Hoa Tím Bằng Lăng

Nguon:   Kimtrong Lam‘s post.
 
Image may contain: flower, plant, nature and outdoor

Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

Hoa Tím Bằng Lăng

Tác Giả: Nguyễn Duy-An

Vì chiều cao “rất khiêm tốn” của mình, tôi cứ phải loay hoay điều chỉnh cái máy video cầm tay, cố gắng thâu lại hình ảnh của Tuân đang từ từ bước lên khán đài nhận bằng kỹ sư để mai mốt mang về Việt Nam “vinh quy bái tổ”. Tuân là đứa con “rất đặc biệt” của chúng tôi. Vợ chồng tôi mới cưới nhau được 10 năm nhưng Tuân năm nay vừa tròn 22 tuổi! Gia đình bên vợ và người ngoài cứ nghĩ nó là con riêng của tôi mang theo từ Việt Nam; và chúng tôi nghĩ Tuân cũng tin như thế, vì mỗi lần gọi điện thoại về Việt Nam nó vẫn gọi mẹ tôi là bà nội. Tuy nhiên, Tuân vẫn một lòng kính trọng Oanh như mẹ ruột, và vợ tôi cũng rất thương yêu và lo lắng cho nó ngay cả trước khi chúng tôi nên vợ thành chồng.

Sau bao nhiêu lần thử nghiệm và biết chắc chắn tôi không thể có con; thay vì buồn phiền, Oanh lại săn sóc cha con tôi nhiều hơn. Đã mấy tháng nay nàng chạy ngược chạy xuôi lo thu tục giấy tờ để tuần sau chúng tôi về Việt Nam nhận một đứa cháu gái của tôi làm con nuôi. Ngày nhận được kết quả thử nghiệm xác định tôi không thể có con, Oanh đã âu yếm nhìn tôi thỏ thẻ: “Ngay từ đầu em vẫn tin anh. Em không buồn đâu anh ạ! Em chấp nhận số phận, nhất là chúng mình đã có Tuân… Tuy nhiên, em nghĩ chúng mình cũng nên nhận thêm một đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Nếu anh đồng ý, em sẽ lo giấy tờ để chúng mình nhận một đứa con của chú Khang làm con nuôi. Mình nuôi cháu vẫn tốt hơn…” Đó là lý do Oanh sắp xếp để ngay sau khi Tuân ra trường, chúng tôi sẽ về Việt Nam thăm gia đình và nhất là đưa Tuân về thăm lại mộ Trang, người mẹ ruột của Tuân đã ra đi trong tủi nhục ngày nó mới được 3 tháng tuổi, và Tuân trở thành “con trai” của tôi từ hơn hai mươi năm về trước tại Bình Giả, Việt Nam.

° ° ° ° °

Ngày đó tôi cũng khoảng tuổi của Tuân bây giờ… Tôi trở về Bình Giả năm 1979, sau mấy năm gồng mình cầm cự với nghề “gõ đầu trẻ” tại một trường tiểu học ở vùng kinh tế mới thuộc tỉnh Sông Bé. Tôi thương đám học trò nghèo đói nhiều lắm nhưng chính tôi cũng không chịu nổi cảnh đói nghèo vì lương không đủ ăn nên đành phải bỏ trường về quê ăn bám gia đình sống qua ngày. Sau mấy năm vừa dạy học, vừa làm rẫy sống lây lất qua ngày, sức tôi đã kiệt quệ! Tôi đã “cắt hộ khẩu” ở trường cũ, nhưng không xin “nhập hộ khẩu” tại Bình Giả vì tôi trở về với ý định tìm đường vượt biên. Đã mấy năm rồi, bà con trong làng ai cũng biết tôi đi dạy học ở vùng “Kinh Tế Mới”, và thỉnh thoảng vẫn về quê thăm cha mẹ cũng như xin thêm gạo, bắp… nên không ai thắc mắc hay hỏi han giấy tờ tạm trú. Mùa mưa năm đó, ngoài việc chuẩn bị dầu nhớt cho chuyến vượt biên chung với một số bạn bè ngoài Láng Cát, tôi vẫn theo các em làm rẫy, làm ruộng, và nhất là vào rừng kiếm măng tre. Trong một dịp mò mẫm giữa rừng tre, tôi đã gặp lại anh Thành, một người trốn trại cải tạo, đang lẩn trốn trong rừng để tìm cách liên lạc với người vợ mới cưới được mấy tuần trước ngày anh đi học tập. Hôm đó trời trở cơn giông đột ngột, tôi chạy vội tới một gốc cây bằng lăng để trú mưa vì lúc đi rừng tôi quên không mang theo áo mưa. Lúc tới được gốc “cây cổ thụ”, tôi đã “hồn vía lên mây” khi nghe tiếng gọi tên mình vọng xuống từ ngọn cây:

– Toàn. Toàn phải không?

Tôi ngơ ngác kiếm tìm xem ai đã gọi mình, nhưng trời đã tối mịt vì cơn mưa trong rừng nên chẳng thấy gì. Tôi sợ quá, đang định chạy trốn thì một sợi giây thòng xuống từ một cành bằng lăng rậm rạp phía trên đầu… Một bóng người trùm kín trong chiếc áo mưa cũ kỹ, vừa tuột xuống vừa lên tiếng:

– Mình đây. Thành đây.

Anh Thành đã xuống đất. Tôi đứng chết sững ngó đăm đăm người “đàn anh” nổi tiếng đẹp trai và hào hùng của mấy năm về trước, bây giờ ốm yếu da bọc xương, đen đủi hốc hác đang run cầm cập vì đói và rét. Tôi ngập ngừng:

– Trời ơi! Đúng là anh Thành đây mà. Sao anh ra nông nỗi này?

– Mình trốn trại cải tạo về đây đã mấy tuần rồi nhưng không dám về nhà vì sợ bị bắt lại. Trời xui đất khiến cho mình gặp được Toàn ở đây. Đúng là số mình chưa chết.

– Anh đừng nói gở. Bây giờ anh tính sao?

– Toàn có gì ăn không? Hơn hai tuần nay mình…

Tôi chỉ định đi kiếm măng vài tiếng đồng hồ nên chẳng mang theo gì ngoài con dao cán dài để đào măng. Cũng may trong túi còn gói thuốc lá và mấy miếng kẹo cao-su (chewing gum). Sau khi kể cho tôi nghe sơ qua về cuộc đào thoát từ trại cải tạo, anh bẻ một cành hoa bằng lăng mầu tím, khắc một dấu hiệu đặc biệt lên đó và nhờ tôi mang về cho Trang, vợ anh, đang ở với cha mẹ chồng trên Xuân Mỹ, Làng Ba. Tôi vội vàng trở về, hẹn hôm sau sẽ dẫn người nhà của anh vô rừng sớm. Thấy tôi trở về với một cành hoa bằng lăng mầu tím, mẹ và em gái tôi ngạc nhiên lắm, nhưng tôi cũng chẳng giải thích. Tôi dò hỏi đứa em gái về Trang, vợ của anh Thành. Lúc đó tôi mới biết chuyện anh Thành trở về Bình Giả sau năm 1975 với một cô gái người miền Nam, bổn đạo mới. Gia đình anh Thành không chấp nhận nhưng cũng đành xin cha xứ làm phép cưới cho hai người mấy tuần trước ngày anh ấy lên đường đi “học tập”. Năm đó Trang mới 17 tuổi, nhưng vì loạn lạc, gia đình chẳng còn ai nên đã theo người yêu là anh Thành trở về Bình Giả. Niềm vui chưa trọn vẹn thì hoàn cảnh ngang trái đã chia cách đôi vợ chồng trẻ hơn bốn năm nay. Trang ở với gia đình cha mẹ chồng như một chiếc bóng cô đơn bên đường, mòn mỏi đợi chờ ngày chồng trở lại!

Tôi mang cành hoa bằng lăng mầu tím lên Xuân Mỹ tìm nhà anh Thành. Hai bác tỏ vẻ khó chịu khi tôi hỏi thăm và muốn gặp Trang. Về sau tôi mới hiểu là ở Bình Giả đâu có ai mang hoa tới nhà cho con gái; hơn nữa, nàng lại là một người con gái đã có chồng! Từ nhà bếp đi lên, nhìn thấy tôi cầm cành hoa bằng lăng mầu tím trong tay, nàng đứng sững sờ nhìn tôi, miệng ấp úng nói không nên lời. Tôi vội vàng lên tiếng:

– Có người nhờ tôi trao cành hoa này cho Trang. Có dấu hiệu khắc trên đó.

Trang cầm cành hoa rồi bật khóc nức nở:

– Trời ơi! Anh Thành! Anh đã gặp anh Thành…

Bác gái vừa đỡ Trang ngồi xuống bên cạnh, vừa dồn dập hỏi tôi:

– Cậu Toàn gặp thằng Thành nhà tôi ở mô rứa? Công an đang truy nã nó mấy tuần nay. Trang nín đi con. Tai vách mạch rừng. Chết! Chết cả nhà bây giờ! Ngày nào cũng có người tới nhà hạch hỏi về nó. Ông đóng cửa lại mau đi. Khổ thân con tôi!

Tôi thầm thì kể lại cuộc gặp gỡ anh Thành trong rừng hồi chiều cho hai bác và Trang nghe. Cuối cùng cả nhà quyết định sẽ chuẩn bị một số thức ăn và thuốc men rồi tờ mờ sáng hôm sau Trang xuống nhà tôi đi vào rừng tìm gặp anh Thành. Nếu có ai hỏi thì nói là gia đình tôi thuê nàng đi làm cỏ lúa ở Đồng Tròn. Bác trai cũng muốn đi theo nhưng không dám vì sợ hôm sau công an lại tới nhà làm việc.

Suốt một tuần liền, ngày nào Trang cũng “đi làm thuê” cho tôi để vào rừng gặp gỡ anh Thành. Cám cảnh trước hoàn cảnh hiện tại, sau mấy ngày bàn bạc cùng gia đình, tôi đã quyết định nhường chỗ trên ghe cho anh Thành. Chúng tôi cũng sắp xếp cho anh Thành theo xe bò của một người quen ở Hòa Long đi lấy cọc tiêu để tránh gặp gỡ những người quen, rồi tôi đón anh ấy ra Long Hương “ở nhờ” nhà một người bạn thân của tôi để chờ ngày ra đi. Hơn hai tháng trời, tôi và Trang trở thành những người đi buôn chuyến.

Thực ra, tôi chỉ chở Trang ra Long Hương gặp chồng, có khi ở đó một hai ngày trong lúc tôi đi Hố Nai, Gia Kiệm… lo việc riêng. Người trong làng đã bắt đầu đồn đãi về việc tôi và Trang đi buôn chung với nhau, nhất là còn đi qua đêm nữa! Mẹ tôi buồn lắm! Mặc dầu tin tôi, nhưng “lời ong tiếng ve” đồn thổi nhiều chuyện ly kỳ hấp dẫn về chúng tôi nên bà rất khổ tâm. Cha mẹ của anh Thành có vẻ bình tĩnh hơn vì nghĩ rằng những lời đồn đãi đó sẽ làm người ta quên dần chuyện anh Thành trốn trại cải tạo. Tôi vẫn xem Trang như một người bạn thân vì tôi cũng chỉ hơn nàng một tuổi, còn anh Thành thì xem tôi như một đứa em ruột, “một vị cứu tinh” đã dám liều mình cưu mang và giúp đỡ anh trong cơn hoạn nạn.

Anh Thành và một số bạn bè của tôi đã ra đi đột ngột trước ngày dự tính vì công việc “bến bãi” bị đổ bể. Sau một tuần không thấy tin tức gì về chiếc ghe đó, chúng tôi yên chí anh Thành đã ra khơi bằng yên. Tôi lại theo bạn bè tìm cách mua lại một chiếc ghe cũ ở Cần Giờ, đút lót xin giấy tờ tạm trú và bắt đầu công việc sửa chữa chuẩn bị một chuyến đi mới. Công việc bề bộn nên gần ba tháng sau tôi mới trở về thăm gia đình. Mẹ tôi vừa khóc vừa kể cho tôi nghe về hoàn cảnh của Trang. Nàng đã có thai, bụng càng ngày càng lớn. Anh Thành coi như mất tích vì không có tin tức gì. Bà con trong họ chất vấn nàng nhiều lần về đứa bé trong bụng. Lúc đầu cha mẹ anh Thành tin Trang, nhưng không biết làm sao để giải thích. Mọi người đổ tiếng xấu cho tôi và nàng. Dần dà cả gia đình nhà chồng cũng tin lời đồn đãi của thiên hạ, nhất là chờ mãi không thấy tin tức gì của anh Thành nên bắt đầu hạch hỏi và coi khinh nàng. Hai bác đã xuống nhà nói chuyện với mẹ tôi, có vẻ trách móc và đặt vấn đề tại sao chính tôi cũng trốn biệt từ mấy tháng nay. Mẹ tôi chỉ biết ngồi khóc vì tủi nhục! Em gái tôi cũng nửa tin nửa ngờ nên đã tìm gặp Trang để hỏi cho ra lẽ. Nó tin lời giải thích của Trang nên càng ngày càng thân với nàng.

Tuổi trẻ bồng bột và nhiều tự ái nên tôi đã lên gặp cha mẹ anh Thành đôi co và cãi vã với cả gia đình và giòng họ anh ấy để bênh vực cho Trang, nhưng rồi mọi người lại càng khinh bỉ và ghét bỏ Trang nhiều hơn trước. Quá tủi nhục và hổ thẹn, Trang đã liều mình tự tử! Cũng may người nhà phát giác kịp thời và cứu chữa cho nàng và bào thai trong bụng. Mặc dầu được cứu sống nhưng Trang trở nên lầm lì ít nói, sống vật vờ như một cái xác không hồn giữa sự khinh ghét của giòng họ nhà chồng.

Lúc bấy giờ em gái tôi cũng mới mang thai nên đã bàn với mẹ xin cho Trang về ở chung cho đỡ buồn và cùng đỡ đần giúp đỡ nhau trong lúc bầu bì cho có chị có em. Chính vì lòng tốt của em gái tôi mà cả làng đều nghĩ đứa con trong bụng Trang là của tôi. Mỗi lần tôi về thăm, Trang khóc nức nở không phải vì nỗi tủi nhục khi bị mọi người phỉ báng, nhưng nàng khóc vì đã làm hại danh dự của gia đình tôi. Lại một lần nữa, mẹ tôi gọi hai đứa lên hỏi han ngọn nguồn, và khi nghe chúng tôi thề thốt không hề có tà ý với nhau, mẹ tôi đã “ngồi xổm trên dư luận” để nhận Trang làm con tinh thần trong khi mọi người nghĩ rằng mẹ tôi làm thế để tránh tiếng vì bà đã biết chắc chắn bào thai trong bụng Trang là cháu nội của bà. Mẹ tôi âm thầm ngậm đắng nuốt cay để an ủi vỗ về Trang, mong cứu vớt một linh hồn vì mẹ tôi sợ rằng Trang lại liều mình tự tử như mấy tháng trước. Ôi! Mẹ đã hy sinh chịu nhục vì con và vì thương một người côi cút trong cơn hoạn nạn. Con xin cúi đầu bái phục lòng can đảm của mẹ cho đến trọn đời.

Trước ngày ra đi, tôi đã trở về để từ giã gia đình. Ngay khi biết tin tôi sắp sửa ra đi, Trang đã khóc nức nở và chuyển bụng sinh con. Vì bao nhiêu biến cố xẩy ra dồn dập suốt thời kỳ mang thai, Trang đã trải qua một đêm dài đau đớn, quằn quại đến kiệt sức nên y tá trong làng đề nghị phải đưa nàng đi cấp cứu ở bệnh viện để mổ. Đáng lẽ sáng hôm sau tôi phải trở lại Cần Giờ để chuẩn bị ra đi, nhưng tôi đi không đành nên đã lỡ một “chuyến đò”. Tôi theo mẹ và Trang ra bệnh viện. Trong lúc làm thủ tục giấy tờ trước khi đưa Trang lên bàn mổ, người ta đòi phải có thân nhân ký tên trong giấy tờ nên tôi đã đứng ra lo liệu… Cũng có thể vì lầm lẫn, và cũng có thể do số phận an bài nên các bác sĩ và y tá đã ghi tên tôi là “chồng” của Trang trong hồ sơ bệnh lý. Đó là lý do tại sao Tuân trở thành con tôi! Khi nghe tin Trang đi mổ, cha mẹ anh Thành cũng ghé thăm và xin lỗi mẹ tôi vì những hiểu lầm trước đây. Mẹ tôi cũng không chấp nhất gì nên mọi người đều vui vẻ.

Sau hai tuần Trang được xuất viện, trở về nhà với mẹ tôi. Mẹ tôi bàn qua với hai bác việc lên cha xin rửa tội cho cháu, và chính tờ giấy bệnh viện ghi tên tôi là cha đứa nhỏ đã gây nên sóng gió ồn ào cả xứ đạo. Cha xứ lắng nghe, nhưng Ban Hành Giáo và bà con trong họ anh Thành quyết liệt phản đối. Họ đến nhà hạch hỏi mẹ tôi đủ điều. Tuổi trẻ háo thắng nên tôi đã nổi nóng đuổi hết mọi người và quyết định chẳng thèm xin rửa tội cho Tuân nữa! Tôi chỉ muốn mọi người để cho chúng tôi yên nhưng miệng người không phải dễ “khóa”! Tôi ngang tàng chấp nhận sự dèm pha của mọi người và cứ hiên ngang ngẩng đầu tiếp tục chạy mánh tìm ghe lo chuyện vượt biên lần nữa. Lần này tôi quyết định sẽ đưa mẹ con Trang cùng đi.

Tôi có thể “đạp dư luận xuống bùn đen” để sống, nhưng Trang phải âm thầm than khóc từng đêm, nức nở đè nén “nỗi oan Thị Kính” từng giờ từng phút nên đã bị băng huyết cho đến chết, và chết trong tủi nhục vào một đêm tôi vắng nhà! Tôi trở về nhìn xác Trang nằm im bất động mà thấy lòng muốn nổi loạn. Tôi biết chắc chắn những phút cuối đời Trang đã phải quằn quại trong đớn đau tủi nhục! Tôi đã thực sự thù ghét mọi người trong xứ khi biết tin “người ta” không muốn cho tôi chôn Trang ở nghĩa trang giáo xứ vì bà con trong làng nghĩ rằng Trang đã tự tử! Tôi không hiểu tại sao cả xứ lại lên án và “trừng phạt” thân xác một người đã chết trong khi hằng tuần ở nhà thờ vẫn đọc kinh “Thương Người Có 14 Mối, Thương Xác 7 Mối”, trong đó có ghi rõ việc “chôn xác kẻ chết!”

Đâu có ai hiểu được nỗi đau đớn và tủi nhục đã gặm nhấm tim gan Trang từng giây từng phút vì bị cả làng, cả xứ kết tội oan ức, và nhất là sự dằn vặt nàng phải gánh chịu vì đã “gieo họa” cho gia đình tôi! Đâu có ai ở gần kề bên Trang trong những giây phút cuối đời của nàng để “kết án” nàng đã “liều mình tự tử”!!! Mẹ tôi muốn lên xin cha xứ giúp đỡ nhưng tôi đã điên lên phản đối. Tôi nhờ bạn bè ở xa về đào huyệt chôn Trang trong một góc rẫy của gia đình tôi ở mép rừng. Tôi đã bỏ xưng tội, bỏ lễ cả mấy năm trời vì lòng thù hận vẫn chưa nguôi! Đã nhiều đêm tôi gục đầu dưới tượng chịu nạn van xin lòng nhân từ hay thương xót của Chúa thay đổi trái tim “thù hận” của tôi, và tôi cũng xin Ngài thương tha cho những người đã kết tội “oan” cho chúng tôi! Tôi chỉ thật sự trở về với Chúa như “một con chiên lạc” mấy tuần trước ngày vượt biên…

Cháu Tuân tuy mồ côi mẹ nhưng được bú nhờ sữa của em gái tôi cũng mới sinh được vài tháng nên cháu vẫn lớn lên theo ngày tháng trong tình thương yêu đùm bọc của gia đình tôi. Tôi vẫn đi đi, về về tìm mối làm ghe vượt biển. Những hôm ở nhà, thỉnh thoảng tôi bế Tuân ra rẫy, đến ngồi bên mộ Trang khấn nguyện. Công việc làm ghe càng ngày càng khó khăn nên mãi 4 năm sau tôi mới thành công. Trước khi lên đường, tôi đã vô rừng tìm kiếm và đào được một cây bằng lăng nhỏ đem trồng bên mộ Trang để làm kỷ niệm. Lúc bấy giờ Tuân đã chạy nhanh, nói sõi và lúc nào cũng quấn quít bên tôi những ngày tôi về quê.

Cuối cùng tôi quyết định sẽ dẫn Tuân cùng đi mặc dầu mẹ tôi can ngăn nhiều lần. Tôi đã đi và tôi đã đến. Chính nhờ sự liều lĩnh của tôi mà Tuân có được ngày hôm nay. Tôi hãnh diện vì sự thành đạt của Tuân. Tôi mang ơn Oanh vì nàng đã tận tình yêu thương săn sóc “cha con” tôi từ bao nhiêu năm qua. Nếu không có tình yêu và lòng vị tha thông cảm của Oanh, tôi đã ngã quỵ trong cô đơn nơi xứ lạ quê người, và Tuân lại một lần nữa thành trẻ “mồ côi”!

Nhìn hình ảnh Tuân hiên ngang bước lên khán đài, tôi cảm động rưng rưng nước mắt. Tôi không khóc khi Trang chết. Tôi không khóc khi phải chôn nàng ở mép rừng thay vì chôn ở nghĩa trang của giáo xứ. Tôi không khóc khi từ giã mẹ già và gia đình ra đi, nhưng giờ này tôi khóc vì biết chắc chắn Tuân đã trưởng thành, và mấy ngày nữa sẽ về thăm mộ mẹ đang nằm cô đơn hiu quạnh dưới gốc cây bằng lăng “cha con tôi” đã trồng trước ngày “biệt xứ”.

° ° ° ° °

Oanh đứng nép sát vào người tôi, run run cảm động nhìn Tuân đốt hương cắm lên mộ Trang rồi quỳ xuống gục mặt khóc thật to. Tôi dìu Oanh đến cạnh gốc cây bằng lăng đã bị đốn từ mấy năm trước, chỉ còn một số chồi non mới lên được vài mét. Tôi kinh ngạc khi khám phá ra một cành bằng lăng mới chớm vài nụ hoa mầu tím. Tôi với tay bẻ rồi cùng Oanh đến quỳ bên cạnh Tuân, nhẹ nhàng đặt cành hoa mầu tím trên ngôi mộ của Trang. Tuân ngẩng mặt lên nhìn hai chúng tôi khẽ nói:

– Con biết mẹ con đang mỉm cười bên kia thế giới. Con xin thay mặt cha mẹ quỳ lạy ba má đã nuôi con nên người.

Tuân nhẹ nhàng trao cho tôi tờ giấy thử nghiệm mẫu DNA xác định nó và tôi không phải “cha con”!

GIÁ NHÀ VIỆT NAM SO VỚI THẾ GIỚI.

Nguồn:   Huyen Browning shared Nguyen Huong‘s post.
Cái đám DLV 3 củ thì không biết sủa đến kiếp nào mới có thể mua nhà nhỉ 🙂
 
Image may contain: text
Nguyen HuongFollow

 

GIÁ NHÀ VIỆT NAM SO VỚI THẾ GIỚI.

Để hiểu giá nhà ở Việt Nam cao vô lý đến mức nào thì phải so sánh. 
Dùng 2 thông số sẽ thấy rõ giá nhà,

A. Thu nhập bình quân trên năm
B. Tỷ lệ giá nhà chia cho thu nhập.

Dựa trên nguyên lý trên thì kết quả như sau:

1. Mỹ. Giá nhà $189,000. Lương$44,000. Giá nhà/lương: 4.2 năm.

2. Anh. Giá nhà $365,000. Lương/năm: $40,000. Giá nhà/lương: 9.1 năm.

3. Úc. Giá nhà $682,000. Lương/năm: $53,000. Giá nhà/lương: 12.8 năm.

4. Thái. Giá nhà $120,000. Lương/năm: $6,000. Giá nhà/lương: 20 năm.

5. Việt Nam. Giá nhà $150,000. Lương/năm: $2,800. Giá nhà/lương: 53 năm.

Một người Việt Nam bình quân với thu nhập $2,800 USD/năm (61tr/năm hoặc 5 triệu/tháng) phải đi làm đến 53 năm mới đủ tiền mua một căn nhà. Mặc dù là một những nước có thu nhập thấp nhất nhưng giá nhà lại trên trời.

ĐỜI ĐEN BẠC ?!

Nguồn:  VanHieu Nguyen shared Võ Trần Phương Thảo‘s post.
 
 
Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 5 people, people smiling, people standing

Võ Trần Phương Thảo added 2 new photos — with Nga Hat and 37 others.

 

 

ĐỜI ĐEN BẠC ?!

Ngày 03/12/2017 – Đám tang cụ bà Nguyễn Thị Hường, thân sinh Cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng !

Không một tờ báo chính thống nào đưa tin.
Không một vị Lãnh đạo cấp cao nào đến viếng ?

@ Cựu Thủ tướng là người như thế nào, công và tội ra sao ? Sẽ có lịch sử và Nhân dân phán xét !

Đời bạc bẽo – Chính là những người đã từng là đồng đội, là đồng chí, những người đã từng sát cánh cùng ông trong LÝ TƯỞNG….Và cả những kẻ đã từng xun xoe, nịnh bợ ông khi đang đương chức – Đâu hết rồi ???

Đây là đám tang THÂN MẪU của Cựu Thủ tướng – Các vị có thể vì không ưa, vì này kia – Nhưng các vị cũng nên có mặt để chia buồn với gia quyến, đó là đạo lý ngàn đời của người VN, đó là thông lệ của đạo làm quan.

Các vị không đến viếng, không một lời chia buồn – Các vị có biết rằng làm như vậy sẽ bị người nước ngoài khinh bỉ không ? Họ khinh bỉ vì cách đối nhân xử thế với đồng chí, đồng đội cũ của các vị.

Cá nhân tôi thấy đau, thấy hổ thẹn và thấy nhục nhã cho cái tình người, tình nghĩa đồng đội ở cái đất nước “Thiên đường” này.😭😭😭
# Kính mong cụ Nguyễn Thị Hường AN NGHỈ !

PV Võ Trần Phương Thảo

TÔI ĐÃ KHIẾU NẠI LÊN LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ

Nguồn:  Hoa Kim Ngo and 2 others shared Đôn An Võ‘s post.
Image may contain: text
Image may contain: text
Đôn An Võ added 2 new photos.Follow

 

TÔI ĐÃ KHIẾU NẠI LÊN LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ

Sáng nay 06/12/2017, tôi đã gửi đơn đến Liên đoàn luật sư Việt Nam, khiếu nại về việc Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên loại tôi ra khỏi danh sách Đoàn luật sư một cách tùy tiện, tiến tới việc thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư của tôi.

Liên đoàn luật sư Việt Nam do Đảng dựng lên, không biết có bảo vệ được tôi hay làm theo sự chỉ đạo của những người có quyền ?

Mọi người hãy chờ xem !

(Dưới đây là Đơn khiếu nại gửi Liên đoàn luật sư Việt Nam)

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Mạnh Tường & Võ An Đôn

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Mạnh Tường & Võ An Đôn

Ảnh của tuongnangtien

 tuongnangtien

RFA

 

 

 

 

 

Để hành xử một nghề tự do, chuyện xin phép một thẩm quyền

nào đó là một điều đáng nực cười vì nó đã đánh mất quyền tự do của người này.

 Nguyễn Mạnh Tường

Thấy nhiều người ghi danh dưới bản “Tuyên Bố Phản Đối Việc Xoá Tên L.S Võ An Đôn” nên tôi cũng làm theo (cho nó thêm phần rôm rả) dù không tin rằng đây là điều cần thiết. Tôi cũng không nghĩ rằng chuyện bỏ phiếu để loại bỏ đồng nghiệp (theo chỉ đạo) của mấy ông thuộc Ban Chủ Nhiệm Luật Sư Đoàn Phú Yên là “quyết định tai hại… có thể hủy hoại cả sự nghiệp và đời sống của một con người” – theo như quan niệm của blogger Phạm Lê Vương Các.

Chế độ hiện hành ở VN không đủ quyền uy hay quyền năng để “có thể huỷ hoại sự nghiệp và đời sống” của bất cứ ai, nếu nạn nhân nhất định không khuất phục. Tôi biết khá nhiều nhân vật như vậy. Xin đan cử một trường hợp.

Hơn sáu mươi năm trước, vào hôm 30 tháng 10 năm 1956, L.S. Nguyễn Mạnh Tường đã đọc một bài diễn văn nẩy lửa (“Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất – Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo”) trong một phiên họp của Mặt trận Tổ quốc. Cái giá mà ông phải trả cho việc (“xây dựng lãnh đạo”) này, tất nhiên, không rẻ.

“Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu: đó là cái đói.

Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và những thứ nhu yếu trên chợ đen vì tôi không còn được phát tem phiếu kể từ khi tôi bị loại, mặc dù với tất cả dành dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp. Ngay từ lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt, với dự trữ ít oi, chúng tôi bắt đầu một giai đoạn hạn chế, tiết kiệm.

Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen xa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tối. Khẩu phần cơm và rau mỗi ngày một ít đi. Và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói. Họ tự hỏi tại làm sao mà các bà tự nhịn ăn để có một thân hình thon thả?

Nghĩ đến chuyện vay mượn bạn bè là điều vô ích vì chính bản thân họ cũng đang cùng số phận, đang trong cảnh chỉ đủ cầm hơi khỏi bị chết đói. Vợ tôi đã nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống, nhưng làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi trơn móng vuốt làm khó của những tên công an hay cán bộ thuế, để chúng để yên cho chúng tôi khó khăn kiếm sống?…

Chúng tôi có một con chó do bạn bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu nó lắm. Nhưng nó đã già và chúng tôi không còn khả năng mua cho nó thịt và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng lên trong chuồng, ngẩng đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của loài vật, chắc chắn với những dòng nước mắt và một nỗi buồn sâu thẳm vì đã đến lúc phải rời chủ. Chúng tôi bật khóc khi nó nấc những hơi thở cuối cùng…” (Nguyễn Mạnh Tường, Un Excommunié – Hanoi, 1954 -1991: Procès d’un intellectuel. Trans Nguyễn Quốc Vĩ –  Kẻ Bị Mất Phép Thông Công Hà Nội, 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức).

Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909. Khi “bật khóc” vì phải rời bỏ con thú thân yêu là thời điểm mà ông sắp bước vào tuổi ngũ tuần, và “thân thể đã tiều tụy lắm rồi.” Tuy thế, ông không bị knockout như dự đoán (và mong chờ) của nhà đương cuộc Hà Nội.

 

 

 

 

 

 

 

Ngày 22 tháng 11 năm 2017 vừa qua, trang Bauxite Việt Nam có đăng lại bài phỏng vấn (“Ba Giờ Với Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường”) do Khánh Hoà thực hiện. Xin đọc chơi, đôi đoạn:

Lâu nay, tôi cứ đinh ninh là Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã mất. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, tên tuổi của ông bặt đi. Có tin đồn là ông đã chết đâu đó ở một góc khuất tối tăm nào ở Hà nội.

Thế rồi, bỗng dưng tôi lại nghe là ông vẫn còn sống, hơn nữa, đang có mặt tại Paris: ông được phép sang Pháp ba tháng để thăm viếng một số bạn bè cũ của ông.

Được sự giới thiệu của một người quen, tôi và một anh bạn đã được Luật sư Nguyễn Mạnh Tường tiếp trọn cả buổi chiều ngày thứ hai 27.11.1989.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường năm nay đúng 80 tuổi. Dáng người tầm thước, lưng hơi gù, da dẻ nhăn nheo, nhưng sức khoẻ khá tốt, đi đứng vững vàng, đặc biệt trí tuệ còn rất minh mẫn. Suốt hơn ba tiếng đồng hồ chuyện trò, chúng tôi không hề bắt gặp ở ông một dấu hiệu nào của sự đãng trí vốn thường xuất hiện ở người cao niên. Ông nói năng lưu loát, đôi khi hùng hồn. Ông nhớ chính xác chi tiết những sự kiện cũ hoặc mới. Cách lý luận rành mạch.

Điều chúng tôi thích nhất ở ông là sự thành thật. Ở vào hoàn cảnh của ông, thành thật cũng có nghĩa là can đảm. Hơn ba chục năm bị đày đoạ, luôn luôn sống trong tâm trạng phập phồng chờ đón những thảm kịch thảm khốc nhất, ông không khiếp sợ đến nổi phải tự biến mình thành một con vẹt chỉ biết lải nhải lặp lại những câu nói đã thành khẩu hiệu của chế độ hoặc co rút lại trong câm lặng …

Chúng tôi xin phép ghi âm buổi nói chuyện với một sự thiếu tự tin rõ rệt. Chúng tôi nghĩ là ông sẽ từ chối. Nhưng, không. Ông đã vui vẻ chấp nhận. Để bảo đảm sự trung thực, những chi tiết dưới đây, chúng tôi đều dựa vào bản ghi âm này…

Lâu nay, Luật sư có viết lách gì không?

–  Có. Mấy chục năm qua, tôi hoàn thành được bốn công trình nghiên cứu. Môt là “Lý luận giáo dục” (ở châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18); hai là “Eschylle và bi kịch cổ đại Hy Lạp”; ba là “Virgile và anh hùng ca latin”; bốn là dịch vở kịch của Eschylle.

Trong tác phẩm Nhân Văn Giai Phẩm & Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc (Tiếng Quê Hương: Virginia, 2012) nhà phê bình văn học Thụy Khuê cho biết thêm:

“Chuyến đi Pháp dường như là động cơ thúc đẩy ông viết, bởi khi về nước, chỉ trong vòng bốn năm (từ 1990 đến 1994), ông đã hoàn tất một lượng sách đáng kể bằng Pháp Ngữ:

  • Larmes et sourires d’une vieillesse – Nụ cười và nước mắt tuổi già, tự truyện, ba cuốn, chưa in.
  • Triptyque – tạm dịch: Bức họa ba tấm, chưa in.
  • Un excommunié – Kẻ bị khai trừ, Quê Mẹ, Paris, 1992.
  • Malgré lui, malgré elle – Mặc hắn, mặc nàng (l’amour conjugal sous le régime communiste – tình yêu vợ chồng dưới chế độ cộng sản). Chưa in.
  • Partir, est ce mourir?- Đi là chết? (Tragédie de l’émigration – Bi kịch di dân). Chưa in.
  • Une voix dans la nuit – Roman sur le Việt Nam 1950-1990 – Tiếng vọng trong đêm – Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990. Chưa in.
  • Palinodies – Phủ nhận. Chưa in.

Trừ bản dịch Orestia, thì đúng Nguyễn Mạnh Tường đã viết 18 cuốn sách, kể cả các luận án tiến sĩ.”

 

 

 

 

 

Chế độ Cộng Sản Việt Nam, rõ ràng, không đủ quyền lực hay quyền năng để “có thể hủy hoại cả sự nghiệp và đời sống” của Nguyễn Mạnh Tường.  Chúng ta, do thế, chả phải bận tâm gì cho tương lai của Võ An Đôn. Thời gian, thời thế, và cả thời đại đều đang đứng về phía vị luật sư trẻ tuổi này.

Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam không có cửa cho Nguyễn Văn Đài, Lê Công Định, Võ An Đôn, Huỳnh Văn Đông, Lê Trần Luật, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân … không phải vì khung cửa hẹp mà vì cái tâm (cũng như cái tầm) của họ quá rộng và quá cao so với rất nhiều “đồng nghiệp” thuộc tổ chức này.

Phe tài xế cần làm gì nếu lợi thế đang không thuộc về họ?

Phe tài xế cần làm gì nếu lợi thế đang không thuộc về họ?

Nguyễn Anh Tuấn
2017-12-05
 
 
 

Một lái xe phản đối trạm thu phí BOT Cai Lậy bị bắt giữ hôm 30/11/2017

Một lái xe phản đối trạm thu phí BOT Cai Lậy bị bắt giữ hôm 30/11/2017

 Courtesy FB Ban Huu Duong Xa
 

Nếu quả thật lợi thế đang không thuộc về phe tài xế vì thời gian không đứng về phía họ, thì câu hỏi là họ có thể làm gì để đảo ngược tình hình?

Điều đầu tiên cần làm là thay đổi cách nhìn về chính đối thủ của họ: BOT Cai Lậy.

Nếu ví trạm BOT này như một cỗ máy thu tiền thì sẽ có ít nhất hai cách khiến nó ngưng hoạt động: Một là nhắm thẳng trực tiếp vào cỗ máy để quấy nhiễu, tức tấn công trực diện; hai là tìm hiểu xem cỗ máy này đang được vận hành dựa trên những nguồn hỗ trợ nào để cắt đứt những nguồn này tức là tấn công gián tiếp. Toàn bộ những hoạt động của phe tài xế đến giờ phút này tập trung vào cách thứ nhất, không có hoặc có rất ít hành động thuộc cách thứ hai.

Với cách thứ nhất, một khi cỗ máy vẫn được cung ứng đầy đủ các nguồn lực để vận hành, nó sẽ tiếp tục đối phó giằng co với các tài xế. Thời gian, do đó, đứng về phía cỗ máy. Càng lâu tài xế càng mệt mỏi, chưa kể cùng lúc đó họ còn bị tấn công bởi các lực lượng khác.

Với cách thứ hai, bởi lẽ mất sạch các nguồn hỗ trợ cho việc vận hành, cỗ máy không còn cách nào khác ngoài phải chấm dứt hoạt động. Càng để lâu càng thiệt hại, vậy nên thời gian đứng về phía phe tài xế.

Thế nhưng thực hiện cách thứ hai như thế nào? – Đầu tiên phải bằng việc phân tích các nguồn lực hỗ trợ cho BOT Cai Lậy.

Thứ nhất là nguồn lực tài chính. Ngân hàng BIDV cấp 85% vốn cho dự án BOT Cai Lậy. Điều này có nghĩa là họ chia sẻ lợi nhuận với nhà đầu tư trên lưng những người lái xe. Bởi vậy họ không thể vô can, họ phải chịu trách nhiệm theo cách này hoặc cách khác. Không ai có sức mạnh hơn những người gửi tiền ở BIDV trong việc yêu cầu ngân hàng này ngưng hỗ trợ BOT Cai Lậy (bằng không sẽ rút tiền hàng loạt). Khách hàng của BIDV còn có trách nhiệm đạo đức phải làm điều này nếu không muốn bị coi là vô tình tiếp tay cho BIDV. Những người lãnh đạo của BIDV như Trần Anh Tuấn (Quyền Chủ tịch) và Phan Đức Tú (Tổng Giám đốc) đều là những người địa vị cao, quan hệ rộng ở Hà Nội nên chắc chắn sẽ không muốn xuất hiện trong mắt bạn bè, người thân, đối tác như những kẻ đang sống giàu sang trên những đồng tiền mồ hôi nước mắt của những người lái xe kham khổ miền Tây. Một chiến dịch truyền thông sẽ buộc họ phải lựa chọn giữa việc ngưng hỗ trợ BOT Cai Lậy hoặc là chuốc lấy hậu quả cho thanh danh bản thân mình.

Ông chủ thực sự của BOT Cai Lậy, tương tự, là đối tượng thứ hai không thể bỏ qua. Người đàn ông tên Lê Tiến Thắng, Chủ tịch công ty Bắc Ái trụ sở tại Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc có vẻ vẫn đang ung dung ngồi thu tiền từ khoảng cách 2000 cây số tính từ BOT Cai Lậy. Phải có một chiến dịch truyền thông để ông ta không còn vẻ ung dung đó nữa. Người thân, bạn bè, đối tác của ông ta cần nhận ra sự giàu có của ông ta chẳng có gì tốt đẹp và đáng tự hào vì nó đến từ những đồng tiền còm cõi của những người lái xe – lẽ ra được dùng để đỡ đần thêm cuộc sống cho vợ con, thêm thịt cá cho bữa ăn, thêm sách vở để đến trường.

Nguồn lực thứ ba là các dịch vụ hậu cần. Các công ty xe cẩu, công ty bảo vệ, công ty cung ứng nhân viên thu phí ở Tiền Giang và các tỉnh lân cận đều cần nhận được thông điệp chính thức từ phe tài xế giải thích vì sao không nên cung cấp dịch vụ cho BOT Cai Lậy. Chỉ cần một thư ngỏ có lý có tình và một kế hoạch truyền thông khéo léo sẽ khiến chẳng có công ty bảo vệ hay xe cẩu nào “tham bát bỏ mâm” bám lấy BOT Cai Lậy để rồi bị không chỉ hàng ngàn tài xế mà cả một cộng đồng quốc gia quay lưng tẩy chay. Tương tự vậy, nếu phe tài xế tìm ra được những mạnh thường quân đồng ý tiếp nhận các nhân viên bán vé sau khi họ nghỉ việc ở Cai Lậy, cũng như kêu gọi những người khác không ứng tuyển vào các vị trí này để tiếp tay BOT Cai Lậy thì sẽ là một thách thức không nhỏ cho trạm này.

Thử hình dung cỗ máy BOT Cai Lậy, một khi không còn nhận được hỗ trợ tài chính từ ngân hàng, không tìm đâu ra một công ty bảo vệ/công ty xe cẩu nào chịu ký hợp đồng, cũng không ai ứng tuyển vào các vị trí bán vé thu phí, thì không lẽ ông chủ Lê Tiến Thắng phải đứng ra giữa đường Cai Lậy vừa bán vé, vừa gác an ninh? Hoặc, một khi bị các ngân hàng xa lánh, ông Thắng sẽ phải tiếp tục công việc làm ăn của mình thế nào trong tương lai?

Điểm sơ qua có thể thấy khối lượng công việc không hề ít, song tôi tin là với những gì đã thể hiện, phe tài xế thừa năng lực để làm tất cả những việc trên. Dĩ nhiên sự ủng hộ của công chúng là tối quan trọng, và rất may mắn, đây là thứ mà phe tài xế đang có thừa.

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

Quốc hội Việt Nam thừa nhận sự quyết liệt của Trung Quốc ở Biển Đông

Quốc hội Việt Nam thừa nhận sự quyết liệt của Trung Quốc ở Biển Đông

RFA
2017-12-06
 
 
 

Những người biểu tình phản đối Trung Quốc với các biểu ngữ "Gạc ma, đất nước không quên' trong một cuộc tập trung ở Hà Nội hôm 14/3/2016 kỷ nhiệm trận chiến ở đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1988.

Những người biểu tình phản đối Trung Quốc với các biểu ngữ “Gạc ma, đất nước không quên’ trong một cuộc tập trung ở Hà Nội hôm 14/3/2016 kỷ nhiệm trận chiến ở đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1988.

 AFP
 

Quốc hội Việt Nam nói rằng Trung Quốc ngày càng quyết liệt hơn trong việc sử dụng nhiều biện pháp để chiếm đóng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Nhận định này được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam đưa ra trong một báo cáo vào ngày 5 tháng 12 và được báo chí Việt Nam trích dẫn.

Báo cáo này ghi rõ là Trung Quốc đã sử dụng cả biện pháp đâm chìm tàu Việt Nam để ngăn cản các hoạt động của Việt Nam trên biển.

Ngoài ra, báo cáo nói thêm là Trung Quốc cũng gia tăng liên tục việc xâm phạm lãnh hải của Việt Nam để đánh trộm hải sản.

Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phía Bắc Biển Đông hiện do Trung Quốc chiếm giữ hoàn toàn, là nơi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc chiếm đoạt lấy quần đảo này từ Miền Nam Việt Nam sau một trận hải chiến hồi năm 1974.

Quần đảo Trường Sa nằm ở phía Nam Biển Đông là nơi tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.

Trung Quốc đưa Hoàng Sa và Trường Sa vào trong một đơn vị hành chính mà họ đơn phương lập ra để kiểm soát khu vực rộng lớn ở Biển Đông gọi là tỉnh Tam Sa.

Đối Với Việt Nam, Hoàng Sa là một huyện trực thuộc Thành phố Đà Nẵng, còn Trường Sa là một huyện thuộc tỉnh Khánh Hòa.

Trong thời gian mấy năm gần đây Trung Quốc thực hiện nhiều nổ lực gầy dựng sức mạnh quân sự ở những nơi họ đang chiếm đóng thuộc hai quần đảo này bằng cách xây đắp những đảo nhân tạo, triển khai máy bay chiến đấu hiện đại ra hai quần đảo này.

Vào đầu tháng 12 này, Trung Quốc lần đầu tiên thừa nhận đã đưa chiến đấu cơ đến Hoàng Sa.

Nga bị CIO loại khỏi Thế vận hội mùa đông Pyeongchang 2018

Nga bị CIO loại khỏi Thế vận hội mùa đông Pyeongchang 2018

mediaĐoàn vận động viên Nga tại Thế Vận Hội Mùa Đông Sotchi năm 2014.REUTERS/Lucy Nicholson

Không có nhiều bất ngờ nhưng là một đòn nặng nề đánh vào thể thao Nga và chính quyền Matxcơva. Ngày 05/12/2017, từ Lausanne Thụy Sĩ, Ủy Ban Olympic Quốc Tế (CIO) thông báo quyết định phạt thể thao Nga không được tham dự Thế vận hội mùa đông Pyeongchang 2018 tại Hàn Quốc vào tháng Hai tới vì các cáo buộc chỉ đạo tổ chức cho vận động viên sử dụng doping ở Thế vận hội mùa đông Sotchi 2014.

Khai trừ đảng viên đòi thể chế xã hội dân sự

Khai trừ đảng viên đòi thể chế xã hội dân sự

RFA
2017-12-06
 
Hình chụp các ủy viên Trung ương Đảng tại lễ bế mạc đại hội đảng thứ 12 ngày 28/1/2016 ở Hà Nội

Hình chụp các ủy viên Trung ương Đảng tại lễ bế mạc đại hội đảng thứ 12 ngày 28/1/2016 ở Hà Nội

 AFP
 

Đảng viên Cộng sản Việt Nam nào đòi thực hiện thể chế ‘tam quyền phân lập’, ‘xã hội dân sự’, ‘đa nguyên- đa đảng’ sẽ chịu hình thức kỷ luật khai trừ.

Đây là một nội dung trong Quy định được người đại diện Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trần Quốc Vượng, thành viên thường trực Ban Bí Thư/ Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Trung ương đảng, ký ban hành và truyền thông trong nước loan đi vào ngày 6 tháng 12.

Theo Quy định số 102 ngày 15 tháng 11 năm 2017 thì ngoài những vi phạm vừa nêu, những đảng viên cộng sản Việt Nam sẽ bị khai trừ nếu cố ý nói, viết có nội dung bị đảng cho là ‘xuyên tạc lịch sử, sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả của Đảng và dân tộc; phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.’

Quy định số 102 cũng nêu rõ sẽ khai trừ những đảng viên cộng sản Việt Nam nào ‘phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng đối với lực lượng vũ trang, đòi phi chính trị hóa quân đội và công an; phủ nhận vai trò của đảng đối với báo chí, văn học- nghệ thuật; sáng tác, quảng bá những tác phẩm căn hóa, nghệ thuật mà bị đảng cho là lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của đảng và các lãnh đạo đảng, nhà nước’.

Quy định số 102 của đảng còn nêu rõ biện pháp kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đối với một số hoạt động bị cho là vi phạm như ‘bị người khác xúi giục, lôi kéo, mua chuộc mà có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán, xuất bản, cung cấp thông tin, tài liệu, hiện vật với nội dung mà đảng cho là trái với đường lối, quan điểm của đảng….’

Từ buổi con lên đường xa mẹ

 
Từ buổi con lên đường xa mẹ

Bài thơ sau đây được nhặt từ túi áo một chiến binh miền Bắc tử trận tại chiến trường miền Nam những năm 1969.

Trong hồi ký của tử sĩ nầy, người ta còn biết anh là con của bà Trần Thị Phấn ở Hải Dương.

Bài thơ nầy được đăng trên báo chí VNCH thời đó.

 Bài thơ không ghi tên tác giả, được một thường dân miền Nam mến thương cảnh ngộ và ghi lại :

 

Từ buổi con lên đường xa mẹ

“Từ buổi con lên đường xa mẹ
Theo anh em sang Lào rồi dấn bước vào Trung.

Non xanh núi biếc chập chùng
Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ .

Tuổi thanh xuân cuộc đời như hoa nở
Vì hòa bình đâu ngại bước gian nguy .


Mấy tháng trời, ngày nghỉ đêm đi
Giày vẹt gót áo sờn vai thấm lạnh.

Có những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh
Mẹ hiền ơi con nhợt nhớ quê mình .


Khói lam chiều, giàn mướp lá lên xanh
Con bướm nhỏ mái đình xưa, ôi nhớ quá!

Vào nơi đây tuy đất người xa lạ
Nhưng miền Nam vẫn cùng một quê hương.


Vẫn hàng dừa xanh, vẫn những con đường
Vẫn hương lúa ngọt ngào .

Tiếng tiêu gợi nhớ
Con trâu về chuồng

Ðã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ .

Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu?

Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu
Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ.

Lớp học tưng bừng những đàn trẻ nhỏ
Ðang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca.

Và sau vườn luống cải đã vàng hoa
Ðàn bướm nhỏ rủ nhau về hút mật .

Xóm dưới làng trên niềm vui ngây ngất
Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá làng.

Phải gài mìn gieo tang tóc thương đau
Ðã nhiều lần tay con run rẩy .
Khi gài mìn để phút sau bỗng thấy
Xác người tung và máu đổ chan hoà .

Máu của ai
Máu của bà con ta
Máu của người như con như mẹ .

Ðêm hôm ấy mắt con tràn lệ
Ác mộng về, con trằn trọc thâu canh.”

THÁNH NICHOLAS – GIÁM MỤC (Khoảng +350)

Ngày 6/12: Thánh Ni-co-la – Giám mục (khoảng +350)

 Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Tất cả các Giáo Hội phương Đông đều mừng lễ thánh Nicholas, giám mục thành Myre (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), vào ngày 6 tháng 12.  Ở Rôma, việc sùng kính ngài đã được chứng thực từ thế kỷ IX, trước khi hài cốt ngài được di dời từ Myre về Paris (miền nam nước Ý), và được đặt trong vương cung thánh đường Thánh Nicholas từ năm1087.  Tại Myre, từ thế kỷ IV, đã có một thánh đường được dựng lên trên mộ của ngài.

Có ít vị thánh được biết đến nhiều trên khắp thế giới như thánh Nicholas.  Ban đầu ngài được tôn kính ở phương Đông, sau đó lòng sùng kính ngài mở rộng sang phương Tây: Ý (Paris), Tây Ban Nha (Montserrat), Normandie, Lorraine (Saint-Nicholas-de Port), Đức, Anh, Nga, các nước Bắc Âu và châu Mỹ.  Ngài là bổn mạng nước Nga và Lorraine.  Ngài cũng được nhận làm bổn mạng của các luật sư, các nhà hàng hải, các tù nhân và trẻ em, đặc biệt trong những nước ở phương Bắc mà mỗi dịp lễ của ngài là một ngày hội cho trẻ em (Ông già Nô-en, Santa Claus, Sinter-Klaes, Saint Nicholas).

Thế nhưng, tuy thánh Nicholas được biết đến nhiều như thế, chúng ta hầu như không biết gì về tiểu sử của ngài, ngoại trừ việc ngài là giám mục thành Myre (nay là Dembrê, trên bờ biển phía nam Thổ Nhĩ Kỳ), vào nửa đầu thế kỷ IV.  Theo truyền thống, có thể ngài đã tham dự Công đồng Nicêa (325), là công đồng đã kết án lạc giáo Arius và tuyên bố Ngôi lời “được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha.”  Có lẽ ngài mất khoảng năm 350, thọ ngoài sáu mươi tuổi.

Enzo Lodi