Sài Gòn và Hà Nội hay “Singapore & Paris Việt Nam”…

 Tạp Ghi Huy Phương

Sài Gòn và Hà Nội hay “Singapore & Paris Việt Nam”….

(Văn hóa của kẻ “thắng cuộc với văn hóa của người “thua cuộc”!!!)

Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn. Nhờ vậy, ở đây tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng, trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ cộng sản.

Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn, anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.

Tôi hỏi anh:

– “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”

Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ:

– “Vào đây xin 10 người cũng có được 6 người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”

Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc tính của miền Nam.

Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên sân thượng.

Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra. Cái cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo, trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên hạ.

Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!” Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội.

Cách biệt vì cách đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo, cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa cặn!”

Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”

Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?

Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.

Tôi dẫn một vài ví dụ:

Giao tiếp:

– Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.

– Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.

Hàng quán:

– Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.

– Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!

Ca ve:

– Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave…

Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”

Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”

Nhà sách:

– Hà Nội: Nhân viên hách dịch.

– Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!

Trong quán ăn:

– Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”

– Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”

Bạn bè:

– Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.

– Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!

Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”

Sau 42 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố “Singapore của bác” mà ở Hà… Paris… cũng lội!

Vô kỷ luật:

Sinh viên:

– Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.

– Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.

Giao thông:

– Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.

– Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.

Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội Paris và Sài Gòn Sing sẽ mãi mãi khác nhau vì chúng ngày càng gân hơn. Sự đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội Paris” ngày nay cho những người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác biệt.

Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian. Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.

Chúng ta yêu Sài Gòn chính là yêu chính chúng ta, cái bóng của dĩ vãng. Muốn Sài Gòn không đổi thay, chính lòng mình phải không thay đổi.

Hình minh họa: – Một xã hội đè lên nhau để chụp giựt…

May be an image of one or more people, people walking, people sitting, people standing, motorcycle, crowd and outdoors

Tháng Tư… Ngu! – TẠP GHI HUY PHƯƠNG…

 

 

RẤT NHIỀU NGƯỜI TRONG CHÚNG TA THƯỜNG MỞ MIỆNG CHỈ TRÍCH VIỆT CỘNG LÀ NGU – CHÚNG TA KHÔN HƠN.

ĐÃ 46 NĂM, CHÚNG TA VẪN CHƯA LÀM LUNG LAY ĐƯỢC CHẾ ĐỘ… CHÚNG VẪN NGỒI ĐẤY VÀ NẮM QUYỀN?! AI KHÔN & AI NGU ĐÂY?

***

TẠP GHI HUY PHƯƠNG…

Tháng Tư… Ngu!

Trước hết, tôi xin tự kiểm điểm cái ngu của bản thân mình trước, trong hàng nghìn cái ngu của thiên hạ, vì ngu mà phải mất nước, “lỗi tại tôi mọi đàng” hay “tôi làm tôi mất nước.”

Là một cán bộ chiến tranh chính trị trung cấp, hết làm tâm lý chiến, rồi chính huấn, tức là huấn luyện chính trị cho hàng nghìn tân binh tại một trung tâm huấn luyện lớn nhất nước, mà khi nghe Cộng Sản vào đến Sài Gòn, không chịu tìm đường chạy, vì cứ nghĩ mình gốc nhà giáo, hòa bình rồi, đi ‘học” mấy ngày rồi về dạy học lại!

Tôi ngu vì đã suy diễn hay hiểu sai thời gian đi “học tập,” nên chỉ đem theo 10 gói mì ăn liền Vifon, để ăn sáng trong 10 ngày, ngày thứ 11 đã ăn cơm nhà rồi!

Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định ra thông cáo tất cả các quân nhân cấp úy phải trình diện đi “học tập cải tạo,” mang theo tiền ăn trong 10 ngày, cấp tá mang theo tiền ăn cho một tháng. Sau này có người đi tù 17 năm ròng rã, chúng ta “chửi” Cộng Sản lừa dối, nhưng xem kỹ lại các văn bản, không thấy đoạn nào nói, cấp úy chỉ đi tù 10 ngày, cấp tá một tháng, mà chỉ nói “đóng tiền ăn.”

Chẳng qua, vì chúng ta hay suy luận, và ngây thơ, khờ dại nên mắc mưu sự khôn lanh, xảo quyệt của kẻ thù, đó chính là vì chúng ta ngu!

Sau này, ra Bắc, chính tai tôi đã nghe một quản giáo cai tù nói rằng: “Đưa các anh ra biển thì cũng từ từ, trước hết là gần bờ, sau mới dần dần đưa các anh ra xa hơn, nếu không các anh chóng mặt, say sóng, chịu làm sao nổi!”

Tôi đoan chắc anh em chúng ta, nhất là quý vị tướng lãnh, nếu biết được những ngày tù không bản án, mà có người ra đi biền biệt 17 năm trời, chịu bao nhiêu khổ ải, nhọc nhằn, nhục nhã, thì một nửa trong chúng ta đã tự sát tại nhà mà chết, hoặc chạy vào rừng để rồi cũng chết vì súng đạn của Việt Cộng. May hay rủi, vì ngu mà chúng ta mới sống đến ngày hôm nay.

Khi đến các địa điểm trình diện, không ai nghĩ “đi tù” mà chỉ nghĩ “đi học.” Tại trường Trưng Vương, là nơi trình diện từ cấp phó giám đốc trở lên, hai vị, một từng là phó thủ tướng VNCH, dân biểu, một vị đã là thượng nghị sĩ, đi học còn mang theo gối ôm, và khi xếp hàng vào cổng, có vị đã giành đi trước, vì có giấy giới thiệu của Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định. Sau đó, bộ đội Cộng Sản mới ra lệnh: “Ai có giấy giới thiệu thì đứng qua một bên!” Giấy giới thiệu đây là giấy gọi “trình diện” cho các viên chức cấp cao, còn đối với cấp nhỏ thì chỉ có thông cáo chung trên báo chí, đài phát thanh.

Những ai còn đứng lấp ló ngoài cửa chưa chịu vào, còn nghi ngại dò la thì những chiếc xe mang tên nhà hàng Soái Kình Lâm, Đồng Khánh… mang thức ăn vào quý vị dùng bữa tối, hẳn đã đánh tan mối hoài nghi về thiện ý của người thắng trận.

Đến khi lên xe Molotova, phủ bạt kín rồi, chúng tôi vẫn còn lạc quan tin lời Cộng Sản được đưa đến chỗ đầy “đủ tiện nghi,” (chắc là có đủ điện nước, máy lạnh, sân bóng chuyền…) để học tập và khi biết đoàn xe ra đến xa lộ Biên Hòa, thì việc di chuyển lên Đà Lạt như cầm chắc trong tay. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trường Chỉ Huy Tham Mưu, trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị là những nơi lý tưởng nhất để “học tập.”

Khi đến nơi ở tù rồi, Cộng Sản đưa tù vào một cái nhà kho, một trại gia binh hay một cánh rừng thì vẫn tin tưởng vào số ngày trong thông cáo, chờ ngày ra sân vận động Cộng Hòa làm lễ mãn khóa: “Quỳ xuống hỡi những cải tạo viên – Đứng lên hỡi những công dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam!”

Câu chuyện những người trên con tàu Việt Nam Thương Tín, Tháng Năm, 1975, sang đến đảo Guam rồi, lại đốt “barrack,” tuyệt thực để đòi “về với tổ quốc,” là một bài học xót xa cho những người trong cuộc, có người phải trả giá bằng 17 năm tù. Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh kể chuyện, anh em “tù cải tạo” tại trại tù K2, Nghệ Tĩnh, gọi những người này bằng biệt danh “đội q…!”

Tại trại 15 NV. Long Thành, một nhạc sĩ đã hồ hởi sáng tác những bản nhạc được cai tù bắt cả trại hát: “Trồng rau, trồng đậu, trồng tình thương trong tâm hồn người…” Ra tới Bắc Thái lại thêm một bài “Ngày vui đã tới!” nhưng mà “ngày về” thì xa lắc xa lơ!

Thậm chí khi lên con tàu chở súc vật Sông Hương lưu đày ra Việt Bắc rồi, có người vẫn lạc quan “biết đâu nó chở tù miền Nam ra Đệ Thất Hạm Đội Hoa kỳ hay đi thẳng qua Guam để giao cho Mỹ!” Tàu chạy hơn một ngày một đêm rồi mà vẫn nghĩ là cập bến Đà Nẵng chứ không ai nghĩ là lên cảng Hải Phòng.

Ở trong nhà tù vẫn còn người tin tưởng “học tập, lao động” tốt thì được “Cách Mạng” cứu xét cho về với gia đình sớm, nên làm trối chết, kiệt sức, đấu tố anh em… để lấy điểm với cán bộ, cũng như đau xót cho quý bà ở nhà, dắt díu con cái đi vùng “kinh tế mới” cho chồng sớm được tha! Sau 10 “bài học tập,” tới buổi “thu hoạch” thì cứ nghĩ là viết hay thì được tha về, viết dở thì ở lại “học” tiếp.

Trước ngày 29 Tháng Ba, 1975, khi Cộng Quân chưa vào Đà Nẵng, một số người thuộc phe hòa hợp hòa giải tin tưởng thời cơ đã đến nên đã sắp đặt đưa Bác Sĩ Phạm Văn Lương lên làm thị trưởng Đà Nẵng, tin sau đó được đài BBC loan báo. Trong lần phỏng vấn bà quả phụ Phạm Văn Lương tại Nam California, bà xác nhận với chúng tôi Bác Sĩ Phạm Văn Lương chưa bao giờ là thị trưởng Đà Nẵng, nhưng có chuyện là khi có nguồn tin này, một vị trung tá đã đến gặp ông xin làm tài xế cho ông, để nhờ ông che chở, lánh nạn. Sao có người “ngu” đến mức như thế!

Ngày 5 Tháng Tư, 1975, Bác Sĩ Phạm Văn Lương cùng nhiều y sĩ khác bị đưa vào nhà tù Kỳ Sơn, và một năm vào ngày 3 Tháng Tư, 1976, Bác Sĩ Lương đã uống thuốc ngủ cùng 10 viên cloroquine để tự tử.

Trong những ngày cuối cùng của miền Nam, Tướng Dương Văn Minh vẫn còn tin tưởng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Nhưng cuối cùng, tiếng than cuối cùng tuyệt vọng của “Tổng Thống” Dương Văn Minh là: “Thầy giết tôi rồi!”

Có những người làm lớn hoặc từng “làm rung rinh nước Mỹ” mà còn ngây thơ như vậy, thì đừng trách chi một thằng lính như tôi tin tưởng vào lời của “cách mạng” đem đủ 10 gói mì ăn liền, là… ngu!

Quân tử, ngay thẳng, ngây thơ mà đối đầu với tiểu nhân, xảo trá, độc ác thì không chết cũng bị thương.

Tôi đâm ra nghi ngờ những lời kêu gọi chúng ta rằng, hãy “đem đại nghĩa để thắng hung tàn,” để rồi từ đó cho đến ngày hôm nay mọi người đều biết và thấy nhan nhản chuyện “cường bạo áp đảo cả chí nhân!” !!!

Mỹ nhân và danh tướng

Tạp ghi Huy Phương

***

Mỹ nhân và danh tướng

Người xưa có câu thơ về cái chết trẻ của những người đẹp và tướng giỏi: “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu!” Dịch sát nghĩa là: “Người đẹp từ xưa như tướng giỏi. Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc đầu!”

Chúng ta xem đây là một lời than tiếc hay chính là định mệnh của con người, tướng giỏi thường chết sớm ngoài trận địa và người đẹp ít khi sống đến già.

Những câu thơ này phát xuất từ Trung Hoa không phải là sai. Cả “tứ đại mỹ nhân” nổi tiếng nhan sắc khuynh thành của Trung Hoa đều chết yểu, không những chết sớm mà còn bị chết “bất đắc kỳ tử!”

Tây Thi sau khi nhà Ngô bị diệt, bị phu nhân Câu Tiễn cột đá dìm sông; Vương Chiêu Quân uống thuốc độc tự tử; Điêu Thuyền bị Quan Võ chém; Dương Quý Phi được Đường Huyền Tông “ban” cho một giải lụa trắng để kết liễu cuộc đời. Đúng là “hồng nhan bạc mệnh!”

Sáu danh tướng trong Tam Quốc Chí thì chỉ có Tào Thực sống đến 40, còn thì Tôn Sách, Quách Gia, Bàng Thống, Chu Du… không ai được “hưởng thọ” mà chỉ được đến… “hưởng dương.”

Ngày trước, thuở thiếu niên, tôi mê tướng Hạng Võ thời Đông Chu, có tài “bạt sơn cử đỉnh,” một người đánh thắng vạn người,” cuối cùng tận đường, không qua Ô Giang để về Giang Đông, phải tự sát trong khi mới có 31 tuổi. Lãng mạn, bi hùng biết mấy với những màn kịch “Hạng Vũ biệt Ngu Cơ” hay “Tiếng dịch sông Ô,” “Hận Ô Giang.” Tướng tài phải chết trẻ.

Napoleon Bonaparte sống được 51 tuổi nhưng phải chết trong cảnh tù Ðày. Alxandre Đại Đế chỉ sống được 31 năm. Quang Trung lẫy lừng chiến tích, cũng mất khi mới 39 tuổi.

Ngày nay, tướng lãnh không còn phi ngựa ra trước hàng quân, giữa trận tiền, trước lằn tên mũi đạn như trong các cuộc chiến ngày xưa, nhưng miền Nam chúng ta có những vị tướng lãnh lỗi lạc, cũng phải chết vì trận mạc, vì tai nạn trực thăng, tất cà đều còn rất trẻ, chưa qua được tuổi 50. Đó là Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn năm 42 tuổi, Tướng Nguyễn Viết Thanh năm 39 tuổi, và Tướng Trương Quang Ân, khi còn rất trẻ, chỉ mới 36 tuổi. Phải chăng danh tướng từ xưa đến nay, không qua được định mệnh “bất hứa nhân gian kiến bạc đầu!”

Bài này lấy ý từ những cái chết gần đây của Tướng Lê Minh Đảo và các ca sĩ Quỳnh Giao, Thái Thanh, Mai Hương, Lệ Thu…

Ông Lê Minh Đảo không phải là những vị tướng còn trẻ, Thái Thanh, Lệ Thu…cũng đã bước vào tuổi già. Ca sĩ cũng được xem như mỹ nhân, vì trong nghiệp ca cầm, ít nhất phải có chút nhan sắc mới thành được ca sĩ.

Ca sĩ là người của công chúng, tướng lãnh là người của lịch sử. Họ được người đời hâm mộ và yêu mến, nên khi chết đi, đã để lại cho đám đông những ngậm ngùi thương tiếc.

Xót xa biết bao khi chúng ta có dịp được gặp lại những ca nghệ sĩ lừng danh một thời, hiện nay đáng sống ẩn khuất, cô đơn lặng lẽ, bị bỏ rơi, quên lãng trong một nhà già lập nên cho giới nghệ sĩ sân khấu nào đó. Nhưng hơn hết, khi các bạn có dịp đi thăm để gặp lại một vị tướng lãnh oanh liệt một thời, nay phải thúc thủ với số mệnh, trên chiếc xe lăn, sống cô quạnh ở trong một ngôi nhà dưỡng lão, ảm đạm buồn nản thiếu một không khí ấm cúng của một mái ấm gia đình.

Tướng lãnh, phải chăng nơi nằm xuống của họ là chiến trường, không phải như sự ví von “da ngựa bọc thây,” thì cũng phải với một lá cờ tổ quốc, và chung quanh là chiến hữu, đồng đội. Buồn thay là những vị tướng lãnh về già, sống trong sự quên lãng của mọi người, âm thầm chịu đựng những cơn đau của thể xác và nỗi đau cô đơn của tinh thần.

Võ Nguyên Giáp, viên tướng Cộng Sản vẫn thường được đề cao trên sách vở bên kia, “hết nửa đời sau,” đã phải sống trong sự coi thường, khinh miệt của đồng đảng, mang danh là đại tướng “cầm quần chị em” thay vì cầm quân….. khi bị giao cho nhiệm vụ làm phó thủ tướng vô quyền, phụ trách Ủy Ban Dân Số Kế Hoạch Hóa Gia Đình (tức là cai đẻ). Thọ như ông Giáp (102 tuổi) là thọ nhục.

Nhìn lại cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua, chỉ là một tên lính vô danh, trước nỗi thất trận, bất lực đành chịu nhục nhã trong cảnh đầu hàng, phải bị bắt làm tên tù binh biệt xứ, tôi đành cam chịu, nhưng khi nhìn thấy những vi tướng lãnh của mình, bị chính sách trả thù tàn độc của Cộng Sản Bắc Việt cầm tù, đưa ra Bắc, phải lao động vất vả, gánh phân, cấy lúa mổi ngày, lễ phép dở nón chào những tên lính Bắc Việt, mặt còn non choẹt ngồi trên chòi canh, lòng tôi cảm thấy bất nhẫn và thương cảm cho những người anh niên trưởng của mình.

Nói ra chỉ thêm đau đớn, nhưng thà làm một tướng chết trẻ ngoài trận mạc, hay kết thúc đời mình bằng một viên đạn trong ngày thất trận 30 Tháng Tư, để cho đời sau thương tiếc khóc than còn hơn!

Theo tôi, đoạn kết buồn của một tướng lãnh khi phải sống lưu vong xứ người, chết bệnh tật, già nua trong nhà dưỡng lão, đoạn kết buồn của một mỹ nhân là sống đến tuổi già, mà không dám nhìn khuôn mặt mình trong tấm kính soi.

Nhưng nhiều người muốn sống thêm mà không được sống, nhiều người muốn chết mà số mệnh chẳng cho, đành phải trôi nổi theo số phận an bài.

******

– Những tấm thẻ bài tượng trưng cho các quân nhân Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam tại cuộc triển lãm ở National Vietnam Veterans Art Museum ở Chicago, Illinois, hồi năm 2005. (Hình minh họa: Tim Boyle/Getty Images)

No photo description available.

TÌNH GIÀ

Van Pham

CHUYỆN PHIẾM CUỐI TUẦN…

Gửi mấy ông bà bạn già của tui… ở trỏng cũng như ở ni… đọc cho thoải mái cái đầu và để thấy… “hy vọng đã vươn lên trong màn đêm, bao u buồn…”

********

TÌNH GIÀ

Huy Phương

Tuần qua, giữa những tin buồn, tôi đã đọc được một tin vui. Trong hai chuyên tang, hôn, “hôn” chẳng vui là gì. Ðó là chuyện ông cụ Ebemezer Rose 93 tuổi vừa kết hôn với bà Monica Hayden, 89 tuổi ở West Palm Beach, Florida. Lý do đơn giản họ đưa ra là, “Chúng tôi đều cô đơn, tại sao không nghĩ đến việc lấy nhau?”

Người qua đường nghe chuyện này có người nói, “Già hết xí- quách rồi, lấy nhau làm chi nữa?” hay về phía cô dâu chú rể, người ta cũng có thể bình luận, “lấy nhau về để đổ bô cho ông (hay bà) ấy hay sao?” Mỗi lần mở đài phát thanh nghe các nhà thuốc Tây quảng cáo bán nào ống dẫn tiểu, túi dựng phân, tã lót, xe lăn, gậy chống… nghe đã lạnh người, cứ tưởng tượng ra đem một ông già hay bà lão về để phục vụ, rồi lo “hậu sự” đã đủ khiếp. Ở đây hai ông bà già, chỉ mới biết nhau hai mươi năm về trước, không tình mà cũng chưa đủ nghĩa, lấy nhau tất nhiên phải có lý do. Ðó là hai tâm hồn cô đơn tìm đến với nhau trong những ngày cuối đời, cũng có lý lắm chứ!

Hình như tình yêu của người Tây phương kéo dài lâu hơn tình yêu của người Á Ðông. Chúng ta thấy những ông bà cụ già cầm tay nhau đi trong công viên, thủ thỉ bên nhau, hôn nhau dịu dàng là chuyện thường tình, trong khi các ông bà cụ của chúng ta, thường già trước tuổi, bà cụ mới vừa tắt kinh đã đỏ mặt khi đụng chạm với ông cụ, cứ giẫy nẩy lên, sợ lũ trẻ nó cười, sợ già mà “không nên nết.” Vì vậy, chúng ta lại cũng thường khắt khe đối với những người lớn tuổi chết vợ, mất chồng mà còn “bước qua dư luận” tục huyền hay tái giá. Văn chương bình dân thì mỉa mai chuyện “bà già đã tám mươi tư, ngồi trong cửa sổ viết thư tìm chồng”, hay kể chuyện “bà già ra chợ Cầu Ðông, xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng? Thầy bói xem quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!” thật là “kỳ thị” hết chỗ nói.

Các cụ xưa thường đùa rằng, “Càng già càng dẻo càng dai, càng gãy chân chõng càng sai chân giường.” Nhưng theo các nhà y học, thì nói như vậy là trái với khoa học, có lẽ các cụ tiếc của trời, nói cho sướng miệng thế thôi. Nhưng bao nhiêu tuổi mới gọi là già, chưa nghe ai ấn định cho rõ ràng. Vả lại vợ chồng lấy nhau lúc trẻ, sống với nhau vì tình, về già nếu không còn tình, thì sống với nhau vì nghĩa, đâu phải cần đến chuyện chăn gối mà hạnh phúc vẫn vững bền, miễn là đừng bao giờ dập tắt sự chiều chuộng thương yêu.

Cuộc hôn nhân lâu bền nhất trên trái đất này thuộc về ông bà Arrowsmith ở Hereford, Anh Quốc. Ông cụ Percy Arrowsmith vừa mất hồi Tháng Sáu 2005 khi ông được 105 tuổi, và vợ ông 100 tuổi sau khi họ tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm hôn nhân hai tuần lễ trước đó. Bí quyết của đôi vợ chồng già kỷ lục này họ không bao giờ cãi nhau lúc lên giường và thường hôn hay cầm tay nhau trước khi đi ngủ. Mới đây nhất thì hồi Tháng Năm 2009, cũng tại Anh Quốc, ông cụ Frank Milford 100 tuổi và bà Anita 99, vừa ăn mừng hôn lễ thứ 80. Họ cũng tiết lộ là họ luôn luôn hôn nhau trước khi đi ngủ (không nghe nói trước hay sau khi tháo răng giả).

Vậy thì những ông già chết vợ, những bà lão góa chồng, nếu cảm thấy trống lạnh trên cõi đời này, chẳng có ai hôn mình trước khi đi ngủ, sao lại không có quyền bước thêm bước nữa.

Ở nước ngoài này hay trong nước, thỉnh thoảng tôi vẫn nghe dư luận chê trách những cái đám cưới mà ông cũng “thất thập cổ lai hy”, bà cũng “lục thập đắc nhĩ thuận” và cho đó là chuyện bất thường, nhưng nếu không là người trong cuộc, làm sao hiểu nỗi chuyện của họ. Lúc về già, vợ hay chồng mất sớm, con cái đều lập gia đình, ra ở riêng, ông hay bà thui thủi cô đơn, “lúc tỉnh rượu, lúc tàn canh” cũng buồn lắm chứ, sao không kiếm về một nửa bên kia của ai đã bỏ lại trên đời này, để ráp nối lại chiếc phi thuyền cuối đời bay về… cõi chết.

Nếu không rồi đây “khi rượu sớm, khi trà trưa, khi xem hoa nở khi chờ trăng lên” lấy ai mà đối ẩm, lấy ai mà tri kỷ. Bạn thử nghĩ rồi đây, sáng thức dậy, bên ly cà phê nhỏ những giọt cô đơn, đọc một câu chuyện vui cũng chỉ biết cười một mình như thằng điên, buồn nỗi thế sự cũng không biết chia xẻ với ai, nghe một chuyện bất bình không có trái cam mà bóp nát trong tay, lấy ai làm người tri kỷ để chuyện trò, tâm sự.

Gần đây, hải ngoại quả thật có nhiều cụ, để trả thù những ngày cơ cực, tù đày, áp bức đã qua, làm những cuộc hôn nhân bước thêm bước nữa với những cô con gái còn quá trẻ, nhưng không biết lượng sức mình, đến nỗi “tinh khô, lực kiệt”, trở về trên chiếc xe lăn để người đời dè bỉu, châm biếm, mà con cháu cũng xấu hổ chê cười.

Những mối tình này được kết hợp một bên là thèm khát dục vọng, một bên là đồng đô la, không thể gọi là tình yêu được. Vì vậy, người đời hay khắt khe châm biếm những ông già mà lấy vợ trẻ, lại mỉa mai “trâu già mà thích gặm cỏ non” trong lúc chính các cụ răng yếu, vẫn thường lựa thức ăn mềm mà ăn thì chẳng ai nói gì.

Thầy Mạnh Tử cho rằng đại trượng phu là phải “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.”

Trong ba thứ “bất năng” này, thứ bất năng đầu tiên coi bộ khó giữ, vì thấy ở phương Tây này, các ông tỷ phú già thì lại hay lấy vợ sexy như người mẫu hay là vũ nữ thoát y. Tỷ phú Joe Hardy 84 lấy người mẫu Kristin Georgi 23, tỷ phú J. Howard Marshall 89 còn lấy cô vũ nữ playboy Anna Nicole Smith 26 tuổi, chỉ 14 tháng sau là “đứt bóng”, gây nên một vụ án chia gia tài khá ồn ào.

Nhạc sĩ Trần Văn Trạch đã hát rằng, “Khi người ta yêu nhau , yêu trong lúc hai mươi tuổi đầu, thì không phải vì tiền đâu, nhưng mà chẳng được bao lâu…”, “Khi người ta yêu nhau, yêu trong lúc bẩy mươi tuổi đầu, thì không phải vì tiền đâu, nhưng mà chẳng còn bao lâu….”

Cho nên, bây giờ nếu các bạn nghe tin một ông cụ 90 mà lấy một bà lão 85, mặc dầu “chẳng còn bao lâu”, nhưng chắc chắn là không phải vì tiền rồi. Không phải vì tiền thì chỉ có một đường là vì tình, tình này bạn muốn hiểu là “tình cao thượng”, “tình trong sáng”, hay “tình cuối”, “tình già” sao cũng được.

Khi người ta lập gia đình năm hai mươi hay hai mươi lăm tuổi, có thể vì tình yêu xốc nổi, vì bồng bột, nhưng ở tuổi bảy mươi, sau khi đã qua tuổi “tri thiên mệnh” đã hai mươi năm, việc cưới một người về chung sống phải là việc suy nghĩ, chín chắn không ai có thể chê trách hay nghi ngờ vào đâu được.

Chưa ai biết ai đổ bô cho ai, chứ đêm nay trời trở lạnh, có hơi người cũng ấm, sống một mình, có người gãi lưng giùm cũng đỡ khổ. Trên giường có hai người bạn già nương tựa vào nhau, thì trong cái ly nước trên bàn ngủ, hai hàm răng giả cũng đang ngụp lặn bên nhau. Nói theo kiểu người Huế “Ðời còn vui không có răng mô!” (Ðời còn vui, không có sao đâu!)

Xin chúc mừng và nhớ “giúp nhau” nhé!!! kakakaaaa

Image may contain: text that says 'Love is... Supporting each other in old age.'

‘Nghĩa đời trong ba tiếng’ (*)

Image may contain: one or more people, people sleeping, baby and closeup

 

TẠP GHI HUY PHƯƠNG….

*******

‘Nghĩa đời trong ba tiếng’ (*)

Nhân loại, ai khi mới sinh ra cũng cất tiếng khóc. Theo y học, sau khi ra đời, cuống nhau thai nhi cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng bị cắt bỏ, đứa bé buộc phải tự hô hấp. Tiếng khóc làm phổi mở rộng và đứa trẻ bắt đầu thở. Tiếng khóc của em bé giúp đẩy ra và hít không khí vào phổi liên tục với tốc độ nhanh, giúp phổi nhanh chóng thích ứng với việc hô hấp. Tiếng khóc còn giúp trẻ sơ sinh loại bỏ được những chất dịch còn đọng lại trong phổi, mũi hoặc miệng.

Nghe tiếng khóc, bác sĩ còn có thể biết được tình trạng sức khoẻ của đứa trẻ.

Trẻ không khóc là không thở được, người ta sẽ dốc ngược thân em bé xuống và vỗ mạnh vào mông đứa trẻ.

Tiếng khóc đầu đời của một bé sơ sinh cũng là nỗi vui cả người cha đang ngồi ở phòng chờ và người mẹ vừa mới qua cơn sống chết để sinh con. Tiếng khóc cũng là âm thanh khởi đầu cho một đời người, mà theo triết lý bi quan, có buồn nhiều hơn vui, vì “đời là một thung lũng nước mắt,” hay “đời là bể khổ.”

Chính Nguyễn Công Trứ cũng đã có lần hỏi: “Trần có vui, sao chẳng cười khì?”

Dù thế nào đi nữa, tiếng khóc cũng là biểu hiện cho sự sống. Đó chính là niềm hạnh phúc cho mỗi gia đình.

Lớn lên, ai cũng phải vất vả mới có miếng ăn. Dù là “cổ xanh” hay “cổ trắng,” ai cũng phải chạy theo thời gian, dính líu đến chiếc đồng hồ chỉ giờ.

Ngày còn đi làm, tôi ghét nhất là cái đồng hồ báo thức, lúc sáng sớm, bỗng reo lên, phá tan cơn mộng mị và giấc ngủ đang ngon lành, vì cứ đi trễ vài lần là chắc chắn mất việc, mà mất việc sẽ dẫn đến chuyện mất nhà, và mất… vợ!

Qua thời gian đi làm việc mưu sinh trên xứ này, nếu có người hỏi tôi, cái gì làm cho tôi chịu đựng nhiều nhất, đó là gặp một ông boss khó tính hay bạn đồng nghiệp thiếu thân thiện, kỳ thị, thì tôi trả lời ngay đó là cái đồng hồ báo thức khi phát kêu lên những tiếng kêu khó thương mỗi buổi sáng, những buổi sáng mùa Đông lạnh lẽo, nhất là những ngày ở miền Đông, vén màn nhìn ra ngoài trời, thấy tuyết đang rơi mù mịt.

Dù là cái đồng hồ hay chiếc radio phát ra những nốt nhạc trầm bổng, hay tiếng kêu lích kích thì cũng chẳng ai ưa, nhưng nếu cái vật biết kêu này, một sáng nào đó, nhức đầu sổ mũi, ngủ quên, làm chính chủ nhân nó cũng ngủ quên theo, thì lại là một đại họa.

Đó là “nhân vật” gần gũi khó chịu nhất, mà tối trước khi đi ngủ, chúng ta phải sờ đến nó, trừ tối Thứ Bảy và những ngày nghỉ lớn trong năm. Có lẽ đến tuổi về hưu, chúng ta nên “làm lễ” tống khứ cái đồng hồ báo thức, hay lấy búa đập nó thành mớ sắt vụn, cho hả dạ.

Thời gian làm lụng vất vả, ai cũng mong cho đến một này “rửa tay, gác kiếm,” thong dong bước vào tuổi già, mắc võng giữa hai cây lớn, đầy bóng im trong vườn nhà, đong đưa cho quên hết việc đời. Nhưng khổ nỗi, chữ “hưu” gần với chữ “già,’ mà già, bệnh, và chết là ba giai đoạn cuối cùng của cuộc đời. Ít ai được chết như ngọn đèn hết dầu tắt phụt hay như chiếc xe hết nhiên liệu, đột ngột tắt máy, dừng lại giữa đường. Không ít thì nhiều, khi ta về già, ai cũng trải qua nhiều thứ bệnh tật, vào ra bệnh viện, trước khi xuôi tay.

Nhìn quanh bạn bè, chẳng ai khá hơn ai. Người thì bị troke bán thân bất toại, người thì suy thận, phải vào bệnh biện ba lần mỗi tuần để lọc thận, người phải mang bình tiểu quanh năm, người mắc bệnh ung thư, sau nhiều năm chữa bệnh, tóc rụng, thân gầy nằm chờ chết. Mà không ai biết ngày mai, mình sẽ ra sao? Không biết đêm nay có phải là một đêm yên lành, để sáng mai thức giấc, còn được nhìn thấy ánh mặt trời qua khung cửa hay không. Chuyện gì sẽ đến trong đêm hôm nay?

Nhiều đêm, chúng ta chợt thức giấc nửa khuya, nghe tiếng còi cấp cứu vang rền trong đêm vắng, để đưa một ai đó vào bệnh viện. Chúng ta đã có lúc, hay rồi ra sẽ có khi là nhân vật nằm trên chiếc cáng, trong chiếc xe màu trắng, loang loáng ánh đèn đỏ, chớp tắt liên hồi ấy, hối hả trên đường đến bệnh viện.

Tiếng còi xe cứu thương đã trở thành một âm thanh ghê sợ, hãi hùng, có khi đem một người đi mãi không về, nếu không thì cũng bệnh viện với màu trắng của giường nệm, y phục của những người y tá, dây nhợ chuyền thuốc men, nước biển… Những đoạn thời gian hôn mê trong phòng mổ, những cơn đau vật vã, những mũi thuốc vội vàng từ người y tá và một nỗi buồn tê dại mỗi chiều, mỗi đêm, cô quạnh với những giọt thuốc nhỏ giọt thấm vào cơ thể, tiếng nói cười của những người xa lạ, trần nhà trước mắt và những ánh đèn chong sáng suốt đêm.

Con đường từ nhà ra nghĩa địa hay lò thiêu mà không đi qua bệnh viện là con đường đẹp nhất! Phúc cho ai chưa bao giờ phải nằm trên chiếc cáng trong xe cứu thương hay chưa trải qua một ngày nào trong bệnh viện.

Đêm nay, một đêm cuối năm lạnh lẽo, trời trở gió, văng vẳng đâu đây một tiếng còi xe cấp cứu, nghe khi gần khi xa.

Xin cầu nguyện cho chúng ta được một đêm yên lành, và không bao giờ chiếc xe đó, dù chỉ một lần, trực chỉ đến địa chỉ căn nhà của chúng ta đang sống!

Phải chăng,“Nghĩa đời trong ba tiếng”: Tiếng khóc của trẻ thơ. Chuông buổi sáng báo giờ. Hồi còi xe cấp cứu!

– Em bé chào đời. (Hình: PHILIPPE HUGUEN/AFP via Getty Images)

Chiếc Lon Guigoz…

 

TẠP GHI HUY PHƯƠNG

Chiếc Lon Guigoz…

Tôi đã lang thang trên “net” chiều nay nhưng không thể nào tìm ra hình ảnh của chiếc lon “gô”, người bạn ngày nào của tôi.

Bao bì của các món hàng sản xuất mỗi ngày mỗi tân tiến, mới lạ, đẹp đẽ và gọn nhẹ. Bây giờ người ta đựng sữa bột trong những bao bằng giấy dày hoặc bằng thứ kim loại mỏng, không như bằng chiếc hộp nhôm không rỉ sét, dày dặn như cái thời xa xưa đó. Người vẽ kiểu của chiếc lon “gô” ngày nào chắc cũng đã ra người thiên cổ, không còn để cái đám tù tập trung trong các trại tù Cộng Sản sau này gặp gỡ để nói một lời cám ơn về một thứ đồ dùng, một bao bì mà sau khi dùng sản phẩm, có thể vứt bỏ, nó lại được dùng như một vật tiện dụng và hữu ích qua nhiều năm tháng.

Loại sữa Guigoz của Hòa Lan được nhập cảng vào Việt Nam nhiều nhất là sau khi người Pháp trở lại Việt Nam vào khoảng năm 1956. Vào thời ấy lon sữa bột Guigoz không lấy gì làm đắt. Một công chức trung bình ở miền Nam cũng có thể nuôi con bằng loại sữa bột này. Có hai loại sữa Guigoz, loại trắng cho trẻ sơ sinh, và loại màu vàng cho tuổi từ một năm trở đi. Loại sữa bột này phổ biến đến nỗi hầu như gia đình trung lưu nào cũng nuôi con bằng sữa Guigoz, và những chiếc lon nhôm, dày dặn, với dung tích 0.75 lít, có chiều cao 18cm, đường kính 8cm, không rỉ sét này thường được các bà nội trợ cất giữ để đựng thực phẩm ở trong bếp, trừ muối, nó có thể đựng đường, ớt, tiêu hành hay các thức ăn khô.

Tuy chiếc lon Guigoz tiện dụng nhưng thật ra nó không có giá trị gì, nó có thể ra nằm ngoài đống rác. Từ năm 1965 trở về sau, miền Nam đã nhập cảng nhiều loại sữa bột khác dành cho trẻ em; nhưng chiếc lon sữa Guigoz vẫn còn tồn tại trong hầu hết gia đình vì nó bền, chắc, khó móp méo hay hư hỏng. Thế mà chiếc lon Guigoz đó lại trở thành người bạn thân thiết từ Mùa Hè năm 1975 khi tôi phải giã từ quân đội, bỏ lại vợ con và thành phố yêu đấu để trình diện đi tù, làm cái công việc của một người lính thất trận.

Thoạt đầu chiếc lon chỉ mang theo mớ thức ăn khô dùng tạm cho vài ngày, nhưng về sau khi thức ăn đã hết, chiếc lon kia đã đổi chức năng để từ đây gánh vác một phần tháng ngày gian khổ cho tôi. Về sau khi thấy tôi không còn hy vọng gì quay trở lại với gia đình trong một thời gian ngắn, chiếc lon sữa Guigoz kia đã không rời tôi nửa bước như một người bạn tri kỷ có thể chia ngọt xẻ bùi với nhau, khi với một nắm rau bên vệ đường, khi với một con nhái bén, có khi với một mẫu sắn thừa sau ngày thu hoạch còn sót lại trong đám đất bị cày xới.

Có khi chiếc lon ấy trở thành một bình trà với những đọt chè xanh, đậm đà hơn một tuần Thiết Quan Âm thời phong lưu hay mở ra một ngụm cà phê sảng khoái đánh lừa khứu giác với những hạt bo bo cùng với mấy hạt ngô rang cháy. Nó cũng trở thành người bạn mỗi sáng với những công việc vệ sinh thường nhật bên “lán” tù, và cũng tội nghiệp cho chúng tôi trong một miền Bắc không có thừa lấy một manh giấy báo hay một mẫu giẻ rách, nó đã theo những người tù mỗi lần vì nhu cầu phải đi thăm… “lăng Bác”.

Ngày xưa chiếc lon kia mang một cái tên ngoại quốc khá đẹp từ xứ Hòa Lan có nhiều nhà máy xay gió, những cánh đồng cỏ bất tận và những đàn bò bình yên, đến miền Nam với hình dáng tròn trịa, mới mẻ; nay nó mang một cái tên xấu xí trần tục trong một xã hội đói nghèo, lạc hậu. Nó là “gô”, là “cống” hay có người gọi nó là “hăng gô”(?) những cái tên rất khó bề giải thích. Nó dần dần trở thành đen điu, xấu xí, hèn mọn, móp méo qua những lần bị nung nóng trên bếp lửa của trại tù hay trên đám cỏ khô giữa cánh rừng bạt ngàn hay bên dòng suối nhỏ trong những buổi trưa, để thêm một chút “cải thiện” với nắm rau “tàu bay” hay một mẫu khoai mài.

Những ngày có thăm nuôi, nó cũng chắt chiu nắm mì gói hay chút ruốc thịt mang cho “sang cả” thêm cho bữa ăn khốn khổ của người tù. Những lúc chẳng có gì, một “gô” nước lã cũng đầy bụng. Chiếc lon “gô” ngày nay đã đen điu hình dáng nhưng chưa bao giờ chịu để mình bẩn thỉu, nó đã nhiêu lần được kỳ cọ như chủ nhân đã kỳ cọ cái thân thể gầy còm khốn khổ của người tù dưới suối sau một ngày kiệt sức, vắt mồ hôi.

Đêm về, chiếc lon kia cũng lặng lẽ ở trên đầu nằm cùng với mớ chăn chiếu lẫn lộn với những mảnh nhung y sờn rách, bạc màu, để sáng mai thức dậy trong tiếng kẻng tù gắt gỏng. Chưa có một vật dụng nào thiết thân với người tù như cái lon “gô” đen điu ấy. Bộ áo quần tù có thể thay đổi, đôi dép có thể mòn vẹt, nhưng chiếc lon “gô” đã bền bỉ với thể chất cũng như tấm lòng với người tù qua những đoạn đường gian khổ, những ngày lên nương xuống rẫy, những sáng Mùa Đông giá buốt cũng như những trưa Hè đổ lửa. Nó gần gũi, khắng khít không rời người tù đi đâu nửa bước. Thế mà…

Như những ông già H.O. trên đất Mỹ, tôi thường đẩy xe cho vợ đi chợ mua thức ăn. Những hàng hóa, thực phẩm bày biện trong những ngôi chợ to lớn, chỉ gây ngạc nhiên cho tôi lúc đầu tiên mới đặt chân đến Mỹ cách đây hàng chục năm, bây giờ trở nên quen thuộc và thường tình đến nhàm chán. Những kệ hàng bán đầy khoai lang đủ loại hay những đống khoai mì đầy ắp, những mớ cải xanh, những bó rau muống tươi tắn, những củ su hào mập mạp… không hề nhắc nhở hay cho tôi một suy nghĩ nào về những tháng ngày tù tội, thiếu thốn mà những củ khoai, những nắm rau xanh đó như một nỗi mơ ước thèm thuồng thường nhật của một người tù.

Nhưng có một buổi nọ, khi đẩy chiếc xe đi chợ đến bên kệ hàng bày bán khoai mì, không hiểu sao lần này tôi dừng lại, cổ họng như nghẹn ngào, những giọt nước mắt như muốn trào ra. Trong một thoáng tôi bỗng nhớ lại hình ảnh của nồi sắn luộc không bóc vỏ với những mẫu sắn rơi vãi nhuộm một màu tím sẫm, hình ảnh của người bạn tù say sắn, té từ chỗ ngủ ở tầng trên xuống nền gạch và những tiếng la cầu cứu trong đêm. Những củ sắn nằm trên kệ hàng ở đây, là một món ăn chơi của những người no đủ, không hề có một giá trị gì với đời sống của một con người bình thường này trên mảnh đất giàu có như nước Mỹ.

Chúng ta thật đã nhàm chán với những bữa tiệc tùng sang trọng, mỗi tuần không dám ăn tới ba quả trứng gà, bắt đầu thấy sợ thịt, không bao giờ đụng đến bơ, sữa hay phó mát. Phần tôi, đã nhiều lần đi qua những ngôi chợ khác nhau mà lòng thấy dửng dưng trước những món thực phẩm tầm thường như nhìn một vật xa lạ chưa lần nào gặp gỡ hay gắn bó trong cuộc đời mình.

Phải chăng những vật hèn mọn này, những củ khoai lang, những miếng sắn luộc này đã từng ám ảnh chúng ta trong giấc ngủ ngày nào? Và tôi nhớ ra một điều, khi được ra khỏi nhà tù, tôi đã quên hẳn và vất bỏ ở xó xỉnh nào đó cái lon “gô” đen đúa, người bạn thân thiết của những tháng ngày tù tội của tôi.

Tôi đã đi một vòng khá xa, từ Bắc vào Nam, từ Tây sang Đông, qua bao nhiêu cánh rừng, qua bao nhiêu eo biển, bỏ lại sau lưng quê hương và quá khứ của tôi. Đôi khi tôi cũng đã quên tôi, nói gì đến những vật tầm thường hèn mọn như thế!

“Khéo Dư Nước Mắt…”

GÓC SUY TƯ…

“Khéo Dư Nước Mắt…”

Huy Phương,

Mới năm trước đây thôi, vào lúc nửa đêm, tại một tiệm bánh pizza Papa John ‘s ở thành phố Helena, Montana, một người đàn ông bịt mặt vào tiệm, tiến đến quầy thu ngân, đưa ra một mảnh giấy đòi nộp tiền.

Công nhân của cửa tiệm vội vã mở hộc, hốt hết tiền đưa cho “kẻ cướp,” nhưng không, người đàn ông bịt mặt, ngần ngừ rồi bỗng bật khóc và nói rằng, ông ta chỉ cần ít thức ăn cho các con ông ở nhà đang đói, chứ ông không phải là tên ăn cướp chuyên nghiệp.

Người đàn ông, sau đó rời khỏi tiệm với một hộp pizza và một ít cánh gà, cho gia đình của ông, đang không có gì ăn tối nay. Chủ tiệm đã báo cảnh sát ngay sau đó, nhưng chắc là không có ai nỡ bỏ tù một người khốn khổ như vậy.

********

Người ta thường lên án nạn cướp bóc, trấn lột, nhưng nghĩ sao trong trường hợp này, liệu nhân viên cửa tiệm có thể rộng lượng cho đi một ít thức ăn, nếu có một người đàn ông đói khát bất ngờ, thay vì bỏ tiền ra mua thức ăn, lại ngữa tay xin một vài cái cánh gà, hay một miếng bánh cho gia đình và chính ông ta không?

Trong tám tiếng đồng hồ chạy theo công việc, tám tiếng đồng hồ sống với gia đình và tám tiếng nghỉ ngơi hay đắm mình vào giấc ngủ, có thời gian nào chúng ta nghĩ đến những đồng loại bất hạnh đang ở gần với chúng ta đây thôi, trong nước Mỹ giàu có, hạnh phúc và cả ở trên quê hương khốn khổ đã xa bên kia của mình.

Chúng ta lên án người khác thì dễ nhưng mở lòng bao dung thì khó! Ở gần chỗ đèn xanh, đèn đỏ đầu đường phố, chúng ta thường miệt thị những kẻ không nhà đang đứng hàng giờ để ngữa bàn tay xin lòng đoái thương của kẻ qua đường. Chúng là kẻ chây lười, hút xách, nghiện ngập, lười biếng, bỏ tù chúng đi là vừa, chúng chỉ làm mất đi vẻ mỹ quan của thành phố.

Trưng bảng xin tiền ra giữa đường là phạm luật, làm tiền là thương mại, phải có giấy phép của chính quyền địa phương, nhưng rồi cảnh sát cũng phải làm ngơ.

Ngoài phố Bolsa, trong những ông sư cùng mặc áo vàng đứng “khất thực” nơi đây, ai giả, ai thật, vậy tốt hơn là tôi ngoảnh mặt làm ngơ đi cho đỡ suy nghĩ. Trước một ngôi chợ ở khu Việt, vào những ngày giáp Tết, giữa dòng người tấp nập, vội vàng, tôi trông thấy một người đàn ông cầm một cái hộp quyên tiền có ghi dòng chữ: “Giúp trẻ em khuyết tật và mồ côi.” Người ta thấy ông nhưng không ai nhìn ông. Với sự nghi ngờ cố hữu, có lẽ mọi người đều có câu hỏi, “ông này thuộc cơ quan, tổ chức nào, quyên góp cho ai” hơn là đặt vào tay ông một đồng bạc lẻ.

Ai cũng cho rằng cách đây vài chục năm, ở Mỹ chúng ta có thể dừng xe lại để cho một người xin quá giang, hay là khi chúng ta gặp hoạn nạn, có thể ra dấu chặn một chiếc xe đang chạy trên đường để xin giúp đỡ. Nhưng ngày nay thì không! Thà làm ngơ đi, lương tâm nếu có cắn rứt đôi chút cũng chẳng sao, trái lại những việc qua đường có khi mang đến tai hoạ cho bản thân mình, mà còn bị mang tiếng là dại dột.

Bây giờ trên đất Mỹ, nơi vùng đất có nhiều sắc dân cư ngụ, thường xẩy ra cướp bóc, ít khi bạn có thể hỏi một người Mỹ qua đường, chỗ ty bưu điện gần đây nhất hoặc đi đến đường Beach còn bao xa. Thường thì chúng ta được nhận một cái khoát ta hay một cái lắc đầu. Ở thời buổi này, thà làm người bất lịch sự còn hơn phải dây dưa vào những chuyện qua đường rắc rối!

Năm 1955, từ Huế vào Saigon, cậu thanh niên tỉnh lẻ mới lớn, là tôi, đang đi với một người bạn học trên đường Bonard, thì một người đàn ông, ăn mặc khá tươm tất, tiến lại phía tôi, – mà không phải là bạn tôi -, mở lời:

– “Tôi đói quá! Cậu cho tôi xin một đồng để mua một nắm xôi!”

Tôi không chút ngần ngại, móc túi trao cho ông kia một đồng. Có lẽ thấy kiếm một dồng bạc đầu tiên không khó khăn gì, người đàn ông chưa cất tiền vào túi vội, nài nĩ, nói thêm:

– “Cậu cho tôi xin thêm một đồng để mua tờ báo, tối lót lưng ngủ qua đêm!”

Tôi lại cho tay lên túi áo, nhưng lần này thì thằng bạn Saigon, vội giật cánh tay tôi kéo đi, và chửi thẳng vào mặt tôi là “đồ ngu!” Tôi quả là ngu, vì quá tin người, giữa một Saigon hỗn tạp, tập trung đủ hạng người tứ xứ!

Ở các thành phố, thỉnh thoảng chúng ta nhẹ dạ giúp đỡ, khi gặp một người than thở, là mới ở bệnh viện ra không có tiền xe về Cần Thơ. Nhưng cũng hôm sau, ở một địa điểm khác, chúng ta lại gặp người này, “mới ở bệnh viện ra,” không có tiền xe về Rạch Giá! Vậy thì chắc chắc chúng ta không bao giờ bị mắc lừa nữa, nhưng những người thật sự “mới ở bệnh viện ra, không có tiền xe” cần sự giúp đỡ của người khác, sẽ phải chịu thiệt thòi.

Thế giới động lòng, giang tay đón tiếp những người vượt biển tị nạn vào những năm 80, nhưng sau đó, ngày càng đông người ra đi, phương tiện cứu giúp có hạn, nhất là sau khi biết “nhà nước cộng sản” chủ trương đóng tàu bán vé, lấy vàng, thì chủ trương cứu vớt của nhiều quốc gia cũng phải xét lại. Cho đến hôm nay, “độc lập-tự do-hạnh phúc” đã 45 năm, người Việt vẫn còn đóng tàu để trực chỉ nước Úc, họ nghĩ là nơi đây, lòng trắc ẩn của người địa phương vẫn còn cao. Liệu chúng ta có sẵn lòng cứu vớt, giúp đỡ những người như thế hôm nay không?

Phải chăng, gian trá, bạo lực đã tàn phá hết tình nhân ái trong lòng chúng ta, tình thương người hầu như đã nguội lạnh qua thời gian, và hình như xã hội càng văn minh chừng nào, lòng người càng trở nên chai đá chừng ấy.

Liệu hôm nay, lỡ đường, như trong những tích truyện xa xưa, chúng ta có thể gõ cửa một ngôi chùa hay một nhà thờ để xin tá túc qua một đêm giá lạnh hay không. Chúng ta đã nghe câu chuyện cách đây gần hai mươi năm, một thi sĩ lang thang không nhà đã chết trong chiếc xe của ông đậu trước cửa chùa, phải chi cánh cửa chùa đêm ấy rộng mở!

Phải chăng đến lúc, lòng người đã nguội lạnh, con người đã chai đá, con tim đã trở thành vô cảm, không còn nước mắt để khóc thương cho những mảnh đời khổ, hoàn cảnh éo le của từng mỗi cá nhân hay cả mệnh nước khốn cùng nữa.

Tôi nghĩ rằng không!

Mỗi đêm trên đất Mỹ này, có bao nhiêu phụ nữ Việt Nam, già có, trẻ có, đã sụt sùi khóc cho Tổng thống Trump bị thất cử “bất công vì gian lận”. Hay rướm lệ cho những số phận bất hạnh của những nhân vật trong những cuốn phim bộ Hàn quốc hay Hongkong?.

Có điều nước mắt ấy chẩy ra không đúng chỗ, đúng lúc thôi! Cái tin hằng trăm phụ nữ, đồng bào ruột thịt của mình sang Nam Dương làm nghề “khui bia,” vụ 15 phụ nữ bị lừa sang Nga đi bán quán, để sau đó buộc phải bán dâm, một cô gái 14 tuổi bị bắt làm nghề mãi dâm khi đang có thai bốn tháng. Vụ 26 người phụ nữ Việt Nam bị bắt khi đang làm việc tại các tụ điểm Karaoke đèn mờ ở Hàn quốc. Hay người dân thứ ba bị công an cộng sản đánh chết trong năm nay, không đáng cho chúng ta nhỏ được một giọt nước mắt hay sao?

Người cộng sản chỉ biết tập trung khóc tập thể ở ngoài công trường khi lãnh tụ qua đời để “biểu diễn” lòng trung thành của họ.

Nhưng hình như họ không còn chút mảy may xót xa, động lòng với những gì khốn khổ đang xẩy ra chung quanh mình, ngay trong cuộc sống mỗi ngày bởi áp bức, bất công!

Hình như người Việt ngày hôm nay cũng đang lên đồng tập thể vì một con người cách xa nửa vòng trái đất. Nhưng chẳng mấy xót thương cho những nạn nhân của chế độ trải dài suốt, ít nhất là 45 năm qua!!!

Quên là không còn nhớ?! HUY PHƯƠNG

Image may contain: one or more people, people sitting, ocean, sky, beach, outdoor, water and nature

TẠP GHI HUY PHƯƠNG….

Quên là không còn nhớ?!

Bây giờ chúng ta không còn lấy lý do vì tuổi già mà quên nữa, bằng chứng là một thanh niên chỉ mới 19 tuổi, Connor Spear, ở Anh Quốc, đi dự một lễ hội âm nhạc, đậu cái xe của mình ở đâu, mà mãi một tuần sau vẫn chưa nhớ ra.

Cái quên vớ vẩn thì ai cũng có lần quên, cái chìa khóa xe, cái kính lão. Đi ra khỏi nhà quên cái điện thoại, cái ví đựng tiền và bằng lái xe cũng là việc thường tình. Nếu không ghi vào tờ lịch treo tường, thì ngày đi dự đám cưới, tang lễ bạn bè cũng có khi quên. Có người quên cả tên người bạn cũ, quên cái tên đường, quên tên cái quán ăn.

Nhưng cái quên đau đớn nhất của con người là quên trẻ nhỏ trên xe giữa trời nóng mà không nhớ ra. Chỉ trong năm 2018, trên nước Mỹ đã có hơn 50 em bé thiệt mạng vì cha mẹ không nhớ ra, là trước khi xuống xe, khóa cửa mà đứa con mình còn ngồi trong cái car-seat. Có những bà mẹ “đoảng” ham hú hí với bạn trai mà bỏ con trên xe, nhưng cũng có nhà thông thái là giáo sư đại học, thay vì trước khi đến trường, phải ghé qua gửi con ở nhà trẻ, lại quên mất là con mình đang ở trên xe, đến chiều ra parking lấy xe về nhà mới phát hiện con mình đã chết.

Có những bà mẹ trẻ để con bị chết nóng trên xe bị kết án 20 năm tù, nhưng cũng có tòa kết luận tha bổng vì tòa án cho đây là một việc làm không có chủ đích, mà chỉ vì quên, nhưng chính bản án lương tâm sẽ làm ray rứt bậc cha mẹ suốt đời, nếu vì quên mà để xẩy ra những thảm kịch mất con như thế!

Đôi khi chúng ta tự nghĩ: “Làm sao để không quên!”

Và cũng ngược lại, có nhiều điều chúng ta muốn quên đi mà không quên được!

Trong đời sống hiện tại, có rất nhiều điều cần nhớ, mà cũng có rất nhiều cái cần quên đi. Chỉ tiếc là chúng ta đôi khi phải nặng lòng nhớ những điều không đáng nhớ, và đã quên đi những điều không đáng quên! Nhà thơ Trạch Gầm, thay vì những điều không đáng nhớ, ông phải chôn vào huyệt quên, thì trớ trêu thay, ông đã chôn lầm vào huyệt nhớ nên phải nhớ suốt đời!

Người xưa khuyên người đời nên quên đi những oán thù và những điều gì người khác làm tổn hại mình, nhưng phải nhớ kỹ những điều người khác đã ra ơn, làm tốt cho mình.

Chuyện có hai người thương buôn thân thiết cùng đi qua sa mạc. Trong cuộc hành trình, họ cũng có những chuyện va chạm. Một lần hai người cãi nhau, một người bị đánh đến đổ máu. Sau đó, không nói một lời, trước khi tiếp tục ra đi, nạn nhân bình tĩnh viết lên đồng cát ven đường: “Hôm nay bạn tôi đã đánh và chửi tôi…” Một lần khác, cũng nạn nhân này bị trượt chân sa xuống suối, được người bạn đồng hành nỗ lực cứu sống. Lần này, người được cứu, dùng dao khắc trên đá: “Hôm nay bạn tôi đã cứu sống tôi…”

Ngạc nhiên trước hành động của bạn mình, người kia hỏi: “Sao chuyện lần trước, anh viết lên cát, và lần này, anh lại khắc lên đá?” Người kia trả lời: “Những gì bạn làm tổn thương tôi, tôi muốn quên, nên viết lên cát cho gió thổi bay đi, nhưng những gì bạn đã làm tốt cho tôi, tôi nguyện không quên, nên đã phải khắc vào đá!”

Tâm lý người đời, người ta thường quên ơn nhưng hay nhớ hận.

Câu ngạn ngữ “Người quân tử mười năm trả thù chưa muộn!” nói về nhân vật Câu Tiễn mang mối hận mất nước, phải lưu vong. Sau khi thua trận Cối Kê, Vua Ngô Phù Sai bắt hai vợ chồng Câu Tiễn về nước, cho ở trong một ngôi nhà đá, hằng ngày phải đi chăn ngựa, quần áo lam lũ, ăn toàn cám và rau dại (một lối tù “cải tạo” dành cho người thua trận!).

Nuốt hận, sau khi bị bắt làm “tù binh” từ nước Ngô trở về, không bao giờ quên mối nhục mất nước, Câu Tiễn ngày đêm un đúc ý chí phục thù. Vị vua mất nước cố sức chăm chỉ làm việc suốt ngày đêm, khi buồn ngủ thì lấy cỏ lục xoa vào mắt cho cay làm mắt phải mở, chân lạnh muốn co thì dầm vào nước lạnh, mùa Ðông lạnh thì ôm băng tuyết. Mùa Hè nóng nực thì ngồi bên lửa, lấy gai, lấy củi lót làm giường mà nằm. Một quả mật luôn luôn được treo trước mắt, thỉnh thoảng lại nếm mật đắng để đừng quên những nỗi tủi nhục, khổ đau, đêm nào cũng sùi sụt khóc.

Nhờ ý chí “không quên,” về sau Câu Tiễn đã đánh bại được nước Ngô, báo thù cho nước Việt.

Trong Cổ Học Tinh Hoa có chuyện, “một chiếc đò sang sông. Có chiếc thuyền không có người lái ở đâu trôi đến, đâm phải. Người lái đò tuy hẹp bụng đến đâu cũng không lấy làm giận. Giả sử trên thuyền có người ngồi, thì người lái đò tất đã tru tréo, rồi đến buông lời chửi rủa thậm tệ!” Có điều khi chúng ta ra ơn cho ai đó, một người xa lạ, không biết tên biết tuổi thì chúng ta không nhớ, nhưng những ai đó, quen thân đã chịu ơn mình, thì khó mà quên được, nhất là lúc họ không biết điều! Nhất là khi kẻ hàm ơn chúng ta ngày nay đã trở nên thành đạt giàu có mà ngoảnh mặt làm ngơ ơn nghĩa cũ, hẳn chúng ta sẽ nguyền rủa không tiếc lời.

Và cũng có nhiều điều chúng ta có thể tha thứ, nhưng không bao giờ quên!

Những người quên hẳn hạnh phúc hơn người nhớ. Bệnh lãng quên hay lú lẫn không làm hại ai, nhưng bệnh nhớ chất chồng trong lòng có thể làm cho người ta điên loạn. Khi đời sống nhọc nhằn chúng ta muốn quên, nhưng vì sao chúng ta thường có khuynh hướng trăn trở nhớ đến những khổ đau trong đời, mà ít khi nhớ đến những hạnh phúc chúng ta đã có.

Rồi một ngày nào đó, chúng ta cũng vậy, trí óc trống không, không biết “tiết” còn “trực” không, nhưng “tâm” hoàn toàn “hư.” Chẳng nhớ gì, chẳng biết thương ai, ghét ai, mọi sự như để ngoài cửa, ta như người sống trong mộng, đi trên mây. Rồi cầm tay người vợ hiền, ngọt bùi năm mươi năm mà hỏi: “Ai đây!”

Thánh nhân thì cũng vậy thôi.

Nhưng trước khi đi vào thế giới quên hãy ráng nhớ một vài điều.

Chuyện đại sự thì phải hỏi: “Tôi là ai, từ đâu đến và vì sao mà ta đến đây?”

Thật ra, trên đời này, có những điều không nhớ, thì không lớn nổi thành người!

Chuyện tiểu tiết thì nhớ trả bills kẻo trễ, kéo thùng rác ra đường, cuối tuần này nhớ ghé qua Peek Family viếng bạn già mới ra đi. Buổi sáng sợ ngủ quên thì để đồng hồ báo thức, chuyện khác thì ghi vào tấm giấy để trước mặt. Tuổi này không ai trách móc, lên án những chuyện quên, nhưng chớ bao giờ “giả vờ quên!”

Bây giờ bạn già gặp nhau thường than thở bệnh quên, quên nhiều thứ.

Được nhớ cũng là tốt, nhưng quên được cũng là vui, nhiều khi đó là thứ hạnh phúc mà chúng ta không bao giờ nghĩ đến!

Nhớ như Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!” thì thôi xin hãy quên đi, cho đời bớt khổ!

Image may contain: one or more people, people sitting, ocean, sky, beach, outdoor, water and nature

MUÔN DẶM TÌM CHỒNG (của HUY PHƯƠNG)

Image may contain: 2 people, text
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 2 people, text
Image may contain: 2 people, people standing and text
+2

baotreonline.com – TRE Magazine

Một quả phụ VNCH miệt mài tìm di cốt của người chồng trong suốt 50 năm… và cuối cùng, bà đã được toại nguyện..

Tro cốt của sĩ quan phi công VNCH tử nạn tại Hạ Lào năm 1971 được cất giữ cùng với 4 phóng viên báo chí Mỹ tại Newseum, Hoa Thịnh Đốn.

MUÔN DẶM TÌM CHỒNG (của HUY PHƯƠNG)

Vào ngày thứ ba của cuộc hành quân 719 Lam Sơn (10 tháng 2, 1971) có một trực thăng UH-1 Huey của VNCH bị bắn rơi tại Hạ Lào. Tất cả những người có mặt trên chuyến bay này đều bị tử nạn, đó là Ðại Tá Cao Khắc Nhật trưởng phòng 3, Trung Tá Phạm Vi, trưởng phòng 4 thuộc Bộ Tư Lệnh QÐ 1, hai phi công là Trung Úy Nguyễn Diếu, Trung Úy Tạ Hòa và hai nhân viên phi hành đoàn là TS Cơ Khí Nguyễn Hoàng Anh, HS Xạ Thủ Trần Công Minh thuộc Không Ðoàn 41-Phi Ðoàn 213- SÐ1KQ đóng tại Ðà Nẵng. Trên chuyến bay này còn có 4 phóng viên Mỹ là Larry Burrows của tờ Life, Henri Huet của AP, Kent Potter của UPI và phóng viên người Nhật Keisaburo Shirnamoto của tờ Newsweek.

Vào năm 2008 Trưởng phòng Thông tấn AP tại Saigon ngày xưa là Richard Pyle đã đến Hạ Lào tìm xác các phóng viên tử nạn. Sau nhiều ngày cùng dân địa phương đào xới nơi máy bay bị bắn rơi, Richard Pyle đã tìm thấy hài cốt của tất cả những người tử nạn, nhưng qua thời gian 37 năm, tất cả di hài đã tan nát trộn lẫn với nhau, và sau đó tro cốt này đã được đem về để tại Newseum ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Vào tháng 4 năm 2008, Newseum đã cử hành một lễ tưởng niệm cho bốn phóng viên Mỹ tử nạn trong chuyến bay này, nhưng về phía Việt Nam không có một bảng tên nào được ghi dấu.

Tin tức này đã đến với bà quả phụ cố Trung úy phi công Nguyễn Diếu là bà Trương Thị Sen, hiện ở An Cựu, Huế từ năm 2008, nhưng vì không có phương tiện để sang Mỹ viếng nơi để tro cốt của chồng, nên mãi đến 4 ăm sau, bà quả phụ này mới có cơ hội đến Mỹ và đi thăm nơi để di cốt của chồng.
Nhờ sự giúp đỡ của Bảo Tàng Viện Việt Nam ở San José, các thân hữu trong các binh chủng, bạn bè và họ hàng thân quyến, tháng 5 năm 2012, bà quả phụ Nguyễn Diếu, đã từ Huế, vào Saigon, đến San Jose, Illinois, North Carolina và cuối cùng đã được đến thăm nơi lưu giữ tro cốt của chồng tại Hoa Thịnh Ðốn. Chúng tôi đã được gặp gỡ bà Trương thị Sen trong một cuộc họp mặt của nhóm cựu nữ sinh Bồ Ðề, Huế tại Little Saigon, tại đây bà Sen đã không giấu được giọt lệ trong khóe mắt, khi đã hơn 50 năm qua, bạn bè, có người nhớ kẻ không, nhưng ai cũng đối với bà trong tình thân ái, nhất là khi được biết bà Sen là một quả phụ của VNCH, đã ở vậy nuôi con trong suốt 41 năm dài, qua bao nhiêu biến cố của đất nước.

Bà Trương Thị Sen năm nay đã trên 78 tuổi. Bà kết hôn với Thiếu Úy Nguyễn Diếu năm 1968 tại Huế và hai ông bà sinh hạ được một trai một gái, hiện nay cô con gái là công nhân hãng dệt và con trai làm nghề thợ may, sống tại An Cựu, thành phố Huế. Sau khi có tin trực thăng của chồng rơi tại Hạ Lào, và trên máy bay không còn ai sống sót, bà được Phi Ðoàn 213 bố trí cho một công việc dọn dẹp trong phi trường để có sinh kế nuôi con. Sau khi Ðà Nẵng mất vào tháng 3 năm 1975, bà Sen bắt đầu bươn chải, buôn bán ngoài chợ trời, cho mãi đến năm 1978, bà mới trở về Huế nương nhờ cha mẹ của mình.

Cộng đồng người Việt hải ngoại mở rộng vòng tay đón người quả phụ VNCH

Một người bạn của cố Trung Úy Nguyễn Diếu, hiện cư ngụ tại San José, đã đem câu chuyện này kể với cựu Ðại Tá Vũ Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ, giám đốc IRCC để nhờ ông tìm cách vận động bạn bè và chiến hữu của cố Trung Úy Nguyễn Diếu giúp cho người vợ chờ chồng 40 năm có phương tiện để sang Mỹ thăm nơi để chút tro cốt của chồng, cũng như liên lạc với ban giám đốc Newseum xem có thể giúp đỡ gì được cho bà Sen hay không?

Cuối cùng vào tháng 4 năm 2012, nhờ sự bảo trợ của anh Nguyễn Hữu Thanh Lam và các cháu ở Illinois, chị Trương Thị Sen bắt đầu lên đường đi Mỹ. Ðể được yên tâm hơn trên đoạn đường dài, khi 41 năm nay chị Sen chỉ quanh quẩn ở xóm làng và không biết tiếng Anh, chị đã đến San José trước và từ đây đi Illinois, trong khi chờ đợi ngày đi thăm Bảo Tàng Viện Truyền Thông. Tại San José, chị Sen đã được anh Trần Thạnh mở trương mục để quyên góp và ông Vũ Văn Lộc tổ chức cuộc họp cho những người quan tâm gặp gỡ chị.
Mãi đến tháng 11 năm nay (2012) chị Trương Thị Sen được anh Trương Ðình Thiện, nguyên là một sĩ quan nhảy toán, đại diện cộng đồng Việt Nam tại Raleigh, North Carolina mời chị sang thăm và đưa chị viếng Newseum. Tại Hoa Thịnh Ðốn. Chị Sen đã được cộng đồng người Việt và các bạn trong “Bản Tin Hoa Thịnh Ðốn – SBTN” cũng như nhân viên viện bảo tàng đón tiếp.

Tại nơi để tro cốt của 4 ký giả và phi hành đoàn của chuyến bay định mệnh, chị Sen đã xúc động quỳ xuống bên phiến đá cẩm thạch nói với người đã khuất: “Sau 41 năm, không hề có một tin tức về anh. Giờ đây em đã yên tâm. Xin anh hãy yên nghỉ.”

Trên đường đi thăm tro cốt của chồng, từ Nam hay Bắc Cali, Illinois, North Carolina, Washington D.C., ở đâu những chiến hữu của chồng và đồng bào cũng tiếp đón, giúp đỡ chị Trương Thị Sen tận tình. Sau Giáng Sinh năm nay, bà quả phụ cố Trung úy Nguyễn Diếu sẽ trở về Huế, Việt Nam, nơi bà hiện đang sống với hai con và bốn cháu nội ngoại.

Qua chúng tôi, bà Trương Thị Sen xin chân thành gửi lời cám ơn đến các ân nhân, bằng hữu đã tạo phương tiện cho bà muôn dặm xa xôi được đi thăm nơi để tro cốt của chồng, người phi công đã gãy cánh tại Hạ Lào 41 năm xưa.
Chúng tôi xin ghi lại địa chỉ và điện thoại của bà Trương Thị Sen sau đây, để bạn đọc có quan tâm, tiện liên lạc:

Trương Thị Sen: 33/209 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam – Điện thoại: 84-935-376-228

HP (Orange County, CA)

Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

HUY PHƯƠNG

Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

HUY PHƯƠNG

Biết nhau qua một thời gian khá dài, trong và ngoài nước, chắc bạn đọc và bằng hữu của chúng tôi công nhận là tôi có thói quen dùng loại văn chương tử tế, chưa bao giờ phải nổi giận, dùng loại văn chương chì chiết, dung tục và thô bạo để diễn tả ý nghĩ của mình.

Nhưng hôm nay, xin tất cả bỏ qua, vì trong trường hợp này, Phật trên tòa sen cũng phải nổi giận, Chúa cũng phải cau mày vì một câu nói hỗn xược, ngang ngược của một viên tướng CSVN tên là Nguyễn Chí Vịnh. Câu nói đó lại được thốt ra trong ngày 30 Tháng Tư năm nay là: “Bảo là không có kẻ thắng người thua là không đúng. Thắng rồi nhưng tôi không có trả thù. Thắng rồi tôi khoan dung. Thắng rồi tôi tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường. Đó là tấm lòng nhân ái của đảng và nhà nước mình.”

Câu nói này na ná phát biểu của tên tướng “đồ tể” Lê Đức Anh mấy chục năm về trước: “Lòng nhân ái làm nên ngày 30 Tháng Tư, 1975!”

Cả triệu triệu người Việt Nam còn ở trong nước hay đã ra hải ngoại, có mắt thấy tai nghe, đã biết những kinh nghiệm xương máu, thực tế phũ phàng, đã trải qua những ngày dở chết dở sống từ khi quân Bắc Việt tiến chiếm Sài Gòn, như là một đại họa cho dân tộc, như cơn đại hồng thủy nhấn chìm số phận bi thảm của con người, đã cho chúng ta thấy cái đại ác mang mặt nạ “nhân ái, khoan dung,” mà bọn xâm lược Hà Nội dành cho những người thua trận, được Nguyễn Chí Vịnh và Lê Đức Anh ca tụng, chính là thứ nhân ái, khoan dung “chó đẻ,” không hơn không kém.

Nguyễn Chí Vịnh là con trai của Nguyễn Chí Thanh, năm 1975 còn là học sinh trường cấp 3 Lý Thường Kiệt.

Trước hết câu nói của Nguyễn Chí Vịnh là hỗn xược, đã tạt gáo nước lạnh vào mặt những giới chức đi trước, cao cấp, tiền bối của y, là không nhập nhằng gì cả, phải có kẻ thắng người thua.

Trước đó, tướng của Vịnh là Trần Văn Trà đã từng phát biểu: “Đối với chúng ta không có kẻ Thua người Thắng, mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta Thắng Mỹ.”

Võ Văn Kiệt cũng đã từng nói: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu…”

Từ đó đến nay, CSVN luôn luôn hô hào hòa hợp, hoà giải, kêu gọi người Việt hải ngoại xóa bỏ hận thù, quên quá khứ, để cùng nhau bắt tay xây đựng đất nước. Bộ Ngoại Giao CSVN đã lập ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội đã thường xuyên tổ chức Hội Nghị người Việt ở nước ngoài, Sài Gòn tổ chức đoàn văn nghệ phục vụ kiều bào nhân dịp Tết, vinh danh những người bỏ nước ra đi vì chế độ là … “khúc ruột ngàn dặm…,” “máu thịt của tổ quốc,” tất cả đều vì đồng đô la, nghe là lợm giọng! Chúng ca tụng “Những nghĩa cử cao đẹp, trân quý của kiều bào ta thể hiện tinh thần “tương thân tương ái” – vốn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam!” Gần đây, ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, đã động viên và khen ngợi việc ủng hộ, đóng góp cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 của đồng bào nước ngoài. Mặt khác, còn tư duy hận thù, đắc thắng, Nguyễn Xuân Phúc lại kêu gọi “chống dịch phải tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam.”

Trước hết câu nói ngụy biện để bệnh vực cho chế độ của tướng Phát-Xít quân phiệt, Nguyễn Chí Vịnh là “không có trả thù!” Bắn giết, chôn sống, dội nước sôi xuống đầu (*) ngay cả những người đầu hàng, san bằng nghĩa trang của phe thua trận, giam cầm gần một triệu người đối đầu và khác chính kiến vào trại tập trung! Điều này không phải là trả thù và được gọi là khoan dung sao?

Kỳ thị kẻ mới người cũ, phân biệt “gia đình có công với Cách Mạng” với “tàn dư Mỹ Ngụy,” “có nợ máu,” hạn chế con em miền Nam không có cơ hội học hành. Điều này không phải là trả thù và được gọi là khoan dung sao?

Nói đến Cộng Sản Việt Nam là nói đến cái ác. Biểu tượng của lòng nhân ái, khoan dung chính là một cây búa hiện nay đang được trưng bày tại ở bảo tàng quân đội Việt Nam, Hà Nội, được chú thích như sau: “BÚA. Đồng chí Nguyễn Văn Thắng, huyện đội phó huyện Mỏ Cày (Bến Tre) đã dùng để bổ chết 10 tên ác ôn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.”

Một cây búa lừng danh “nhân ái” khác là cây búa “khảo cổ” mà đàn em Lê Duẫn đã dùng để đập đầu Giáo Sư Nghiêm Thẩm, giám đốc Bảo Tàng Viện Sài Gòn, chỉ vì vị giáo sư anh hùng này không chịu hoàn thành đơn đặt hàng của bí thư Lê Duẩn, chứng minh “dân Việt Nam là thủy tổ các dân tộc Đông-Nam Á-Châu!”

Ngay đối với những người dân thường không có “nợ máu,” Bắc Việt với chính sách trả thù nhắm vào nhân dân miền Nam vì “chúng” quá tự do, quá giàu sang, quá sung sướng bằng chính sách tịch thu nhà cửa, cướp cạn tài sản của người giàu, hai lần ăn cướp công khai bằng thủ đoạn đổi tiền, đày ải dân lành đi vùng kinh tế mới. CSVN dùng chính sách hộ khẩu, phân bố lương thực, dân không kiếm ra công ăn việc làm, xô đẩy người miền Nam vào bước đường cùng, phải rời nước ra đi, bỏ thây trên biển cả. Điều này Nguyễn Chí Vịnh chắc không đến nỗi ngu đần mà không nhận ra, nhưng chẳng qua vì tham vọng mà bỏ lương tri, nói cương để được lòng chế độ.

Bây giờ là lúc Nguyễn Chí Vịnh nói huỵch toẹt ra, là không hòa hợp, hòa giải gì cả, là tao thắng là mày thua.

– “Thắng rồi, tôi tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường.”

Nguyễn Chí Vịnh nếu có đủ trí khôn của thời niên thiếu, hay có đông đủ họ hàng, bạn bè nói lại cho nghe thì cũng biết rằng miền Nam thua trận có hằng trăm ngàn chuyên viên đủ mọi ngành nghề cấp cao, nhiều cán sự lành nghề… nhưng tất cả đều chỉ có một con đường đi cuốc đất, đạp xích lô, bán thuốc lá lẻ, xăng lẻ, vá xe vệ đường hay bôn ba chốn chợ Trời… Nếu không, cũng tìm đường ra đi, để công sở, trường học, nhà máy, công trường… lại cho bọn lợn lòi từ hang động trở về. Chính sách “hồng hơn chuyên” cố chấp, đầu đặc đã là tiêu hao bao nhiêu tài nguyên của đất nước, khi chúng quan niệm “chất xám” trí tuệ không giá trị bằng một nắm phân nơi “vùng kinh tế mới!” Đó là “tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường” đó ư?

Đúng là “không có kẻ thắng người thua là không đúng,” nhưng bất hạnh cho miền Nam thất trận, không may mắn thất trận vào tay một kẻ hào hiệp để có được một Hiệp Ước Của Người Quân Tử – The Gentlemen’s Agreement- mà mất nước vào tay thảo khấu, lục lâm, mới ra cớ sự “dãi thây trăm họ,” oán hận ngút trời, như sau cuộc chiến tương tàn Việt Nam…

Hôm nay đến ngày 30 Tháng Tư lần thứ 45, người dân miền Nam ai cũng mang một vết thương chưa lành. Bao nhiêu năm qua, chúng ta đã quá hiểu nhau tính cách của nhau. Đây không phải là lúc dùng những luận điệu tuyên truyền trẻ con và xảo trá ấy nữa! 45 năm trôi qua, thời buổi này mà kẻ côn đồ, dao búa còn nói chuyện trịch thượng tha thứ hay cho rằng mình là kẻ khoan dung, nhân ái, thì đây đúng là thứ khoan dung, nhân ái loại “bà Tú Để,” loại “chó đẻ” mà chẳng ai muốn nghe.

Một lần nữa, xin bạn đọc tha thứ nếu chúng tôi đã làm bẩn mắt quý vị, nhưng với loại người ấy, chúng ta không thể dùng một loại từ ngữ nào đúng hơn! Hồn ông Bùi Bảo Trúc có linh thiêng xin về chứng giám!

 
*** 

HÌNH:Các Thương Phế Binh VNCH, những người bị phân biệt đối xử sau 30 Tháng Tư, 1975, đang chờ đợi nhận quà từ thiện tại Chùa Liên Trì, thành phố Sài Gòn ngày 9 Tháng Tư, 2015. Hơn 40 năm sau cuộc chiến Việt Nam, CSVN vẫn cai trị đất nước bằng bàn tay sắt. Nhưng với chủ nghĩa tư bản hoang dã, tham nhũng và bất bình đẳng xã hội, lời tuyên bố “chiến thắng” chỉ là sự trống rỗng. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images).

Image may contain: 1 person, sitting and indoor

Sinh ra để chia rẽ!

Sinh ra để chia rẽ!

Tết Canh Tý 2020, lần đầu tiên ở Little Saigon có hai diễn hành Tết. Trong hình là diễn hành Tết trong ngày Mùng Một do Little Saigon Westminster Tết Parade tổ chức. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Huy Phương

Tôi xin mượn thành ngữ “Born to…” để nói về chuyện người ta sinh ra đã có tài năng thiên bẩm ở một điều gì đó, và sinh ra chỉ để làm điều đó như “Born to Kill,” “Born to Rap,” “Born To Die…” thì người Việt vốn sinh ra để… chia rẽ (Born to Divide) cũng không lấy gì làm lạ.

Khi lần giở lại trang sử 4,000 năm văn hiến, chưa có một dân tộc nào có cái quá khứ phân ly chia rẽ “hào hùng” như dân tộc Việt. Dù là truyền thuyết đi nữa, thì cũng có cái căn nguyên “Born to Divide…” của nó!

Khởi đầu như thế, định mệnh dân tộc làm sao tránh khỏi cảnh phân ly. Đây chỉ là một sự chia rẽ trong thời kỳ phôi thai, lịch sử dân tộc về sau vì quyền lợi lãnh thổ, sự tranh giành quyền lực, ngai vàng, cho nên kẻ phù Vua, người theo Chúa, gây ra cảnh nồi da xáo thịt, không phải kẻ dưới châu thổ, người ở thượng du, mà phân tranh theo phương hướng Nam Bắc trong suốt những thời gian dài.

Trong lịch sử, sông Gianh thuộc tỉnh Quảng Bình là ranh giới phân chia Đàng Trong với Đàng Ngoài, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh kéo dài hơn 200 năm (1570-1786).

Thời chiến tranh Quốc – Cộng, Hiệp Định Geneve năm 1954, đã lấy sông Bến Hải, thuộc tỉnh Quảng Trị, nằm ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia đôi giữa miền Nam Việt Nam và miền Bắc Việt Nam.

Trở lại thời Pháp thuộc, Việt Nam chia ra thành ba Kỳ. Nam Kỳ là thuộc địa do người Pháp trực tiếp cai trị với một hệ thống luật pháp khác hệ thống được áp dụng tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Tại Nam Kỳ không tồn tại bộ máy hành chính của Triều Đình Huế như ở Bắc và Trung Kỳ. Giao thông đang còn khó khăn, sự đi lại, cảm thông, hiểu biết ngay giữa người Việt với nhau còn hạn chế. Chế độ chia để trị đã để trong đầu óc người dân Việt những thành kiến khó gột rửa.

Bản thân tôi cũng không thể tưởng tượng nỗi, đến năm 1956 khi bản Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam đã được thành hình, mà khi vào đến Sài Gòn, tôi đã được bà bác dâu người Nam, giới thiệu với bạn bè “đây là thằng cháu của ổng, mới ở nước Huế vô đây, đi học!” Thì ra, Sài Gòn là một nước khác.

Di tích cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 chia hai miền Nam – Bắc trong chiến tranh Việt Nam. (Hình: Khôi Nguyên/Người Việt)

Phải chăng vì “Sài Gòn là một nước khác,” mà cuộc di cư vĩ đại của người Bắc sau Hiệp Định Geneve, với hơn một triệu người, không phải ở đâu cũng được đón tiếp bằng đôi mắt thân thiện. Trong thời gian trường Petrus Ký chia sẻ trường ốc và ban giảng huấn cho Chu Văn An, người học sáng, kẻ học chiều, thỉnh thoảng vẫn xẩy ra những vụ đánh lộn giữ học sinh hai trường.

Một trong những chiến lược để đánh thắng kẻ thù là làm cho kẻ thù suy yếu, bằng cách gây chia rẽ trong lòng địch. Miền Nam từ vụ đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963, cuộc thảm sát Thanh Bồ – Đức Lợi, Đà Nẵng năm 1964, rồi vụ bàn thờ xuống đường năm 1966 đã chia rẽ trầm trọng miền Nam trong bao nhiêu năm. Trong khi đó ở phía Bắc, phe thân Trung Cộng và phe thân Liên Xô cũng tranh giành, thanh trừng, xâu xé nhau.

Bắc Việt thường hô hào đoàn kết dân tộc, nhưng sau Tháng Tư, 1975, hận thù, chia rẽ càng ngày càng trầm trọng, dân chúng thì có “gia đình cách mạng” rồi “kẻ nợ máu với nhân dân,” quân thì có quân “cách mạng,” và “ngụy quân-ngụy quyền.” Đồng bào ruột thịt thì xếp hạng, kỳ thị, truy sát tận cùng tới ba đời cha, ông trong tất cả các sinh hoạt xã hội, công ăn việc làm làm, thi cử, học hành.

Những người Cộng Sản thường lên án thực dân Pháp ngày trước đã chia rẽ Bắc Nam, nhưng chính Nguyễn Phú Trọng cũng đã cho dân Bắc là “thành phần thượng đẳng” khi phát ngôn: “Tổng bí thư phải là người miền Bắc, phải là người có lý luận! ” Và Nguyễn Thiện Nhân năm 2018, cũng đã thuyết phục người dân mất đất tại Thủ Thiêm: “Tôi nói tiếng Bắc nhưng tôi là người Nam. Tôi không gạt bà con đâu!” Như vậy là nghĩa làm sao? Đó là những người Cộng Sản không cần che giấu sự kỳ thị địa phương kinh khủng như vậy!

Bây giờ thật sự trong hay ngoài nước đều có sự chia rẽ, phân biệt giữa một người “Bắc-54” và một người “Bắc-75,” không chỉ giọng nói thay đổi, khó nghe mà còn cách cư xử, nói chuyện, cách đi đứng, thẩm mỹ bao gồm trong chuyện trang điểm, ăn mặc, kể cả chuyện ăn uống dù trong các nhà hàng sang trọng hay trên những bàn nhậu ngoài vỉa hè…

Tất cả chuyện chia rẽ trên đây, tôi đều chấp nhận là chuyện bình thường, nhưng khi nói đến hoàn cảnh những người tị nạn, trước một kẻ thù chung là Cộng Sản, đã trăm nghìn gian khổ, hiểm nguy, liều chết đến đây mà còn chia năm xẻ bảy, đấm đá nhau thì thật không hiểu nỗi!

Bạn đọc thử nhìn đi. Ở đâu trong cái cộng đồng tị nạn này mà không thấy chia rẽ? Ai thành công mà không chịu sự chửi rủa, mạ lỵ? Chắc các bạn chưa quên chuyện ngụ ngôn “Giỏ Cua Cộng Đồng” cách đây khá lâu, không có nắp đậy, mà không sợ cua bò ra ngoài, vì trong giỏ cua này, con nào mới bò lên miệng giỏ, đã có những con cua khác kẹp càng kéo xuống! Nghe mà rớt nước mắt.

Đoàn thể, hội ái hữu, đồng hương, tổ chức cộng đồng tị nạn Việt Nam trên khắp nước Mỹ đều chia hai, chưa nói đến chuyện chia ba, chia bảy. Cứ nhìn hai nơi Nam và Bắc California là hai thủ phủ chống Cộng nhất của hải ngoại, thì đủ hiểu chuyện chia rẽ tệ hại tới mức nào!

Vui chia đã đành, tang tóc cũng chia.

Cách đây nhiều năm, nhân ngày 30 Tháng Tư, người ta đã có đến những hai, ba lễ tưởng niệm, giành giật nhau từ thời gian đến địa điểm tổ chức, ai cũng cho mình là chính thống, đầy đủ chính nghĩa.

Bây giờ vui, thì cũng “trăm hoa đua nở,” gọi là Xuân Đoàn Kết, nhưng có khi tới ba hội chợ, hai diễn hành.

Năm nay, thiên hạ nhăn mặt vì vùng Little Saigon có tới hai cuộc diễn hành, tổ chức tại hai thành phố, liên tiếp trong hai ngày, vì Mồng Một, Mồng Hai đều là ngày nghỉ cuối tuần của Dương Lịch. Tôi không biết và không có ý kiến về chuyện chính tà, phải trái, ai xứng đáng hơn ai. Không có ai có quyền lực đứng ra phân giải, – một ví dụ như là Hội Đồng Liên Tôn- mà cũng không ai muốn hòa giải, chuyện dã tràng xe cát.

Đáng lẽ ra, những người lâu nay được gọi là tổ chức cộng đồng hay những người có thẩm quyền cấp giấy phép tổ chức các cuộc diễn hành, sau kinh nghiệm xót xa năm nay (2029), nên ngồi lại để tìm phương hướng giải quyết cho năm sau, tránh một trường hợp chia rẽ trùng lặp trong cộng đồng người Việt tị nạn.

Nhưng không?

Vì vào Tết năm tới (2021) ngày Mồng Một Tết nhằm ngày Thứ Sáu (12 Tháng Hai, 2021) nên chỉ còn một ngày tổ chức được diễn hành là ngày Mồng Hai Tết nhằm ngày Thứ Bảy, 13 Tháng Hai, 2021, nên cả “hai phe diễn hành” năm nay đều dự liệu “lấy tài,”cho cuộc diễn hành của mình vào một ngày duy nhất sang năm.

Quả là chuyện lo xa! Không biết thiên thể nào sẽ va vào trái đất năm nay hay dịch bệnh COVID-19 sẽ đi về đâu, nhưng cứ lấy ngày đi cho nó chắc, không ai vào giành giật!

Hội Đồng Thành Phố Garden Grove chuẩn thuận tối Thứ Ba, 11 Tháng Hai, 2020, với số phiếu 7-0 cho cuộc diễn hành Tết 2021 do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia, Nam California, tổ chức sẽ diễn ra lúc 9 giờ sáng đến 12 giờ trưa Thứ Bảy, 13 Tháng Hai, 2021, nhằm ngày Mùng Hai Tết Tân Sửu, trên đường Westminster, Garden Grove.

Trong khi đó, sau hai ngày, Little Saigon Westminster Tet Parade, nhóm tổ chức diễn hành Tết tại Westminster năm nay, vừa gởi ra thông báo cho biết họ sẽ xin Hội Đồng Thành Phố cho tổ chức diễn hành Tết trên đại lộ Bolsa Trần Hưng Đạo, từ 8 giờ sáng đến 11 giờ 15 sáng cùng ngày với cuộc diễn hành bên Garden Grove.

Như vậy là Úm Ba La hai ta cùng vui: Tết 2021 tại Little Saigon: sẽ “chắc chắn có,” chứ không phải “có thể có” hai cuộc diễn hành cùng ngày.

Năm nay 2020, chia rẽ nhưng là hai ngày, nên hôm nay ta tham dự cuộc diễn hành này, ngày mai ta đi dự cuộc diễn hành bên kia, nhưng sang năm, cả hai cuộc diễn hành đều diễn ra một thời gian, ở trên hai con đường song song, cách nhau chỉ hơn hai dặm, đồng bào khó có thể phân thân như Tôn Ngộ Không để tham dự hai bên cho đỡ mất lòng.

Thoạt đầu tôi muốn dấn thân “phục vụ cộng đồng,” đưa một đề nghị rất đoàn kết, là chúng ta liên kết hai cuộc diễn hành làm một, bắt đầu đi từ thành phố này sang thành phố nọ (tôi không nói tên thành phố nào trước, sợ bị kết án là thiên vị!) Nhưng cuối cùng tôi xin rút lui ý kiến, vì nghĩ lại chưa chắc ai đã chịu ai, ai đã hy sinh vì ai, ai cũng cho mình đàng hoàng, có chính nghĩa hơn phe kia!

Tôi chỉ xin có một đề nghị, năm nay (2020), cộng đồng tị nạn Cộng Sản Việt Nam có hai cuộc diễn hành trong hai ngày liền nhau, tạm đặt là Xuân Đoàn Kết. Sang năm (2021), có hai cuộc diễn hành chung một ngày, nghĩa là đã xích lại gần nhau, xin đặt là Xuân Đại Đoàn Kết!

Quý vị nào không vừa tai, xin cho biết ý kiến! (Huy Phương)

‘Cố lên, Vũ Hán!’

‘Cố lên, Vũ Hán!’

 Huy Phương

“Dù đêm có dài đến đâu, thì bóng tối cũng sẽ phải kết thúc!”

Phát ngôn viên Hua Chunying của chính phủ Trung Quốc hôm 4 Tháng Hai, 2020, đưa ra nhận xét tại một cuộc họp báo tại Bắc Kinh, là Trung Quốc đánh giá cao sự thông cảm, hiểu biết và hỗ trợ của Nhật Bản trong cuộc chiến chống lại dịch bệnh COVID-19 mới của Trung Quốc.

Ông Hua cho biết chính phủ Nhật Bản đã tuyên bố rất sớm sau khi dịch bệnh bùng phát rằng họ sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để giúp Trung Quốc chống lại dịch bệnh. Các tổ chức và doanh nghiệp của chính phủ Nhật Bản đã quyên góp một lượng lớn khẩu trang, kính mắt và bộ quần áo bảo hộ, để giúp phòng chống dịch bệnh ở Trung Quốc.

Ngọn tháp Skytree Tokyo ở thủ đô nước Nhật đã được thắp đèn sáng màu đỏ và màu xanh để cổ vũ và cầu nguyện cho Trung Quốc.

Kể từ khi dịch bệnh bùng phát, chính phủ Nhật Bản và người dân từ mọi tầng lớp đã bày tỏ sự thông cảm, hiểu biết và hỗ trợ cả hai mặt tinh thần và vật chất cho Trung Quốc.

Trong các kiện hàng viện trợ giúp đỡ cho Trung Quốc, Nhật đã kèm theo những câu khẩu hiệu động viên các nạn nhân: “Though miles apart, we are under the same sky!” (Dù cách xa nhìn dặm, chúng ta cùng ở chung dưới một bầu trời, hay “Hãy mạnh mẽ lên, Trung Quốc!”, “Cố lên, Vũ Hán!” Một số hàng viện trợ từ Nhật Bản gửi tặng đến Hồ Bắc, còn ghi những dòng chữ: “Sơn xuyên dị vực, phong nguyệt đồng thiên” (Sông núi khác vực, nhưng trăng gió cùng trời!)

Trái ngược với những lời phát biểu đầy ác ý, kỳ thị của một số quốc gia, Nhật Bản đã phản bác tại cuộc họp báo rằng lỗi ở đây là virus, chứ không phải là từ con người.

Phát ngôn viên của Bắc Kinh tin rằng nhiều dân chúng Trung Quốc cũng đã chú ý đến những chi tiết ấm lòng này, và Trung Quốc cảm ơn các quốc gia đã hết sức thông cảm, hiểu biết và hỗ trợ trong thời gian khó khăn này, sẽ giữ những điều này trong trái tim mình.

Trên đời này, mấy ai là chính nhân quân tử, “thấy người hoạn nạn thì thương,” thường thấy người có thù oán, hiềm khích với mình gặp lúc đau khổ thì hả hê, đắc chí, hớn hở ra mặt. Văn hóa Trung Quốc thường ca tụng những gương quân tử, nhưng con người của đất nước này đã thường có thái độ cư xử như kẻ tiểu nhân.

Chúng ta nhớ lại, Tháng Tư năm 2016, Nhật Bản đã lâm chịu hai trận động đất kinh hoàng, trong khi cả thế giới cùng chia sẻ nỗi đau, thì trên toàn đại lục, người dân Trung Cộng hết sức hân hoan với thảm họa trên. Các trang mạng của Trung Quốc đã đầy những lời chúc mừng, quảng cáo cho các trang bán hàng online, các nhà hàng, siêu thị tràn ngập những trò khuyến khích dân chúng ăn mừng có thưởng, trước tai họa của Nhật Bản, như “Nhiệt liệt chúc mừng động đất Nhật Bản, đến dùng bữa tối tại nhà hàng được tặng một thùng bia!” hay “Nhiệt liệt chúc mừng động đất Nhật Bản, mua đồ gia dụng được tặng thêm quà giá trị!”

Phải chăng người Trung Quốc chưa quên mối thù Nam Kinh xảy ra năm 1937, trong đó, phát xít Nhật đã hiếp và giết chết khoảng 300,000 người.

Thái độ “tiểu nhân đắc chí” này, cũng đã xảy ra gần hai mươi năm về trước, thời gian nước Mỹ bị thảm họa 9/11 khi Al-Qaeda tấn công vào New York, làm chết 2,977 người.

Trung Tướng Lưu Á Châu, 58 tuổi, chính ủy Học Viện Quân Sự của “Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc,” đã kể lại rằng sáng ngày 12 Tháng Chín, 2001, nơi ông ở tại Bắc Kinh bỗng nghe thấy tiếng kèn trống, la ó rất ồn ào trong vùng, thoạt đầu, ông ngờ rằng đám trẻ đang ăn mừng kết quả thắng lợi của đội túc cầu quốc gia đêm qua, nhưng không, đám thanh niên này đang hò reo, “vui mừng khi nghe tin hai tòa nhà thương mại lớn tại Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế của Mỹ ở New York đã bị không tặc đánh sập.”

Khi giở tờ báo buổi sáng ra xem, ở trang nhất đưa tin các trường học ở Bắc Kinh làm lễ khai giảng cho năm học mới, không có một dòng tin nào về chuyện không tặc ở New York.

Cũng sau đó, ông nghe tin, một đoàn nhà báo Trung Quốc đang ở thăm Hoa Kỳ đúng ngày 11 Tháng Chín (9/11). Khi nghe tin và chứng kiến trên TV máy bay của bọn khủng bố đâm Tháp Đôi, khói lửa đầy trời New York, bọn người này hớn hở, vui mừng ôm nhau, nhảy cỡn lên, trước con mắt sửng sốt và phẫn nộ của người bản xứ.

Tướng Lưu Á Châu cũng cho biết, sau đó cả đoàn báo chí Trung Quốc bị trục xuất về nước và bị liệt vào danh sách không bao giờ có thể trở lại Mỹ nữa. Vị tướng này đã phê phán thái độ độc ác, vô ý thức của đồng bào ông, reo hò, vui mừng trước tai họa khủng khiếp của đồng loại đến mức tồi tệ như thế. Đây là một loại văn hóa thiếu đạo đức, xấu xa của nền văn hóa lâu đời của Trung Quốc hay sao?

Hiện nay số người lây bệnh và chết vì virus COVID-19 tăng quá nhanh, mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì thiếu nhân sự, thuốc men và phương tiện, Trung Quốc phải cách ly khoảng 50 triệu dân chúng trong những vùng nghi có bệnh. Mặt khác những bệnh viên dã chiến mới lập, chỉ có thể cô lập những người mắc bệnh để chờ chết, chứ không đủ thuốc men để điều trị và cứu sống các nạn nhân.

Trung Quốc trở thành một địa ngục trần gian, bị cô lập từ mỗi thành phố, chưa thấy có cơ hội sẽ chấm dứt trong một tương lai gần. Điều đó quả là đáng thương cho một dân tộc đang lâm nạn như Trung Quốc hôm nay.

Đối với thế giới lâu nay, đảng Cộng Sản Trung Quốc quả là đáng ghét, nhất là với một dân tộc đã có nhiều kinh nghiệm lịch sử với Trung Quốc như dân tộc Việt Nam, trước một thảm họa như COVID-19 đang gieo xuống nước này, hẳn là chúng ta không thể tránh những thành kiến thương ghét.

Gần đây, trên Internet, có phần mỉa mai và đầy ác ý, người ta đã đem luật nhân quả ra để giải thích những điều mà Trung Quốc phải gánh chịu hôm nay! Đảng Cộng Sản Tàu cũng như đảng Cộng Sản Việt hiện nay đã có những chủ trương đi ngược lại quyền làm người và tự do của nhân loại, nhưng liệu những người dân hiền lành, vô tội đang chịu sự thống trị của đảng, trước một tai họa tày trời như nạn dịch viêm phổi có đáng cho chúng ta cười cợt, dè bỉu hay không?

Dù là kẻ thù đi chăng nữa, lúc lâm nguy cũng đáng cho chúng ta thương xót.

Trong quá khứ, nhiều trận đại dịch trên thế giới đã lấy đi sinh mạng của hàng triệu người. Dịch COVID-19, hiện nay chưa có dấu hiệu gì là có thể chấm dứt, vì con số nhiễm bệnh và chết mỗi ngày một tăng nhanh, không kiểm soát được. Đây là chúng ta chỉ nhìn những con số chính thức do Trung Quốc đưa ra, còn những con số dưới phần tảng băng chìm, chưa ai có thể biết được.

Giáo Sư Derek Gatherer từ Đại học Lancaster cảnh báo số ca mắc bệnh ở Trung Quốc có thể cao gấp 10 đến 25 lần so với số liệu thống kê chính thức.

Chính tổ chức Y Tế Thế Giới cũng thú nhận “còn quá sớm để dự đoán khi nào virus corona sẽ bị ngăn chặn và tổ chức này cũng không biết trận dịch này sẽ đi đến đâu?”

Bây giờ tại Trung Quốc mỗi này có thêm hàng trăm người chết và dịch COVID-19 đã lây tràn ra trên thế giới. Không còn ai, dù với bất cứ căn nguyên nào, còn có thể vui trên nỗi đau của đồng loại.

Xin mượn lời của một cô bé viết cho mẹ là một bác sĩ đang ở trong vòng cấm của Vũ Hán để kết thúc bài viết này: “Những ngày qua con biết mẹ rất mệt mỏi và căng thẳng. Nhưng mẹ ơi, dù đêm có dài đến đâu thì bóng tối cũng sẽ phải kết thúc. Mẹ hãy cố lên, Vũ Hán cố lên. Con rất yêu và nhớ mẹ!”

“Dù cách xa nghìn dặm, chúng ta cùng ở chung dưới một bầu trời.” Đó chính là tiếng nói của tình đồng loại! (Huy Phương)

‘Bến Không Chồng,’ ‘Làng Không Vợ’

 

‘Bến Không Chồng,’ ‘Làng Không Vợ’

Huy Phương

Những người đàn ông làm công việc vá lưới tại một ngôi làng ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. (Hình: Getty Images)

Những ngôi làng vắng tiếng cười,
mà chỉ nghe tiếng khóc trẻ thơ!

Vào cuối năm 1975, khi những người tù miền Nam được Cộng Sản chuyển ra Bắc, từ bến tàu Hải Phòng vào đêm, cho đến lúc trời sáng rõ khi con tàu cổ lỗ, cọc cạch dừng lại sân ga Yên Bái, chúng tôi quan sát thấy rất ít bóng dáng đàn ông. Trên cánh đồng, qua những công trình xây dựng ven đường, và ngay cả trên sân ga chỉ thấy toàn đàn bà, lác đác mới thấy vài nam công an mặc áo vàng. Hầu như tất cả đàn ông, dù là sau ngày chấm dứt chiến tranh năm ấy, đã biến mất. Họ đã đi xa chưa về, hoặc đã chết vì bom đạn, để lại trên miền đất này những người phụ nữ đảm đang hay bắt buộc phải đảm đang, cáng đáng nhiều công việc trước kia là của đàn ông.

Theo thống kê của Bắc Việt, kể từ sau năm 1945 đến năm 2012, toàn quốc có 1,146,250 binh sĩ tử trận, khoảng 600,000 thương binh, trong đó có 849,018 người lính chết trong giai đoạn “chống Mỹ.” Con số người mất tích, bị vùi dập vì bom đạn không sao kể xiết.

Chủ trương của Bắc Việt là tận dụng hết nhân lực, tài nguyên cho mục đích thôn tính miền Nam, có khi đóng nguyên cả trường đại học, lùa tất cả sinh viên, giảng viên và công nhân cầm súng vào Nam, mà không cần qua giai đoạn huấn luyện!

Điển hình trong trận Cổ Thành, Quảng Trị 1972, một tiểu đoàn Bắc Việt vào cổ thành với quân số đầy đủ, 67 đảng viên và nhiều vũ khí tối tân; đã chết trên 100 người, bị thương trên 700 (tính cả số bổ sung từng ngày) và lúc rút ra chỉ còn 12 người! Mỗi ngày có một đại đội vượt sông Thạch Hãn để tiếp viện quân số, nhưng đêm nay một đại đội tiến vào thì ngày mai chỉ còn lại vài người sống sót.” Do mật độ bom đạn rất cao và kéo dài nên hầu hết bộ đội Bắc Việt tử trận trong cổ thành đều bị vùi lấp. (QĐND 9/8/1972)

Thời gian chiến tranh, miền Bắc trở thành một miền đất vắng bóng đàn ông. Hình ảnh này được thể hiện trong “bến không chồng,” tiểu thuyết của tác giả Dương Hướng xuất bản lần đầu tiên năm 1990 tại Hà Nội, được giải thưởng của Hội Nhà Văn năm 1991.

Tập truyện được coi là một câu chuyện “hòn vọng phu” thời hiện đại. Toàn xã đã sống qua những ngày buồn thảm với những tờ giấy báo tử vô hồn, một vùng đất không có súng đạn nhưng chứa đựng nhiều mảnh đời cô phụ, đầy nước mắt. “Bến không chồng” là một bức tranh mô tả một làng quê quạnh quẽ thiếu bóng dáng đàn ông, chỉ còn lại những thiếu nữ lỡ làng, những chinh phụ mòn mỏi.

Cuộc chiến nào cũng để lại những điều đau xót, bất hạnh cho con người, nhưng sao thời bình, trong một xã hội hiện nay như làng xóm Việt Nam, lại xẩy ra những điều, mới nghe qua, quả là khó tin. Đó là ngày nay, cũng ở Bắc Việt, nhiều ngôi làng được mệnh danh là “những ngôi làng không vợ,” vắng hẳn bóng đàn bà, ở đó chỉ có những người đàn ông, sống cảnh “gà trống nuôi con.

Ngày xưa, những “bến không chồng,” dân làng giật gấu, vá vai, nhà cửa dột nát, nghèo nàn, cơm không đủ no, trái lại ngày này “làng không chồng” được gọi là những ngôi làng tỷ phú vì nhà cửa nguy nga, phương tiện của đời sống không những đầy đủ mà còn được coi là giàu có.

Theo thống kê của xã Hồng Long, huyện Nam Đàn (Nghệ An) cứ ba gia đình, thì có hai gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Cả ba xóm có tới 165 phụ nữ đi làm việc ở Đài Loan, Mã Lai. Nhiều gia đình có vợ đi “xuất khẩu” từ hơn 10 năm qua, mọi việc lớn nhỏ trong gia đình, từ chăm sóc con cái, dọn dẹp nhà cửa đến việc đồng áng đều do giới đàn ông đảm nhận.

Những người đàn ông có vợ vắng nhà đều có những công việc “tần tảo” như nhau. Trời chưa hừng sáng, khi các con còn ngon giấc, đàn ông trong làng dậy lọ mọ nhen lửa, nấu cơm, nấu cám lợn, giặt giũ đống quần áo. Đến sáng, khi các con ngủ dậy, đàn ông lại chăm cho con ăn sáng, để còn đến trường, còn mình ở nhà thì thái rau, bưng cám cho đàn lợn đang kêu. Xong xuôi mọi việc trâu bò, lợn gà, có người còn phải lo cho cha mẹ già. Những ngày mùa, trong khi ngày xưa, đàn ông tuốt lúa, đàn bà rủ rơm, phơi rạ thì bây giờ ở đây, chỉ toàn là đàn ông, các ông bà già và trẻ nhỏ lo việc đồng áng.

Cho vợ đi làm lao động ngoại quốc như là một cơn sốt, hay nói đúng là một cơn dịch nhanh chóng lan rộng trong làng trên xóm dưới. Vì đồng tiền, người ta bỏ cả hạnh phúc gia đình, dứt bỏ tình cảm để ra đi.

Không thiếu những phụ nữ đành đoạn từ giã mái ấm gia đình, khi đứa con mới sinh đầy năm, chưa dứt sữa mẹ và hai đứa con khác chỉ mới lên năm và lên ba! Đó là trường hợp của nông dân tên Cách, tâm sự ngày vợ lên đường sang Đài Loan, ngày đầu tiên xa mẹ, bé út khóc suốt ngày vì thèm sữa mẹ, những đứa khác cũng bỏ ăn vì vắng mẹ. Những ngày đầu tiên vợ vắng nhà là những ngày hết sức khổ sở, con khóc đòi mẹ, thì phải nói với con “là sáng mai mẹ sẽ về, đến sáng không thấy mẹ đâu, con lại khóc, cha lại loanh quanh rằng mẹ đã về rồi, nhưng thấy con đang ngủ say nên lại đi rồi!”

Mãnh lực đồng tiền thời bình đã làm cho vợ chồng chia cách, ruột thịt chia lìa.

Câu chuyện bắt đầu từ những năm 1990, xã Đông Tân có người làm nhân viên cho một công ty xuất cảng lao động về làng tuyển người. Ban đầu, chỉ 4-5 người đi nhưng sau đó đồng tiền do họ gửi về đã làm “thay da, đổi thịt” cho gia đình, những ngôi nhà gạch bạc tỷ khang trang được dựng lên, nhà nào cũng có TV, dàn nhạc, xe gắn máy, có khi còn cả xe hơi. Cả làng đổi đời nhờ cuộc sống ly hương. Phong trào phụ nữ sang Đài Loan nở rộ, sau này còn cả số phụ nữ đi làm việc trong các sòng bài ở Macau.

Năm 2019, xã Đông Tân có 570 người xuất ngoại, trong đó 74% là phụ nữ. Xã hiện nay có tới gần 500 gia đình cùng cảnh ngộ vắng bóng đàn bà. Nhiều người đã đi Đài Loan, sau ba năm trở về với chồng, có thêm đứa con thứ hai mới ba tuổi, nhưng quê nhà chỉ có đồng ruộng khô cằn, vợ lại trao con cho chồng, ra đi lần nữa.

Một xã khác, có đến 800 phụ nữ đi làm nghề “ôsin” nước ngoài nên cánh đàn ông rơi vào thế thúc thủ.

Đàn ông phát biểu: “Nghề nông cấy được cây lúa cho trổ bông thì gạo rẻ. Sáu tháng nghề nông giỏi lắm chỉ làm được 3 triệu đồng. Đi ôsin mỗi tháng kiếm được 10 triệu đồng, nông dân nằm mơ cũng không thấy. Vì vậy, dù chẳng hay ho gì khi để vợ đi ôsin nhưng có lẽ nhờ thế mà đại đa số gia đình ở làng này các ông chồng có vợ đi ôsin đều thành công, giàu có!”

Một người khác cho biết: “Bố mẹ tôi có sáu người con trai thì năm anh em đều có vợ đi làm ôsin ở nước ngoài, chỉ trừ vợ anh cả do ốm yếu nên ở nhà! Ngoài năm chị em dâu, chị gái ruột của tôi cũng đi làm ôsin.” Ôsin vạn tuế! Thế thì thôi, còn gì để nói nữa!

Ở đây, có những cảnh người đàn ông, sống như cây tầm gửi, sáng sáng, đến nhà chị dâu lãnh thực phẩm cho hai cha con ăn đủ trong ngày, vì vợ đi Đài Loan, Macau làm ăn từ hơn 15 năm trước, không tin chồng, người đàn bà phải nhờ chị dâu mình rót thức ăn mỗi ngày. Có ông, lúc con khóc nhớ mẹ, không biết nhờ ai, lại bồng bế đi dỗ khắp làng, cười ra nước mắt khi gặp những người đàn ông cùng cảnh ngộ. Về nhà, lại lo chuyện bếp núc, tắm rửa cho con thơ. Bây giờ, trong những ngôi làng này, “đàn ông mặc váy” đã thành câu chuyện bình thường, do cái xã hội đặc biệt này tạo ra!

Nói về câu chuyện cho đàn bà đi “xuất khẩu,” để đàn ông ở lại nhà lo chuyện nội trợ, bếp núc, may vá và cả chuyện ruộng đồng, nhiều bậc cao niên trong làng có ý kiến, rằng tuy đồng tiền quý thật, nhà cao cửa rộng, ai mà không thích, nhưng đời sống quê nhà vẫn thiếu một cái gì đó. Thương nhất là những đứa trẻ có mẹ mà cũng như côi cút. Nhiều phụ nữ sau nhiều năm trở về, con không nhận ra mẹ nữa. Đêm nào cũng nghe tiếng trẻ khóc vì thiếu mẹ, quê làng vắng tiếng ru hời.

Việt Nam hiện nay, có hàng vạn khu phố văn hóa, những ngôi làng không vợ, có được gọi là những ngôi làng văn hóa không? Dù ở những nơi này, mỗi ngày mỗi thịnh vượng, giàu có, nhà lầu san sát mọc lên, nhưng ở đây, phải nói là có điều bất bình thường. Điều này, có còn để được ca tụng đây là một chế độ đầy “nhân văn” không? Nơi đây, nhìn qua, quả là có một bộ mặt thịnh vượng, cán bộ cầm quyền đang giàu lên mỗi ngày nhờ đất, con người thì đẩy vợ đi ra khỏi nước để kiếm tiền, ngẩng mặt với làng xóm, anh em.

Nhiều quốc gia trên trái đất này, chịu những nỗi đau trong chiến tranh giống nhau, nhưng vào thời bình, không biết có quốc gia nào, chịu những nỗi buồn giống như những “ngôi làng không vợ” ở miền Bắc Việt Nam hiện nay hay không? (Huy Phương)

‘Mạ Thủ,’ những tay chửi mướn chuyên nghiệp

‘Mạ Thủ,’ những tay chửi mướn chuyên nghiệp

Huy Phương

Số đông dư luận viên làm việc ẩn danh và giấu mặt. (Hình minh họa: Getty Images)

Đọc truyện Tàu, Tam Quốc Chí hay Hán Sở Tranh Hùng, người đọc không thể không biết tới một thứ quân đặc biệt luôn luôn có trong bất cứ một đội quân nào của những phe phái khác nhau. Người xưa khi đem quân vây thành địch, mà địch quân trong thế yếu không dám mở cửa thành xung trận, thì họ chọn ra những sĩ tốt có buồng phổi to, tiếng nói khỏe và đặc biệt là có sở trường về những chuyện chửi bới, bẩn thỉu, tục tĩu nhất ra trận.

Cánh quân này có khi trần truồng, đứng trước cửa thành địch mà chửi rủa. Đám quân này được gọi là “mạ thủ” (những tay chửi,) ra trận không dùng đao thương, chỉ dùng mồm to mà chửi bới, thóa mạ kẻ địch, gọi ông cha tổ tiên của các tướng lãnh phe địch ra mà réo; một thứ chiến tranh tâm lý, chọc giận quân địch, khiêu khích… khiến cho địch hoang mang, mất khôn mà mở cửa thành trong khi hoàn cảnh chưa hẳn là thuận lợi. Lẽ cố nhiên, quân “mạ thủ” luôn đứng ở trận tiền, sát thành địch, trong tay lại không có vũ khí, nên khi xung trận, là những quân sĩ chết đầu tiên.

Mạ thủ ngày nay không ra mặt và mang một cái tên khác: “dư luận viên!”

Đây là nhóm người phục vụ cho đảng, gọi là chuyên nghề định hướng dư luận trong nhân dân theo chiều có lợi cho đảng, nhưng nói nôm na là xung trận chửi không tiếc lời những ý kiến, bài vở biên tập trên mạng không có lợi cho đảng và chính phủ của họ. Chúng không lèo lái được dư luận, nhưng dùng kỹ thuật “cả vú lấp miệng em” đánh phá địch thủ, nấp sau nhưng tên tuổi giả, tràn đầy, dày đặc để tạo cho quần chúng cái ý nghĩ là dư luận này nghiêng về đa số.

Theo một tài liệu của nhà văn Trần Trung Đạo mới đưa ra đây, ông đã nói về một lực lượng “dư luận viên” có tổ chức quy mô ở Trung Cộng: “Tại Trung Cộng, dư luận viên không chỉ chịu sự kiểm soát của Ban Tuyên Truyền Trung Ương (Việt Nam gọi là Ban Tuyên Giáo Trung Ương) về các chính sách chung của đảng Cộng Sản mà mỗi bộ trong chính phủ Trung Cộng cũng có các dư luận viên riêng để phục vụ cho chính sách riêng của bộ có trách nhiệm trả lương cho dư luận viên này.

Tháng Giêng, 2007, Hồ Cẩm Đào chỉ thị “tăng cường việc xây dựng mặt trận dư luận và tư tưởng” trong hội nghị Bộ Chính Trị lần thứ 38. Đáp lại chỉ thị của họ Hồ, một đội ngũ các “cán bộ có phẩm chất chính trị cao” tức đội ngũ dư luận viên được chính thức thành lập theo quyết định của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng và Hội Đồng Nhà Nước.

Sở Giáo Dục Trường Sa, tỉnh Hồ Nam được biết như là cơ quan sớm nhất tuyển dụng dư luận viên vào năm 2004.

Theo Zhang Lei viết trên Global Times Tháng Hai năm 2004, cơ quan giáo dục tỉnh Cam Túc tuyển dụng bình luận viên một cách công khai. Lực lượng 650 dư luận viên tỉnh Cam Túc chỉ có một việc phải làm là ngồi đọc hết các bình luận của độc giả dưới các bài viết hay trong các diễn đàn Internet và phản biện lại đúng với đường lối của đảng, làm lạc đề hay nếu cần viết các nhận xét tiêu cực, chụp mũ, bêu xấu để chấm dứt dòng bình luận được độc giả trước đó đưa ra.

Năm 2011, trong một bài báo trên The Sydney Morning Herald, nhà báo Pascale Trouillaud tố cáo Trung Cộng tuyển dụng gần nửa triệu dư luận viên làm việc một cách xảo quyệt nhưng hữu hiệu để bảo vệ đảng Cộng Sản. (Trần Trung Đạo- Đảng 50 xu -Dư Luận Viên tại Trung Cộng.)

Hiện nay, CSVN Việt Nam đã theo gương Bắc Hàn và Trung Cộng thành lập đơn vị 47 mở cuộc chiến tranh trên Mạng với 10,000 dư luận viên. Những bài viết của người Việt hải ngoại trên youtube thường bị tràn ngập bởi hàng ngàn lời bình phẩm chửi bới. Những đài truyền hình có tinh thần quốc gia, tổ chức thiện nguyện gây quỹ cho thương binh VNCH, các tổ chức xiển dương ưu điểm của chế độ VNCH đều bị đánh phá, vùi dập, gây ra những cái nhìn lệch lạc trong cộng đồng tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại. Chủ trương của loại tuyên truyền này là “nói mãi cũng phải tin, nhiều người nói đáng tin hơn một vài người.”

Hiện nay, trên Internet, cứ sau một youtube hay một bài báo được đưa lên có chiều hướng bất lợi cho chính thể trong nước, thì hầu như có hàng trăm “comment” bâu lại, như đàn cá tra trong cầu cá, chửi rủa không tiếc lời. Chúng vào comment với những cái tên thay đổi, lạ lẫm, nặc danh, nhưng chỉ đọc qua, chúng ta đã biết ngay chúng là ai?

Nhìn chung là lớp dư luận viên này phần lớn là vô học, không hiểu biết, thiếu lý luận, nên chỉ biết chửi rủa một chiều, không có sức thuyết phục, không có khả năng tranh luận, phân tích điều đúng, sai. Thay vì ôn tồn với chữ nghĩa, bàn luận thiệt hơn, thì dám dư luận viên trong và ngoài nước này, chỉ muốn đánh phủ đầu người khác với ngón đòn hạ tiện. Những danh từ quen thuộc chúng hay dùng để mạ lỵ, xỏ xiên người khác, nghe đến nhàm chán như “ba que,” “đu càng,” “tụt quần,” “bám đít Mỹ…”

Chỉ tiếc là những thứ chúng mạt sát như “ba que,” “đu càng,” “tụt quần,” “bám đít Mỹ…” là những thứ hiện nay, trong nước đang muốn phục hồi, vì nó là những thứ tinh hoa mà hơn 40 năm nay, chế độ trong nước đã đánh mất không tìm lại được, trong khi người dân thì tiếc đã đi qua một thời đại vàng son, không bao giờ tìm lại được, nếu bất hạnh, Cộng Sản còn thống trị đất nước như hôm nay!

Là người làm truyền thông, nguyên là một người lính của miền Nam Việt Nam, đã từng ở trong trại tập trung của Cộng Sản, từng sống dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, có kinh nghiệm sống và thấy hết những sự dã man hay gian trá của chế độ và con người Cộng Sản, tôi vẫn tâm nguyện dùng ngòi bút để viết hay nói lên những điều tồi tệ của chế độ này và nỗi thống khổ và mất quyền con người trong chế độ.

Thay vì, nhận được những ý kiến phân tích hay thậm chí, nếu là biện bạch của những dư luận viên phe Cộng, thì chúng tôi thường trực nhận những lời chửi rủa không liên quan gì đến những ý kiến chúng tôi đã nêu ra, mà chỉ là những lời rủa vu vơ nhắm vào cá nhân tác giả như “thằng già gần đất xa trời,” “mắc dịch,” “tâm lý chiến hết thời!” và không quên thêm những tiếng “ba que,” “tụt quần” như thường lệ!

Nhưng xét cho cùng, những bài viết, những câu chuyện, ý kiến bị các dư luận viên bâu vào, chửi bới nhiều nhất, thì đó là những tài liệu xác đáng, có khả năng đánh thẳng vào chế độ, khiến cho chúng phải sợ hãi. Vậy thì khi một bài báo được đưa lên net, bị các dư luận viên xúm vào đánh phá hung hãn nhất, thì bài tham luận đó coi như đã thành công.

Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, là một nhà đấu tranh về môi trường, tham gia vào các hoạt động biểu tình phản đối Formosa, đòi chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam, đã bị bắt giam từ Tháng  Mười, 2016 vì tội tuyên truyền chống Nhà Nước CHXHCN Việt Nam và bị kết án 10 năm tù, theo Điều 88 Bộ Luật Hình Sự.

Năm 2010, bà được trao giải Hellman/Hammett của Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền.

Năm 2015, bà được trao giải Người Bảo Vệ Quyền Dân Sự của Tổ Chức Civil Rights Defenders.

Năm 2017, bà được trao giải Phụ Nữ Dũng Cảm Quốc Tế của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Tháng 6/2018, blogger Mẹ Nấm đoạt giải Tự Do Báo Chí Quốc Tế của Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả và được đề cử giải Nobel Hòa Bình.

Được sự can thiệp của Đệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ, Mẹ Nấm đã được phóng thích khỏi nhà tù ở Thanh Hóa và rời khỏi Việt Nam vào trưa ngày 17 Tháng Mười, 2018.

Ngày 7 Tháng Mười Một, 2019, với tư cách là nhân chứng sống của tội ác Cộng Sản Việt Nam, blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã được mời vào Tòa Bạch Ốc, cùng với 4 chứng nhân khác từ các quốc gia Ba Lan, Cuba, Venezuela, và Bắc Hàn, để trình bày trực tiếp với TT Trump về những kinh nghiệm hãi hùng mà họ đã từng trải qua dưới sự thống trị dã man của xã hội chủ nghĩa. Tại đây, Mẹ Nấm đã có một bài phát biểu bằng Anh Ngữ lưu loát và và hùng hồn lên án chế độ Cộng Sản.

Tất cả những vinh dự và hoạt động của Mẹ Nấm đều làm bỉ mặt Hà Nội, và tất nhiên bị Bộ Ngoại Giao CSVN lên án, nhất là sau khi bà được tổng thống Hoa Kỳ tiếp kiến và sau bài phát biểu nhân ngày Tưởng Niệm Các Nạn Nhân Cộng Sản Trên Toàn Thế Giới, bà bắt đầu bị bọn “mạ thủ” chụp mũ và bêu rếu.

Mới đây thôi, trên Internet loan truyền một bài viết lên án Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là loài “nấm đỏ, nấm độc,” “hình mẫu của loài nhộng đỏ được cài cắm vào Việt Tân.”

Không ai lạ gì với lối đánh “chiến thuật biển người” của sư đoàn dư luận viên, nghĩa là chúng ta sẽ thấy Cộng Sản dốc toàn lực đánh, chửi những nhân vật đối kháng và những gì đang làm chúng sợ hãi.

Như vậy, chúng ta nên phải tiếp tục lên tiếng hay hành động những gì mà Cộng Sản đang lo sợ! (Huy Phương)

‘Con người là vốn quý!’

‘Con người là vốn quý!’

Huy Phương

Bộ phim đầy nhân bản “Saving Private Ryan” thu hút hàng triệu khán giả trên toàn cầu. (Hình: Getty Images)

Saving Private Ryan (Giải cứu Binh Nhì Ryan) là một bộ phim chiến tranh sản xuất năm 1998, lấy bối cảnh của cuộc Đệ II Thế Chiến, tác giả là Robert Rodat và đạo diễn là Steven Spielberg, dựa theo một chuyện có thực ngoài đời.

Câu chuyện bắt đầu khi Tham mưu trưởng Liên Quân Hoa Kỳ, Tướng George C. Marshall, được thông báo việc ba người con trai trong một gia đình tử trận ngoài chiến trường, và người mẹ đã nhận được tin buồn này của Bộ Quốc Phòng trong cùng một ngày.

Khi biết rằng người mẹ này đang còn một đứa con trai thứ tư là Binh Nhì Ryan vẫn đang chiến đấu ngoài mặt trận, Tướng George C. Marshall quyết định cử một toán quân nhân có nhiệm vụ đặc biệt là vào trận chiến, đi tìm người lính này và đưa anh ta về với một gia đình đã bị mất mát quá nhiều trong chiến tranh. Khu vực tìm kiếm rất nguy hiểm vì trận chiến khốc liệt, và các đơn vị thì liên tục di chuyển, cũng không biết binh II Ryan còn sống hay đã tử trận, vì quân đội Hoa Kỳ không biết chính xác Ryan đang ở đâu.

Đơn vị đặc biệt này gồm có 8 người được cử đi tìm Ryan trong bom đạn, cuối cùng đã mang anh ta về được với gia đình, nhưng toán binh sĩ đặc nhiệm này đã bị mất mát, không còn nguyên vẹn.

Chúng ta bỏ qua việc “Saving Private Ryan” được Viện Phim Ảnh Hoa Kỳ Mỹ xếp là bộ phim Mỹ vĩ đại thứ 71 trong vòng 100 năm và sự thành công vượt bực tại các phòng vé, cũng như, bộ phim đã được đề cử 11 giải Oscar trong lễ trao giải Oscar lần thứ 71 (1999), mà nói đến nội dung của cuốn phim.

Đi tìm một người lính trong 174,000 người lính đang hành quân chiến đấu trong vùng trời lửa đạn không phải là một công việc dễ dàng, nhưng chỉ vì những cấp chỉ huy quân đội muốn “giải cứu” một người con trai cuối cùng trong một gia đình đã hy sinh quá nhiều, đem về cho gia đình họ. Sinh mạng nào cũng đáng quý, và nỗi khổ đau tuyệt vọng của gia đình nào cũng được đất nước quan tâm. Chuyện này không phải ai cũng làm được và ở chế độ nào cũng có.

Trong hoàn cảnh của miền Nam Việt Nam, ngay trong thời điểm có chiến tranh khốc liệt là lúc Cộng Sản Bắc Việt dốc toàn lực để thôn tính miền Nam, trong “Sắc Lệnh Động Viên mới” (1968,) vẫn có điều khoản ấn định rõ ràng về chuyện hoãn dịch gia cảnh.

Có 3 trường hợp được hoãn dịch về gia cảnh:

1- Con độc nhất trong gia đình.

2- Đương sự có 5 con phải nuôi dưỡng.

3- Gia đình có cha mẹ già từ 60 tuổi trở lên, có 2 con trai, nhưng một người đang tại ngũ, người còn lại được hoãn dịch.

Quốc gia nào cũng quý mạng sống con người và thấu hiểu đến từng hoàn cảnh gia đình của từng công dân.

Nhưng đối với người Cộng Sản thì không! “Cứu cánh biện minh cho phương tiện,” là câu giải thích, miễn sao hoàn thành được mục đích, còn phương tiện không đáng kể!

“Non! Pas du tout!” Đó là câu trả lời lạnh lùng của Võ Nguyên Giáp nói với báo chí quốc tế khi người ta hỏi viên tướng này là ông có hối tiếc gì về chuyện 4 triệu người Việt chết vì chủ nghĩa Cộng Sản hay không?

Nhà báo Nick Turse trên New York Times viết: “Với người Mỹ, mạng sống ở Việt Nam từng quá đỗi rẻ mạt,” và Tướng Westmoreland, cựu tham mưu trưởng Lục Quân Mỹ, cho rằng Tướng Võ Nguyên Giáp đã “không tiếc tính mạng binh lính để đổi lấy chiến thắng.”

Câu nói thường nghe trong chế độ Cộng Sản là “cứu cánh biện minh cho phương tiện,” nên “dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn,” “đánh Mỹ đến cái lai quần,” để thôn tính miền Nam, người ta vẫn làm!”

Có người phê bình Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi ông nói: “Nếu Mỹ viện trợ 1.4 tỷ đô la Sài Gòn sẽ kiểm soát được toàn miền Nam; 1.1 tỷ đô la, Sài Gòn sẽ mất một nửa Quân Khu I về phía Bắc; nếu chỉ còn 900 triệu đô la, sẽ mất toàn bộ Quân Khu I và Quân Khu II.”

Nhưng Lê Duẫn lại nói về sinh mạng con người: “Nếu Trung Quốc nhiệt tâm giúp đỡ thì miền Bắc đỡ hy sinh 2-3 triệu người,” có nghĩa là đàn anh không giúp đỡ thì Bắc Việt sẽ hy sinh 2-3 triệu người đó, sẵn sàng nhuộm đỏ miền Nam, giữ vững tinh thần quốc tế vô sản!

Trong cuộc tiến công miền Nam, khi chiến trường miền Nam hao hụt nhân mạng, Lê Duẫn vét cả 10,000 người gồm cả sinh viên và giảng viên trẻ từ cả 30 trường đại học và cao đẳng Hà Nội, mặc áo trận, qua sông Bến Hải để quyết thắng.

Trong câu chuyện “Saving Private Ryan,” chỉ thị từ Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ là phải vào trận chiến khốc liệt để tìm cho ra Binh Nhì Ryan, người lính đã có ba người anh hy sinh trong cuộc chiến để mang về cho gia đình anh, một câu chuyện đầy tính nhân bản trong một quân đội của các nước dân chủ, tự do. Đối với ý thức cộng sản, vét tận nhân lực được chừng nào hay chừng đó, cho mục đích cuối cùng, không cần thương tiếc.

Báo chí Việt Nam đã từng ca tụng những “Bà Mẹ Anh Hùng” cống hiến hết cho đảng đến giọt máu cuối cùng.

Đến tháng 12 năm 2008 có gần 50,000 phụ nữ được tặng, hoặc truy tặng danh hiệu này. Một “Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng,” được ca tụng là Nguyễn Thị Thứ (1904 – 2010), quê Điện Bàn, Quảng Nam, đã vét hết sinh mạng của gia đình gồm có chồng, chín người con trai, một con rể và hai cháu ngoại dâng hiến cho sự nghiệp “giải phóng miền Nam của đảng.” Bà Phạm Thị Ngư ở Bình Thuận và bà Nguyễn Thị Rành ở Sài Gòn, mỗi nhà có 8 người con liệt sĩ.

Sinh mạng con người ở trong chế độ nào là đáng quý? (Huy Phương)