Văn Bút Quốc tế ( PEN) chọn Mẹ Nấm là một trong năm người tiêu biểu cho “Ngày của người cầm bút bị tù đày “ 2017

From facebook:   Trần Bang‘s post.

 

Image may contain: 3 people, text

Trần Bang

Văn Bút Quốc tế ( PEN) chọn Mẹ Nấm là một trong năm người tiêu biểu cho “Ngày của người cầm bút bị tù đày “ 2017

Bản tin ra ngày hôm qua 15.11.2017 với hàng tít “Văn bút Quốc tế (PEN) tưởng nhớ những người cầm bút trong tù” được đăng trên trang web của đài 3sat, một trong những đài truyền hình lớn của Đức, cho biết Mẹ Nấm là một trong năm trường hợp tiêu biểu được Văn bút quốc tế lựa chọn cho “Ngày của người cầm bút bị tù đày” năm 2017.

Bản tin đã trích thông cáo báo chí của Trung tâm Văn bút Đức ở Darmstadt – CHLB Đức: Nhân “Ngày của người cầm bút bị tù đày” -ngày 15 tháng 11- tổ chức Văn bút quốc tế P.E.N. vinh danh những người cầm bút mà bị tước đoạt tư do. Năm người được PEN lựa chọn là những trường hợp đại diện tiêu biểu cho các đồng nghiệp của họ đang hàng ngày bị đàn áp hoặc thậm chí bị giết chết.

Cho “Ngày của người cầm bút bị tù đày” năm nay 2017 năm tác giả được chọn là Ramón Esono Ebalé (Equatorial Guinea), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Vietnam), Cesario Alejandro Félix Padilla Figueroa (Honduras), Razan Zaitouneh (Syrien) và Zehra Doğan (Thỗ Nhĩ Kỳ).

Phần giới thiệu về Mẹ Nấm bản tin đã viết như sau: Nữ Blogger người Việt Nam Nguyễn Ngọc Như Quỳnh nổi tiếng với bút hiệu “Mẹ Nấm” bị kết án 10 năm tù hồi tháng 6 năm 2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống lại nhà nước XHCN Việt Nam” theo điều 88 Bộ luật hình sự. Phiên tòa phúc thẩm dự trù xét xử vào ngày 27.09.2017 đã bị dời lại vô hạn định mà không nêu lý do tại sao (chú thích của người dịch: tin mới nhất cho biết phiên tòa phúc thẩm sẽ diễn ra vào ngày 30.11.2017).

Văn bút quốc tế tin tưởng rằng, Mẹ Nấm bị bắt giam chỉ vì thực hiện ôn hòa quyền của bà được tự do phát biểu và diễn đạt quan điểm. Cho nên, Văn bút quốc tế yêu cầu trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho Mẹ Nấm.

Thông cáo báo chí (phần giới thiệu Mẹ Nấm) của Trung tâm Văn bút Đức
Kể từ năm 1980, Văn Bút Quốc Tế PEN đã quyết định chọn ngày 15.11. làm “Ngày của người cầm bút bị tù đày” (Day of imprisoned writers/ Tag des inhaftierten Schriftstellers). Đây là một ngày quốc tế được tổ chức hàng năm để nhắc nhở đến số phận của các nhà văn, nhà báo, họa sỹ hí họa, nhà xuất bản và blogger bị giam cầm và ngược đãi một cách vô lý trên khắp thế giới và tưởng niệm những người đã bị giết vì họ thực thi quyền tự do ngôn luận.

Mỗi năm PEN quốc tế lựa chọn 5 trường hợp đại diện tiêu biểu cho các đồng nghiệp của họ, nạn nhân của các chế độ độc tài, áp bức, thiếu dân chủ.

Theo Trung tâm văn bút Đức, mạng Internet đóng một vai trò lớn ở các nước mà quyền tự do bày tỏ ý kiến bị trấn áp, vì vậy những Blogger ngày càng bị rơi vào tầm ngắm của nhà chức trách. Những nước độc tài đang tăng cường biện pháp ngăn cấm phổ biến tác phẩm trên mạng Internet để bịt miệng những tiếng nói chỉ trích phê bình. “Đặc biệt gắt gao là Trung Quốc và Việt Nam”, ông Josef Haslinger Chủ tịch Trung tâm văn bút Đức phát biểu nhân Ngày của người cầm bút bị tù đày.

Hiếu Bá Linh – Thoibao.de

Lời tự thuật của Thi sĩ HỮU LOAN,

From facebook:   Nguyen Dang Hung‘s post.
 
Image may contain: 1 person, outdoor and closeup
Image may contain: 1 person, cloud, sky, outdoor and nature
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: one or more people and text
No automatic alt text available.
+2
Nguyen Dang Hung added 6 new photos — with Hoa Kim Ngo and 88 others.

 

XIN ĐĂNG LẠI MỘT BÀI, TÔI ĐÃ ĐỌC BAO LẦN MÀ LẦN NÀO TÔI CŨNG KHÔNG CẦM ĐƯỢC NƯỚC MẮT…
__________________________________________________
Lời tự thuật của Thi sĩ HỮU LOAN,
tác giả “MÀU TÍM HOA SIM”

Hữu Loan 
++++++++

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.

Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..

Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:- Thầy có thích ăn sim không ?- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ …

Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.- Thầy ăn đi.Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:-Ngọt quá.Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.

Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn …

Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.

Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!

Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông …

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi …

Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.

Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông.

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.

Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

Màu tím hoa sim
(Nguyên văn của tác giả)

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệrớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Hữu Loan

© Hữu Loan
Nguồn: Huỳnh Ngọc Chênh blog.

Lời Chúa tuần này

Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 25, câu 29,30)

Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,

Suy Tư Tin Mừng tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017

 Tin Mừng (Mt 25: 14-30)

Bấy giờ, Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Người kia sắp đi xa, gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông đưa cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn, và gây lời được năm yến khác.

 Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy đến và yêu cầu họ thanh toán sổ sách. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này” Ông chủ đáp: “Anh thật là tôi tớ xấu và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

 “Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,”

“Bởi mùi hương ngự trị, cánh hoa tàn.”

(dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)

            Mất tình/mất tiền, nào mấy sợ. Bởi, tình/tiền xưa nay còn đó vẫn rất hiền. Cái dễ mất nhất, là niềm tin Chúa gửi nơi lòng dạ con người từ xưa đến nay. Lòng dạ ấy nay đà thấy ở trình thuật, ngày Chúa nhật.     Trình thuật Chúa nhật về niềm tin để luột mất, là ý tứ và ý từ được thánh Mat-thêu đềcập đến qua dụ ngôn kể lại hôm nay. Dụ ngôn, nay kể về “yến bạc” giao cho các người đầy tớ để sinh lời. Dụ ngôn, nay mang nặng tình tiết nối tiếp truyện kể đọc tuần trước, cũng đề cập việc sử dụng và đầu tư của cải vào mọi chuyện.

Thời xưa,“yến bạc” là đơn vị đo lường trọng lượng. Đó, là đồng cân nặng nhất trong hệ thống cần lường. Yến bạc, được dùng để cân đo vàng/bạc, kim loại, và đồ đồng. Mãi về sau, con người mới dùng nó làm đơn vị tiền tệ. Với người Do thái, một yến bạc tương đương với 3,000 shekels, tương tự định mức cân lượng mà người thường mang vác được.

Lịch sử sau thời của Chúa và vào thời thánh Mát-thêu, thì một yến bạc tương đương với 6,000 quan tiền người La Mã. 6,000 quan tiền, tương đương với lợi tức mà công nhân bình thường ở huyện có khả năng kiếm được trong vòng 15 đến 20 năm. Đó, cũng là lối nói thông thường về “một tấn tiền quan” người La Mã.

            Người chủ được nói đến ở dụ ngôn, là người bận rộn, phải đi xa một thời gian không biết trước được hạn định. Ông trao cho 3 người tớ của ông 3 lượng tiền khác nhau. Một người, những 5 yến bạc. Kẻ kia chỉ hai yến. Còn người chót, chỉ mỗi yến một. Tất cả đều tuỳ khả năng của mỗi người.

Nhưng, ông lại không cho họ biết phải làm gì với số bạc ấy. Ông coi mọi người như kẻ chín chắn. Chững chạc. Ông rất tôn trọng tự do và sức sáng tạo, của mỗi người. Và, ông cũng chẳng hề nghĩ là ông đã trao phần ít ỏi cho người đầy tớ thứ nhì và thứ ba. Bởi, mỗi yến bạc khi ấy nặng cả tấn tiền.

            Về cốt truyện thì ai cũng đều đã tỏ. Hai người tớ đầu, đều biết mình phải làm gì với số lượng yến bào do chủ ủy thác. Tức, sử dụng nó một cách mẫn cán, hiệu quả. Cả hai người này đều làm lợi cho chủ nhiều điều thấy rất rõ. Trong khi đó, người đầy tớ cuối lại không hành xử hệt như thế. Y đào đất chôn tiền quan xuống đó, tưởng rằng làm thế tức tạo sự an toàn, đúng đắn như bỏ vào két sắt/quỹ tiết kiệm, mà chẳng biết đầu tư cũng chẳng sinh lời sinh lãi.

            Đó là biện pháp an toàn tối thiểu mà người khờ-khạo nhất cũng nghĩ ra. Tức, không sinh lợi nhưng cũng chẳng làm hại, chẳng thua lỗ điều gì. Tức, không tạo tăng trưởng, nhưng cũng chẳng làm ai thiệt thòi hoặc mất mát. Y ta đem về cho chủ đúng số lượng buổi ban đầu do chủ giao, chẳng dùng vào việc chi hết. Cất như thế, có bỏ công tìm kỹ cũng chẳng thấy được dấu tay, hoặc vết tích.Thật ra, y ta chẳng làm điều gì sai trái cả vì có làm gì đâu mà có sai sót.

            Dụ ngôn cũng cho thấy: hai người đầy tớ đầu được chủ tặng thưởng rất hậu hỹ. Lại được chủ gọi đích danh “tôi tớ lương hảo và trung trực”. Tức, nhận nhiều trách nhiệm sẽgặt hái được nhiều niềm vui. Trong khi đó, người tớ chót bị chủ cho là thành phần bất hảo/lười biếng, đáng trách. Nói đúng ra, phải gọi anh ta là kẻ vô tích sự, chẳng làm được gì nên chuyện, loại người ăn không ngồi rỗi, rất đáng buồn. Thế nên, họ mới bị lên án, dù chẳng lỡ lầm hoặc sai trái.

            Có lẽ khi viết lên dụ ngôn này, thánh sử Matthêu đã mang trong đầu ý tưởng về hai nhóm người Do thái khá quan trọng, vào thời ấy, nếu đem so với nhóm thứ ba. Hai nhóm đầu, là những người đại diện cho cộng đoàn Qumran. Nhóm thứ ba tượng trưng cho đám Biệt Phái, rất Pharisêu.

            Qumran là nơi ta tìm ra Cảo Bản Biển Chết. Ở nơi đó, thấy có cộng đoàn sống chia cách/tách rời xã hội mình đang sống. Tách và rời, khỏi đền Giêrusalem để rồi đi vào chốn sa mạc lặng lẽ, trong hang động. Hang động họ sống, quanh Qumran, bị người La Mã phá huỷ vào thời chinh chiến suốt từ năm 68 đến 70 sau Công nguyên. Nên, cũng chẳng tồn tại khi thánh Matthêu viết lên Tin Mừng của thánh nhân vào niên biểu thứ 85. Và, thánh nhân cũng thừa biết là nhóm người này từng chôn giấu yến bạc đạo đức ở đâu đó, trong hầm tối của chính mình.

            Pharisêu là nhóm người có mặt nhiều hồi thánh Mat-thêu còn sống. Họ là những đối tác chuyên kình chống lại thánh nhân. Vào dạo trước, Đức Giêsu cũng có cảm tình với những người này. Và ngược lại, họ cũng biết điều với Ngài trong nhiều chuyện.

Nhưng 40, 50 năm về sau, thế giới của họ đã biến đổi một cách khác hẳn. Sau ngày đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ, đám Pharisêu lại trổi lên thành nhóm lãnh đạo dân Do Thái quyết tập hợp lại với cuộc sống ở ngoài đời. Trước thời thánh Matthêu sống, đám Pharisêu đã củng cố chỗ đứng của họ và phô trương cho mọi người thấy cung cách chỉ biết sống theo luật và luật.    

            Và từ đó, họ tìm cách rút khỏi tầm ảnh hưởng của người La Mã để còn áp đặt mọi chuyện lên dân con của chính mình. Nói theo ngôn từ đạo đức, thì thời đó, đám Pharisêu là nhóm hướng dẫn việc đạo hạnh quyết đưa mọi người rời thế giới thực tại thời bấy giờ. Họ chính là những người cột chặt tinh thần câu nệ lề luật sau hàng rào bảo vệ của Torah.

            Thánh Matthêu chẳng ưa gì nhóm người này. Thánh nhân chỉ muốn sống theo tinh thần của Đức Giêsu chủ trương bằng vào tương quan cởi mở, gọn gàng và nhẹ nhàng hơn. Thánh nhân chủ trương tinh thần biết sử dụng các “nén bạc” do Đức Giêsu và Thần Khí Ngài tặng ban. “Nén bạc” nói ở dụ ngôn hôm nay, không chỉ mang nghĩa kim tiền/của cải thôi; nhưng, còn biểu trưng quà tặng về năng khiếu như khi ta đề cập đến kỹ năng âm nhạc, ngôn ngữ, toán học hoặc những thứ khác.

            Thông điệp thánh Mátthêu gửi mọi người bằng dụ ngôn hôm nay, luôn mang tính giản đơn, thẳng thắn, trực tiếp. Ý thánh sử muốn nói, là: ân huệ Chúa ban cho mọi người vẫn thừa thãi, tràn đầy, không cạn tiệt. Nếu ta lại đem chôn ân huệ Ngài ban xuống đất, khác nào người đầy tớ vô tích sự, kể ở trên.

                                                     Truyện dụ ngôn hôm nay còn làm người đọc liên tưởng đến chuyện “Trân Châu Cảng”. Ở cảng này, tầu thuyền neo đậu đâu nào có nghĩa mình sẽ an toàn thoải mái mãi suốt đời? Chỉ hiện diện sống ở đó thôi, đâu có nghĩa mình sẽ được an toàn cả phần linh thánh lẫn mặt đời.

            Tình tự chuyên lo sống an toàn, được ghi rõ ở nhiều thông điệp được Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI tỏ cho giới trẻ biết trên báo đài lẫn Đại Hội Giới Trẻ ở Cologne, Sydney lẫn Madrid. Đức Giáo Hoàng đề cập đến Đạo Chúa như tình yêu cao cả, và mặc khải quý hiếm.

Đối với ngài, làm tín hữu Đức Kitô là nhận lãnh ân huệ cao cả và quý hiếm Chúa vẫn ban. Ân huệ Ngài ban cho mọi người, sẽ là đôi cánh tiên để ta bay cao vút, lên cõi tiên. Ân huệ Chúa ban, còn là sứ mạng gửi đến mọi tín hữu. Sứ mạng ấy, là dự án để ta thực hiện vào mai ngày. Là, đem chân, thiện, mỹ vào cuộc sống rất thực để rồi ta tập trung đời mình vào những gì quan yếu, thiết thực thôi.

             Đức Giáo Hoàng từng bảo: giả như Hội thánh mình biết sống thực như thế, ắt hẳn cuộc sống của mình sẽ mãi mãi trẻ trung, suốt mọi thời. Có sống như thế, thánh hội của Chúa sẽ không bao giờ trở nên chai lì, cằn cỗi. Bởi, Hội thánh là hội của các thánh biết kết hiệp với Chúa, tức cội nguồn tuổi trẻ, rất sống động. 

            Nay, điều cần là mỗi người và mọi người nên để cho qua đi tâm tư mỏi mệt và tâm tình nhiều huỷhoại. Để rồi, sẽ hướng nhìn về phía về nơi có sự cao cả đích thực là di sản của Đạo Chúa. Đó, còn là “nén bạc” mà Chủ Tể vũ trụ đã trao cho mỗi một người, trong cuộc đời. Đó, là sứ mệnh khiến ta chọn lựa. Chấp nhận. Sứ mệnh, là: sử-dụng nén bạc Ngài trao hầu xây dựng tương lai mai ngày cho thế giới mình chung sống. Thế nên, hãy dấn bước thâm trầm mà tiến tới. Tiến về phía trước mặt, dù đời người muôn mặt, để còn sinh lợi “nén bạc’ hiếm quý Chúa trao ban, cho ta và cho mỗi người.

            Trong tâm tình cảm kích chấp nhận nén bạc Ngài ban, ta lại sẽ ngâm nga lời ca, còn đậm nét:

 “Xa tít tắp từ rừng xưa cổ tích,

Cỏ xanh mềm ảo hoá giấc phù vân.

Mùa thu ấy đôi mắt buồn man mác,  

Ngong ngóng chờ hoài niệm hoá rêu xanh.”

(Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

           Nguyệt Quỳnh đây, có thể không là “nén bạc” quý hiếm Chúa gửi gắm. Nhưng, vẫn là huệ ân/ân huệ mọi người trông ngóng biến thành những gì có lợi cho mình, cho mọi người, ở đời.

            Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Anh không chết đâu em,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017

 “Anh không chết đâu em,”

anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang,

trong lòng muôn người biết thương đời lính.”

(Trần Thiện Thanh – Anh Không Chết Đâu Anh) 

(Rôma 12: 10-13)                  

Ấy chết! Đang sống đành rành như người thường là những người sẽ chết bất cứ lúc nào, mà sao anh cứ hát những lời thế? Hát thế, thật như “trù ẻo” tôi và bạn, vẫn từng muốn sống hết đời mình, cho trọn vẹn.

Thôi thì, anh muốn hát thế nào thì hát, nhưng cứ hát chữ “chết chóc” hoặc “chết bất đắc kỳ tử” là tôi đây thấy rợn xương với xương sườn rồi đấy anh ạ, hỡi Trần Thiện Thanh, rất lành của tôi và của bạn.

Thôi thì, anh đã hát rồi, thì tôi nay nghe tiếp những lời lẽ khác, như sau:

“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương,
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu.
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau.
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi.

Anh, anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính.
Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công.
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học chuyện anh riêng anh riêng anh.
(Trần Thiện Thanh – bđd)

Về nỗi chết, hôm nay bạn và tôi, lại có những giòng chảy ý-tưởng cứ chảy mãi không ngừng, một thần học. Thần học đây, là môn học về thần linh, thánh ái có những điều rất cần để ý. Hệt như tác-giả ở bên dưới từng biện luận. Thế nhưng, trước khi đi vào luận-giải những tư-tưởng và/hoặc tâm-tư rất tưởng-tượng, mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm những lời sau đây:

“Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm màu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh

Không, anh không, anh không chết đâu em anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Và thêm vào đó, là những giòng kể lể rất chuyện đời của con người, mà rằng:

“Sáu giờ sáng. Bà lão bảy mươi tuổi , loắt choắt như chim sẻ ngồi ở bậc thềm ngắm bình minh. Có đôi chim nào dậy sớm đang ríu rít trên ngọn cây gần đó. Nhưng bà còn dậy sớm hơn chúng dù luôn thức tới khuya lơ để săn sóc cho chồng. Nhiều năm rồi, kể từ khi chồng bà bị tai biến. Cũng nhiều năm rồi, sử dụng đồ vật hay máy móc trong các phòng, xê dịch từ góc này sang góc khác lúc làm việc nhà, tất cả bà đều thao tác thành thục và chính xác bằng quán tính chứ không cần nhìn rõ qua cặp kính dày cộm.

Bẩy giờ bà trở vào phòng ngủ, Ông đang thở đều, lồng ngực nhẹ nhàng nhấp nhô lên xuống, đôi mắt nhắm kín. Nhưng một giọng nói thốt ra rõ ràng: “Anh thức rồi, mình à”. Bà mỉm cười: “Để em lấy khăn và thuốc nhỏ mắt cho mình.”

Ông dùng tay phải lau kỹ mặt với chiếc khăn ướt âm ấm. Cách nay nhiều năm cánh tay trái bị hỏng vì tai nạn lao động, thế rồi sáu tháng trước, chân phải bị tổn thương, ông đành để bác sĩ tháo khớp. Ông chỉ còn sử dụng được một cánh tay. Có lần ông bảo bà: “Anh chẳng còn gì cả,mình nhỉ?” Bà vỗ vỗ lên ngực ông: “Còn nhiều chứ và phần tốt nhất ở đây này”.

Khi ông đã sẵn sàng, bà nhấn nút điều khiển nâng chiếc giường dựng lên để ông dễ ngồi dậy, rồi giúp ông ngồi vào xe lăn. Trong phòng tắm bà giúp ông cạo mặt, làm vệ sinh cá nhân buổi sáng, thay áo quần…Đã lâu rồi, mọi việc lớn nhỏ hàng ngày ông đều phải nhờ đến bà. Có lần ông hỏi: “Mình chưa bỏ anh chứ?” Và bà lắc đầu, cười: “Đời nào! Đã ngần ấy năm mà…”

Hai người vào bếp ăn sáng. Trên bàn, các món đã bày biện sẵn sàng, hai ông bà ngồi đối diện nhau, hai bàn tay phải vói qua mặt bàn và mười ngón tay lồng vào nhau, nắm chặt. Họ cùng nhau cầu nguyện… Trong lúc cầu nguyện, nước mắt ông lặng lẽ lăn dài xuống đôi má nhăn nheo. Uống xong tách cà phê, ông bảo bà: “Giá mà biết có ngày sẽ như thế này, mình chẳng đời nào chịu ra nhà thờ với anh, mình nhĩ?”

Bà nhìn thẳng vào mắt ông, nhỏ nhẹ: “Mình biết không, chỉ cần thấy mình cười, thấy ánh mắt mình nhìn em, thế là quá đủ rồi. Em chẳng còn mongmuốn thay đổi gì hết, ngoại trừ một điều. Đó là, nếu như mỗi năm, giá như em có thể thế chỗ mình một nửa thời gian, để mình lại được chăm sóc em”. (Truyện kể trích từ điện thư trên mạng)

Truyện kể ở trên, bạn và tôi có trích-dẫn từ điện-thư hoặc thư tay gửi từ đâu, dù là bưu điện hay vi-tính cũng không thành vấn-đề. Chỉ thành như thế, khi tôi và bạn, ta cứ đinh ninh rằng: truyện ở đây không phải để kể qua loa cho xong chuyện rồi thôi; nhưng còn là bài học để đời giúp ta sống vui, quên chết, mỗi thế thôi.

Truyện, có kể ra đây lại cũng chỉ để làm bàn đạp ngon trớn giúp bạn và tôi ta cứ thế tiếp tục bàn về những chuyện “không vui” cứ xảy đến mỗi ngày ở huyện dân gian hay trong khuôn viên nhà Đạo, cho mọi người lưu tâm, mà nhận xét. Những câu chuyện không vui, nhưng vẫn thành chuyện, hệt như chuyện an-tử lại khiến tôi và khiến bạn lưu-tâm thêm lần nữa, qua mục hỏi đáp, rất như sau:

“Thưa cha,

Con đây muốn viết cho vị dân biểu đại diện cử tri trong vùng về dự luật “an-tử” sẽ được thông qua ở Quốc hội tiểu bang New South Wales những ngày gần đây. Nhưng trước khi làm thế, con muốn hội ý với cha đôi ba sự việc để có được một số ý-kiến mà biện luận. Vậy bằng thư này, xin cha phúc-đáp cho vài ý-tưởng để khỏi trông ngóng. Cảm ơn cha rất nhiều. Xin cho được giữ kín tên tuổi.”

 Giữ kín tên tuổi, vẫn là việc của “chàng”, những chàng trai hay con gái ở huyện nhà rất quan tâm đến chuyện nhà Đạo đang diễn ra ở đây và ở đó, cũng rất nhiều. Chính vì thế, nên cha/cố đã săn sang giấy bút để trả lời/trả vốn cho đàn con nhỏ như sau:

“Việc cần-thiết, là tất cả mọi người chúng ta quyết phải làm để tránh “an-tử” tức: hành động giúp người khác tự sát đang được chính quyền hợp thức hoá, tại nước này. Những điều ẩn-hàm trong đó xem ra rất lớn. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị có bàn đến an-tử trong tông-thư mang tựa đề “Đời sống Phúc Âm” có bảo rằng: “Nay, ta đang giáp mặt một trong các triệu-chứng rất báo-động của “văn-hoá sự chết” đang tiến mạnh trong các xã-hội trù phú, được đánh dấu bằng thái-độ đối với mối bận tâm về hiệu-năng và thấy con số người già và người khuyết tật đang gia tăng đến mức độ khó lòng chịu đựng được là gánh nặng đối với nhiều người.” (X. Đời sống Phúc Âm đoạn 64)

Ở đây, tôi sẽ đưa ra sáu luận cứ để trả lời cho câu hỏi của anh/chị. Trước nhất, dự-luật đưa ra với quốc hội tiểu-bang New South Wales cho phép bất cứ ai trên 25 tuổi đang chịu đau đớn đến cùng cực được giúp đỡ để kết thúc sự sống của họ nều như có hai bác-sĩ chứng-thực rằng người ấy đang bị bệnh nặng hoặc ở trong tình trang sẽ phải chết trong không đầy một năm.

 Tất cả chúng ta thừa biết là mọi người khi trước đều nói rằng: bệnh nhân này chỉ sống được vài tháng nữa là cùng, thì nay người này lại hoàn toàn mạnh khoẻ trở lại, thế mới lạ. Giả như những người chọn kết liễu đời mình khi cảm thấy đau đớn quá sức mình, thì đó là mất mát lớn đối với chính họ, với bạn bè người thân trong gia đình! Người ta cũng phạm phải sai lầm khi nghĩ đến tuổi thọ. Hợp-thức-hoá an-tử chỉ tổ gia tăng vấn đề ấy mà thôi.

 Thứ hai là, cho phép được an-tử là dựng ra tiêu-chuẩn kép về tình-trạng xã-hội đặt giá-trị lên sự sống như thế nào. Một đằng, ta có lý để ân-hận chuyện chấm dứt sự sống bằng việc tự sát, chí ít là khi việc ấy do người trẻ tuổi nào đó thực-hiện và ta đang cố gắng ngăn chặn mọi người chớ có tự sát.

 Thế nhưng, đằng khác, ta lại hợp-thức-hoá an-tử đến độ có thể giúp đỡ người chấm dứt sự sống của họ nữa. Vậy thì, ta gửi cho những người muốn tự sát thứ thông-điệp nào đây? Ta có còn đặt giá-trị lên cuộc sống và xót xa/ân-hận khi có người tự sát hay không?          

 Thứ ba là, việc hợp-thức-hoá việc giúp đỡ người khác tự sát có lẽ sẽ làm gia-tăng tỷ-lệ tự sát, nói chung. Một khi việc giúp đỡ người khác tự sát được xã-hội chấp-thuận theo luật pháp có thể dẫn mọi người đến tình-trạng không còn đau đớn vì các bệnh nan-y bằng cách chấm dứt sự sống của họ.

 Chuyện này đầu tiên xảy ra ở bên Mỹ, tiểu bang Oregon là tiểu bang đầu tiên hợp-thức-hoá an-tử, thì tại đây việc tự sát nói chung lên đến 40% nhiều hơn con số bình quân trên toàn nước Mỹ. Vậy, ta có muốn tình-trạng ấy xảy ra ở nước mình không? 

Thứ tư là, tiếp theo chuyện đang bàn, thì: giả như ta mở rộng cửa cho việc hợp-thức-hoá việc giết chóc thì việc đẩy mạnh nói đây còn mở rộng hơn nữa. Lấy ví dụ, tại sao người trẻ 25 tuổi kia đang đau đớn vì bệnh ung-thư lại có thể kiếm được bác-sĩ giúp anh đi đến chỗ chết; trong khi đó, một thanh-niên 25 tuổi khác đau đớn vị bệnh trầm thống khập khễnh vì bệnh xốp xương lại không thể làm thế được?

 Nói cho cùng, thì cái đau của người bị ung-thư sẽ chấm dứt trong vòng một năm vì căn bệnh ở vào giai đoạn cuối, trong khi cơn đau của người bị trầm-thống hoặc xốp xương lại cứ tiếp diễn trong nhiều năm tới. Xem thế thì, luật-pháp quả là có kỳ-thị bệnh tật. Bởi thế nên, ta không thể mở rộng cửa cho việc này được. 

Thứ năm nữa, trợ tử hoặc giúp người khác chết cho xong không có nghĩa là công việc đầy lòng thương xót chút nào hết. Như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị từng viết trong tông-thư Đời sống Phúc Âm có bảo rằng: Cả vào khi không do động cơ ích-kỷ thúc đẩy vì phải chịu gánh nặng sự sống của người khác đang đau đớn đi nữa, phải gọi an-tử là lòng xót thương tầm bậy và đích thực là lòng thương người một cách méo mó gây bất an.

 Sự “khoan-dung” đích-thực đưa ta đến việc sẻ san cơn đau của người khác; nó không giết chết người đang đau mà ta không thể chịu nổi. Hơn nữa, hành-động trợ-tử hay an-tử hiện rõ bên ngoài càng quái ác hơn nếu nó lại do những người như thế thực-hiện, chí ít là bà con, thân thuộc là những người đáng lẽ phải cư xử với người trong gia đình bằng sự kiên-nhẫn và tình thương yêu, hoặc từ những người như bác sĩ/y tá là những người theo định nghĩa phải là những người chăm sóc người bệnh cả vào giai-đoạn đau đớn đi đến chỗ chết.(X. Tông thư Đời sống Phúc Âm đoạn 66)

Thứ sáu là, các chuyên gia y-tế được huấn luyện để chữa lành và cứu sống người bệnh, chứ không phải giúp họ mau đi đến chỗ chết. Lời thể Hippôcrát ở thế kỷ thứ tư hoặc thứ năm trước Công nguyên, mà các y- sĩ/bác sĩ buộc phải tuyên hứa có ghi như sau: “Tôi nguyện sẽ sử-dụng việc chữa-trị để giúp đỡ người bệnh thể theo khả năng và suy-xét của tôi, nhưng tôi không bao giờ có lập trường làm thương-tổn và hành-xử sai trái bao giờ hết.”

 Và lời cuối cùng thường là lời khuyên ngắn gọn bảo rằng: “Trước tiên, không bao giờ được làm hại ai hết.” An-tử gây tại hại lớn lao đến chết người. Nó dẫn đưa y sĩ và bác sĩ đi ngược lại những gì đi ngược lại mục tiêu mà họ nhắm đến.

 Ta không nên trông chờ các bác sĩ sử-dụng kỹ năng của họ để chấm dứt sự sống của bệnh nhân mà họ đang chữ trị. Nói chung, ta phải làm bất cứ thứ gì để chống-cự lại việc hợp-thức-hoá hành động tự sát có trợ giúp.” (X. Lm John Flader, Euthanasia is atrocious: let me count the ways, The Catholic Weekly 29/10/2017, Question Tỉme tr. 29)

Nói cho cùng, là người đi Đạo chỉ quan-tâm đến việc thương yêu giúp đỡ hết mọi người, dù họ đang trong tình trạng đau yếu, bệnh tật hoặc mạnh khoẻ. Bằng không đi Đạo, chỉ là đi đứng mà không theo Đạo làm người biết yêu thương, giùm giúp một ai hết.

Nói cho cùng, an-tử hay trợ-tử phải là vấn đề đặt ra cho ta và cho người suốt mọi thời, ở mọi nơi, mới được. Để có được một quyết tâm sống chính-đáng cho phải phép, với mọi người, có lẽ cũng nên quay về với lời khuyên từ bậc thánh-hiền trong Đạo, khi xưa vẫn bảo:

“Anh em hãy gớm ghét điều dữ,

tha thiết với điều lành;

thương mến nhau với tình huynh đệ,

coi người khác trọng hơn mình;

nhiệt thành, không trễ nải;

lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.

Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rôma 12: 10-13)                    

 Xem thế thì, nay đề nghị với bạn và với tôi, ta cùng nhau thực hiện ý-hướng ở trên qua lời lẽ gặp được trong ca-từ đầy “chết chóc” mà người xưa từng hát:

 “Không, anh không, anh không chết đâu em,

anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua!
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ.
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân.
Giọt nước mắt nóng bây giờ

và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Nước mắt nóng, hay nến vàng hắt hiu niềm nhớ, không là “nỗi chết: của ai đó, nhưng sẽ là lời cảnh tỉnh từ ca, nhạc sĩ vẫn gửi đến với tôi và với bạn, để sống hùng sống mạnh, sống đẹp đẽ trong đời người đầy chết chóc.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những tự nhủ như thế

suốt chuỗi ngày còn lại

trong đời mình. 

Lại xuất hiện biệt thự lộng lẫy của quan chức tại TP.HCM

Lại xuất hiện biệt thự lộng lẫy của quan chức tại TP.HCM

 

Nhiều năm trở lại đây, câu chuyện quan chức hoặc các cán bộ công chức nhà nước có lối sống xa hoa, ở biệt thự to, đi xe sang, đeo đồng hồ đắt tiền… luôn được dư luận đặt ra nhiều nghi vấn về nguồn gốc của những khối tài sản lớn đó. Việc cán bộ công chức giàu có, thành đạt về mặt kinh tế, tài chính sẽ là điều đáng vui cho đất nước, nếu như nguồn gốc của những tài sản đó là minh bạch và xuất phát từ tài năng, nỗ lực của chính họ trong cuộc sống.

Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước còn nhiều thách thức phần lớn đời sống nhân dân còn khó khăn thì sự tương phản trong lối sống xa hoa của một số bộ phận quan chức nhà nước, không chỉ tạo nên sự phản cảm lớn mà còn là nguồn cơn của những bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân.

Và biệt thự lộng lẫy được cho là của gia đình ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý kinh doanh nhà TPHCM, là trường hợp điển hình cho lối sống xa hoa này.

Đây là một trong những những căn biệt thự to đẹp nhất, tại khu vực trung tâm hành chính mới thành lập của quận 2 TP.HCM. Theo tìm hiểu căn biệt thư này tọa lạc tại số 30, đường Bát Nàn – Phường Thạnh Mỹ Lợi – Quận 2 – TP Hồ Chí Minh, sát cạnh ngay khu đô thị mới đảo Kim Cương – một trong những lô đất vàng hấp dẫn nhất trong thế giới bất động sản TP.

Biệt thự nằm sát cạnh ngay khu đô thị mới đảo Kim Cương – một trong những lô đất vàng hấp dẫn nhất trong thế giới bất động sản TP.

Có thể thấy căn biệt thự này được chủ nhân rất chăm chút, toàn bộ nguyên vật liệu xây dựng đều toàn là những vật liệu có giá trị đắt đỏ trên thị trường. Đặc biệt ngay sát cạnh căn biệt thự này là khu vườn rau sạch được ông chủ căn biệt thự làm riêng để phục vụ cho gia đình.

Theo nhận định của nhiều chuyên gia bất động sản, hiện trị giá của căn biệt thự to lớn và miếng đất đang được dùng để trồng rau ngay bên cạnh này phải lên đến hàng trăm tỷ đồng.

Đều đặn mỗi sáng ông chủ căn biệt thự này đến cơ quan làm việc trên chiếc xe sang trọng và có tài xế riêng đưa đón. Ngay cả những người thạo tin cũng không biết nhiều về hoạt động của ông, khi tra cứu thông tin trên các trang tin của Sở Nội vụ thành phố cũng như Thành Ủy, UBDN TP thông tin về nhân vật này rất hạn chế.

Dân nghèo vì nuôi cán bộ.

Có chăng chỉ là những quyết định thông tin bổ nhiệm, điều động công. Ngày 11/03/2016 Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong đã ký quyết định số 42/QĐ/UBNDTC về tiếp nhận và bổ nhiệm ông  Nguyễn Quốc Hùng giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý kinh doanh nhà TPHCM, thời gian giữa chức vụ cho đến khi nghỉ hưu.

– Nghe chừng các quan VN muốn học tập làm theo bác… Tập?

From facebook: Trần Bang
Bài dưới viết mâu thuẫn giữa phát biểu của quan chức VN với YouTube, google …, vậy bạn tin bên nào?

– Nghe chừng các quan VN muốn học tập làm theo bác… Tập? Nhưng quan trọng là người dân VN có muốn học theo mánh lới, gian dối kiểu Tàu không?

BBC: Hôm 17/11 tại phiên họp chất vấn Quốc hội, Bộ trưởng TT&TT cho biết Google đã “tuân thủ” trong việc gỡ bỏ hơn 5000 video “nội dung xấu, độc hại, bôi nhọ và làm xấu danh tính của nhiều lãnh đạo Việt Nam” trên Youtube.
Còn “Facebook tỏ ra kém hợp tác hơn,” VnExpress English dẫn lời ông Tuấn.

Tuy nhiên, Google, công ty mẹ của Youtube nói chỉ mới nhận được khoảng 50 yêu cầu gỡ bỏ, và từ 2009 đến tháng 12/2016 chỉ có 5 yêu cầu từ chính quyền Việt Nam, theo báo cáo minh bạch của Google.

Cũng theo VnExpress, ông Trương Minh Tuấn cũng “phàn nàn” về Facebook với các quan chức ngoại giao Hoa Kỳ trong một cuộc họp gần đây và bộ TT&TT cũng sẽ gia tăng xử lý các hành vi vi phạm trên Facebook.

Phần lớn thị phần thương mại điện tử của nước ngoài
Cũng trong chiều 17/11, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam chỉ trích các công ty nước ngoài nẫng tay trên “trăm triệu đôla” mà không đóng thuế.
Báo Thanh tra hôm 17/11 dẫn lời ông Đam nói: “Tiền quảng cáo các công ty nước ngoài điển hình là Facebook và Youtube chiếm tới 80% thị phần. Riêng số tiền mà hai công ty Facebook và Youtube năm vừa rồi thu được là 320 triệu đô la. Thời gian tới chúng ta phải có thái độ kiên quyết hơn với những vấn này”
Dẫn lời Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, báo này viết ở Việt Nam, “mạng xã hội 95% thị phần của nước ngoài; công cụ tìm kiếm 98% của nước ngoài; thương mại điện tử 80% của công ty nước ngoài…”
“Google có chính sách chia sẻ doanh thu cho người sản xuất nội dung nên các phần tử chống đối, thế lực thù địch lợi dụng người dân vì hám lợi tham gia sản xuất, đăng tải clip phản động lên mạng, coi đó là việc làm nhẹ nhàng thu nhập cao,” Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói theo báo Thanh tra.

Theo báo cáo năm 2017 của Freedom House, Việt Nam vẫn nằm trong những nước không có tự do internet

Xây dựng thương hiệu Việt thay thếGoogle, Facebook
Bộ trưởng Trương Minh Tuấn bày bỏ “tham vọng xây dựng thương hiệu cạnh tranh” với Google và Facebook.
Ông dẫn chứng một số quốc gia đã thành công trong việc này như Trung Quốc, vốn có mạng xã hội Weibo thống lĩnh thị trường nội địa và Nga, quốc gia có công cụ tìm kiếm riêng, Yandex.
Ông cũng đề cập đến một số trang mạng xã hội Việt Nam như Bamboo, Zalo, Zingme, vốn không cạnh tranh thành công đối với Facebook.
Ông Tuấn đề nghị “thí điểm triển khai một số cơ chế chính sách, với điều kiện ưu tiên đồng bộ cả thuế, tài chính, giảm thủ tục hành chính, có chính sách ưu tiên đặc biệt để quản lý thông tin hỗ trợ” các doanh nghiệp Việt Nam phát triển.
Theo báo cáo mới nhất của tổ chức Freedom House, Nga, Trung Quốc và Việt Nam đều nằm trong những nước bị đánh giá “không có tự do Internet”.

Image may contain: one or more people and text

TIN NÓNG !!!

From facebook: Phan Thị Hồng added 2 new photos — with Hoa Kim Ngo and 6 others.
 

TIN NÓNG !!!

Mừng Ngày Nhà giáo – Mừng Huân Chương Lao Động hạng Nhất.

Tin NÓNG đây! 
Nóng hổi đây!
Vừa thổi, vừa ăn !!!

Chủ lò ấp Tiến sĩ được ghi công và tưởng thưởng Huân chương Lao động Hạng Nhất.
Ha! Ha!…!

Đó là Võ Khánh Vinh, GS. TS. nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, nguyên Giám đốc Học viện KHXH.

Võ Khánh Vinh cũng là tên toàn quyền bán mãnh giấy Tiến sĩ và nó chính là Chủ Lò ấp Tiến sĩ.

Tên ma lanh này đã có công lao vô cùng to lớn:
Biến mảnh bằng tiến sĩ danh giá thành mảnh giấy lộn.

*
Một hôm thằng cu đi làm về, nó khoe:
– Mẹ! Con đi học cao học.
Trong lòng mừng thầm, mẹ nó hỏi:
– Con sẽ học trường nào?
– Dạ! Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội!
– Trời!
Rồi mẹ nó té xỉu, …

Anh nó đi làm vừa về, hỏi nguyên nhân, anh nó giận dữ:

– Mầy là con bò, mầy tiêm nhiễm cộng sản quá nặng, hết thuốc chữa rồi !

Sau nầy, nó mới biết cái mãnh giấy lộn có tiêu đề “Bằng Tiến sĩ” đó, không có giá trị bằng mãnh giấy chùi đít trong phòng vệ sinh.

– Đề án đào tạo 9.000 TS, hoang phí 12.000 tỷ đồng ngân sách quốc gia cho giai đoạn 2018-2025 cũng chỉ là một đề án đào tạo ra những con bò tiến sĩ cấp quốc gia.

Tương tự hằng vạn con bò tiến sĩ đã đào tạo tạo trước đây trong đề án 911 (2011) đào tạo 23.000 tiến sĩ và 20.000 tiến sĩ (năm 2000).

Tham khảo bài đăng của Chú Tễu
https://www.facebook.com/nguyenxuan.dien.1/posts/1126271284142478

No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, standing, sitting and indoor

Đại diện XHDS nói gì với phái đoàn ngoại giao EU?

Đại diện XHDS nói gì với phái đoàn ngoại giao EU?

Nhà báo và nhà hoạt động Phạm Đoan Trang nói với BBC là bà đã được công an thả về vào tối khuya 16/11
Bản quyền hình ảnh PHAM DOAN TRANG
Nhà báo và nhà hoạt động Phạm Đoan Trang nói bà được công an thả về vào tối khuya 16/11

Một nhóm các nhà hoạt động của Việt Nam ở Hà Nội vừa có cuộc gặp với một số thành viên của đoàn ngoại giao EU trong một sự kiện được cho là chuẩn bị cho đối thoại thường niên được dự kiến vào tháng 12/2017.

Blogger Phạm Đoan Trang cùng ba nhà hoạt động khác gồm ông Nguyễn Quang A, Nguyễn Chí Tuyến và bà Bùi Thị Minh Hằng hiện diện trong buổi trao đổi hôm 16/11.

Bà Trang cho BBC biết khi trao đổi với phía đoàn ngoại giao, bà trình bày về ba vấn đề nổi cộm về nhân quyền ở Việt Nam.

“Về lao động, quyền người lao động, quyền mặc cả thương lượng tập thể, quyền đình công, quyền thành lập công đoàn độc lập ở Việt Nam chưa được đảm bảo,” blogger Đoan Trang nói.

“Những nhà hoạt động làm về vấn đề lao đồng là bị đàn áp mạnh nhất, như Nguyễn Thị Minh Hạnh, Hoàng Bình, dựa trên xác suất so với các tổ chức khác.”

“Tôi có đề cập đến Hội Anh em Dân chủ, bị dán nhãn là tổ chức phản động dù rất ôn hòa. Bị gán cho cái nhãn như thế thì không hội hiệp nào tồn tại được. Trong khi đó, Hội Cờ đỏ vốn có các hoạt động chia rẽ lương giáo và công giáo thì lại được bảo kê.”

“Tôi cũng nói đến quyền môi trường, quyền được sống trong một môi trường trong sạch, đặc biêt là môi trường Việt Nam bị tàn phá trầm trọng. Để đối phó thảm hoạ Formosa, làm sạch biển như thế nao làm gì để đảm bảo thực phẩm hải sản thì không thấy nói, chỉ thấy thấy đàn áp,” bà Phạm Đoan Trang nói.

Còn ông Nguyễn Quang A cho BBC biết ông “lưu ý các nhà ngoại giao EU về hai điểm”.

“Một là quá trình UPR, tức là kiểm điểm phổ quát chính quyền. Trong vấn đề này, Việt Nam đã thiếu sót rất nhiều. Tôi khuyến nghị EU xem lại xem [Việt Nam] thực hiện cái gì không hay không thực hiện gì cả.”

“Điểm thứ hai là thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam. Có rất nhiều cách để làm, chẳng hạn như bằng cách hỗ trợ chính phủ Việt Nam những biện pháp trợ giúp kĩ thuật, đào tạo, khuyến khích, những biện pháp mang tính xây dựng. Tuy nhiên, cùng lúc cũng cần phải lưu ý đến bản thân Việt Nam có nghĩa vụ tuân thủ luật quốc tế, tuyên ngôn về nhân quyền,” ông Quang A nói.

Blogger Phạm Đoan Trang cho biết bên EU tiếp nhận kiến nghị của các đại diện xã hội dân sự, nhưng nói “không thể đảm bảo dân chủ đến Việt Nam nhanh được.”

“[Nhóm xã hội dân sự] đề xuất rõ ràng là phải tăng cường sự tham gia của các xã hội dân sự vào trong việc giám sát quá trình thực thi thương mại tự do giữa EU và Việt Nam, như thành lập nhóm tư vấn… làm báo cáo hằng năm, mà người làm báo cáo không bị đàn áp, tham gia hội họp thì không bị bắt giữ như thế này.”

Theo bà Đoan Trang, nhóm các nhà hoạt động phản ánh với đại diện EU rằng năm qua là một năm tăm tối cho các nhà hoạt động.

“Hai bên thống nhất là chỉ có thể cố gắng thêm, cố gắng tác động bằng các cách để chính quyền thay đổi, bớt sự kiểm soát, tạo không gian cho xã hội dân sự để văn minh hơn, chuẩn quốc tế hơn. Cộng đồng quốc tế chỉ có vai trò thúc đẩy,” bà Đoan Trang nói.

Sau khi bị câu lưu ở đồn công an, Tiến sĩ Nguyễn Quang A viết trên Facebook
Bản quyền hình ảnh  NGUYEN QUANG A
Sau khi bị câu lưu ở đồn công an, Tiến sĩ Nguyễn Quang A viết trên Facebook “Cực lực phản đối an ninh chà đạp lên pháp luật”

‘Bị sách nhiễu, câu lưu’

Sau cuộc gặp kéo dài gần hai tiếng đồng hồ, kết thúc trước 12 giờ trưa, ngoài ông Nguyễn Chí Tuyến, ba nhà hoạt động còn lại đều bị phía công an “đưa về đồn làm việc”.

Ông Quang A và bà Minh Hằng được thả không lâu sau đó.

Tuy nhiên, bà Phạm Đoan Trang nói bà đã bị giữ lại tới tận khuya, sau vài tiếng đồng hồ ‘đôi co’ với phía lực lượng công an.

Nghệ An: ‘Hội Cờ Đỏ’ tự phát nhưng được phép?

Bà nói phía công an lấy điện thoại của bà và yêu cầu bà cung cấp thông tin cuộc gặp.

“Tôi nói nguyên tắc cùa nghề báo… tôi là người thu thập thông tin chứ không phải người chia sẻ thông tin,”

Bà sau đó được công an đưa về nhà và cho biết phía công an vẫn canh chừng trước nhà bà.

“Tôi không sợ, tôi luôn chuẩn bị tinh thần là đã vào là không ra nữa. Lúc họ thả về, tôi cũng không tin, ngay cả khi họ thả, họ có thể chuyển hướng lái.”

Đối thoại nhân quyền giữa EU-Việt Nam dự kiến sẽ diễn vào vào 2/12. Trước đó, Bộ trưởng Ngoại giao Thụy Điển bà Margot Wallström sẽ có chuyến thăm châu Á, trong đó có Việt Nam từ ngày 19-23 tháng 11.

Nếu nợ công là 431 tỷ USD, ai trả nợ cho DNNN thua lỗ?

Nếu nợ công là 431 tỷ USD, ai trả nợ cho DNNN thua lỗ?

Một câu hỏi đặt ra là những khoản nợ nần khổng lồ của các DNNN, các dự án ‘đắp chiếu’ thua lỗ và các đại án gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng ai sẽ chịu trách nhiệm và lấy tiền ở đâu để bù đắp, trả nợ.

Theo một phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, cựu Vụ trưởng Vụ thống kê của Liên Hiệp Quốc, vào năm 2011, nợ công việt Nam về thực chất đã tăng đến 106% GDP, nếu tính cả nợ của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Vào thời điểm đó, con số báo cáo của Chính phủ về nợ công quốc gia chỉ vào khoảng 50% GDP.

Đầu năm nay, tại hội nghị tổng kết ngành tài chính, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra cảnh báo rằng “nợ công nếu tính đủ đã vượt trần chứ không chỉ sát trần”. Người đứng đầu Chính phủ cũng dẫn lời chuyên gia nhận định nếu không chấm dứt tình trạng này thì sự sụp đổ nền tài khóa quốc gia là không thể tránh khỏi.

Tiến sĩ Vũ Quang Việt dẫn số liệu được cho là tin cậy cho thấy nợ Chính phủ năm 2015 là 115 tỷ USD bằng 59,5% GDP và ước tính nợ Chính phủ năm 2016 lên tới ít nhất 131 tỷ USD, bằng 63,9% GDP.

Theo phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nợ của khoảng 3.200 DNNN theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỷ đồng (231 tỷ USD), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỷ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của DNNN là 324 tỷ USD, bằng 158% GDP.

Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỷ USD, bằng 210% GDP.

Như vậy, cả nước làm ra 100 đồng nhưng có tới 210 đồng là vay nợ và nợ công tính theo đầu người Việt Nam sẽ rơi vào khoảng 100 triệu đồng.

Vô mánh lớn , 1,900 cây trụ điện luôn !

From facebook:   Son Dang‘s post.
 

Vô mánh lớn , 1,900 cây trụ điện luôn !
——————-

Bão mạnh nhưng liệu có thể quật ngã gần 1.900 trụ điện ở tỉnh Khánh Hòa? Liệu chất lượng các trụ điện có vấn đề?

Bão mạnh nhưng liệu có thể quật ngã gần 1.900 trụ điện ở tỉnh Khánh Hòa? Liệu chất lượng các trụ điện có vấn đề?
 
XALUANVN.COM