết. Tám ngày nghỉ Tết có bao nhiêu ngày nhậu? Chỉ từ ngày mồng Hai đến mồng Bốn năm nay, Bính Thân, cả nước có 13,695 trường hợp bị tai nạn giao thông phải cấp cứu tại các bệnh viện; 2,716 trường hợp đánh nhau phải nhập viện. Chỉ riêng ở bệnh viện Việt Đức, Hà Nội, thôi, trong ba ngày Tết, có hơn 200 trường hợp bị tại nạn xe cộ phải vào cấp cứu, trong đó, có tới 116 ca bị chấn thương sọ não vì va chạm hay té đập đầu xuống đường.
Hơn cả ma túy và tội phạm, tai nạn giao thông là nguyên nhân gây tử vong nhiều cho thanh thiếu niên ở Việt Nam. Trẻ em, dù chưa đủ tuổi để lái xe, đã trở thành nạn nhân của rất nhiều vụ đụng xe. Theo thống kê của UNICEF hồi đầu năm nay thì tai nạn giao thông khiến mỗi năm có khoảng 4,200 trẻ em bị tử vong và hàng ngàn em bị tàn phế vĩnh viễn hay chấn thương não bộ.
Con số của người Việt Nam chết trong thời bình như vậy là quá kinh hoàng!
Đúng là tai nạn giao thông ở Việt Nam quá đặc biệt, “chẳng nơi nào có được!”
Ở đây chúng ta không nói đến những lý do gây ra tai nạn như số xe quá tải cho đường sá quá lỗi thời, ý thức trật tự và thiếu giáo dục của người lái xe, hay sự buông thả hoặc ý thức đạo đức của cảnh sát giao thông, như ở các nước nghèo trên thế giới, nhưng thủ phạm giết người ở đây là chất cồn trong rượu, bia.
Việt Nam đã làm một cuộc khảo sát trên những người gây tai nạn hay bị tai nạn giao thông tại Việt Nam, trong số 1,840 người bị tai nạn phải vào phòng cấp cứu, thì đã có 67% người lái xe khi đang say xỉn, 45% người khác lái xe chỉ mới sau hai giờ nhậu nhẹt.
Những người bênh vực, cho rằng lý do tai nạn giao thông chẳng phải vì rượu. Họ lấy lý do, lượng bia tiêu thụ tại Việt Nam chỉ tương đối cao, chứ không hề dẫn đầu thế giới. Trên thực tế, theo tài liệu của WHO, nếu xét về mức tiêu thụ đồ uống chứa cồn trên đầu người, Việt Nam vẫn đứng khá xa cỡ thứ 29. Nhiều người biện hộ: “Con số này ở nhiều nước phương Tây vẫn còn gấp đôi chúng ta!”
Nhưng trên thực tế, hiện nay, Việt Nam đang là quốc gia có tỷ lệ người sử dụng rượu, bia cao thứ hai Đông Nam Á (sau Thái Lan,) thứ 10 ở Châu Á, và thứ 29 trên thế giới, nhưng trên thực tế có thể còn nghiêm trọng hơn nhiều, vì việc nấu rượu và buôn bán rượu (lậu) của tư nhân không được kiểm soát đến nơi đến chốn.
Kết quả điều tra do Bộ Y Tế và WHO đồng thực hiện vừa được công bố giữa tuần qua cho thấy, tỷ lệ đàn ông Việt Nam uống rượu lên đến 77%. Điều đáng lo là, trong 10 năm qua, số lượng rượu, bia sử dụng trên thế giới không tăng nhưng ở Việt Nam lại tăng dữ dội. Từ những năm 2003-2005, lượng tiêu thụ bia rượu tính trên đầu người là 3.8 lít/năm, năm 2010, tăng gấp đôi là 6.6 lít/năm. Dự báo cho năm 2025, con số này sẽ tăng lên 7 lít cho mỗi đầu người một năm. Việt Nam tiêu thụ khoảng 3.4 tỷ lít bia và 70 triệu lít rượu, đấy là chưa kể mỗi năm Việt Nam còn tiêu thụ khoảng 200 triệu lít rượu “tự biên!”
Chính phủ rõ ràng không có biện pháp nhằm hạn chế bia, rượu gây ra, dự thảo chống tác hại của rượu, bia đề xuất quy định cấm bán rượu, bia sau 10 giờ tối xem có vẻ khôi hài. Như vậy, dân nhậu có thể mua trước vài két bia trước thời gian này và sau đó thoải mái nhậu cho đến sáng. Cũng không có luật nào cấm trẻ em dưới 21 tuổi “nốc” bia rượu.
Nhiều ý kiến cho rằng người Việt Nam uống rượu bia vô độ và không biết kiềm chế, sau đó lại thoải mái leo lên xe lái đi, “anh hùng” có bao giờ tự nhận là mình đã say.
Việt Nam từ những năm 1975 trở về sau này đã tạo ra một thứ “văn hóa nhậu nhẹt.” Đàn ông sau giờ làm việc, đi thẳng về nhà với vợ, không biết nhậu là những “thằng hèn” không bao giờ thành công mà cũng chẳng được ai thuê mướn!
Tất cả các mối quan hệ giữa nhân viên và thủ trưởng, công ty và đối tác làm ăn, công ty và khách hàng đều được xây dựng trên bàn nhậu. Càng biết uống, càng được lòng chủ, càng dễ thăng chức, càng được lòng đối tác, càng dễ ký hợp đồng.
Ông Jean-Francois van Boxmeer, tổng giám đốc Heineken, đồng ý Việt Nam là quốc gia tiêu thụ bia cao nhất Đông Nam Á, với 3.4 tỷ lít bia trong năm 2015, đứng thứ ba châu Á sau Nhật và Trung Quốc, và nằm trong “Top 25” của thế giới. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng, dân số Việt Nam chỉ có 91 triệu, Nhật 127 triệu, và Trung Quốc là 1.3 tỷ người.
Như vậy, Việt Nam quả là “anh hùng,” vì người ít nhưng chịu nhậu nhiều, hơn là các quốc gia nhiều người mà nhậu ít.
Nhậu nhiều, nhậu giỏi, “chịu chơi” như vậy, nhưng gần 16 lao động Việt mới có năng suất làm bằng một người Singapore. Nếu giữ tốc độ này, phải mất hơn 60 năm, Việt Nam mới đuổi kịp được Singapore. Tương tự, một người Nam Hàn cũng có năng suất lao động bằng bảy người Việt cộng lại. Mức năng suất lao động của nước ta cũng bị Thái Lan, Philippines, Trung Quốc… bỏ xa.
Khi say xỉn rồi còn biết gì đến cảnh nước mất nhà tan. Xưa kia, mình trách Tây bày ra trò đá banh, hội chợ, bắn pháo bông… cho dân quên chuyện nô lệ, bây giờ chỉ nội cái văn hóa nhậu nhẹt đầu đường cho tới khuya, thì dân đâu còn muốn thấy, chẳng thèm nghe, chỉ còn tranh nhau nói lè nhè!
Trong ngành tư pháp, trước toà án hay trong vòng điều tra, một lời khai báo gian dối, không đúng sự thật được xem là một trọng tội; xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người khác.
Nếu người làm chứng khai báo gian dối khác với sự thật mà mình biết thì sẽ gây rất nhiều khó khăn trong công tác điều tra của cơ quan chức năng. Do đó, pháp luật có những quy định và hình phạt đối với hành vi người làm chứng gian.
Ngày nay tại hải ngoại, nơi có nhiều người Việt đang sinh sống, chúng ta thấy và nghe đầy dẫy những lời chứng gian trong các địa hạt, nhiều nhất hiện nay là món “dược thảo!” Ðể củng cố lòng tin của khách tiêu dùng, người ta đã mời rất nhiều khuôn mặt nổi tiếng trong cộng đồng trong giới thể thao, điện ảnh, âm nhạc, sân khấu… để mời mọc giới tiêu thụ bằng những lời lẽ không thật, gian dối, tức là những lời chứng gian.
Tâm lý quần chúng là nghe theo những lời chứng này. “Thuốc không hay sao trên đài phát thanh và truyền hình người ta khen dữ vậy!” “Thuốc không hay sao diễn viên này khen, ca sĩ nọ giới thiệu!”
Từ trái sang: Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn, (chụp trong khai mạc triển lãm ảnh Dương Minh Long tại Huế 1995)
Cuối cùng họ đem số phận và sức khỏe của mình thử thách cùng một loại nghệ thuật quảng cáo rất tầm thường nhưng có mãnh lực thu hút và nhồi nhét ý niệm rất mạnh mẽ!
Quần chúng thì chạy theo thần tượng, tên tuổi nên “cả tin” những gì họ nói, phô này, đôi khi cả những lời thề thốt, nhưng sự thật chưa bao giờ người quảng cáo có can đảm, uống một viên thuốc hay dùng sản phẩm của viện bào chế hay nhà sản xuất nọ đưa ra thị trường. Cựu ứng viên Tổng thống Mỹ Bob Dole năm 70 tuổi đã quảng cáo cho loại thuốc cường dương Viagara, nhưng liệu thứ thuốc này hiệu nghiệm với ông như thế nào, vì đây là chuyện phòng the riêng tư của vợ chồng ông.
Trong chuyện chính trị, nói dối và hứa gian là những chuyện thường tình. Ðể tuyên truyền hay tán dương cho một chế độ người ta đã không thương tiếc khi dùng những kẻ gian dối để làm chứng gian cho họ, và những kẻ chứng gian đã sẵn sàng bỏ qua lương tâm và sự thật để “biểu diễn lập trường,” trả nợ cơm áo hay vì sợ hãi cường quyền.
Vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế năm 1968, qua cuốn phim của Lê Phong Lan với những “nhân chứng” xứ Huế như Nguyễn Ðắc Xuân , Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn là những chuyện làm chứng gian nguy hiểm nhất!
Trong một khúc phim, Lê Phong Lan phỏng vấn Nguyễn Ðắc Xuân, Xuân đã phủ nhận hoàn toàn chuyện thảm sát, nghĩa là Cộng Sản không giết ai cả, đây là do phản kích tâm lý chiến của phe VNCH, và Huế là nơi duy nhất đã đạt được cả hai mục tiêu “tấn công” và “nổi dậy”. Sự thật việc “tổng nổi dậy” là một chuyện hoang tưởng của phe Cộng Sản, không ai minh chứng được tên tuổi hay đơn vị quân đội, quần chúng địa phương nào đã “nổi dậy!” Sự thật là Việt Cộng đi đến đâu, dân Huế bỏ chạy đến đó, nghe chữ Việt Cộng là dân Huế “vãi đái” rồi. Ðây cũng là một thứ miệng lưỡi gian xảo của một người chứng gian được gọi là nhà “sử học!” Hay ông cho rằng quân nổi dậy được đếm trên đầu ngón tay, là anh em nhà họ Hoàng, cha con Nguyễn Ðoá và ông?
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một chứng gian tệ hại hơn. Luôn luôn nói rằng mình, trong thời gian Tết Mậu Thân, không có mặt ở Huế, nhưng trước ống kính truyền hình quốc tế thì Tường làm chứng gian rằng mình đã “lội” trong máu, mà không biết, khi bật đèn pin lên mới thấy đó là máu của 200 nạn nhân, trong một cuộc ném bom vào một bệnh viện trong thành nội Huế. Tôi chưa nói đến sự phi lý máu của 200 người chảy từ bệnh viện ra đường, thứ máu không đông đến nỗi ngập đường mà ông Tường phải “lội” mà không nghe mùi tanh. Tường cũng làm chứng gian nói rằng những phụ nữ miền Nam mang thai, có chồng tập kết ra Bắc đều bị công an, cảnh sát đạp cho văng thai nhi ra ngoài, và công chức Huế mỗi ngày Lễ Tết đều phải đến quỳ lạy tại nhà ông Ngô Ðình Cẩn. (số này đương nhiên là phải có HPNT và tác giả bài viết này!)
Khi nghe Nguyễn Ðắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường “ăn gian nói dối” chúng ta không ngạc nhiên vì họ là những người Cộng Sản, nhưng đến phiên Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ có tài đã để lại nhiều sự ái mộ trong lòng quần chúng, cũng chịu làm chứng gian cho bộ phim chối tội “Mậu Thân 1968” của Lê Phong Lan thì chúng ta hoàn toàn thất vọng!
Phát biểu của Trịnh Công Sơn trong bộ phim Mậu Thân 1968 của Lê Phong Lan là: “ …quân đội Bắc Việt Nam vô cùng nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát!”.
Tôi là một nhân chứng có mặt Huế trong suốt thời gian 24 ngày trước khi quân Việt Cộng rút ra khỏi Huế. Trong thời gian này, gia đình Trịnh Công Sơn, có cả Ðinh Cường từ Saigon ra ăn Tết với Sơn, đã từ Phú Cam (nhà Sơn) chạy về trường Trung Học Kiểu Mẫu (toà Khâm Sứ cũ) được dùng như một trại tạm cư để tránh Việt Cộng.
Từ Saigon ra, gia đình tôi cũng từ Chợ Cống tránh VC chạy về đây. TCS đã ở đây cho đến ngày VC rút ra khỏi thành phố. Như vậy trong những ngày này, lúc nào, ở đâu, TCS đã tiếp xúc với bộ đội Bắc Việt, để có nhận xét rằng: “quân đội Bắc Việt Nam vô cùng nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát?” Vậy thì ai là thủ phạm? Hay mấy nghìn dân Huế cùng nhau tự trói mình, tự nhảy xuống hầm và cùng… tự sát?
Nếu VC gặp một thanh niên đeo kính trắng, trắng trẻo, tóc dài, dáng dấp thư sinh như TCS thì chắc chắn người nhạc sĩ này không thoát cảnh nằm chung với đồng bào trong các hầm chôn tập thể. Thời đó, bọn ở trong rừng ra, biết TCS là ai?
Lời chứng gian này là một điều xúc phạm đến nỗi đau của hàng nhìn gia đình có thân nhân chôn chung trong 22 hầm tập thể. Vậy mà Lê Phong Lan dám nói rằng: “Không có nhân chứng nào có thể nói dối trong những cuộc phỏng vấn này.”
Người Việt vượt biển bị bắt ở Đài Loan. (Hình: Coast Guard)
“Bạn ơi, nguồn thảm sầu kia bởi Số phận hay do chế độ này?” (Tố Hữu)
Ngày 19 Tháng Ba, 2018, trong khi tại Hà Nội, Đinh La Thăng, cựu ủy viên Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, ra tòa lần thứ hai về tội “lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” khoảng $35 triệu thì trên bờ biển Đài Loan, cảnh sát tìm thấy hai người Việt Nam, một nam, một nữ bị chết đuối trôi dạt vào bờ biển. Những người này vì sự sống đói khổ đã phải bỏ nước, giao thân cho bọn buôn người ra đi.
Theo báo United Daily News, ba người Việt sống sót còn lại gồm một nam, hai nữ đã khai họ và hai người chết đuối kia đến từ Việt Nam. Nhóm của họ trả tiền để được chở bằng tàu tới Đài Loan, nhập cư lậu vào xứ này với hy vọng có thể tìm kiếm được một công việc tốt hơn.
Tuy nhiên, khi cách bờ biển Đài Loan khoảng 3 – 4 hải lý, thuyền trưởng của con tàu ra lệnh nhóm người Việt và hai người Đài Loan phải xuống tàu cứu sinh tự tìm đường vào bờ. Những cơn sóng lớn sau đó đã đánh chìm chiếc thuyền cứu sinh, tất cả bảy người trên đó đều bị rơi xuống biển. Không còn cách nào khác, họ phải tự bơi vào đất liền, nhưng có hai người đuối sức bị chết đuối và bị sóng đánh dạt vào bãi biển.
Một ngày sau đó, ở hai địa điểm, nhà chức trách cũng đã phát hiện thêm 26 người Việt vượt biển đến Đài Loan trên những tàu đánh cá của đảo quốc này và đã bị tống giam vào nhà tù Cao Hùng.
“Có lẽ nhìn lại chưa bao giờ quê hương ta đẹp như thế này, chưa bao giờ quê hương ta có đời sống văn hóa, kinh tế phát triển, xã hội ổn định, thôn xóm có nhiều hình thức hoạt động mới. Con em được học hành đến nơi đến chốn, đời sống của bà con có nghĩa có tình.”
Câu nói của Nguyễn Phú Trọng nghe rổn rảng, y như lối nói của những anh chàng “mãi võ sơn đông” ngoài phiên chợ chiều. Sao con người Việt Nam hôm nay lại khổ sở, điêu đứng như thế này. Vì sao nước giàu dân mạnh mà con người phải bỏ nước ra đi. Ngày trước còn đổ lỗi cho đế quốc xúi giục, trong cơn hoảng loạn, chạy theo “bơ thừa sữa cặn,” sao ngày hôm nay đã 43 năm “chưa bao giờ quê hương ta đẹp như thế này” mà thiên hạ vẫn ùn ùn ra đi. Người giàu thì cho con du học, mua nhà cửa ở ngoại quốc, kẻ ít vốn thì đem thân “ở đợ” quê người, lấy chồng ngoại quốc hay xung phong đi làm thuê xứ khác. Bần cùng cũng tom góp, vay mượn để xuống tàu ra đi, hy vọng kiếm chút tương lai ở xứ người.
100 ngàn du học sinh Việt Nam học và làm việc ở 49 quốc gia, trong đó có đến 90% du học tự túc và nhiều người trong số họ đã không về nước.
Đại biểu Quốc Hội Trương Trọng Nghĩa đã lên tiếng báo động, hiện nay nhiều trí thức giỏi không về nước làm việc, doanh nhân thành đạt muốn ra đi, một bộ phận cán bộ, công chức về hưu hay đương chức cũng tìm cách cho mình hay con cháu mình định cư ở nước ngoài.
Khi khối Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, du học sinh và công nhân xuất khẩu lao động đã trốn chạy xin tị nạn sang các quốc gia khác thay vì xin trở về nước. Số liệu thu thập được vào thời điểm đầu thập niên 1990 có khoảng 300 ngàn người sống rải rác ở Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Đông và Tây Đức…
Ngày nay hàng người tị nạn Việt Nam đang kẹt trên đất Mã Lai, Thái Lan và Cambodge, đang sống cuộc đời bất hợp pháp, vô tổ quốc, bấp bênh, đói khổ vì đã bỏ quê hương ra đi.
Bất chấp việc Chính Phủ Anh đưa ra nhiều biện pháp cứng rắn để ngăn chặn nạn nhập cư lậu, hằng ngày vẫn có rất nhiều người Việt tìm mọi cách vào Anh bất hợp pháp với hi vọng đổi đời. Người bản xứ gọi họ là “người rơm,” tức người không có giấy tờ hợp lệ, sinh sống bất hợp pháp.
Năm 1954, sau Hiệp Định Geneve, cắt miền Bắc giao cho Việt Cộng, hơn một triệu người chạy trốn chế độ Cộng Sản vào Nam. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, trong gần hai thập niên sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, hơn 1.3 triệu người Việt Nam vượt biên, vượt biển đi tị nạn. Trong số này , Liên Hiệp Quốc thẩm định từ 200,000 đến 400,000 người không đến được bến bờ hoặc chết vì tàu bị đắm, bị hải tặc Thái Lan sát hại. Trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đón nhận 823,000 thuyền nhân , Pháp 96,000, Úc cũng như Canada nhận 137,000 người, Anh quốc 19,000.
Nhưng vào năm 2013, gần 40 năm sau ngày Việt Nam thống nhất trong chế độ “xã hội chủ nghĩa,” nguyên nhân nào lại thúc đẩy hàng trăm người Việt Nam vượt biển ra đi?
460 thuyền nhân Việt Nam kể cả phụ nữ và trẻ em đã đến Úc trong 4 tháng đầu 2013. Hiện tượng người vượt biển lại tăng cao, bằng tổng số thuyền nhân đến Úc trong 5 năm trước.
Số liệu của Tổ Chức Di Cư Quốc Tế và Vụ Liên Hiệp Quốc về Vấn Đề Kinh Tế và Xã Hội cho thấy, từ năm 1990 đến năm 2015 có hơn 2,5 triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Như vậy, trung bình mỗi năm có khoảng 100 nghìn người Việt di cư.
Vậy câu hỏi đặt ra là đất nước không còn chiến tranh nữa, kinh tế cũng tốt hơn, thì tại sao họ lại bỏ đi?
Có người cho rằng đây là vì lý do kinh tế nhưng cũng có người cho rằng đây là hậu quả của chính sách đàn áp của nhà cầm quyền Hà Nội đối với nhân quyền, tự do ngôn luận và chính kiến tại Việt Nam. Nhưng dù là với lý do kinh tế, một chính phủ để dân đói nghèo, phải hy sinh mạng sống, bỏ quê hương ra đi, thì đó là một chính phủ tồi tệ.
Ngày xưa, sau Tháng Tư, 1975, người Việt vượt biển ra đi, được thế giới dang tay đón tiếp, lo chuyện ăn ở, thuốc men, cấp quy chế tị nạn, giúp tìm nơi chốn và giúp phương tiện để định cư tại một quốc gia thứ ba. Ngày nay, như những người Việt được bọn buôn người đưa đến Đài Loan, hay Âu Châu đã phải vay mượn, thế chấp nhà cửa, lo tiền trả cho bọn buôn người, được xem như là những người nhập cư trái phép, bị còng tay và đưa vào nhà tù hay bị trục xuất trở lại quê quán.
Nhưng bằng mọi giá, người dân Việt vẫn mong muốn chuyện bỏ đất nước ra đi.
Ngày nay có người đang ở trong nhà tù, có người đang sống vất vưởng trong ống cống gầm cầu, có kẻ đang sống cuộc đời khốn khổ, làm thuê ở mướn mà không đủ ăn. Tất cả họ đều là những người vô tổ quốc, sống bất hợp pháp, “những người rơm” như người dân Anh Quốc đã đặt tên cho họ.
Thực xót xa khi đọc lại hai câu thơ của Tố Hữu viết từ năm 1938:
“Bạn ơi, nguồn thảm sầu kia bởi. Số phận hay do chế độ này?” Mà câu trả lời thì đã quá rõ ràng, cay đắng!
Bàn ăn nơi Tổng Thống Obama ghé ăn bún chả năm 2016, được lộng kiếng. (Hình: Facebook Đàm Hà Phú)
Tháng Năm, 2016, Tổng Thống Mỹ Barack Obama sang thăm Việt Nam, khi ra Hà Nội, ông đã cùng với đầu bếp nổi tiếng nước Mỹ Anthony Bourdain, ghé ăn bún chả Hương Liên tại số nhà 24 Lê Văn Hưu. Mang tính thân thiện, cũng như năm 2000 khi ghé Sài Gòn, Tổng Thống Bill Clinton đã cùng con gái đến dùng phở tại quán Phở 2000 gần chợ Bến Thành.
Khi một nhà hàng ăn được một đại tài tử chiếu cố thường lui tới, sẽ ăn nên làm ra nhờ tiếng tăm của những thực khách danh tiếng. Nhà hàng Patsy’s Italian Restaurant trên con đường phố 56 Street, New York, từ năm 1944, của một di dân người Ý, nhờ có vị khách thường xuyên là ca sĩ Frank Sinatra, đã trở thành một nhà hàng ăn của các bậc đại gia, giới nghệ sĩ nổi tiếng, như George Clooney, Al Pacino cho đến James Gandolfini và Tony Bennett.
Tiệm Phở 2000 ở Sài Gòn và tiệm bún chả Hương Liên, Hà Nội cũng nhờ tiếng tăm của hai vị tổng thống đã trở thành những địa điểm đắt khách nhất. Không nghe nói Sài Gòn đã có những sáng kiến quảng cáo về cái nơi một vị tổng thống của một đại cường quốc đã đến ăn một bát phở ra sao, nhưng ở Hà Nội chủ quán bún chả đã cho “lộng kiếng” bộ bàn ăn, chén dĩa và chai lọ, đũa muỗng… nơi Obama và Bourdain để thưởng thức món bún chả Hà Nội. Lẽ cố nhiên sau hai năm, cái dĩa, cái chén, đôi đũa, lọ tiêu, chai nước mắm, hai cái vỏ chai cũ không còn nữa, chỉ có tính cách tượng trưng. Tiếc là còn thiếu có cái tăm xỉa răng, tờ giấy lau miệng và chút DNA trên miệng chai bia ngài vừa tu xong.
Biết được chuyện này, Anthony Bourdain đã đăng tải lại bức ảnh trên trang Instagram cá nhân kèm theo lời bình luận “Tôi không chắc mình cảm thấy thế nào nữa?” Có nghĩa là Bourdain chưa hiểu nỗi kiểu chơi của Việt Nam, trò tư duy “lộng kiếng” của miền Bắc XHCN.
“Cái gì sợ người ta quên đi thì hãy lộng kiếng giữ lại!” Do đó, người người lộng kiếng, nhà nhà lộng kiếng, từ cái bằng liệt sĩ, giấy khen lao động vinh quang, hình bác Hồ đến cái xác giả trong lăng cũng phải “lộng kiếng” lại.
Tổng Thống Obama đặc biệt là một người danh tiếng và một nhân vật quan trọng nên cần lưu giữ lại chút kỷ niệm, nhưng ở xứ tôi, cái gì của lãnh tụ, của “cách mạng,” cái gì cũng cần “lộng kiếng” vì cái gì cũng thơm tho, quý giá cả.
Hằng trăm thứ đồ dùng của lãnh tụ, từ cái bàn máy chữ đến đôi guốc ở Hà Nội, cái tủ đựng quần áo, tủ con để đầu giường, cái la-va-bô rửa mặt ở số 9 ngõ Công-Poanh, và cả “cục gạch hồng” mà thi nô Chế Lan Viên đã cúi đầu ninh bợ “một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá!” cũng được xem như quốc bảo vào nằm trong viện bảo tàng.
Dân số Việt Nam là 92.7 triệu thì đất nước có gần 50 triệu khung hình “lộng kiếng” của Bác, phần dư ra có thể dùng vào việc cứu đói cho thương binh, liệt sĩ, cô nhi, quả phụ hay dùng để xoá đói, giảm nghèo. Hiện nay, trong cả nước, trên 27 tỉnh và thành phố đã có trên 630 di tích và địa điểm di tích lưu niệm Bác Hồ được “lộng kiếng” từ cái nhà sàn, cái ao, nơi Bác sống, nơi Bác đã đi qua, nơi Bác đã dừng lại và nơi Bác nằm xuôi tay.
Theo thống kê của nhà nước CSVN, đến nay tượng và tượng đài tưởng niệm “Bác” đã có mặt tại khoảng 20 nước trên thế giới. Ở trong nước, hiện nay đã có khoảng 137 tượng đài HCM và theo dự tính, người ta sẽ xây thêm 58 tượng đài nữa… Mỗi tượng đài để suy tôn lãnh tụ, cái rẻ nhất cũng tốn vài ba chục triệu và cái đắt nhất là $70 triệu.
Các nước Tây phương và những người tư bản “chưa tiến bộ” như Anthony Bourdain khó hiểu nỗi cái tinh thần “lộng kiếng” trong chế độ Cộng Sản, và cũng chưa hiểu nỗi thói quen nói lái muôn đời của người Việt Nam.
Và, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng ra, ngay như một vật ghê tởm nhất là một cái búa tạ vấy máu mà Việt Cộng dùng để đập vỡ đầu những người mà Cộng Sản kết tội là ác ôn, cũng được “lộng kiếng” đưa vào viện bảo tàng. Cái búa đã được ghi chú: “Búa – đồng chí Nguyễn Văn Thắng, huyện đội Mõ Cày (Bến Tre) dùng bổ chết 10 tên ác ôn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước!”
Trong tương lai, khi chế độ Cộng Sản đã không còn trên đất nước Việt Nam, có lẽ có hai nghề làm ăn phát đạt nhất, là nghề bán ve chai khi thời đại “lộng kiếng” đã hết thời và nghề bán “xà bần” từ những tượng đài nghìn tỷ.
Việt Khang đến phi trường Los Angeles. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
Những ngày giáp Tết, trong khi phi trường Tân Sơn Nhất, ngập đầy những “Việt kiều” hồ hởi, xênh xang về quê ăn Tết, thì ngược lại, có một thanh niên, lặng lẽ được công an Sài Gòn đưa lên một chuyến bay rời quê hương, ra đi định cư tại Hoa Kỳ. Thanh niên đó là nhạc sĩ Việt Khang, tác giả ca khúc “Anh Là Ai?” ca khúc đã làm rung động cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Việt Khang đã bị chính quyền CSVN bắt vào cuối năm 2011, bị kết án 4 năm tù vào ngày 30 Tháng Mười, 2012, được trả tự do vào ngày 14 Tháng Mười Hai, 2015 và bị quản chế hai năm, đã đến phi trường Los Angeles, California, lúc 1 giờ 20 chiều ngày 8 Tháng Hai, và được đông đảo đồng hương và giới truyền thông ra đón.
Cũng không phải tự dưng mà công an Cộng Sản tử tế tới nhà Việt Khang mời lên máy bay đi Mỹ. Nhạc sĩ Trúc Hồ và SBTN có sáu năm vận động cho Việt Khang, mở chiến dịch Thỉnh Nguyện Thư vào năm 2012, và sau đó đã âm thầm vận động với Thượng Nghị Sĩ John McCain để ông trực tiếp can thiệp, nêu trường hợp của nhạc sĩ này với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khi làm việc với CSVN.
Phải nói Việt Khang là hình ảnh của tuổi trẻ tinh hoa của tổ quốc với một lối tranh đấu, phê phán đặc biệt. Không giăng biểu ngữ, không xuống đường, không hô hào, chỉ với một bài hát, Việt Khang đã làm đánh động đến con tim và nỗi xót xa của hằng triệu người Việt tha hương, và làm chấn động cả bộ máy cầm quyền CSVN, nhất là giới công an, những người được Việt Khang gọi đích danh, chỉ mặt trong trong câu hát “Anh là Ai?” Rõ ràng là nhà cầm quyền đã phải kiêng nể. Việt Khang không có thế lực, không có dao súng trong tay, chỉ với một cây đàn và những nốt nhạc, đã làm cho cường quyền phải sợ hãi. Dập tắt nỗi sợ hãi này, chúng đã dùng thứ vũ khí muôn đời của mọi chế độ độc tài là cảnh sát, dùi cui, tòa án và cuối cùng là nhà tù. Có một thời đại nào trong lịch sử Việt Nam, tồi tệ và hèn hạ như hôm nay, khi mà một câu hát chống Tàu xâm lược, lại làm cho chính quyền lo sợ, bắt bớ, trù dập tác giả như trường hợp của Việt Khang?
Nhưng nhà tù không bưng bít dập tắt được lời hát yêu nước này, bài hát này đã bay qua những đại dương, những cánh đồng, vượt qua những biên giới để đến trên môi những em thơ, trong lồng ngực của tuổi trẻ yêu nước đang hướng về quê hương, về hình ảnh Việt Khang sau những song sắt của nhà tù.
Báo Nhân Dân Hà Nội đã lên án cho rằng “mục đích hành động của một số người đang nhân danh dân chủ để gây rối loạn xã hội, cản trở sự phát triển đất nước.” Vậy thì nếu có cơ hội, Việt Cộng không ngần ngại đẩy những nhà tranh đấu dân chủ trong nước ra đi, dù là đến một đất nước tự do, giàu sang, không phải chịu cảnh lưu đày, trước là được tiếng nhân đạo, sau là loại bỏ ảnh hưởng của những nhà tranh đấu này ở trong nước.
Việt Khang không phải là nhà tranh đấu dân chủ cho Việt Nam đầu tiên đến Hoa Kỳ, trước đây đã có những nhân vật như Đoàn Viết Hoạt, Đoàn Thanh Liêm, Nguyễn Chí Thiện, Hoàng Minh Chính, Tạ Phong Tần, Trần Khải Thanh Thủy, Mục Sư Nguyễn Công Chính, Cù Huy Hà Vũ, Đỗ Thị Minh Hạnh, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Chính Kết… Trong này có những người như Đỗ Minh Hạnh được sang Áo thăm mẹ, đi một vòng sang Úc, cuối cùng trở về Việt Nam. Ông Hoàng Minh Chính sang Mỹ chữa bệnh, đã về lại Việt Nam. Trong trường hợp này thì Nguyễn Chính Kết đến Mỹ bằng con đường tự chọn, không phải do CSVN cho phép ra đi.
“Những nhà tranh đấu ra hải ngoại có dễ dàng tranh đấu hiệu quả hơn ở trong nước hay không?” Đó là sự băn khoăn của nhiều người khi nghe tin một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền trong nước, “bị” hay “được” ra đi. Tôi đã có dịp đặt câu hỏi này với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ này cho rằng, ra hải ngoại việc tranh đấu thuận lợi hơn, nhờ không khí tự do, gần gũi với truyền thông thế giới.
Câu trả lời của một người khác, đã hoạt động trong cộng đồng lâu năm là “không!”
Nhân vật này nêu lý do, trừ một vài trường hợp đặc biệt, như Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt và Luật Sư Đoàn Thanh Liêm, dễ hội nhập với đời sống mới, ít lo đến sinh kế, có nhiều mối liên kết với cộng đồng và các nhân vật ngoại quốc. Phần lớn các nhà tranh đấu ra nước ngoài khó hội nhập với đời sống mới, một mặt phải lo cho cuộc sống áo cơm, lo ăn, lo mặc, chịu cảnh nhà thuê, nên một số đành thúc thủ, im hơi lặng tiếng vì “lực bất tòng tâm.”
Đó là chưa nói đến sự đánh phá, vùi dập, bôi xấu của nhiều phe phái, Cộng Sản hay không Cộng Sản, tại hải ngoại hay được yểm trợ từ các thế lực trong nước mà trường hợp của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là rõ nét nhất. Ông bị vu cáo là “Nguyễn Chí Thiện giả,” “ăn cắp thơ,” thậm chí bọn đánh phá, táng tận lương tâm, đã gắn cho ông cái tội xấu xa, là đã hành nghề “chủ động đĩ!”
Một số khác có thành kiến hiểm độc, kết án các nhà tranh đấu có gốc gác là bộ đội như Điếu Cày, công an như Tạ Phong Tần… là đối lập cuội, khổ nhục kế. Nếu khổ nhục kế mà phải dùng đến cái chết của mẹ già như trường hợp Tạ Phong Tần, thì bọn vu oan, giá họa này đúng là bọn “ngậm máu phun người!” Nói chung không có nhà tranh đấu nào sau một vài năm còn giữ được khí tiết và hoạt động hữu hiệu cho đất nước!
Phải chăng vì vậy mà Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, một người bất đồng chính kiến tại Việt Nam, đã ba lần bị tù tội, với tổng cộng thời gian trên 20 năm, mặc dầu được quốc ngoại can thiệp cho ra đi, đã chọn con đường ở lại tranh đấu cùng với đồng bào trong nước.
Hải ngoại đã có bao nhiêu bài báo, bao nhiêu cuộc phỏng vấn, bao nhiêu bản nhạc bài thơ, bao nhiêu đêm thắp nến cho những nhà tranh đấu, nhưng chúng ta đã tiếp đón những người này với thái độ như thế nào, khi họ ra hải ngoại, được hít thở bầu không khí tự do như chúng ta,?
Thay vì một vòng hoa tri ân, chúng ta gửi đến họ những quả trứng thối!
Nhiều người cho rằng việc đánh phá những người tranh đấu từ trong nước khi ra hải ngoại là chủ trương của Cộng Sản, nhưng tham gia công việc “giết người chẳng lọ gươm dao” này hôm nay lại là những người thường vỗ ngực cho mình là người chống Cộng ở hải ngoại.
Đó là hình ảnh một miếng thịt tươi được vứt xuống một hầm cá sấu, và chính quyền cộng sản trong nước luôn luôn tìm cách đẩy họ ra khỏi nước để nhờ tay người khác giết họ để khỏi bị mang tiếng là đao phủ thủ!
Việt Khang! Em là nhà tranh đấu trẻ tuổi nhất phải bỏ nước ra đi đến định cư tại Mỹ. Tôi tin rằng em có đủ thời gian để làm lại cuộc đời và đủ sáng suốt chọn con đường tranh đấu hữu hiệu cho mình đối với quê hương. Em được mọi người yêu thương vì lời hát của em đã bay đến tận mọi nhà, trong và ngoài nước!
Điều cốt yếu là mong sao, qua bao nhiêu nghịch cảnh, lòng em vẫn giữ được ngọn lửa tranh đấu và yêu nước, ngọn lửa ấy sẽ là mồi lửa châm bùng lên, đốt tan bóng tối cho những thế hệ như chúng tôi, được thấy quê nhà trong một ngày vui trọn vẹn. (Huy Phương)
Người Việt Nam “lạc quan” hay “ngây thơ” với những hình ảnh như thế này? Cảnh đường phố cứ mưa là ngập ở Sài Gòn. (Hình: Zing)
Mấy lúc sau này, đọc những tin tức về Việt Nam, nhất là những nghiên cứu, đánh giá về cuộc sống tại Việt Nam, chúng ta thường vấp phải sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên… như có những nghiên cứu cho rằng người Việt Nam hiện nay có cuộc sống hạnh phúc nhất, nhì trên thế giới. Và mới đây, người Việt Nam lại được xếp hạng đứng đầu thế giới, về những thay đổi cuộc sống trong nửa thế kỷ qua, nghĩa là Người Việt Nam hiện nay đang đứng đầu thế giới về sự lạc quan.
Khảo sát của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew thực hiện với hơn 40 ngàn người tại 38 nước, cuối cùng đã xếp Việt Nam ở vị trí số một với 88% người Việt được phỏng vấn đã cho rằng cuộc sống hôm nay tốt đẹp hơn 50 năm trước. Pew là tổ chức phi chính phủ chuyên cung cấp thông tin về các vấn đề xã hội, ý kiến công chúng và các xu hướng nhân khẩu học đang định hình Hoa Kỳ và thế giới và là một chi nhánh của Tổ Chức The Pew Charitable Trusts của Hoa Kỳ.
Trung Tâm Nghiên Cứu Pew cũng vừa bị Việt Nam “ném đá” vì vừa công bố các số liệu cho rằng Việt Nam đang vi phạm tự do tôn giáo với mức độ nhảy vọt.
Có phải chăng vì thái độ chính trị và những đối nghịch trong quan điểm với đường lối chính phủ trong nước, được thấy rõ qua các phản ứng của quần chúng, các bản án đàn áp chính kiến vẫn xảy ra khắp nơi, chúng ta thấy những công trình nghiên cứu, thăm dò dư luận trên đời sống Việt Nam, có vẻ như không sát với thực tế. Đôi khi hóa ra một sự giả dối đầy trò cười, chỉ có mục đích dùng như một tài liệu tuyên truyền cho chế độ.
Lẽ cố nhiên lạc quan là điều tốt. Nếu nói theo một nhà văn Hoa Kỳ, bà Helen Keller: “lạc quan là niềm tin mang đến thành tựu. Bạn chẳng làm gì được nếu thiếu hy vọng và lòng tự tin.”
Người lạc quan là người luôn luôn nghĩ rằng ngày mai sẽ khá, sẽ tốt hơn hôm nay, nên chẳng có gì phải lo lắng, đó là người bằng lòng với số phận. Người Việt Nam chúng ta ngày hôm nay thật sự phải là những người như thế sao?
Cũng có định nghĩa cho rằng, người lạc quan không bao giờ lầm tưởng cuộc sống này là sự hoàn hảo, vì điều đó là không tưởng. Thay vì chờ đợi một ngày “hoàn hảo” nào đó để làm việc gì đó, họ sẽ sống tích cực trong ngày hôm nay, mà không hề tỏ ra một thái độ bất mãn. Họ khám phá thế giới với con mắt tò mò và nhiệt tình thơ trẻ.
Thử tưởng tượng buổi chiều đi làm về đường phố ngập nước, xe chết mất cả tiếng đồng hồ mới về tới nhà, nhưng những người Việt Nam hôm nay vẫn không cho chuyện đó là khó chịu, đó là chuyện nhà nước đang bận tâm và đang lo cho dân. Chính quyền tìm mọi cách moi tiền của dân qua mọi thứ gọi là phí, thuế, lộ phí và huy động nhân dân với nhà nước cùng làm, nghĩa là dân è cố ra vì thuế rồi, còn gặp cảnh không đóng tiền sửa đường, nhân viên xã không chịu ký giấy tờ.
Tuy vậy, chuyện lạc quan là có thật.
Trong nước thiên hạ quá lạc quan, giờ rảnh rỗi, ngoài chuyện cầm micro hát hò thì nhiều người chẳng biết làm gì khác?
Hãng tin VNExpress đang có loạt bài độc giả phàn nàn bị hàng xóm “tra tấn” bằng phong trào karaoke, họ thích hát và thích ép người khác phải nghe mình hát.
“Đối với dân văn phòng, buổi chiều, tan sở, ‘tăng một’ sẽ đi lai rai vài chai với đồng nghiệp. Nếu cao hứng, tăng hai sẽ kéo nhau đi hát karaoke… Những người khác sẽ hát hò thoải mái tại quán nhậu lề đường thông qua sự hỗ trợ cơ động của dàn karaoke kẹo kéo.”
Không lạc quan sao được? Một người vừa trở lại Việt Nam cho biết, Sài Gòn bây giờ hình như không ai nấu ăn trong nhà hay sao mà tối nào các tiệm, các quán cũng tấp nập khách ăn? Bao giờ nhìn chung quanh các bàn cũng rất nhiều người địa phương ngồi ăn, phần đông là giới trẻ, và trung niên. Trên bàn đầy ắp thức ăn và bia, nước ngọt.
Trên những chương trình truyền hình, gameshow cũng khai thác chuyện hát, và những hài kịch rẻ tiền, kể cả tên tuổi những “danh hài” Việt kiều, với những show thời trang dị hợm, mà khả năng dàn dựng, y phục, nói năng, tưởng không còn gì “hạ cấp” hơn. Tuy vậy người xem, phần lớn là tuổi đôi mươi, vẫn dễ dãi hài lòng bằng những nụ cười mở rộng, tâm đắc với những tràng pháo tay tán thưởng không ngừng, và diễn viên vẫn tiếp tục thành “siêu sao,” kiếm tiền dễ dàng.
Đó phải chăng là thái độ lạc quan ngây ngô, bất tận. Hàng trăm, hàng nghìn người, toàn là học sinh, sinh viên, trí thức, tương lai của đất nước, đang dễ dãi chạy theo những ngôi sao sân khấu cỡ Trường Giang và Trấn Thành ngoài đường phố và sẵn sàng “hôn ghế thần tượng,” thì chúng ta trông mong ở họ nỗi gì?
Mọi sự ngày nay đều dễ dãi, đơn giản như chuyện dẫn nhau vào “nhà nghỉ” hay buổi chiều ra “bãi nhậu” sau giờ làm việc.
Nếu kể từ ngày trong rừng ra, một cái “xắc cột” và một cái chén đôi đũa dắt bên lưng, thì hoàn cảnh ngày hôm nay quả là lạc quan. Ngoài những viên chức cấp cao như Ủy Viên Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng hiện đang nắm các chức Tướng Lãnh, Bí Thư Tỉnh Ủy, Bộ Trưởng, Thứ Trưởng, cán bộ trung cấp ngày nay là cán bộ đảng viên thì có lương bổng, có quyền lực. Chúng ta cũng hiểu rằng tầng lớp này hầu hết là những người xuất thân từ nghèo khổ, “đi làm cách mạng,” ngày nay là những người một bước lên xe, có biệt thự, nhà lầu, có đặc quyền và có cơ hội tham ô. Thành phần tiếp theo là công chức giáo viên, quân đội công an, tuy lương mỗi tháng cỡ vài trăm, nhưng trong các địa hạt như thuế vụ, quan thuế, công thương, y tế, ngân hàng, tư pháp… nếu không nói là trong tất cả các cơ chế, họ lại có những tròng tréo, móc ngoặc chia chác, nếu chúng ta chỉ tính trên đồng lương tháng mang về thì chưa đủ. Trong rất nhiều cơ quan XHCN ngày nay, rất nhiều viên chức lương ít mà lộc nhiều, lương một mà bổng mười.
Một phần ba công nhân ngày nay xuất thân từ nông dân đã bỏ ruộng đồng lên tỉnh. So với đời sống sống ngày trước, người công nhân thấy đời sống của họ đỡ vất vả hơn.
Tất cả thành phần dân chúng Việt Nam và tất cả họ hàng bên thắng cuộc, khởi đi từ chén bắp bo bo, cái tem phiếu, ở nhà tập thể, miếng thịt con cá phải xếp hàng, so với đời sống hôm nay, với tiện nghi điện thoại, chiếc xe, áo quần bảnh bao với nhà cao cửa rộng, ăn nhậu linh đình& thì lạc quan là phải.
Đó là những con người đã bị bóp cổ không thở được, ngày nay thấy dễ thở, so sánh để lạc quan là lẽ đương nhiên. Tất cả lạc quan vì đời sống của họ đã khá hơn thời ông cha họ, được hưởng thụ đời sống vật chất như nhà cửa, ăn nhậu, phương tiện di chuyển. Và những người đi từ thiếu thốn, nghèo khó, chỉ mong nhu cầu vật chất, khi đầy đủ vật chất rồi họ không còn thấy bận tậm gì bữa. Đó là một xã hội đầy hưởng thụ, đi đến chỗ đạo đức băng hoại.
Mỗi năm, Việt Nam có từ 250,000-300,000 ca nạo phá thai được ghi nhận chính thức, còn thực tế chưa thể thống kê được và hiện đang đứng đầu Châu Á về tỉ lệ nạo phá thai.
Báo chí Việt Nam ghi nhận, cùng với việc phát triển kinh tế, nhà nhà quần quật, người người lo làm ăn, cả nước thi đua làm giàu, trong khi nạn cướp giật càng ngày càng gia tăng.
Về mặt y tế, tình trạng sức khỏe của Việt Nam không đáng lạc quan: khoảng 44% dân số Việt Nam mang vi khuẩn lao trong cơ thể. Trong số này, ước lượng 126,000 người mắc bệnh lao mỗi năm, theo một phúc trình mới được đưa ra hôm 13 Tháng Mười Hai, 2017.
Trong khi đó, Việt Nam bị xếp hạng thứ 78/172 quốc gia có tỉ lệ mắc ung thư cao. Theo thống kê của dự án phòng chống ung thư quốc gia, mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 70,000 người chết và hơn 200,000 nghìn người mới nhiễm bệnh.
Theo nghiên cứu của Bộ Y Tế, 15% dân số Việt Nam tương đương 14 triệu người mắc các bệnh về rối loạn tâm thần, trong đó khoảng 3 triệu người rối loạn tâm thần nặng như tâm thần phân liệt, sa sút trí tuệ, chậm phát triển và con số này vẫn không ngừng tăng. Chủ yếu do làm việc quá sức, áp lực công việc lớn, căng thẳng, khủng hoảng tiền bạc, dùng nhiều rượu bia, cách biệt giàu nghèo, ly hôn, thất nghiệp…
Vậy loại lạc quan này phải chăng là lạc quan… tâm thần!
Người Việt Nam được xếp hạng “lạc quan nhất thế giới,” nhưng trong khi dân số chúng ta có 94,970,597 người, thì mỗi năm có tới 1 triệu thanh thiếu niên chết vì tự tử, như vậy trong 100 người Việt Nam thì có một người thiếu lạc quan. Đáng tiếc là theo thống kê, số người tự tử là “thanh thiếu niên,” sinh viên, học sinh, đặc biệt trong giai đoạn thi lên lớp và thi đại học, trong đó có những vụ tự tử tập thể. Đây không còn là một chuyện nhỏ mà cả một vấn đề lớn của dân tộc.
Và câu hỏi là vì sao trong khi cả nước an tâm, hồ hởi, lạc quan như vậy, mà vẫn còn người vượt biển ra đi hay mong chuyện đổi đời bằng cách đi làm thuê, ở mướn, hay bán trinh tiết và tuổi xuân xanh, phó mặc cho số mệnh và cuộc đời đưa đẩy? (Huy Phương)
Trong cuộc đời này chúng ta ai cũng muốn được sống hạnh phúc và chết bình yên. Sống hạnh phúc thì ai cũng đã biết, và đôi khi hạnh phúc chỉ có nghĩa tương đối của nó. Cơm rau cũng là hạnh phúc. Ðói rách cũng có thể thấy hạnh phúc. Trong tuổi già, chúng ta còn được sống trong tiện nghi, no đủ nhưng cùng tuổi chúng ta có những ông bà cụ già còn còng lưng mò ốc trên bến sông hay mưu sinh bằng mớ rau, nải chuối giữa buổi chợ chiều, còn phút giây nào nghĩ đến sự ốm đau, mỏi mệt và cũng không còn biết đến hạnh phúc là gì, ý nghĩa của nó ra sao?
Chết bình yên thì ai cũng mong muốn nhưng mấy người được toại nguyện.
Chúng tôi, những ông bạn già, ít có cơ hội lui tới gặp nhau, nhưng lại thường hay gặp nhau trong nhà quàn để tiễn đưa bằng hữu, nhất là vào những ngày cuối năm. Qua câu chuyện vãn, ai cũng có một điều mong muốn, là nếu khi ra đi, ước chi được ra đi trong bình yên, thanh thản, không phải nằm lâu trên giường bệnh, khổ cho người thân mà cũng đau đớn cho thân mình.
Tôi có một người bạn gốc thầy giáo nhưng rất thích chơi thể thao. Buổi trưa, từ sân banh về, anh đến nhà học trò dạy kèm tại gia. Thấy thầy đầu gục trên bàn, người trong nhà tưởng thầy mệt mỏi ngủ gục, thương thầy, bảo nhau im lặng kẻo sợ phá giấc của thầy. Ðến chiều không thấy thầy dậy, học trò lay thức thầy, mới biết anh đã hôn mê. Chở vào bệnh viện thì đã quá trễ, từ đó anh bị liệt toàn thân, không nói năng được. Anh đã nằm trên giường bệnh, vệ sinh tại chỗ, ăn uống phải có người chăm sóc như thế trong vòng hai mươi năm tròn. Bạn bè xuất ngoại năm, mười năm trở về vẫn thấy anh nằm liệt trên giường, da bọc xương, lở loét, giữa mùa nóng Saigon, trong căn nhà nhỏ sức nóng từ mái tôn xuống hừng hực. Khổ nỗi con cái anh lại không được may mắn học hành, phải làm những nghề tay chân vất vả, nên cuộc sống của người bệnh lại càng bi đát hơn. Người vợ, cũng là một cô giáo bỏ hết thời xuân sắc bên giường bệnh của chồng, chỉ còn là một xác ve khốn khổ. Năm ngoái, nghe tin anh qua đời, lòng thoáng buồn đôi chút nhưng quả thực mừng cho anh giải thoát ra đi, còn sống, không chỉ khổ cho thân anh, mà còn khổ cho gia đình vốn đã nghèo đói vất vả.
Ở trên đất Mỹ, trong một đất nước mà người cao niên được chăm sóc và thuốc men cũng đã có những người bệnh nằm trên giường hai ba năm với những dây nhợ, dụng cụ trợ sinh trên người mà không được chết. Và trong nursing home, đã có những ông bà cụ già chọn nơi này là ngôi nhà cuối cùng, đã ở đây trong một thời gian quá dài, có người đến mười năm mà Trời chưa gọi cho ra đi. Gần đây báo chí lại đưa tin, tại một nhà dưỡng lão ở Laguna Woods, California, ông cụ William McDougall, 81 tuổi, vì giận dữ với người bạn cùng phòng, đã dùng gậy sắt đánh chết một ông cụ người Việt, 94 tuổi. Cũng mới đây thôi, cũng tại một nursing home, một cụ ông đã kết liễu đời vợ mình bằng một phát súng ân huệ “để cho nàng khỏi khổ”. Ở Mỹ, có nhiều trăm ngàn người cao niên trong nhà dưỡng lão, rất dễ thiệt mạng vì sự chăm sóc bất cẩn, cũng như theo một bản báo cáo của University of Kentucky cho biết là chỉ trong thời gian một năm thôi, dịch vụ bảo vệ người già đã điều tra trên toàn quốc, có 461,135 vụ tố cáo về vấn đề ngược đãi và hành hạ người cao niên, bao gồm những vụ gây tổn thương về thể lý và tinh thần, lẫn xâm phạm tình dục.
Tôi vừa đi thăm một vị sư già mới vào nursing home được hai hôm. Ông than thở với tôi, lần đầu tiên, cảm thấy thế nào là nhà dưỡng lão: Sáng nay mới sáu giờ sáng hai cô y tá đã đem ông vào phòng tắm “dội nước lạnh ngắt, kỳ cọ và nhồi ông như trái banh”. Ðó chỉ mới là ngày đầu, ông chưa nếm mùi bị đánh đập, chọc ghẹo hay hắt hủi thường xảy ra ở những nơi như thế này. Nhà dưỡng lão cũng không phải là nơi làm việc lương cao, thoải mái khi nhân viên phải tiếp cận với những bệnh nhân lú lẫn, bẳn tính, khó chịu. Chúng ta, con cái ruột thịt, có khi không còn kiên nhẫn, chịu khó đối với cha mẹ, trách chi những “người dưng, nước lã”.
Ngày nay những chốn này không phải là địa ngục dành riêng cho tuổi già. Một lớp tuổi trẻ hơn từ 30 đến 65 tuổi cũng đang sống trong nhà dưỡng lão vì những chứng bệnh không tự săn sóc được như bệnh thận, tiểu đường, tâm thần và cũng vì lý do ngân sách y tế không còn đủ cho những dịch vụ săn sóc tại gia tốn kém hơn là ở trong những nhà dưỡng lão. Như vậy những ngày cuối cuộc đời của nhiều người sẽ kéo dài thời gian hơn, không phải chỉ vài ba năm mà có thể mười, hai mươi năm như hoàn cảnh người bạn cũ của tôi ở đầu bài hôm nay.
Thông thường, khi nghe một người bạn vừa qua đời đột ngột, chúng ta thường thở dài, tỏ lòng thương tiếc: “Mới gặp hôm qua đây!”, “Mới cười cười, nói nói đây!” hay “Sao chết đột ngột như thế!” Nên mừng cho bạn bè đã ra đi bình yên, thanh thản, hơn là xót xa thấy cha mẹ, thân thuộc hay bạn bè lặng lẽ, u sầu kéo dài những ngày vô vị, chán chường trên giường bệnh, sống cũng như đã chết.
Bây giờ là thời gian của những ngày lễ cuối năm, nhiều ngôi nhà đã bắt đầu giăng đèn kết hoa, thương xá rộn ràng tấp nập đông người mua bán. Những cánh cửa chờ được mở ra để đón người thân về sum họp, những đứa trẻ chờ đợi niềm vui với món quà đầy màu sắc nặng trên tay, nhưng những bậc cha mẹ già trong nhà dưỡng lão sẽ không có cơ hội trở về. Mấy hôm nay, giữa đêm trời lạnh người ta chịu xếp hàng để mua một vài món hàng sale, cần thiết hay chẳng hề cần thiết gì cho đời sống này, thì những người khác không còn gì để mong đợi, mà cũng chẳng còn gì để thiết tha.
Sắp đến năm mới, theo thông lệ, người ta thường chúc người “sống lâu trăm tuổi, đầu bạc răng long”, sống lâu đến trăm tuổi thọ, mà năm, mười năm nằm trên giường bệnh thì đó đâu gọi là sống. Cứ nghĩ đến một này kia mình không còn lái được chiếc xe để tự đi đây đi đó, phải nhờ đến con cháu, đã là một sự kinh hoàng rồi, nói gì đến chuyện phải năm trên giường bệnh, hay ngồi trên xe lăn, không còn lo được cả việc vệ sinh cá nhân cho chính mình, thật là một chuyện đau khổ.
Dù đời sống có là hạnh phúc hay không, xin cho người được một cái chết bình yên, cuộc sống ngắn hay dài không có điều chi đáng kể.
Ðối với người Việt Nam, đến tuổi 70 cũng chưa phải là già, kể cả những người lên 80, cũng không ai dám gọi là cụ ông, cụ bà, vẫn còn khả năng lái xe, nhưng đối với cảnh sát Mỹ thì chúng ta nên coi chừng, tuổi senior (từ 62 trở lên) là lớp tuổi dễ bị thu bằng lái nhất.
Các bạn già của tôi, hãy tưởng tượng đến lúc chúng ta không còn được phép lái xe, thì cuộc sống này trở nên bất tiện, buồn bã biết bao nhiêu. Ở Mỹ này không lái xe được xem như người què nằm một chỗ, nhất là ở những thành phố ít phương tiện giao thông công cộng. Chúng ta cũng không có được đời sống như ở Việt Nam, một bước lên xe xích lô, xe ôm hay gọi taxi đến tận nhà. Ở Mỹ đời sống tất bật, ngày thường bận đi làm, cuối tuần còn bao nhiêu việc nhà, con cái đâu có thời giờ để chúng ta đi nhờ xe, đến nơi này hay đi nơi nọ.
Tôi có một cô em họ, độc thân, 76 tuổi. Tuần rồi cô gây một tai nạn xe hơi. Thật ra không phải lỗi của cô. Cô đang lái xe trong lane sát lề bên tay mặt, thì một chiếc xe từ lane bên trái, xấn vào đầu xe của cô khá mạnh. Mất bình tĩnh, cô lái xe sang phải và đụng vào một chiếc xe khác đang đậu bên lề đường. Cô và người ngồi trên xe chỉ bị hoảng hốt, trầy trụa nhẹ, nhưng cả hai chiếc xe đều bị hư hại nặng (total loss.) Cảnh sát đến lập biên bản, lấy bằng lái của cô để ghi chi tiết, nhưng cô không ngờ, đây là ngày cuối cùng cô được lái xe. Cô không có con cái, có nghĩa là từ đây, việc di chuyển của cô sẽ gặp nhiều khó khăn, và đời sống của cô bước sang một khúc ngoặt mới.
Cụ George Weller, 86 tuổi, và hiện trường tai nạn. nguồn CBS los angeles
Chúng ta thử đặt mình vào hoàn cảnh của câu chuyện ở trên, để thấy giờ này mà chúng ta còn lái xe được, rong ruổi trên xa lộ, đi đây đó, hạnh phúc biết chừng nào!
Chiều ngày 16 tháng 7 năm 2003, cụ George Weller, 86 tuổi, đã lái chiếc xe Buick LeSabre năm 1992 của mình xuống đại lộ Arizona ở Santa Monica, California để đi tới khu mua sắm Third Street Promenade nổi tiếng ở đây. Cuối con đường, hôm đó người ta đã ngăn lại để dành cho một phiên chợ nông sản cuối tuần. Chiếc xe của cụ Weller đã chạy thẳng đâm xuyên những bảng chận đường, lao vào khu chợ đang đông người với tốc độ 60 miles/giờ, đã tông chết tại chỗ 10 người và đã làm 63 người khác bị thương. Weller nói ông đã đạp nhầm chân ga thay vì đạp thắng.
Ngày 8/11, năm 2011, tại một thị trấn Palm Coast, miền Bắc Florida, ông cụ Louis Nirenstein, một người “handicap” thường dùng xe lăn, lái xe hơi và lạc tay lái, chạy vào, cũng một chợ nông sản, làm bị thương 3 người. Cụ cho cảnh sát biết chân ga của cụ bị kẹt.
Cuối năm 2014, bà cụ Beryl Hughes, 84 tuổi đã bị giam giữ 24 tuần, đồng thời bị cấm lái xe 5 năm vì tội gây ra tai nạn chết người. Cụ lái chiếc Audi A3 đâm trực diện vào chiếc Honda Civic do ông Brian Bockmaster, 80 tuổi lái, khiến ông Brian phải nhập viện và qua đời một ngày sau đó. Trước khi gây ra vụ tai nạn, bà Hughes từng bị phạt vì lái quá tốc độ hạn định. Bản thân bà Hughes cũng thừa nhận nhiều năm trở lại đây, khả năng lái xe đã suy giảm.
Các vụ tai nạn đã thúc đẩy những cuộc tranh luận toàn quốc ở Hoa Kỳ về những tai nạn giao thông do những người lái xe cao tuổi gây ra.
Theo Cục Quản lý An toàn Giao thông Quốc gia (National Highway Traffic Safety Administration) những người lái xe lớn tuổi từ 65 tuổi trở lên đã gây ra 12.5% tai nạn giao thông trên đường phố.
Vấn đề được đặt ra là những người lái xe lớn tuổi có còn giữ được “an toàn trên xa lộ” không? Từ lâu, Anh quốc có quy định bắt buộc bằng lái xe của những người từ 70 tuổi trở lên đều bị thu hồi. Ðể có thể tiếp tục lái xe, họ cần phải kiểm tra sức khỏe và thi lại bằng lái trước ngày sinh nhật lần thứ 70 và liên tục phải đổi bằng lái mỗi ba năm. Ở Mỹ, người lái xe trên 70 tuổi vẫn được cấp bằng lái có hiệu lực 5 năm, đến kỳ hạn 5 năm, họ chỉ việc thi lại bằng viết và kiểm tra lại thị lực, nhưng trong thời gian này, nếu gây ra tai nạn, chắc chắn bằng lái sẽ bị thu hồi.
Tuy nhiên, việc có nên cấm hẳn người già lái xe hay không luôn là chủ đề được bàn tán sôi nổi. Năm 2010, tỉ lệ người trên 70 tuổi lái xe trên toàn quốc tăng gấp 4 lần so với năm 1975. Ở California có hơn 5.5 triệu người trên 55 tuổi đang lái xe, và hơn 2.5 triệu người trên 70 tuổi.
Tại Anh Quốc, phụ nữ cao tuổi nhất đang lái xe đã 107 tuổi. Nước này có 191 người có bằng lái xe trên tuổi 100. Bộ Giao thông Anh (DfT) cho biết, tuy chưa có bằng chứng cho thấy người cao tuổi lái xe có nguy cơ gây tai nạn cao hơn nhóm tuổi trẻ, nhưng thực tế, báo chí tốn không ít giấy mực với các vụ người lớn tuổi lái xe vi phạm luật lệ hoặc gây tai nạn.
Người ta đưa ra những yếu tố giải thích người già gây ra nhiều tai nạn vì:
Không còn minh mẫn, nhanh lẹ, nên phản ứng chậm chạp trước các tình huống.
Bị ảnh hưởng các loại thuốc mà người già thường dùng.
Phản ứng sai lệch do việc đau các khớp chân tay, hay cổ.
Tai không nghe rõ, mắt đã mờ.
Ở các nước khác, để giảm tội ác và các tai nạn do súng đạn, chính phủ kêu gọi người dân đem súng đổi lấy tiền thưởng, trong khi ở Nhật người ta kêu gọi quý cụ đem bằng lái xe nộp cho cảnh sát để được giảm giá khi ăn mì ramen tại 176 địa điểm thuộc chuỗi nhà hàng Sugakiya, nghe thật tội nghiệp! Bằng lái của người già cũng nguy hiểm như súng đạn hay sao?
[tuoi-gia-va-chuyen-lai-xe] Hai cụ già selfie bên chiếc xe bị tai nạn – nguồn you tube
Một chiến dịch của cảnh sát Tokyo cũng khuyến khích người già từ bỏ việc lái xe bằng cách giảm giá xe buýt và taxi cho họ. Nhiều trường hợp người già gây tai nạn đã xảy ra, khi một người phụ nữ 83 tuổi mất kiểm soát khi đang lái xe, gây ra cái chết cho hai bộ hành. Một cụ ông khác, 87 tuổi lái xe tải đâm vào một nhóm học sinh, khiến một em 6 tuổi tử vong.
Người già lái xe xin đọc những lời của Thẩm phán Stephen Holt (Hoa Kỳ) sau đây “Bản thân người cao tuổi và gia đình, bạn bè cần có trách nhiệm theo dõi khả năng lái xe của mình và người thân, đối mặt với sự thật rằng – qua thời gian, khả năng lái xe của họ không còn an toàn. Việc người cao tuổi cần và muốn lái xe, ít để ý tới vấn đề an toàn, đặc biệt ở những khu vực xa đô thị, không có các phương tiện giao thông công cộng là điều dễ hiểu”.
Một nghiên cứu do Khoa Y học Cộng đồng Maliman thuộc Ðại học Columbia thực hiện và công bố đầu năm 2016 cho thấy, sức khỏe của người cao tuổi sẽ bị suy giảm khi họ không còn được lái xe. Không chỉ vậy, việc này sẽ đem lại cho người già triệu chứng trầm cảm, buồn phiền.
Các bạn già của chúng tôi, những người đang còn lái xe như hôm nay cảm thấy thế nào nếu một ngày nọ, không còn ngồi được vào chiếc xe, sau tay lái để tự ý đi đây, đi đó mà phải nhờ đến con cái, họ hàng. Ðiều đó có nghĩa là đời sống đã mất đi nhiều ý nghĩa.
Nhưng một ngày nọ, nếu các bạn nghe tin có người lái một cái xe đâm vào một đám đông gây chết người, thì đừng vội kết luận đó là một chuyện khủng bố của ISIS, mà nên xem lại có phải người lái xe là một trong mấy ông bạn già lạng quạng của chúng ta không?
Bề ngoài, đảng Cộng Sản là một chính đảng, nhưng thực chất hiện nay là một băng đảng có phân chia ngôi thứ, cấu kết khắng khít với nhau vì quyền lợi.
“Tại Việt Nam hiện nay, không còn chủ nghĩa Cộng Sản, mà đó chỉ là một xứ độc tài đảng trị nhưng theo đuổi chủ nghĩa tư bản ‘cuồng nhiệt.’”
Hiện nay chính đảng không còn, mà chỉ còn là băng đảng! Chúng ta nên gọi chúng: “Băng đảng Cướp Mafia Hồ Chí Minh” thay vì “đảng CSVN”!!! ************
Chính Đảng Hay Băng Đảng? – Tạp Ghi Huy Phương
Ngày 13 Tháng Mười, Ngoại Trưởng John Kerry đến vùng Silicon Valley của California tham dự một cuộc hội thảo bàn tròn về an ninh cũng như vai trò của Internet đã và đang làm thay đổi thế giới, do tổ chức Virtuous Circle mời ông làm diễn giả. Tại đây, trong bài diễn văn, ông Kerry cho rằng tại Việt Nam hiện nay, không còn chủ nghĩa Cộng Sản, mà đó chỉ là một xứ độc tài đảng trị nhưng theo đuổi chủ nghĩa tư bản “cuồng nhiệt.”
Ông John Kerry nói trong buổi hội luận này như thế và cho rằng Việt Nam hiện chỉ là một nước hăm hở đuổi theo tư bản chủ nghĩa mà trong đó người dân tiếp cận được với Internet. Ông Kerry nhìn nhận rằng nước Việt Nam “theo thời gian, đang có dấu hiệu thay đổi,” nhưng bây giờ vẫn còn là “một nước độc tài độc đảng và vẫn còn đàn áp nhân quyền bên cạnh những vấn đề khác.” Ông cũng nói thêm: “Cộng Sản là một lý thuyết kinh tế, và bạn không thấy một chút hơi thở nào của chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam.”
Đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động trên đất nước Việt Nam. Theo cương lĩnh và điều lệ chính thức được công bố hiện nay, đảng Cộng Sản Việt Nam là “đại biểu trung thành” của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và lấy chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của đảng.
Bề ngoài, đảng Cộng Sản là một chính đảng, nhưng thực chất hiện nay là một băng đảng có phân chia ngôi thứ, cấu kết khắng khít với nhau vì quyền lợi.
Nói đến “chủ nghĩa” và “tư tưởng” thì liệu rằng 4.5 triệu đảng viên, 200 ủy viên trung ương, và 19 ủy viên Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay có tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản đem lại no ấm cho nhân loại, Hồ Chí Minh là vị cứu tinh của dân tộc Việt Nam hay không? Tôi tin rằng tất cả đều không, nhưng những người này vẫn giả vờ dối trá với nhau, dối trá với cả nước, dối cả với mình, dối với vợ con, để giả vờ tin đảng. Không ai dám nói thật với ai, để vin vào sự gắn bó keo sơn vì quyền lợi thiết thân của họ. Đảng không còn thì số đông quyền lực này không còn gì để bám víu vào nhau như bầy nghêu, hà bám vào ghềnh đá.
Trong hội trường, dinh cơ, những người Cộng Sản hôm nay vẫn còn treo cờ búa liềm, hình Lenin, hình Karl Mark, và hình tượng Hồ Chí Minh, như thể họ tôn sùng và tin tưởng vào những hình ảnh ấy. Thực tế là không! Họ tự dối mình, với lương tâm mình, giả dối với đồng chí và quần chúng chung quanh mình, để có địa vị và được sống còn. Không ai có thể nói khác, cười khác đi, mà không theo đường lối đã quy định của đảng. Họ cam phận hèn khi biết mình bị dối trá, bản thân mình cũng dối trá và cư xử với người khác cũng dối trá, y như Alexander Solzhenitsyn đã lên án: “Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi…”
Nhưng dư luận gần đây cũng đã nêu lên câu hỏi: Chống Cộng? Bây giờ làm gì còn Cộng Sản mà chống? Không còn Cộng Sản để chống, nhưng phải chống lại với băng đảng và cái ác đang thống trị đất nước.
Băng đảng có cơ chế và qui luật của băng đảng, nhất là chuyện chia chác quyền lợi. Sau một vụ cướp nhà băng, việc đầu tiên của bọn cướp là kiếm chỗ để tụ họp chia tiền. Ngày xưa Việt Minh đi đánh đồn Tây, hay phục kích “con voi, “chiếm được đồn hay chiếm được xe là có gạo, có đường, có bơ, có thịt hộp, ai cũng hăng hái. Đánh thắng miền Nam, chiến lợi phẩm đầu tiên là 16 tấn vàng, trả nợ máu xương hay Bộ Chính Trị chia chác, bấu véo với nhau thì đã rõ. Rồi sau đó cơ man là gạo, đường, bột mì, sắt thép, xi măng, đồ điện khí, xe cộ, từ cái quạt máy, chiếc đồng hồ cho đến cái TV, bom đạn, máy bay, xe tăng… gấp triệu lần một lần đánh đồn Tây.
Đất nước “thu về một mối,” có quyền lực trong tay rồi, thì nhân dân, tài năng mà không có đảng, không ở trong băng đảng phải lo tìm đường bỏ nước ra đi. Tài năng của đất nước, chuyên viên cấp cao được đào tạo từ nước ngoài, trừ Liên Xô, không ai dùng. Chúng ta nhìn xem chuyện chia chác quyền lực của đảng Cộng Sản Việt Nam ra sao?
Theo cơ cấu của đảng, 19 ủy viên Bộ Chính Trị, đương nhiên nắm giữ tất cả những cương vị chủ chốt trong đảng và nhất là trong bộ máy chính quyền: Chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch Quốc Hội, phó thủ tướng thường trực, bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, bộ trưởng Bộ Công An, bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, những người này được gọi là “các cán bộ chủ chốt của đảng và nhà nước.”
Hai trăm ủy viên trung ương đảng nắm giữ tất cả vị trí then chốt của quốc gia, không ai ngoài đảng được lọt vào như bí thư tỉnh, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành, các bộ trưởng, thứ trưởng trong chính phủ, các tướng lãnh tư lệnh các binh chủng, các quân khu cho đến các ngành quan trọng của quốc gia như các đại học quốc gia, công ty hàng không, ngân hàng, đài truyền hình, thông tấn xã, viện kiểm sát nhân dân…
Việt Nam hiện nay có 4.5 triệu đảng viên Cộng Sản thì được phân phối, chia nhau trong các lãnh vực công quyền, từ chức giám đốc, trưởng ty, trưởng, phó phòng cho đến anh công an đứng đường thổi còi phạt mang đến cấp bậc trung tá, không một con muỗi ngoài đảng nào lọt được vào trong lưới quyền lực. Ai cũng có đặc quyền, đặc lợi, nên ai cũng ôm đảng và giữ đảng cho đến chết. Đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 11 năm 2011 chỉ có 3.6 triệu đảng viên, sang đến đại hội 12 năm 2016, số đảng viên tăng lên tới 4.5 triệu, rõ ràng là đảng có chủ trương lấy thịt đè người, tăng nhân sự, thêm vây cánh, thêm quyền lợi để giữ đảng.
Ali Baba chỉ có vây cánh là 40 tên cướp. Đảng nay có đến 4.5 triệu tên cướp. Câu thần chú của Ali để mở và đóng cửa hang động chứa kho tàng là: “Vừng ơi! Mở ra!” và “Vừng ơi! Đóng lại,” nay câu thần chú của đảng là: “Chủ nghĩa Mác- Lenin bách chiến bách thắng” và câu kinh nhật tụng là: “Hồ chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!”
Xin nhắc lại câu nói của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry, có thể là một câu nói để đời: “Tại Việt Nam hiện nay, không còn chủ nghĩa Cộng Sản, mà đó chỉ là một xứ độc tài đảng trị nhưng theo đuổi chủ nghĩa tư bản ‘cuồng nhiệt.’”
Hiện nay chính đảng không còn, mà chỉ còn là băng đảng!
Ngày mai 24-11-2017, nước Mỹ sẽ đón ngày Lễ Tạ Ơn, xin gởi đến ACE bài viết dưới đây. Một số người trách sao ngày vui lại đăng chuyện buồn như vậy? Nhưng ý nghĩa ngày Lễ Tạ Ơn là gì, khi chúng ta chưa kịp “Cảm Ơn” đã vội quên đi những khốn khổ ngày nào?!!!
***************
Câu Chuyện Buồn Ngày Tạ Ơn – ThanksGiving Day…
Tạp Ghi Huy Phương.
Năm rồi, tôi mất hai người bạn. Không phải họ chết thành ma chôn trong nghĩa địa hay thiêu ra tro gửi cho gió ngàn bay. Những người này còn sống, nhưng đối với tôi cũng như gia đình họ, xem như họ đã đi qua một thế giới khác! Năm nay, trong bữa ăn sum họp cuối tháng 11 tại Hoa Kỳ, những người chồng, người cha này không có mặt, vì vậy tôi muốn dành câu chuyện này cho những ngày cận kề của lễ Tạ Ơn.
Phải nói đây là hai người bạn khá thân của tôi, đều sang Mỹ khoảng năm 1990 hay trễ hơn, qua một thời gian tù đày dưới chế độ Cộng Sản khá lâu, thời gian đủ để bù đắp cho họ một cái visa để họ và cả gia đình vào định cư tại Mỹ. Đến Mỹ, một người định cư ở miền cực Đông, chiều chiều có thể hóng gió từ Đại Tây Dương, người kia ở miền cực Tây, buổi sáng cuối tuần, thường rửa chân trên biển Thái Bình, nên chúng ta tạm gọi họ, người này là người bạn miền Đông và người kia là người bạn miền Tây.
Sang đến đây, anh bạn miền Đông tâm sự: “Không có nước Mỹ, thì giờ này con trai tôi đang ôm bình cà-rem ở chợ Cồn, làm sao mà trở thành kỹ sư như hôm nay!” Người bạn miền Tây thường nói nghĩ đến những ngày đạp xe đi giao mối cà phê giữa Sài Gòn nắng gắt, bữa đói bữa no, giờ hạnh phúc được nước Mỹ giang vòng tay đưa cả gia đình anh đến Mỹ. Sang Mỹ trong vòng hơn mười năm, anh nào cũng khá giả, có một ngôi nhà tươm tất, và mới chục năm trở lại đây, về hưu, ai cũng có đồng lương cao. Tôi không nghĩ là vì hưu cao, người ta có thể sống ung dung, dư dả ở ngoài nước Mỹ, nhưng đó có thể là một lý do tài chánh đã ảnh hưởng đến quyết định trở về Việt Nam của họ. Nếu họ còn độc thân, trơ trọi, mà còn cha mẹ già nơi đất quê hương, sự trở về của họ chắc cũng có lý do thông cảm.
Người bạn miền Đông của tôi, sau khi đi tù về, người vợ đã ra đi, bỏ lại bầy con dại, mà đứa nhỏ nhất mới lên ba tuổi. Trong những ngày ấy, một người đàn bà khác đã nhận kê vai gánh vác cuộc đời vô vọng rách nát của anh. Sang đến Mỹ, anh thành công trong thương mãi, về chiều, có một số lương hưu lớn, có thể sống dư dả đến cuối cuộc đời.
Anh bạn miền Tây của tôi, chân ướt chân ráo đến Mỹ, bắt đầu với một cuộc đời khá vất vả, nhưng may mắn sau đó, làm công nhân trong một hãng lớn, tiếng tăm của nước Mỹ. Các con của anh, ngày nay đều là những người thành đạt. Đến tuổi về hưu, gia đình họ đều đổ vỡ sau những chuyến đi Việt Nam.
Nơi quê hương ngày trước, người bạn miền Đông gặp một người đàn bà tuy không phải thuộc loại nhan sắc, hay còn tuổi xuân sắc, nhưng chắc chắn là đẹp hơn, trẻ hơn vợ nhà, và lời lẽ hẳn là ngọt bùi, khêu gợi lại những thứ tình yêu thời trẻ dại. Sau một thời gian đắn đo, suy nghĩ, anh xẻ đôi căn nhà hạnh phúc ngày trước, quyết định làm lại cuộc đời bằng cách trở lại quê hương, sống với người đàn bà kia.
Bây giờ bạn bè cũ ở Việt Nam, sáng sáng gặp anh nhúm lửa, pha vợt cà phê đầu ngày, dọn bàn ghế cho khách ngồi theo nghề của nàng, và mỗi ngày, như lời tỏ bày chân thật, cần đến một viên viagra.
Người bạn miền Tây, đến tuổi “tri thiên mệnh” mới gặp người tri kỷ, mới ngộ ra được, thế nào là tình yêu. Để bù vào số tuổi, anh có số tiền. Họ là những người trong giới yêu thích văn nghệ, và người anh gặp hẳn là một nàng Thơ ngày xửa ngày xưa, thế là anh ra đi không trở lại. Tình yêu đâu phải dễ kiếm, thì ra lâu nay, cái thứ anh tưởng là tình yêu, chỉ là một thứ tình nào đó, mãi cuối cuộc đời anh mới được gặp mặt cái gọi là Tình Yêu (viết hoa) đích thực!
Thì ra lâu nay những người bạn của tôi không tìm thấy hạnh phúc. Người ta định nghĩa “hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí!” Những người bạn tôi đang sống ở một đất nước mà loài người cơ cực, ai cũng mong tìm đến. Những người bạn tôi đang có một mái ấm gia đình, đời sống cao hơn no đủ là dư dả, vợ không ngoại tình, con không hư hỏng& nhưng như vậy, chưa đủ cho tiêu chuẩn của một thứ gọi là hạnh phúc.
Trong một chừng mực nào đó, có lẽ hai người bạn của tôi tâm đắc với câu nói của George Sand: “Chỉ có một thứ hạnh phúc trên đời, là yêu và được yêu!” Và như vậy, lâu nay họ chẳng hề yêu ai và chưa bao giờ được yêu! Phải chăng thực sự, bạn tôi yêu sắc dục, và được yêu lại vì có tiền. Tôi cũng không ngờ rằng, đến lúc xế chiều, mà ngọn lửa tình yêu của hai người bạn tôi, bùng phát mạnh mẽ đến như vậy!
Lý Ngư trong Nhục Bồ Đoàn, một tác phẩm cổ bên Tàu về sắc dục, đã viết: “Theo lời các nhà nho xưa, thì cái vật dưới eo phụ nữ chính là cánh cửa sinh ra ta, mà cũng là cánh cửa chôn ta!”.
Hai người bạn tôi không thể đem một người đàn bà khác không là vợ mình từ Việt Nam sang định cư tại Mỹ, trước sự chê trách của dư luận và sự quay mặt của gia đình, vậy tốt hơn là trở lại Việt Nam.
Tôi hy vọng rằng, một ngày kia, dù thế nào, hai người bạn tôi cũng không trở lại Mỹ, với một tấm thân tàn tạ để kiếm một chỗ trong bệnh viện hay đủ thuốc men dùng cho một giai đoạn hấp hối.
Đã hai năm, rồi tôi nghĩ đến ngày Lễ Tạ Ơn hôm nay trên đất Mỹ, có hai gia đình quạnh quẽ, buồn phiền và chắc bạn bè, thân thuộc cũng không ai nỡ nhắc lại tên của người bạn tôi đang ở xa. Tôi biết họ cũng như tôi, đã có những ngày tù đày nơi rừng thiêng nước độc, đã có một người vợ khốn khổ, tảo tần xuôi ngược, đã có những đứa con bất hạnh bơ vơ. Chúng ta tin tưởng gì ở một người lính thất trận, một người đã ngồi trong nhà tù tập trung, đã được thoát ra, còn bất cố liêm sỉ trở lại chốn xưa, vì một thứ gì đó dưới cái eo của đàn bà. Hai người bạn tôi đã quên rất nhiều thứ, trong đó có giá trị của gia đình, đạo lý và những điều ân nghĩa.
Tôi còn nhớ câu nói của MC Nguyễn Ngọc Ngạn: “…Một phần nữa vì người MC lâu đời của Thúy Nga là một cựu tù nhân chính trị, đã viết nhiều sách phê phán chế độ trong nước.” Tôi không đánh giá cao phẩm chất tất cả những người gọi là “cựu tù nhân chính trị!” Hai người bạn tôi, một người ở miền Tây, một người ở miền Đông, sau thời gian đến Mỹ, ai cũng có viết báo, in sách và đã không tiếc lời lên án chế độ Cộng Sản Việt Nam!
Tuần rồi tôi có dịp đi thăm hai người, một người bạn đang nằm trong quan tài tại nhà quàn, và một bà cô đang nằm trong nhà dưỡng lão. Người bạn không biết tôi là ai đã đành, vì người ấy đã chết, nhưng bà cô còn sống cũng không biết tôi là ai vì bà đã mất trí nhớ! Người bạn này ngày hôm trước còn vui vẻ chuyện trò với bạn bè, nhưng sáng hôm sau, người nhà không thấy thức dậy, vào phòng thì thấy ông đã chết. Bà cô, một đời giàu có lẫy lừng, giờ cũng trắng tay, vào chỗ nghỉ cuối cùng cũng đã hơn năm.
Cả hai người không ai thấy khổ, một người đã qua bên kia thế giới, chỉ còn lại xác thân rồi cũng tan rữa trong lòng đất hay thành tro bụi rải xuống lòng biển, người còn lại phần trí nhớ đã là một khoảng không gian mờ mịt, chỉ sống theo bản năng, hít thở hay biết đói, đau, đâu còn nhìn ra mặt người quen nữa.
Trong khoảng thời gian gần đây, tôi thấy bạn bè, hay người quen biết bỏ thế giới nay ra đi khá nhiều, và nhiều lúc ra đi quá đột ngột. Những điều chúng ta thường nghĩ là không ngờ, nhưng lại xảy ra, nhiều lúc có cái cảm giác là chuyện phi lý, nhưng thật ra là chuyện rất thường vẫn xảy ra trong cuộc đời thường.
Mấy tuần trước, trong bữa ăn sáng với một người bạn cùng đơn vị cũ, bỗng dưng tôi chợt nhớ đến một anh bạn làm chung phòng, hơn 15 năm nay, sau khi bị stroke, chỉ quanh quẩn trong nhà. Tôi đề nghị với bạn, ăn sáng xong sẽ ghé qua thăm, kẻo lâu ngày quá không gặp bạn cũ. Bạn tôi chần chừ: – “Hay để bữa khác đi anh. Hôm nay tôi phải chạy về nhà có chút việc.”
Tuần sau, điện thoại reo, tôi mở máy, bạn tôi cho biết: – “Sơn chết rồi anh!” Tôi la lên: -“Đã nói mà, phải chi hôm nọ đi thăm thì đâu phải hối hận như bây giờ!” Bạn tôi còn vớt vát: -“Hôm đó đi thăm thì Sơn cũng đã vào bệnh viện rồi! Bây giờ thì đã quá trễ, tang lễ mới cử hành cách đây ba hôm. Theo sở nguyện của người chết, gia đình không đăng cáo phó!” Bạn tôi biết tin vì vừa đọc được tên Sơn trên trang phân ưu.
Tôi bắt đầu nổi cáu: “Thì ít ra vào bệnh viện, cũng gặp nó một lần trước khi nó chết!”
Tôi đăng một mẩu chia buồn ngắn ngủi trên một tờ nhật báo, mở đầu bằng câu: “Quá đỗi vô tình, được tin trễ….” Nhưng người chết đâu có xem được trang báo và biết cho nỗi hối tiếc của chúng tôi.
Nói ra thì buồn trong khi nhiều người đang vui! Mới nghe tin trễ, vợ một người bạn qua đời đã hai tháng nay, bà trối trăng, ngoài gia đình, đừng tin cho ai biết. Gọi một số bạn đi thăm thì lại nghe tin một người bạn tháng trước mới đưa vợ vào phòng cấp cứu, và nay đang ở trong nursing home. Thật cũng quá vô tình, trách cuộc sống bận rộn, hay trách mình ít khi nghĩ đến người khác, số phận thiệt thòi, bất hạnh hơn mình. Nghĩ đến việc gì, nên làm ngay, thời gian không đợi mình, và người bạn tôi cũng không còn thời gian để nằm chờ. Đã có thời gian nằm bệnh viện, rồi nơi phục hồi, tôi biết nỗi cô đơn của người bệnh là to lớn như thế nào.
Tôi được xem một cuốn phim Mỹ, trong đó một vị linh mục khuyên một người trai trẻ, nếu có cơ hội nên đi viếng thăm tang lễ của người quá cố, người bệnh trong nhà thương, người kém may mắn trong nhà tù. Đó là những việc lành. Và với tôi, xin thêm, những người già, kẻo không còn kịp nữa!
Hôm qua tôi vừa được điện thoại của một người bạn đã về hưu, nghĩa là cũng đã đến tuổi già, ở miền Đông nước Mỹ. Anh cho biết anh đang có một chương trình đi vòng quanh nước Mỹ và cả Canada để thăm những người bạn thân, bệnh tật và già yếu. Anh cho biết thêm, chỉ trong vòng nửa tháng, anh đã mất đi ba người bạn, lớn cũng như nhỏ tuổi, bệnh tật hay không, nên bây giờ có thời giờ nên thăm viếng, gặp gỡ nhau, kẻo“một mai bóng xế trăng lu, con ve kêu mùa hạ, biết mấy thu mới gặp chàng!”
Tôi biết ở Mỹ này, nhiều người vì sinh kế phải đi làm ở tiểu bang xa, không có thời gian trở về thăm cha mẹ. Vào những dịp Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh và Tết Nguyên Đán, cha mẹ vẫn ngóng đợi con về. Con thì có bao nhiêu công việc bận rộn ở sở, cuối tuần phải cắt cỏ, dọn dẹp nhà xe, đưa con đi học đàn, học võ, mùa hè phải đi “vacation,” vắng nhà không có ai săn sóc con chó, con mèo hay bầy cá Koi trong hồ, ai cho ăn.
Đến khi nghe cha mẹ mất mới hối hả, mua vé máy bay về phục tang và khóc lóc. Để làm chi nữa!
Chuyện kể, một cụ già, góa vợ, sống cô đơn, buồn rầu sau khi nghe điện thoại của con gái và các cháu nói rằng sẽ không trở về thăm cha vào dịp Giáng Sinh năm nay. Người con khác cũng hứa hẹn sẽ cố gắng để về thăm cha vào năm tới, thế nhưng đã ba mùa Giáng Sinh trôi qua, người cha vẫn cô đơn mòn mỏi ngóng đợi những đứa con về.
Những người con sau đó đột ngột được thân nhân báo tin cha qua đời, lúc này, họ mới bàng hoàng nhận ra mình có một người cha trên đời nay, và hôm nay cha đã không còn nữa. Lòng tràn đầy hối hận và đau đớn, mắt rướm lệ, những đứa con vội vàng trở về nhà để tham dự tang lễ.
Bước vào nhà, họ ngạc nhiên khi thấy một bàn tiệc đã sắp sẵn. Người cha già bất ngờ bước ra, và câu nói đầu tiên của ông là: “Xin thứ lỗi cho cha. Cha chẳng còn cách nào khác để gọi các con trở về thăm cha.”
Bày ra bông hồng trắng, bông hồng đỏ mà chi? Nhiều lúc chúng ta quên chúng ta còn cha mẹ ở ngay trong nhà, trong thành phố, trong một tiểu bang xa, hay cả trong một nhà dưỡng lão. Xin hãy thăm viếng, trang trải tấm lòng, lo lắng, đừng để một mai kia rềnh rang nghi lễ “làm văn tế ruồi!”
Những người đọc sách miền Nam và ở hải ngoại ai cũng biết đến nhà văn Phan Nhật Nam, nhưng hôm nay, những người ở đây, ít ai biết đến cái tên Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh là bút hiệu của Nguyễn Hữu Thỉnh, y là một nhân vật như thế nào mà lãnh đạo Hội Nhà Văn CSVN suốt 15 năm?
Hữu Thỉnh sinh năm 1942 tại Vĩnh Phúc, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn lính Pháp. Mười hai tuổi mới được đi học. Nhập ngũ, làm lính Trung Đoàn 202, tham gia các công việc như chăn bò, học lái xe tăng. Sau năm 1975, Hữu Thỉnh học Sơ Cấp Thú Y, rồi làm trưởng Ban Chăn Nuôi, Phó Biên tập của Tạp Chí Thú Y. Đảng đặt để một ông Thừa Cung thời nay lên làm Hội trưởng Nhà Văn Việt Nam, thật là đúng quy cách, đường lối của đảng Cộng Sản đối với văn nghệ sĩ trong chế độ!
Hỗ thẹn vì mang danh hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, ngày 11 Tháng Năm, 2015, hơn 20 nhà văn, nhà thơ đã ký tên vào đơn tuyên bố từ bỏ Hội Nhà Văn Việt Nam. Đó là Nguyên Ngọc, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Đình Trọng, Võ Thị Hảo, Bùi Minh Quốc, Đặng Văn Sinh, Hoàng Minh Tường, Lê Hiền Phương, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Quang Thân, Thùy Linh, Vũ Thế Khôi, Ý Nhi, Dư Thị Hoàn, Trịnh Hoài Giang, Dạ Ngân, Nguyễn Duy, và Trần Kỳ Trung. Nghĩa là ra khỏi “chuồng trại” do một ông chuyên nghề thú y lãnh đạo!
Trong số 20 người, có bốn người cũng đồng thời tuyên bố rời bỏ cả Văn Đoàn Độc Lập: Nguyễn Quang Lập, Dạ Ngân, Nguyễn Duy và Trần Kỳ Trung.
Năm ngoái, 2016, tại Việt Nam, ông Hữu Thỉnh cho biết sẽ tổ chức một hội nghị, vào ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2017, sẽ mời tất cả những nhà văn Việt Nam ở nước ngoài “kể cả những nhà văn phục vụ chế độ cũ” về tham dự. Đây là một “hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học!”.Năm nay, ông Hữu Thỉnh giữ lời hứa tổ chức hội nghị này, và cuộc gặp mặt dự kiến khá trễ, sẽ diễn ra từ 20 đến 25 Tháng Mười, 2017, tại Hà Nội và một số địa phương ở phía Bắc.
Nếu không có lá thư mời của ông Hữu Thỉnh gởi ông Phan Nhật Nam, được người nhận công bố tại hải ngoại thì chúng ta cũng chẳng ai biết tới cái hội nghị văn nghệ hòa giải này. Vì chắc chắn đã có nhiều “văn nghệ sĩ” ở đây đã có thư mời về hòa hợp, và đã hí hửng cầm chiếc vé máy bay khứ hồi miễn phí trong tay rồi, nhưng đang “ngậm hột thị” không nói ra.
Tôi nghĩ là ông Hữu Thỉnh thiếu “điều nghiên” khi gửi thư mời cho nhà văn Phan Phật Nam, nếu ông biết rõ Phan Nhật Nam là một người lính miền Nam, tốt nghiệp khóa 18 Võ Bị Đà Lạt và đã chiến đấu trong binh chủng dù. Nếu ông biết Phan Nhật Nam, đã bị tập trung trong các trại tù Việt Cộng 14 năm trong đó có 7 năm 8 tháng bị kiên giam và trong những ngày tù khổ sai, đói khổ ở Bắc Việt, đã từ chối gặp thân phụ ông, người đã bỏ gia đình đi theo Cộng Sản, để nhận một vài điều ân huệ. Và nếu ông đọc hết các tác phẩm về chiến tranh của Phan Nhật Nam, để hiểu thế nào là chính nghĩa tự vệ của người lính miền Nam như thế nào!
Không lẽ bây giờ nhận lời ông, để tìm một vài ân huệ như được choàng vòng hoa tại phi trường, hay đứng chụp hình chung với những tên lãnh đạo đang bị cả dân tộc nguyền rủa, hay được ăn ngủ, chiêu đãi trong một cái khách sạn năm sao ở Hà Nội?
Chắc ông Hữu Thỉnh không biết hay không nhớ tới cái nắm cơm gạo thơm mà Hà Nội đã chiêu đãi Phan Nhật Nam trong chuyến đi Hà Nội chớp nhoáng vào Tháng Ba, 1973, và dụ Nam ở lại Hà Nội để gặp cha.
Tôi nghĩ ông Hữu Thỉnh đã chọn nhầm người. Mẻ lưới “hòa hợp” ông quăng ra chắc chắn thế nào cũng vớ được một mớ lòng tong, cá chốt, nhưng Phan Nhật Nam không phải loại này. Cộng Sản rải đậu, mè ra sân thì cũng lắm quạ, chim sẻ và cả bồ câu sẵn sàng sà xuống kiếm mồi, nhưng Phan Nhật Nam là loại chim quyên, chưa đến đỗi xuống đất ăn trùn, và dù có “mạt vận” đi nữa, thì anh hùng cũng còn phải giữ lấy nhân cách.
Ông cũng không cần mời đến Phan Nhật Nam, lâu nay cũng có những loại mà đảng Cộng Sản xếp vào loại “nghịch tử” nay đã tình nguyện “hồi đầu” rồi! Chúng không nhiều, nhưng ruồi nhặng nào cũng tìm đến mật hay cả rác rưởi hôi tanh.
Trong thư mời Phan Nhật Nam, Hữu Thỉnh đã nói rõ: “Trường hợp anh Nam, ban tổ chức sẽ lo chi phí toàn bộ đi về và thời gian tham gia cuộc gặp mặt.” Như thế thì đối với những nhà văn nhà thơ khác ở hải ngoại về “hòa giải,” mà tiếng tăm không bằng Phan Nhật Nam, chưa chắc đã được trang trải chi phí trong thời gian ở Việt Nam. Nhưng cứ nghĩ là được Hà Nội mời, về là có xe công an hụ còi dẫn đường, thì cũng bõ cho những ngày vất vả, lêu bêu ở xứ Mỹ này rồi.
Nhà văn Phan Nhật Nam.
Trong thư “mời” Phan Nhật Nam, và cũng có người dùng chữ “dụ dỗ,” ông Hữu Thỉnh đã lên giọng điệu tha thiết rằng: “Anh Nam ơi, tôi muốn nói thêm rằng, chúng ta đều không còn trẻ nữa. Tôi hình dung cuộc gặp này là rất có ý nghĩa cho những năm tháng còn lại của mỗi chúng ta. Tôi cũng dự đoán rằng, có thể có những khó khăn. Nhưng từ trong sâu thẳm thiên chức nhà văn, chúng ta cùng chọn Dân Tộc làm mẫu số chung để vượt qua tất cả.”
Chính vì chúng ta đều không còn trẻ nữa, nên một nhà văn có lương tri, hay cả với một con người bình thường đều phải hiểu rằng, phải “Giữ cho đến lúc tuổi già, làm sao để sống cho ra con người!” Và những nhà văn Cộng Sản trong nước, suốt đời chỉ tuân phục ca tụng đảng vì miếng cơm manh áo, vì cái tem, cái phiếu, biết đảng hơn giang sơn, sống như đàn cừu, làm sao đi cùng đường với những nhà văn tự do ở miền Nam mà “cùng chọn dân tộc làm mẫu số chung”được?
Ông Hữu Thỉnh cũng thừa biết rằng đảng của ông từ hàng chục năm qua, vẫn coi chính phủ VNCH là Ngụy Quyền, những người lính VNCH là Ngụy Quân, hay dù nay có đổi giọng đi nữa thì vẫn là “chính phủ Sài Gòn, quân đội Sài Gòn” thì mặt mũi nào, đại diện cho ai để ông có thể mời mọc những người viết văn miền Nam về nước chung ly. Ly rượu còn pha nỗi hận thù, miệt thị, còn pha máu chiến hữu, đồng bào của chúng tôi không những trong cuộc chiến tranh chiếm đoạt, mà còn trong các trại tù khổ ải, và oan khuất trên Biển Đông.
Nhà văn Phan Nhật Nam đã nhắc lại cho ông Hữu Thỉnh toàn bộ thái độ của những người thắng cuộc đối với thương binh VNCH như câu chuyện xảy ra ở Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn mới đây, hay chính sách ác độc đối với Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi những người “lính Sài Gòn” đã nằm xuống. Phan Nhật Nam thách đố Hà Nội hãy “hòa hợp hòa giải” với những người đã chết, với người đang sống gượng sau thảm họa Formosa, và hãy hòa hợp, hòa giải với hàng vạn dân oan ở trong nước.
Nhưng quý ông trong nước cũng đừng quá bận tâm lo lắng. Không phải đến bây giờ, hải ngoại chưa chịu hòa hợp hòa giải với mấy ông. Cách đây mấy năm, cây cổ thụ âm nhạc như Phạm Duy cũng đã về xin hòa hợp rồi. Ca sĩ ở hải ngoại như Khánh Ly, Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Chế Linh, Elvis Phương, Thái Châu, Phương Dung, Hương Lan, Trường Vũ, Phi Nhung, Quang Lê, Tóc Tiên, Đức Huy… về Việt Nam hát thường xuyên, đến đỗi lúc đầu, nghe tin CSVN cho phép Khánh Ly về hát, Phạm Duy đã ca tụng đây là một dấu hiệu đáng mừng của “hòa hợp hòa giải!” Rồi Hoài Linh, Chí Tài, Kiều Oanh, Việt Hương, Quang Minh, Hồng Đào cũng nối gót đàn anh, đàn chị. Tôi gọi lớp người này là những tên hề hai mặt.
Hà Nội bắt đầu mê đám “chạy theo bơ thừa sữa cặn”, đám này bây giờ lại muốn chạy ngược trở về “hát cho đồng bào tôi nghe” để kiếm đô la! Ca sĩ gốc “chiến khu” như Thu Phương, Trần Thu Hà, Bằng Kiều… đi ra rồi lại đi vào, đi ngược về xuôi, không còn biết đâu mà lần!
Nhiều ca sĩ đã nhờ cộng đồng tỵ nạn nuôi ăn, nuôi mặc, thề thốt hết lời, người viết không dám đưa lên đây sợ ướt bẩn trang báo, cuối cùng cũng nuốt lời, trở về.
Gần đây, một số nhà văn, nhà thơ của miền Nam thời cũ (tôi không dùng chữ phục vụ chế độ cũ), mặc dầu họ đã là những cựu quân nhân, viên chức, thậm chí đã bị các ông cầm tù, đày ải trong các trại tập trung, cũng đã xin về hòa hợp hòa giải bằng cách “giao lưu” với những nhà văn trong nước, xuất bản, in sách, giới thiệu, ra mắt tác phẩm. Đổi lại, đám này cũng làm đầu cầu cho một nhóm thơ văn trong nước, hay dân thân Cộng nước ngoài, đến Mỹ in, ra mắt sách, đàn đúm, tiệc tùng để kiếm cách mua chuộc, “hòa giải!”
Hữu Thọ, một ông nhà báo cao cấp trong nước có câu nói: “Sĩ phu, trí thức thì không được hèn!”. Này Phan Nhật Nam! Có thể ông cũng bị nhiều người ghét, nhưng chớ làm người hèn cho thiên hạ khinh.
Một bông hoa cho ông, người xứng đáng mang danh hiệu nhà văn..
Chúng ta, nhiều người không có một ngày tốt nghiệp với mũ áo ra trường, nhưng ai cũng có một ngày “Hôm nay tôi đi học!” Kỷ niệm đó thật đã xa vời, dễ chừng là đã năm mươi, sáu mươi năm hay đã bảy mươi năm dài tùy theo tuổi tác của mỗi người.
Bạn còn nhớ gì trong buổi tựu trường ngày xưa ấy với những hớn hở hay lo âu, chiếc áo mới còn thơm mùi băng phiến, tập vở mới, chiếc bình mực tòn ten trên tay và bàn tay, chỉ sau một buổi học đầu tiên, đã dính mực ra dáng học trò.
Ngày thơ ấu, chúng ta còn nhớ đến ba đoạn văn của ba tác giả về ngày tựu trường.
Trong chúng ta, với tuổi “cổ lai hy,” không ai là không biết đến đoạn văn “Tôi đi học,” của nhà văn Thanh Tịnh một thời, vẫn nằm trong trí nhớ, ghi lại “những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường:”
“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học!”
Tôi còn nhớ đến Tâm Hồn Cao Thượng (Emond de Amicis – Hà Mai Anh dịch,) với những câu gần như đã nằm lòng: “Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng Hè đã thoáng qua như giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi đưa tôi vào trường Bá Lệ Tư để ghi tên lên lớp ba…” Và thoang thoảng như bên tai, lời thầy giáo cũ của nhân vật bé bỏng này: “An Di ơi, thế là thầy trò ta không còn gặp nhau nữa!”
Anatole France, nhà văn Pháp với hình ảnh cậu học trò chân sáo, tung tăng đi qua khu vườn Luxembourg, lúc lá vàng rơi từng chiếc trên bờ vai của những pho tượng trắng. Đoạn văn bắt đầu bằng dòng chữ “Je vais vous dire ce que me rappellent tous les ans…” mà chúng tôi phải học thuộc lòng để “trả bài” cho thầy giáo. Cậu bé trong câu chuyện chính là cái bóng của chính Anatole France cách ngày ông nhớ lại đã hai mươi lăm năm, còn chúng ta, ngày tựu trường xa xôi ấy, dễ chừng đã hơn nửa thế kỷ.
Những nhân vật ngày đó gần gũi với chúng ta, như là người mẹ “âu yếm nắm tay tôi” của Thanh Tịnh hay như thầy giáo mới, ông Bích Niên trong “Tâm Hồn Cao Thượng” ngày nay đã không còn hiện diện trên thế gian này nữa. Chuyến tàu đời đã đỗ lại bao nhiêu sân ga, đã có những người xuống tàu và ra đi biền biệt không một lần gặp lại. Rồi chúng ta đã đóng vai người cha, người mẹ, ông hay bà, đưa con, cháu đến trường, để bùi ngùi nhớ lại một “ngày ấy đã xa rồi!”
Chúng ta có biết bao nhiêu bạn bè trong lớp cũ với những nỗi chia ly, những cô bạn học bỏ lớp lên xe hoa đi lấy chồng, những người bạn ra chiến trận không có ngày về, cuộc đời như nhánh sông chia làm trăm ngả. Những người bạn chung lớp này xưa ấy, mỗi người mang một số phận, nhất là ngày đất nước tan hoang sau cơn đại hồng thủy, như bầy chim vỡ tổ, chân trời góc biển, mỗi người một phương. Phải chăng còn sót lại với chúng ta ở cuối đời những người bạn cố tri, già nua, bệnh tật.
Mỗi lần tựu trường là mỗi lần thay đổi, những trang sách mới, lớp học mới, thầy cô giáo mới, và bạn bè mới. Ngày cha tôi đổi nhiệm sở đem gia đình đi đến một thành phố xa lạ khác, nghĩ đến chuyện từ nay không bao giờ gặp lại bạn bè, tôi đã khóc hết nước mắt. Nhưng rồi tuổi trẻ vô tư, mau quên, tôi sớm thích nghi với hoàn cảnh mới, tìm được bạn bè mới. Bây giờ, điều quý hóa trong đời là tình cờ chúng ta lại gặp những người bạn năm cũ, một trong ba vật quý cổ nhân thường nhắc tới là bạn xưa, sách cũ và rượu lâu năm.
Trong cuộc đời, tôi có hai điều hối tiếc, một là dở dang việc học hành quá sớm, như “con chuột chạy đầu sào,” và vì số phận“Dưa leo chấm với cá kèo, bởi con nhà nghèo mới học Normal” (Sư Phạm). Ngày bỏ trường, tôi thường bị ám ảnh bởi những giấc mơ của thời cắp sách. Điều thứ hai là bỏ nghề giáo nửa chừng vì đất nước chiến tranh, thầy hay trò đều chung màu áo trận, gặp nhau trong quân ngũ, gặp nhau ngoài chiến trường, gặp nhau trong nhà tù vì vận nước, và cuối cùng tái ngộ nơi chốn tha hương khi thầy trò, cả hai, tóc đều đã bạc.
Thưa thầy! Chắc thầy không còn nhớ đến con, con chẳng phải là đứa học trò giỏi giang lanh lợi, hoặc trái lại, là đứa học trò ngỗ nghịch tinh ma để thầy có thể nhớ tên! Con cũng chẳng phải là đứa học trò có danh phận, để có thể trở về thăm thầy mà nói: “Tôi là Carnot (1) đây, thầy còn nhớ tôi không?” Con cũng chẳng có sự nghiệp gì để có thể ngoảnh lại mà khuyên bảo học trò rằng: “…vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo, ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay.”
Những đứa học trò đi qua lớp thầy như những toa tàu qua sân ga, thầy không thể nhớ hết, nhưng những đứa học trò chẳng bao giờ quên thầy!
Chúng ta sẽ không bao giờ còn được một ngày “Back to school” nữa! Hôm nay ngoài phố xá, trong các cửa tiệm, nhìn những đứa trẻ hớn hở, phấn khởi đi sắm sửa dụng cụ ngày trở lại trường cùng với cha mẹ, chúng ta nghĩ gì? Cả một thời gian đã trôi đi biền biệt. Thương quá tuổi học trò mà cũng thương quá cho cuộc đời chúng ta!
Trong trí nhớ đã mòn mỏi, bạn còn nghe chăng tiếng trống trường vang lại trong lòng, từ một thời, một thời đã xa lắm! Tuổi thơ của chúng ta cũng như hình ảnh của dĩ vãng, cùng biết bao nhiêu khuôn mặt thân yêu, đã qua rồi như bóng nắng buổi chiều hôm nay.
Thương nhớ biết bao buổi tựu trường!
(1) Marie Francois Sadi Carnot (1837-1894), tổng thống Đệ Tam Cộng Hòa Pháp (1887-1894)
Trên thế giới, lực lượng quân đội nào, với vũ khí, quân cụ trong tay cũng có khả năng làm đảo chính, lật đổ chính quyền. Có trường hợp vì chính phủ độc tài, tham nhũng, cũng có khi vì phe cánh hay có bàn tay bên ngoài của các quốc gia khác.
Việt Nam Cộng Hòa cũng đã có hai cuộc đảo chánh do quân đội cầm đầu năm 1960 (bất thành) và năm 1963, giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Với truyền thống can thiệp vào nền chính trị, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã ba lần làm đảo chính vào những năm 1960, 1971 và 1980. Năm 1987, quân đội Thổ không làm đảo chánh, nhưng lo ngại về sự hiện diện ngày càng tăng của các đảng phái Hồi Giáo trong nước, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự chỉ huy của tướng İsmail Hakkı Karadayı đã áp lực với chính quyền đóng cửa các trường học tôn giáo, cấm sinh viên đại học đeo mạng che mặt. Thủ Tướng Necmettin Erbakan bị các tướng lĩnh ép phải từ chức, một chính phủ lâm thời được lập ra, và quân đội cuối cùng cầm quyền vào năm 1998.
Thái Lan đã có tất cả 11 lần quân đội làm đảo chánh vào những năm 1932, 1933, 1946, 1951, 1957, 1971, 1976, 1977, 1991, 2006, 2014.
Một cuộc đảo chính Xô Viết năm 1991, được gọi là Cuộc Nổi Dậy Tháng Tám hay cuộc Đảo Chính Tháng Tám, một nhóm các thành viên của chính phủ Xô Viết đã hạ bệ trong một thời gian ngắn vị Tổng Bí Thư Liên Xô Mikhail Gorbachev và tìm cách nắm quyền kiểm soát đất nước.
Tháng Tám, 1982, Không Quân Kenya (Phi Châu) nổi dậy chống Tổng Thống Daniel arap Moi. Năm 2009, Tổng Thống Yahya Jammeh của Gambia bị quân đội đảo chánh. Năm 2015 Tướng Godefroid Niyombare của Burundi, làm đảo chánh chống Tổng Thống Pierre Nkurunziza, nhưng bất thành.
Chính phủ nào cũng đề phòng, cảnh giác những chuyện đảo chánh từ phía quân đội, nhất là trong những xứ độc tài. Để đề phòng hậu hoạn, chỉ trong vòng bốn năm, từ ngày ông Kim Jong-un của Bắc Hàn lên nắm quyền, đã có hơn 70 quan chức cấp cao bị xử tử, ngay cả các đại thần mà cha ông phó thác con côi như Jang Song-thaek, Ri Yong-ho và nay là Hyon Yong-chol. Theo tin Bắc Hàn, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hyon Yong-chol đã bị xử tử với một khẩu súng phòng không bắn gần, vì lý do mơ hồ là “không phục tùng lãnh đạo và ngủ gật trong buổi họp.” Thực sự là Kim Jong-un luôn luôn lo sợ các tướng lãnh làm đảo chánh. Có thời gian, mỗi tuần Kim Jong-un đem ra xử trảm một tướng.
Độc tài không thua kém Bắc Hàn, lại nô dịch Trung Cộng một cách quá đáng, mất lòng dân, đảng Cộng Sản Việt Nam cũng mang tâm trạng lo sợ bị làm đảo chánh, nhưng các cấp chỉ huy lực lượng vũ trang quân đội và công an đều là những người của đảng, xuất thân từ trung ương đảng như Nguyễn Minh Tiến, Tư Lệnh Quân Khu 1; Lê Xuân Dũng, Tư Lệnh Quân Khu 2; Vũ Hải Sản, Tư Lệnh Quân Khu 3; Võ Minh Lương, Tư Lệnh Quân Khu 7…
Thay vì thanh trừng nội bộ như Bắc Hàn, CSVN khôn ngoan hơn, lấy lòng tướng lãnh “quân đội nhân dân,” bằng miếng mồi ngon, có mùi thơm của đô la. Bộ Quốc Phòng, cơ quan bảo vệ đất nước cho đúng hai tiếng “quốc phòng” lại quản lý hơn 100 doanh nghiệp lớn nhỏ, trong đó có nhiều tổng công ty quân đội (tương đương các Quân Đoàn/Binh Chủng hay tương đương một Quân Khu/Quân Chủng (tập đoàn Viettel), Quân Đoàn/Binh Chủng (các tổng công ty), hoặc Sư Đoàn (các công ty). Một ví dụ là Thượng Tướng Lê Hữu Đức, một trong bảy thứ trưởng hiện thời của Bộ Quốc Phòng, Tư Lệnh Quân Chủng Phòng Không-Không Quân, là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, đại biểu Quốc Hội, nhưng lại là chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội (MBB), có một lô lốc tướng lãnh quân đội dưới quyền…
Trong 21 tập đoàn, tổng công ty được thống kê, có chín tướng quân đội giữ chức chủ tịch hay tổng giám đốc, bao gồm: một thượng tướng, sáu thiếu tướng và hai chuẩn đô đốc. Ở nhiều tổng công ty, chức vụ chủ tịch, tổng giám đốc có quân nhân mang cấp bậc đại tá nắm giữ. Có một sĩ quan cấp tá làm tổng giám đốc tổng công ty 789, đó là Trung Tá Nguyễn Công Hiếu. Tổng Công Ty 789 đã được chuyển làm công ty thành viên của Tổng Công Ty Thành An. Thiếu Tướng Nguyễn Quốc Dũng kiêm nhiệm vị trí chủ tịch của Tổng Công Ty Thành An cũng như Tổng Công Ty 789.
Một trường hợp tương tự khác là Tổng Công Ty Xăng Dầu Quân Đội là đơn vị thành viên của Tổng Công Ty Vạn Xuân. Hai tổng công ty này có chung chủ tịch là Thiếu Tướng Đào Ngọc Thạch.
Tập Đoàn Viễn Thông Quân Đội có một tổng giám đốc và bảy phó tổng giám đốc. Ba người trong đó có cấp bậc thiếu tướng. Các vị trí còn lại do ba đại tá và hai thượng tá nắm giữ.
Chủ tịch Tổng Công Ty Tân Cảng Sài Gòn là Chuẩn Đô Đốc Phạm Hoài Nam. Một tổng giám đốc là Chuẩn Đô Đốc Nguyễn Đăng Nghiêm.
Giữ chức vụ chủ tịch kiêm tổng giám đốc tại Tổng Công Ty Trực Thăng Việt Nam (VNH) là Thiếu Tướng Hà Tiến Dũng. Bốn phó tổng giám đốc tại VNH là Đại Tá Vi Công Hùng, Đại Tá Trần Đình Nam, Đại Tá Lê Trọng Đông, Thượng Tá Kiều Đặng Hùng.
Trong phạm vi của trang bài này, chúng tôi không thể liệt ra đây hết “phương danh” các vị tướng lãnh đội nón kết, đeo lon tướng, đi xe bảng đỏ, không còn lo việc chống giặc, giữ an ninh cho bờ cõi mà có nhiệm vụ làm… tiền. Theo con số của Bộ Quốc Phòng, hiện nay có 80,000 “ông nón cối” đang làm kinh tế, cầm trong tay nghìn tỷ trên thương trường! Chúng ta thường hiểu “chức năng” là “nhiệm vụ.”
Chức năng của tim là bơm để đẩy máu theo các động mạch, đem dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến toàn bộ cơ thể, đồng thời loại bỏ các chất thải trong quá trình trao đổi chất. Chức năng của lực lượng công an là bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Đương nhiên chức năng của quân đội, bất kỳ của quốc gia nào cũng là bảo vệ quốc gia, bảo vệ quần chúng, chống sự xâm lược từ các quốc gia khác.
Nhưng gần đây, bộ trưởng Quốc Phòng, vì nhu cầu bảo vệ và kinh tài cho đảng lại uốn lưỡi cho rằng: “Tham gia sản xuất xây dựng kinh tế là một chức năng của quân đội! Quân đội làm kinh tế là củng cố tiềm lực quốc phòng, nâng cao vị thế quốc gia!”
Quân đội lãnh lương từ tiền thuế của dân hôm nay lại đi làm rừng, làm ngân hàng, bốc dỡ hàng hóa, những lối đi buôn, thay vì thao dượt, bảo vệ biên giới, đất biển cho tổ quốc, bảo vệ an ninh cho đồng bào tránh khỏi nanh vuốt của ngoại bang, bảo vệ ngư dân ngay trên vùng biển của quốc gia.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch cũng cho rằng “Có những vùng khó khăn chỉ có quân đội mới đứng chân làm được. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế, doanh nghiệp quân đội không ngừng đổi mới, sáng tạo, chiếm thị trường trong nước, nước ngoài và trở thành đối tác kinh tế uy tín.” Lời văn nghe sang sảng trước hàng quân nhưng rõ ràng là lời ngụy biện vô cùng nguy hiểm cho dân tộc.
Tóm tắt việc cho quân đội làm kinh tế, theo Vũ Đông Hà (trang Danlambao) tổn hại cho đất nước:
-Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nay đã trở thành đội quân bạc nhược, lấy chủ trương “bám ghế – kiếm tiền,” làm suy yếu việc phòng thủ quốc gia.
-Tạo sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp quân đội với doanh nghiệp dân sự.
Nhân danh phục vụ mục tiêu quốc phòng, tài nguyên quốc gia đã bị các tập đoàn tướng tá Cộng Sản thu tóm để làm giàu mà không cần thuê và lại được hưởng những ưu đãi rất nhiều trong việc đóng thuế.
-Tướng tá được thăng chức tùy tiện dựa theo kết quả kiếm tiền cho đảng, thay vì bằng khả năng chiến trận.
-Hiện nay nhiều công trình, dự án đều lệ thuộc nguồn vốn và nguyên liệu của Trung Cộng, nên tất cả tướng tá đại gia đều lệ thuộc Bắc Kinh, đầu hàng kẻ thù vô điều kiện, xem dân là thù, lấy thù làm bạn.
Theo nguyên tắc không có một vụ chia chác quyền lực và đồng tiền nào làm thỏa mãn được mọi người, “Quân Đội Nhân Dân” hiện nay đang bị phân hóa, xé nát trầm trọng vì tranh nhau miếng ăn. Phe không ăn bất mãn, phe có ăn lo kiếm ăn, không ai quan tâm dến chuyện “rèn cán, chỉnh quân” trở thành một đội quân yếu và hèn.
Không ăn được thì đập phá, phe “trâu cột” không có miếng ăn lên tiếng đòi hỏi: “Quân đội không nên làm kinh tế.” Phe “trâu ăn” là tướng lãnh quân đội đang có đặc quyền làm kinh tế, tuyên bố sẽ ra tay làm đảo chánh nếu bị Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc cấm làm kinh tế? Rồi đây, đất nước có thể xẩy ra binh biến, không phải vị giặc vào nhà, mà vì gà tranh nhau vì thóc, lúa.
Trong khi Kim Jong-un non nớt dùng hạ sách với “cây gậy” xử trảm công khai các tướng lãnh nghi ngờ chống lại mình, thì đảng CSVN cao thủ hơn, cho tướng lãnh củ “cà rốt” để nắm quyền lực, khiến họ phải trung thành tuyệt đối, nhưng rồi đây tình trạng đất nước sẽ ra sao khi giặc tới biên giới?
Ngày xưa thời kháng chiến, mỗi cán bộ chỉ có một đôi đũa và cái chén nhôm giắt lưng, nói chuyện yêu nước dễ. Bây giờ quyền cao chức trọng hàng muôn, ngày đêm nghĩ cách kiếm tiền, giữ tiền, đến lúc “ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng” thì đã quá muộn.
Thương binh VNCH tại một buổi “Tri ân các ông thương binh” tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn. (Hình: chungnhan.org)
Thoạt nghe chúng ta không thể nào tưởng tượng ra có một câu hô hào, một khẩu hiệu tệ hại đến mức như vậy. Thương phế binh, dù ở phía nào, thì cũng khổ đau, bất hạnh như nhau. Chúng ta thường nghe, thường hiểu những khẩu hiệu đả đảo cường quyền, đả đảo xâm lược, đả đảo độc đảng,… nhưng chưa bao giờ ai nghe những lời đả đảo dành cho người què cụt, mù lòa đang sống ở những bước đường cùng trong những ngày cuối cùng.
Câu chuyện xảy ra tại Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Ðồng, Sài Gòn, tuần rồi, khi các lực lượng giấu mặt tung ra một truyền đơn kêu gọi dân chúng “phản đối Dòng Chúa Cứu Thế ở 38 Kỳ Ðồng, trong hoạt động tri ân thương phế binh VNCH,” và truyền đơn này được đọc trước sân nhà thờ.
Chúng ta cũng biết chương trình tri ân thương phế binh VNCH được tổ chức hàng năm tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, bắt đầu từ năm 2013. Số thương binh được giúp đỡ từ 5 năm nay đã lên đến con số 6-7 nghìn. Các thương binh được khám bệnh, phát thuốc, cấp xe lăn và có những món quà do các nhà hảo tâm giúp đỡ, với sự quan tâm săn sóc của các bác sĩ, linh mục tại đây.
Từ lâu nay, công an chế độ này làm khó khăn, ngăn cản, xét hỏi những nhà hảo tâm và các thương binh đến tham dự chương trình giúp đỡ này, nhưng đây là lần đầu, tại chỗ, có người công khai đọc bản văn truyền đơn, một truyền đơn kể tội thương phế binh VNCH, mà tệ hại nhất là truyền đơn không có xuất xứ, không ký tên, như một hành động loại ném đá giấu tay rất đáng xấu hổ.
Khởi đầu truyền đơn là một đoạn văn ca tụng sự đoàn kết dân tộc, chính sách hòa hợp, hòa giải của đảng Cộng Sản, lên án thái độ của một số linh mục và giám mục về những bất đồng với đường lối nhà nước trong thời gian qua. Nội dung chính của bản truyền đơn là công khai mạ lỵ và xúc phạm đến những người thương binh VNCH với loại ngôn ngữ “tụt quần, cởi áo,” “bán nước,” “lính đánh thuê,” và lên án họ là những người đã “cắt đầu, đóng đinh, bêu đầu” người khác. Câu văn này khiến người nghe không khỏi liên tưởng đến “danh ngôn đánh thuê,” “đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” được khắc trên cổng chào đền thờ Lê Duẫn, và một thời quê hương đẫm máu với những cảnh “cắt cổ, mổ bụng, thả trôi sông” thời Việt Minh Cộng Sản!
Bản truyền đơn cũng thêm một điều vô lý khi cho rằng, Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức tri ân thương phế binh VNCH chỉ sau một tuần ngày lễ kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ CSVN là một “xúc phạm đến anh hùng, liệt sĩ, bộ đội của Cộng Sản!”
Trong truyền đơn “đả đảo thương phế binh VNCH,” Cộng Sản cho rằng chương trình cứu trợ thương binh là ép buộc và dối trá. Ðã từng làm việc với một tổ chức từ thiện như Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH tại Hoa Kỳ, chúng tôi thấy các hồ sơ thương binh đều rõ ràng minh bạch, giấy trắng mực đen, từ tên tuổi, căn cước, hình ảnh, đơn vị đến thương tật đều có giấy tờ chứng minh, luôn có cả địa chỉ nơi cư ngụ, điện thoại để tiếp xúc điều tra hay minh xác. Thương binh tự động viết thư tường trình hoàn cảnh của mình để xin giúp đỡ, cũng không cần phải có cơ quan, đảng bộ giới thiệu như trong chế độ Cộng Sản.
Trong một xã hội tự do như Hoa Kỳ việc bác ái là do lòng tốt và tự nguyện của người giúp đỡ, hoàn toàn không có ai bắt buộc, dọa nạt ai như chuyện phường khóm hay công an khu phố đi gõ cửa, thu góp từng nhà, nửa dọa nạt, nửa xin xỏ, không có không được! Xin đừng như con ếch nhìn bầu trời qua miệng giếng, lấy cung cách hoạt động của xã hội qua con mắt hạn hẹp của mình mà chụp mũ, đánh giá sai lầm chuyện của người khác.
Chế độ Cộng Sản trong nước luôn luôn đưa ra chiêu bài hòa hợp, hòa giải, quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù để chiêu dụ người Việt nước ngoài, nhưng thực tâm, lòng chưa nguôi ngoai thù hận, nhất là về sau, càng ngày hình ảnh người lính VNCH càng sáng tỏ trong ý nghĩ và tâm tưởng của người Việt Nam, cả bên thua cũng như bên thắng.
Do vậy, những chương trình cứu giúp thương phế binh VNCH từ trước đến nay tại hải ngoại, nhất là những chương trình ca nhạc ngoài trời “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” do Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH, đài truyền hình SBTN, và Trung Tâm Asia tổ chức, đều không tránh khỏi sự xuyên tạc, đánh phá của những thành phần tay sai Cộng Sản trên đất Mỹ. Sự đánh phá, mạ lỵ nhiều lúc phải làm cho những người tổ chức phải có lần nản lòng, bật khóc như trường hợp của bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, chủ tịch hội, mà nay không còn nữa.
Tuy là một chương trình từ thiện, nhưng việc gây quỹ giúp thương phế binh VNCH có tác động chính trị. Một chiếc vé vào cửa, một tờ giấy bạc giúp thương binh được xem như là một lá phiếu vinh danh người lính VNCH, cũng có nghĩa là vinh danh chế độ VNCH, một chế độ mà hiện nay những người thắng cuộc luôn luôn muốn tẩy xóa, bôi bẩn hình ảnh. Càng ngày người ta càng có sự so sánh giữa hai chế độ, giữa hai người lính và giữa hai lối hành xử với hạnh phúc của người dân.
Chế độ Cộng Sản trong nước không thể làm gì với được với thái độ người Việt ở hải ngoại, nhưng ở trong nước chính quyền sao chịu để yên với những chuyện như cây gai nhọn đâm vào mắt, khi quần chúng còn muốn vinh danh, tri ân người lính VNCH qua các hoạt động của các cơ sở tôn giáo như chùa Liên Trì hay nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn.
Những hoạt động này cũng đánh động đến mối cảm xúc của thương binh của xã hội chủ nghĩa. Trong chiến tranh, VNCH có 300,000 người lính tử trận mà có đến 1,170,000 thương binh (1 tử trận /6 thương binh), trong khi miền Bắc có 1.1 triệu bộ đội chết mà chỉ có 600,000 thương binh (1 tử trận/2 thương binh).
Quân sử đã ghi nhận Bắc Việt không có phương tiện di tản thương binh, xa hậu cần và hầu hết thương binh đều phải bỏ lại chiến trường, để giữ chiến thuật đánh mạnh, rút nhanh. Ngày nay, trong khi đảng và chính phủ giàu sang tột đỉnh, thương binh Cộng Sản cũng sống trong những điều kiện thiếu thốn cơ cực, có chăng như những bà “Mẹ Liệt Sĩ” được đảng vinh danh, tặng ảnh chân dung “bác Hồ” để mẹ ngồi ngắm cho qua cơn đói!
Nhưng đánh đến cùng với những con người, dù ở bên kia chiến tuyến, mà ngày nay chỉ còn cây nạng gỗ, chiếc xe lăn, không còn tay, mà chẳng còn chân, cũng có khi không còn đôi mắt, là một thái độ hạ tiện, khốn nạn của những kẻ đã từng rêu rao một thời là những con người của lương tri, trí tuệ có đời sống “nhân văn,” “sống với nhau có nghĩa có tình…”
Rõ ràng là các anh đang sợ, nhưng biết sợ cũng là một thái độ tri thức.
Ðối với người Việt Nam, đến tuổi 70 cũng chưa phải là già, kể cả những người lên 80, cũng không ai dám gọi là cụ ông, cụ bà, vẫn còn khả năng lái xe, nhưng đối với cảnh sát Mỹ thì chúng ta nên coi chừng, tuổi senior (từ 62 trở lên) là lớp tuổi dễ bị thu bằng lái nhất.
Các bạn già của tôi, hãy tưởng tượng đến lúc chúng ta không còn được phép lái xe, thì cuộc sống này trở nên bất tiện, buồn bã biết bao nhiêu. Ở Mỹ này không lái xe được xem như người què nằm một chỗ, nhất là ở những thành phố ít phương tiện giao thông công cộng. Chúng ta cũng không có được đời sống như ở Việt Nam, một bước lên xe xích lô, xe ôm hay gọi taxi đến tận nhà. Ở Mỹ đời sống tất bật, ngày thường bận đi làm, cuối tuần còn bao nhiêu việc nhà, con cái đâu có thời giờ để chúng ta đi nhờ xe, đến nơi này hay đi nơi nọ.
Tôi có một cô em họ, độc thân, 76 tuổi. Tuần rồi cô gây một tai nạn xe hơi. Thật ra không phải lỗi của cô. Cô đang lái xe trong lane sát lề bên tay mặt, thì một chiếc xe từ lane bên trái, xấn vào đầu xe của cô khá mạnh. Mất bình tĩnh, cô lái xe sang phải và đụng vào một chiếc xe khác đang đậu bên lề đường. Cô và người ngồi trên xe chỉ bị hoảng hốt, trầy trụa nhẹ, nhưng cả hai chiếc xe đều bị hư hại nặng (total loss.) Cảnh sát đến lập biên bản, lấy bằng lái của cô để ghi chi tiết, nhưng cô không ngờ, đây là ngày cuối cùng cô được lái xe. Cô không có con cái, có nghĩa là từ đây, việc di chuyển của cô sẽ gặp nhiều khó khăn, và đời sống của cô bước sang một khúc ngoặt mới.
Cụ George Weller, 86 tuổi, và hiện trường tai nạn. Nguồn CBS los angeles
Chúng ta thử đặt mình vào hoàn cảnh của câu chuyện ở trên, để thấy giờ này mà chúng ta còn lái xe được, rong ruổi trên xa lộ, đi đây đó, hạnh phúc biết chừng nào!
Chiều ngày 16 tháng 7 năm 2003, cụ George Weller, 86 tuổi, đã lái chiếc xe Buick LeSabre năm 1992 của mình xuống đại lộ Arizona ở Santa Monica, California để đi tới khu mua sắm Third Street Promenade nổi tiếng ở đây. Cuối con đường, hôm đó người ta đã ngăn lại để dành cho một phiên chợ nông sản cuối tuần. Chiếc xe của cụ Weller đã chạy thẳng đâm xuyên những bảng chận đường, lao vào khu chợ đang đông người với tốc độ 60 miles/giờ, đã tông chết tại chỗ 10 người và đã làm 63 người khác bị thương. Weller nói ông đã đạp nhầm chân ga thay vì đạp thắng.
Ngày 8/11, năm 2011, tại một thị trấn Palm Coast, miền Bắc Florida, ông cụ Louis Nirenstein, một người “handicap” thường dùng xe lăn, lái xe hơi và lạc tay lái, chạy vào, cũng một chợ nông sản, làm bị thương 3 người. Cụ cho cảnh sát biết chân ga của cụ bị kẹt.
Cuối năm 2014, bà cụ Beryl Hughes, 84 tuổi đã bị giam giữ 24 tuần, đồng thời bị cấm lái xe 5 năm vì tội gây ra tai nạn chết người. Cụ lái chiếc Audi A3 đâm trực diện vào chiếc Honda Civic do ông Brian Bockmaster, 80 tuổi lái, khiến ông Brian phải nhập viện và qua đời một ngày sau đó. Trước khi gây ra vụ tai nạn, bà Hughes từng bị phạt vì lái quá tốc độ hạn định. Bản thân bà Hughes cũng thừa nhận nhiều năm trở lại đây, khả năng lái xe đã suy giảm.
Các vụ tai nạn đã thúc đẩy những cuộc tranh luận toàn quốc ở Hoa Kỳ về những tai nạn giao thông do những người lái xe cao tuổi gây ra.
Theo Cục Quản lý An toàn Giao thông Quốc gia (National Highway Traffic Safety Administration) những người lái xe lớn tuổi từ 65 tuổi trở lên đã gây ra 12.5% tai nạn giao thông trên đường phố.
Vấn đề được đặt ra là những người lái xe lớn tuổi có còn giữ được “an toàn trên xa lộ” không? Từ lâu, Anh quốc có quy định bắt buộc bằng lái xe của những người từ 70 tuổi trở lên đều bị thu hồi. Ðể có thể tiếp tục lái xe, họ cần phải kiểm tra sức khỏe và thi lại bằng lái trước ngày sinh nhật lần thứ 70 và liên tục phải đổi bằng lái mỗi ba năm. Ở Mỹ, người lái xe trên 70 tuổi vẫn được cấp bằng lái có hiệu lực 5 năm, đến kỳ hạn 5 năm, họ chỉ việc thi lại bằng viết và kiểm tra lại thị lực, nhưng trong thời gian này, nếu gây ra tai nạn, chắc chắn bằng lái sẽ bị thu hồi.
Tuy nhiên, việc có nên cấm hẳn người già lái xe hay không luôn là chủ đề được bàn tán sôi nổi. Năm 2010, tỉ lệ người trên 70 tuổi lái xe trên toàn quốc tăng gấp 4 lần so với năm 1975. Ở California có hơn 5.5 triệu người trên 55 tuổi đang lái xe, và hơn 2.5 triệu người trên 70 tuổi.
Tại Anh Quốc, phụ nữ cao tuổi nhất đang lái xe đã 107 tuổi. Nước này có 191 người có bằng lái xe trên tuổi 100. Bộ Giao thông Anh (DfT) cho biết, tuy chưa có bằng chứng cho thấy người cao tuổi lái xe có nguy cơ gây tai nạn cao hơn nhóm tuổi trẻ, nhưng thực tế, báo chí tốn không ít giấy mực với các vụ người lớn tuổi lái xe vi phạm luật lệ hoặc gây tai nạn.
Người ta đưa ra những yếu tố giải thích người già gây ra nhiều tai nạn vì:
Không còn minh mẫn, nhanh lẹ, nên phản ứng chậm chạp trước các tình huống.
Bị ảnh hưởng các loại thuốc mà người già thường dùng.
Phản ứng sai lệch do việc đau các khớp chân tay, hay cổ.
Tai không nghe rõ, mắt đã mờ.
Ở các nước khác, để giảm tội ác và các tai nạn do súng đạn, chính phủ kêu gọi người dân đem súng đổi lấy tiền thưởng, trong khi ở Nhật người ta kêu gọi quý cụ đem bằng lái xe nộp cho cảnh sát để được giảm giá khi ăn mì ramen tại 176 địa điểm thuộc chuỗi nhà hàng Sugakiya, nghe thật tội nghiệp! Bằng lái của người già cũng nguy hiểm như súng đạn hay sao?
Hai cụ già selfie bên chiếc xe bị tai nạn – nguồn you tube
Một chiến dịch của cảnh sát Tokyo cũng khuyến khích người già từ bỏ việc lái xe bằng cách giảm giá xe buýt và taxi cho họ. Nhiều trường hợp người già gây tai nạn đã xảy ra, khi một người phụ nữ 83 tuổi mất kiểm soát khi đang lái xe, gây ra cái chết cho hai bộ hành. Một cụ ông khác, 87 tuổi lái xe tải đâm vào một nhóm học sinh, khiến một em 6 tuổi tử vong.
Người già lái xe xin đọc những lời của Thẩm phán Stephen Holt (Hoa Kỳ) sau đây “Bản thân người cao tuổi và gia đình, bạn bè cần có trách nhiệm theo dõi khả năng lái xe của mình và người thân, đối mặt với sự thật rằng – qua thời gian, khả năng lái xe của họ không còn an toàn. Việc người cao tuổi cần và muốn lái xe, ít để ý tới vấn đề an toàn, đặc biệt ở những khu vực xa đô thị, không có các phương tiện giao thông công cộng là điều dễ hiểu”.
Một nghiên cứu do Khoa Y học Cộng đồng Maliman thuộc Ðại học Columbia thực hiện và công bố đầu năm 2016 cho thấy, sức khỏe của người cao tuổi sẽ bị suy giảm khi họ không còn được lái xe. Không chỉ vậy, việc này sẽ đem lại cho người già triệu chứng trầm cảm, buồn phiền.
Các bạn già của chúng tôi, những người đang còn lái xe như hôm nay cảm thấy thế nào nếu một ngày nọ, không còn ngồi được vào chiếc xe, sau tay lái để tự ý đi đây, đi đó mà phải nhờ đến con cái, họ hàng. Ðiều đó có nghĩa là đời sống đã mất đi nhiều ý nghĩa.
Nhưng một ngày nọ, nếu các bạn nghe tin có người lái một cái xe đâm vào một đám đông gây chết người, thì đừng vội kết luận đó là một chuyện khủng bố của ISIS, mà nên xem lại có phải người lái xe là một trong mấy ông bạn già lạng quạng của chúng ta không?
“Hãy giữ cho tôi những gì tôi yêu quý: cha mẹ, anh em, bạn bè và ngay cả kẻ thù của tôi, để không bao giờ tôi phải thấy, mùa hè không hoa đỏ thắm, cái lồng không chim, cái tổ không có con ong và cái nhà không con trẻ.” Victor Hugo (1802-1885)
Có người cảm thấy buổi sáng một mình cô đơn và buồn bã, nhưng theo tôi một mình buổi tối mới buồn thấm thía. Nhiều khi trên đường lái xe về nhà buổi chiều một mình, khi thấy trời đã bắt đầu tối, phố xá đã lên đèn, tôi bỗng tự hỏi, buồn biết bao nếu đêm nay không có một nơi để về, hay về một nơi hiu quạnh!
Biết bao người cô đơn, không gia đình, tối nay về nhà một mình, bật đèn, nhóm bếp sửa soạn cho bữa ăn tối, và trên bàn ăn chỉ có một mình. Không một tiếng nói, cũng không nghe một tiếng cười. Bữa ăn một mình trong một tiệm ăn đã buồn, nhưng còn có tiếng nói xôn xao, có sự hiện diện của mọi người chung quanh, có người hầu bàn bưng lại cho bạn ly cà phê nóng, nhưng tối nay trong căn phòng vắng vẻ này, bữa ăn một mình lặng lẽ, nỗi cô đơn như thấm đẫm vào lòng.
Và những kẻ không nhà, đang tìm một góc phố khuất gió, trải chiếc chăn ố vàng, cố tìm một giấc ngủ để ngày mai trở dậy, tiếp nối một ngày không có một niềm hy vọng.
Tôi có một người bạn là bác sĩ về hưu, ở New York, sắp xếp thời gian rỗi rảnh của anh để viếng thăm và an ủi thường trực những bệnh nhân cao niên đang ở trong “hospice hospital,” nghĩa là nơi an dưỡng cuối cùng, vì những bệnh nhân này không còn sống bao nhiêu ngày nữa. Một tuần, năm ngày, vào buổi sáng, anh đến thăm viếng, trò chuyện và tâm sự với bốn bệnh nhân, mỗi người nửa giờ, cho đến khi họ qua đời, thì anh lại tìm những bệnh nhân khác để thay thế vào.
Nghe anh trò chuyện và kể cho nghe những công việc làm của anh, vì đã có kinh nghiệm nằm dài ngày ở bệnh viện và trung tâm phục hồi (rehab center), tôi khuyên anh, thay vì sắp xếp thời gian đi thăm những người bệnh của anh vào buổi sáng, anh nên thay thời khóa biểu lại buổi chiều. Buổi sáng bệnh viện lúc nào cũng bận rộn, đông người, bác sĩ đi khám bệnh, y tá săn sóc, lấy máu, do nhiệt độ, y công vào phòng quét dọn, làm vệ sinh, nên bệnh nhân không thấy buồn. Nhưng vào buổi chiều thì rất vắng vẻ. Thời gian ở bệnh viện, tôi nhìn ra cửa, thấy nắng chiều nào cũng xuống bên kia dãy nhà đối diện, mặt trời xuống thấp dần, khuất sau những dãy nhà, rồi đến lúc trời tối hẳn. Đó là lúc nhớ nhà, nhớ vợ con nhất, nói chung là nhớ đến không khí ấm cúng sinh động của bầu không khí gia đình.
Rồi đêm xuống, đêm lúc nào cũng dài hơn ngày, nhất là những giờ thao thức!
Được trung tâm phục hồi cho tôi về nhà đúng chiều Ba Mươi Tết năm ấy, tôi mừng ứa nước mắt.
Tôi nghĩ đến những người già trong nhà dưỡng lão hay những “hospice,” những người rất ít có cơ hội được trở lại nhà như những bệnh nhân qua một thời gian điều trị trong bệnh viện. Đối với những người đã “lú lẫn,” nhớ nhớ, quên quên thì còn đỡ khổ, nhưng nếu còn minh mẫn, sáng suốt, những người này sẽ buồn biết bao! Bệnh nhân, ngoài sự cô đơn của một người tù, còn cái đau của thể xác.
Chúng ta đang sống trong một gia đình đông người, bỗng một hôm vì một lý do nào đó, gia đình đi du lịch, công tác hay về quê, để chúng ta phải sống một mình vài ngày trong một căn nhà rộng lớn, thử xem sự trống trải cô đơn là to lớn đến dường nào! Rồi còn những hoàn cảnh ly dị, hay người còn người mất, cô đơn luôn luôn là liều thuốc độc giết người:
“Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?”
Trong cuộc chuyện trò mới đây trên nhật báo Người Việt, người nhạc sĩ bát tuần, độc thân, nhạc sĩ Lam Phương cho biết bây giờ ông sống một mình, với gia đình người em. “Cuộc sống rất giản dị: tối ngủ, không thức khuya. Sáng thức sớm, rồi ăn uống, ngủ trưa. Cuộc đời có vậy thôi!” Nghe ông nói, tôi cũng thấy cuộc sống cuối đời của ông cũng có phần tẻ nhạt và chắc chắn là ông rất buồn.
Và ao ước cuối đời của ông là gì, “Có một người bạn để mình hủ hỉ những lúc buồn. Bạn gái! Thế thôi. Bạn thôi!” Đến tuổi này, ai cũng hiểu, ông Lam Phương không cần phải nói thêm hai chữ “bạn thôi!”
“Hủ hỉ” trong tiếng Việt có nghĩ là chung sống với nhau đầm ấm, sớm tối, vui buồn có nhau. Dù chỉ “hủ hỉ” mà không cần “hú hí” cũng đã vui rồi.
Vậy thì các bạn của tôi, đang có một ông chồng bất như ý hay có một bà vợ lắm lời, nhưng sống với nhau, ban đêm khi tối lửa tắt đèn, mùa Đông còn nghe hơi ấm của nhau, ban ngày còn nghe tiếng nói của nhau, dù khi nặng khi nhẹ, âm thanh có thể thay đổi, có khi giận dữ, ồn ào, nhưng như vậy là hạnh phúc rồi. Người bạn của tôi, ngày đó, khi nàng đã đành đoạn bỏ tổ ấm ra đi, chàng sợ cả tiếng điện thoại reo, sợ cả tiếng đồng hồ gõ giờ, và nhất là sợ buổi chiều, vì sau buổi chiều, đêm sẽ đến.
Ai cũng sẽ phải đến một ngày thia lia không còn chậu, và chậu cũng nhớ thia lia!
Nhan đề bài viết hôm nay của chúng tôi là “Buổi tối một mình!” Các ông, các bà cứ tưởng tượng đi, tối nay về nhà ăn tối một mình, lên giường một mình, thức giấc quờ tay sang bên cạnh, chỉ thấy một nửa chiếc giường rộng trống vắng. Không nghe ai nói cũng không nghe ai cười, và chắc chắn đêm nay sẽ là một đêm khó ngủ!
Blogger Mẹ Nấm (trái) tại phiên tòa ở Nha Trang, bị tuyên án 10 năm tù. (Hình: STR/AFP/Getty Images)
Nhân chuyện có tình trạng gian dối của người sản xuất hiện nay ở Việt Nam, như chuyện hai chuồng lợn, hai luống rau, một để ăn, một để bán; rồi bơm hóa chất vào tôm, dùng thịt ôi làm ruốc, Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã phát biểu: “Phải kêu gọi lương tri của người sản xuất để họ không vì lợi nhuận mà cố tình làm trái pháp luật, bất chấp tính mạng, sức khỏe người tiêu dùng.”
Lương tri là gì? Có lương tri không? Lương tri ở đâu? Ai là người đứng ra kêu gọi lương tri? Để tôi ra đường bắc loa gọi lớn tìm lương tri về, vì đất nước này, lương tri đi vắng đã lâu: “A lô! Lương tri nghe tôi rõ không? Có người đang kêu gọi lương tri!”
Lương tri được xem như là cái trí thức người ta vốn biết, không cần phải suy nghĩ và học tập mới biết. Như vậy, nói chung đó là bản chất vốn có của con người, biết phải trái, biết thiện ác. Nếu định nghĩa như vậy, thì hiện nay con người cộng sản trong nước không có lương tri, vì đảng được nuôi dưỡng bằng giáo điều, sách lược, cương lĩnh, đường lối, qui định, phương hướng… Những điều này đã giết chết con người Việt Nam vốn chơn chất, đôn hậu, hiền lành.
Kêu gọi lương tri, lương tri ở đâu mà kêu gọi? Lương tri ở trong mỗi người, nhưng từ ngày theo đảng, con người đã đánh mất lương tri.
Liệu nếu có lương tri, nhà cầm quyền hiện nay có xử một người đàn bà yêu nước, chỉ biết tranh đấu bằng lời nói và cây bút, 10 năm tù như một tội phạm giết người cướp của như thế không. Nếu nói đến lương tri đúng nghĩa thì Mẹ Nấm, một người đàn bà yếu đuối, có mẹ già con dại, là một công dân có lương tri và bọn ngồi trên bàn xử án, hay những nhân vật quyết định bản án cho Mẹ Nấm từ trung ương xuống là những người hoàn toàn không có lương tri.
Là công dân có lương tri ai cũng phải có lòng ái quốc, thương nước, yêu nòi. Người yêu nước có lương tri phải hành động. Mẹ Nấm chính là một con người như thế. Nhưng nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay chính là những người thiếu lương tri, nên mới đem những người ái quốc ra tòa xét xử và cầm tù họ. Đảng Cộng Sản Việt Nam kết tội nhiều nhà tranh đấu cho nhân quyền là làm gián điệp, dựa thế lực ngoại bang, theo thế lực thù địch, diễn tiến hòa bình. Nhưng nếu những viên chức cao cấp ở Việt Nam ngày nay vẫn tuyên truyền đem chính nghĩa cho kẻ thù, tâng bốc bọn ngoại xâm, thì tội ấy kết là tội gì?
Một người có chút lương tri không thể nào có những câu nói, vùa ngu dốt, vừa ngược ngạo, vừa vô liêm sỉ như những người cộng sản hôm nay:
-“Đào mộ tổ tiên của tôi thì được, nhưng giật đổ tượng Lê-nin là thiếu văn hóa.” (Tiến Sĩ Vũ Minh Giang – Đại Học Quốc Gia Hà Nội)
-“Từ ngày còn bé, tôi đã được học, Hoàng Sa, trường Sa là của Trung Quốc rồi.” (Giáo Sư Nông Lập Phu)
-“Xin đừng vì vài cái đảo nhỏ ở Biển Đông mà làm mất đi tình hữu nghị láng giềng tốt đẹp giữa hai nước, bởi nếu không có đảng Cộng Sản Trung Quốc chống lưng, đảng ta sẽ không thể tồn tại cho đến ngày hôm nay. (Võ Thị Thu Thủy, phó chủ tịch UBND Quảng Ninh.)
Tiến Sĩ Alan Phan, người có kinh nghiệm với xã hội Trung Quốc dưới thời Cộng Sản, đã nêu lên những hình ảnh thiếu lương tri của đất nước này, và Việt Nam là một bản sao tuyệt hảo:
-Trung Quốc có bao nhiêu giáo sư đại học “luồn cúi quyền lực” hoặc “tham lợi bán điểm?”
-Có bao nhiêu người làm nghề chữ nghĩa vì chút tiền mà đưa tin giả, tô vẽ hỗ trợ bọn tham quan?
-Có bao nhiêu “nhà văn” viết tiểu sử cho lũ sâu mọt quốc gia?
-Có bao nhiêu “nhân sĩ nổi tiếng” vì áo quan đung đưa trước mắt mà vứt bỏ nguyên tắc?
-Có bao nhiêu kẻ biên soạn cái gọi là “Sổ tay danh nhân,” “Sổ tay nghệ thuật gia?”
– Có bao nhiêu thầy thuốc làm nghề “môi giới dược phẩm?”
– Có bao nhiêu thầy cô tìm mọi cách đào tiền trong túi học trò?
– Có bao nhiêu “nhà kinh tế học” vì “tiền thưởng” của bọn tài phiệt mà đứng trên danh nghĩa chức vị uy quyền nói ra những lời lẽ hoang đường?
– Có bao nhiêu tên lưu manh văn hóa biến bọn trùm xã hội đen thành doanh nhân?
Trở về câu chuyện bà Nguyễn Thị Kim Tiến ở đầu bài, người đã kêu gọi lương tri của những người sản xuất thực phẩm, nhưng chính bà, nếu có lương tri, đã từ chức từ lâu ngay từ vụ 108 trẻ em chết trong đợt dịch sởi năm 2014, vì Bộ Y Tế cố giấu những thông tin về bệnh sởi, “vì những nguyên nhân chưa rõ nguyên nhân!”
Trong những địa hạt khác, bọn cầm quyền vô lương tri muốn lấy tiền thuế của dân, xây tượng đài Hồ Chí Minh 1,400 tỷ đồng ở Sơn La (xin nhớ 1 tỷ đồng Việt Nam = $40,000) trong khi dân chết phải bó chiếu mang về nhà. Giáo Sư Ngô Bảo Châu đã thẳng thắn cho rằng đây là một ý tưởng “không thần kinh thì cũng khốn nạn!”
Nếu chúng ta là những người có lương tri, chúng ta đứng về phía dân tộc hay đứng về phía bọn tư bản Formosa. Nếu một nhà cầm quyền có lương tri, nỡ nào thấy ngư dân trong vùng biển quê nhà, phải chịu đòn bởi ngoại xâm, mà không mở miệng nói được một lời phản đối. Công an có đặc quyền xâm phạm an ninh của quốc dân, tướng lãnh được ân sủng của đảng, đặc lợi ngập mặt, hành động theo lợi lộc, chứ không phải hành động theo lương tri.
Kẻ sĩ có lương tri lấy làm đau lòng khi thấy đồng bào tứ tán, tha phương cầu thực, phụ nữ đánh mất phẩm giá, đạo lý suy đồi, nhân tâm ly tán.
Chúng ta đòi hỏi, kêu gọi gì ở những kẻ bần cùng, nghèo đói trồng rau bẩn, bán thịt ôi mà quên nói đến nhà cầm quyền đầy quyền lực, đang bán nước, bán rừng, bán biển, cho thuê cả tổ quốc. Những kẻ dựa vào thế lực được đảng bao che, phá rừng, lấp hồ xây nhà cao, cửa rộng, bịt mắt che tai, thì lương tri nằm ở đâu?
Bà Nguyễn Thị Kim Tiến muốn kêu gọi lương tri, nhưng chính bà cũng không biết lương tri là gì, lương tri ở đâu. Nếu biết hẳn bà đã thấy hổ thẹn khi còn tại vị ở cái ghế, liên quan đến mạng sống của người dân trong bao nhiêu năm nay, mà không biết liêm sỉ, biết xấu hổ. Cả cái bộ máy cai trị đất nước này không có lương tri, sá gì một mụ đàn bà tay chân, công cụ của đảng.
Lương tri nằm trong lòng mỗi người, đâu có xa xôi gì mà phải kêu gọi.
Mẹ Nấm lãnh bản án 10 năm tù giam, cũng chỉ vì bà là người của lương tri sống giữa một bầy thú! Vì đã là con người, ai cũng phải có lương tri!
“Cha mẹ già đã khuất núi, Quê hương đã thất lạc, Mộng ước đã tàn phai!” (Bùi Bích Hà)
Sống đến bao nhiêu tuổi thì được gọi là thọ? Người xưa quy định 80 được coi như là thượng thọ, vì ít ai sống đến tuổi này, vì ngay tuổi 70 xưa nay cũng đã rất hiếm rồi.
Tháng Mười, 1924, sau chuyến công du sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Marseille, vua Khải Định đã tổ chức lễ tứ tuần Đại Khánh rất long trọng và tốn kém, để mừng mình đến tuổi 40, nhưng chưa thêm được tuổi nào, thì chưa đầy một năm sau, nhà vua bị bệnh nặng mà băng hà, hưởng dương 40 tuổi. Trong sách vở đều ghi là hưởng thọ! Có lẽ là vua thì đặc cách được hưởng thọ thay vì hưởng dương chăng?
Người xưa, như ông Bạch Cư Dị cũng mới đến tuổi 40 cũng đã lấy làm mừng, khi thấy trong làng có người khóc chồng chết mới có 25 tuổi, có nhà khóc con chết chỉ mới 17, 18. “Dư kim quá tứ thập/ Niệm bỉ liêu tự duyệt!” (Ta nay đã tuổi bốn mươi/ Chuyện đời nghĩ lại cũng nguôi tấm lòng!) Văn Khốc Giả (Nghe Người Khóc).
Ở tuổi 50, ông Khổng Tử đã nói “Ngũ thập tri thiên mệnh!”
Ông Đỗ Phủ thì lại có thơ rằng: “Thấp thập cổ lai hy!” (Tuổi 70 xưa nay hiếm có!).
Khổng Tử có nói một câu về những người đến tuổi 70: “Thất thập nhi tùy tâm sở dục” (Người đến tuổi bảy mươi muốn làm gì làm!).
Cụ Khổng ơi! Đến tuổi này thì có người đã trở lại như con trẻ còn mặc tả, nằm một chỗ, không đi đứng được, ăn phải có người đút, áo quần phải có người thay, việc vệ sinh phải có người giúp đỡ, còn chi là “tùy tâm sở dục.”
Có lẽ cụ muốn nói đến một mặt khác, đến tuổi 70 muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, muốn ăn uống gì thì tùy thích, không còn dành dụm (cho ai), cũng không còn kiêng khem gì cho nhọc xác! Cũng đừng chuyển chủ quyền nhà cho con, không khéo ra nằm đường lúc nào không hay!
Nhưng cũng đừng ỷ tuổi già mà làm điều thất thố, ít ai dùng lời nặng mà mắng trẻ con lầm lạc, mà thường hay xách mé gọi ông già sai quậy là “già dịch,” “già lựu đạn,” “già mất nết!” Cho nên về già mà giữ được phẩm giá mình còn khó khăn hơn lúc trẻ.
Trong quan niệm truyền thống của người Trung Hoa, “Thọ” đứng đầu trong năm thứ phúc, người đời ai cũng mong thọ, y phục thêu chữ “Thọ,” gối nằm thêu chữ “Thọ,” chăn đắp thêu chữ “Thọ,” cây đòn tay nhà cũng có khắc chữ “Thọ,” bức bình phong trước nhà cũng xây chữ “Thọ,” gặp nhau ai cũng chúc chữ “Thọ.”
Nhưng sao người xưa lại gọi “Đa thọ là đa nhục!” Nhục không phải vì bị ai xúc phạm tinh thần hay thân thể, mà nhục vì thân thể yếu đuối, không làm chủ được mình, có khi không tự lo chuyện vệ sinh được cho mình, phải nhờ cậy đến người khác, đôi khi lại bị khinh bỉ, thậm chí bị chửi rủa, coi thường như số phận những người già nhớ nhớ quên quên trong nhà dưỡng lão!
Càng già nỗi buồn càng tăng: “Mối sầu như tóc bạc/ Càng cắt càng dài ra!” (Phan Khôi).
Bởi vậy nên mong không bệnh hơn là mong sống lâu. Vậy mà gặp ai cũng chúc thọ, kiểu “Sống lâu trăm tuổi!” Sống lâu 100 tuổi mà quanh quẩn từ “nursing home” đến nhà “hospice care” thì ai mà muốn sống!
Nhà văn Bùi Bảo Trúc ra đi lúc 73 tuổi, thiên hạ cho rằng đây là một cái chết trẻ, quá vội vàng, nhưng sao bà Hạnh Nhơn, người đứng đầu một hội thiện nguyện giúp cho thương phế binh VNCH, mất năm 90 tuổi, mà người ta vẫn thương tiếc, nghĩ giá mà bà sống thêm được vài năm nữa!
Vấn đề là sống như thế nào, hay sống mà người đời coi như đã chết! Mà cái chết không có định kỳ, không có giới hạn. Bao nhiêu tuổi là thọ, mà bao nhiêu tuổi là chết yểu?
Được chết như nhà báo Vũ Ánh, vừa gửi bài viết đi xong là ngã xuống; chết như nhà văn Bùi Bảo Trúc, đang giờ phát thanh mà nghẹn lời; chết như Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích đang trên đường đi họp chuyện Biển Đông mà tim ngừng đập, không khác gì cái chết như người lính xông xáo giữa trận tiền, chưa bắn hết băng đạn, nòng súng đang bốc khói trên tay. Người ta gọi đó là chết vì công vụ, hay chết lúc còn sống, chứ không phải chết khi đã chết, là “chết lâm sàng!”
Tuần lễ này người viết lên tuổi tám… mươi.
Sướng chưa! “Một sợi râu là một xâu bánh!”
Tuổi 80 đã được xếp vào loại “thượng thọ.” Rồi đây trên cáo phó, chia buồn trước cái tên mình có thêm hai chữ “Cụ Ông” trang trọng. Vậy mà cứ tưởng mình còn trẻ như ngày xưa, “đừng gọi Anh bằng Chú,” không lẽ giờ lại nói: “Đừng gọi Anh bằng Cụ Ông, tội nghiệp nghe em!”
Qua chiến tranh, tù đày, chiến hữu, bạn bè, con cái nằm lại trên rừng dưới biển, phần mình lưu lạc quê người, may mắn còn sống đến tuổi 80 có gì đâu mà vinh dự. Được sống càng lâu, càng thấm buồn.
“Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ Trông về sau, quạnh quẽ người sau Ngẫm hay trời đất dài lâu Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.” (Bài Ca Lên Đài U Châu của Trần Tử Ngang-Trần Trọng San dịch)
Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)
Từ khi chế độ Cộng Sản xâm nhập vào đất nước chúng ta, dân chúng thường đặt tên cho hai chế độ để phân biệt rõ ràng, một bên là Quốc Gia, một bên là Cộng Sản. Quốc gia phải được hiểu là quốc gia Việt Nam, nghìn đời từ cha ông để lại, còn Cộng Sản thì ai cũng hiểu là Cộng Sản Quốc Tế, đến từ cái đất nước Liên Xô xa xôi bên kia.
Không phải tự nhiên mà sau khi chia cắt đất nước, ở miền Nam, nhạc sĩ Hùng Lân đã ca tụng hai tiếng Việt Nam trong bản nhạc “Việt Nam, Minh Châu Trời Đông,” còn Phạm Duy thì dõng dạc cất cao hai tiếng “Việt Nam! Việt Nam!” với câu hát: “Việt Nam ViệtNamnghe từ vào đời – Việt Nam hai câu nói trên vành môi Việt Nam, nước tôi. … Việt Nam!”
Với người quốc gia, tiếng nói đầu tiên của một người ngay lúc chào đời chính là tiếng gọi của đất nước, non sông, xã tắc, trong khi đối với người Cộng Sản ở miền Bắc tiếng gọi đầu tiên của đứa trẻ mới ra đời là Stalin! “Yêu biết mấy, nghe con tập nói. Tiếng đầu lòng con gọiStalin.” Stalin không phải là một cái tên Việt Nam, Stalin cũng không phải là tên của tổ tiên, anh hùng Việt Nam. Chắc chắn đối với chế độ miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, cái tên Stalin phải đẹp đẽ, cao cả nghìn lần hơn hai tiếng Việt Nam, nếu không thì há gì, người ta lại đặt tiếng Stalin vào miệng một đứa trẻ mới tập nói bập bẹ, cũng không Cha, không Mẹ, mà cũng chẳng phải liên hệ gì với đất nước non sông!
Nhưng đó chính là nhiệm vụ của những cán bộ Cộng Sản quốc tế nhận lệnh từ Mạc Tư Khoa, quyết nhuộm đỏ Việt Nam.
Những người cho rằng mình yêu đất nước, ai cũng đem hai tiếng Việt Nam ra để vinh danh, ca tụng nói bao nhiêu điều tốt đẹp, để cuối cùng hãnh diện nói rằng: “Tôi là người Việt Nam!”
Cách đây mấy năm, báo Thanh Niên trong nước đặt câu hỏi với độc giả: “Người Việt thông minh, chăm chỉ và anh hùng, đánh thắng ba đế quốc sùng sỏ, thế bạn có hãnh diện là người Việt Nam không?”
Có những lúc chúng ta hãnh diện vì hai tiếng Việt Nam, nhưng cũng có những lúc chúng ta phải cúi đầu hổ thẹn vì hai tiếng Việt Nam.
Đi Mã Lai, đến Kuala Lumpur, khi người tài xế taxi biết bạn là người Việt Nam, anh ta khen Việt Nam bằng câu nói: “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Nhưng anh ta lại nói thêm “Con gái Việt Nam rẻ lắm!” Đâu còn gì danh dự tốt đẹp cho hai tiếng Việt Nam nữa.
Đến phi trường Sanghi, Singapore, các thiếu nữ Việt Nam được mời riêng vào phòng để kiểm tra, lý lịch, giấy tờ, tiền bạc mang theo, điều tra những người quen biết của họ ở đất này, chỉ vì cảnh sát Singapore nghĩ rằng các thiếu nữ này là món hàng “đứng đường” tối nay ở khu đèn đỏ Joo Chiat, hay Geylang. Nếu bạn cùng đến Sanghi một lần với những cô gái này, bạn có còn dõng dạc nói rằng: “Tôi là người Việt Nam” nữa hay không?
Giám Mục Ngô Quang Kiệt không phải là một người tầm thường tào lao, những phát biểu của ông không phải nói cho qua chuyện, ông có cái đau của người Việt Nam đi ra ngoại quốc mà không được kính trọng: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế!”
Thế là bao nhiêu búa rìu dư luận chụp lên đầu vị Giám Mục “trung ngôn” này, nhưng sự thật vẫn là sự thật, chẳng qua là người ta thích nhắm mắt, bịt tai thôi.
Một phụ nữ ở Saigon kể chuyện với chúng tôi: “Năm 2008 vào dịp Tết Nguyên Ðán, tôi được con trai cho đi du lịch Doha (Qatar,) sẵn dịp công ty của con bảo lãnh qua chơi Dubai. Nhưng đến chiều về lại Doha thì bị giữ lại phi trường vì nghe nói có chuyện gì xảy ra ở một siêu thị mà có người Việt mình dính vô. Trong khi cả đoàn ‘check in’ thì riêng tôi bị giữ lại vì mang passport CHXHCN Việt Nam. Mang hộ chiếu Việt Nam đi nước ngoài buồn lắm ông ơi!”
Yêu hai tiếng Việt Nam, là người yêu nước, chúng ta phải làm sao để hai tiếng này vang lừng, chói lọi chứ không phải làm hoen ố nó, rồi kêu gào cho là người đời xuyên tạc, bất công.
Sau tháng 4-1975, Nhật Bản cũng tử tế hết lòng với Việt Nam, nhưng vì sao, về sau, trên nhiều diễn đàn của Nhật, người ta kêu gọi tẩy chay người Việt, đuổi hết người Việt về nước, cắt vĩnh viễn các khoản viện trợ cho Việt Nam. Có người so sánh viện trợ cho Việt Nam uổng hơn là đổ tiền vào… cống, bởi tiền thuế của họ đang được dùng để nuôi bọn “giòi bọ” ở Việt Nam. Một tập đoàn cung cấp dịch vụ của Nhật bị Việt Nam đòi hối lộ 15% để được trúng thầu các dự án dùng chính tiền viện trợ của Nhật tại Việt Nam; nhân viên, tiếp viên hàng không và phi công Vietnam Airlines, tổ chức đánh cắp hàng hóa trong các siêu thị Nhật để vận chuyển hàng gian về tiêu thụ tại Việt Nam; lãnh sự quán Việt Nam ở Nhật tại Osaka tổ chức bán giấy thông hành Việt Nam.
Như vậy, chính người Việt Nam để lại ấn tượng xấu xa về hai tiếng Việt Nam trong mắt người Nhật khi xuất ngoại sang đất nước họ.
Ở Nga, có đường dây buôn người đưa hàng nghìn phụ nữ Việt Nam vào các nhà chứa Nga, theo Tiến Sĩ Nguyễn Ðình Thắng: “Trong tất cả các trường hợp ở Nga này, thủ phạm là những người Việt được bao che bởi một số giới chức ở Tòa Ðại Sứ Việt Nam ở Nga, thậm chí họ thành Hiệp Hội May Dệt dưới sự bảo trợ của Tòa Ðại Sứ Việt Nam.”
Cảnh sát Nga vừa khám phá một xưởng may “đen” dưới lòng đất tại khu chợ Cherkizov ở thủ đô Moscow, bắt hằng trăm di dân lậu Việt Nam. Trong 80,000 người Việt ở Nga đã có 80% làm nghề buôn bán, phần lớn là chợ trời, mánh mung, nhưng toà Đại Sứ Việt Nam ở Nga chủ trương không biết, không nghe, không thấy, không nói!
Ông Trương Văn Món, Giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Chăm, kể chuyện ông từng ở Malaysia 3 năm, mỗi khi đến dịp lễ 2/9, toà Đại sứ Việt Nam tổ chức những bữa tiệc mời đại diện đại sứ quán các nước khác và người lao động Việt Nam ở nước ngoài tới dự, nhưng lần nào, đại diện Đại Sứ Quán Việt Nam tại đây phải chắp tay xin lỗi quan khách vì bị người Việt cướp hết đồ ăn trước giờ vào tiệc, và chuyện này năm nào cũng xảy ra như vậy!
Ông Đặng Xương Hùng lãnh sự Việt Nam ở Thụy Sỹ nói ông đã theo Đảng Cộng sản 30 năm, nhưng giờ đây có nhiều động lực khiến ông phải rời bỏ Đảng Cộng sản và xin tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ. Ông nói Việt Nam đã sang đến thế kỷ XXI rồi mà vẫn còn chủ nghĩa Mác Lê-nin, vẫn còn tương tự như Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba thì ra nước ngoài thật ngượng.” Đó là lời nói của một người đại diện cho Việt Nam hôm nay!
Nói về dân chủ, nhân quyền, Việt Nam đứng thứ 177 trong số 198 quốc gia trên toàn cầu về tự do báo chí, là nhận định của Freedom House trong phúc trình thường niên công bố tại Newseum – Viện Bảo tàng Tin tức ở Washington DC hôm thứ 28/4/2017, năm 2015, Việt Nam xếp hạng thấp nhất về quyền lợi chính trị (hạng 7) và hạng 5 về tự do công dân, nhưng lúc nào chúng ta cũng hét lên hai tiếng Việt Nam- Việt Nam vào lỗ tai thiên hạ.
Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí yêu nước, khi bị lên đoạn đầu đài ở Yên Báy, đã đồng thanh hô vang :”Việt Nam muôn năm!” Thậm chí báo chí miền Bắc cũng đã nhét vào miệng Nguyễn Văn Trỗi “đánh Mỹ” tiếng hô “Việt Nam muôn năm!” không quên kèm theo tiếng “muôn năm” cho Hồ Chí Minh, tức là Hồ Tập Chương, cán bộ KGB được đào tạo ở Liên Xô.
Nhưng Việt Nam là Việt Nam nào để cả dân tộc Việt Nam ngẫng đầu hãnh diện? Việt Nam là Việt Nam nào để khi ra nước ngoài, con người phải cúi mặt mà đi?
Người Tàu Đài Loan vẫn không bao giờ nhận mình là người Trung Hoa lục địa, và tôi, hãnh diện là người Việt Nam. Ngày xưa tôi nhận tôi là Nam Việt Nam, và bây giờ là Việt Nam, nhưng tôi nhận tôi là người Việt Nam lưu vong, không phải Việt Nam trong danh từ kép “Việt Nam – Hồ Chí Minh” mà đứa con bất hiếu Phạm Tuyên đã lớn tiếng, rêu rao, lặp đi, lặp lại nhiều lần!
Trong một cuộc họp mặt của một trường trung học tại hải ngoại gần đây, bất ngờ tôi gặp lại một thằng bạn cũ của thời gian gần 70 năm về trước. Cả hai đứa mừng quá, ôm chầm lấy nhau, quên cả quan khách bên cạnh, và cùng rộn rã những tiếng “mày mày tao tao!” Cái sướng của tha hương ngộ cố tri mà, nhất là hai thằng bạn học cùng lớp, ngồi chung bàn của hơn nửa thế kỷ về trước, bây giờ nhìn nhau tóc đã bạc và khuôn mặt có thể đã đổi khác với những vết tàn phá của thời gian. Phải chờ khi người MC buổi lễ giới thiệu những người tham dự ở các tiểu bang xa về, nghe tên, trông mặt “nó” tôi mới nhận ra.
Có nơi gọi “mày-tao,” có chỗ gọi “mi-tau,” và cũng có vùng kêu “tớ với cậu” hay có một thời “toi với moi!” (toa-moa)
Một dịp khác, một buổi trưa ở cái vùng đất Little Saigon này, sau một buổi giới thiệu sách mới, ra xe đăng loay hoay tra chìa khóa mở máy, thì có tiếng gõ lên cửa, bên tay trái của tôi. Ngẩng đầu lên, tay xuống cửa xe, trong đầu óc vốn tối tăm, như có một tia chớp, miệng tôi bỗng thốt lên:
– Mi! Hậu. Nguyễn Hy Hậu phải không?
Một thoáng rất nhanh, tôi nhớ ra cả ngôi nhà, và tên đường và cả khuôn mặt của người bạn ngày xửa ngày xưa trong cái thành phố nhỏ thật thà, êm đềm ấy. Tôi bước ra xe, ôm lấy bạn. Đây là một người bạn thời tiểu học ở Huế, gia thế khá giả, được du học từ sau trung học, lưu lạc sang tới Pháp đã hơn nửa thế kỷ nay, học hành thành công, lấy bằng tiến sĩ hóa học, ở luôn xứ người không về nước. Trong suốt thời gian này, trong bạn bè tôi cũng chẳng bao giờ nhắc tên bạn, cũng không còn nhớ đến bạn. Thì ra thằng này, thường khi vẫn có dịp sang Mỹ chơi, biết tôi và vẫn thường “theo dõi” tôi, nhưng ở trong hội trường đông đúc, nó thấy bất tiện khi phải gặp lại một thằng bạn cũ mà không biết nó có nhớ mình hay không?
Hậu đi theo tôi ra xe, chờ khi tôi vào xe xong, sắp mở khóa chạy đi mới gõ cửa xe.
Tôi có một trí nhớ rất tồi, nhất là ở cái phần não thùy có chứa tên người, nên nhiều khi gặp người cũ mà ngớ ra, ấp úng một hồi rồi mới giả lả, quanh quẩn mà cũng không nhớ nổi cái tên. Cách đây hai năm, hồi nằm ở bệnh viện, có một bà bạn đến thăm tôi, lại mang quà cho, vậy mà mới tuần trước, trong một đám tang ở Bolsa, gặp lại chị, có lẽ thấy mặt tôi nghệch ra không vồn vã chào chị, chị vui vẻ hỏi:
– “Anh có nhớ tôi không?”
Tôi xin lỗi là hoàn toàn không nhớ, vì lấy lý do là nằm bệnh viện, thuốc mê nhiều quá, bây giờ “bộ nhớ” hư rồi.
Vậy mà trường hợp một thằng bạn thời thơ ấu, sau 70 năm, chỉ một thoáng, mà tôi nhớ ra tất cả. Nếu hôm đó, sau khi bạn cất công đi tìm tôi, mà tôi không nhớ ra, hẳn bạn buồn biết bao nhiêu! Trong khi bạn sống bình yên ở Pháp, không bao giờ nghe tiếng bom đạn, cũng như chẳng biết ánh sáng hỏa châu là gì, thì bạn bè một thời thơ ấu đều bị cuốn hút vào chiến tranh, nhiều đứa chết, đi tù, hay lưu lạc cùng khắp trái đất.
Từ nguồn ra, một dòng sông chia đi trăm ngả. Số phận không ai giống ai, mỗi người một hoàn cảnh, tâm tính đổi thay, người quên kẻ nhớ.
Tìm gặp lại được một thằng bạn cũ từ thời thơ ấu hay thiếu niên là món quà quý nhất! Cả một thời xưa hiện ra, tưởng chừng như mới hôm qua đây thôi.
Trong 30 cái “chẳng sướng ư!” của Kim Thánh Thán, có cái sướng 10 năm gặp lại bạn cũ, trong khi trước đó mấy nghìn năm, ông Khổng Tử cũng nghĩ như vậy: “Có bạn từ phương xa đến thăm, chẳng phải là điều vui mừng hay sao?” (Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ!)
Bây giờ dự những buổi tiệc tùng, cưới hỏi, lễ lạt với những khách phải bắt tay, cúi đầu, giới thiệu ông này bà nọ, với chức tước, danh xưng, làm sao vui, thoải mái bằng những cuộc gặp gỡ những đứa bạn thời xưa, ríu rít những tiếng “mày tao,” khỏi phải giữ gìn, khách sáo gì. Bạn thân thời thơ ấu, gọi là đã biết nhau, nhiều khi đấm vào ngực, vỗ vào vai hay chửi thề một câu cho đã miệng lúc mới gặp lại nhau. Nó không phải là điều bất nhã, mà là thứ ngôn ngữ cho biết hai người đã biết nhau lâu, phải có một thời gần gũi. Họ có những trò chơi chung, đã từng đi với nhau cùng một con đường, có thói quen giống nhau, có những người bạn chung và có những lỗi lầm thuở nhỏ mà chỉ riêng bạn mình biết!
Thế mà một người bạn của tôi đã gặp một trường hợp sượng sùng, khi anh cũng gặp lại một thằng bạn thời niên thiếu bất ngờ, đang “mày mày tao tao” thả giàn, thì bà vợ bạn ra chiều bất ý, lại nói thẳng:
– “Các anh bây giờ già đầu cả rồi, con đàn cháu đống, tôi không muốn anh gọi nhà tôi mày mày tao tao nữa!”
Thật ra, gặp lại một thằng bạn cũ, muốn giữ thể diện, kiểu cách với nhau cũng buồn, nhưng bỗng dưng như bị dội vào đầu một gáo nước lạnh, thôi thì cứ coi như chẳng hề quen biết nhau. Bạn bè ngày xưa còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, bây giờ đổi giọng ông ông, bà bà thấy ngượng nghịu làm sao ấy!
Chúng ta đã có cái dịp nào trong đời khi gặp một người bạn thân thiết ngày xưa, bây giờ là thượng tọa, gặp nhau trong một trai phòng, không “Bạch Thầy” mà gọi nó bằng “mày,” hay lính trơn gặp thằng bạn cũ nay là một đại tá chỉ huy trưởng ở chỗ nhà riêng mà thốt ra lời: “Không ngờ lại gặp mi ở đây!”
Cho đến lúc về già như hôm nay, vui khi còn được vài thằng bạn có thể xưng hô mấy tiếng “mày tao” để thấy mình không có tuổi, thời gian đứng lại. Những người không có bạn “mày tao” là những người không có tuổi thơ và cũng không có luôn dĩ vãng!
Ở Hoa Kỳ, chúng ta chỉ có một cộng đồng tị nạn người Việt ở hải ngoại, không có quân đội, không có chính phủ, không có ngân khoản khổng lồ trong ngân hàng, nhưng thật sự là chúng ta có vũ khí trong tay. Đó là quyền sử dụng đồng đô la và quyền tẩy chay!
Dư luận tố cáo một tiệm bún bò Huế ở Bolsa còn lưu luyến chơi nhạc VC “Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây” trong quán ăn này, chúng ta có quyền tẩy chay không đến quán này nữa. Mở quán ăn, chủ nhân cần có khách, nhưng khách có thể chọn quán bún bò khác hay nghỉ ăn bún bò vì không muốn chịu nhục.
Chúng ta có quyền tẩy chay các ca sĩ, các đoàn văn công, các cuộc trao đổi văn hóa từ trong nước gửi ra với mục đích giao lưu hay trao đổi, mà không cần phải biểu tình, treo cờ, giăng biểu ngữ, la ó, chửi bới. Cách tốt nhất là xa lánh, không mua vé, không tham dự dù có giấy mời, không thèm đăng quảng cáo lấy tiền, thì đương nhiên sân khấu sẽ tắt đèn và ca sĩ, văn công sẽ cuốn gói về nước. Còn nói hô hào chống Cộng, chồng đã bị cầm tù, con chết vượt biên, mà còn trang điểm, ra tiệm làm tóc, mua vé danh dự để được ngồi hàng đầu, mỗi khi có gánh hát, có văn công, “soái ca” đẹp mã sang đây trình diễn, thì nên về nhà đóng cửa, soi kính, xem lại chân dung và bản sắc của mình.
Chúng ta có quyền tẩy chay các ca sĩ có gốc gác tị nạn, bây giờ kêu gào danh nghĩa quê hương, đồng bào, hòa giải, về quê hương “hát trên những xác người” vì những thương nữ này không muốn nghe, muốn thấy, bịt tai, nhắm mắt trước những sự thật đau lòng. Vì sao khi họ trở lại đây, chúng ta lại tiếp đón họ, chấp nhận cho họ đứng trên sân khấu hải ngoại, miễn họ biết đổi màu da cho thích hợp với phông cảnh sân khấu của mỗi nơi.
Chúng ta có quyền tắt TV, không đi xem ca nhạc, không bỏ một đồng bạc để mua vé, đi xem những ca, kịch sĩ, những tên hề hai mặt, đi đi, về về, sẵn sàng cười vào sự vô cảm, ngu ngơ của hải ngoại.
Nếu có quán ăn, dịch vụ sống nhờ trên đất tị nạn mà có lối văn hóa “bún mắng, cháo chửi” kiểu Hà Nội thì cho chúng trở về nơi hang ổ của chúng.
Cộng đồng tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại khi nghe tình cảnh của đồng bào trong nước hiện nay, mà nỗi oan khiên không kể hết, nên tẩy chay không gửi tiền, không du lịch Việt Nam, chứ không phải nuôi sống Cộng Sản mỗi năm lên hơn $10 tỷ, cuối năm “về quê ăn Tết,” với câu nhật tụng: “Việt Nam bây giờ đẹp lắm, vui lắm!”
Nói chung, chúng ta có vũ khí trong tay mà chưa biết dùng hay không muốn dùng.
Ở Việt Nam, vụ công ty nước ngọt Tân Hiệp Phát, sau khi tòa án tuyên phạt bảy năm tù đối với bị cáo Võ Văn Minh (Cái Bè, Tiền Giang), sau khi bị gài bẫy nhận 500 triệu đồng từ đại diện của Tân Hiệp Phát tại một quán giải khát, khi ông này tố cáo chai nước ngọt có ruồi chết. Bênh vực người cô thế, Tân Hiệp Phát đã bị làn sóng tẩy chay của dân chúng, không mua, không dùng sản phẩm của công ty này gồm tất cả 12 món hàng. Sơ khởi, Tân Hiệp Phát đã chịu thiệt hại nặng nề lên tới trên $90 triệu, và nếu dân chúng muốn chiến dịch tẩy chay này đi đến tận cùng thì Tân Hiệp Phát sẽ phải phá sản!
Tẩy chay được xem như là một thái độ bất hợp tác, không liên quan, không giao dịch nhằm đưa đối phương đến những khó khăn, gây thiệt hại cho bên bị tẩy chay. Phải nói là tẩy chay là một sức mạnh có thể làm kiệt quệ đối phương, gây ảnh hưởng không nhỏ, một cuộc chiến tranh không cần dùng đến vũ khí. Đối tượng của việc tẩy chay không chỉ là công ty kinh doanh tư nhân mà còn có thể một chính quyền thành phố hay tiểu bang.
Ở tầm mức lớn giữa một quốc gia với một quốc gia, đó là cấm vận.
Cấm vận là sự ngăn cấm quan hệ ngoại giao, viện trợ, buôn bán, đi lại, vận chuyển hàng hóa, trao đổi khoa học kỹ thuật… với một nước nào đó, được sử dụng như một sự trừng phạt chính trị do sự bất đồng về chính sách và hành động của quốc gia ấy.
Chúng ta thường nghĩ việc tẩy chay công ty kinh doanh tư nhân có ảnh hưởng đến số lượng hàng hóa bán ra, hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng bị sút giảm, nhưng thực tế gây thiệt hại rất nhiều, vì ảnh hưởng gián tiếp từ việc giảm giá cổ phần của công ty. Chúng ta chưa quên Target đã mất $10 tỷ cổ phần trong năm vừa qua vì bị thành phần bảo thủ tẩy chay chính sách cho người đổi giới (transgender) tự chọn nhà vệ sinh trong các cửa tiệm của họ, và mới đây, chỉ vì vụ kéo lê một khách hành, ông David Đào vừa qua trên sàn máy bay của United Airline, hãng máy bay này đã mất $1 tỷ chứng khoán. Việc mất giá cổ phiếu là do ảnh hưởng hình ảnh công cộng (public image) của công ty này trước công chúng.
Người Mỹ gốc Phi Châu đã tẩy chay việc đi xe buýt tại Montgomery, Alabama, để khởi động một cuộc đấu tranh trên phạm vi toàn quốc nhằm xóa bỏ nạn kỳ thị chủng tộc; người Ấn Độ tẩy chay hàng hóa của Anh do Thánh Gandhi khởi xướng; người Do Thái thành công khi tổ chức tẩy chay Henry Ford ở Mỹ, vào những năm 1920; người Trung Quốc tẩy chay các sản phẩm của Nhật sau phong trào Ngũ Tứ; người Do Thái tẩy chay hàng hóa của Đức Quốc Xã ở Lithuania, Mỹ, Anh và Ba Lan trong năm 1933; Mỹ dẫn đầu cuộc tẩy chay Thế Vận Hội Mùa Hè 1980 tại Liên Xô, và cuộc tẩy chay chống lại chính quyền phân biệt chủng tộc apartheid tại Nam Phi…
Ngay tại Mỹ, trong năm qua, “đạo luật phòng vệ sinh,” HB 2 của North Carolina, chỉ cho học sinh sử dụng theo giới tính lúc mới sinh ra, chứ không theo giới tính sau khi đã thay đổi, đã bị “tẩy chay” làm cho tài chánh tiểu bang bị thiệt hại lớn, từ việc công ty tài chính PayPal ngưng đặt một cơ sở khiến tiểu bang mất $2.66 tỷ cho ngân sách, đến việc ca sĩ người Anh Ringo Starr hủy bỏ cuộc trình diễn, làm cho nhà hát của một thành phố bị thất thu $33,000 và tiểu bang này có thể mất thêm hàng trăm triệu đô la vì Hiệp Hội Thể Thao Đại Học (NCAA) không tổ chức các cuộc thi đấu tại đây, nơi thường đứng ra đăng cai các sự kiện này. NCAA dự trù tẩy chay dài lâu khi loan báo địa điểm các trận thi đấu các giải vô địch từ nay cho đến năm 2022, sẽ không dành cho North Carolina. Thiệt hại vụ này lên đến $87.7 triệu.
Ngày nay Trung Quốc đầu độc cả thế giới với thực phẩm bẩn, hàng hóa thô sơ cẩu thả, cứ kiểm soát ngay các vật dụng trong gia đình mình, những gì đã phát xuất từ Trung Quốc, đều có thể đưa đến chuyện giết người. Từ cái xe nôi kẹp cổ trẻ em, đến món đồ chơi nhiễm nặng chất chì, sữa và sữa bột trẻ em đã bị lẫn hóa chất melamine, và chúng ta phải biết rằng tất cả thứ hàng hóa sản xuất từ quốc gia này đều dính máu của các công nhân nô lệ vị thành niên, mọi tù nhân khổ sai, gái mãi dâm, dân nghiền ma túy và học viên Pháp Luân Công trong cái nhà tù đau đớn, mạt hạng vĩ đại này.
Chỉ riêng năm 2013, Walmart đã nhập cảng hàng hóa Trung Quốc lên đến $49,1 tỷ, điều này cũng có nghĩa là Walmart đã làm mất 400,000 việc làm của dân Mỹ trong thời gian đó.
Ngay việc Trung Quốc hiện nay đang trở thành một loại thực dân mới, gieo hiểm họa cho cả thế giới, lấy đi hàng triệu việc làm, vơ vét tài nguyên, bắt đi các dân tộc này, giết họ, triệt sản họ hay pha giống với người Hán, cũng đủ cho cả thế giới tẩy chay hàng hóa Trung Quốc, du lịch Trung Quốc. Những con buôn trong các siêu thị Á Châu tại Hoa kỷ sẵn sàng vì lợi nhuận với những món hàng rẻ, độc hại nhưng chúng ta quyết không đầu độc gia đình, con cháu chúng ta bằng thực phẩm Trung Quốc. Việc làm đó là tẩy chay!
Người Việt ở hải ngoại là những người mau quên. Sau Tháng Tư, 1975, không có gia đình nào không có người đi tù, không có người vượt biển, không có người khốn đốn vì chuyện đánh tư sản, đổi tiền, đuổi người đi vùng kinh tế mới, dãi dầu chốn chợ trời. Thế gian kêu gọi mọi người sẵn lòng tha thứ nhưng đừng quên, vậy mà người ta lại hay quên, đến nỗi trong tay có vũ khí mà chưa hề động thủ, thường than vãn mà không biết hành động, cuối cùng vì cái lợi của riêng mình, cái vui của gia đình mình mà quên hết cái đau của cộng đồng, cái khốn khổ của cả một dân tộc!
Nói như nhà thơ Nguyễn Chí Thiện: “Vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối!” và: “Lỗi lầm tại ai? Xét ra tất cả. Mấy ai người đem hết tâm can?”
Chưa bao giờ cái học trở nên vất vả cho nhiều học sinh như ở Việt Nam ngày nay. Phải đi bộ mất cả nửa ngày đường mới đến được trường để học “cái chữ,” các học sinh ở các vùng cao nguyên của Bình Định vẫn phải đến trường.
Ai cũng mủi lòng khi trời trở lạnh, mà thấy các em đến trường mong manh trong chiếc áo mỏng, chân đất không giày dép, đầy bùn đất, đỏ ửng. Trường thì bốn bề gió lộng, không có vách che chắn. Phần ăn trưa mang theo chỉ có nắm cơm với muối.
Đến trường, học sinh phải tự đu dây kéo bè, ghe tự vượt sông đến trường và về đến nhà khi trời đã tối mịt. Trong một trường hợp “bi thảm,” 19 em học sinh trong 57 em học sinh trường Lãng Khê, Nghệ An, phần lớn là gái, chết không tìm được xác, trong buổi sáng mùa mưa năm 2007, nước sông chảy xiết, thuyền nhỏ, chở nặng chết máy, bị sóng đánh chìm.
Cha mẹ như vậy, ai không khỏi xót xa chạnh lòng vì thương con, không cho con đến trường thì ngu dốt, mà cho con đi học, mạng treo sợi tóc, khốn khổ trăm bề, trong khi việc đồng áng không ai làm phụ, cơm ngày hai bữa không đủ ăn, tiền trường không đóng đủ, không áo quần cho con trẻ, lấy gì ăn để cho các con đi học.
Kỳ Anh là một trong những địa phương chịu thiệt hại nặng nề do thảm họa cá chết và đổ chất thải do công ty Formosa gây ra, cả nghìn học sinh tại địa phương này không đến trường trong năm học mới. Các phụ huynh cho biết nguyên do là họ không đủ tiền đóng học phí cho con. Mức học phí cho mỗi em là 1.7 triệu đồng, chính quyền cho giảm miễn 400,000 đồng, nhưng lấy đâu ra 1.3 triệu đồng để đóng cho con em, vì ngư dân không kiếm ra tiền, ngay hạt muối làm ra cũng không bán được.
Ở những nơi khác thì không thiếu những tệ nạn vô đạo đức của các giới chức trong ngành giáo dục, từ giáo viên đổi điểm lấy tính dục, hiệu trưởng khai gian, lạm thu nhiều khoản ngoài quy định của học sinh nghèo, cắt xén tiền ăn trưa của học sinh…
Trong tình trạng khó khăn của đời sống và hoàn cảnh xã hội như thế, nhiều phụ huynh học sinh nản chí, không muốn cho con đến trường để kiếm “cái chữ” như cách nói của người thiểu số vùng cao.
Vào thời buổi này, học chữ để làm gì?
Hơn 200,000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp đang được Bộ Lao Động xây dựng đề án xuất khẩu lao động kiếm việc làm ở nước ngoài.
Hàng chục nghìn thanh niên cần có tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật, tiếng Anh… để xuất ngoại kiếm việc làm, liệu có cần học tiếng Việt?
Quyền cao chức trọng trong xã hội này, chỉ cần lươn lẹo, luồn lọt, mềm lưng, phe đảng, hiến vợ, đâu cần đến kiến thức chuyên môn hay văn bằng thích hợp. Hoạn lợn như Đỗ Mười, bẻ ghi đường ray như Lê Duẫn gặp thời cũng là bậc Đế Vương, học luật trong rừng, đọc một tiếng Anh cơ bản “Made” chưa xong, cũng làm được Tể Tướng.
Thời nay có nên dạy con chữ trung tín, thật thà, để con chết đói không, hay nên dạy con mánh mung, luồn lọt!
Thời buổi sản sinh ra nhiều bí thư, chủ tịch, đại gia, thì đàn bà con gái, Trời cho có cái nọ, chẳng cần có thêm “cái chữ” làm gì!
Ở xứ “địa linh nhân kiệt” như đất Thanh Hóa, cô Trần Quỳnh Anh xuất thân chỉ là nhân viên tạp vụ (lao công tạp dịch) của liên đoàn lao động tỉnh, học vấn cỡ lớp Ba trường làng, nhờ nghệ thuật “lên giường” cũng được bí thư tỉnh ủy bổ nhiệm làm trưởng phòng nhà và bất động sản Sở Xây Dựng Thanh Hóa, một chức vụ dành cho những ứng viên có bằng đại học, tài sản không dưới triệu đô la. Nhờ thân xác Quỳnh Anh lại được ưu ái học thạc sĩ “tại chức,” được cử đi học lớp cao cấp lý luận chính trị để “làm hạt giống đỏ,” “cán bộ nguồn” và sắp sẵn vào vị trí phó rồi giám đốc Sở Xây Dựng Thanh Hóa nay mai, mà chẳng thấy đảng nói gì.
Ngay một tờ báo mang tên là Giáo Dục Việt Nam cũng công nhận: “Dù là do gì đi nữa thì phải thấy rằng, từ khi vòng 1 của các kiều nữ Việt căng tròn và đẫy đà hơn thì tên tuổi của họ cũng lên như ‘diều gặp gió.’ Một nhân vật ‘lừng danh’ của Việt Nam là Ngọc Trinh, xuất thân từ thị trấn Tiểu Cầu, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nghèo, học hành dở dang, nhưng nhờ cao 1m72, nhờ vòng số 1, số 3 phổng phao, eo thon, da trắng cũng trở thành “Nữ Hoàng Nội Y,” “Hoa Hậu Trang Sức,” “Người Đẹp Ăn Ảnh,” “ Siêu Mẫu Việt Nam.” Dù thiên hạ có ganh ghét gọi cô là” “chân dài não ngắn” hay “hoa hậu ao làng” gì gì đi nữa, giờ đây Ngọc Trinh cũng là chủ nhân khối tài sản hàng trăm tỷ đồng, nghĩa là có trong tay hằng triệu đô la, có đủ mọi thứ mà mỗi cô thiếu nữ Việt Nam lớn lên đều mơ ước.
Có nhan sắc như hoa hậu Lưu Thị Diễm Hương, thì dù trong thời gian ở Đại Học Hoa Sen, học hành quá tệ, bị 7 môn thi với điểm 0 và nhiều điểm 3, bị báo chí “lắm chuyện, ganh tỵ” phanh phui ra, thì cũng có sao đâu? Hoa hậu Thùy Dung chưa tốt nghiệp phổ thông, làm học bạ giả, cũng có sao đâu? Cái dốt không làm cho vòng eo con gái lớn ra, cũng không làm cho vòng ngực nhỏ lại kia mà.
Học chữ để làm gì, rốt cuộc sinh viên cũng… lên giường!
Các cụ ta ngày xưa vẫn khuyến học con cái bằng lời khuyên: “Ấu bất học, lão hà vi?” (nhỏ không học, lớn lên làm gì!). Ngày nay, dưới chế độ này, “Trí thức không bằng cục phân, chẳng bằng năm năm thẻ đảng!”
Xin các cụ đừng lo, ca dao thời đại lại có câu: “Học cho lắm tắm cũng ở truồng, học bình thường cũng cởi truồng rồi mới tắm!” Thời nay nghề ở truồng lại làm ra nhiều tiền hơn nghề mặc quần áo!
Đức Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vinh Khải Kỳ ngao du ngoài đồng, mặc áo cừu, thắt lưng dây, tay gẫy đàn cầm vừa đi vừa hát. Đức Khổng Tử hỏi:
“Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ như thế?”
Ông Vinh Khải Kỳ nói:
“Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất mà ta được làm người. Trong loài người đàn ông quí hơn đàn bà mà ta được làm đàn ông. Người ta sinh ra có đui què, non yểu mà ta hoàn toàn khỏe mạnh, nay đã chín mươi tuổi. Đó là ba điều đáng vui, có gì mà phải lo buồn”.
Đó là chuyện xưa bên Tàu. Chuyện nay bên Mỹ thì tôi vừa nhận được một thiệp Giáng Sinh, xin lược ghi lại vài câu hay hay để trình các bạn:
Nếu bạn có thức ăn trong tủ lạnh, quần áo mặc trên người, một mái nhà để nương náu và một nơi để nghỉ ngơi, bạn đã giàu có hơn 75% dân số trên quả đất này.
Nếu bạn có tiền gởi trong ngân hàng, để trong ví và tiền lẻ rải rác đâu đó trong nhà, bạn đã ở trong 8% những người giàu có trên địa cầu này.
Nếu sáng nay thức dậy, bạn thấy khỏe mạnh hơn là đau ốm, bạn đã có phước hơn cả một triệu người sẽ không sống qua tuần lễ này.
Nếu bạn chưa bao giờ trải qua cơn dằn vật của đói khát, nguy hiểm của chiến tranh, lẻ loi vì tù đày hay đau đớn vì bởi tra tấn, bạn là người có phước hơn 500 triệu người trên hành tinh này.
Nếu bạn có thể đi đến nơi thờ phượng theo tôn giáo của bạn mà không sợ bị sách nhiễu, bắt bớ, nhục hình hay thậm chí bị mất mạng thì bạn đã có phước hơn 3 tỉ người trên thế giới này.
Nếu song thân của bạn còn sống và còn ở với nhau, trường hợp này rất hiếm hoi ngay tại nước Mỹ này.
Nếu bạn có thể đọc những dòng chữ này, bạn hạnh phúc hơn hai tỉ người khác mù chữ trên quả đất này.
Và trong kinh Phật, chúng ta cũng đọc được những câu như sau:
Hạnh phúc thay, ta sống không hận thù giữa đám người thù hận.
Hạnh phúc thay, ta sống mạnh khỏe giữa những người đau yếu.
Hạnh phúc thay, ta sống không khao khát (dục lạc) giữa những người khao khát.
Con người ta thường lạc quan hơn là bi quan: hy vọng trúng số độc đắc hơn là nghĩ mình sẽ chết chiều nay (số người chết vì tai nạn, bệnh tật trong ba ngày chờ xổ số ở Cali là hằng nghìn trong khi người trúng số độc đắc chỉ là một, hoặc đôi khi không có người nào).
Tuy vậy khi nhìn lại mình, hầu hết đều cho mình là khổ nhiều hơn là hạnh phúc. Chúng ta thường than cuộc đời buồn chán phải uống rượu, hút thuốc hay đánh bạc để giải sầu. Nào chuyện làm ăn khó khăn, nhà cửa bề bộn, chủ sở càu nhàu, gia đình xào xáo, mới bị ticket, con hư, bạn bè không tốt, trời hôm nay lạnh quá, kẹt xe trên xa lộ, bill ngập đầu…
Trời ơi, sao bao nhiêu chuyện khổ sở thế này? Tôi là người khổ nhất trên thế giới này… Bạn coi, có ai khổ hơn tôi không?
Thật tình, các bạn, những người hôm nay giở trang báo này ra, tình cờ ghé thăm mục Tạp Ghi của chúng tôi, dù bạn đang ngồi trong xe, đứng ngoài đường, nơi chỗ làm việc, hay nằm nhà thì bạn là những người hạnh phúc nhất. Hạnh phúc vì những điều chúng tôi mạn phép ghi lại ở trên:
Mạnh khoẻ, mắt còn rõ và đọc được sách báo, có cơm ăn, có xe đi.
Không thì cũng có tiền lên xe bus, có một mái nhà hay có thêm một hai người thân để tối nay có thể về nghỉ ngơi.
Sum họp, trong ví chắc chắn là có tiền.
Không nhiều thì ít, ăn được bát phở còn thấy ngon miệng, không bị ai hăm dọa, mắng nhiếc, đánh đập…
Ôi, quá sung sướng, hạnh phúc được làm người như bạn.
Hiện nay chúng ta không làm ruộng mà có đủ cơm ăn, hơn hẳn những nông dân chân lấm tay bùn ở Việt Nam. Chúng ta không phải là phu mỏ mà có than đốt mùa đông, hơn cả triệu phu mỏ nghèo đói bất hạnh ở Trung Quốc. Chúng ta không dệt vải mà có áo quần mặc ấm, hơn cả trăm nghìn công nhân ngành dệt khốn khổ ở Bắc Hàn.
Vậy mà cứ tới mùa Giáng Sinh vẫn có người đi theo Chúa khóc lóc, lải nhải:
“Chúa ơi ! Chúa ơi ! Người ta lại bỏ con rồi, Chúa ơi !”
Chúa bỗng quay lại nói với người ấy rằng:
“Con nhìn thế giới này chiến tranh, dịch bệnh, đói nghèo, tai ương, chết chóc, thù hận… Con có biết con là người hạnh phúc nhất không.
Hiện nay trên trái đất này có 800 triệu người bị vợ hay bạn gái đánh đập, mắng nhiếc hay khinh bạc mà không thể dứt ra, riêng con lại được nàng bỏ đi thì còn than vãn nỗi gì?
Nỗi khổ của con có đáng thá gì mà phải kể. Thôi về đi, chớ có theo ta mà rên rỉ mãi!
Hy vọng đến đây, bạn có thể nở một nụ cười. Thêm một điều chứng minh rằng bạn đang hạnh phúc. Rồi ra bạn sẽ thấy được niềm hạnh phúc của mình, và xin nhắc nhở với mọi người là chúng ta đang sống trong hạnh phúc mà chúng ta không hề hay biết. Cũng xin bạn san sẻ hạnh phúc ấy với những người chung quanh bạn.