Chúa làm tất cả!

Chúa làm tất cả!

Lm. Vĩnh Sang, DCCT

 

WGPSG — Gần đây tôi có tham gia vào một công trình khoa học kỹ thuật khá lớn. Vì qui mô lớn của công trình, chúng tôi phải tìm kiếm những chuyên viên có trình độ và kinh nghiệm trong nhiều lãnh vực để cộng tác.

Vì là công trình của Giáo Hội nên thường thì các cộng tác viên sẽ phải là người Công Giáo, không phải chúng tôi có sự phân biệt gì giữa lương với giáo, nhưng trong quá trình nghiên cứu và sáng tác, vai trò Lòng Tin đóng một vị trí quan trọng cùng với những kiến thức cần thiết về tôn giáo, không kể trong khi làm việc sinh hoạt với nhau, đồng đạo sẽ dễ nói chuyện và dễ tổ chức chương trình chung hơn. Dù vậy, cũng có một vài lãnh vực không nhất thiết phải là người có Lòng Tin mới làm được, vì nó đơn thuần khách quan khoa học.

Có một vị tiến sĩ khoa học rất trẻ, tốt nghiệp từ nước ngoài về, làm giảng viên của một trường đại học công uy tín trong cả nước, anh không phải là Công Giáo nhưng lại nhận lời cộng tác với chúng tôi. Anh không tham gia từ đầu (công trình đã khởi sự ba năm nay) nhưng chỉ tham gia khi công trình bước vào phần chuyên môn của anh. Chúng tôi quen nhau và làm việc với nhau đến này cũng gần tròn một năm.

Trong một chuyến đi khảo sát vùng cao nguyên, chúng tôi được Đức Cha Kontum tiếp đặc biệt. Sau buổi nói chuyện, khảo sát công trình và bữa ăn, Đức Cha có tặng đoàn chúng tôi mỗi người hai cuốn sách về công cuộc truyền giáo ở Giáo Phận Kontum.

Lưu lại Kontum và Pleiku hai ngày, trên đường ra phi trường trở lại Sàigòn, anh hỏi tôi nhiều điều về những vấn đề tôn giáo, tôi ngạc nhiên về những câu hỏi này, anh cho biết hai ngày qua, từ khi được Đức Cha tặng sách, anh đã đọc ngay và đọc xong trọn vẹn hai cuốn sách ấy, trong khi cũng hai cuốn sách này vẫn còn nằm nguyên trong balô của tôi và của mọi người “có đạo” trong đoàn, chưa ai mở ra đọc và đọc tới nơi tới chốn như anh. Tôi e rằng tính đến hôm nay đã hai tháng, chắc cũng chưa có ai đọc hết hai cuốn sách đó ngoại trừ anh.

Cách đây hai ngày khi chúng tôi cần phải làm việc với nhau, một ngày làm thí nghiệm, mọi việc êm ả trôi qua, kết quả khả quan. Hôm sau, chúng tôi ngồi làm việc trong phòng, bầu khí căng thẳng, nhiều tranh cãi và nhiều bất đồng. Khi trời đã xế chiều, tôi mệt mỏi tỏ vẻ thất vọng và buồn phiền về những kết quả ít ỏi trong ngày, anh nhìn tôi và nói với mọi người: “Cha đừng lo, Chúa sẽ giải quyết hết cho chúng ta”. Tôi ngạc nhiên về lời nói của anh, một cộng tác viên duy nhất trong nhóm là người không Công Giáo, một cộng tác viên duy nhất nói lời… phó thác cho Chúa! Anh, một người bị coi là “ngoại đạo”, chứ không phải là tôi, một Linh Mục Công Giáo.

Chiều tối ấy, trên bàn ăn vui vẻ với nhau, một cộng tác viên Công Giáo nói với tôi: “Từ hôm qua đến hôm nay, con đếm được anh ta nói đến năm lần câu: Chỉ có Chúa làm được thôi! Và cũng chỉ có mỗi mình anh ta nói câu ấy!”

Từ ngày làm việc với nhau, máu nhiệt thành tự nhiên khuyến khích tôi tìm cách giới thiệu Đạo với anh, tôi mong muốn qua cơ hội này anh biết Chúa và tôi cũng nhớ cầu nguyện cho anh nữa. Nhưng bất ngờ hôm nay, anh củng cố niềm tin của tôi, anh truyền cho tôi và những anh chị em “có đạo” niềm tin của anh, niềm tin rất đơn giản và nguyên sơ, niềm tin chưa hề qua Bí Tích. Tôi tự hỏi “Ai truyền niềm tin cho ai?”

Một lần nữa trong nhiều lần, tôi có bài học Chúa làm tất cả! Chẳng phải tôi, chẳng phải ai, mà là Chúa, Chúa làm việc của Chúa. Đừng ai nghĩ là chính mình làm, đừng ai tự hào vô duyên, kiêu căng lố bịch, vênh vang như là không hề chịu lấy!

Bài học Máng Cỏ là bài học gì trong Mùa Giáng Sinh này?

Maria Thanh Mai gởi

Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013 (tiếp theo)

Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

(tiếp theo)

“Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình”

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Người kiến tạo hòa bình là người yêu mến,

bảo vệ và thăng tiến sự sống trong sự toàn vẹn của nó

4. Con đường đạt đến thiện ích chung và hòa bình trên hết cần phải tôn trọng phẩm giá con người trong mọi chiều kích, bắt đầu từ khi thụ thai, thông qua sự phát triển cho đến cái chết tự nhiên của nó. Người kiến tạo hòa bình đích thực phải là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong sự toàn vẹn của nó, cá nhân, cộng đoàn và siêu việt. Sự sống trong ý nghĩa trọn vẹn nhất chính là đỉnh cao của hòa bình. Bất cứ ai yêu mến hòa bình thì không thể xem nhẹ những tấn công và tội ác chống lại sự sống.
Những ai không tôn trọng sự sống con người, và hệ quả là, trong số  những điều khác, cổ võ việc tự do phá thai, những người này không nhận ra rằng, khi làm như vậy, họ đang theo đuổi một thứ hòa bình giả tạo. Sự chối bỏ trách nhiệm, hạ thấp phẩm giá con người, và thậm chí giết chết những trẻ em vô tội và không có khả năng tự vệ, sẽ không bao giờ có thể đem lại hạnh phúc và bình an. Thực vậy, làm sao một người có thể tuyên bố mình đang kiến tạo hòa bình, mang lại sự phát triển toàn diện cho con người hay bảo vệ môi trường trong khi không bảo vệ những con người yếu thế nhất, những con người chưa cất tiếng khóc chào đời. Mọi xúc phạm chống lại sự sống, đặc biệt trong giai đoạn đầu của nó, sẽ gây ra những thiệt hại không thể sửa chữa được cho sự phát triển, hòa bình và môi trường. Người ta không chỉ khôn khéo đưa vào luật những quyền và những thứ tự do giả tạo mà, dựa trên nền tảng của quan điểm giản lược và tương đối về con người, họ còn khéo léo sử dụng những diễn tả mập mờ nhắm đến việc thăng tiến quyền ủng hộ việc phá thai và chết êm dịu. Những mánh khóe đó đang đe dọa quyền cơ bản của sự sống.
Cũng cần phải nhìn nhận và thăng tiến cơ cấu tự nhiên của gia đình, là sự kết hợp của một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa về mặt pháp lý cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt; những nỗ lực đồng hóa như thế thực sự làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn nền tảng của hôn nhân, che khuất bản chất đặc biệt và làm lu mờ vai trò của nó trong đời sống xã hội.
Những nguyên lý này vốn không phải là những chân lý đức tin, và nó cũng không đơn thuần là kết quả của quyền về tự do tôn giáo. Chúng được ghi khắc trong bản chất con người, có thể tiếp cận bởi lý trí và chung cho tất cả mọi người. Do đó, những nỗ lực của Giáo hội để thăng tiến chúng không mang đặc nét của niềm tin, nhưng muốn ngỏ lời với tất cả mọi người, không kể nguồn gốc tôn giáo của họ. Những nỗ lực như thế càng cần thiết hơn khi những nguyên lý này bị khước từ hay hiểu lầm, vì điều này tạo nên một sự xúc phạm chống lại chân lý về con người, và gây nên một thiệt hại nghiêm trọng cho công lý và hòa bình.
Một phương thế quan trọng khác để kiến tạo hòa bình là các hệ thống pháp luật và việc thực thi công lý nhìn nhận quyền được sử dụng nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính quyền chống lại phẩm giá con người như phá thai và làm cho chết êm dịu. Cũng liên quan đến hòa bình thế giới, một trong những quyền nền tảng của con người là quyền của cá nhân và cộng đoàn đối với tự do tôn giáo. Vào thời điểm này của lịch sử, điều có tầm quan trọng khẩn thiết là phải thăng tiến quyền này, không chỉ từ khía cạnh tiêu cực, nghĩa là tự do khỏi – ví dụ, khỏi những ràng buộc và những giới hạn liên quan đến việc chọn lựa tôn giáo – nhưng còn ở khía cạnh tích cực, trong những diễn tả khác nhau của nó, nghĩa là tự do để, ví dụ, tự do để làm chứng và loan báo, thực hiện những hoạt động giáo dục và từ thiện, hiện hữu và hành động như một tổ chức xã hội hợp với những nguyên lý học thuyết và mục đích của nó. Đáng buồn thay, tình trạng áp bức tôn giáo vẫn gia tăng kể cả ở những nước có truyền thông Kitô giáo lâu đời, đặc biệt liên quan đến Kitô giáo và những
người mang những dấu hiệu nói lên căn tính tôn giáo của mình.
Những người kiến tạo hòa bình cũng cần nhớ rằng, trong sự phát triển của quan điểm công chúng, những ý thức hệ về tự do cực đoan và chế độ kỹ trị đang cố gắng thuyết phục người ta rằng sự phát triển kinh tế nên được theo đuổi kể cả khi nó phương hại đến trách nhiệm xã hội của một quốc gia và những mạng lưới liên đới của xã hội dân sự, cũng như các quyền và nghĩa vụ mang tính  xã hội. Nên nhớ rằng, các quyền và nghĩa vụ này vốn là nền tảng để hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ khác, khởi đi từ những quyền dân sự và chính trị.
Một trong những quyền và nhiệm vụ cơ bản nhất đang bị đe dọa trong thế giới ngày nay là quyền làm việc. Lý do là vì sự thừa nhận quyền lợi về tình trạng pháp lý của công nhân đang không ngừng bị xem nhẹ. Vì sự phát triển kinh  tế được xem là một yếu tố phụ thuộc hoàn toàn và chính yếu vào những thị trường tự do. Trong khi đó, lực lượng lao động bị coi là một biến số phụ thuộc vào cơ chế kinh tế và tài chính. Liên quan đến điều này, tôi xác nhận rằng phẩm giá con người và các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội, đòi hỏi chúng ta tiếp tục “ưu tiên mục tiêu tạo ra việc làm ổn định cho mọi người” [4]. Để thực hiện được  mục tiêu đầy tham vọng này, điều kiện tiên quyết là phải đổi mới cái nhìn về lao động, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và những giá trị tinh thần vốn xem khái niệm lao động là một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi phải nghiên cứu và thực hiện những chính sách can đảm và mới mẻ để mọi người có công ăn việc làm.
Xây dựng thiện ích hòa bình ngang qua một mô hình mới về phát triển và kinh tế
5. Ngày nay, ở nhiều nơi người ta thấy cần một mô hình phát triển mới, cũng như một cách thế tiếp cận mới đối với lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển bền vững và hội nhất trong tình liên đới và thiện ích chung đòi hỏi một bậc thang đúng đắn về giá trị và thiện ích, một cấu trúc nhìn nhận Thiên Chúa như  là điểm tham chiếu tối hậu của mình. Việc sẵn có các phương tiện và chọn lựa cho dẫu là một điều tốt nhưng chưa đủ. Sự đa dạng các thiện ích cổ võ sự phát triển cũng như sự sẵn sàng của những chọn lựa khác nhau phải được sử dụng nhắm đến việc đảm bảo cho một đời sống tốt, một cách hành xử đúng đắn vốn ý thức về vị trí ưu việt của giá trị thiêng liêng và lời mời gọi lao tác cho thiện ích chung. Nếu không chúng sẽ đánh mất đi ý nghĩa đích thực của mình, và cuối cùng là trở nên những thứ ngẫu tượng mới.
Để có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài kinh tế và tài chính hiện nay – vốn đưa đến sự bất bình đẳng ngày càng lớn hơn – chúng ta cần những con người, nhóm người và các thể chế thăng tiến sự sống, cổ võ cho sự sáng tạo của con người. Họ có thể rút ra từ chính cuộc khủng hoảng này một cơ hội nhận định và tìm kiếm một mô hình kinh tế mới. Mô hình kinh tế thịnh hành trong những thập niên gần đây thường tìm kiếm lợi nhuận và tiêu thụ tối đa, dựa trên nền tảng của não trạng cá nhân và ích kỷ, nhắm đến việc đánh giá con người chỉ  dựa trên khả năng của họ trong việc đáp ứng những đòi hỏi của cạnh tranh. Nhưng xét trên một quan điểm khác, sự thành công đích thực và lâu dài chỉ đạt được ngang qua món quà là chính chúng ta. Vì bên cạnh khả năng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, sự phát triển kinh tế nhân bản đích thực và “sống động” còn đòi hỏi nguyên tắc nhưng không và lô-gích của quà tặng hiểu như cách biểu lộ tình huynh đệ[5]. Cụ thể, trong lĩnh vực kinh tế, người kiến tạo hòa bình là người
thiết  lập nên mối dây công bình và tương trợ lẫn nhau nơi các công ty, công nhân, khách hàng và người tiêu thụ. Họ dấn thân vào hoạt động kinh tế vì thiện ích chung. Họ kinh nghiệm sự dấn thân này như là một điều gì đó vượt lên trên lợi ích cá nhân mình, vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai. Thực thế, họ làm việc không chỉ cho bản thân, nhưng còn để đảm bảo cho người khác có tương lai và một công việc xứng đáng.
Trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là các quốc gia cần đưa ra các chính sách phát triển nông nghiệp và công nghiệp quan tâm đến sự thăng tiến xã hội và phát triển của các quốc gia lập hiến cũng như dân chủ. Việc tạo ra các cấu trúc đạo đức cho thị trường tiền tệ, tài chính và thương mại cũng là một yếu tố nền tảng và không thể bỏ qua; những hệ thống này cần được ổn định, phối hợp và kiểm soát tốt hơn để tránh phương hại đến những người nghèo.
Người kiến tạo hòa bình cũng cần phải tập trung vào cuộc khủng  hoảng lương thực, vốn còn nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính. Vấn đề an toàn lương thực luôn là vấn đề trọng yếu của các chính sách quốc tế, như một hệ luận của các cuộc khủng hoảng, vấn đề gia tăng đột biến trong giá cả của các lương thực thiết yếu, những hành vi thiếu trách nhiệm của một vài tổ chức kinh tế, và về phần mình, các chính phủ và các tổ chức cộng đồng quốc tế thiếu sự kiểm soát cần thiết. Để đối diện với cuộc khủng hoảng này, những người kiến tạo hòa bình được mời gọi làm việc với nhau trong tinh thần liên đới, từ mức độ địa phương tới cộng đồng quốc tế, với mục đích là giúp người nông dân, đặc đặc biệt cho những nông dân nhỏ bé, thực hiện các công việc của mình trong một cách thức cao quý và bền vững xét từ quan điểm kinh tế, môi trường và xã hội.
Giáo dục một nền văn hóa hòa bình:

vai trò của gia đình và các thể chế

6. Tôi mạnh mẽ xác nhận rằng những người kiến tạo hòa bình được mời gọi để nuôi dưỡng một lòng khao khát dành cho thiện ích chung của gia đình và công bình xã hội đồng thời dấn thân một cách hiệu quả vào lãnh vực giáo dục xã hội.
Không nên phớt lờ hay đánh giá thấp vai trò tiên quyết của gia đình, vốn là tế bào nền tảng của xã hội xét từ quan điểm nhân khẩu học, đạo đức, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Ơn gọi tự nhiên của gia đình là thăng tiến đời sống: Gia đình đồng hành với mỗi cá nhân cho đến khi họ trưởng thành và khuyến khích một sự phát triển hỗ tương và phong phú ngang qua sự chăm sóc và sẻ chia. Cụ thể, gia đình Kitô giáo phục vụ như là một vườn ươm cho sự trưởng  thành của cá nhân theo tiêu chuẩn tình yêu Thiên Chúa. Gia đình là một trong những chủ thể xã hội không thể thay thế được trong việc đạt được một nền văn  hóa hòa bình. Quyền của các bậc cha mẹ và vai trò chính yếu của họ trong giáo dục con em mình trong lĩnh vực luân lý và tôn giáo phải được bảo vệ. Chính trong gia đình mà những con người kiến tạo hòa bình tương lai, những người thăng tiến nền văn hóa tình yêu và sự sống, được sinh ra và được dưỡng dục. [6]
Các cộng đoàn tôn giáo cũng dấn thân trong một cách thế đặc biệt trong nhiệm vụ giáo dục hòa bình. Giáo hội tin rằng mình đang chia sẻ trách nhiệm lớn lao này ngang qua sứ mạng Tân Phúc Âm Hóa vốn đặt trọng tâm vào trong việc hoán cải để đến với chân lý và tình yêu của Đức Kitô và, kết quả là sẽ dẫn đến một cuộc tái sinh về luân lý và thiêng liêng nơi các cá nhân và cộng đoàn xã hội. Việc gặp gỡ Đức Kitô khuôn đúc nên những con người kiến tạo hòa bình, những con người biết dấn thân cho cộng đồng
và vượt qua mọi bất công.
Các thể chế văn hóa, trường học và các trường đại học có một sứ mạng đặc biệt về giáo dục hòa bình. Họ được mời gọi để đưa ra những đóng góp quý giá không chỉ ngang qua việc huấn luyện các thế hệ lãnh đạo tương lai, nhưng còn đổi mới các thể chế công cộng, ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Họ có thể góp phần vào những phản tỉnh mang tính khoa học vốn sẽ là nền tảng cho các hoạt động kinh tế và tài chính dựa trên một nền tảng nhân học và đạo đức vững chắc. Thế giới hôm nay, đặc biệt là thế giới chính trị, cần được hỗ trợ bởi một lối tư duy mới và một sự tổng hợp văn hóa mới để có thể vượt qua những phương pháp tiếp cận thuần kỹ thuật và hòa hợp những khuynh hướng chính trị khác nhau với quan điểm về thiện ích chung. Thiện ích chung, được xem như là một toàn thể những mối tương quan liên vị tích cực và có tính cơ cấu trong việc phục vụ cho sự phát triển hội nhất của các cá nhân và nhóm, chính là nền tảng của một nền giáo dục hòa bình đích thực.
Một khoa sư phạm cho những người kiến tạo hòa bình
7. Cuối cùng, chúng ta thấy cần phải đề nghị và thăng tiến một khoa sư phạm về hòa bình. Điều này đòi hỏi một đời sống nội tâm phong phú, những quan điểm luân lý rõ ràng và giá trị, cùng với những thái độ và lối sống thích hợp. Những hoạt động kiến tạo hòa bình thường kéo theo những thành tựu về thiện ích chung; những hoạt động này tạo ra những lợi ích cho hòa bình và dưỡng nuôi nó. Những suy nghĩ, lời nói và cử chỉ hòa bình thường tạo ra một tâm thức và một nền văn hóa hòa bình cùng với một bầu khí tôn trọng, yêu thương và thân ái. Vì vậy, cần dạy người ta biết yêu thương nhau, nuôi dưỡng hòa bình và sống cách nhân từ chứ không chỉ bao dung. Một sự khích lệ căn bản đối với thái độ sống này là “nói không với hận thù, nhận ra những bất công và chấp nhận những lời xin lỗi cho dù không tìm kiếm nó, và cuối cùng là biết thứ tha” [7]. Trong cách thức này, những lỗi lầm và những thù hận có thể được nhận ra trong chân lý, để cùng nhau đi đến sự hòa giải. Điều này cũng đòi hỏi phải không ngừng lớn lên trong khoa sư phạm tha thứ. Thực vậy, sự dữ chỉ có thể vượt qua nhờ sự
thiện, và công bình chỉ có thể tìm thấy ngang qua việc bắt chước Thiên Chúa là
Cha yêu thương tất cả con cái mình (xem Mt 5, 21-48). Đây chắc chắn là một tiến
trình lâu dài, vì nó giả thiết một sự tiến triển thiêng liêng, một nền giáo dục
về những giá trị cao quý và một cái nhìn mới về lịch sử nhân loại. Cũng cần biết từ bỏ thứ bình an giả tạo mà những ngẫu tượng thế gian hứa ban, cùng với những nguy hiểm luôn đi kèm với nó. Thứ bình an giả tạo này chỉ làm lu mờ lương tâm và đưa người ta đến một lối sống ích kỷ và dửng dưng. Trái lại, khoa sư phạm về hòa bình ám chỉ đến hoạt động, tình yêu thương, sự liên đới, lòng can đảm và sự kiên định.
Chính Đức Giêsu là hiện thân cho tất cả thái độ sống này trong đời sống của Ngài, thậm chí Ngài đã tự hiến mình, đến nỗi từ bỏ chính mạng sống mình (xem Mt 13,39; Lc 17,33; Ga 12,25). Ngài đã hứa với các môn đệ rằng sớm muộn gì họ cũng khám phá ra những điều tuyệt diệu mà tôi đã nói ở trên, nghĩa là Thiên Chúa ở trong thế giới và Thiên Chúa của Đức Giêsu là Đấng luôn hiện diện với con người. Ở đây, tôi muốn nhắc lại lời cầu nguyện, lời nguyện xin Thiên Chúa biến chúng ta thành những khí cụ bình an của Ngài, để chúng ta có thể mang tình yêu đến nơi hận thù, đem tình thương đến với người đau khổ, chân lý đức tin vào chốn lỗi lầm. Về phần mình, chúng ta hãy cùng chân phước Gioan 23 cầu xin Thiên Chúa soi sáng cho các vị lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến lợi ích vật chất của dân tộc mình, họ còn biết đảm bảo cho người dân món quà quý giá là sự bình an, phá vỡ những bức tường chia cắt, đẩy mạnh mối dây yêu thương lẫn nhau, lớn lên trong sự hiểu biết và sẵn sàng thứ tha cho kẻ làm hại
mình. Nhờ đó, ngang qua sức mạnh và thần hứng của Thiên Chúa, mọi người dân
trên trái đất sẽ kinh nghiệm được tình huynh đệ, và sự hòa bình mà họ hằng mong
mỏi, sẽ nở hoa và cư ngụ giữa họ.
Với lời nguyện này, tôi muốn bày tỏ niềm hy vọng của mình rằng tất cả mọi người sẽ trở thành người kiến tạo hòa bình đích thực, nhờ đó thành đô của nhân loại sẽ lớn lên trong sự hòa hợp huynh đệ, trong thịnh vượng và hòa bình.
Từ Vatican 8 tháng 12 năm 2012

+ Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Nguyễn Minh Triệu SJ chuyển ngữ
————
[1] Xem, Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong
Thế Giới Ngày Nay, Gaudium Et Spes, số 1.
[2] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11
tháng 4 năm 1963: AAS 55(1963), 265-266.
[3] Xem, Ibid.: AAS 55 (1963), 266.
[4] Beneditto XVI, Thông Điệp Đức Ái Trong Chân Lý (29 – 06
-2009), 32: AAS 101 (2009), 666-667.
[5] Xem ibid, 34 và 36: AAS 101 (2009), 668-670 và 671-672.
[6] Đức Gioan Phaolo II, Sứ Điệp Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm
1994 (3.12.1993) AAS 86 (1994), 156-162.
[7]Đức Thánh Cha Biển Đức, Bài Nói trong cuộc gặp với các thành
viên chính phủ Lenbanon (15 tháng 9 năm 2012) báo Quan Sát Viên Roma
(16-9-2012), trang 7.
[8] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11
tháng 4 năm 1963: AAS 55(1963), 304.
Nguồn: VCN
Maria Thanh Mai gởi

Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

“Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình”

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.

Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những người Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng [1], khi chúng ta công bố ơn cứu độ của Đức Kitô và thăng tiến hòa bình cho nhân loại.

Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn diện của con người.

Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ nghĩa cuồng
tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.

Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗi người, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy. Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của Chúa.

Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Mối phúc Tin Mừng

2. Các mối phúc mà Đức Giêsu công bố là những lời hứa. Trong truyền thống Kinh Thánh, mối phúc là một thể loại văn chương liên quan đến những tin tốt lành, một “Tin Mừng”, là chóp đỉnh của một lời hứa. Do đó, các mối phúc không chỉ là những khích lệ về mặt luân lý, cổ võ người ta tuân giữ để thấy trước, thường là trong đời sống mai hậu, những phần thưởng hay những vị thế hạnh phúc trong tương lai. Đúng hơn, phúc lành mà các mối phúc nói đến hệ tại ở việc viên mãn của một lời hứa dành cho
tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công
bình và bác ái. Trong con mắt của thế gian, những người tin tưởng vào Thiên
Chúa như thế thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế. Tuy nhiên, Đức
Giêsu nói cho họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời này, họ sẽ khám
phá ra mình là con cái của Thiên Chúa, và rằng Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi ở
bên cạnh họ. Họ hiểu rằng mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với
những con người dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái. Đức Giêsu, mạc khải
Tình yêu của Chúa Cha, không do dự trao ban chính mình như một sự tự hiến. Mỗi
khi chúng ta đón nhận Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và là con người, chúng ta
kinh nghiệm được niềm vui về một quà tặng lớn lao: sự sẻ chia chính sự sống của
Thiên Chúa, đời sống ân sủng và là lời hứa về sự hiện hữu hạnh phúc tròn đầy.
Cụ thể, Đức Kitô ban cho chúng ta bình an đích thực phát sinh từ một cuộc gặp
gỡ đầy tin tưởng giữa con người với Thiên Chúa.

Mối phúc của Đức Giêsu nói cho chúng ta biết hoà bình là một món quà của Đấng Mesia nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh từ những nỗ lực của con người. Thực vậy, hoà bình giả thiết về sự mở ra của con người đối với siêu việt. Nó là hoa trái của một món quà hỗ tương, của một sự phong phú mang tính hai mặt. Nhờ vào quà tặng này, một quà tặng có nguồn cội nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống với và sống cho người khác. Nền đạo đức của hoà bình là đạo đức của tình liên đới và chia sẻ. Điều
tuyệt đối cần thiết là những nền văn hoá của chúng ta trong thời đại ngày nay
cần vượt qua những hình thức nhân loại học và đạo đức dựa trên những giả định
vốn chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối tương quan đồng tồn tại
được gợi hứng bởi các tiểu chuẩn về quyền lực và ích lợi, phương tiện trở thành
cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục chỉ đơn thuần tập trung
vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.

Điều kiện cần thiết để có hoà bình là sự xoá bỏ chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm của mỗi người nam và người nữ. Hoà bình cần được xây dựng trên sự đồng hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng như luận lý, được đặt nền tảng trên những tiêu chuẩn vốn không phải do con người tạo
nên, nhưng đúng hơn là do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 nói rằng: Xin Yavê ban uy
lực cho dân Người, Yavê chúc lành cho dân Người bình an” (câu 11).

Hoà bình: Quà tặng của Thiên Chúa và hoa trái của nỗ lực con người

3.Hoà bình liên quan đến con người xét như toàn thể và nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn. Hoà bình với Thiên Chúa là một đời sống được sống theo ý muốn của Ngài. Hoà bình cũng là một sự bình an nội tâm nơi chính mình và hoà bình ngoại tại với tha nhân và với các tạo vật. Trên hết, như chân Phước Gioan 23 đã viết trong thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), mà chúng ta sẽ kỷ niệm 50 vào những tháng tới, hòa bình đòi hỏi xây dựng trên một sự đồng tồn tại được đặt nền tảng trên chân lý, tự do, bác ái và công bình[2]. Sự khước từ điều làm nên bản chất đích thực của con người trong những chiều kích thiết yếu nhất, trong khả năng nội tại để biết chân lý và sự thiện, và một cách tối hậu, là khả năng nhận biết chính Thiên Chúa, sẽ gây nguy hại cho việc kiến tạo hòa bình. Không có chân lý về con người vốn được Đấng Tạo Hóa ghi dấu trong trái tim con người, tự do và bác ái trở nên giả tạo, và công bình đánh mất đi nền tảng tồn tại của chính mình.

Để trở nên người kiến tạo hòa bình đích thực, chúng ta cần phải luôn nhớ về chiều kích siêu việt của mình và phải đi vào một cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, ngang qua đó chúng ta sẽ khám phá ra ơn cứu chuộc mà Người Con Duy Nhất của Ngài đã mang đến cho chúng ta. Nhờ đó, con người có thể vượt qua được những bóng mờ của sự tiến bộ và sự khước từ hòa bình vốn là tội lỗi trong tất cả hình thức của nó: ích kỷ, bạo lực, kiêu căng, khao khát quyền lực và thống trị, thiếu lòng khoan dung, ghen ghét và các cơ cấu bất công.

Thành tựu hòa bình phụ thuộc trước hết vào việc chúng ta nhận ra, nơi Thiên Chúa chúng ta là một gia đình nhân loại. Như Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris) dạy rằng, gia đình này được cấu trúc bởi các mối tương quan liên vị và các thể chế vốn được hỗ trợ và được làm sống động bởi cộng đồng “chúng ta”, đòi hỏi một trật tự luân lý nội tại cũng như ngoại tại, mà trong đó, hợp với chân lý và công bình, các quyền hỗ
tương và các nghĩa vụ tương ứng được chân nhận. Hòa bình là một trật tự được
sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta sẽ cảm thấy nhu cầu của tha
nhân cũng là của chính mình; chúng ta chia sẻ thiện ích với tha nhân và lao tác
cho thế giới cho một sự hiệp thông lớn hơn về những giá trị tinh thần. Hòa bình
là một giá trị đạt được trong tự do, nghĩa là trong một cách thế phù hợp với
phẩm giá của con người, với bản chất của mình như là những hữu thể có lý trí,
con người chịu trách nhiệm cho hành động của mình.[3]

Hòa bình không phải là một giấc mơ hay một điều gì đó không tưởng, nhưng là một điều khả thi. Chúng ta cần nhìn sâu xa hơn, vượt qua những vẻ bề ngoài và các hiện tượng bên ngoài, chúng ta sẽ nhận ra một thực tại tích cực tồn tại trong trái tim con người, vì mỗi người nam và nữ đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để lớn lên và góp phần vào việc xây dựng một thế giới mới. Chính Thiên Chúa, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Người Con và công trình cứu chuộc của Người, đã đi vào lịch sử và đã mang đến một cuộc tạo dựng và một giao ước mới, giao ước giữa Thiên Chúa và con người (xem Gr 31,31-34), và ngài cũng ban cho chúng ta một “trái tim mới” và một “thần khí mới” (xem Gr 36,26).

Vì lý do này, Giáo Hội nhận ra một nhu cầu cấp thiết trong việc tái công bố về Đức Giêsu, là yếu tố đầu tiên và nền tảng của sự phát triển hội nhất nơi con người và cũng là của sự hòa bình. Đức Giêsu là hòa bình đích thực, là công bình và sự hòa giải của chúng ta (x. Ep 2,14; 2Cr 5,18). Người kiến tạo hòa bình, theo mối phúc của Đức Kitô, là người tìm kiếm thiện ích cho người khác, thiện ích trọn vẹn nơi linh hồn và
trong thân xác, hôm nay cũng như mai sau.

Từ lời dạy này, người ta có thể  suy ra rằng, mỗi người và mỗi công đoàn, cho dù thuộc về tôn giáo, nền giáo dục và văn hóa nào đi nữa, tất cả đều được mời gọi để lao tác cho hòa bình. Hòa bình là một sự thành tựu những thiện ích nơi một xã hội trong mọi mức độ khác nhau, ở mức độ cơ sở, trung cấp, quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Rõ ràng, vì lý do này con đường để đạt đến thiện ích chung cũng chính là con đường phải đi
trong việc theo đuổi hòa bình.

(còn tiếp)

Maria Thanh Mai gởi

TÂM TRẠNG CHÁN ĐỜI KHÔNG NÊN Ở KHÔNG

TÂM TRẠNG CHÁN ĐỜI KHÔNG NÊN Ở KHÔNG

Tác giả: Tuyết Mai

Nếu thỉnh thoảng chúng ta có tâm trạng chán nản, không buồn ra khỏi giường, không muốn đi đâu hay muốn làm gì dù có người rủ mời, là chuyện bình thường thôi! Chẳng có gì đáng lo ngại hay bất bình thường cả!.    Ta hãy đổ thừa cho thời tiết thất thường,
nhất là vào mùa lạnh, thiếu bóng dáng của ánh nắng mặt trời, và đường xá có
tuyết phủ.   Hay những mùa mưa thì cũng chẳng cách nào ta ra đường cho được vì lụt lội và vì trời u ám xám xịt cả ngày.   Khí hậu thì luôn ảnh hưởng đến sức khỏe của con người nhất là cái lạnh thấu xương.   Nhìn quanh ai ai cũng cảm, cũng ho, cũng khò khè, và quấn mền không ra được khỏi cái giường.

Có buồn chán lắm không vì chẳng biết làm gì cho qua thời giờ mà nhất là ta có rất nhiều giờ trong tay mà không biết làm gì cho qua giờ qua khắc?.   Nhất là các anh chị em trẻ sau mùa thi cử, nghỉ hè, hay bị nghỉ bất đắc dĩ vì bị mất việc, v.v……
May mà thời buổi của ngày nay rất văn minh và hiện đại, ta còn có thể liên lạc với anh chị em ở khắp cùng trên mạng, nghe nhạc cũng trên mạng, coi phim, và muốn xem bất cứ thứ gì thì chỉ cần lên mạng.

Nhưng có những lúc ta thấy cái gì cũng nhàm chán, tự ta không muốn hay cảm thấy hứng thú hoặc vui vẻ với ngay cả chính mình? Có phải ta cần có ai đó có mặt mà đấm cho mấy đấm hay thọt lét cho ta cười, hay nói những câu để ta nghe xóc óc mà chịu đứng dậy để chịu vực dậy cái tấm thân lười của ta hay không?.   Đó cũng là chuyện tâm l‎ý bình thường của con người mà thôi, không gì trầm trọng lắm đâu!.

Điều tốt nhất là ta nên tìm những việc làm có tính cách hữu ích nhất là cho cái đầu óc của mình phải bận luôn.   Bận tay bận chân lại còn tốt hơn nữa vì người Việt chúng ta
có câu “nhàn cư vi bất thiện” luôn là đúng đó!.   Thà là chúng ta không biết việc gì để làm thì đi ngủ là tốt nhất, vì khi ta đi ngủ nó giống như được “turn off” hoàn toàn.   Mà anh chị em có biết khi ta ngủ thì là lúc mọi tế bào trong cơ thể của ta chúng được nghỉ ngơi và được dưỡng bệnh không, nhất là trong khi ta bị cảm.   Mọi tế bào (cells) lúc ta nghỉ ngơi là lúc chúng làm việc rất hăng say, được sinh nở thêm để thay thế cho
những tế bào đã chết từ tận bên trong như máu, ngũ tạng, cơ bắp, mọi thứ trong
đầu và tận bên ngoài là tóc, lông, và da.

Thế cho nên sự ngủ nhiều là điều tốt cho sức khỏe phải không nào? Miễn là chúng ta đừng ngủ nhiều quá mà thôi, hay triệu chứng ngồi đâu ngáp đó cảm thấy lúc nào người cũng mệt mỏi như người thiếu ngủ, thiết tưởng ta nên đi gặp bác sĩ để khám sức khỏe toàn diện xem sao?.   Chứ thường tuổi các cháu trẻ thì còn nhiều hay dư sinh lực
lắm, nên tìm việc mà làm, chứ đừng ngồi không.   Chúng tôi thường khuyên các cháu nhà khi chúng được nghỉ học và chờ mùa học tới là tìm kiếm việc bán thời gian để làm, thứ nhất để có thêm tiền dành dụm phòng cho những chuyệnbất trắc có thể xẩy ra, thứ hai là cho nhu cầu tối thiểu như quần áo, sách vở, ăn vặt, và xài vặt, v.v….

Kiếm tìm thêm nơi để làm việc thiện nguyện, làm đầu tàu để rủ hết thảy các bạn cùng giúp một tay vừa được thêm người lại thêm niềm vui cho anh chị em khốn cùng.   Rồi để cho quân bình đầu óc được thoải mái thì cùng rủ nhau đi chơi nhóm như leo núi, đi biển, đi công viên, thăm thắng cảnh, hay tổ chức chung ăn uống, v.v….. Cùng bao nhiêu việc bác ái khác mà các cháu trẻ có thể làm như rủ nhau đi thăm trẻ cô nhi
viện, nơi nhà tình thương, nhà tù, giúp các em sống lề đường, v.v…. Đây chỉ là
lời góp ý chứ ngoài ra còn không bao nhiêu việc hữu ích khác mà các cháu trẻ
biết đến còn nhiều hơn chúng tôi nữa!.   Chúng ta chỉ sợ thiếu người có lòng thiện chí, thiếu người có tấm lòng mà thôi chứ việc thiện nguyện thì không sao mà kể hay giúp cho hết được, thưa có phải?.

Điều chúng tôi xin góp ý cho các bạn trẻ khi nào chúng cháu rảnh cảm thấy quá buồn, chán nản, không còn biết việc gì để làm hay đi đâu cho có ý nghĩa thì hãy rủ nhau làm những việc hữu ích trên, dần tập cho các cháu có trách nhiệm với chính mình và với tha nhân qua các việc chịu thương chịu khó của các cháu bỏ công, bỏ thời giờ ra làm.   Khi đã có lên chương trình, có tinh thần, và có dự định làm việc gì, các cháu hãy
nên bỏ ngoài tai những lời thị phi, phê bình với tính cách thiếu tinh thần xây
dựng và làm các cháu nản lòng.   Vì tình yêu thương và lý tưởng thiết nghĩ các cháu cứ thế mà làm, dù ít nhiều gì cũng làm đẹp lòng Chúa và lòng người, và có phải đó đã là làm trọn lề luật yêu thương mà Chúa kêu gọi?.   Trừ khi các cháu làm vì tiền hay vì muốn được nổi nang cho riêng mình thì công việc làm phước sẽ ra uổng công mà thôi!.

Thật tội nghiệp lắm thay cho những cháu vì không được người hướng dẫn, nhất là thiếu tình yêu thương từ trong gia đình, mà phải gánh vác việc đời ngay từ tuổi còn trẻ, nên vì trẻ người non dại đã có tư tưởng làm những sự việc thiếu suy nghĩ.   Vì các cháu để cho mình bị ảnh hưởng quá nhiều khi coi phim ảnh quá khiêu khích nên đã tự hủy hoại đời mình và đời của người khác, hoặc cách này hay cách khác!?.

Lậy Thiên Chúa Vua tình yêu, xin luôn yêu thương hết thảy chúng con, chúc lành và ban bình an, để chúng con cảm nhận được tình yêu Chúa trên hết thảy mọi tạo vật và mọi điều chúng con không thấy và không cảm nhận được; những gì  Chúa ban cho chúng con rất nhưng không.   Mà không gì trên trần gian có thể mua hay sánh ví cho bằng.   Như thử chúng con nín thở để đếm tiền thì không hiểu chúng con đếm được bao nhiêu thì bị tắt thở và lăn ra chết.   Nghĩ thì buồn cười Chúa nhỉ nhưng con người nông cạn của chúng con thì luôn bám lấy tiền của trần gian cho thật chặt mà chẳng bao giờ muốn buông bỏ chúng?.   Amen.

** Xin bấm vào mã số để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=CILVKqh7urQ

(Cảm Tạ Chúa Đến Muôn Đời)

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(1-9-13)

 

 

SỰ THINH LẶNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG

SỰ THINH LẶNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG

St Ignatius Loyola 2.pngGiữ thinh lặng là một nét đặc sắc của các tu sĩ chiêm niệm trong các đan viện.  Nó cũng là điều được khuyến
khích và thường được tôn trọng trong những cuộc tĩnh tâm dành cho bất kì ai, không phân biệt linh mục, tu sĩ hay giáo dân.  Mục đích của việc giữ thinh lặng là để suy gẫm, để gặp gỡ Thiên Chúa.

Có hai thứ thinh lặng: thinh lặng bên ngoài và thinh lặng bên trong hay nội tâm.  Sự thinh lặng bên ngoài chủ yếu cốt ở tránh giao tiếp bằng lời nói với những người chung
quanh.  Ngược lại, sự thinh lặng bên trong không liên quan gì đến tương quan với người khác, nhưng chỉ liên hệ đến chính bản thân.  Như chúng ta đều biết, nội tâm chúng ta làm xuất hiện những ý tưởng, những hình ảnh và những điều tưởng tượng không liên quan gì đến việc cầu nguyện; trong nội tâm chúng ta nhiều khi nổi dậy những tình cảm và cảm xúc tự nhiên như vui, buồn, giận v.v… mà chúng ta quen gọi là thất tình.

Vậy thinh lặng nội tâm cốt ở tránh tất cả những cái đó mà chúng ta coi như là những tiếng nói và những tiếng động gây ồn ào bên trong.  Chính cái ồn ào hay náo động này
phá sự yên tĩnh của tâm hồn. Chúng ngăn cản tâm hồn gặp gỡ Thiên Chúa, sống
hiệp nhất với Ngài, lắng nghe những lời nhắn nhủ của Ngài, đón nhận ơn soi sáng
của Chúa Thánh Thần, thưa gửi cùng Thiên Chúa và giải bày với Ngài những tâm
tình, những ước nguyện .v.v.

Như vậy, giữ thinh lặng bên trong là để cầu nguyện.  Vì thế, trong viễn tượng đạo đức, sự thinh lặng bên ngoài chỉ có ý nghĩa khi nó tán trợ hay bảo vệ sự thinh lặng bên
trong.  Cần nói như vậy vì trong không ít trường hợp, sự thinh lặng bên ngoài lại chỉ là cái bình phong che đậy cả một thế giới nội tâm ồn ào, náo động.  Sự thinh lặng bên ngoài còn được hiểu theo nghĩa rộng là phải tránh nghe, đọc hay xem những gì có thể phá rối sự trầm mặc của tâm hồn.  Nhưng cũng vì ý nghĩa hay mục đích của sự thinh lặng bên ngoài là như thế, nên sự thinh lặng này có tính cách mềm dẻo, nghĩa là, trừ trường hợp nó phải được tuân giữ tuyệt đối, nó vẫn cho phép có những cuộc trao đổi hay nói chuyện về Thiên Chúa và về những vấn đề thiêng liêng, những giờ cầu nguyện chung bằng lời kinh, tiếng hát, những lời khấn nguyện trong lúc riêng tư.

Nói giữ thinh lặng bên trong để cầu nguyện, tức là nhận có sự phân biệt giữa thinh lặng nội tâm và cầu nguyện.  Nên nhắc đến sự phân biệt này, bởi lẽ chúng ta thấy rằng môn Yoga hay thiền Ấn Độ, kể cả thiền Phật Giáo, cũng tìm sự thinh lặng nội tâm, nhưng không phải để cầu nguyện.  Tuy sự thinh lặng nội tâm khác với sự cầu
nguyện, nhưng cả hai gắn liền với nhau chặt chẽ; cái thứ nhất là điều kiện cần
thiết cho cái thứ hai; cái thứ nhất là phương thế, còn cái thứ hai là mục đích.

Vì sự thinh lặng nội tâm  cốt ở sự vắng bóng những cái gây ồn ào náo động trong tâm hồn, nên chúng ta có thể hình dung đây là tâm hồn rỗng không.  Nhưng vì là rỗng không để cầu nguyện, nên điều này cũng có nghiã là tâm hồn rỗng không để được đầy tràn, và cái làm đầy tràn chính là sự hiện diện của Thiên Chúa.  Nói cách khác, giữ
thinh lặng nội tâm đồng nghĩa với việc gạt bỏ những cái gây ồn ào náo động để
tâm hồn được yên tĩnh, vì đó là nơi dành riêng cho Thiên Chúa, Đấng còn được gọi là Thiên Chúa thinh lặng.

Sự thinh lặng nội tâm có nhiều mức độ.  Con người càng sống siêu thoát, nghĩa là càng từ bỏ mình và  thế gian, thì sự thinh lặng càng sâu xa, bởi vì cái tôi được nuông chiều và thế gian được ham thích chính là những cái gây ồn ào náo động.  Vì thế, ngày
xưa các vị tu rừng vào rừng sâu hay sa mạc là nơi thanh vắng để bỏ lại mọi sự
thế gian như tiền của, danh giá, địa vị.  Họ từ bỏ mình bằng cách bắt thân xác chịu cực khổ, như mỗi ngày hay vài ngày mới ăn một bữa rất đạm bạc, mỗi đêm chỉ ngủ vài ba giờ. Có vị còn đeo xiềng xích nặng nề, tự giam mình trong chòi không đủ cao để đứng và không đủ dài để nằm, v.v…  Bằng lối sống siêu thoát như vậy, họ có ý giữ cho tâm hồn được yên tĩnh để ngày đêm gặp gỡ Thiên Chúa, hay nói cách khác, để cầu nguyện liên tục trừ lúc ngủ.  Điều vừa nói chứng tỏ rằng sự thinh lặng nội tâm là thành quả của sự từ bỏ và của cả một công trình tu luyện.  Cũng vì thế mà có thể nói rằng
chỉ các vị thánh – thánh ở đây hiểu theo nghĩa thánh Công Giáo – mới là những
người giữ được sự thinh lặng nội tâm sâu xa.  Nhưng không được phép nói ngược lại rằng người giữ được sự thinh lặng nội tâm sâu xa là người thánh.  Thực vậy, sự thinh lặng nội tâm tự nó không phải là cầu nguyện hay hiệp nhất với Thiên Chúa, vì như đã nói trên, có những người ngoài Công giáo cũng từ bỏ mình và từ bỏ thế gian để đi tìm sự thinh lặng nội tâm.  Vậy khi nói thinh lặng nội tâm, chúng ta chú ý đến một khía cạnh của linh hồn trong quan hệ với Thiên Chúa, đó là gạt ra ngoài các thứ “tiếng động” và “ồn ào” do xác thịt, thế gian và ma quỷ gây ra trong tâm hồn, để nhờ đó  chúng ta mới có thể chăm chú gặp gỡ Thiên Chúa với thái độ lắng nghe. Đây là lúc chúng ta ở trong tình trạng hồi tâm, thu tâm (recueillement).  Giữa lúc này, những tiếng động và ồn ào có thể tái xuất hiện và đe dọa phá vỡ tình trạng thu tâm kia.  Nhưng dù chúng ta chưa là thánh nhân, chúng ta vẫn có thể, nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, cố gắng ngăn cản được chúng.  Chính sự cố gắng này cũng góp phần vào việc chúng ta chống lại sự cám dỗ của xác thịt, thế gian và ma quỷ.

Sau cùng, sự thinh lặng nội tâm cũng cần được bảo vệ và nâng đỡ bằng cảnh vật yên tĩnh bên ngoài do sự vắng bóng những người qua lại.  Khi đọc Phúc Âm chúng ta biết Chúa Giêsu, sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan, đã vào sa mạc cô tịch và sống ở đó
bốn mươi đêm ngày.  Trong quãng đời hoạt động công khai, Ngài từng tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện: trên núi (Mt 14,23; Mc 6,46; Lc 9,28), trên núi vào lúc đêm khuya (Lc 6,12); nơi hoang vắng (Lc 5,16); nơi hoang vắng và sáng sớm, lúc trời còn tối mịt (Mc 1.35); trong vườn Giêtsêmani vào lúc đêm khuya (Mt 26, 36-46).

Hẳn không ai phủ nhận rằng những nơi thanh vắng, cô tịch là khung cảnh thuận lợi để nâng đỡ và bảo vệ sự thinh lặng nội tâm.  Vì thế, các đan viện của các Dòng tu chiêm niệm, nếu không ở những nơi hiu quạnh thì ít ra cũng nằm trong những khu đất được vây kín.  Các nhà tĩnh tâm cũng thường là những nơi tĩnh mịch, vắng vẻ. Ngay các tu viện hoạt động tông đồ, khi có thể, cũng có một khoảng đất nhỏ yên tĩnh, một mảnh vuờn kín đáo chẳng hạn, để dùng làm nơi cho tâm hồn hưởng những giây phút thư giãn và thanh thản, hoặc sống trầm mặc trong bầu khí êm dịu của cầu nguyện.

Rôcô Đinh Văn Trung, S.J.

Trích Tập San Hiện Diện

nguồn: Anh chị Thụ & Mai  và

langthangchieutim gởi

Mì ăn liền

Mì ăn liền
(phía Bắc gọi là Mì Tôm)
Thiếu dinh dưỡng
Mặc dù sau mỗi lần ăn mì ăn liền, bạn cảm thấy rất no, nhưng thực chất, cảm giác no này là do carbohydrate đem lại. Mì ăn liền chỉ chứa nhiều năng lượng chủ yếu từ chất béo và tinh bột. Dùng nhiều mì ăn liền không những khiến bạn có nguy cơ bị mất cân
bằng dinh dưỡng, thiếu chất xơ, vitamin, chất đạm, khoáng chất… mà lại còn có
nguy cơ béo bụng do tiêu thụ quá nhiều tinh bột.

Tiện lợi và ngon miệng, mỳ ăn liền đã trở thành một phần của lối sống hiện đại nhưng kèm theo nó là các vấn đề về sức khỏe như ung thư, suy dinh dưỡng…
Bệnh tim mạch
Thường xuyên dùng mì ăn liền, bạn có nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch như cao huyết áp, xơ vữa động mạch, đột quỵ cao hơn bình thường. Nguyên nhân nằm ở thành phần chất béo có trong hầu hết các loại mì ăn liền. Loại chất béo này là transfat và chất béo bão hòa, chúng vô cùng có hại cho sức khỏe, đặc biệt đối với những người cao
tuổi hay người có tiền sử bệnh tim mạch.
Tiện lợi và ngon miệng, mỳ ăn liền đã trở thành một phần của lối sống hiện đại nhưng kèm theo nó là các vấn đề về sức khỏe như ung thư, suy dinh dưỡng…
Hư thận, hại xương
Một thành phần có mặt trong mỗi gói mì ăn liền mà không phải ai cũng dễ dàng nhận ra chính là muối. Mì ăn liền thường được ướp rất nhiều muối, với lượng muối cao như vậy, khi ăn, bạn đã vô tình làm hại thận, thậm chí dùng nhiều có thể gây sỏi thận.
Ngoài ra, mì ăn liền cũng chứa đầy phosphate, một chất giúp cải thiện mùi vị thức ăn. Tuy giúp bạn ngon miệng nhưng chất này lại khiến chúng ta dễ bị loãng xương, mất xương, răng cũng yếu dần đi nếu dùng nhiều.
Ung thư
Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá sự độc hại của mì ăn liền, với các thành phần phụ gia như màu thực phẩm, quá nhiều muối, chất béo bão hòa… Và hầu hết các nghiên cứu đều kết luận mì ăn liền có khả năng gây ung thư nếu ăn nhiều trong thời gian dài.
Dị ứng
Trong mì ăn liền thường chứa một phụ gia gọi là “bột ngọt” (còn được gọi là mì chính,
là chất monosodium glutamate monohydrate = MSG), đây là loại phụ gia
tổng hợp mùi vị, khiến cho món mì trở nên ngon miệng hơn, kích thích vị giác
tối đa. Thế nhưng, trên thế giới cũng đã ghi nhận trường hợp dị ứng với MSG do
dùng nhiều mì ăn liền. Các triệu chứng bao gồm:
– Cảm giác nóng rát ở ngực, lưng và tay
– Buồn nôn, khó thở, uể oải
– Đau đầu, đau ngực
– Tim đập nhanh, khó thở, chóng mặt
– Bị tê tay chân.
TTVN
Thứ năm, 01/09/2011
Mì ăn liền có tốt cho sức khỏe?
Mì ăn liền, thường được gọi là “mì tôm”, thực chất chẳng có con tôm, miếng thịt nào hoặc nếu có thì chỉ là hình vẽ hoặc chút nước vỏ tôm.
Thành phần mì ăn liền:
– Bột mì (98 – 99%), có khi trộn lẫn một ít bột ngũ cốc khác hay khoai củ.
– Gói bột nêm mà chủ yếu là muối, mì chính (MSG) rất mặn.
– Gói sa tế (dầu cọ + gia vị tỏi, tiêu…) hoặc gói hành phi.
– Dầu mỡ để chiên mì (thường là shortening: loại acid béo trans).

Về mặt lợi ích:

Mì ăn liền được chế biến rất tiện lợi (chỉ cần chế nước sôi vào là có ngay tô mì vị thịt), thơm ngon, có thể nói ai ăn cũng thích, nhưng đó là vị giác của con người bị phỉnh
lừa bởi mì chính (bột ngọt) là chất có vị ngọt của thịt mà muốn cho có vị ngọt
thịt thì phải cho thêm thật nhiều muối (NaCl) nó mới tạo ra vị thịt.
Về giá trị dinh dưỡng
Mì ăn liền chủ yếu cung cấp chất bột từ bột mì và 9% chất đạm thực vật – cũng từ bột mì, nếu trộn khoai tây vào thì đạm rất kém (vì khoai tây chỉ chứa 1 – 2% protein thôi).
Protein động vật kể như không có (hình vẽ hoặc chỉ thêm mươi “viên thịt cỡ bằng hột tiêu” trong gói hành phi!).
Giá trị dinh dưỡng của mì ăn liền là không cân bằng vì thiếu đạm động vật và sinh tố từ rau quả tươi. Chẳng những thế mà mì ăn liền còn rất mất cân bằng vì lượng bột ngọt và muối quá nhiều!
Nếu bạn ăn hết tất cảnhững gì trong một gói mì ăn liền, kể cả gói bột nêm và nước dùng thì cả buổi sau đó bạn có thể “bí tiểu” mà không hay! Bí tiểu thì cơ thể không được giải độc, nếu ăn mì tôm thường xuyên thì bạn sẽ bị ngộ độc vì ít đi tiểu…
Cái nguy hại nhất thường có trong mì ăn liền là chất béo trans. Đó là các dầu thực vật được hydrogen hóa mất các nối đôi ở vị trí trans nên chúng trở nên “trơ”, nghĩa là
không bị oxy hóa (ôi dầu) khi mì được tồn trữ lâu ngày. Vì thế đa số các loại mì tôm đều được chiên bằng chất béo trans, còn gọi là “bơ thực vật” như shortening, margarin…
Chất béo trans (trans fat) có cái lợi là ở thể rắn có thể dùng như bơ và không bị oxy hóa, có lợi về mặt công nghiệp thực phẩm (dùng trong các loại fastfood như mì tôm, khoai tây chiên, các món “giòn giòn” (crackers), đậu phộng da cá, bánh mì kem, kem, các loại bánh ngọt có “bắt bông kem”…).
Nhưng chúng rất có hại về mặt sức khỏe người tiêu dùng vì nó làm tăng cholesterol xấu (LDL) và đồng thời cũng làm giảm cholesterol tốt (HDL) xuống gây xơ vữa động mạch (gây hẹp lòng động mạch) nên làm giảm sự lưu thông của máu.
Chất béo trans không thể được chuyển hóa hoàn chỉnh trong cơ thể mà “đọng lại” trong thành mạch thành khối xơ vữa, nếu dùng lâu ngày sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng là xơ vữa động mạch nên rất nguy hiểm cho sức khỏe người tiêu dùng (Đến tuổi 40 trở đi, những người dùng nhiều acid béo trans sẽ bị thiếu máu cơ tim, tai biến tim
mạch).
Các nghiên cứu khoa học ở các nước Âu Mỹ đã chứng minh điều trên nên ngày nay họ đã có luật cấm dùng các chất béo trans trong thực phẩm hoặc phải ghi đầy đủ hàm lượng acid béo trans trong thực phẩm trên nhãn hiệu thực phẩm ấy để người tiêu dùng biết mà tránh.
Tóm lại, mì ăn liền
(mì tôm) là loại thức ăn nhanh, có thể được dùng theo như vai trò của nó là
dùng để ăn tạm “chữa cháy” khi thật cần thiết chứ không nên dùng thường xuyên
và khi dùng cũng nên đập thêm vào một quả trứng, thêm một ít rau tươi, và chỉ nên dùng 1/3 gói bột nêm trong đó mà thôi. Và ngành công nghiệp mì ăn liền cũng cần sản
xuất ra sản phẩm không có chất béo trans.
Theo DS. Phan Bảo AnKhoa học phổ thông
Sử dụng mì ăn liền
nhiều gây hại cho sức khỏe
30/08/2010 | 16:31:00
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Tại buổi tọa đàm “Hiểu đúng về dinh dưỡng của mì tôm” do báo Khoa học và
Đời sống tổ chức ngày 30/8, các chuyên gia cho rằng, sử dụng mì ăn liền liên
tục và trong khoảng thời gian dài sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe.
Không nên ăn mì thay cơm

Thừa nhận mì ăn liền là thức ăn rẻ và tiện lợi trong đời sống công nghiệp,
song Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thị Sửu (Giám đốc Trung tâm kỹ thuật an toàn vệ
sinh thực phẩm, thuộc Hội Khoa học Kỹ thuật an toàn thực phẩm Việt Nam) cho
biết thành phần của mì ăn liền chứa nhiều chất béo bão hòa, chất bột và ít chất
xơ. Đáng chú ý, mì ăn liền có thành phần chất béo (Shorterning) từ 15-20%, chủ
yếu là dạng axit béo no (axit béo bão hòa) là loại chất béo khó tiêu hóa. Ngoài
ra, mì ăn liền còn có chất béo dạng trans (Trans fat) nếu sản xuất shortening
theo phương pháp hydrogen hóa. Khi sử dụng mì ăn liền có chất béo dạng Trans sẽ
gây tăng mức cholesterol xấu trong máu, dẫn đến tăng nguy cơ bị các bệnh tim
mạch. Do vậy ở các nước trên thế giới, trên nhãn sản phẩm mì ăn liền đều ghi
rất đầy đủ thành phần dinh dưỡng và axit béo bão hòa, axit béo dạng Trans, nếu
trên nhãn ghi Trans fat (0-2 gram) người tiêu dùng sẽ yên tâm sử dụng.
“Ngoài ra, trong gói gia vị của mì chứa nhiều chất phụ gia có tác dụng làm
ngon miệng. Song, những chất này cũng không có dinh dưỡng và còn cay nóng, gây
bất lợi cho người cao huyết áp hoặc có thân nhiệt cao,” bà Sửu nói.Về mặt dinh
dưỡng, mì ăn liền chủ yếu cung cấp bột và đạm thực vật. Do đó, mì ăn liền thiếu
cân bằng dinh dưỡng bởi thiếu đạm động vật và vitamin từ rau quả tươi. Bởi vậy,
không nên dùng mì ăn liền thay cho các bữa ăn chính hằng ngày vì nó chỉ cung
cấp nhiều calo chứ không cung cấp đủ vitamin hay protein cho cơ thể.
Phải công bố dinh dưỡng của sản phẩm

Hiện nay, trên các gói mì ăn liền, đa phần các nhà sản xuất chưa nêu cụ thể
giá trị dinh dưỡng của sản phẩm. Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Bạch Mai, Phó Viện
trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia khuyến nghị, các nhà sản xuất phải tuân thủ
nghiêm ngặt quy trình để làm ra thành phẩm. “Ngoài ra, trên bao bì cần công bố
giá trị dinh dưỡng của sản phẩm, phần trăm chất béo, hàm lượng muối, chất lượng
chất béo trong mì ăn liền để người dân chọn lựa” bà Mai nói.Thạc sĩ, Bác sĩ
Phan Hướng Dương, Phó Trưởng Khoa Dinh dưỡng (Bệnh viện Nội tiết) thì cho hay,
mì tôm là thức ăn nhanh, rẻ và tiện dụng. Tuy nhiên, nếu sử dụng mì ăn liền
thường xuyên và kéo dài sẽ gây hại cho sức khỏe. Bác sĩ Phan Hướng Dương còn
cho biết, hiện nay tỷ lệ béo phì của trẻ em thành phố gia tăng. Gần đây nhất,
ông đã khám và tư vấn cho một cậu bé mới 12 tuổi nhưng có cân nặng 62kg và cao
1m63. Bệnh nhân này đã bị bệnh đái đường tuýp 2.Ông Dương cho rằng, nếu các gói
mì đều ghi rõ hàm lượng dinh dưỡng của sản phẩm thì người tiêu dùng sẽ hoàn
toàn có thể lựa chọn xem có phù hợp với thể trạng của mình không trước khi sử
dụng. Nếu không, họ sẽ vô tình tự làm bệnh tình của mình gia tăng.Các nhà khoa
học cũng đưa ra kiến nghị cơ quan quản lý cần có những tiêu chuẩn rõ ràng đối
với mặt hàng mì ăn liền như hàm lượng chất béo, nhất là chất béo dạng Trans,
chất xơ… là bao nhiêu. Từ đó đưa ra các biện pháp quản lý chặt đối với các mặt
hàng không đúng quy định. Có như vậy các nhà sản xuất bắt buộc phải thực hiện
đúng việc sản xuất ra sản phẩm đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và
có như vậy mới có trách nhiệm với người tiêu dùng.
Sử dụng mì ăn liền đúng cách

Để bảo đảm sức khỏe cho người sử dụng mì ăn liền, các chuyên gia dinh dưỡng
cũng khuyến cáo cần bổ sung thêm rau xanh và các loại đạm từ thịt, trứng để bù
đắp lượng vitamin, chất xơ và protein thiếu hụt trong mì ăn liền.Thạc sĩ Lê Thị
Hải, Giám đốc Trung tâm Khám và Tư vấn dinh dưỡng (Viện Dinh Dưỡng) đưa ra dẫn
chứng, có trường hợp bố của một cậu bé 7 tuổi đến nhờ bà Hải tư vấn bởi từ khi
biết ăn, cậu bé chỉ ăn mì ăn liền. Tuy nhiên, trong mỗi bữa ăn, gia đình cậu bé
luôn bổ sung thịt, trứng, rau vào mì ăn liền nên cậu vẫn đủ chất dinh dưỡng và
phát triển bình thường. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Thị Sửu thì khuyên người tiêu
dùng cần phải tự bảo vệ bản thân bằng cách chọn mua các sản phẩm của các nhà
sản xuất có thương hiệu, nhất là các cơ sở đã áp dụng Hệ thống quản lý An toàn
thực phẩm theo tiêu chuẩn Quốc tế HACCP/ISO 22000./.
Trung Hiền
(29-1-2011)
NẤU MÌ ĂN LIỀN ĐÚNG CÁCH
CORRECT WAY OF COOKING INSTANT NOODLES
Thưa quý bạn, ai trong chúng ta cũng đã từng ăn mì gói ăn liền, nhưng mấy có ai biết ăn đúng cách? Theo kiểu Việt Nam chúng ta xưa nay là đổ nước vào mì rồi chờ cho mì chín 3 phút là ăn ngay, nhanh gọn. Đó là cách làm mì gói có hại sức khỏe cho bạn,
bạn hãy đọc bài dưới đây để thay đổi cách ăn sẽ thay đổi đời sống sức khỏe của
bạn càng sớm càng tốt vì “Sức khỏe là Vàng” “Sức khỏe là hạnh phúc an vui”.
Thường thì chúng ta nấu mì ăn liền bằng cách cho vào nước sôi, cho bột nêm vào và nấu khoảng 3 phút. Thế là mì sẵn sàng cho ta ăn.
Normally, how we cook the instant noodles is to put the noodles into a pot with water, throw in the powder and let it cook for around 3 minutes and then it’s ready to eat.
Đấy là cách SAI để nấu mì ăn liền.
This is the WRONG method of cooking the instant noodles.
Làm cách đó, khi chúng ta nấu sôi các gia vị mà trong đó bột ngọt là chính (MSG: Monosodium glutamate). Nấu thế sẽ làm biến dạng cấu trúc phân tử của bột ngọt biến chúng thành chất độc.
By doing this, when we actually boil the ingredients in the powder, normally with MSG, it will change the molecular structures of the MSG causing it to be toxic.

Một vấn đề khác là chúng ta có thể đã không biết là sợi mì ăn liền được phủ bởi một lớp sáp và cơ thể chúng ta phải mất 4 hay 5 ngày mới tiêu hoá hết phần sáp này (hèn chi ăn mì gói hay khó chịu bụng!)
The other thing that you may or may not realize is that, the noodles are coated with wax and it will take around 4 to 5 days for the body to excrete the wax after you have taken the noodles.

CÁCH ĐÚNG NHẤT LÀ: CORRECT METHOD:
1 – Luộc mì trong nồi nước sôi.
Boil the noodles in a pot with water.
2 – Khi mì đã chín đủ, lấy hết mì ra và đổ bỏ nước sôi.
Once the noodles is cooked, take out the noodles, and throw away the water which contains wax.
3 – Nấu nồi nước sôi mới, bỏ mì vô trở lại nồi nước sôi, tắt lửa.
Boil another pot of water till boiling and put the noodles into the hot boiling waterand then shut the fire.
4 – Sau khi tắt lửa, nước còn đang nóng, bỏ bột nêm vào.
Only at this stage when the fire is off, and while the water is very hot, put the ingredient with the powder into the water, to make noodle soup.
5 – Tuy nhiên, nếu muốn ăn mì khô thì lấy mì ra và trộn với bột nêm.

However, if you need dry noodles, take out the noodles and add the ingredient with the powder and toss it to get dry noodles.
Một số lớn bệnh nhân trong tuổi 18-24 ngã bệnh về lá lách như lá lách bị sưng hay nhiễm trùng vì đã thường xuyên ăn mì ăn liền… Nếu ăn mì ăn liền 3 lần trong mỗi tuần là có thể nguy hại cho cơ thể.
A large number of patient with the ages ranging from 18-24 years are ending up with pancreatitis either as a swelling or infection of the pancreas due to regular consumption of instant noodles… If the frequency is more than 3 times a week, then it is very hazardous…
Xin gởi E-mail/chuyển kiến thức này tới bạn bè và người thân để phòng bệnh.
Câu chuyện phụ đề: Có một vị người Phật tử thường đi tu học tại Tu Viện Hộ Pháp, Los Angeles, vị này có người bạn bên Canada. Cô bạn này vì muốn có một chiếc xe BMW để bản ngã thân mạng của cô ta ra đường không bị mặc cảm là thua kém với các cô bạn khác nên cô ta chỉ toàn ăn mì gói suốt 3 buổi luôn nhiều tháng để dành tiền trả góp cho chiếc xe mua thiếu của ngân hàng. Một thời gian sau 3 tháng cô bạn đã ngã bệnh vì sức khỏe đề kháng kém cộng thêm lá gan và lá lách đã bị hư hại nặng. Mặc dù bác sĩ đã tận tình chữa chạy, nhưng cô bạn đó vẫn không được cứu sống và cô ta đã chết để lại xe BMW cho ngân hàng và một bài học vô cùng quý giá cho chúng ta vì phải trả hết một mạng người.
Các bạn chớ có lạm dụng ăn mì gói nhiều, nếu ăn mì trong tô đã gói sẵn mà không tiện để nấu, thì các bạn phải nhớ rửa mì thật kỹ bằng nước sôi trước khi dùng, mai mốt quý vị lớn tuổi một chút thì sẽ biết tác hại sức khỏe của nó như thế nào, và khi ăn mì gói ăn liền phải biết nấu đúng cách như bài này đã chia sẻ. Mong thay và rất mong!

KHI TÔI CHẾT !

KHI    TÔI    CHẾT !

Tác giả: Trần Đình PhanTiến

nguồn: thanhlinh.net

Khi tôi chết là khi linh hồn tôi bay bổng

Đến Thiên Nhan diện kiến Đấng toàn năng

Thân xác tôi nằm yên bất động

Nhưng thật ra,

tôi đang đi tới cõi vĩnh hằng

Lúc bấy giờ tôi mới ngộ ra rằng

Sự sống là do linh hồn bất tử

Còn xác thân chỉ là tạm bợ đương thời

Thân xác tôi của mẹ cha cho rồi

Nhưng linh hồn là mầm của sự sống

Từ bé xíu theo dần qua năm tháng

Thân xác lớn lên, linh hồn cũng trưởng thành

Năm tháng trôi qua, tôi được học hành

Được đào tạo để trở thành linh mục

Theo Chúa Kiô tôi thực hành nhân đức

Cùng vớii Người biến đổi nhân gian

Qua thời gian năm tháng yên hàn

Cùng sứ vụ tôi được phong giám mục

Nhờ ơn Chúa tôi cùng tiến bước

Cùng đồng hành với sứ vụ chủ chăn

Rồi đến lúc Chúa cho tôi ngừng việc

Ngoẳnh nhìn đời đã bảy sáu mùa thu

Tạ ơn Chúa không phải tôi bị mù

Mà là lúc tôi được chìm sâu trong Chúa

Khi tuổi hưu tôi vừa đúng lúc

Tôi được gọi mời sống đời ẩn tu

Bốn mươi năm trong sa mạc âm u

Tôi cảm nhận ân tình của Thiên Chúa…

Đời giám mục già nua khiếm thị

Trong xác thân như đứa trẻ tập đi

Sống tươi,sống đẹp chẳng phiền chi

Vâng Thánh ý ,tôi bền lòng trong Chúa

Cho đến hôm nay Ngài gọi tôi về

Linh hồn tôi trong sáng chẳng u mê

Trước Nhan Thiên Chúa tôi thật mãn nguyện

Khi tôi chết là thân xác trả lại đất

Chỉ còn linh hồn là bất tử muôn đời

Vậy ai không tin là không có linh hồn?

Không có Thiên Chúa làm sao có sự sống?

Khi tôi chết chính là lúc tôi sống

Chẳng già nua, chẳng bệnh tật chi

Thân xác tôi vùi chôn trong lòng đất

Sẽ tan ra theo hạt bụi của thời gian

Khi tôi chết người đời cho là mất

Nhưng kỳ thực ra tôi đi đến cõi trường sinh

Ngụp lặn trong ánh sáng quang vinh

Mình Chúa mình tôi tình đáp tình

Khi tôi chết là lúc tôi nhắm mắt

Để chia tay cùng bạn hữu gần xa

Nhưng khi tôi chết là lúc trở lại quê nhà

Vì chẳng có ai già mà không chết

Khi tôi chết chính là lúc tôi phải lìa xa

Để sống mãi trong vinh quang của Thiên Chúa./.

Kính tưởng niệm Đức cha Antôn Nguyễn Văn Thiện

Vị giám mục cao niên nhất thế giới.;

P.Trần Đình Phan Tiến

 

Đức khiêm nhường

Đức khiêm nhường

nguồn: thanhlinh.net

Tác giả: Trầm Thiên Thu

(Chúa nhật I TN, năm C – Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa)

Chúa Giêsu hoàn toàn không hề có tội vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn lãnh nhận Phép Rửa. Ngài để cho ngôn sứ Gioan làm Phép Rửa cho Ngài trong dòng sông Gio-đan vì Ngài muốn nêugương khiêm nhường cho chúng ta. Khiêm nhường rất cần cho bất cứ ai, vì khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức.

CAN ĐẢM ĐỂ LÀM GÌ ?

Thiên Chúa phán: “Hãy an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Chúa rất nhân từ, Ngài nói rõ là “an ủi” và “ngọt ngào khuyên bảo” người khác, chứ Ngài không bảo dùng “quyền” mà “hành” người khác, hoặc dùng “mệnh lệnh” mà “trấn áp” người khác. Lời Ngài rất đáng để chúng ta phải tự nghiêm túc xét lại mình.

Có tiếng hô to: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5). Sa mạc là nơi hoang vu, tĩnh mịch, vắng vẻ. Sa-mạc-tâm-hồn cũng rất cần cho chúng ta, đó là những giây phút tịnh tâm, nhất là những buổi tối, hoặc những ngày cấm phòng. Vì khi ở trong “sa mạc”, chúng ta có thể nhận biết mình rõ hơn, và nhờ đó mà có thể mở đường rộng, vạch đường thẳng, san núi đồi, lấp thung lũng, san bằng chỗ gồ
ghề,… để đến với Thiên Chúa và tha nhân.

Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: “Kìa Thiên Chúa các ngươi!” (Is 40:9). Lên cao và nói to, sống đúng sự thật thì không gì phải sợ ai. Chính Đức Kitô vẫn thường xuyên động viên: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc
12:32; Lc 21:9; Ga 6:20).

Tại sao không sợ? Ngôn sứ Isaia cho biết: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:10-11). Muốn “đừng sợ” thì phải có lòng can đảm, muốn can đảm thì phải tập bằng cách tự động viên mình. Hãy hít sâu, nắm chặt hai bàn tay, và thở mạnh,
cảm giác sẽ khác hẳn. Nhưng đừng quên hướng về Đức Kitô.

Hãy tự nhủ như tác giả Thánh vịnh: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!”, và thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1a). Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ rất khác biệt, không như bất kỳ thần thánh nào khác: “Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt, cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang. Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng, điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không. Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió” (Tv 104:1b-3).

Đoàn tùy tùng của Ngài cũng hoàn toàn kỳ lạ: “Sứ giả Ngài là làn gió bốn phương, nô bộc Chúa là lửa hồng muôn ngọn” (Tv 104:4). Các việc Ngài làm vô số và không ai khả dĩ hiểu thấu: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Nhận biết Thiên Chúa để chúng ta có thể đủ niềm tin, nhờ đó mà có thể can đảm hơn.

Không sinh vật nào lại không nhờ ân lộc Ngài trao ban: “Này đại dương bát ngát mênh mông, nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng, hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn” (Tv 104:25). Ngài không chỉ ban cho những điều cần thiết mà còn ban cho những điều vượt ngoài tầm tay của chúng ta, thậm chí Ngài ban cả những điều mà chúng ta chưa biết mở miệng xin: “Ngài ban xuống, chúng lượm về, Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước” (Tv 104:28). Thế mà nhân loại vẫn vô ơn, bạc nghĩa. Ngay chính chúng ta – những người vinh hạnh làm con cái Ngài – cũng vẫn thường xuyên bội bạc, làm được điều gì nhỏ nhoi đã tưởng mình tài giỏi mà dám vênh vang tự đắc, coi khinh người khác. Chúng ta chỉ là “số không” mà cứ tưởng mình là “cái rốn của vũ trụ”. Đó là ảo tưởng, là kiêu ngạo!

CAN ĐẢM ĐỂ KHIÊM NHƯỜNG

Nhà toán học Pythagore nói rất chí lý: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”. Là một bác học danh tiếng cả thế giới mà ông thấy vẫn chẳng là gì. Hoặc như Thánh Thomas Aquinas, Tiến sĩ Giáo hội, thông minh xuất chúng và viết nhiều sách giá trị, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae), thế mà ngài lại nói: ngài khiêm nhường cho biết: “Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác”. Còn khi người ta hỏi: “Làm thế nào để được cứu độ?”, Thánh Thomas trả lời ngắn gọn: “Phải khiêm nhường”.

Một hồng ân hiển nhiên mà chúng ta luôn cần thiết là không khí, nhưng chúng ta lại không coi đó là đại ân, hoặc cho đó là điều “dĩ nhiên”, là chuyện tự nhiên. Tác giả Thánh vịnh phân tích cặn kẽ: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Thế thì sao lại dám kiêu
ngạo chứ?

Thánh Phaolô nói rõ: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Ngài đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Ngài, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Như vậy, chắc chắn người-hăng-say-làm-việc-thiện là người-của-Chúa, vì Chúa là Đấng từ bi, nhân hậu, và giàu lòng thương xót.

Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, Ngài đã “biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại” (Tt 3:4).

Thánh Phaolô “nói toạc móng heo”, không hề úp mở: “Không phải vì tự sức
mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Ngài thương xót, nên
Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh
và đổi mới”
(Tt 3:5). Rõ ràng chúng ta chẳng có thể viện cớ gì để mà biện
hộ cho thói kiêu căng của mình. Tất cả là Hồng ân – Hồng ân nối tiếp Hồng ân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7).

Trình thuật Tin Mừng được Thánh sử Luca kể ngắn gọn nhưng súc tích: Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!

Nghe vậy, ông Gioan trả lời thẳng với mọi người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3:16). Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là con người khiêm nhường với câu nói nổi tiếng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Không đáng cởi quai dép chứ đừng nói chi “xách dép”.

Là người đời, nhưng F. Engels cũng đã biết nhận xét tinh tế: “Trang bị quý giá của con người là sự khiêm tốn và tính giản dị”.

Thánh Luca cho biết rằng khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu
phép rửa, và đang khi Ngài cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống
trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là
Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3:22). Chính Chúa Cha đã
công khai xác nhận Đức Giêsu Kitô là Con Yêu Dấu, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Quá
minh nhiên, không còn gì khả nghi nữa!

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết sống khiêm nhường và yêu thương để có thể đến với Chúa qua tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Vài Suy Niệm Bất Chợt Về Chúa Jesus Và Mẹ Maria

Vài Suy Niệm Bất Chợt Về Chúa Jesus Và Mẹ Maria

(01/08/2013)

Tác giả : Chu Tất Tiến

nguồn: Vietbao.com

Buổi sáng. Mưa nặng hạt. Những cành đào trụi lá yếu đuối, gầy guộc, như đang run lên, lạnh lẽo. Các đóa hồng hết mùa buồn bã chấp nhận những cánh mong manh rơi lả tả dưới chân. Những bông hoa xứ cũng bạc mầu đi, rũ rượi. Cả khu vườn chìm trong ảm đạm của cơn mưa dầm cuối năm làm cho không gian mang tính chết chóc, u ám đến rợn người.

Chết? Làm người, ai không chết? Cả cây cỏ, muông thú, cho đến núi đá cũng có
ngày bị sụp đổ. Sự sống, sự chết cứ thay nhau luân chuyển. Có những địa danh
nổi tiếng về du lịch trên thế giới đã từng là ngọn núi lửa hừng hực. Có những
vùng hồ nước xanh tươi lại từng là núi non sừng sững cách đây chỉ hơn trăm năm.
Mặt trái đất đảo lộn không ngừng. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn tiếp tục
đào xới dưới mặt đất để tìm ra những thành phố đã bị chôn vùi cả ngàn năm.
Người ta đang đi và sống trên biết bao nóc nhà, sinh mạng của các lớp người
trước mà không hề hay biết rằng mình đang dẫm chân lên biết bao hạnh phúc, khổ
đau, nụ cười, nước mắt, niềm vui của con người. Vũ trụ cứ xoay chuyển lặng lẽ
và vẫn bùng nở lên từng giờ, từng phút. Người ta cũng không để ý rằng ngày hôm
nay, khoảng cách của trái đất và các thiên hà mỗi ngày một xa nhau hơn, vì vũ
trụ vẫn nở lớn lên khủng khiếp. Nếu chỉ viết những con số về khoảng cách không
gian lên mặt giấy và đọc, chắc sẽ có nhiều người điên loạn vì sợ hãi.

Tất cả, từ vật chất đến tinh thần của con người, của vũ trụ đều thay đổi, hủy
hoại, thoái hóa, chỉ có một điều bền vững muôn đời: “Tình Yêu của Thiên Chúa!”
Đọc lại Thánh Kinh chân chính (không phải những sách Thánh mà đời sau, người ta
chế biến cho thích hợp với nhu cầu phổ biến của một số nhân vật), sẽ thấy rằng
Đấng Sáng Tạo vẫn luôn yêu thương con người qua mọi giai đoạn, vẫn cho con
người hạnh phúc, trên hết là “Hạnh Phúc Trí Tuệ” tức là được hiểu biết, thông
thái, được Tiến Hóa mãi trong Trí Tuệ. Càng ngày con người càng tìm ra những
điều mới lạ, và càng hiểu biết thì những người công chính lại càng kính sợ
Thiên Chúa hơn. Con người ngày nay biết thông cảm với những khổ đau của Thiên
Chúa, đại diện là Chúa Jesus, khi phải “xuống thế làm người và ở giữa chúng ta”
nhiều hơn khi trước. Chúa đã hy sinh xuống trần để cứu độ chúng ta thoát khỏi
vòng đau khổ. Những lời dậy của Chúa Jesus đã nâng con người lên một hàng cao
hơn cái tục lụy trần thế tầm thường và thoái hóa liên tục. Để đáp ơn Chúa, con
người đã viết rất nhiều về sự hy sinh của Chúa, nhất là về những nhục hình mà
Chúa phải chịu vì nhân loại, về sự đóng đinh đau đớn, căng da xẻ thịt, về những
mạo gai đâm sâu vào đầu nhức buốt kinh hoàng, về những đòn roi vút vào thân
thể, móc ra từng miếng thịt, hay về mũi đòng đâm suốt trái tim… Máu Chúa đã đổ
đầy trên mặt đất, thấm đen.

Nhưng có ai biết rằng có một nỗi khổ lớn lao hơn hết mà ít ai nhắc đến là nỗi
khổ của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo ra muôn vật và con người, lại phải hạ mình
“xuống” để sống chung với tạo vật của Ngài những 33 năm! Tưởng tượng một ông
chủ hãng chế tạo đồ chơi con nít, ngày nào đó phải biến thành chính món đồ chơi
đó, để giúp cho các đồ chơi biết chạy nhẩy tốt hơn…những 33 năm! Thống khổ hơn
cả là trong khi Chúa biết mình là “Chúa tể muôn vật” mà vẫn phải chấp nhận sống
bình thường như mọi vật, ngày qua ngày, ăn uống, sinh hoạt như những tạo vật
của mình, chờ đợi đúng 33 năm để viên mãn ý nguyện của Chúa là hy sinh cho nhân
loại, một nhân loại vô ơn và bội bạc. Những thế kỷ sau này, nhân loại càng xa
rời Chúa, chỉ biết đến quyền lợi, “sex”, tiền, và danh vọng nên tìm mọi cách
giết lẫn nhau hàng loạt, giết tập thể, giết cả một dân tộc, một giống nòi.
Người ta bây giờ nhạo báng Thiên Chúa bằng những khí cụ tinh vi hơn khi Chúa
còn ở thế gian rất nhiều. Đánh Chúa trên màn hình điện ảnh, chửi Chúa qua
Internet, làm nhục Chúa bằng các thứ đồ chơi điện tử, và giết con chiên của
Chúa bằng các vũ khí tinh vi… Nhưng độc ác hơn hết là biến một số tu sĩ yếu
đuối thành “yêu râu xanh” khiến cho các tín hữu khác dần dần mất niềm tin vào
Chúa. Thánh đường dần dần vắng bóng con chiên, cho dù Đức Mẹ, một Thiên Thần
trên Thiên Đàng đã hóa thân xuống thế, thành người nữ tên Maria để hạ sinh
Chúa, hiện nay vẫn còn khóc trên các bức tượng và vẫn làm phép lạ cứu người,
cũng không thấy số tín đồ đông hơn, mà chỉ thấy có nhiều vụ “scandals” trong
nhà thờ xấu xa hơn. Nói về Đức Mẹ, không khỏi không nghĩ đến sự đau khổ của Đức
Mẹ khi biết con trẻ mà mình sinh ra lại chính là Thiên Chúa mà mình thờ phụng,
nên phải hết sức tuân phục chính con của mình rồi phải chứng kiến người con của
mình bị làm ô nhục, bị đòn đánh rách da, phải vác cây thập giá nặng nề, ngã lên
ngã xuống rồi bị lột trần treo lên cây, máu và nước chẩy ra đầm đìa, rồi phải
vĩnh biệt con mình, Chúa của mình, đi vào cõi chết âm u…

Ôi! Những nỗi đau đứt ruột, xé da, tim thắt của Chúa Jesus và Mẹ Maria, có bút
nào diễn tả được, có phim ảnh nào nói lên đầy đủ được? Vậy mà ngày nay, thiên
hạ vẫn trâng tráo làm những nỗi đau ấy cứ dầy lên, tưởng ngập chín tầng trời
bằng những chém giết tàn bạo, bằng sự ghen ghét, đố kị, hận thù luôn muốn tiêu
diệt người khác. Có kẻ còn vác tượng Chúa đi đánh nhau, muốn đập tan lòng tin
tưởng vào tôn giáo khác, muốn máu của người khác tôn giáo đổ ra ngập đường thì
lòng mới thỏa thuê, vui sướng…

Còn biết bao người thật tâm yêu Chúa, thật tâm phụng sự Chúa trong cõi đời ô
trọc này? Hay chỉ yêu Chúa vì lời Chúa hứa: “Hãy xin thì sẽ được. Hãy gõ thì
cửa sẽ mở.” Xin được thì cười vui. Nếu xin không được, thì phẫn nộ, đổ hết tội
cho Chúa…

Ngoài trời, mưa vẫn rơi nặng hạt.

Chu Tất Tiến,

ngày cuối năm 2012.

 

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người (3)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người (3)

Đăng bởi lúc 2:39 Sáng 9/01/13

nguồn:Chuacuuthe.com

VRNs (09.01.2013) – Sàigòn

Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người

Trong một chuyến xe lửa ở xứ xa lạ, nếu một người đồng hành  chỉ một đứa trẻ tầm thường đang đùa chơi với chúng bạn trên đường đầy cát bụi và bảo với ta: em bé ấy chính là Đấng Tạo Thành vũ trụ, Đấng muôn dân mong chờ, đấng sẽ giải phóng nhân loại, Đấng mọi người phỉa kính mến phụng thờ, Đấng sẽ xét xử trần gian,chắc chắn chúng ta sẽ nhún vai mỉm cười rồi thản nhiên tiếp tục đọc báo.

Thế nhưng cách đây gần hai ngàn năm, trên đất Do Thái, giữa một đêm giá lạnh, một hài nhi tên là Giêsu đã sinh ra trong hất hủi và nghèo túng, một hài nhi yếu đuối, mỏng manh, cần đến sự che chở của mẹ mình, phỉa bú mớm, ngủ nghỉ như các hài nhi khác. Đến khi khôn lớn Giêsu cungu cung cắp sách đi học, cũng đùa chơi với các trẻ cùng xóm. Lúc thành niên, vì cảnh túng thiếu của gia đình, Giêsu phải theo học nghề thợ mộc để nuôi mẹ nuôi thân. Sau 30 năm, sống một đời sống bình thường như bao nhiêu người khác, Giêsu đã đi rao giảng Nước Trời, triệu tập được một ít đồ đệ , nhưng sau cùng đã bị giới lãnh đạo Do thái nộp cho trấn thủ Roma và lên án tử hình trên
thập tự giá. Nói tóm, xem bên ngoài, Giêsu là một người Do thái trăm phần trăm
giữa những người Do thái khác.

Nhưng Thánh Kinh cho chúng ta hay con người Do Thái ấy chính là Ngôi Lời Thiên Chúa hằng sống: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga,1,1) Người là Đấng tạo thành vạn vật: “Mọi vật do Người mà có, và nếu không nhờ Người, sẽ không có vật nào” (Ga,1,3). Chính Người là sự sống, là ánh sáng trần gian: “Ngôi Lời là sự sáng thật soi chiếu mọi người” (Ga,1,9). Người là Đấng muôn dân mong chờ, là Đấng giải phóng nhân loại, là Đấng xét xử chúng ta, là Đấng chúng ta phải phụng thờ, vì đó là chính “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga,1,14) – Thánh Gioan đã cảm động nói lên sự lạ ấy: “Điều đã có từ đầu, điều chúng tôi đã từng nghe, điều chúng tôi đã từng thấy tận mắt, điều chúng
tôi đã ngắm nhìn và tay chúng tôi đã sờ đến đó là LỜI HẰNG SỐNG. Quả thật SỰ
SỐNG đã tỏ hiện, chúng tôi đã từng thấy, chúng tôi chứng thật và chúng tôi loan
truyền cho anh em SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI hằng có với CHÚA CHA và đã tỏ ra cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã từng thấy và từng nghe, chúng tôi loan truyền cho cả anh
em nữa, ngõ hầu anh em được hiệp thông với chúng tôi, nhưng sự hiệp thông của
chúng ta là thông điệp với CHÚA CHA và với, ĐỨC GIÊSU KITÔ con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra, ngõ hầu sự vui mừng của chúng tôi được nên trọn”
(1 Ga 1,4).

Thiên Chúa là người, đã ở giữa chúng ta, nhưng loài người không nhìn nhận: “Người ở trong trần gian, trần gian đã được Người tạo dựng nhưng trần gian lại không biết Người. Người đến giữa dân Người, nhưng dân Người không đón nhận” (Ga,1,10). Vì sao dâ Người không đón nhận? Là vì lời hứa của Thiên Chúa không thực hiện như ý họ: họ mong một đế quốc giàu mạnh, đuổi được quân xâm lăng, nhưng Chúa lại đến trong yếu hèn và nghèo khó. Thiên Chúa hiện diện trong nhân loại, nhưng đối với một số đông, hình như Người không có mặt, vì họ không biết nhận chân tướng của Người. sự vinh hiển của Thiên Chúa thì khác sự vinh hiển do trí óc ta nghĩ ra. Ta không thể nhìn nhận những giá trị của Thiên Chúa, nếu ta cứ bo bo với những tư tưởng hẹp hòi của con người. ta cần phải đưa mắt cao hơn chân trời của ta, để nhìn
lên một chân trời mới, phải bỏ nơi đồng bằng để hưởng cảnh huy hoàng của núi
non hùng vĩ. Ta không thể đi tới Chúa, nếu ta chỉ đi con đường của con người.
ta phải bỏ mình, bỏ đường lối của mình, bỏ ý định của mình. Phải đi sâu vào
trong nơi sâu của cõi lòng, phải từ bỏ những gì kéo mình lại, phải bỏ tất cả
những gì cản trở mình đến với Chúa. Chúng ta chỉ đến với Chúa lúc chúng ta biết
bỏ chỗ chúng ta muốn ở mãi mãi. Quá bám vào con người của mình, vào những cái
mình có, ta sẽ quên sự hiện diện của Chúa, ta sẽ chống đối Chúa, xua đuổi Chúa
và muốn ghiết Chúa. Con Thiên Chúa làm người, đã bị dân mình xua đuổi, đã chết
trên thập giá.

Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta gần 2000 năm nay. Nhưng cũng như dân Do Thái, loài người không đón Chúa, xua đuổi Chúa. Trong giây phút thiêng liêng của đêm Giáng Sinh năm nay, chúng hãy mở rộng lòng để đón Người và tin chắc rằng: “NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI Ở GIỮA CHÚNG TA”.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 151 – 12/1961

“Những xác Thánh không hư nát”,

Cuốn sách “Những xác Thánh không hư nát“, có tiểu sử và hình chụp,
Có những thi thể không bị rữa nát qua thời gian dù không trải qua bất cứ sự can thiệp kỹ thuật nào. Hiện tượng có vẻ đi ngược với quy luật tự nhiên này được gọi là nhục thân bất hoại (incorruptible body).
Thánh Bernadette (Lourder, Pháp) là một ví dụ điển hình. Bà qua đời ở tuổi 35. Và 30 năm sau đó (1909), vì một nghi lễ tôn giáo, nhà thờ đã khai quật mộ. Đại diện nhà thờ, bác sĩ phẫu thuật và những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc khi thấy thi thể của bà vẫn nguyên vẹn, dường như đang trong một giấc ngủ dài.
Thánh Bernadette trong quan tài pha lê
Bác sĩ phẫu thuật Tourdan đã ghi lại những gì ông quan sát được: “Cỗ quan tài
của bà được mở ra dưới sự chứng kiến của mọi người trong đó có tôi. Di hài của
Thánh Bernadette trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú uế. Khuôn
mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu của bà nghiêng sang một bên,
miệng hé mở có thể nhìn thấy hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, vẫn giữ
được lớp da hoàn hảo”. Gia đình của Thánh Bernadette đã làm lễ tắm rửa, thay
quần áo và quan tài cho bà. Di hài của bà được đặt vào một vị trí mới sâu trong
nhà mồ.
Vào năm 1913, Đức Giáo Hoàng Pius X phong Chân Phước cho Bernadette. Điều này
đồng nghĩa với việc mộ của bà được mở ra một lần nữa. Việc này bị gián đoạn đến
năm 1919 vì cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều kinh ngạc là ở lần khai
quật này, di hài của bà vẫn nguyên vẹn.
Năm 1925, Thánh nữ Bernadette được Đức Giáo hoàng Pius XI phong Thánh. Lần thứ
ba, mộ bà được mở ra. Di hài được đưa vào một quan tài bằng pha lê cho mọi
người chiêm ngưỡng và quàn tại nhà nguyện ở Nhà thờ Lourder cho đến tận ngày
nay vẫn còn, nếu có dịp xin mời các bạn đến thăm để được tận mắt chứng kiến.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (Đấng triệu tập Thánh Công Đồng Chung Vatican II năm 1962). Ngài qua đời ngày 03/06/1963 khi Công Đồng vẫn đang diễn ra, và sau đó Đức Hồng Y Montini lên ngôi với hiệu triều Đức Thánh Cha Phaolô VI tiếp tục Thánh Công Đồng.
Thi hài của ĐTC John XXIII được đặt ngay bên dưới chân bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô để dân chúng chiêm ngắm
38 Năm sau ngày ngài băng hà, Tòa Thánh tiến hành các thủ tục tôn phong Chân
Phước cho ngài, khi mở quan tài để kiểm tra thì phát hiện xác chết của ngài
không hề mảy may hư nát và thối rữa. Thời gian sau, ngài được tôn phong Chân
Phước (Beautification) .
Hiện nay, thi hài của ĐTC Gioan XXIII đã được đưa lên đặt trong 1 quan tài bằng
pha lê bên dưới bàn thờ chính của Đền thờ Thánh Phêrô để dân chúng có thể kính
viếng và chiêm ngắm. Nét mặt ngài vẫn giữ nguyên sức sống và cơ thể không hề bị
tẩm ướp bằng bất cứ loại hóa chất nào. Hầm mộ cũ trước đây nơi đặt quan tài của
ngài bây giờ đã được thế chỗ bằng quan tài của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Thi hài Đức Thánh Cha John XXIII
THÁNH JOHANNES MARIA VIANNEY – Pfarrer von Ars ( Cha Xứ thành Ars)
Thánh „Cha xứ thành  Ars“ sinh ngày 8.5. 1786 tại làng bên cạnh thành phố Lyon. Ngài sông vào thời gian cách mang Pháp. Ngài đã đón nhận buổi rước lễ vỡ lòng tại tư gia Cha mẹ là một tiệm đã bị đóng cửa. Ban đầu Ngài đã làm việc phụ giúp Cha mẹ trong nông trại. Ngài bắt đầu vào chủng viện để học ra linh mục khi 19 tuổi. Mặc dù không phải là không có khả năng, nhưng luôn luôn bị khó khăn, thất bại trong đường
học vấn. Mặc dù thế Ngài vấn được thụ phong Linh mục, vì lòng rất ngoan đạo
(1815).
Cha Xứ thành Ars sống đời sống rất khó nghèo. Ngài đã biến Giáo xứ bê bối thành một giáo xứ đạo đức. Ngài đã giải tội, giảng dạy, chăm sóc các linh hồn ngày và đêm. Dân chúng vô kể đã dến tìm Ngài để xin cố vấn và giúp đỡ.
Mặc dù Ngài rất kính trọng thiên chức Linh mục, nhưng vẫn cảm thấy không khó
vượt qua được nhiều cám giỗ, nếu hội đồng giáo xứ không yêu cầu, Ngài đã vào
dòng kín. Ngài mất vào ngày 4.8.1859 và được an táng tại thành Ars.
Đức giáo hoàng Pius XI đã phong thánh và tuyên bố Ngài là Thánh quan thầy của
các Linh Mục.
Thánh Francis Xavier [Phanxicô Xaviê] (1506-1552) được chôn cất tại
một đảo ở Trung Quốc trong quan tài bằng gỗ. Khoảng 2 tháng rưỡi sau, người ta
khai quật mộ ngài để di chuyển, thấy thánh thể vẫn như lúc sống. Hiện nay di
hài 400 năm tuổi của ngài vẫn còn nguyên và được lưu giữ tại thành Goa (Ấn Độ).
Di hài Thánh Francis Xavier [Phanxicô Xaviê]
Di hài Thánh Vincent de Paul [Vinhsơn Phaolô]
Katharina Labouré
1947 Bà đã được phong thánh. Thân xác của bà không hề hư hỏng và đang nghỉ ngơi trong lồng kính tại nhà nguyện Đức Mẹ hiện ra ở Rue du Bac , Paris. Bà chết ngày 31.12.1876.
Katharina sinh ngày 2.5.1806 tại Fain les Moutiers, trong một làng nhỏ thuộc Burgund, cách thành phố Dijon 60 km. Sr. Katharina là người con thứ 8 trong tổng số 10 anh chị em. Sau khi bà mẹ mất lúc 12 tuổi, Sr. đã đảm trách nông trại.
Dấu hiệu Chúa gọi từ từ tỏ ra, 1830 Katharina đã gia nhập nữ chủng viện Vinh-Sơn (Vinzentinerinnen) , 140 đường Rue du Bac ở Paris lúc 24 tuổi. Tại đây Sr. có nhiều kinh nghiệm về cõi siêu hình, thiêng liêng huyền bí. Từ khi còn nhỏ, Sr. đã chọn Đức Trinh nữ  Maria làm mẹ, giờ đây chính Đức mẹ đã hiện ra với Sr.
Nhà Nguyện nơi Đức mẹ đã hiện ra với Sr. Katharina, bên tay trái là xác Sr. Katharina. Trong đêm18 rạng 19.7.1830 Sr. đã đối thoại với Đức Mẹ hơn 2 tiếng đồng hồ: „Con hãy đến chân của bàn thờ“ và Đức Mẹ đã giải thích về ý nghĩa của cầu nguyện và Thánh  lễ Misa.
Ngày 17.9 cùng năm đó, vào lúc 17 giờ 30, là giờ suy niệm chung ở trong nhà
nguyện, Đức Mẹ Maria đã tín nhiệm giao cho mệnh lệnh loan tin cho thế giới. Đó
là một huy hiệu với dòng chữ: “Lạy Mẹ Maria, vô nhiễm nguyên tội, xin cầu
xin và che chở chúng con“.
Di hài Thánh Catherine Laboure (1806-1876)
Nữ thánh Klara của thành phố Assisi

Bà Thánh thành Assisi, sinh năm 1194. Khấn trọn đời lúc 18 tuổi. Lập dòng Klarissinen khó nghèo,và khiêm nhường. Sau này Mẹ và em gái của bà cung vào tu tại đây. Ngay khi còn sinh tiền nhà dòng của bà đã được phát triển khắp mọi nơi trong và ngoài nước ý. Bà mất ngày 11.8.1253. Thân xác vẫn còn tồn tại yên nghỉ tại nhà thờ của thành Assisi.
Nữ Á Thánh Anna Maria Taigi
Sinh Ngày 29.5.1769 tai Siena (Italy)
Mất ngày 9.6.1837 tại Rôma
Anna Maria Taigi đã được nhận ơn tiên tri của chúa 25 năm liền. Bà mẹ của 7
người con đã thị kiến thấy một vòng hào quang quanh mặt trời, trong tâm điểm
của mặt trời bà thấy được mọi chuyện quá khứ, vị lai của nhân
Trong cuộc sống của bà, bà sống cuộc đời ăn năng đền tội và chay tịnh
Anna Maria Taigi mất khi 68 tuổi tại Rôma và được Đức Giáo Hoàng Benedikt XV
phong á thánh vào ngày 30.5.1920.
Thánh Johannes Bosco (Don Bosco)
Tên thật là Giovanni Bosco, sinh ngày 16.08.1815 tại Becchi ở Piemont (Norditalien) , thụ phong Linh mục năm 1841.
Lúc sinh tiền Ngài đã thành lập nhà dòng Salêsiêng (Salesianer) 1859, chuyên chăm sóc các thanh thiếu niên bụi đời, huấn nghệ và học hỏi Lời Chúa.Ngài có ơn tiên tri, và được coi như thánh sống.
Năm 1866 xây nhà thờ Salesianer và mộ ngài cũng nằm tại đây (31.01.1888) . Hiện nay xác Ngài được bỏ vào lòng kính để mọi người có thể thăm viếng cầu nguyện.
Có rất nhiều trường hợp các Thánh khác xác không thối rữa và hư nát, ngược lại
còn bốc mùi của hương hoa hồng như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thánh Martinô
de Porrés…nhưng không liệt kê ra ở đây vì chưa kiếm thấy tài liệu hình ảnh.
SAN GIOVANNI ROTONDOMột trong những vị thánh đương thời được coi là thi hành nhiều phép lạ nhất là Padre Pio. Sau 40 năm hôm qua xác ngài lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới được đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện.

Lớp sáp phủ lên mặt thánh Piô hiện tại

Hai mắt nhắm lại và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ. Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ hôm qua, 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh
đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng.
Hôm qua có tới 15,000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử
hành khi xác của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Xác của Cha thánh Piô được
khai quật hôm 3/3/2008 cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn
cất. Từ ngày có đến nay một nhóm chuyên gia gồm bác sĩ và chuyên ngành hóa chất
đã làm việc tận tình đễ duy trì và tái thiết xác ngài hầu giữ xác lâu dài và
bảo tồn để cho dân chúng đến kính viếng.
Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý và là
một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
– cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng
đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng
qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn
băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn;
– cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha
vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu
vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại
miền Nam Ý.

Thi hài thánh Padre Piô hiện quàn tại San Giovanni Rotondo

Ba vị Giáo Hoàng đã kết án cha là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.
Theo lời Đức Giám Mục D’Ambrôsiô thì “thi hài thánh Padre Piô hầu như không bị hủy hoại… Tuy nhiên năm dấu đanh trên mình thánh nhân đã hoàn toàn biến mất.”
Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng khuôn mắt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silikon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.
Anh Nguyễn V Thập gởi

TRÍ NHỚ GIẢM SÚT PHẢI LÀM SAO?

TRÍ NHỚ GIẢM SÚT PHẢI LÀM SAO?

Bài viết của hai bác sĩ Mehmet Oz và Michael Roizen

Đôi lúc, bạn có cảm  giác mất trí nhớ tạm thời nên chẳng biết mình đang và cần làm gì? Càng lớn  tuổi, con người càng hay quên.

Đó là lý do bạn nên quan tâm, chăm sóc cho “bộ nhớ” của mình từ bây
giờ.

Trí nhớ và hoạt động trí tuệ nói chung là chức năng thần kinh cao cấp của con
người. Ở mỗi người, trí nhớ lại có những phương thức hoạt động phù hợp với
hoàn cảnh nghề nghiệp, gia đình, vị thế xã hội của họ.

Trí nhớ ngắn hay dài hạn đều phụ thuộc vào não bộ.

Người ta phân biệt hai loại trí nhớ ngắn hạn và dài hạn. Trí nhớ ngắn hạn là
khả năng lưu giữ những thông tin mới tiếp nhận trong vài giây, trước khi nó
được củng cố để giữ lại lâu dài. Trí nhớ dài hạn là quá trình lưu giữ các
thông tin tiếp nhận được và con người có thể nhớ tới chúng sau một thời gian.

Dù ngắn hay dài hạn, việc hình thành và duy trì trí nhớ đều trông cậy vào một
khu vực nằm sâu trong não bộ, gọi là vùng hippocampus. Bên cạnh nó là vùng
hạnh nhân (amygdala), tạo cảm xúc, in dấu những ký ức của mỗi người. Lớp
ngoài của võ não lưu giữ trí nhớ dài hạn ở những khu vực khác nhau nhờ những  loại hình thông tin đa dạng như ngôn ngữ, cử chỉ, cảm giác…

Để những vùng nói trên hoạt động hiệu quả, các động mạch nuôi não phải thông  suốt để não có đủ ô-xy, năng lượng, các chất dẫn truyền thần kinh không thiếu  hụt và các “khớp thần kinh” (synase) được bảo tồn.

Tuy nhiên, trong thực tế, những điều kiện đó dễ bị xâm hại do tác động của
nhiều yếu tố, khiến chúng ta sa sút trí tuệ, mất trí nhớ, bị bệnh Alzheimer,
Parkinson…

Những phương pháp cải thiện trí nhớ hiệu quả:

Kẻ thù nguy hiểm nhất của trí nhớ là stress. Trong gia đình cũng như ngoài xã
hội, mọi người đều chịu nhiều áp lực. Không ít người bị stress trầm trọng
khiến cơ thể phóng thích nhiều cortisol (hormone stress), làm tổn thương vùng  hippocampus.

Mặt khác, stress còn làm giảm, thậm chí mất tập trung. Ngoài ra, cortisol còn
thúc đẩy việc sản xuất insulin, ngăn không cho vùng hippocampus sử dụng đủ
đường huyết để não có năng lượng cho việc ghi nhớ. Hơn thế stress còn gây khó  khăn cho việc “truy cập” ký ức đã được lưu giữ.

Dưới đây là các cách giúp cải thiện trí nhớ.

1.Hóa giải stress bằng phương pháp thiền hay yoga.Đây là cách gỡ bỏ
các áp lực, làm trùng giãn tâm thần, tăng khả năng tập trung… Ngoài ra, bạn
có thể luyện tập thể lực ngoài trời như bơi lội, đi bộ, đạp xe, tập  aerobic… Hoạt động thể lực chính là biện pháp đốt cháy stress, vì chúng cho  tim tăng cung lượng máu tới não và các phủ tạng, khiến tinh thần phấn chấn,  sảng khoái.

2.Tập thể dục cho não bằng cách đọc sách, báo, lướt các trang web lành  mạnh và bổ ích. Đồng thời, bạn nên chơi các trò chơi trí tuệ như ô chữ,
cờ tướng (hoặc cờ vua), học ngoại ngữ hay chơi một loại nhạc cụ nào đó…
Cách này làm tăng lượng ô-xy tới não, thúc đẩy quá trình dịch chuyển từ bộ
nhớ ngắn hạn sang dài hạn.

3.Một chế độ dinh dưỡng đầy đủ và cân đối, nhiều rau, trái cây, giúp
tăng cường các chất dinh dưỡng như lecithin (có trong dầu đậu nành, trứng,
lạc, mầm lúa mạch, gan), vitamin C (trong cam, chanh, rau, quả) và các
vitamin nhóm B (trong gan, thận, thịt nạc, sữa, yoghurt). Tất cả các chất này
hỗ trợ cho việc sản xuất chất dẫn truyền thần kinh acetylchline.

Các a-xít béo omega-3 như DHA được coi là “thức ăn của não”.. Chúng
có nhiều trong các loài cá biển vùng nước lạnh như cá hồi, các trích… giúp
bù đắp một lượng đáng kể chất xám của não. Chất béo trong não làm thành các
màng tế bào và giữ vai trò quan trọng trong hoạt động sống còn của tế bào
não. Các nơ-ron thần kinh cũng rất giàu a-xít béo omega-3 còn giúp cân bằng
xảm xúc lành mạnh và tâm trạng tích cực ở người cao tuổi. DHA cũng là thành
phần chính của các “khớp thần kinh”.

Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy, các chất chống ô-xy hóa từ rau, trái
cây, các quả mọng (mâm xôi), khoai lang, cà chua, bông cải xanh, củ cải
đường, cam, nho, quả cherry, kiwi, gấc… làm giảm đáng kể nguy cơ suy giảm
trí nhớ di chứng trung hòa hoặc vô hiệu hóa các gốc tự do. Ngoài ra, các chất
chống ô-xy hóa còn cải thiện dòng chảy ô-xy qua cơ thể và não.

Với những người cao tuổi, chế độ ăn hạn chế năng lượng xem ra rất hữu ích. Họ
sẽ tránh được các nguy cơ thừa cân, béo phì, dẫn tới những bệnh mạn tính như
cao huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch… Chúng không những đe dọa khả  năng ghi nhớ mà cả sinh mạng người cao tuổi.

Não có chừng 50% nước cho nên bạn phải uống đủ nước (1.500-2.000ml mỗi ngày)  để thủy hợp (hydrate hóa) não dễ dàng. Thiếu nước hoặc mất nước nhẹ có thể  làm gia tăng hormone stress, khiến não bị tổn thương, giảm thiểu trí nhứ. Bạn  có thể uống nước sôi để nguội hoặc nước trà. Trong trà có nhiều chất tăng thư  giãn tâm thần, tăng sự lanh lợi, hoạt bát… Thế nhưng, bạn cần tránh uống  trà đặc vào buổi tối vì có thể dẫn đến mất ngủ.

Mỗi ngày, bạn nên uống một đến hay ly rượu vang đỏ. Chúng có tác dụng làm
giãn nở mạch máu. Các chất chống ô-xy hóa trong rượu còn bảo vệ tế bào não,
qua đó cải thiện trí nhớ của bạn. Tuy nhiên, không nên lạm dụng rượu vì uống
nhiều làm tăng cholesterol, nguy cơ xơ vữa động mạch và cản trở dòng máu tới
não. Các nghiên cứu của Đại học Harvard, Mỹ, đã chứng minh, người lạm dụng
rượu thường kém tập trung. Khi tham gia những thử nghiệm về nhận thức, họ kém  hơn hẳn những người uống rượu vang có chừng mực.

4.Phải tạo được giấc ngủ tốt để giúp não củng cố trí nhớ ngắn hạn
cũng như dài hạn. Nghiên cứ của Đại học Lubeck , Đức, đã cho thấy sự sáng tạo
và khả năng giải quyết vấn đề có liên quan mật thiết đến giấc ngủ đầy đủ của
mỗi người. Chứng mất ngủ hay chứng ngừng thở khi ngủ làm cho người ta mệt mỏi  nên không thể tập trung.

5.Kiểm soát tốt những căn bệnh mãn tính như cao huyết áp, đái tháo đường… cũng  là một giải pháp hữu hiệu để tăng cường trí nhớ.

6.Lối sống tích cực, lạc quan, cởi mở có tác động rất lớn trong  việc giảm thiểu nguy cơ trầm cảm, nhất là đối với phụ nữ tiền mãn kinh, mãn  kinh và những người lớn tuổi. Đồng thời, cách này còn cải thiện đáng kể trí  nhớ và các hoạt động trí tuệ nói chung. 

Bài viết của hai bác sĩ Mehmet Oz và Michael Roizen

Nguyễn Minh Tâm dịch

   

Sáu Bước Đơn Giản Để Giữ Đầu Óc Minh Mẫn

Phúc trình mới nhất của chính phủ cho biết rằng thuốc bổ (supplements), hay thuốc
chữa bệnh không giúp gì được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer, tức là
bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng
phải, giống như trường hợp của cựu Tổng thống Ronald Reagan.

Nhưng nếu chúng ta đọc thật kỹ phúc trình của chính phủ, để ý đến những dòng chữ nhỏ, chúng ta sẽ tìm thấy được nhiều thông tín hữu ích trong việc gìn giữ những tế bào chất xám trong đầu không bị lão hoá.

Sự thực được báo cáo này đưa ra cho chúng ta thấy là không có hồ sơ bằng chứng nào cho biết thuốc chữa bệnh, hay thuốc bổ đem lại ích lợi cho việc chống lại căn bệnh quái ác này. Nhưng ngược lại, phúc trình đó lại đưa ra những bằng chứng rõ ràng là nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên não dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ.

Bản phúc trình không giải thích vì sao. Nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rõ: Không phải mọi hiện tượng mất dần trí nhớ- dementia- đều trở thành bệnh Alzheimer. Nhưng đầu óc của chúng ta trở nên cùn lụt khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau. Yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu, vì mạch máu bị tắc nghẽn, hay bị hở, gọi chung là vascular dementia..Trong cả hai trường hợp đều khiến cho trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ của chúng ta trở nên loạng quạng (fuzzy), hậu quả bởi việc óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar).

Nhiều bệnh nhân của căn bệnh Alzheimer không ít thì nhiều đều vướng phải tình trạng vascular dementia. Những trở ngại khi suy nghĩ mà các cụ già gặp phải phần lớn vì máu không đưa lên đầu dễ dàng. Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này, hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên não bộ đuợc thông tuông dễ dàng.

Phòng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những gì để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng.

1- Mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10,000 bước đi:Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc. Phân bón tự nhiên cho não bộ chính là máu đưa lên đầu. Mỗi ngày ráng bước đi khoảng 10,000 buớc chân, bằng cách này hay cách khác để máu từ tim đi lên đầu. Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít
nhất ba lần một tuần tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer . Bạn
có thể làm một trong những hoạt động sau đây tùy theo sở thích của mình: Đi bộ,
Làm Vườn, hay Khiêu vũ.

2- Ăn thục đơn có nhiều rau và hoa quả như người Hy Lạp: Rau tươi, trái cây
tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất “flovonoids” giúp tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu nhóm đàn ông đàn bà thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê, hay rượu nho, có nhiều chất flovonoids. Họ thường có não bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi. Và sự suy sụp của não bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76% bệnh lú lẫn, hay mỗi ngày uống khoảng 900 mg thuốc bổ để thay thế rau, sẽ giúp tăng sự bén nhậy của trí óc, và giúp trẻ thêm được khoảng 3.5 tuổi.

3- Hay ăn thực đơn của dân Địa Trung Hải: ăn uống hàng ngày giống thực đơn của người Ý và người Hy Lạp, gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá, và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt.

Ăn theo kiểu dân Điạ Trung Hải sẽ giúp đầu óc minh mẫn sáng suốt tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48%.

Cương quyết từ bỏ những thói hư, tật xấu như hút thuốc lá, và nghiện rượu. Thuốc lá chứa độc tố rất hại cho não bộ, vì thế người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80%.

4- Đừng uống rượu mạnh quá độ. Đa số những người nghiện rượu đều vướng vào bệnh Alzheimer. Đàn bà chỉ nên uống rượu tối đa mỗi ngày một ly thôi. Đàn ông đuợc uống tới hai ly. Uống một chút  rượu có lợi cho việc gìn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25% người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu.

5- Ráng duy trì huyết áp ổn định ở mức thấp: Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính vì vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50% trường hợp gây ra lú lẫn, hư trí nhớ. Chúng ta hãy ráng duy trì huyết áp ở mức thấp – lý tưởng là 115/75 – bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, giữ trọng lượng thân thể thấp, đừng để lên cân, béo mập. Nên theo dõi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường, hay thậm chí sắp sửa bị tiểu đường cũng là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, gây ra bệnh lú lẫn. Bệnh tiểu đường dễ làm các mạch máu nhỏ bị hở, và chảy máu trong não.

6- Tránh đừng để bụng phệ: Vòng bụng ở tuổi trung niên to báo hiệu trước có thể bị vướng bệnh lú lẫn khi về già. Cuộc nghiên cứu theo dõi 6,000 người đưa ra kết quả cho thấy cái bụng phệ rất hại cho động mạch chính dẫn máu về tim, và máu lên đầu. Vì thế cho nên chúng ta nên cố gắng duy trì vòng bụng dưới 35 inches cho các bà, và dưới 40 inches cho các ông.

Chỉ có một bộ phận nên gìn giữ cho to lớn. Đó chính là não bộ của bạn..

Nguyễn Minh Tâm dịch theo S.F Examiner

__._,_.___

Việt Nam xét xử 14 người Công giáo và Tin Lành

Việt Nam xét xử 14 người Công giáo và Tin Lành

14 thanh niên Công giáo và Tin Lành bị cáo buộc ‘thực hiện các hành động nhằm lật
đổ chính quyền’ (ảnh: thanhnienconggiao)

 

nguồn: VOA Tiếng Việt

08.01.2013

Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An hôm 8/1 đã tiến hành xét xử 14 người, trong đó có 12 người Công giáo. Họ bị chính quyền cáo buộc thực hiện các hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

Một trong các luật sư tham gia bào chữa, ông Trần Thu Nam cho VOA Việt Ngữ biết
rằng vụ xử hôm 8/1 đã kết thúc phần xét hỏi và đã chuyển sang phần tranh luận.

Luật sư Nam cho biết: “‘Viện Kiểm sát đã phát biểu những lời luận tội của mình và các luật sư đã đưa ra quan điểm. Việc tranh luận tại phiên tòa chấm dứt do hết giờ. ”

Trong khi đó, báo chí trong nước đưa tin, đây là phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự ‘Hồ Đức Hòa cùng đồng phạm hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân’.

Tờ báo này cũng đưa tin là có hàng trăm Công an tỉnh Nghệ An tham gia bảo vệ
phiên tòa.

Các tin tức trên các trang mạng xã hội cho biết đã xảy ra xô xát giữa người thân các bị cáo và lực lượng an ninh.

Những hình ảnh đăng trên các trang blog cho thấy người nhà của những người bị
đưa ra xét xử đứng đối mặt với các nhân viên bảo vệ bên ngoài tòa án.

Tờ báo dẫn lời cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An gọi 14 người
vừa kể là ‘đường dây tội phạm được tổ chức Tân Việt huấn luyện tại Thái Lan,
Campuchia, Philippines và Mỹ từ năm 2010’.

Luật sư Nam cũng cho biết rằng tất cả các bị cáo đều bị cáo buộc là thành viên
của tổ chức hoạt động ở hải ngoại.

Ông Nam nói: “Luật sư chúng tôi phản bác rất là nhiều. Có 4 luật sư thay
nhau đưa ra quan điểm cho rằng một số bị cáo không tham gia Đảng Việt Tân. Cái
thứ hai là không đủ cơ sở để kết tội các bị cáo đã tham gia đảng Việt Tân. Chưa
đủ chứng cứ và có một số những cái trình tự thủ tục tố tụng còn thiếu và có vi
phạm cho nên Luật sư Hà Huy Sơn thì nói rằng các bị cáo không có tội. Luật sư
Nguyễn Thị Huệ nói bị cáo Sơn không có tội. Còn quan điểm của tôi thì cho rằng là
với những cái chứng cứ trong hồ sơ thì chưa đủ kết tội các bị cáo. Nếu như cần
làm rõ hơn thì cần thiết phải trả lại hồ sơ và bổ sung tất cả các chứng cứ cần
thiết và làm rõ những cái vi phạm tố tụng mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã
vi phạm.”

Được biết, các bị cáo chưa lên tiếng trong phiên xử hôm nay vì hết giờ. Phiên
xử sẽ tiếp tục vào ngày mai, 9/1.

Việt Tân chưa lên tiếng trước cáo buộc mới nhất đối với họ.

Chính quyền Hà Nội coi Việt Tân là một tổ chức khủng bố, nhưng tổ chức hoạt
động ở hải ngoại này từ trước tới nay luôn bác bỏ tố cáo đó.

Các tổ chức nhân quyền quốc tế cho rằng Việt Nam tống giam những người bày tỏ
quan điểm một cách ôn hòa, nhưng Hà Nội cho rằng chỉ những người vi phạm pháp
luật mới bị trừng phạt.

Nguồn: VOA’s interview

Quả tim đầy thương tích

Quả tim đầy thương tích
tocngan k1
WGPSG — “Một chàng trai ngạc nhiên nhìn ông lão vẽ hình trái tim, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh khác nhau. Chàng trai thắc mắc:

– Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao cụ lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim
lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?

Ông cụ mỉm cười rồi nói:
– Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thực sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người tình cờ mà tôi gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim
này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ cho tôi bao giờ cũng
lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vào nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim  tôi. Chính điều này luôn nhắc trái tim tôi nhớ về những người mà tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông lão nói tiếp:
– Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi mà chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn.”
Hôm nay là lễ nhớ Mẹ Sầu Bi. Mẹ Maria của chúng ta ngoài bảy sự thương khó lúc sinh thời, bây giờ tim Mẹ còn đầy những vết lõm do chính chúng ta, đàn con của Mẹ, gây ra. Mẹ vẫn luôn hiện ra nhắc nhở nhưng chúng vẫn chưa hồi tâm hối lỗi.
Mẹ Maria có quả tim sẵn sàng chịu đau khổ theo gương Đức Kitô để mưu cầu phần rỗi cho các linh hồn. Mẹ đã thực thi Lời Chúa:
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”
(Ga 12, 24).
Maria Thanh Mai gởi