Các bạn thân mến,
Tôi xin chia sẻ với các bạn một kinh nghiệm “không đẹp cho lắm!” trong một giai đoạn cuộc đời tôi. Dù vậy, khả năng thích ứng của con người rất lạ lùng. Câu chuyện “CÁI GÌ RỒI CŨNG QUEN ĐI!”dưới đây chứng minh cho khả năng thích nghi đó của con người.
Mời các bạn dành ra vài phút theo dõi nhé.
Thân ái
Lm NHL
***
Ngày 19 tháng 2 năm 1977, từ trại Phan Đăng Lưu ở Gia Định, tôi bị đưa lên trại Gia Ray trong tỉnh Long Khánh, còn gọi là trại Z 30D, nhìn ra núi Chứa Chan cao to sừng sững, cách ngã ba Ông Đồn không xa. Trại tù nằm trên một đồi cao, có cái tên khá thơ mộng là “Đồi Phượng Vĩ”. Thời chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trại này là hậu cứ của Trung đoàn 54.
Vì là một trại lính và nay biến thành nhà tù, nên nó không có một thứ gì cả, ngoài mấy dãy nhà tôn vách ván, cất trên nền đất đỏ đầy bụi bặm và hang chuột dọc ngang. Khi chúng tôi chuyển tới đây thì trong trại đã có sẵn khoảng một ngàn người. Chừng vài tuần lễ sau, có một số tù quân đội từ trại Cà Tum, Tỉnh Tây Ninh chuyển về nữa, nâng tổng số tù lên 1.200 người.
Trại không có nước máy, cũng không có giếng hoặc suối để lấy nước. Hàng ngày xe bồn chở nước tới cung cấp cho cơ quan, cho nhà bếp và hơn một ngàn tù nhân. Vì lượng nước cung cấp rất hạn chế nên nước trở thành hiếm và dĩ nhiên cái gì hiếm thì quý. Các tù nhân chỉ được chia tiêu chuẩn nước uống mỗi ngày hai lon Guigoz trong hai bữa ăn trưa và chiều. Lon Guigoz là lon nhôm của hãng sửa bột Hoà Lan Guigoz có sức chứa 750 ml nước.
Vì phần nước quá ít so với nhu cầu nên hầu như không có ngày nào là không có cãi nhau về “việc nước”. Có nhiều trận đánh nhau bưu đầu sứt trán “vì nước”. Có mấy lần, hàng trăm tù nhân hè nhau tấn công nhà bếp để… “cướp nước”! Những lúc đó thôi thì gậy gộc, gạch đá, có khi cả dao mác đều được dùng để ẩu đả nhau“vì nước!”
Khi vừa tới, chúng tôi được phân tán vào các đội và ở các buồng khác nhau, mỗi buồng chứa khảng 60 người. Hai ngày đầu bị nhốt cả ngày lẫn đêm. Buồng giam trống trơn từ đầu tới cuối, ở giữa là lối đi, hai bên có hai dãy sàn nằm bằng gỗ. Trong buồng không có cầu tiêu, nhưng thay vào đó là 3 cái ống vỏ đạn pháo binh 155 ly, được dựng trong phòng nhỏ ở góc phía trong cùng. Tất cả mọi nhu cầu vệ sinh của chừng ấy con người trong buồng được giải quyết gọn trong ba cái vỏ đạn đó, sáng ngày mới được mang đi đổ ở hố cầu tiêu công cộng.
Tuy tôi chỉ ở trại này thời gian ngắn, nhưng có mấy việc gây ấn tượng mạnh làm tôi không sao quên được. Trước hết là chuyện về cái hố cầu tiêu công cộng, cũng được coi là “vương quốc” của ruồi xanh.
VƯƠNG QUỐC “RUỒI XANH”
Qua ngày thứ ba chúng tôi được mở cửa ra ngoài. Tôi còn nhớ mãi buổi sáng đầu tiên được ra ngoài, tôi có nhu cầu ra cầu tiêu công cộng. Muốn tới đó phải đi qua vài ba dãy nhà, kể cả khu vực nhà bếp, rồi từ đó theo con đường nhỏ đi giữa hai hàng rào kẽm gai dọc theo đường cống lộ thiên rộng chừng 1 thước, dẫn ra hàng rào kẽm gai bao bọc. Khu vực cầu tiêu công cộng nằm kế bên nhà bếp và sát bờ rào trại.
Khi vừa tới gần nhà bếp, tôi đã “đánh mùi” được cái nơi tôi cần tới, đồng thời cũng nghe âm thanh ồn ào của bầy ruồi xanh đang bận rộn với hàng đống cải muối dưa được trải phơi trên mái tôn của nhà bếp.
Trời ơi, ruồi xanh ở đâu ra mà lắm thế! Thì ra mùi dưa cải muối chua, mùi thức ăn của nhà bếp, mùi thối của đường cống lộ thiên, cộng với mùi xú uế từ cầu tiêu công cộng cách đó không xa đã lôi cuốn không biết cơ man nào là ruồi xanh. Chúng bay thành từng đàn, từng mảng trên nền trời đông như giải trấu. Một số đông đang giành ăn cấu xé nhau trên đám cải chua trên nóc nhà bếp. Số khác bay lượn vo ve trên miệng đường cống, đậu vào những nơi nào có thể đậu được trong khu nhà bếp và tạo nên một cảnh tượng ồn ào náo nhiệt khác thường.
Ðây là lần đầu tiên trong đời tôi được thấy ruồi xanh nhiều như thế. Con nào con nấy to bằng đầu đủa. Nhìn cảnh đó tôi thầm nghĩ, có lẽ toàn thể ruồi xanh trên thế giới hôm nay tập trung về Tỉnh Xuân Lộc này để họp bạn; hoặc có một “Đại Hội Ruồi Xanh Thế Giới” được tổ chức ngay trong trại tù Gia Ray!
Khi tới nhà bếp tôi phải dừng lại, ráp vào hàng, vì đã có chừng vài ba chục người đang đứng xếp hàng trên lối đi, trên tay mỗi người cầm một tờ giấy. Phía sau có độ mươi anh tù khác cũng đang lục đục kéo ra và hàng người càng lúc càng dài hơn. Những người tù bất đắc dĩ phải đứng xếp hàng đó, đa số còn xa lạ nên tôi cũng chẳng nói chuyện với ai. Có người mặt nhăn mày nhó trông rất khổ sở, mà tôi đoán là họ đang bị “đuổi” rất gấp, như thế còn tâm trí đâu để mà chuyện với trò?
Nhìn về phía xa trước mặt, tôi thấy cái hố hình chữ nhật chiều dài phải có tới 15 thước, chiều ngang khoảng chừng 10 thước. Trên mặt hố được dựng tạm bợ một dãy cầu tiêu chừng 15 hay 20 cái dính liền nhau, cái nọ cách cái kia bằng một tấm phên nứa cao chừng 40 cm. Trong mỗi cái ô nho nhỏ đó có một con người đang ngồi giống như một hàng nhộng nằm trong tổ ong ló đầu ra ngoài. Dãy cầu tiêu nằm cách bờ đất chừng 2 thước và trước mỗi ô có một miếng ván bìa bắt từ mép bờ đi ra.
Trên nóc cầu tiêu có tấm cót che mưa che nắng một cách sơ sài. Phía trước có tấm chắn bằng nứa, cao chừng một gang tay. Tấm chắn này chỉ che được những nơi “cần che” của con người đang ngồi chồm hổm phía sau, đối diện với một người đang đứng dàn hàng ngang trên bờ. Những người đứng hàng ngang này thuộc diện ưu tiên, trong khi những người ra muộn như tôi, phải đứng thành hàng dọc trên lối đi.
ÐỢI CHỜ TRONG ĐAU KHỔ!
Một lúc sau tôi mới chợt để ý là hầu hết những người đang xếp hàng đều cởi trần chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi. Ðiều này làm tôi ngạc nhiên vì lúc đó là tiết xuân, sáng sớm trời khá lạnh, tại sao họ lại cởi trần, mặc quần đùi, trong khi tôi lại ‘diện’ khá chỉnh tề. Lúc đó tôi nghĩ bụng: “Mấy tướng này đã ở đây lâu nên quen chịu rét, còn mình làm gì dám cởi trần buổi sáng sớm lạnh cóng thế này!” Tôi quay lại phía sau, thấy có vài anh cũng ăn mặc chững chạc như tôi, coi lại toàn là đám lính mới trong nhóm mới nhập trại 2 ngày qua.
Hàng người nhích bước tới rất chậm, chẳng khác gì cảnh kẹt xe trên đường Hai Bà Trưng vào giờ tan sở. Có mấy tay đứng cạnh tôi, chắc là trong tình trạng rất “khẩn trương”, đang đứng khoanh tay, mặt mày nhăn nhó, bứt rứt trông rất thảm hại. Cặp mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn cái hàng “nhộng” đang ngồi yên bất động, giương mắt lờ đờ nhìn ra, trong trạng thái “đê mê” nhẹ nhàng thoải mái.
Có một anh chàng đứng sau lưng tôi có vẻ đang bị “Tào Tháo” đuổi gấp, nhưng lại gặp đèn đỏ phía trước nên tức khí quát to: “ Ðụ Mẹ! Ỉa cái đéo gì mà lâu thế mấy cha nội? Bộ muốn ngủ trong đó à? Mau ra cho bà con nhờ với chớ!” Cả đám cười ồ sau câu nói của anh chàng lỗ mãng vui tính này. Vài người phụ họa pha trò thêm vài câu gì đó để quên cảnh khổ lúc bấy giờ đang hành hạ từng người. Chẳng ai buồn trả lời, nhưng một lúc sau có tiếng nói của một trong những “con nhộng” đùa trả lại. Nghe cách nói, tôi biết là chỗ bạn bè thân thiết: “Cái thằng ăn nói vô duyên, chuyện gì chớ chuyện này thì nhanh cái chó gì được? Ngồi đây thối bỏ mẹ, có sướng ích gì đâu mà mầy ở đó la với hét?” Cả bọn chúng tôi lại được một trận cười cho quên cảnh “sầu trong bụng” được giây lát.
Có mấy anh xong việc, kéo quần đứng lên, bước vội ra như bị ma đuổi. Mỗi lần như vậy chúng tôi nhích thêm được vài bước. Chợt có một anh bạn đi ngược chiều, khi ngang qua chỗ tôi, dừng lại nói: “Cậu Bảy, cởi đồ dài ra, mặc quần cụt thôi!” Tôi ngạc niên hỏi: “Sao vậy?” Anh ta trả lời: “ Trời ơi! Vô đó nó thối không thể chịu nổi. Cậu mặc quần áo dài, mùi thối ám vô mấy ngày còn chưa hết mùi. Ở đây làm gì có nước mà giặt. Cậu cởi quần áo dài ra đi, con mang về buồng cho!”
Thì ra tôi mới hiểu tại sao gần như tất cả đều cởi trần mặc quần đùi, chỉ có bọn lính mới chúng tôi là ngây thơ trong việc này. Sau khi cởi trần tôi bắt đầu rét run, nhưng dù sao tôi cũng phải bám trụ ở đây, không thể nào rời bỏ vị trí được.
Kẻ ra người vào, rốt cùng tôi cũng trở thành dạng ưu tiên, đứng đối diện với một người xa lạ đang ngồi chồm hổm bên trong “tổ ong”. Hai người chúng tôi, một đứng một ngồi, cách nhau chừng hai thước, nhưng hai người tránh ánh mắt của nhau, vì đây là một cuộc “hội kiến” hoàn toàn bất đắc dĩ.
Lúc đứng chờ, tôi nhìn xuống hố phân và cảnh tượng ở đây thật là kinh khủng! Cái hố sâu chừng quá đầu người. Bên dưới mỗi ô nhà cầu có một thùng chứa phân bằng sắt, trước kia là thùng phuy 200 lít chứa dầu xăng, được cắt đôi ra làm thùng chứa phân, có 2 quai bằng dây sắt. Nhưng vì thùng thì nhỏ mà người dùng thì quá đông, nên phân tràn be bét ra ngoài, lấp đầy gần một phần ba cái hố. Các thùng chứa phân này là “tài sản” của đội rau xanh, mỗi ngày có mấy anh tù vào khiêng ra, bón cho vườn rau cải của trại. Vườn rau cải này là nguồn cung cấp thức ăn chính cho hơn ngàn tù nhân trong trại.
Lúc đó, mùi hôi thối xông lên làm tôi gần ngạt thở. Ðám ruồi nhặng ở đây còn nhiều gấp mấy lần hơn nhóm ở nhà bếp. Chúng đông như trấu và đang quần thảo, cào cấu, nhào lộn, đẩy con này, hất con kia, đạp con nọ, bay lên, đáp xuống, ẩu đả nhau giành ăn trên mặt hố. Tiếng bay của chúng tạo thành âm thanh “ù… ù…” như tiếng máy bay trực thăng đến từ xa! Trên lớp mặt nhầy nhụa, từng mảng dòi bọ lúc nhúc đang lăn lộn, uốn éo, bò lết, trườn đạp lên nhau không khoan nhượng!
Tôi không dám nhìn cảnh này lâu và ngước nhìn lên cái chòi gác khá cao nằm ở một góc cách đó không xa. Có một anh công an ngồi gác trên chòi, anh ta đang yên lặng nhìn chòng chọc xuống đám tù nhân đang nối đuôi nhau làm cái công việc thuộc bản năng. Tự nhiên tôi đâm ra thương hại cho anh ta và nghĩ thầm:“Mình mới đứng ở đây một chốc đã muốn điên người, còn anh ta ngồi đó hàng giờ làm sao chịu cho thấu!” Nhưng tôi lại nghĩ, cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.
Một lúc sau, tới lượt tôi bước vào cái “tổ ong” để làm “con nhộng” và một người bạn tù khác đứng đối diện chờ tôi. Chúng tôi cách nhau chừng 2 thước, ngồi bên trong liếc nhìn ra tôi thấy cặp mắt anh ta lúc nào cũng hướng về phương trời xa xăm!
CÁI GÌ RỒI CŨNG QUEN ĐI
Về sau này mỗi buổi sáng tôi lại phải đến đây, dĩ nhiên là cởi trần mặc quần đùi, lại đứng xếp hàng dọc, lúc sau lại dàn hàng ngang đối diện với hai người bạn tù nào đó, một người tôi đứng chờ, và sau đó một người khác đứng chờ tôi! Một anh công an vẫn ngồi trên chòi gác, mắt vẫn đăm đăm nhìn xuống đám tù xếp hàng đi là công việc thuộc bản năng. Cái hố vẫn là cái hố cũ, vẫn là “vương quốc” ồn ào của ruồi xanh với tất cả sự nhơ nhớp và thối tha kinh khủng của nó, nhưng tôi không cảm thấy kinh tởm gớm ghê như lần đầu tôi phải tới đây. Lúc đó tôi tự nhũ: “Cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.”
Có những ngày mưa gió tơi bời làm cho việc giải quyết nhu cầu tự nhiên của cơ thể trở nên khổ nhọc hơn. Đám tù nhân phải xếp hàng dưới cơn mưa và cái hố kia ngập nước trở nên lõng bõng nhầy nhụa. Ðám giòi bọ bị ngập lụt, trôi lều bều. Chúng giãy giụa như hành khách bị chìm tàu đang vẫy vùng quơ quào kêu cứu! Nhưng trời mưa lại giúp bầu khí đỡ hôi thối và đàn ruồi xanh cũng hoạt động bớt hăng say, có lẽ chúng sợ bị ướt cánh.
Những ngày tháng về sau, tôi vẫn phải tới nơi này và tự nói với mình: “Đây là một phần trong giai đoạn mới của cuộc đời tôi!”
Auckland. New Zealand
Ngày 24 tháng 6 năm 2023
Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ