Một thanh niên học tập xuất sắc đến xin ứng tuyển vào một chức vụ quản lý ở một công ty lớn.
Anh ta qua được vòng phỏng vấn thứ nhất; vào vòng 2 giám đốc công ty sẽ phỏng vấn anh ta và là người quyết định. Qua lý lịch của người thanh niên, vị giám đốc biết được thành tích học tập ưu tú của anh ta, từ bậc trung học đến sau đại học, chưa từng có một năm nào kết quả không đạt xuất sắc.
Người giám đốc hỏi:
– Khi đi học ở trường, cậu có được học bổng nào không?
Cậu thanh niên trả lời không
Ông ta hỏi tiếp: “Vậy là cha của cậu trả học phí cho cậu phải không?”
Cậu ta đáp: “Cha tôi mất năm tôi mới lên một; chính mẹ tôi là người trang trải tiền học cho tôi.”
– Mẹ cậu làm việc ở đâu?
– Mẹ tôi làm nghề giặt quần áo.
Ông ta bảo cậu cho ông xem tay của cậu. Chàng thanh niên đưa ra 2 bàn tay trắng trẻo mịn màng.
Người giám đốc lại hỏi : “ Cậu có bao giờ giúp mẹ giặt quần áo không?
Cậu ta trả lời : “ Không thưa ông, Mẹ tôi chỉ muốn tôi đọc nhiều sách và lo học. Với lại mẹ tôi có thể giặt đồ nhanh hơn tôi.
– Tôi có 1 yêu cầu. Hôm nay cậu đi về gặp mẹ và rửa tay cho bà , sáng mai quay lại đây gặp tôi.
Người thanh niên thấy có nhiều khả năng được tuyển dụng nên về đến nhà cậu vui vẻ bảo mẹ để cậu rửa tay cho bà. Bà mẹ tuy thấy đề nghị của con rất lạ kỳ nhưng bà cảm động và hạnh phúc để cho con trai rửa tay cho mình.
Trong khi cậu chậm rãi rửa 2 bàn tay của mẹ, nước mắt cậu tuôn ra. Đó là lần đầu tiên trong đời cậu nhận thấy đôi bàn tay của mẹ đầy những vết nhăn, vết sẹo thâm đen. Một số chỗ bầm tím mới khiến bà đau và rùng mình khi cậu rửa tay của bà trong nước.
Đó cũng chính là lần đầu trong đời cậu nhận ra chính dôi tay của mẹ đã giặt bao nhiêu là đống quần áo để có tiền đóng học phí cho mình. Những vết sẹo, chỗ bầm trên hai bàn tay mẹ, những nỗi nhọc nhằn, vất vả là cái giá mẹ phải trả cho cậu được học hành xuất sắc, tốt nghiệp ra trường và cả tương lai của cậu.
Sau khi rửa tay cho mẹ, cậu lặng lẽ giặt hết đống quần áo còn lại. Đêm đó hai mẹ con nói chuyện rất lâu. Sáng hôm sau, cậu thanh niên trở lại văn phòng của vị giám đốc.
Người giám đốc thấy đôi mắt rướm lệ của cậu đã hỏi :
– Cậu nói xem ngày hôm qua ở nhà cậu đã làm gì và học được điều gì?
Cậu trả lời :
– Tôi đã rửa tay cho mẹ và đã giặt nốt số quần áo còn lại
– Hãy cho tôi biết cảm tưởng của cậu.
– Một là, bây giờ tôi đã hiểu thế nào là biết ơn. Nếu không có mẹ, tôi dã không được học hành như hôm nay. Hai là, nhờ cùng làm việc giúp mẹ, đến bây giờ tôi mới biết làm được một việc gì đều gian khó, vất vả. Ba là tôi đã nhận biết giá trịvà tầm quan trọng của quan hệ trong gia đình, với người thân.
Người giám đốc nói: Đó là những điều mà tôi muốn người quản lý của tôi phải có. Tôi muốn tuyển dụng một người biết ơn người khác giúp đỡ, một người thấu hiểu những chịu đựng hy sinh của người khác để hoàn thành công việc, và một người sẽkhông xem tiền là mục tiêu duy nhất trong đời. Cậu đã trúng tuyển vào chức vụ này.
Sau này, chàng thanh niên làm việc rất miệt mài và được cấp dưới kính trọng. Nhân viên của cậu cũng làm việc cần mẫn và là một nhóm đoàn kết tốt. Công việc kinh doanh của công ty tiến triển rất tốt.
Một đứa trẻ quen được che chở và nhận được mọi thứ nó muốn, sẽ phát triển tính cách “muốn là được”, sẽ thành đứa trẻ ích kỷ xem mình là số 1, và không đếm xỉa gì đến nỗ lực của cha mẹ.
Khi lớn lên đi làm việc, người này sẽ cho rằng ai cũng phải nghe theo lời mình. Khi thành quản lý, anh ta sẽ chẳng bao giờbiết được những cố gắng, vất vả của nhân viên và sẽ luôn đổ lỗi cho người khác. Với loại người này, họ có thể học giỏi, có thể một thời thành đạt, nhưng cuối cùng vẫn không thấy hài lòng, thỏa mãn. Họ sẽ càu nhàu, trong lòng luôn bực bội, tức tối và lao vào chiến đấu tranh giành để có nhiều hơn. Nếu chúng ta là những bố mẹ luôn bao bọc con mình, liệu chúng ta có đang thực sự thể hiện yêu thương con đúng cách, hay là ta đang làm hại con cái?
Bạn có thể cho con cái sống trong một ngôi nhà to, ăn ngon, học đàn piano, xem TV màn hình rộng. Nhưng khi bạn cắt cỏ, hãy để cho chúng cùng làm và trải nghiệm.. Sau bữa ăn, cứ để chúng rửa bát với nhau. Làm như vậy không phải vì bạn không có tiền thuê người giúp việc, mà là vì bạn yêu thương con cái một cách đúng đắn. Bạn muốn chúng hiểu rằng dù cha mẹ có giàu đến đâu, một ngày kia cha mẹ cũng yếu già như mẹ của cậu thanh niên trong câu chuyện kể trên.
Điều quan trọng nhất là con cái của bạn học biết ơn , biết trân trọng những nỗ lực và có thể trải nghiệm những khó khăn và học được kỹ năng hợp tác với người khác để hoàn thành công việc.Con cái cũng phải biết trân quý, biết ơn những gì cha mẹ đã làm và yêu cha mẹ.
Có lẽ bạn sẽ chuyển tiếp thư này đến nhiều người. Biết đâu câu chuyện này có thể thay đổi số phận của ai đó.
Phương Trạch (Danlambao) – Mấy hôm nay, các báo lề đảng đồng loạt đưa tin: “Phó phòng gặp sự cố ở siêu thị Nhật”. Theo đó: “Thông tin từ Cục An toàn bức xạ nhiệt (Bộ KHCN), một cán bộ của Cục này “gặp sự cố” khi mua hàng trong một siêu thị của Nhật Bản. Cán bộ này sau khi gặp sự cố đã được cảnh sát địa phương của Nhật mời lên làm việc.”
“Sau khi cán bộ này báo cáo, giải trình, cảnh sát địa phương Nhật Bản đã cho cán bộ này về và đang tiếp tục công tác”.
“PGS-TS Nguyễn Tuấn Khải (Cục trưởng Cục An toàn và bức xạ hạt nhân, Bộ KHCN) hôm qua thông tin với báo chí, Cục này đang phối hợp với phía cảnh sát địa phương Nhật Bản để làm rõ thông tin liên quan đối với cán bộ của mình”.
“Ông T.Q.H, hiện là phó phòng một đơn vị của Cục bị giữ lại tại Nhật Bản vì nghi vấn liên quan đến trộm cắp ở một siêu thị của nước này.
Được biết, khi “gặp sự cố”, ông T.Q.H sang Nhật để tham dự một hội thảo”(1).
Điều thú vị là các báo gần như sao chép một nội dung, tuy tựa đề có thay đổi đôi chút cho có chút nét riêng của minh. Nhưng nội dung thì là một. Tất cả đều dùng từ “sự cố” để lấp liếm, che đậy cho hành vi xấu xa của vị Phó phòng này, mà không dám nói thẳng ra là… ăn cắp.
Có thể nói rằng, ở Việt Nam hiện có 845 tờ báo các loại (tính đến đầu năm 2014). Nhưng chỉ có một Tổng Biên tập, đó là Ban Tuyên giáo TƯ, quả không sai.
Điều này làm người ta nhớ lại vụ nhân bản xét nghiệm máu ở BV Đa khoa Hoài Đức năm 2013 vậy. Chỉ với một kết quả xét nghiệm, người ta sáng tạo ra rất nhiều kết quả khác, nhằm “ăn cắp” tiền ngân sách.
Có lẽ từ nay, các nhà làm Từ điển Việt Nam phải thêm một định nghĩa nữa, để bổ sung cho định nghĩa về “sự cố” trước đây.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Sự cố”(danh từ): Điều bất thường và không hay xả ra trong suốt một quá trình hoạt động nào đó: Máy móc gặp sự cố, có sự cố trên đường đi v.v…”(2).
Có thể gọi đây là Định nghĩa A
Nay cần bổ sung Định nghĩa B: “Sự cố là cán bộ nhà nước, đi nước ngoài, ăn cắp và bị bắt”.
Nói về truyền thống ăn cắp của một số cán bộ nhà nước khi đi nước ngoài, không ai giàu “thành tích” bằng cô Biên tập viên của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) Kiều Trinh. Cô này được dư luận phong hàm ăn cắp đạt đẳng cấp quốc tế. Nhờ tài ăn cắp hai lần ở nước ngoài, mà cô này sau đó đã được ưu ái lên chức Trưởng phòng Văn hóa dân tộc, Ban Thời sự của VTV.
Không biết ở những siêu thị trong nước, “bàn tay sáu ngón” của cô này đã “thi thố” được bao nhiêu lần nữa?
Dân mạng không còn lạ gì Kiều Trinh, là con gái nguyên Uỷ viên trung ương Đảng, Tổng giám đốc đài truyền hình Việt Nam Vũ Văn Hiến.
Năm 2001, Kiều Trinh được cử sang Thụy Điển 3 tuần. Ngay tuần đầu, ngày 11-2-2001, cô đã bị cảnh sát thành phố Kalmar bắt vì tội ăn cắp hàng trong siêu thị. Lúc đầu cô nàng chối bai bải, nhưng khi mở băng ghi hình thì phải cúi đầu nhận tội. Cô nàng đã ăn cắp số mỹ phẩm trị giá 400 đô la. Số tiền đó không lớn, nhưng ở Thụy Điển người ta trị ăn cắp, tham nhũng rất nghiêm, nên theo luật Kiều Trinh phải ngồi tù.
Vì Kiều Trinh là con của Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), nên Đại sứ quán Việt Nam ở Thụy Điển phải ra tay. Và sau một tuần bị giam, ngày 16-2-2001, cô nàng được tha, sau khi có giấy của bác sỹ xác nhận nhận Kiều Trinh bị “bệnh tâm thần” từ Việt Nam gửi sang.
Ngày 18-2-2001, Kiều Trinh bị trục xuất về nước. Đón cô ở sân bay, diễn viên điện ảnh Trần Lực đã tặng một cái tát, chấm dứt quan hệ vợ chồng từ đó.
Năm 2006, Kiều Trinh được sang nước Anh công tác. “Bệnh tâm thần” lại tái phát và cô nàng đã thó chiếc máy ảnh kỹ thuật số trong shop. Một lần nữa ông Hiến lại phải cứu con gái bằng việc nhờ Đại sứ quán can thiệp và tờ giấy của bác sỹ chứng nhận bệnh tâm thần lại đưa ra sử dụng!
Năm 2009, Kiều Trinh được kết nạp đảng và được đề bạt làm Trưởng phòng Văn hóa dân tộc, Ban thời sự. Chả trách gì mà một số báo lề đảng ca ngợi cô này là BTB đa tài.
Thật là mỉa mai khi nữ BTV “tài ba” này vẫn đang trực tiếp lên sóng rất nhiều chương trình mang tính nhân văn, triết lý cao cả, để rao giảng về đạo đức cho mọi người(3).
Trở lại vụ ông Phó phòng của Cục An toàn bức xạ nhiệt (Bộ KHCN) đang gặp “sự cố”. Ông này bị cảnh sát Nhật “hỏi thăm” vì bị nghi ăn cắp khi mua hàng trong một siêu thị của Nhật. Được biết, vị cán bộ này cùng đoàn Việt Nam sang Nhật để hội thảo. Hiện cảnh sát Nhật đã thả nhân vật này, nhưng phía Việt Nam nói sẽ “làm rõ” vụ việc với cảnh sát địa phương.
Mặc dù báo chí trong nước chỉ ghi tên tắt nhân vật này là T.Q.H, nhưng vào website của Cục An toàn Bức xạ nhiệt, thuộc Bộ KHCN, thì có tên Thạc sĩ Trần Quốc Hùng, giống như mô tả của báo chí. Đây là chân dung và quá trình công tác của ông Trần Quốc Hùng, Phó trưởng phòng Pháp chế và chính sách của Cục An toàn Bức xạ nhiệt như sau:
Thạc sỹ Trần Quốc Hùng, Phó trưởng phòng Pháp chế và Chính sách. Sinh ngày 18/11/1975. Số điện thoại: 04.32321042 (4).
Xin mời mọi người “chiêm ngưỡng” những hình ảnh vị Phó phòng này đang “trổ tài” tại siêu thị Nhật, đã được trang mạng “Trần Đại Quang.org” ghi lại theo đường dẫn sau đây: (5).
Với việc nở rộ các lò ấp Tiến sỹ như hiện nay tại VN, cứ mỗi ngày sòn sòn cho ra lò vài vị TS, thì có thể sau chuyến công du này về, có thêm tiền để lo lót, chi phí, thì cái bằng TS coi như ông Phó phòng này cầm chắc trong tay. Vậy thì việc cố tình “cầm nhầm” này của ông Trần Quốc Hùng có thể nói là “vì đại nghĩa”. Vì ông này thấy rằng, cái bằng TS của cựu Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh xài bấy lâu nay, bỗng dưng nay bị khui ra là “không đúng quy định”. Vậy muốn bằng cấp “đúng quy đinh” thì phải thêm tiền. Trong xã hội này, cái gì cũng có giá của nó cả.
Xin giới thiệu “chân dung” của ngài phó phòng gặp “sự cố”. “Thân thế và sự nghiệp” của vị này cũng đã được trang “Trần Đại Quang. Org” giới thiệu theo đường dẫn trên (5)…
Có thể nói rằng, ăn cắp đã trở thành truyền thống của hàng ngũ cán bộ hiện nay của nhà nước CSVN. Tất cả mọi ngành từ thấp đến cao đều cố gắng ăn cắp theo từng mức độ và cách thức khác nhau. Những người có chức quyền và địa vị càng cao thì ăn cắp càng lớn. Số tiền chui vào túi họ không phải là dăm ba trăm triệu, mà hàng chục hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỷ. Như Trịnh Xuân Thanh hay Đinh La Thăng, Trần Văn Truyền v.v…
Việc ăn cắp cũng rất bài bản và rất “đúng quy trình”. Như Tập đoàn BOT, hàng ngày ăn cắp một cách hợp pháp biết bao mồ hôi xương máu của nhân dân. Những mặt hàng nhà nước nắm độc quyền như điện, xăng dầu…thì họ cần tiền là cứ việc tăng giá vô tội vạ. Người dân biết đó là hình thức ăn cắp trắng trợn mà không làm gì được. Vì xe muốn chạy thì phải đổ xăng. Muốn nấu cơn, bơm nước thì phải dùng đến điện.
Việc nhà nước liên tục tăng các loại thuế, phí là kiểu móc túi theo chủ trương “vặt long vịt mà không cho vịt kêu”, là một “nghệ thuật” ăn cắp rất đẳng cấp thời nhà sản.
Những Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Thị Kim Tiến, Võ Kim Cự v.v… là những kẻ ăn cắp bậc thầy. Tại sao không thấy nhóm đốt lò của phe ông Trọng làm đến nơi đến chốn? Hay là vì vướng số tiền 3.200 tỷ thâm lạm ngân sách của Hà Nội thời ông Trọng còn làm Bí thư, mà đến nay không giải trình được, coi như “để lâu cứt trâu hóa bùn”?
Có người nói rằng, từ “Ăn cắp” là những kẻ nó lấy của người ta nhưng không dám chường mặt ra, chờ người ta sơ hở, mất cảnh giác… Nạn nhân bị mất nhưng không biết hoặc là không bắt được thủ phạm. Còn đây không phải như vậy. Nói ăn cắp là oan cho họ.”
Vậy xin thưa: Có thể dùng từ “móc túi” để nói về những người này được không? Loại không dám “chường mặt ra” chỉ là loại ăn cắp vặt. Còn loại người đường đường chính chính, dùng các “chủ trương, chính sách” để “móc túi” một cách hợp pháp và “đúng quy trình” là loại ăn cắp cao cấp. Loại này còn nguy hiểm gấp ngàn lần loại ăn cắp vặt kia. Chống đối họ có khi còn bị quy chụp tội nọ tội kia, và nhiều khi phải trả giá. Đúng. Nói ăn cắp là oan cho họ. Phải gọi là ăn cướp mới đúng bản chất của sự việc. Vì họ đâu có cần rình mò, ẩn nấp. Mà họ là những người ‘mũ cao áo rộng”, hành động giữa “thanh thiên bạch nhật”, mà không ai dám động đến họ.
Tục ngữ VN có câu:
“Chân mình lấm cứt tèm lem
Lại cầm bó đuốc soi xem chân người”…
Quả là rất đúng với ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiện nay.
Và ai dám chắc những tập đoàn lớn đã và đang ăn cắp hàng ngàn tỷ kia qua hàng chục công trình đang “đắp chiếu” trên khắp đất nước hiện nay, không có “dấu vân tay” của ngài Tổng Bí thư?
Phát Lê, 47 tuổi, người đâm mẹ vợ và chém vợ đến chết vì những uất hận bị dồn nén (Hình: ABC13)
Sổ tay phóng viên
HOUSTON, Taxas (NV) – Cách đây 6 năm, sự kiện một người đàn ông gốc Việt ở Dallas tiểu bang Texas, ngay trong tiệc sinh nhật của con trai mình, dùng súng bắn chết vợ cùng 4 người em vợ, sau đó quay súng tự sát, được xem là vụ án chấn động không chỉ trong cộng đồng người Việt tại đây mà cả người dân Mỹ.
Cách đây hơn 3 tuần, một thảm kịch gia đình khác ở Houston, cũng tiểu bang Texas, lại xảy ra khi người chồng đâm mẹ vợ, chém vợ đến chết, lại một lần nữa làm dấy lên những câu hỏi, những hoang mang: điều gì đưa người ta đến những hành động kinh khủng như thế khi xung đột dẫn đến án mạng không chỉ xảy ra với người phối ngẫu, mà ghê gớm hơn, là sự kéo theo của những người thân khác trong gia đình, từ cha mẹ đến anh chị em ruột?
Câu chuyện dưới đây từ góc nhìn của ông Tài Lê (49 tuổi), anh trai của Phát Lê (47 tuổi), hung thủ giết vợ, cô Thanh Nguyễn và mẹ vợ, bà Đẹp Nguyễn, vừa rồi ở Houston. Cái nhìn của ông Tài Lê dẫu có phiến diện, một chiều, nhưng phần nào cũng là một bài học đáng giá để tất cả mọi người suy ngẫm.
***
Có thể bắt đầu câu chuyện ngay trong ngày xảy ra án mạng, Thứ Tư, ngày 13 Tháng Chín, 2017, tại khu chung cư trên dãy phố 6100 đường West Mount Houston Road, khu vực phía Bắc thành phố.
“Hôm đó tôi nghỉ làm để sửa lại mái nhà bị hư sau trận bão Harvey, rồi qua nhà người bạn chơi. Khoảng 6-7 giờ chiều Phát chở hai đứa con gái 11 tuổi và 9 tuổi xuống kiếm tôi không thấy nên gửi hai đứa nhỏ lại cho con gái tôi, rồi đi đâu không biết. Đến hơn 8 giờ, không thấy Phát đón hai đứa nhỏ về, tôi gọi điện cho Phát nhiều lần không thấy trả lời. Gọi cho vợ Phát cũng không thấy trả lời. Nghĩ không biết vợ chồng Phát có cãi lộn gì không nên tôi cùng vợ tôi và người dì chạy lên nhà Phát,” ông Tài Lê nhớ lại.
Theo lời ông Tài, người mà Phát thường tâm sự nhiều nhất, thì nhà em trai ông cách nơi ông ở khoảng 20 phút lái xe.
Khi đến nơi, gõ cửa không ai mở, ông Tài cầm nắm tay cửa vặn thử thì thấy cửa không khóa.
Cô Thanh Nguyễn (trái) và bà Đẹp Nguyễn, vợ cũ và má vợ của Phát Lê (Hình: Facebook Andy Nguyen)
Trong khi vợ và người dì đứng bên ngoài, ông Tài bước vào căn nhà tối thui, và “vừa đi vừa tìm công tắc đèn mở lên vừa kêu ‘dì Sáu ơi,’ “Trúc ơi” (tên của mẹ vợ và vợ Phát) nhưng không nghe tiếng ai trả lời.
“Đi đến phòng cuối cùng là phòng dì Sáu cũng không thấy ai, tôi vừa quay đầu định đi ra thì thấy có cái mền cuốn lại ở kế bên giường của dì Sáu. Tưởng cái mền dì Sáu bị rớt nên tôi bước vô phòng định lượm để lên giường,” ông Tài kể. “Nhưng khi tôi vừa nắm vô cái mền thì đụng phải cái gì cứng cứng. Tôi rờ rờ thấy giống cái đầu người, tôi nghĩ ngay trong đầu ‘dì Sáu bị ai giết,’ thế là tôi vụt chạy ra ngoài la lên rồi gọi cảnh sát tới.”
Ngay lúc ông Tài chạy ra gọi cảnh sát, thì cũng là lúc có hai người làm cùng tiệm nail với vợ Phát cũng xuất hiện. Hai người này cho ông Tài biết rằng trưa hôm đó, trong khi Trúc đang làm ở tiệm thì có ai đó gọi điện thoại, rồi Trúc nói phải chạy về nhà, đến chiều tối cũng không thấy quay trở lại tiệm nên họ đến xem thử có chuyện gì không.
Tại thời điểm ấy, không ai liên lạc được với Trúc và Phát.
Sau khi cảnh sát vào lục soát, kiểm tra và lấy lời khai của Tài, họ cho ông biết thêm rằng, ngoài xác mà ông Tài phát giác trong phòng má vợ của Phát, còn có một xác phụ nữ khác ở đằng sau chiếc sofa nơi phòng khách.
Vì là người đầu tiên có mặt tại hiện trường, ông Tài bị đưa về sở cảnh sát để điều tra.
“Đến 4 giờ sáng tôi mới được họ thả cho về, sau khi bắt thử máu, lấy dấu vân tay, và lời khai. Vợ tôi đi đón tôi và cho biết Phát đã gọi cho dì tôi nói rằng Phát chính là người giết Trúc và dì Sáu,” ông Tài tiếp tục câu chuyện. “Phát nói với dì tôi là nó rất buồn ngủ. Hãy để cho nó được ngủ một giấc rồi khi thức dậy sẽ đi đầu thú.”
Khi về đến nhà, ông Tài nhìn thấy xe Phát đậu trong parking khu nhà ông ở. Bên trong xe, Phát đang ngủ say sưa, “em tôi vẫn thường hay ngủ trong xe như vậy kể từ khi má vợ nó sang.”
“Tôi để em tôi ngủ thêm một chút, tôi biết nó thiếu ngủ trong suốt thời gian dài. Đến hơn 6 giờ sáng, tôi gọi điện thoại kêu cảnh sát đến,” ông Tài nói.
Quay ngược quá khứ
Tài và Phát là những người con lai Philippines. “Ngay trước 30 Tháng Tư, 75, má tôi dẫn hai chị tôi đi nước ngoài chơi, rồi bị kẹt lại bên đó. Chính vì vậy, khi biến cố 30 Tháng Tư xảy ra, anh em tôi bỗng trở thành những đứa không cha không mẹ. Tụi tôi ở với người dì ở khu Ngã ba Ông Tạ, không được học hành, sống như những đứa trẻ bụi đời, đi ‘móc bịch’ lượm ve chai kiếm sống,” anh trai của hung thủ kể.
‘Đến giờ anh em tôi đều mù chữ, nhất là Phát, nó hoàn toàn không biết chữ, tiếng Việt cũng như tiếng Anh.”
Bà Đẹp Nguyễn, còn gọi là dì Sáu Kiểu, má vợ của Phát, cũng là người cùng xóm, là người thu hàng phế liệu giàu nổi tiếng ở khu Ông Tạ thời đó.
Năm 1995, Phát, khi đó còn độc thân, được mẹ bảo lãnh sang Mỹ. Tài có vợ con thì sang Mỹ cuối năm 1996.
Sau vài tháng sống cùng người em gái ở California, Phát được người quen giới thiệu đi làm cho “hãng heo” ở Iowa.
Khi Tài qua Mỹ, kiếm được việc làm ở hãng bò ở North Texas thì rủ Phát qua làm chung cho có anh có em, có lúc Phát ở chung nhà với vợ chồng Tài.
Theo lời ông Tài, “Qua Mỹ làm được bao nhiêu tiền Phát cứ gửi hết về Việt Nam để lo cho bà dì, từ con đến cháu. Nó không biết lo cho bản thân nó, đến xe tôi cũng phải đưa xe tôi cho nó đi.”
“Khoảng năm 2003-2004 gì đó, Phát về Việt Nam chơi. Khi đó dì tôi nói dì Sáu còn đứa con gái út chưa có chồng, là Trúc (tên giấy tờ là Thanh Nguyễn). Dì muốn Phát làm quen cưới mang qua Mỹ để nó có cơ hội giúp đỡ gia đình, vì khi đó dì Sáu làm ăn thất bại, suy sụp lắm rồi,” ông Tài kể.
Sau đó đám cưới của Phát và Trúc (Thanh Nguyễn) diễn ra. Trúc có bầu trước khi Phát trở sang Mỹ, và dọn qua sống trong nhà người dì của Phát ở Sài Gòn.
Trở về Mỹ, Phát lo đi làm kiếm tiền để làm thủ tục bảo lãnh vợ con sang, nên không quay trở lại Việt Nam thêm lần nào nữa.
Năm 2007, theo lời ông Tài, vợ Phát sang Mỹ định cư, mang theo cô con gái nhỏ, và… “một cái bầu hai tháng rưỡi.”
“Mặc dù biết chắc đó không phải là con của mình, nhưng Phát vẫn chấp nhận, và thương đứa nhỏ đó rất nhiều,” ông Tài nói.
Ông Tài nhận xét, “vợ chồng Phát sống chung với nhau cũng hạnh phúc lắm, Phát đi làm hãng, Trúc làm nail, cho đến khi má vợ của Phát sang định cư năm 2015, và sống chung trong căn nhà mà Phát mướn ở từ cả chục năm qua cho đến ngày gây án.”
Lời hứa, tiếng chửi và tờ đơn ly dị
“Tôi nghĩ em tôi bị vướng vào một lời hứa khi ra đón vợ nó ở sân bay. Đại loại Phát có nói với vợ là ’em qua đây làm thì cứ lấy tiền đó lo cho gia đình em, còn mọi chuyện bên đây anh lo hết,’ và Phát giữ đúng lời nói đó, tiền nhà cửa, chợ búa, học hành con cái… tất cả Phát đều lo, còn vợ đi làm bao nhiêu cứ giữ và gửi về Việt Nam, Phát không có để ý tới,” ông Tài kể tiếp.
Đến khi má vợ Phát sang thì Phát bị thất nghiệp. Thế nhưng “vợ và má vợ Phát cứ vin vào câu nói hồi đó của em tôi mà hạnh họe nó hoài.”
Ông cho biết, “Từ khi má vợ Phát sang Mỹ vào năm 2015 đến nay, sống chung một nhà, là hai vợ chồng Phát bắt đầu lấn cấn hoài. Cách đây một năm rưỡi, Phát bị thất nghiệp, nhưng mỗi tháng Phát phải chạy đến tôi, xin anh, xin em, xin cháu, xin dì cho nó tiền để trả tiền nhà. Hỏi tại sao vợ không đóng thì Phát nói nó hứa lo từ hồi nào giờ rồi, giờ không lo được thì vợ chửi, má vợ chửi.”
“Tôi cho Phát tiền đóng tiền xe, tiền nhà cũng 5-6 tháng liền chứ không ít. Rồi em tôi kiếm có việc, làm được ít lâu rồi lại mất việc, cứ hoài như vậy,” người anh nói.
Cũng theo ông Tài, “hơn một năm nay Phát tiều tụy vì không ăn không uống được. Công việc thì kiếm được vài bữa lại thất nghiệp, nhảy qua hãng khác, cứ vậy hoài. Từ ngày má vợ sang, Phát không được ăn uống, ngủ nghê ngon giấc. Vì nhà có hai phòng, má vợ chiếm một phòng, vợ và con Phát ở một phòng. Phát ra sofa ngoài phòng khách ngủ. Mà má vợ tối ngày cứ ra phòng khách mở TV coi. Phát nói bả không được. Tôi và cả dì tôi sang nói nhiều lần cũng không ăn thua gì.”
Ông kể thêm, “Tôi đi làm ca từ 4 giờ chiều đến 4 giờ sáng. Phát làm ca từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng. Nhưng khi tôi đi làm thì đã thấy Phát đậu xe ở parking lot rồi, hỏi sao đi sớm vậy, thì Phát nói đến đó nằm ngủ chứ ở nhà không ngủ được vì má vợ cứ kiếm chuyện chửi hoài. Phát ở nhà tôi, ở nhà dì tôi nhiều hơn ở nhà nó. Có khi nó ngủ trong nhà dì, có khi nó ngủ ngoài xe.”
“Nó bị ức chế riết rồi đâm ra con người nó cũng bị gì đó,” ông Tài phán đoán.
Không chỉ vậy, theo ông Tài, có lẽ do biết nhau từ ngày Phát còn là “một thằng bụi đời, đi móc bịch, lượm ve chai,” lại thêm nhìn thấy con rể thất nghiệp nên má vợ Phát tỏ vẻ khinh miệt không cần che giấu.
“Nó xuống nhà kể tôi nghe là má vợ nó cứ chửi nó hoài. Bả nói ‘may là mày ở Mỹ về mới cưới được con tao, chứ mày mà ở Việt Nam thì không xách dép được cho con tao đâu,” người anh kể lại bằng giọng cay đắng.
Khoảng cuối năm 2016 vợ Phát làm đơn ly thân. Và không khí có thể trở nên nặng nề hơn khi một ngày Phát bủn rủn khi nghe được má vợ “xúi”: “Mày bỏ nó đi. Tao nghe người ta nói ở Mỹ này khi có con mà ly dị mà nó có đi làm thì mày lấy được tiền trợ cấp mỗi tháng hai đứa cũng được mấy trăm. Mày lấy mấy trăm đó gửi về Việt Nam lo nhà lo cửa.”
Vài tháng sau, vợ Phát cầm một tờ giấy về nói là “đơn ly dị” và kêu Phát ký. Phát không ký. Vợ Phát nói không ký thì cũng làm đơn ly dị đơn phương.
“Chuyện Phát ly thân hay ly dị thì tôi cũng chỉ nghe nói chứ không thấy giấy tờ gì, cả Phát cũng vậy, vì Phát không biết chữ, nên vợ nó cầm giấy gì về đưa cho nó, nó cũng không biết giấy gì,” ông Tài nói thêm.
Ông nhớ lại, “Hồi Tháng Hai này, vợ Phát đưa tờ giấy nói tòa bắt Phát phải trả tiền ‘child support,’ mỗi tháng $500, nhân 5 tháng kể từ khi ly dị. Những người biết chữ nói đó không phải giấy tòa. Con tôi thì nói ‘nếu chú Phát muốn trả tiền này thì về nói cô Trúc là chú sẽ đi thử DNA coi có đúng là con của chú không. Nếu không phải thì chú bắt cô trả lại tiền chú đã nuôi nó bao nhiêu năm qua. Phát về nói vậy thì vợ nó giật giấy lại cất luôn.”
Chị Hiền Lê, em gái ông Phát, là người ở nhà đối diện với nhà Phát từ nhiều năm qua, cũng góp lời, “Tôi ở đó tôi chứng kiến đủ hết, tôi thấy vợ và má vợ anh Phát chửi ảnh như chó mà sao ảnh không chịu bỏ đi. Tôi nói đã ly thân ly dị rồi mà sao không đi, cứ ở chung đó làm gì, thì ảnh nói căn nhà đó ảnh mướn và trả tiền nhà hồi nào giờ chứ có ai trả đâu. Tôi không muốn nói hoài vì nghĩ ai cũng lớn và biết lo cho chuyện của mình.”
Chuyện đến, đã đến
Theo lời ông Tài, xung đột trong gia đình em trai ông dường như chỉ xoay quanh chuyện tiền bạc, nào là tiền nhà, tiền học hành cho con, cả chuyện mang con đi khai thuế, lại thêm chuyện “châm dầu vào lửa” của người má vợ từ khi Phát thất nghiệp lẫn không có được việc làm thường xuyên.
“Tôi nghĩ Phát bị uất ức nhiều quá nên quẫn lên làm bậy thôi. Thử nghĩ ngày nào cũng đi kiếm việc làm, rồi bước chân vô nhà là bị nghe chửi hoài thì sao chịu nổi. Trước đó chưa bao giờ tôi nghe Phát nói gì về ý định giết ai hết. Nó chỉ nói nó giận vợ nó thế này thế này kia thôi chứ không bao giờ nghe nó hăm he gì hết.”
Theo lời ông Tài, sáng hôm xảy ra vụ án, Phát còn gọi điện thoại sang nhà người dì nhờ gọi lên DMV hỏi về chuyện đóng phạt một ticket cho xe của Phát.
“Sau đó, Phát nằm trong phòng của con để nghỉ ngơi thì má vợ Phát cứ cầm cái chày gõ vô cửa và chửi ‘Sao mày không chết đi?…’ Có lẽ do tích tụ quá nhiều uất ức bấy lâu, đến lúc không thể chịu nổi nữa, nó mở cửa đi ra bếp cầm con dao đến trước mặt má vợ. Bà má vợ còn thách ‘mày dám giết tao không?’ Nó nói sau đó nó không nhớ gì nữa, không nhớ đã đâm chết má vợ nó như thế nào.” Đó là những gì ông Tài nghe Phát kể khi vào tù thăm em trai.
Ông kể tiếp, “Phát nói khi đó má vợ có nhận giữ một đứa nhỏ trong nhà. Phát bồng đứa nhỏ ra, nhìn thấy có ông đưa thư nên đưa đứa nhỏ và địa chỉ nhà của nó, nhờ ông đưa thư đưa đứa bé về nhà dùm vì người giữ nó bị bệnh bất ngờ.”
Có lẽ chính vì thấy điều bất thường này mà ba má đứa bé gọi cho vợ Phát hay. Và vợ Phát đã chạy về nhà xem chuyện gì xảy ra.
Phát vẫn còn ở trong nhà khi vợ Phát trở về và hỏi “Má tôi đâu?” và lao vào chửi rủa, phang ném vào Phát những thứ mà vợ Phát vớ được khi nghe Phát nói “Tôi giết má cô rồi.”
“Phát nói không muốn đâm, không muốn giết vợ nó. Giờ hỏi thì nó nói không nhớ gì hết, kêu kể lại cách nó làm nó nói không nhớ,” ông Tài tiếp tục câu chuyện.
Thư của Linh Lê, 11 tuổi, con gái Phát Lê (Hình: Tài Lê cung cấp)
Sau đó, Phát đứng chờ hai con đi học về, chở xuống gửi nơi nhà con gái của ông Tài, như đã kể ở trên.
“Tôi vào thăm em tôi gần như mỗi ngày, chở hai đứa nhỏ vào nữa. Không nghe Phát nói ân hận hay nuối tiếc gì, Phát chỉ nhờ tôi nuôi hai đứa nhỏ ăn học, dặn tôi thói quen ăn uống của con nó, như đi học về chở ghé cây xăng mua gói chip và chai nước, sáng thì chiên trứng đánh nhuyễn lên ăn bánh mì, dặn là con nó thích ăn nui nấu với xương heo…” người anh cho biết.
Sau gần hai tiếng chuyện trò, ông Tài nói thêm, “Nếu ngày xưa ở Sài Gòn sống như những đứa bụi đời, tôi còn bị bắt ở tù vì làm điều này điều khác, chứ em tôi chưa bao giờ bị tiền án gì. Tôi chỉ biết khuyên em tôi cứ yên tâm sống tốt những ngày còn lại, con cái nó tôi lo. Con của Phát có viết lá thư, mọi người đọc sẽ hiểu hơn về Phát.”
Tháng Chín vào Thu tiết trời se sắt. Cũng là lúc người ta cần hơn hơi ấm gia đình. Nhưng liệu có phải ai cũng biết cách thổi lửa cho ngôi nhà được ấm hay không?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại lễ khai mạc đại hội Đảng 12 ở Hà Nội hôm 21/1/2016.
AFP
Cứ mỗi khi tình hình kinh tế, xã hội trở nên tồi tệ, các mâu thuẫn nội tại chuyển hóa thành gay gắt thì ĐCSVN (đảng Cộng sản Việt Nam) lại tìm cách đổi mới, cải cách, ra nghị quyết và kêu gọi tinh thần quyết tâm. Những cải cách ấy dù có chút tác dụng tích cực nhưng cũng chỉ là nửa vời.
Năm 1986, trước cuộc khủng hoảng kinh tế dẫn đất nước đến bên bờ vực thẳm, VN (Việt Nam) đã phát động đổi mới (mà thực chất là sửa sai). Cuộc đổi mới này tuy “đã thu được kết quả ban đầu, về sau ngày càng đuối sức, trở về cảnh trì trệ kéo dài, ngày càng nặng nề, để càng đổi mới càng tụt hậu và khủng hoảng nặng nề thêm mà vẫn không sao tìm ra lối thoát” (VOA). Nền kinh tế vẫn yếu kém và bế tắc như chúng ta đều thấy bởi đã kinh tế thị trường lại còn mang theo cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”; bởi kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo và đặc biệt là bởi cải cách kinh tế nhưng không cải cách chính trị, chế độ vẫn là chế độ độc tài.
Cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước, hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ hàng loạt ở Liên Xô và Đông Âu, đồng thời khủng hoảng ngoại giao dẫn đến VN bị cô lập trên trường quốc tế. Để vớt vát phần nhỏ nhoi còn lại của khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) và để cứu đảng, ĐCSVN phải xin bình thường hóa với TQ (Trung Quốc). Sự kiện này được đánh dấu bắt đầu bởi Hội nghị Thành Đô. Kết quả Hội nghị này ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh tế của VN. Việc bình thường hóa quan hệ với TQ tuy khắc phục được một số hậu quả của quá khứ nhưng từ đó VN phụ thuộc ngày càng nặng nề vào TQ về chính trị, kinh tế, mất thêm biển đảo và đất liền.
Và bây giờ, bức tranh về VN là một màu đen tối ở tất cả các mặt của đời sống xã hội. Kinh tế trì trệ, tham nhũng len lỏi vào từng con ốc trong guồng máy vận hành đất nước, quan chức tham lam hống hách và trơ trẽn, đạo đức xã hội suy đồi, cái ác lên ngôi, mọi giá trị bị đảo lộn, nỗi oan ức thống khổ của nhân dân ở đâu cũng nhìn thấy bởi sự khốn nạn của hệ thống tư pháp và quan chức.
Hệ thống chính trị như một ngôi nhà đã mục ruỗng và vì vậy, Hội nghị Trung ương 6 (khóa 12) lại đặt ra vấn đề đổi mới chính trị nhưng chỉ là sắp xếp tổ chức lại bộ máy sao cho tinh gọn để “hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Vấn đề tinh giản bộ máy cũng như chống tham nhũng không phải đến bây giờ mới nhắc tới mà đặt ra đã từ lâu, từ năm mươi hay sáu mươi năm có lẽ ít ai còn nhớ. Cũng nghị quyết, cũng hô hào, cũng quyết tâm, nhưng mỗi lần quyết tâm, thi đua đem lại kết quả thế nào thì… như đã biết.
Nguyên nhân của tình trạng này là mỗi lần cải cách, đổi mới ĐCSVN chỉ đưa ra được những biện pháp tình thế nhằm cứu vãn đảng. Cải cách nhưng vẫn phải giữ mục tiêu chủ nghĩa xã hội – thứ mà không ai hình dung được nó như thế nào, đã kinh tế thị trường lại phải định hướng XHCN, kinh tế nhiều thành phần nhưng vẫn phải kinh tế nhà nước là chủ đạo và cuối cùng là cải cách, đổi mới kiểu gì thì ĐCSVN vẫn phải độc quyền lãnh đạo. Đây là những mâu thuẫn mà ĐCSVN không muốn nhìn thấy. Nguyên nhân của sự nửa vời là ở chỗ ấy.
Thiết nghĩ khoảng thời gian đã quá dài, kể từ khi điều hành đất nước năm 1954 đủ cho ĐCSVN loay hoay, thử nghiệm với những thất bại đau đớn để thấy cần phải cải tổ chứ không chỉ cải cách nửa vời. Làm điều đó phải chấp nhận vứt bỏ quyền lợi ích kỷ, phi lý của cá nhân, của một nhóm lợi ích hay của một đảng phái để đi tới một nền chính trị dân chủ đa nguyên, xây dựng một nhà nước pháp quyền với mô hình tam quyền phân lập. Tiếc rằng, cho đến bây giờ, mấy chữ đa nguyên, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là kỵ húy, “nhạy cảm” trong đảng CSVN và trong xã hội. Những người mạnh dạn nhất cũng mới chỉ manh nha đề cập đến việc tách đảng, đổi tên nước mà thôi. Nhiều người hoạt động dân chủ bị tống vào tù nhằm bịt tiếng nói của họ và xu hướng bắt bớ ngày càng gia tăng. Chỉ tính từ đầu năm 2017 đến nay đã có 24 người hoạt động bị bắt hoặc bị truy nã.
Hiện nay, giới dân chủ chưa ai đặt ra vấn đề phải xóa đảng cộng sản bằng bạo lực cho dù muốn hay không. Nói thẳng ra là việc này không làm được và không phù hợp với xu thế của thời đại. Mục tiêu của giới dân chủ hướng tới là dân chủ đa nguyên với chủ trương bất bạo động. Đa đảng là để cạnh tranh chính trị, kiểm soát quyền lực, tập trung trí tuệ và tâm huyết để đưa đất nước phát triển. Thế nhưng, người ta luôn mang vấn đề đa đảng ra làm con ngáo ộp để hù dọa nhân dân, bất chấp đa số nhân loại đi theo mô hình dân chủ đã chứng minh là không có con ngáo ộp ấy.
Sẽ chẳng có ai đòi loại trừ đảng CSVN nếu thực hiện đa đảng. Họ tha hồ thể hiện mình trong cạnh tranh. Họ vẫn tranh cử và tham gia điều hành đất nước như các đảng phái khác. Có điều số phiếu của họ phụ thuộc vào tín nhiệm của cử tri trong những cuộc bầu cử tự do mà thôi. Nếu họ làm không tốt, vẫn thể hiện như trước đó, nhân dân sẽ quay lưng lại với họ.
Loay hoay cải cách với đổi mới sẽ chẳng bao giờ đi đến đâu. Cái sự luẩn quẩn ấy giống như con kiến leo cành đa (leo phải cành cụt leo ra leo vào). Thử nghiệm mãi thì sức dân đã mệt mỏi, tinh thần đã chán chường, lòng tin đã cạn. Kinh tế thị trường vì có cạnh tranh thì mới thúc đẩy được sản xuất phát triển. Vì vậy không có lý do gì để chính trị không có đa đảng, trừ khi bị cưỡng ép. Một chế độ chính trị đa nguyên ở VN lúc này là lối thoát duy nhất cho đất nước, cho dân tộc. Nếu ĐCSVN tự tin ở mình thì sợ gì mà không dám cạnh tranh với các đảng phái khác?
Nguyên Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Lê Khả Phiêu, nói chuyện tại nhà riêng ở Hà Nội hôm 22/4/2009.
AFP
Trước thềm Hội nghị Trung ương 6 bàn về đổi mới bộ máy chính trị, hàng loạt tờ báo đã đăng tải bài phỏng vấn của cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, trong đó ông nhấn mạnh về tính cấp thiết của đổi mới bộ máy chính trị bằng cụm từ “không còn đường lùi”.
Tình thế lưỡng nan mà Đảng Cộng sản đang đối mặt đến từ chính công thức cầm quyền của họ vài thập niên gần đây. Để đảm bảo vị trí độc tôn của mình, trong bối cảnh lý tưởng đại đồng cộng sản đã hết sức sống, đảng chỉ còn biết dùng lợi ich vật chất để mua sự trung thành của nhiều người nhất có thể.
Hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương cũng vì thế mà phình ra không ngừng. Có thời điểm người ta tính được có tới 11 triệu người hưởng lương ngân sách. Chỉ cần nhẩm tính mỗi lao động hưởng lương ngân sách lại nuôi 2-3 người phụ thuộc sẽ thấy đảng đã xây dựng được một nền tảng ủng hộ làm bệ đỡ quyền lực rộng lớn đến mức nào trong lòng xã hội với một đám đông có cảm giác “đồng hội đồng thuyền” về lợi ích với đảng.
Và quả tình, dưới cái bóng của hệ thống chính trị khổng lồ này, mọi phản kháng ngay cả ở mức độ dân sự cũng rất dễ bị đè bẹp trong giai đoạn trứng nước, chỉ cần đảng hô câu hiệu lệnh quen thuộc “huy động toàn hệ thống chính trị vào cuộc”
Tuy nhiên, nuôi được bộ máy cồng kềnh này chẳng hề đơn giản. Lời giải của đảng đối với bài toán này cho tới nay gồm hai phần chính sau:
Một, dành một khoản chi lớn (gần 3/4 tổng chi ngân sách) chỉ để nuôi bộ máy – đồng nghĩa với việc phải bớt chi cho đầu tư phát triển, điện, đường, trường, trạm – tức những khoản chi nâng cao đời sống cho toàn xã hội. Nợ công vì thế mà phải chạm trần, tài nguyên bởi vậy mà phải cạn kiệt, để nuôi bộ máy cứ ngày một phình to suốt vài thập kỷ vừa qua.
Hai, dẫu có dành phần lớn tổng chi ngân sách để nuôi bộ máy nhưng vì nó quá lớn nên tính ra lương cho đầu người vẫn thấp, không đáp ứng được cuộc sống. Một cách tự nhiên đảng nhanh chóng đạt được đồng thuận nhắm mắt “mạnh ai nấy ăn” để bù đắp phần thiếu hụt. Nhưng ăn vào đâu? Còn đâu khác ngoài người dân và doanh nghiệp. Đây chính là gốc rễ của tình trạng tham nhũng có hệ thống ở Việt Nam, phơi bày trong đời sống hàng ngày của chúng ta, thông qua đủ loại tệ nạn, nào là “giấy phép con”, “thanh kiểm tra”, “mãi lộ”, “BOT”, “lạm thu”, “thư vận động đóng góp”, “chạy việc”, “chạy trường”…
Giá mà có thể duy trì giải pháp trên thì những người lãnh đạo đảng có thể yên tâm kê cao gối mà ngủ. Tuy nhiên, nay thì nợ công đã chạm trần, tài nguyên khoảng sản cũng đã cạn kiệt, mô hình tăng trưởng lạc hậu vẫn chưa được chuyển đổi, lợi tức tạo ra không tương xứng với độ phình của bộ máy.
Tệ hơn, người dân và doanh nghiệp – nền tảng kinh tế của quốc gia – một khi không chịu nổi áp lực “kiếm chác” từ hệ thống chính trị khổng lồ này sẽ dần mất đi động lực; nhiều người tài năng và tự trọng thâm chí còn tìm cách ra đi. Kết quả là kinh tế đình đốn, nguồn thu ngân sách vì thế sẽ sụt giảm theo, khiến chỉ riêng việc nuôi bộ máy với mức độ như hiện tại đã khó, đừng nói tới việc trả lương cao hơn.
Thế thì đúng là như cựu TBT Phiêu nói, quả là không còn đường lùi, và giải pháp duy nhất là giảm biên chế. Nhưng bộ phận nào trong hệ thống chính trị bị nhắm tới đầu tiên? Hội nghị Trung ương 6 lựa chọn “các tổ chức sự nghiệp công lập”, có lẽ là vì đây là nhóm ít quyền lực nhất – đồng nghĩa là khả năng phản đối thấp nhất. Đây cũng là lý do mà cách đây vài tháng Bộ Giáo dục Đào tạo thăm dò việc bỏ biên chế giáo viên.
Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung giảm biên chế mỗi khu vực sự nghiệp thì chỉ là cách trì hoãn chứ không phải là giải pháp toàn diện cho vấn đề. Toàn bộ hệ thống cần phải được tinh gọn ở mức độ cao thì mới có thể giảm áp lực chi thường xuyên và bớt được phiền hà cho người dân, doanh nghiệp một cách căn cơ, từ đó mới khôi phục được động lực làm ăn, kinh tế mới phát triển để tăng được nguồn thu cho ngân sách.
Thế nhưng, một khi không còn trong tay hệ thống chính trị khổng lồ như hiện nay nữa, đảng có gì để trấn áp những phản kháng trong xã hội để đảm bảo quyền lực độc tôn của mình?
Tối, ngày 7 tháng 10,2017 côn đồ lại ngang nhiên xông vào nhà, đập phá tài sản của bà con giáo dân xứ Đông Kiều, Xã Yên Lý, Huyện Diễn Châu, Tỉnh Nghệ An.
Xin được nhắc lại, từ cuối tháng 8 côn đồ thường xuất hiện đập phá tài sản, đập phá tượng ảnh của người dân nơi đây. Những đợt khủng bố này vẫn không được nhà cầm quyền quan tâm xử lý vì thế côn đồ ngày càng lộng hành và tấn công người dân mạnh mẽ hơn.
Với sự lên tiếng của bà con giáo dân nhà cầm quyền đã cho công an, cơ động túc trực bảo vệ bà con từ ngày 20 tháng 9 đến nay. Nhưng sự hiện diện của công an chỉ là một tấm bình phong để côn đồ dễ dàng hành động, quậy phá, khủng bố tinh thần bà con hơn.
Người dân lầm tưởng có công an canh giữ nên yên tâm mà không phòng bị. Tại quán cà phê Sự Duyên và một số nhà dân lân cận đã bị côn đồ xông vào quán và vào nhà để đập phá tài sản của bà con.
Tại một nơi có chính quyền, có lực lượng giữ gìn an ninh trật tự mà côn đồ ngang nhiên khủng bố người dân thì người ta có thể kết luận, chính quyền tại đây chính là kẻ bảo kê cho côn an hành hung người dân.
Viện Hudson (Hudson Institute, Mỹ) hôm 4/10 đã hủy bỏ hoạt động “Đối thoại Quách Văn Quý”, một tỷ phú người Hoa đang ở Mỹ, người liên tục đăng các video lên mạng vạch trần sự hủ bại của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và tiết lộ việc ông Giang Miên Hằng, con trai ông Giang Trạch Dân giết người lấy tạng và có liên quan đến vụ máy bay MH370 của Hãng Hàng không Malaysia bị mất tích để diệt khẩu. Sự kiện đối thoại của Viện Hudson với ông Quách bị hủy bỏ làm dấy lên nghi ngờ về việc chính quyền Trung Quốc, đặc biệt là gia đình họ Giang đã thâm nhập sâu vào Washington.
Hủy bỏ cuộc đối thoại của doanh nhân Quách Văn Quý, ĐCSTQ đang gây sức ép khắp nơi
Sáng ngày 4/10, người dẫn chương trình của hoạt động đối thoại, nhà báo có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề Bill Gertz đưa tin trên tờ “The Washington Free Beacon”, và dẫn lời người phát ngôn David Tell của Viện nghiên cứu Hudson nói, hoạt động này bị hủy bỏ do kế hoạch chưa được vẹn toàn, ông David Tell cũng thừa nhận họ bị áp lực từ phía Trung Quốc.
Ông David Tell xác nhận, trang web của Viện cũng từng bị hacker tấn công, và cuộc tấn công có nguồn gốc từ Thượng Hải. Bài báo cho biết, Đơn vị 61398 là đơn vị nổi tiếng của quân đội Trung Quốc, căn cứ ở Tân khu Phổ Đông, thành phố Thượng Hải, là một đội hacker, trong đó có 5 thành viên bị cáo buộc từng tấn công vào mạng intenet của các doanh nghiệp Mỹ hồi năm 2014.
“Bắc Kinh có người không vui”, ông David Tell cho biết, viện của ông cũng nhận được rất nhiều email đến từ Trung Quốc.
Bản tin còn nói, Đại sứ quán Trung Quốc tại Washington nhiều lần gọi điện phàn nàn với Viện nghiên cứu Hudson, uy hiếp sẽ từ chối tất cả những nhân viên nào muốn đến thăm Trung Quốc.
Điều trùng hợp là, hoạt động “Đối thoại Quách Văn Quý” diễn ra cùng ngày với “Đối thoại thực thi pháp luật và an ninh mạng” giữa chính quyền Trung Quốc và Mỹ.
Quách Văn Quý vạch trần bí mật thay thận khiến Giang Miên Hằng không vui
Đối với sự kiện diễn giảng của ông Quách Văn Quý bị hủy bỏ, hôm 4/10, ông Quách có nói trong đoạn video phát trực tiếp trên intenet lên án kịch liệt “Kẻ cướp nước cuối cùng đã ra tay rồi.” “Toàn bộ Washington được nói là thiên hạ của nhà họ Giang, có thể nhà họ Giang cũng đã ra tay rồi!”, “Giang Miên Hằng sử dụng thế lực ngầm của nhà họ Giang tại Mỹ để chinh phục Viện Hudson”.
Ông Quách kể lại, có người Mỹ nói với ông, “nguyên nhân quan trọng khiến buổi diễn giảng bị hủy bỏ chính là vì ông đã vạch trần sự thật ông Giang Miên Hằng thay thận, khiến ông này không vui.” Ngoài ra, người này còn cho biết, việc ông Quách tiết lộ những người liên quan đến việc thay thận của ông Giang Miên Hằng đã mất tích cùng chuyến bay MH370 của Hãng Hàng không malaysia cũng khiến ông ta không thoải mái. Họ còn nói, “Việc Giang Miên Hằng thay thận là việc riêng của cá nhân”, ý là không nên tiết lộ ra ngoài.
Ông Quách Văn Quý hỏi vặn lại người này từng câu: “Việc thay tạng, ông muốn xác nhận thì ông đi mà tìm Giang Miên Hằng! Hỏi xem mấy lần thay thận của Giang Miên Hằng là lấy thận từ ai? Người cho thận còn sống hay không?”
“Tại sao có người nhà của bác sĩ giúp Giang Miên Hằng thay thận lại chết trong chuyến bay của hãng hàng không Malaysia?”
“Ông ta sao lại gọi là chuyện riêng của cá nhân? Bởi ông ta giết người nên không gọi là chuyện riêng cá nhân được nữa!”
Ngày 1/9, trong video phát trực tiếp trên mạng, Quách Văn Quý lần đầu tiên vạch trần bí mật nhắm vào gia tộc Giang Trạch Dân, nhà họ Giang không chỉ tham ô lượng lớn tiền của, mà còn dính líu đến giết người cướp lấy nội tạng. Ông Quách Văn Quý cáo buộc tầng lớp quyền quý trong Đảng Cộng sản Trung Quốc “mổ sống người lấy nội tạng, giết người theo nhu cầu”. Ông còn vạch trần ông Giang Miên Hằng có 3 lần thay thận từ năm 2004 đến 2008, và đã giết chết 5 người; còn ông Mạnh Kiến Trụ đã giết tù nhân để lấy thận thay cho mẹ mình.
Chuyến đi Washington lần này đã khiến ông Quách Văn Quý phát hiện “Kế hoạch Lam Kim Hoàng đã xâm nhập triệt để vào Mỹ”. “Kế hoạch Lam Kim Hoàng” là chỉ chính quyền Trung Quốc tiến hành các thủ đoạn khống chế đối với quan chức và thương nhân ở nước ngoài. Lam chính là khống chế về internet, bằng việc mua chuộc các kênh truyền thông, rồi từ đó đạt được mục đích tẩy não toàn diện; Kim, chính là dùng tiền để mua chuộc, dùng lợi ích phi pháp để mua chuộc; Hoàng, chính là sử dụng sắc tình để mua chuộc, lợi dụng cờ bạc, sắc tình để nắm chứng cứ rồi tiến hành dọa dẫm khống chế.
Sau khi buổi diễn giảng của Quách Văn Quý bị hủy bỏ, cần phải nhìn thấy được bản chất. Ông Quách tức tối nói với vị người Mỹ đã tiết lộ nội tình cho ông rằng “cần vạch trần chính là ông Tập Cận Bình”, bởi chính ông Tập là người đã ra lệnh cho dừng buổi diễn giảng, “người đang gây khó ông chính là Tập Cận Bình, không có ông Tập hạ lệnh thì cũng chẳng có ai gây khó khăn cho ông cả.” Ngoài ra, ông Quách còn cho rằng người Mỹ đã bị “kẻ cướp nước mua chuộc”.
Theo báo The Epoch Times, ở Mỹ có một thế lực giúp đỡ người từng đứng đầu ĐCSTQ Giang Trạch Dân và quân sư của ông Giang là Tăng Khánh Hồng chống lại ông Tập Cận Bình.
Năm 2015, trong thời gian diễn ra Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân, chính quyền của ông Tập Cận Bình đã phát động dư luận công kích vào Tăng Khánh Hồng. Cùng thời gian đó, thời báo New York Times đăng một bài phỏng vấn đặc biệt đối với người nổi tiếng hiểu về Trung Quốc, bài báo khen ngợi “đường lối khai sáng” của ông Giang Trạch Dân và Tăng Khánh Hồng, đồng thời cũng nói ông Tập Cận Bình đã xa rời đường lối của ông Giang Trạch Dân và Tăng Khánh Hồng. Người nổi tiếng này chính là giáo sư David Shambaugh tại Washington.
Ngày 6/3/2015, ông David Shambaugh còn đăng một bài có tựa đề “Trung Quốc đang đi đến sụp đổ” trên tờ The Wall Street Journal rằng, không ngoại trừ khả năng ông Tập Cận Bình bị phế truất trong cuộc đấu tranh quyền lực hoặc chính biến trong nội bộ ĐCSTQ.
Khi đó The Epoch Times cũng đưa tin nói, mặc dù ông Tập Cận Bình nắm quyền, nhưng bộ phận quan chức trong Bộ Ngoại giao Mỹ đã bị thế lực của ông Giang Trạch Dân mua chuộc vẫn đang khởi tác dụng, họ vẫn đứng về phe ông Giang Trạch Dân, cố ý làm khó ông Tập Cận Bình. Do đó mà chuyến thăm Mỹ năm 2015 của ông Tập gặp phải nhiều khó khăn.
Ngày 22 – 25/9/2015, nhận lời mời của tổng thống Mỹ Obama, ông Tập Cận Bình đã có chuyến thăm cấp quốc gia tới Mỹ. Bộ Ngoại giao Mỹ đã có chuẩn bị, đưa ra những vấn đề mà ông Tập Cận Bình không ngờ tới, phía Trung Quốc trong tư thế tiến thoái lưỡng nan. Khi đó ông Tập Cận Bình nói với ông Obama, ông cần thời gian hai năm để nắm quyền trong quân đội, từ đó mới có thể tiến hành tái cơ cấu quyền lực cấp cao một cách ổn định.
Biển “đe” người Việt ăn cắp tại siêu thị ở Nhật được viết bằng tiếng Việt. (Hình: Báo điện tử VietNamNet)
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Một phó phòng thuộc Cục An Toàn Bức Xạ và Hạt Nhân (Bộ Khoa Học- Công Nghệ) đi công tác tại Nhật đã ra tay trộm cắp khi đi mua sắm tại siêu thị và bị cảnh sát địa phương “mời làm việc.”
Theo báo Pháp Luật TP.HCM, Cục An Toàn Bức Xạ và Hạt Nhân (Bộ Khoa Học Và Công Nghệ) cho biết một cán bộ cấp phó phòng của cục này khi đi công tác tại Nhật gặp “sự cố” khi đi mua sắm tại siêu thị và được mời đến làm việc tại cơ quan cảnh sát địa phương.
Báo này cho hay, có thông tin về việc ông TQH, hiện là phó phòng một đơn vị của cục, đang bị giữ lại tại Nhật vì nghi vấn liên quan đến trộm cắp ở một siêu thị của nước này.
Ông Nguyễn Tuấn Khải, cục trưởng Cục An Toàn Bức Xạ và Hạt Nhân, nói: “Chúng tôi đang phối hợp với bên Nhật để làm rõ. Cho đến nay vẫn đang trong quá trình thu thập để làm rõ thông tin.”
Ông cũng cho hay, hiện tại ông TQH chưa về nước và cục cũng chưa nhận được thông tin trực tiếp từ phía cán bộ này. Được biết, ông TQH sang Nhật để tham dự một hội thảo. (Tr.N)
Từ trái, bà Huỳnh Thị Chút, ông Gary Wittig và người con chung của họ, chị Nguyễn Thị Kim Nga, trùng phùng tại Georgia sau 48 năm. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)
RIVERDALE, Georgia (NV) – “Khi Nga báo cho biết là đã gặp lại cha, tôi mừng lắm, vì không bao giờ tôi dám nghĩ đến điều này. Nhưng mà quả đất xoay tròn quá.” Đó là cảm nghĩ của bà Huỳnh Thị Chút, người phụ nữ 75 tuổi, lần đầu tiên ngồi máy bay, mà lại bay cả nửa vòng trái đất để đến Riverdale, Georgia, hội ngộ cùng ông Gary Wittig, cha của con gái bà, sau khi bặt tin từ năm 1969.
Con gái bà Chút, chị Nguyễn Thị Kim Nga, cũng chỉ mới tìm lại được cha ruột của mình, ông Gary Wittig, một người Mỹ từng làm việc ở Việt Nam, sau 17 năm sang Mỹ định cư ở tiểu bang Nebraska.
Câu chuyện được kể lại sau gần một nửa thế kỷ, không chỉ chứa đầy niềm vui của ngày trùng phùng, mà hơn những điều thông thường đó, là tấm lòng, là nghĩa cử cao thượng, của hai người đàn ông đứng bên cạnh hai người phụ nữ này trong suốt mấy mươi năm qua, nhằm giúp họ đạt được ước nguyện của mình.
Câu chuyện của nàng lao công nghèo, người yêu Mỹ, và ông chồng Việt
Bà Chút từ Mepu, Bình Thuận, đặt chân đến thành phố Riverdale hôm Thứ Ba, 3 Tháng Mười, nói với Người Việt qua điện thoại, “Đây là lần đầu tiên tôi gặp lại ông Gary sau 48 năm. Nhưng gặp là nhận ra liền, dù ngày trước ổng còn rất trẻ.”
Câu chuyện theo dòng hồi ức của người phụ nữ đã đi qua gần hết đời mình trong nghèo khó, lam lũ, vẽ lên bức tranh chung của nhiều phụ nữ Việt “đi làm sở Mỹ” ở miền Nam Việt Nam vào thời chiến tranh Việt Nam.
“Tôi lúc đó có chồng và một đứa con trai. Khi tôi lấy chồng là cha mẹ tôi coi như bỏ luôn, không biết tới luôn. Rồi tôi đi làm lao công, dọn dẹp cho hãng Mỹ ở ‘Kem’ (Camp) Tiên Sa, Đà Nẵng. Ở đó có một bãi đậu xe lớn lắm. Tôi rửa xe ở đó. Ông Gary lái xe tới cho tôi rửa. Sau tôi mới biết ông cũng làm việc cho hãng đó,” bà kể bằng giọng “miền ngoài” đặc sệt.
“Không biết đây có phải là duyên nợ trời đất gì không,” bà tiếp tục câu chuyện. “Vì hồi đó đi làm mà thấy Mỹ là sợ lắm, vậy mà sao tôi lại thương ông, dù tôi với ông có nói chuyện được gì nhiều với nhau đâu.”
Theo lời bà Chút, bà quen ông Gary Wittig được một năm. Ông biết bà mang dòng máu của ông trong người, ông chở bà đi bệnh viện khám thai, biết được bà sẽ sanh con gái và cả ngày giờ sanh đứa bé.
Bà Chút nói thêm, “Trước khi về Mỹ, ông Lary có đưa tôi hình và thẻ có số quân của ông. Nhưng đến khi thấy Mỹ rút đi hết trong một đêm tối, tôi sợ quá, không bao giờ nghĩ có ngày gặp lại, nên tôi đốt hết. Mất liên lạc luôn từ đó.”
Khi ông Gary trở về quê hương thì bên kia bờ đại dương, bà Chút cũng sanh em bé. Đó là năm 1969.
Như bao phụ nữ sanh “con lai” khác, bà Chút bị tai tiếng nhiều, nhưng bà “không buồn, vì bụng làm dạ chịu.”
“Thương là thương ông chồng Việt của tôi, ông chưa bao giờ oán trách, ghen tuông gì hết,” bà nói.
Bà nhớ lại, “Ông chồng dẫn tôi đi sanh mà không mang theo đồ chi hết. Khi bà mụ bồng đứa con ra, ông nhìn và nói liền ‘Ô choa, Mỹ con! Mỹ con!’ rồi ông cởi cái áo đang mặc quấn cho nó. Đến sáng ông về nhà nấu cháo cho tôi và mang quần áo em bé vô. Lúc về nhà, ông cũng là người bồng con bé đi trước, tôi đi theo sau.”
“Tên con bé cũng là do ông đặt. Ông nói nó là con Mỹ thì đặt tên nó là Nga chứ không có tên gì khác hết, Nguyễn Thị Kim Nga,” bà cho biết.
Nếu đời sống người dân bình thường vốn đã quá cơ cực sau Tháng Tư, 1975, thì đời sống của những gia đình có con lai lại khốn đốn hơn nhiều lần.
“Lúc đó khổ lắm, tiền không có ăn, áo không có mặc, mà nuôi đến ba, bốn đứa con, khổ quá là khổ. Mà vì khổ nên quẫn có lúc ông đánh con, nhưng không phải vì ghét mà đánh đâu,” bà khẳng định.
Cũng theo lời bà, khi nghe nói Nga có thể làm giấy tờ đi Mỹ, thì chính ông chồng “dẫn mẹ con tôi đến chỗ xã làm giấy tờ.”
“Nhưng khi xuống tới thì họ nói chỉ có tôi và Nga đi được chứ chồng tôi không đi được. Khi đó ông nói với tôi một câu mà tôi nhớ thương hoài, ‘Thôi, đi về đi bà, về làm ăn với tôi. Khi nào tôi chết rồi mẹ con bà muốn đi mô thì đi.’ Rồi năm sau thì ông mất,” người phụ nữ lam lũ bồi hồi.
Ngày quen nhau họ chỉ ở độ tuổi ngoài 20. Gần nửa thế kỷ gặp lại, tóc đã trắng mái đầu. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)
Người con gái lai và con đường đến quê cha bằng sự kiên trì của chồng
“Hồi nhỏ, anh tôi không biết tôi con lai, nhưng ba ghẻ thì chắc biết, nên cũng có lúc bị đòn. Rồi đi học bị bạn bè chọc ‘con lai 12 lỗ đít’ cho nên vừa bất mãn mà nhà cũng nghèo quá nên chỉ học được lớp 1, lớp 2 là bỏ học luôn,” chị Nga cười nhớ lại.
Cuộc đời của người con gái lai cứ thế trôi đi trong cảnh nghèo không thể nghèo hơn, “cứ đi làm mướn, đi làm ruộng, gặt, cấy, cho người ta cho đến lớn.”
Rồi “phong trào con lai” bùng lên, nhiều người từ Kiên Giang, An Giang cũng ra tận quê Bình Thuận của chị kiếm con lai “mua” để được đi Mỹ.
“Tôi nhớ lúc đó họ nói đưa cho má một cây vàng trước, rồi chừng nào làm giấy tờ đi được thì đưa thêm một cây. Tôi không chịu. Sau đó tôi để cho họ làm không lấy tiền nhưng phải cho má tôi đi, họ làm giấy tờ ghép hộ gì tùm lum hết. Nhưng rồi đi phỏng vấn rớt, rồi lại làm lại, kéo dài cả bốn năm như vậy nên tôi nói thôi không có muốn đi Mỹ nữa,” chị Nga kể.
Rồi chị quen anh Quế, chồng hiện tại của chị, tình yêu càng khiến chị không muốn rời bỏ mảnh đất đang sống, dù cơ cực, nhọc nhằn.
Chị cười nhớ chuyện xưa, “Lúc đó má nói ‘mày muốn sướng thì kiếm đường mà đi Mỹ, còn muốn cực thì cứ ưng thằng Quế.’ Nhưng rồi do sự quyết định của mình nên thôi không muốn đi Mỹ, ở lại cưới nhau năm 1994.”
Điều may mắn cho chị Nga, như má chị nhận xét, là “Thằng rể tôi nghèo nhưng lòng hắn tốt. Hắn làm mọi thứ để mẹ con tôi được thỏa nguyện. Tôi gặp được ông chồng tốt. Con gái tôi cũng có người chồng tốt, như vậy thì tôi thấy cuộc đời mình thỏa mãn rồi.”
Theo lời chị Nga, “hai vợ chồng phải vất vả bon chen kiếm sống bằng cách đi rẫy, đi núi cưa cây cưa củi bán. Tằn tiện, tích cóp đến cuối năm mới có dư được 5 phân vàng, nhưng cứ có tiền là ông chồng nói để đi vô Sài Gòn kiếm đường làm giấy cho đi Mỹ. Ông cứ làm hết năm này qua năm khác. Lúc đó tôi khóc hoài, nói không có đi đâu hết, nói làm khó khăn, kiếm không ra tiền ăn mà cứ có đồng nào cũng đi Sài Gòn. Nhưng ông vẫn quyết tâm làm. Cuối cùng Chúa cũng cho ông làm được, để rồi hai vợ chồng và đứa con trai lớn được đi Mỹ năm 2000.”
Anh Quế Nguyễn, hiện sống cùng vợ con tại thành phố Omaha, tiểu bang Nebraska, kể thêm, “Ai cũng biết ở Việt Nam rất khổ cực, mà bà xã lại là con lai, không đi được thấy cũng thiệt thòi cho bà nên tôi phải hết sức tìm đường đi. Làm được đồng nào tôi lại lặn lội lên Sài Gòn, tôi dòm tôi ngó, đi hỏi hết người này đến người khác, mà đi tới luật sư nào họ cũng đuổi về vì họ nói đi tìm mà không có hình bóng, giấy tờ gì hết thì như tìm kim đáy bể thôi.”
Lặn lội suốt sáu năm như thế, cho đến một lần anh Quế “gặp may.”
Anh nhớ lại, “Một lần tôi với bà xã sau khi để dành được mấy phân vàng quyết định dắt con vô Sài Gòn, may sao nhờ ‘ông tổng lãnh sự quán’ ở đường Pasteur nhìn thấy bà xã tôi thì ông nói bà xã tôi lai Mỹ. Thế là ông giúp làm giấy cho đi. Cuối cùng thì hai vợ chồng và con tôi được sang Mỹ vào ngày 17 Tháng Mười, 2000.”
Đặt chân đến vùng đất không có một ai thân thích, chị Nga cho rằng mình “may mắn” khi xin được việc làm liền ở một hãng bánh của người Mexico, rồi “làm miết từ đó cho đến Tháng Sáu vừa rồi họ đóng hãng thì tôi mới thất nghiệp ở nhà.” Anh Quế cũng sau vài năm làm ở hãng bánh cùng chị, đã xin được việc làm trong trường học từ hơn 10 năm qua.
Ngoài đứa con trai lớn sanh ở Việt Nam, anh chị còn có thêm một con gái 14 tuổi và một con trai 12 tuổi được sanh tại Mỹ.
Vợ chồng chị Nguyễn Thị Kim Nga, anh Quế Nguyễn cùng ba người con. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)
“Ráng tìm cha cho có người thân nương tựa”
“Trong đời sống lúc vui, lúc buồn tôi đều có trong đầu câu hỏi sao mình sinh ra không biết cha là ai? Tại sao mình không có tình thương của cha?” chị Nga tâm sự bằng chất giọng thật thà, chất phác của người không có quá nhiều cơ hội để nói về những nỗi niềm của mình.
Thêm vào đó là lời nhắn gửi của má chị “con thử đi kiếm coi có tìm được cha không, để còn có người thân nương tựa, vì ở đây mình không có ai là bà con hết.”
Thôi thúc ước muốn được biết cha mình là ai, còn hay mất, nhưng “mình lại không biết gì hết, không biết chữ, không biết viết, cái gì cũng phải nhờ chồng.”
Anh Quế, chồng chị Nga cũng giãi bày, “Tôi biết ước mơ của vợ tôi là tìm được tung tích của người cha có từ mấy chục năm qua. Nhưng mà mình không biết cách nào để tìm hết.”
Nhưng rồi họ lại gặp may.
“Một chị bạn quen tên Minh, cũng là con lai, cũng đi tìm cha. Nhưng tìm rồi mới biết cha đã mất vì tai nạn từ hồi còn ở Việt Nam. Rồi chị hướng dẫn, giúp đỡ tụi tôi tìm. Mọi chuyện chị giúp hết, bắt đầu từ Tháng Mười Hai, 2016, đến Tháng Tư thì tìm được,” chị Nga cho biết.
Theo lời vợ chồng chị Nga, chị Minh chính là người đã tìm được tung tích của ông Gary, liên lạc với ông và gia đình ông, sắp xếp cho mọi người được gặp lại nhau.
Về phần ông Gary, do sức khỏe, nói chuyện khó khăn, nên chị Christine Kimmey, cháu ruột ông Gary, là người thay ông kể chuyện với Người Việt.
Chị cho biết, “Chú Gary đến Việt Nam hai lần, tôi không nhớ chính xác lần đầu là năm nào nhưng lần thứ hai là năm 1967, chú được đưa đến trại Tiên Sa ở Đà Nẵng. Chú làm việc với Seabee’s, đơn vị MCB-8 (Mobile Construction Company-8). Công việc của chú lúc đó là lái xe chạy vòng quanh trại để sửa chữa bảo trì.”
“Thời gian đó cũng là lúc chú Gary gặp cô Chút đang làm công việc rửa xe cho đơn vị đó,” chị Christine nói thêm.
Chị kể, “Tôi nhớ một lần vào năm 1980, khi đó tôi 14 tuổi, dì Linda, vợ chú Gary, nói cho tôi và em gái tôi biết là chú Gary có một đứa con ở Việt Nam. Tôi không biết tại sao dì muốn chúng tôi biết điều đó. Tôi nghĩ có thể đó là một chuyện lạ. Dì Linda mất năm 2006. Dì Linda và chú Gary không có con.”
“Và rồi chuyện này không bao giờ được nhắc đến nữa. Nhưng tôi lại luôn ghi nhớ điều đó trong đầu bởi vì đó là một đứa bé. Chuyện gì đã xảy ra. Dù vậy, chưa bao giờ tôi hỏi chú Gary về điều này. Cho đến một ngày, tôi nhận được tin nhắn trên Facebook của một thám tử chuyên về DNA hỏi tôi có quan hệ họ hàng với ai từng tham chiến ở Việt Nam trong khoảng thời gian năm 1968, 1969 không. Họ nói họ đang giúp một người tìm lại cha đẻ,” chị Christine tiếp tục câu chuyện.
Theo lời cháu ông Gary, mới hai tuần trước khi chị nhận được tin nhắn đó, chị và em gái chị đã có cuộc trò chuyện về gia tộc, và chị có nhắc, “Đừng quên là chú Gary còn một đứa con ở Việt Nam. Em tôi nghe vậy thì nói nó đã hoàn toàn quên béng những gì mà dì Linda đã kể cho chúng tôi nghe từ mấy chục năm về trước.”
“Theo những gì tôi hiểu, tôi nghe, thì người mẹ đó muốn quay trở lại với chú Gary thì cũng không thể vì những ràng buộc của gia đình. Chú Gary cũng không thể mang người phụ nữ đó theo về Mỹ ở thời điểm đó được. Tôi không biết đã có bao giờ chú muốn tìm kiếm lại đứa con của chú chưa, nhưng tôi biết chắc rằng chú luôn nghĩ về đứa con ấy suốt những năm tháng qua. Chú nói điều đó mới đây thôi,” chị Christine chia sẻ bằng tâm tình của người trong gia tộc.
“Lần đầu tiên tôi được gặp cha mình là ngày 15 Tháng Tư, cuộc hội ngộ diễn ra trong bốn ngày. Mừng lắm, cha con đều khóc, vì nào giờ mình cứ ao ước tình thương của cha mà,” người con gái kể bằng giọng xúc động.
Lần thứ hai, gia đình chị Nga lại từ Ohoma bay sang Atlanta thăm cha đúng vào ngày Father’s Day.
“Muốn làm bất ngờ cho ông, nên cả nhà đi qua mà không cho ông biết trước. Đến khi ổng mở cửa thấy vợ chồng con cái mình đứng ở ngoài cửa, ông mừng ông khóc, vì hồi nào giờ ông đâu có con, nên giờ ngay ngày Lễ Cha tụi tôi muốn làm cho ba vui,” chị Nga lại cười sau câu chuyện kể.
Ông Lary, qua điện thoại cũng cố gắng nói với Người Việt bằng giọng yếu ớt, khó nhọc, “Tôi rất rất vui khi được gặp lại con tôi sau mấy mươi năm. Giờ chúng tôi đã là một gia đình. Tôi không ngờ tôi có người con gái xinh đẹp như vậy.”
Ngay thời điểm này, chị Nga đã bay sang chăm sóc cha mình từ hơn ba tuần qua, sau lần ông bị té ngã phải vào bệnh viện.
Má chị cũng từ Việt Nam sang trùng phùng cùng “người yêu” như cách nói của bà.
Bà nói, “Tôi không nghĩ, mà chắc ông Gary cũng không nghĩ có ngày gặp lại như thế này.”
“Giờ gặp lại vui thì rất vui nhưng cũng thấy có chút gì tiếc vì mình tìm ra ông trễ quá. Phải chi gặp lại lúc ông còn khỏe mạnh để có thể chuyện trò, còn giờ ông bệnh, nằm một chỗ, nói nhiều là ông quạu vì ông mệt. Tiếc là tiếc như vậy. Nhưng mà cũng thỏa nguyện vọng rồi,” bà lại cười.
Chị Christine nói, “Đây là một câu chuyện quá là cảm động. Tôi muốn câu chuyện này được nhiều người biết đến, để có thể góp thêm cảm hứng cho những người con lai vẫn đang trong hành trình đi tìm kiếm cha của mình.”
Tôi không biết còn bao nhiêu người con lai nữa vẫn đang khắc khoải trong lòng niềm mơ ước được biết về tung tích của người đã góp phần hình thành nên hình hài của họ.
Tôi cũng không biết còn bao nhiêu người cha nữa còn đang sống, và chờ mong một ngày có đứa con gốc Việt bất ngờ đứng trước mặt mình gọi tiếng “Cha ơi!”
Nhưng, câu chuyện hội ngộ với sự có mặt đầy đủ của những người trong cuộc vừa diễn ra, là một trong những câu chuyện hay nhất mà tôi từng nghe liên quan đến một “hiện tượng có lãng mạn mà cũng có không ít sự đau đớn” trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử quê hương mình.
Trong phiên xét xử vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo Châu Thị Thu Nga, nguyên đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 13, từ năm 2011 đến năm 2016, nói trước tòa án Hà Nội rằng bà đã dùng số tiền trị giá 1 triệu 500 ngàn đô la Mỹ để được làm Đại Biểu Quốc Hội.
Tuy nhiên Tòa án không cho bà Nga khai việc này vì cho rằng điều đó không có liên quan đến nội dung vụ án đang được điều tra.
Vi phạm luật tố tụng
Phiên xử sơ thẩm dự kiến kéo dài trong 20 ngày, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 2017. Vào ngày 5 tháng 10, trước toà án tại Hà Nội, luật sư Hoàng Văn Hướng, người bào chữa cho bị cáo Châu Thị Thu Nga, có câu hỏi thẩm vấn cho thân chủ của ông, đề cập đến khoản tiền 1,5 triệu USD (khoảng 30 tỉ đồng) mà bà Nga đã khai là dùng để “chạy” vào vị trí đại biểu Quốc hội.
Tuy nhiên Tòa án không cho bà Nga khai việc này vì cho rằng điều đó không có liên quan đến nội dung vụ án đang được điều tra.
Một ngày sau khi diễn ra phiên xử, trả lời RFA, Luật sư Hoàng Văn Hướng, cho biết toà không cho phép thân chủ của ông thực hiện lời khai là không đúng nguyên tắc đánh giá chứng cứ khách quan và toàn diện của qui trình tố tụng.
“Tất cả những tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án để buộc tội hoặc gỡ tội thì đều phải đưa ra trước toà để đánh giá. Những nhiệm vụ của tôi là đặt câu hỏi và đánh giá vấn đề này. Trong hồ sơ có thể hiện bà đã khai như thế. Đến phần này thì hội đồng xét xử không cho hỏi nữa, với lý do ngay trong bản cáo trạng thì đã có 1 phần nêu là nội dung này kèm với 157 tỷ sẽ được tách ra giải quyết bằng 1 vụ án khác. Sẽ mở 1 vụ án khác.”
Trong hồ sơ có thể hiện bà đã khai như thế. Đến phần này thì hội đồng xét xử không cho hỏi nữa, với lý do ngay trong bản cáo trạng thì đã có 1 phần nêu là nội dung này kèm với 157 tỷ sẽ được tách ra giải quyết bằng 1 vụ án khác. Sẽ mở 1 vụ án khác. – LS Hoàng Văn Hướng
Một nhận định khác trong việc Hội đồng xét xử từ chối không cho bà Châu Thị Thu Nga thực hiện lời khai được Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội hơn 14 năm, cho biết ông hoan nghênh những bị can, bị cáo chịu khai như thế.
“Nhưng có khi chủ toạ can, nói là đừng khai vì nó nhạy cảm, phức tạp…Nhiều vụ án người ta sẵn sàng khai, vì người ta vô đây người ta cho là cửa tử rồi, tại sao không khai? Tại sao lại để chết một mình? Cho nên có chứng cứ hay không có chứng cứ thì cơ quan điều tra có trách nhiệm phải chứng minh, đó là một nguồn chứng cứ được cung cấp, thì phải nghe, tại sao lại không cho người ta khai?
Không cho người ta khai là vi phạm tố tụng, vi phạm pháp luật.”
Báo Tuổi Trẻ Online cũng có một bài bình luận về sự việc này, trích dẫn ý kiến của Thạc sĩ Trần Thanh Thảo, giảng viên khoa Luật hình sự Trường đại học Luật TP.HCM cho biết “Việc không cho bị cáo Châu Thị Thu Nga khai về khoản tiền 1,5 triệu USD là không đúng quy định pháp luật.”
Trong vai trò là luật sư bào chữa cho bà Châu Thị Thu Nga, Luật sư Hoàng Văn Hướng một lần nữa cho biết bản cáo trạng có ghi những lời khai của bà Nga, kể cả việc dùng số tiền trị giá 1 triệu 500 ngàn đô la Mỹ để được làm Đại Biểu Quốc Hội là chưa khách quan và chưa đúng.
Ông nói thêm về mức độ được tham gia trong tiến trình tố tụng với tư cách người bào chữa cho bà Châu Thị Thu Nga:
“Trong gần 3 năm điều tra, truy tố và đến nay là xét xử bà Nga, thì hoàn toàn trong quá trình ấy, chúng tôi là luật sư nhưng không được tham gia vào quá trình điều tra kể cả xét hỏi.”
Không cho người ta khai là vi phạm tố tụng, vi phạm pháp luật. – LS Trần Quốc Thuận
Cần phải xem xét lại
Vấn đề được tranh luận sôi nổi tại phiên xử bà Châu Thị Thu Nga trong hai ngày qua, là nội dung của lời khai bị từ chối của bị cáo.
Nói về điều này, luật sư Hoàng Văn Hướng cho biết dư luận hiện đang rất quan tâm vấn đề, và bản thân ông cho rằng nó không phù hợp và không đúng.
“Bởi vì việc chạy vào Đại biểu Quốc hội thì nó không thuyết phục được chúng tôi vì việc vào được đại biểu quốc hội hay không là quyền quyết định của cử tri bằng các lá phiếu ở các đơn vị bầu cử.
Cũng không có 1 thế lực nào, 1 ông nào, 1 người nào có quyền lực có thể đưa vào Đại biểu Quốc hội được. Việc đăng ký, ứng cử Đại biểu Quốc hội là công khai. Thứ 2 nữa, bầu là do hàng triệu cử tri bầu chứ không phải do 1, 2 người quyết định được.”
Do đó, theo luật sư Hoàng Văn Hướng, lời khai của bị can Châu Thị Thu Nga là 1 chứng cứ chưa thuyết phục ở thời điểm này, và cần phải được xem xét lại.
Ngược lại, một ý kiến khác từ Luật sư Trần Quốc Thuận cho rằng việc chạy chức, chạy quyền, chạy danh, thậm chí chạy tuổi, vốn dĩ là một điều không mới lạ ở Việt Nam. Bình luận về sự việc của bà Châu Thị Thu Nga đang làm xôn xao dư luận, theo cách nhìn của ông, ông cho biết.
“Ở Việt Nam, khi bầu cử người ta hay nói là Đảng cử dân bầu. Câu đó khá phổ biến. Người ta nói chưa bầu đã biết trúng cử. Cho nên thường địa phương sắp xếp sẵn những người dự kiến trúng cử và những đối thủ địa bàn. Thường người ta nói những cuộc bầu cử tốn kém hình thức không cần thiết. Người ta muốn có 1 cuộc bầu cử rộng rãi dân chủ hơn, tranh luận sôi nổi hơn.
Cho nên vì vậy mới có chuyện ‘chạy’. Nếu cuộc bầu cử mà để cho dân tự chọn thì chạy để làm gì?”
Khi đã là Đại biểu Quốc hội, trong những cuộc họp, vào giờ giải lao thì quyền tiếp cận với tất cả các người lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước này. Như thế, người ta có thể “chạy” một vài dự án hay một vài câu chuyện thì…lấy lại “vốn” rất nhanh. Bỏ ra thì phải thu hồi vốn chứ. – LS Trần Quốc Thuận
Chia sẻ thêm về từ “chạy”, Luật sư Trần Quốc Thuận nói rằng lẽ ra chạy là chạy về phía hàng vạn người dân với những chủ trương, chính sách phù hợp để người dân đồng lòng bỏ phiếu cho mình.
Đại biểu Quốc hội: Bất khả xâm phạm
Phân tích thêm về sự việc “chạy chức Đại biểu Quốc hội” đang được bàn tán trong dư luận, Luật sư Trần Quốc Thuận đưa ra một nhận xét về vị trí được gọi là Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam.
“Nếu vào một chức danh, mà nhất là Đại biểu Quốc hội thì bất khả xâm phạm. Đã là Đại biểu Quốc hội thì trước nhất nó có cái danh vọng rất lớn, theo luật thì gọi là bất khả xâm phạm.
Khi đã là Đại biểu Quốc hội, trong những cuộc họp, vào giờ giải lao thì quyền tiếp cận với tất cả các người lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước này.
Như thế, người ta có thể “chạy” một vài dự án hay một vài câu chuyện thì…lấy lại “vốn” rất nhanh. Bỏ ra thì phải thu hồi vốn chứ.”
Bà Châu Thị Thu Nga năm nay 52 tuổi, là một doanh nhân ngành bất động sản ở Hà Nội và là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 13, từ năm 2011 đến năm 2016.
Dự định phiên tòa xử vụ án của bà Châu Thị Thu Nga sẽ kết thúc vào ngày 10 tháng 10.
Những oan hồn của cuộc chiếnSau khi đăng bài viết “Những oan hồn của cuộc chiến” của nhà báo Bùi Tín gửi, chúng tôi nhận được ý kiến phản hồi của nhà văn Nguyên Ngọc, cho rằng, trong bài viết, có một đoạn nhà văn Bùi Tín “bịa đặt”.
Chúng tôi đã chuyển thông tin đó cho nhà văn Bùi Tín và cũng đã nhận được phản hồi của ông. Cuối bài viết này là thông tin cập nhật nội dung trao đổi ý kiến giữa nhà văn Nguyên Ngọc và nhà báo Bùi Tín.
Xin các nhân chứng sống của cuộc chiến, những người đã từng đi B, cũng như các gia đình tử sĩ có con em bỏ mạng trong cuộc chiến, hãy đóng góp ý kiến, giúp làm rõ sự thật này.
Lính Mỹ truy bắt Việt Cộng tại Đà Nẵng, tháng Tư 1965. Nguồn: AP
Bộ phim Chiến tranh Việt Nam của các đạo diễn Hoa Kỳ gây nên nhiều tranh luận, ý kiến khác nhau của người Việt trong và ngoài nước.
Đó là điều tất yếu vì cuộc chiến tranh kéo dài gần 30 năm, liên quan đến nhiều nước, với những động cơ khác nhau, không thể làm thỏa mãn mọi người.
Đây là một dịp bổ ích và lý thú để công luận có thể được dịp phát biểu thêm, soi tỏ thêm nhiều điều mới mẻ, những góc tối của cuộc chiến, từ đó có thể bổ xung cho nhau nhiều hiểu biết mới để soi tỏ thêm quá khứ, hiện tại và tương lai của các bên tham chiến trong mối quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay.
Một số nhà báo, làm phim truyền hình người Việt, người Pháp, Hoa Kỳ, Đức… phỏng vấn tôi nhân dịp này. Tôi đã phát biểu ý kiến của mình.
Với tư cách là một nhân chứng sống, từng tham dự cuộc chiến từ ngày đầu đến ngày cuối, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam, ở chiến trường Cam-bốt cũng như ở Lào, tôi có nhiều suy nghĩ, kỷ niệm về cuộc chiến tranh, nay có dịp để nói lên những điều quan trọng bị khỏa lấp mà bộ phim hoành tráng của các nhà làm phim Hoa Kỳ không đề cập đến.
Nhiều bạn hỏi tôi, nếu tôi tham gia một bộ phim khác về Chiến tranh Việt Nam, tôi sẽ nói lên những điều gì? Tôi có khá nhiều điều cần phát biểu về cuộc chiến, khi tưởng nhớ, ngẫm nghĩ lại về cuộc chiến. Qua bài báo này trước hết, tôi muốn nói đến những oan hồn của cuộc chiến.
Tôi có một số người thân, ông chú, các anh chị em họ Bùi vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã bị Việt Minh chụp mũ cho là Việt gian, bị bắt giam sau Cách mạng tháng Tám. Tiêu biểu là ông Bùi Nhữ Uyên chú ruột tôi từng theo cụ Nguyễn Thượng Hiền, người cùng làng sang Nhật Bản vận động cho phong trào Đông Du và sau đó về Trung Quốc, tham gia Việt Nam Quang Phục hội của Cụ Phan Bội Châu. Chú tôi bị bắt năm 1946, bố tôi (Bùi Bằng Đoàn) lúc đó là trong Ban Thường trực Quốc hội can thiệp với ông Hồ chí Minh, ông Hồ lệnh cho chính quyền tỉnh Hà Đông thả ngay chú tôi, nhưng đúng vào đêm lệnh thả đến nhà giam ở Vân Đình thì chú tôi mất vì «đau bụng» khẩn cấp. Bạn tù cùng giam cho rằng chú tôi bị trại giam đầu độc.
Những oan hồn tôi không thể quên. Việt Minh từ hồi đó coi tất cả các đảng yêu nước chống Pháp là Việt gian, như Quốc Dân đảng, Đại Việt, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Cách mạng đồng minh, đệ tứ (Trostkyt)… Họ phê phán rất mạnh cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, coi là sai lầm thân Tàu, chuộng Pháp.
Tôi còn nhớ trước năm 1940 – 1941 số đảng viên Quốc dân đảng rất đông, vượt con số đảng viên đảng CS Đông dương ở các nhà giam, ở Côn Đảo. Rất nhiều giáo viên tiểu học các xã, huyện, trí thức nông thôn tham gia phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Rất nhiều trung nông, phú nông, cả địa chủ nhỏ có học tham gia đảng này, về sau bị Cải cách ruộng đất kiểu Mao vu cáo là địa chủ ác bá, là việt gian, bị sát hại gần hết, theo thống kê khi sửa sai con số oan hồn này lên đến hơn 15.000.
Ngoài số nói trên cần kể đến oan hồn của các nhà yêu nước Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm – lãnh đạo nhóm Troskyt, tướng Nguyễn Bình và nhà sử học Trần Huy Liệu – nguyên là đảng viên Quốc dân đảng, cụ Đặng Văn Hướng – nguyên Bộ trưởng không bộ do ông Hồ phong chức và cụ Nguyễn Khắc Niêm, thân sinh ông Nguyễn Khắc Viện, chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước ở Pháp – 2 cụ đều bị tàn sát trong Cải cách ruộng đất.
Cũng cần ghi thêm trong danh sách các oan hồn những cán bộ cộng sản có ít nhiều thức tỉnh đã bị thải loại, ra rìa, như tướng Đặng Kim Giang, tướng Nguyễn Vịnh, các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Trọng Nghĩa, Lê Minh Nghĩa, Hoàng Minh Chính… trong vụ án «xét lại», Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán… trong vụ Nhân văn Giai phẩm, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Nguyên Giáp… từng có tư duy độc lập chống lại một số chủ trương chính sách của đảng.
Các đồng đội của tôi vào Nam chiến đấu theo lời nguyện «sinh Bắc tử Nam để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc», chết vài chục vạn, hơn 300.000 tử sĩ hiện chưa tìm ra thi hài mộ chí, cũng là những oan hồn, nỗi đau lòng uất hận của hàng vài triệu bố mẹ, anh chị em ruột thịt. Đó là những oan hồn vì khi chiến đấu, tự nguyện hy sinh, các đồng đội của tôi đều mang theo hy vọng rồi gia đình mình, bố mẹ anh chị em mình, đồng bào mình sẽ được hưởng độc lập tự do, an bình, phồn vinh hạnh phúc. Những hy vọng thiêng liêng ấy đến nay vẫn còn xa vời. Ngược lại đất nước còn bị ách Bắc thuộc từ sau mật đàm Thành Đô năm 1990, tự do tư tưởng, ngôn luận còn bị cấm đoán, trừng phạt, an ninh của nhân dân, nông dân, trí thức, nhà kinh doanh tự do bị đe dọa, các chiến sỹ yêu nước, đòi tự do cho nhân dân bị tù đầy, chênh lệch giàu nghèo tồi tệ hơn thời phong kiến, thực dân, đảng cộng sản biến thành lực lượng kìm hãm đà tiến bộ, phát triển của đất nước, mắc nợ hàng triệu oan hồn đã hy sinh do những lời đường mật giả dối.
Tôi có nhiều anh em, cháu, – con các bà chị ruột và chị họ vào Nam chiến đấu và hy sinh ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, Bình Định nay vẫn chưa tìm ra thi hài, mộ chí. Đã đến lúc phải nói thẳng ra là gia đình và các cháu đã bị lừa. Họ đưa ra Luật nghĩa vụ quân sự, tuyên truyền về vinh quang trai thời loạn là sinh Bắc tử Nam, cưỡng bức các cháu bỏ học cầm súng, bắt ký các bản tình nguyện nhập ngũ, buộc bố mẹ phải ký tên «vinh dự hiến con cho Tổ quốc», trong khi con cháu các quan lớn hầu hết đều được xuất ngoại học tập ở Liên Xô, Trung Quốc , Ba lan, Đông Đức, Tiệp… Một sự bất công khổng lồ. Bố mẹ các cháu tôi lo nghĩ tiếc thương con, ban đêm xụt xùi khóc, nhưng vẫn phải tỏ ra vui vẻ khi tiễn con vào Nam. Các cháu đều miễn cưỡng ký giấy «tình nguyện vào Nam chiến đấu, đâu cần xin có mặt» theo ý nguyện (cưỡng bức) của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Cả một khoa học bịp bợm thành hệ thống.
Tôi đã từng nhiều lần vào Nam cùng các đơn vị, vào Bình Trị Thiên, rồi vào Tây Nguyên – Kon Tum, Gia Lai, vào Bình Định, Buôn Ma Thuột, Bình Long, Sài Gòn… có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời. Hoặc có khi tử trận, nhưng giấy báo tử để chậm vài năm là thường, vì chiến tranh khốc liệt, tử sỹ nhiều, đơn vị giải thể, tiêu tùng hết, nhiều đơn vị sát nhập vào nhau, sổ sách mất, cháy, chỉ huy thuyên chuyển liên miên, không có nền nếp chính quy, kiểu du kích, đại khái, lem nhem.
Cho đến chuyện quản lý tù binh Mỹ chặt chẽ, có sổ sách hàng ngày mà cuối cùng vẫn mất tích, không lý giải được, lên đến hơn 100 người, đủ biết công việc quản lý của quân đội thời chiến luộm thuộm ra sao.
Ở các nước văn minh, với quân đội hiện đại, họ rất quan tâm đến việc thông tin, thư từ gia đình quân nhân được chuyển nhanh nhất, chu đáo nhất đến tay chiến sĩ ngoài mặt trận. Đây là trách nhiệm, đền đáp thiết thực có ý nghĩa nhất những hy sinh của gia đình và các quân nhân. Ở Việt Nam, đảng Cộng sản cho việc cố tình bặt tin là biện pháp cưỡng bức để các chiến sĩ không còn suy nghĩ thao thức mong chờ thư đi từ lại, một lòng một dạ hy sinh chiến đấu cho những mục tiêu riêng của đảng. Đây là món rất độc của chiến tranh tâm lý. Vì nếu tự do thư từ, thông tin, các chiến sĩ sẽ kể về những trận đánh thiêu thân, cả đơn vị chết quá nửa như sau tết Mậu Thân thì hậu phương sẽ bị chấn động, rất nguy hiểm để kêu gọi tiếp những đợt «sinh Bắc tử Nam», mà phần lớn sẽ không trở về.
Ngoài hàng mấy chục vạn oan hồn trên đây, tôi không thể không nhắc đến vài vạn người chưa chết nhưng bị những oan khiên dằn vặt không kém các oan hồn kể trên. Họ rất đáng thương, nhưng xã hội đã lãng quên họ.
Đó là chừng 20.000 cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân (theo thống kê chưa đầy đủ của Cục quân lực Bộ Tổng tham mưu) vào Nam bị chiêu hồi bởi Việt nam Cộng hòa, sau chiến tranh trở về gia đình ở miền Bắc, đã bị hỏi tội, bỏ tù, cải tạo, trả thù, bôi xấu, hạ nhục, hành hạ ra sao, bị gia đình xỉ vả, láng giềng khinh miệt, không sao ngẩng mặt lên được. Theo tôi biết, rất đông anh em đó ở Hà Nội, Hà đông, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh… Một số bảo mạng, cầu an, không chịu được gian khổ, căng thẳng, nhưng không ít có ý nghĩ lành mạnh, không đang tâm bắn vào anh em trong một cuộc huynh đệ tương tàn phi lý vô đạo nên đã chịu chiêu hồi, hy vọng khi chiến tranh kết thúc, không ai nỡ trị tội mình. Đã có nhà văn nào nói lên thảm cảnh của số anh em bị chiêu hồi rồi trở về quê quán này để tiếp tục bị oan khiên, kêu trời không thấu này. Đã có tổ chức xã hội nào cúi xuống nâng đỡ các số phận đen đủi này, tất cả chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phi lý vô đạo do đảng Cộng sản gây nên vì những mục tiêu và cuồng vọng riêng.
Nếu tôi tham gia dựng lên những bộ phim về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi sẽ nói đến bản chất của chiến tranh, qua những mặt tối, những góc tối bị che dấu, bị che lấp, nhưng oan hồn, những nỗi oan trái chưa được biết, để có thể nói lên hết mặt trái của cuộc chiến tranh không anh hùng, chẳng oanh liệt, một cuộc nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn đáng hổ thẹn, đáng sám hối. Tít bộ phim có thể là «Những oan hồn – hay mặt trái của chiến tranh», hay «Một cuộc chiến đầy dối trá», cũng có thể là «Cuộc chiến của những người nô lệ», vì đảng Cộng sản tự nguyện làm nô lệ cho học thuyết Mác – Lênin, rồi qua đó bắt nhân dân, quân đội làm nô lệ cho những tham vọng riêng của đảng, để cho đất nước lạc hậu, tàn lụi đổ nát, bất công như hiện nay.
Ông Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Sài Gòn, một đảng viên cộng sản kỳ cựu rất có lý khi đề nghị mỗi ngày kỷ niệm 30/4 là một cuộc Sám hối và xin lỗi của đảng Cộng sản đã chủ động gây nên những tổn thất về sinh mạng, tài sản, thời gian của dân tộc đến mức quá sức chịu đựng của nhân dân, để lịch sử có thể sang trang, đất nước có một chế độ chính trị dân chủ, độc lập thật sự, lãnh thổ toàn vẹn, có nhân quyền, phát triển phồn vinh cho toàn xã hội.
____
Cập nhật lúc 11h20 ngày 5-10-2017: Chúng tôi có nhận được email của nhà văn Nguyên Ngọc, nội dung như sau:
“Kính gửi Ban biên tập Tiếng Dân,
Tôi vừa đọc trên Tiếng Dân hôm nay bài ”Những oan hồn của cuộc chiến” của ông Bùi Tín, thấy có đoạn trong file kèm đây là hoàn toàn sai, bịa đặt:
“Có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời”.
Trong chiến tranh chống Mỹ, tôi đã ở chiến trường miền Nam 13 năm, biết rõ hoàn toàn không có sự cấm đoán ”độc ác” nào với việc liên lạc thư từ giữa những người chiến đấu ở miền Nam và người thân ở miền Bắc. Tất nhiên là liên lạc có khó khăn, do chiến sự, nhưng tuyết đối không có chuyện cấm đoán, thậm chí trái lại còn được khuyến khích. Rất dễ hiểu: để người cầm súng yên tâm chiến đấu. Cũng dễ hiểu những thư từ đó không được tiết lộ những bí mật quân sự mà mọi người lính đều biết.
Không biết ông Bùi Tín bịa ra chi tiết này để làm gì, sẽ chỉ khiến cho những điều khác do ông nói ra có thể đúng sẽ trở nên khó tin. Khách quan, trung thực, đứng đắn bao giờ cũng cần thiết.
Nguyên Ngọc”
_____
Cập nhật lúc 22h09 ngày 5-10-2017: Chúng tôi có nhận được email hồi âm của nhà văn Bùi Tín, nội dung như sau:
“Thân gửi cô Ngọc Thu và anh Nguyên Ngọc,
Rất cám ơn cô NT đã đăng bài và cho biết ý kiến của anh Nguyên Ngọc.
Tôi hơi bất ngờ vì tôi nghĩ anh Nguyên Ngọc cũng rõ cái tình cảnh không có thư từ liên lạc công khai, chính thức qua bưu điện Nam – Bắc ra sao. Sự bặt tin là phổ biến. Tôi đã sống với cả đại đội ở chiến trường miền Nam hàng tháng, đều là như thế. Anh em chỉ có thể gửi thư tay cho cán bộ, anh em bị thương trở ra miền Bắc đưa tay hộ. Hầu như 100% là thế.
Sao anh NN lại nói là thư từ được gửi bình thường?! Xin hỏi các anh em đi B mà xem. Các gia đình tử sỹ thì rõ.
Tôi có kinh nghiệm bản thân, 3 lần đi B – vào Nam là như thế. Đi 8 tháng, 1 năm rưỡi mà bặt tin. Vợ trẻ, con gái 6 tuổi, con trai 2 tuổi mà bằng bẵng 8 tháng không một tin nào. Gửi ai được? đành chịu. Tôi còn nhớ ghé qua Bộ Chỉ huy Quân khu 5 gặp anh Nguyên Ngọc, các bạn đi bắn con rộc – con vượn bao tử cho ăn cháo rộc. Còn nhớ mãi.
Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán … nên báo tử chậm một cách phổ biến. Cục Chính sách của Tổng cục Chính trị cho biết chậm trung bình là 18 tháng! Nhiều tử sỹ được anh em bạn từ miền Nam ra báo, sau mới được Bộ Quốc phòng báo chính thức.
Cháu Hưng 19 tuổi và cháu Hiệp 23 tuổi của tôi con 2 bà chị hy sinh ở Quảng Ngãi, Bình định đến nay vẫn không tìm ra mộ, thi hài. Cháu Hiệp học rất giỏi, là lớp trưởng. 2 cháu đi không có một lá thư, hy sinh không có một vật gì để lại.
Tôi thấy tất cả là sự thật. Xin làm một cuộc điều tra xã hội học công khai khách quan thì sẽ rõ.
Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi.
Tôi luôn định cho mình sự trung thực trên hết, và cả cái quyền tự do phán xét có trách nhiệm.
Tôi rất quý anh Nguyên Ngọc về tính ngay thẳng, và sự gắn bó với lý tưởng Phan chu Trinh.
Có gì xin anh trao đổi thêm.
Quý mến,
Bùi Tín
Cô Ngọc thu có thể đăng lời nói lại trên đây. Cám ơn“.
_____
Cập nhật lúc 11h10′ ngày 6-10-2017: Chúng tôi có nhận được thư của nhà văn Nguyên Ngọc, nội dung như sau:
Thưa anh Bùi Tín,
Tôi vừa nhận được thư anh. Vì đã có quen biết anh, nên nói thật chuyện này khiến tôi buồn.
Ngay trong thư vừa gửi, anh đã tự mâu thuẫn. Đoạn trên anh vừa nói: “Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán … nên báo tử chậm một cách phổ biến”. Chỉ mấy dòng dưới anh đã viết ngược lại: “Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi”. Lần này anh bảo anh “nghi”, còn lần trước, trong bài đăng trên Tiếng Dân, anh khẳng định và kết tội rất dứt khoát: “… đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác”, và bảo đó là “một điều ít ai biết” nay anh phát hiện, tố cáo “một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam …” Sự phát hiện này quả thật rất ấn tượng đối với người chưa biết!
Anh đã ở Tổng cục Chính trị, rồi ở báo Quân đội Nhân dân và cả báo Nhân dân khá lâu, tôi tin anh biết rõ không có một chủ trương hay chính sách như vậy. Thư từ chậm, có khi hằng năm, mấy năm, là do, như chính anh biết và nói “chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán”, sao anh lại bịa ra chuyện chủ trương, chính sách độc ác?
Tôi cũng nghĩ chắc chắn anh biết ta không phải là Mỹ, không hiện đại như họ, tổ chức liên lạc của ta khó hơn họ gấp trăm lần. Sao lại quy cái đó thành “cưỡng bức tinh vi”? Thật buồn!
Tôi ở quân khu 5 mười ba năm, tôi biết ở quân khu còn có cả một bộ phận quân bưu để lo việc thư từ cho cán bộ chiến sĩ. Cũng xin chú ý: nếu quả có một chủ trương cắt liên lạc một cách tuyệt đối giữa người đã vào chiến trường với người thân ở Bắc, thì đương nhiên người ta cũng sẽ kiểm soát chặt và ngăn cấm cả việc gửi thư tay. Mà việc này, thì anh biết quá rõ, không ai kiểm soát và ngăn cấm cả, còn được hoan nghênh, khuyến khích … Đây là lô gích rất thông thường, sao anh lại bịa chuyện khác?
Tôi luôn nghĩ việc phản đối, chống lại những sai trái, to lớn và quan trọng hơn nhiều, của đảng và nhà cầm quyền là đúng và cần thiết. Nhưng phải đường hoàng, đứng đắn, không bịa đặt để cố bôi nhọ thêm, chỉ có thể phản tác dụng.
Đôi lời xin nói lại. Mong anh hiểu.
Nguyên Ngọc
____
Cập nhật lúc 12h13′ ngày 6-10-2017: Ý kiến của nhà văn Nhật Tiến, như sau:
Kính anh Bùi Tín,
Theo đề nghị của anh, tôi xin đóng góp một chút dữ kiện. Hồi còn sinh thời, trước năm 1975, Nhật Tuấn em trai tôi cũng đã đi B và lặn lội vài năm trên đường Trường Sơn. Sau 1975, khi Nhật Tuấn vào Sài Gòn, anh em chúng tôi có dịp hàn huyên nhiều chuyện. Khi đề cập đến chuyện nhà, Tuấn có than rằng nhiều năm xa Bố (sống ở Hà Nội), vậy mà không bao giờ có dịp viết thư hỏi thăm vì trong cuộc chiến làm gì có chuyện thư từ qua lại. Ngay cả khi đồng đội có người bỏ xác trên chiến trường cũng không có chuyện thư từ báo tin về cho gia đình hay nữa. Như vậy có ai cho rằng “anh bịa đặt xấu xa” theo tôi là không đúng. Riêng tôi, vẫn theo dõi các bài anh viết, tôi rất cảm phục sự trung thực và tấm lòng của anh đối với đất nước.
Nhật Tiến
____
Ý kiến của ông Nguyễn Quốc Khải:
Cám ơn anh Bùi Tín.
Một số phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam do quân đội Hoa Kỳ phổ biến mà tôi được xem cho thấy bộ đội miền Bắc không có phương tiện chuyên chở trong vùng rừng núi. Cho nên sau nhiều trận giao tranh, trước khi vôi vã rút lui, họ chỉ có thời giờ vội vã chôn vùi bộ đội tử thương trong nhửng mồ chôn tập thể trong rừng núi. Vì vậy chuyện mất xác là chuyện bình thường. Miến Bắc cố tình dấu con số thương vong.
Bộ Đội Việt Nam có nhiều binh tử trận và mất tích ở Campuchia, cho tới nay vẫn chưa tìm thấy hết. Do đó mà trong những lần các nhà lãnh đạo cao cấp của VN gặp lãnh đạo Campuchia đều thảo luận về ba vấn đề then chốt là (1)Tranh chấp biên giới; (2) Người gốc Việt sống ở Campuchia; và (3) binh sĩ Việt mất tích tại Campuchia theo các bài tường thuật của báo Việt Nam gần đây. Việt Nam chiếm đóng Campuchia từ 1978-1889. Trong 10 năm đã không hoàn tất được việc tìm kiếm này. Do đó, VN liên tục kêu gọi Campuchia giúp đỡ.
Thành ra, những lời anh kể phản ảnh đúng sự thật.
Nhân tiện xin gửi các anh chị hai bài báo mới. Bài tiếng Anh có nội dung như bài tiếng Việt nhưng phải cô đọng lại vì số chữ có giới hạn, nhắm vào độc giả Mỹ. Có thể một số anh chị đã có bài này rồi thì xin bỏ qua.
Nguyễn Quốc Khải
____
Cập nhật lúc 19h30′ ngày 6-10-2017: Chúng tôi có nhận được email của nhà báo Bùi Tín, nội dung như sau:
Anh Nguyên Ngọc nói các trạm Giao Liên hồi ấy nhận đưa thư của cán bộ chiến sỹ ra Bắc là điều tôi không hề thấy , dù đã qua mấy chục Trạm giao liên. Không có 1 trạm nào nhận chuyển thư riêng, chỉ chuyển công văn. Nên chỉ có thể gửi thư tay, mà hiếm lắm, vì người vào Nam thì đông, người ra Bắc thì quá hiếm. Tôi nghi và nghĩ rằng đây là một sự cố tình tinh vi.
Tôi biết, tự tin là tôi không xấu tính, bịa đặt vu cáo ai như anh Nguyên Ngọc nhận xét. Biết mà không nói, không dám nói là không nên, là có tội với dân, với nước, với đồng đội.
Tôi đi B 3 lần; đều bặt tin tuyệt đối. Tôi nhớ vợ, 2 con, 7 chị, 1 em ruột, 1con gái lên 6, 1 con trai lên 2, mong tin nhà khắc khỏai mà đành chịu. Tôi về nhà gầy ốm 52 cân chỉ còn 39 cân, vợ tôi khóc than buồn khổ, nhưng may mà còn sống. Không như 2 cháu tôi, ra đi cho đến hy sinh là biệt tăm tích.
đây là một góc khuất của cuộc chiến mọi người cần biết, ngẫm nghĩ cho cuộc đấu tranh hiện tại.