KÍNH BÁO KHẨN & XIN CẦU NGUYỆN 

CHƯƠNG TRÌNH THĂNG TIẾN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH HẢI NGOẠI

Email: cttthngd@yahoo.com

  KÍNH BÁO KHẨN & XIN CẦU NGUYỆN 

~~~

Trong Niềm Tin Tuyệt Đối Vào Chúa Kitô Phục Sinh 

Văn Phòng Điều Hành Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Hải Ngoại

Vô Cùng Thương Tiếc Kính Báo:

 Linh Mục PHÊRÔ VÊRÔNÊ CHU QUANG MINH, SJ.

Sáng Lập Chương Trình TTHNGĐ 

Sinh ngày 30 tháng 04 năm 1937 tại Bắc Ninh, Việt Nam 

Vừa an nghỉ trong Chúa, lúc 08 giờ 45 (giờ California), ngày 15 tháng 09 năm 2025

Tại Santa Clara Valley Medical Center, San Jose, California, Hoa Kỳ.

Hưởng Thượng thọ 88 tuổi. 

*****

~ Đôi dòng tiểu sử ~

Linh mục Phêrô Vêrônê chuyên về tâm lý từ hồi còn thanh niên.

> Năm 1962, động viên làm sỹ quan tâm lý.

> Năm 1968, thụ phong linh mục, làm giáo sư Chủng Viện Thánh Quý, Cần Thơ.

> Từ 1970, dạy tâm lý các lớp 12 tại nhiều trung học; hiệu trưởng trung học.

> Năm 1975, di cư sang Hoa Kỳ.

> Năm 1978, đậu cao học tâm lý tôn giáo.

> Năm 1980, đậu tiến sỹ tâm lý giáo dục.

> Năm 1981, vào Dòng Tên Chúa Giêsu (SJ).

> Viết mấy trăm bài báo về tâm lý.

> Xuất bản 30 sách tâm lý, trong đó có 03 sách bằng Anh ngữ về CT/TTHNGĐ.

** Từ năm 1986, sáng lập và hướng dẫn CHƯƠNG TRÌNH THĂNG TIẾN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH tại Hoa Kỳ, Canada, Úc châu, Việt Nam, Nhật Bản và nhiều nước Âu châu.

* Lập nhiều Trạm Phát Thuốc Song Nguyền cho người nghèo ở Nam, Trung, Bắc Việt Nam.

* Thăm và viết về Bắc Kinh, Hồng Kông, Đài Loan, Tokyo, Manila, Mễ Tây Cơ,…

***

Kính xin quý Đức Ông, quý Cha, quý Phó tế, quý Tu sĩ và toàn thể quý Song nguyền khắp nơi tha thiết hiệp lời cầu nguyện:

Lạy Chúa Từ Nhân, 

Linh Mục Phêrô Vêrônê Chu Quang Minh, SJ.,

Suốt đời tận trung, tận nghĩa với Chúa -Phục Vụ Hạnh Phúc Các Gia Đình-

Nay ngài đã hoàn tất sứ mạng Chúa trao nơi trần thế.

Chúng con THA THIẾT NGUYỆN XIN CHÚA Sớm đưa ngài về hưởng Hạnh Phúc Thiên Đàng Bên Chúa. Amen.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Chương trình Tang Lễ & Cầu Nguyện xin kính báo sau

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ 

Thành kính.

 Thay mặt CT/TTHNGĐ Hải Ngoại

SN Phạm Văn Quyết & Điệp

Chủ Nguyền.

THÁNH GIÁ – (Lm. Nguyễn Tầm Thường)

Huong Duongthanh

 NHÂN NGÀY LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ, MỜI MỌI NGƯỜI ĐỌC BÀI VIẾT NÀY

THÁNH GIÁ

(Lm. Nguyễn Tầm Thường)

Tôi nhìn thấy thánh giá mỗi ngày. Tôi nghe nói về Thánh giá rất thường: Thánh giá trên tháp chuông. Thánh giá trên bàn thờ. Thánh giá bán trong tiệm.Thánh giá ngoài nghĩa trang. Thánh giá trên tường đá. Thánh giá trong nghệ thuật. Thánh giá trong thi ca. Thánh giá ở khắp nơi. Nhưng thánh giá là gì? Để tìm câu trả lời không phải là vấn đề đơn giản. Có nhiều ý nghĩa khác nhau về thánh giá.Tùy theo mỗi người mà thánh giá có giá trị khác biệt .

*

Thánh giá bằng vàng thì có giá trị hơn bằng gỗ. Thánh giá vàng cũng tùy theo to nhỏ mà giá đắt hay rẻ hơn. Người mua có thể trả giá để được bớt. Người bán thì lại mong bán giá cao. Người có tiền thì mua thánh giá bằng vàng tốt. Kẻ ít tiền thì mua vàng dở. Họ lừa nhau, không cẩn thận thì mua phải thánh giá vàng giả. Nhiều người muốn có .Thánh giá là đơn vị kinh tế để ấn định tiền bạc. Thánh giá lúc ấy xác định sự giầu có.

*

Thánh giá cũng dùng để trang điểm. Họ đeo từng chùm thánh giá trên vành tai, bên mái tóc nhuộm xanh đỏ. Người thích thì không sao, người không ưa thì lúc đó kẻ đeo thánh giá bị cười chê. Có người thích trang điểm bằng thánh giá trên giây chuyền vàng. Họ đeo thánh giá ở dạ hội , ở tiệc cưới , ở các buổi tiếp tân. Lúc đó ý nghĩa của thánh giá là muốn làm cho mình đẹp, kéo kẻ khác chú ý đến mình. Và cũng có những thánh giá trên vùng ngực hở hang.Lúc ấy thánh giá nằm trong duyên cớ của những rung động cám dỗ. Người có thánh giá để trang điểm thì hãnh diện. Kẻ không có thì thèm muốn. Thánh giá lúc này là xúi đẩy của lòng tham.

*

Thánh giá ở ngoài nghĩa trang thì vắng lặng, ít ai nhìn. Thánh giá bị mưa lạnh, bị nắng gắt.Thánh giá vàng được săn sóc giữ gìn cẩn thận. Thánh giá ở ngoài nghĩa trang có thể gãy đổ từ lâu nhưng chẳng ai để ý. Nhưng nếu Chúa ở trên thánh giá đó thì được tự do ngắm mây trời. Có cái hoang lạnh của buổi chiều mưa phùn, nhưng cũng có thể có tiếng hót của một cánh chim nào đó dừng chân hát vui. Cũng có thể là sương rơi, là gió bão nhưng Chúa không ngột ngạt vì hương phấn như những thánh giá vàng trên cổ trên ngực của con người. Thánh giá ngoài nghĩa trang có thể không được chăm sóc, nhưng Chúa có tự do để nhìn Hoa nở, nhìn trăng lên. Thánh giá trên giây chuyền vàng thì Chúa bị người ta nhìn nhiều khi bằng những ánh mắt tham lam, thiếu trong sạch.

*

Cũng có nơi thánh giá được dùng để xuống đường. Họ vác thánh giá không phải để lên đồi chịu đóng đinh, nhưng để đi biểu tình và đóng đinh kẻ khác.Thánh giá với khẩu hiệu. Thánh giá với những bàn tay nắm chặt hận thù. Thánh giá đằng đằng trước mũi súng. Thánh giá để đánh nhau. Thánh giá bấy giờ là phương tiện tranh đấu. Nếu Chúa nằm trên thánh giá đó chắc Chúa sợ lắm. Suốt cuộc đời Ngài chỉ dậy các môn đệ của Ngài cách chết chứ chẳng bao giờ dậy cách chiến đấu.

Các nhà lãnh tụ thì dậy kẻ theo họ chiến thuật tranh dành ảnh hưởng.Họ phải biết làm sao để áp đặt kẻ thù. Họ học cách tiêu diệt đối phương. Thày Yêsu chỉ dạy môn sinh của mình phải chuẩn bị chết. Vì thế khi thánh giá bị vác xuống đường biểu tình, chắc hẳn Chúa phải luống cuống lắm vì Ngài nào có biết gì?!

*

Có Thánh giá trên lầu chuông gỗ, có thánh giá trong Bảo tàng viện. Thánh giá trên lầu chuông thì có khi phủ bụi mờ , mạng nhện che kín. Thánh giá không có người săn sóc, nhưng chiều chiều có tiếng chuông phổ nhạc. Sáng sáng có lời chuông đưa kinh. Con người bỏ Chúa bụi phủ nhưng có đàn bồ câu bay về,đậu xuống chuyện trò. Thánh giá trong Bảo tàng viện là Thánh giá quý. Họ canh giữ cẩn thận. Nhưng khi được con người canh giữ cẩn thận thì Chúa trên thánh giá đó có nhiều lo âu. Người ta rình mò ăn cắp: Thánh giá bị đặt trong lồng kính. Nếu Chúa ở đó chắc ngột ngạt vì giam hãm. Ngày ngày , hàng ngàn con mắt qua lại dòm ngó. Nếu Chúa ở đó chắc Chúa bối rối lắm. Chúa trên Thánh giá gỗ xấu xí thì lại được tự do. Chúa trên Thánh giá mà được loài người gìn giữ quý hóa lại là một cõi tù đầy.

Người Ki tô hữu nhận thánh giá để phân biệt mình với tôn giáo khác . Giữa những người Ki tô hữu , Tu sĩ lại đeo thánh giá để phân biệt họ không là giáo dân. Giữa Tu sĩ , thánh giá cũng được để phân biệt trên Nhẫn Bạc , trên Gậy cầm để nói ai là thầy Thượng phẩm chức vị , ai là Tu sĩ thường. Như vậy, thánh giá cũng được dùng như dấu hiệu phân biệt: Những ngày còn sống, Chúa lao tác mệt nhọc, nhưng , dán bích chương hầu loan báo một tôn giáo mới. Chúa xây dựng Nước Thiên Chúa trong tim con người. “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các con là môn đệ ta: ấy là các con có lòng thương mến lẫn nhau” (Yoan 13:35).

Tình yêu vô hình, không nhìn thấy thì Chúa lại bảo lấy làm dấu hiệu cho ngưới ta nhìn. Còn thánh giá hữu hình Chúa lại chẳng chọn làm dấu hiệu.

Trên dường từ Jerusalem lên núi Sọ có rất nhiều người nhìn Chúa vác thánh giá. Có nhiều kẻ đã được thừa hưởng ân huệ của Ngài, được Ngài chữa bệnh, được Ngài nuôi ăn nhưng họ không vác thánh giá đỡ Ngài. Không một Môn đệ nào ghé vai gánh vác cho Thày mình đỡ mỏi. Chúa đã nhiều lần quỵ ngã vì yếu sức. Kẻ vác thánh giá đỡ Ngài là Simon, người xứ Kyrene. Phúc âm không hề nói là ông Simon đã được hưởng đặc ân gì của Chúa trước đó cả. Và có thể ông là người ngoại giáo.

Đời là vậy, có nhiều kẻ theo Chúa nhưng để Chúa vác Thánh giá một mình. Có kẻ trên danh nghĩa không là người theo Chúa, nhưng nhờ họ mà Chúa đỡ khổ.

THÁNH GIÁ LÀ GÌ?

Khi có quá nhiều loại thánh giá

. Thánh giá dùng như đồ trang sức.

. Thánh giá là đơn vị kinh tế tính bằng tiền bạc.

. Thánh giá là phương tiện tranh đấu

. Thánh giá có thể làm duyên cớ cho lòng thèm muốn tham lam.

. Thánh giá có thể bị quên lãng ngoài cánh đồng.

. Thánh giá cũng được gìn giữ cẩn thận trong tủ kính có khóa.

. Thánh giá để phân biệt chức vị trong xã hội.

Một câu hỏi mà có quá nhiều câu trả lời đúng thì câu trả lời thường là sai. Vì câu trả lời đúng nhất chỉ có một. Không bao giờ có hai cái đẹp nhất cũng như chẳng thể bao giờ có hai điều đúng nhất.

Người ta không thể tranh luận về Thánh giá. K3 dùng Thánh giá làm phương tiện tranh đấu thì không thể chấp nhận Thánh giá là để đóng đinh mình. Kẻ muốn dùng Thánh giá để làm dáng thì đối với họ Thánh giá chỉ có nghĩa khi dùng để trang điểm. Ai chọn Thánh giá để phân biệt mình với tôn giáo khác thì Thánh giá mang màu sắc một ký hiệu. Mỗi người nhìn Thánh giá một cách khác nhau. Giá trị của Thánh giá tùy thuộc cái nhìn của họ.

*

Đức Ki tô nói về Thánh giá như sau: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thánh giá của mình mỗi ngày mà theo ta.”

Vác Thánh giá để đi theo một người chứ không phải để thỏa mãn tò mò về một người. Như thế, Thánh giá không phải là một định nghĩa để hiểu biết bằng trí tuệ mà phải hiểu bằng lối sống. Bởi đó, kẻ không theo Ngài thì sự hiểu biết tri thức về Thánh giá chẳng có ý nghĩa gì. Kẻ đã theo ngài thì không cần tìm định nghĩa cho Thánh giá. Vì đã theo Ngài thì biết Thánh giá là gì rồi.” về phần tôi, ước chi tôi đừng có vinh quang nơi một điều gì, trừ phi là nơi thập giá của Chúa chúng ta”( Gal. 6:14)

Tôi nói với người ta về Thánh giá. Tôi cũng nghe người ta nói với tôi về Thánh giá. Nhìn Thánh giá mỗi ngày mà tôi đau thấy vinh quang. Cuộc sống vẫn dầy rẫy trầm luân của nó. Như vậy Thánh giá nào mới cho tôi hy vọng?

Giữa bao nhiêu loại thập giá, thánh Phaolo chọn có một. Đó là thập giá của Chúa chúng ta.

Như thế, không phải thập giá nào cũng có vinh quang. Điều ấy cũng hàm ý là có nhiều Thánh giá giả. Nếu phân biệt được Thánh giá thật giữa Thánh giá giả thì người ta sẽ hiểu được vấn đề sau đây.

Vấn đề là người ta phàn nàn về thánh giá. Khi gặp điều bất hạnh, người ta hay nói: Đời tôi khổ quá! Chúa gởi Thánh giá cho tôi!

Phúc âm kể rằng Chúa bị điệu ra công trường, bị phỉ nhổ làm nhục, bị chế nhạo chê cười… Người ta làm thập giá, bắt Ngài vác đi rồi đóng đinh Ngài trên thập giá đó (Mc 15:16…Yn. 19:13).

Như thế, thập giá trong ý nghĩa bất hạnh là sản phẩm của con người. Con người đã có sáng kiến chế ra thập giá để đóng đinh Chúa: Nếu thập giá là sản phẩm của con người thì phải nói con người đã gởi thập giá cho Chúa , chứ Chúa làm gì có thập giá mà gởi cho con người?

(Trích trong NƯỚC MẮT & HẠNH PHÚC)


 

Việt Nam, một lịch sử khác?-Tác giả Christopher Goscha

BBC Vietnamese

Tác giả Christopher Goscha

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Montréal, Canada

Tác giả Alex-Thái Đình Võ – Dịch

15 tháng 9 2025

Với đa số độc giả ngoài Việt Nam, quốc gia ven biển nhỏ bé này vẫn thường gắn liền với cuộc chiến kéo dài một thập kỷ, khi quân đội Hoa Kỳ sa lầy trong nỗ lực ngăn chặn cộng sản miền Bắc tiến chiếm một miền Nam không cộng sản. Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975 với sự thất bại nặng nề của Mỹ.

Nỗi thất bại cũng phủ bóng lên ký ức của Pháp về thuộc địa cũ. Thất bại ê chề mà Pháp phải chịu trong trận Điện Biên Phủ năm 1954, khi quân đội của Võ Nguyên Giáp chấm dứt 80 năm thống trị thuộc địa, vẫn còn vang vọng trong đời sống chính trị Pháp cho đến ngày nay.

Ở Việt Nam, chiến thắng vẻ vang này trở thành chủ đề chiếm vị trí trung tâm trong cách dân tộc này hình dung về chính mình.

Mỗi năm, hàng triệu học sinh và học viên quân sự được dạy rằng đất nước hình chữ “S,” trải dài từ sông Hồng ở miền Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, được xây dựng từ truyền thống bền bỉ chống lại sự xâm lược từ bên ngoài. Trước khi đánh bại người Pháp và người Mỹ, người Việt đã từng đẩy lùi các đội quân xâm lược từ Trung Quốc và Mông Cổ.

Hồ Chí Minh chỉ là một trong số nhiều anh hùng đã giành lại độc lập cho Việt Nam. Theo cách nhìn này, cả Pháp lẫn Mỹ chỉ có thể tự trách mình vì đã phớt lờ những bài học từ lịch sử.

Tuy nhiên, việc xây dựng một câu chuyện lịch sử xoay quanh truyền thống kháng chiến sẽ che mờ nhiều yếu tố quan trọng khác, và đó chính là cái giá của nó. Việc kiến tạo một quá khứ trong đó Việt Nam – với đường biên giới và hình dạng như ta thấy ngày nay – luôn là một thực thể thống nhất chống lại ngoại xâm đã che phủ một lịch sử phức tạp và thú vị hơn nhiều.

Hai Bà Trưng trên tranh dân gian

Thực tế, dải đất hình chữ S mà ta thấy trên bản đồ hiện nay không phải lúc nào cũng tồn tại ở hình dáng ấy. Giống như Hoa Kỳ, Nga hay thậm chí Trung Quốc, Việt Nam cũng là sản phẩm của quá trình mở rộng thuộc địa của chính mình. Và, như các đế chế khác trong lịch sử, quốc gia này khởi đầu từ một vùng lõi nhỏ trước khi bành trướng thành một thực thể mang hình thái đế chế.

Cái nôi của nền văn minh Việt nằm ở đồng bằng sông Hồng, nơi một nhà nước độc lập, tập quyền với kinh đô Cổ Loa hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, gần thủ đô Hà Nội ngày nay. Dù là một nhà nước sôi động và phát triển vượt bậc so với bối cảnh đương thời, nền độc lập của Cổ Loa đã nhanh chóng chấm dứt khi đế chế Trung Hoa ở phương Bắc bắt đầu cho quân tiến vào vùng biên cương. Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, Trung Hoa giành quyền kiểm soát vùng sông Hồng, biến Việt Nam thành quận cực nam của đế chế, mang tên Giao Chỉ. Khi ấy, lãnh thổ Việt Nam chỉ gói gọn ở đồng bằng sông Hồng và nằm dưới ách cai trị Trung Quốc trong một ngàn năm.

Sự cai trị của Trung Hoa đôi khi rất khắc nghiệt. Đã có những thời khắc người Việt kháng cự quyết liệt, trong đó có cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứ nhất Công nguyên. Quân đội nhà Hán đã được điều động để trấn áp phong trào này. Tuy nhiên, cũng có nhiều người Việt hợp tác với chính quyền Trung Hoa, coi sự cai trị ấy như một phương tiện thúc đẩy cải cách và hiện đại hóa. Trên thực tế, một ngàn năm dưới ách đô hộ đã khiến nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa ăn sâu vào đời sống ở Giao Chỉ.

Hưng Đạo đại vương và trận chiến Bạch Đằng trên tranh dân gian

Các quan lại Trung Hoa giới thiệu những khái niệm mới về luật pháp, thời gian và không gian (như các bộ luật, niên lịch, hệ thống đo lường, trọng lượng và bản đồ), cùng với nghệ thuật quản lý hành chính, vũ khí, giấy và kèm theo đó là hệ thống chữ viết theo ký tự. Văn hóa của tầng lớp tinh hoa ở đồng bằng sông Hồng cũng thay đổi với sự xuất hiện của kiến trúc cung đình, âm nhạc, nghệ thuật và ẩm thực lấy cảm hứng từ Trung Hoa, bao gồm cả việc sử dụng đũa. Trong giai đoạn này, Nho giáo và Phật giáo Đại thừa trở thành một phần của đời sống văn hóa Việt Nam.

Khi đế chế Trung Hoa suy yếu vào cuối thời Đường (618–907), người Việt giành lại độc lập vào thế kỷ 10, nhưng lại mất nó một lần nữa vào đầu thế kỷ 15, khi triều Minh khôi phục đế chế bằng cả biện pháp chính trị lẫn quân sự. Lần đô hộ thứ hai này không kéo dài lâu; đến năm 1427, người Việt lại giành được độc lập sau một cuộc kháng chiến. Song, việc thoát khỏi hệ thống đế chế Trung Hoa không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân không còn hiện diện trong câu chuyện của Việt Nam. Thực tế, nó vẫn là lực đẩy quan trọng định hướng mạnh mẽ trong tiến trình lịch sử.

Tương tự như người Mỹ thoát ly khỏi Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 nhưng sau đó lại tạo dựng một nhà nước thuộc địa riêng của họ bằng cách tiến dần về phía tây ra Thái Bình Dương, người Việt cũng chọn con đường bành trướng. Với sự rút lui của Trung Hoa, người Việt tập trung hướng tới việc kiến tạo đế chế riêng mình, chinh phục các vùng đất phía nam bằng vũ lực, nghệ thuật trị quốc và ý thức hệ thuộc địa theo tinh thần Nho giáo được coi là “ưu việt” mà họ tiếp thu từ Trung Hoa.

Trong bước tiến xuống phương nam, cùng với quân lính, quan lại và dân di cư, các hoàng đế Việt Nam thiết lập những phủ bảo hộ, thúc đẩy việc định cư, đồng thời luân phiên áp dụng hình thức cai trị “trực tiếp” và “gián tiếp” đối với các cộng đồng xa xôi, đa sắc tộc, như một phần trong sứ mệnh khai hóa của mình. Nếu người Mỹ chinh phục các tộc người bản địa và đẩy lùi các đế quốc châu Âu tại Bắc Mỹ, thì người Việt cũng chinh phục người Chăm ở miền Trung, người Khmer thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, cùng nhiều cộng đồng phi Việt ở vùng cao nguyên lân cận.

Triều Lê, tồn tại từ năm 1428 đến 1789 sau khi nhà Minh rút lui, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cuộc tiếp xúc “thuộc địa” này. Khi giành lại Việt Nam và xưng đế vào năm 1428, Lê Lợi cùng những người kế vị đã tái tổ chức nhà nước theo khuôn mẫu Nho giáo. Vị hoàng đế này nhìn thấy cơ hội làm được điều mà các bậc tiền nhân từng thất bại: thiết lập quyền lực tập trung trên một đất nước rộng lớn và khó quản lý. Ông và các thế hệ kế vị thúc đẩy mô hình trị quốc theo tinh thần Nho giáo thông qua việc mở mang trường học, đẩy nhanh các kỳ thi tuyển quan lại, và ban hành bộ luật nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức) mang đậm dấu ấn Nho giáo.

Việc mở rộng lãnh thổ quá nhanh đã châm ngòi cho nội chiến và sự hình thành các thế lực Việt Nam đối nghịch, cạnh tranh quyền kiểm soát một thực thể chính trị đang bành trướng. Dù danh nghĩa cai trị đất nước thuộc về triều Lê, nhưng từ sau khi Trung Hoa rút lui ở thế kỷ 15, thực tế đã hình thành hai Việt Nam: miền bắc do họ Trịnh nắm quyền quân sự, và miền nam do các chúa Nguyễn lãnh đạo trong quá trình bành trướng. Đến thế kỷ 18, nhà Nguyễn ở phương nam đã trở thành một nhà nước gần như độc lập, với triều đình, bộ máy hành chính và quân đội riêng. Mọi nỗ lực của họ Trịnh nhằm đánh bại thực thể này đều thất bại.

Bảo tàng Quang Trung tại Bình Định, nay là tỉnh Gia Lai, gợi nhắc một thời nội chiến của Việt Nam

Nội chiến leo thang trong thập niên 1770, khi ba anh em nhà Tây Sơn, dựa vào làn sóng phẫn uất vì đói nghèo của nông dân vùng cao nguyên miền Trung, đã đánh bật nhà Nguyễn khỏi kinh đô Huế và dồn họ vào các căn cứ trong rừng ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhà Tây Sơn sau đó hướng ra bắc và cuối cùng lật đổ luôn họ Trịnh vào cuối những năm 1780. Nhà Thanh tìm cách can thiệp nhưng bất thành và cuối cùng cũng bị Tây Sơn đánh đuổi.

Tuy nhiên, tàn dư của nhà Nguyễn vẫn bám trụ từ các căn cứ rừng sâu. Thực ra, cuộc nội chiến kéo dài 30 năm chỉ thật sự chấm dứt khi dòng họ Nguyễn có một màn trở lại ngoạn mục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ánh. Vị lãnh đạo quân sự quyết đoán này đã chỉ huy đoàn quân tiến dọc bờ biển, đưa hải quân bắc tiến, đánh bại nhà Tây Sơn rồi lập nên đế chế Việt Nam vào năm 1802. Dáng hình chữ S của Việt Nam ngày nay có từ năm ấy, kết quả của nhiều thế kỷ mở rộng lãnh thổ và nội chiến. Kể từ thập niên 1620, đất nước này đã sống trong chia cắt. Vì thế, việc tồn tại của “hai Việt Nam” ở nửa sau của thế kỷ 20 không phải là điều lạ thường.

Từ kinh đô Huế, Minh Mạng – con trai Gia Long – cai trị thực thể chính trị mới này bằng bàn tay cứng rắn. Lý trí đến mức cực đoan và thông minh hiếm thấy, ông dồn trọn hai thập kỷ trị vì để kiến tạo một quốc gia hiện đại. Ông cai trị với sự khắc nghiệt, không để bất cứ điều gì cản đường. Tương tự những nỗ lực xây dựng quốc gia mà các vua Xiêm và Miến thực hiện ở phía tây biên giới Việt, Minh Mạng tin rằng quyền lực tập trung dựa trên quản trị hành chính hợp lý sẽ giúp cai trị hiệu quả hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Các chính sách hành chính của ông thúc đẩy sự thống nhất lãnh thổ, tập trung quyền lực, phát triển kinh tế và đồng nhất về ý thức hệ. Hệ thống khoa cử được cải tổ để bảo đảm tính minh bạch và chống lại những hệ lụy tiêu cực của nạn gia đình trị cùng nhiều thế kỷ phân quyền cát cứ. Thực tế, việc xây dựng một bộ máy dân sự nắm quyền chỉ huy quân đội – thay vì ngược lại – là ưu tiên của Minh Mạng và là điều kiện cốt lõi để kiến tạo một nước Việt Nam mới.

Về kinh tế, hệ thống thuế do nhà nước quản lý, đánh trên dân cư và hoạt động thương mại, cung cấp nguồn tài chính để đầu tư vào các công trình hạ tầng lớn, nhập khẩu hàng hóa nước ngoài và trả lương cho bộ máy quan liêu ngày càng mở rộng. Việc mở rộng quyền kiểm soát hành chính xuống các tầng nấc thấp hơn cho phép huy động khối lượng lớn nhân công để xây dựng đê điều, đường sá và cầu cống mới. Dưới thời Minh Mạng, triều Nguyễn cho xây dựng Quan lộ chạy từ Hà Nội đến Sài Gòn nhằm giúp việc di chuyển quan lại và binh lính giữa hai miền hiệu quả hơn; đến đầu thế kỷ 20, người Pháp cũng cho trải nhựa con đường này với mục đích tương tự.

Minh Mạng cũng ủng hộ việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Ông mạnh tay trấn áp nạn buôn lậu gạo và thuốc phiện, thay vào đó phát triển hoạt động thương mại do chính quyền quản lý với Singapore, Trung Quốc và phương Tây. Triều Nguyễn cũng tổ chức cộng đồng thương nhân người Hoa thành các bang hội lớn để dễ kiểm soát và đánh thuế.

Những cải cách kinh tế và chính trị này cho thấy triều đại Minh Mạng ở đầu thế kỷ 19 xứng đáng được nhìn nhận nhiều hơn là chỉ một dòng chú thích trong lịch sử Việt Nam cận đại. Điều đó không có nghĩa là ông đã hoàn thành mọi mục tiêu đặt ra, mà thay vào đó cho thấy rằng tính hiện đại ở Việt Nam – cũng như ở bất kỳ nơi nào khác – không phải là một hiện tượng tuyệt đối “có hoặc không,” và cũng không nhất thiết phải đến từ mối liên hệ thuộc địa với phương Tây.

Cũng cần lưu ý rằng việc kiến tạo nước Việt Nam dưới thời Minh Mạng đã khởi phát một làn sóng chinh phục mang tính thuộc địa khác. Trong thập niên 1830, khi cải tổ bộ máy nhà nước, Minh Mạng đồng thời mở rộng lãnh thổ, sáp nhập toàn bộ Campuchia ngày nay và một phần Lào. Nhưng rốt cuộc, vị hoàng đế này đã đi quá xa: khi tìm cách xóa bỏ vương quyền Campuchia, ông đã châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn và kéo theo sự can thiệp quân sự của Xiêm.

Campuchia sau đó giành lại độc lập thông qua một thỏa thuận hòa bình do Xiêm và Việt Nam cùng thương lượng. Nói cách khác, hình dáng chữ S của Việt Nam thực sự chưa bao giờ là một tất yếu lịch sử. Cuối cùng, chính sự can thiệp của Xiêm – chứ không phải của người Pháp – đã cứu Campuchia thoát khỏi sự thôn tính của Việt Nam vào thập niên 1840.

Khi người Pháp áp đặt quyền lực đế quốc của mình tại Việt Nam, họ đã xây dựng bộ máy thuộc địa dựa trên nền tảng sẵn có của nhà nước Việt Nam. Thực vậy, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, được chính thức tuyên bố thành lập năm 1888, phản chiếu một cách lạ lùng ranh giới của “Đại Nam” dưới thời Minh Mạng của những năm 1830, bao gồm cả Campuchia và phần lớn Lào.

Dù hành trình giành thống nhất và độc lập ở thế kỷ 20 là chìa khóa để lý giải lịch sử Việt Nam, nhưng nó thường bỏ qua sự thật rằng chưa từng có một Việt Nam duy nhất, mà nhiều Việt Nam với những diện mạo rất khác biệt. Trong 80 năm dưới ách cai trị của Pháp, người Việt quả thực chịu nhiều đau khổ, nhưng họ không phải lúc nào cũng chỉ là nạn nhân của sự đô hộ. Bởi chính họ cũng từng là những kẻ đi chinh phục.

Các tường thuật chuẩn mực về quan hệ Việt-Trung thường mô tả đó là một lịch sử liên tục chống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Đây là một câu chuyện hấp dẫn đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, bởi nó khơi gợi một truyền thống kháng cự bất tận trước ngoại xâm – không chỉ trong các cuộc chiến chống Pháp và Mỹ giữa thế kỷ 20, mà cả trong xung đột biên giới với Trung Quốc những năm 1980 và các căng thẳng trên Biển Đông hiện nay. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, những câu chuyện “chống Trung Quốc” này đã đơn giản hóa thực tế.

Thay vào đó, cần nhìn nhận rằng Việt Nam – cũng như Triều Tiên và thậm chí Nhật Bản – nằm trong một vị trí đặc thù: từng là một phần của, và luôn phải đối diện với, đế chế khổng lồ mà Trung Hoa đã tạo dựng từ thời Hán (206 TCN – 220 CN). Giống như người Frank và người German (Giéc-manh) đối diện với đế chế La Mã cùng thời, người Việt đã vay mượn nhiều yếu tố từ Trung Quốc. Người Triều Tiên và người Nhật cũng từng làm như vậy ở những thời điểm khác nhau.

Tuy nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ Đế chế La Mã đã sụp đổ vào thế kỷ 5, trong khi đế chế Trung Hoa thì vẫn luôn tồn tại cho đến nay. Họ luôn có khả năng tái lập và thậm chí mở rộng quyền lực của mình.

Công cuộc chinh phục lãnh thổ của người Việt đã dẫn tới sự biến mất của các quốc gia phương nam

Người Việt, cũng như người Triều Tiên, vừa vay mượn từ Trung Hoa để xây dựng quốc gia và văn hóa riêng ở vùng ngoại vi đế chế, vừa phải luôn đề phòng nguy cơ bị kéo ngược trở lại trật tự cũ do Trung Quốc áp đặt. Điều này khiến người Việt luôn tự thuyết phục rằng mình không phải là người Trung Hoa, dù vẫn dựa vào những mô hình từ Trung Quốc, nhưng đồng thời tự xem mình như sứ giả của một nền văn minh “ưu việt” mà họ truyền bá xuống phương Nam thông qua quá trình bành trướng thuộc địa của chính mình. Đó là một hành động cân bằng độc đáo, khó khăn nhưng cũng đầy cuốn hút.

Người Pháp và người Đức không bao giờ phải lo La Mã quay trở lại để nghiền nát họ, hay chế giễu việc họ vay mượn thể chế, thần thoại, ngôn ngữ La Mã, hoặc tự xưng là “Caesar mới” trong châu Âu hậu La Mã với các danh hiệu như Tsar, Czar và Kaiser. Nhưng người Việt thì phải – và phải liên tục – đối mặt với điều này.

Ngày nay, những người cộng sản Việt Nam cũng rơi vào một tình huống tương tự. Họ đã vay mượn rất nhiều từ các mô hình và phương thức cộng sản Trung Quốc, từ cách tổ chức quân sự, xây dựng nhà nước độc đảng, cho đến – kể từ sau cải cách kinh tế thập niên 1980 – việc điều chỉnh kinh tế thị trường nhằm duy trì sự cai trị chuyên chế của đảng cộng sản. Song lãnh đạo Việt Nam vẫn làm điều đó bất chấp bối cảnh giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đang tìm cách mở rộng đế chế của mình vượt ra ngoài phạm vi lục địa.

Mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc – dù trong khuôn khổ cộng sản hay Nho giáo – đặt các nhà lãnh đạo Việt Nam vào tình thế vừa phải dựa vào mô hình Trung Quốc để duy trì quyền lực trong nước, vừa phải đối phó với sự bành trướng của đế chế Trung Hoa trên trường quốc tế. Thế cân bằng này càng trở nên khó khăn khi các lực lượng đối lập trong nước tìm cách làm suy giảm uy tín của đảng bằng việc chỉ ra sự lệ thuộc vào mô hình Trung Quốc.

Tác giả Christopher E. Goscha là một nhà sử học người Mỹ-Canada, hiện là giáo sư chính tại Đại học Québec à Montréal (UQAM), nơi ông giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế, chiến tranh Việt Nam và lịch sử thế giới. Ông chuyên nghiên cứu về Chiến tranh Lạnh ở châu Á, quá trình phi thực dân hóa và các cuộc chiến tại Việt Nam. Goscha bảo vệ luận án tiến sĩ tại École Pratique des Hautes Études (Pháp) năm 2000 với đề tài về Chiến tranh Đông Dương trong bối cảnh xuyên quốc gia. Ông đã biên soạn và xuất bản hơn một chục đầu sách, trong đó có Historical Dictionary of the Indochina War (1945–1954), được tạp chí Choice xếp vào danh sách “Outstanding Academic Titles 2012” (Sách học thuật xuất sắc năm 2012). Năm 2016, Goscha xuất bản cuốn Vietnam: A New History, đoạt giải John K. Fairbank 2017 và được đánh giá là một trong những công trình toàn diện nhất bằng tiếng Anh về lịch sử Việt Nam hiện đại. Gần đây, ông tiếp tục gây tiếng vang với The Road to Dien Bien Phu: A History of the First War for Vietnam, một khảo cứu nhiều chiều cạnh về chiến thắng Điện Biên Phủ của Hồ Chí Minh trước thực dân Pháp – sự kiện được xem như đã báo trước trải nghiệm của Mỹ tại Việt Nam sau này.

Máy bay vũ trụ bí ẩn X-37B lại lên đường mang theo thiết bị GPS lượng tử

Máy bay vũ trụ X-37B của Lực lượng Không gian đã bắt đầu một nhiệm vụ đột phá : thử nghiệm một giải pháp thay thế lượng tử cho định vị GPS

X-37B

Trong không gian, đặc biệt là ngoài quỹ đạo Trái Đất, tín hiệu GPS trở nên không đáng tin cậy hoặc đơn giản là biến mất. Điều tương tự cũng xảy ra dưới nước, nơi tàu ngầm hoàn toàn không thể truy cập GPS. 

Space Force Space Plane – Launch Slip

Máy bay vũ trụ bí ẩn X-37B lại bay, lần này mang theo một thiết bị thay thế GPS lượng tử

Space exploration reaches a new milestone when the X-37B safely returns ...

X-37B là một tàu vũ trụ không người lái, nó trông giống như tàu con thoi đã nghỉ hưu của Hoa Kỳ nhưng bé nhỏ hơn, nó được phóng lên bằng tên lửa đẩy và sau khi trở về Trái Đất, nó sẽ hạ cánh không cần động cơ trên đường băng mặt đất. Tàu có động cơ có thể sử dụng để di chuyển trong không gian, nhưng vào năm 2024, nó đã cố tình lướt trên bầu khí quyển Trái Đất bằng cách sử dụng “phanh khí động” để tạo ra sự thay đổi đáng kể trên đường bay (quỹ đạo) của nó, thay vì phải tiêu tốn rất nhiều năng lượng để khởi động hệ thống phản lực.

Vì nguyên tử hoạt động như một sóng trong cơ học lượng tử, hai đường đi này giao thoa với nhau, tạo ra một mô hình tương tự như những gợn sóng chồng lên nhau trên mặt nước. Mô hình này chứa đựng thông tin chi tiết về cách môi trường xung quanh nguyên tử ảnh hưởng đến hành trình của nó. Đặc biệt, những thay đổi nhỏ nhất trong chuyển động, chẳng hạn như sự quay của cảm biến hoặc gia tốc, đều để lại dấu vết có thể phát hiện được trên các “sóng” nguyên tử này.

 

So với các hệ thống dẫn đường quán tính cổ điển, cảm biến lượng tử có độ nhạy cao hơn gấp nhiều lần. Vì các nguyên tử giống hệt nhau và không thay đổi, không giống như các thành phần cơ học hay thiết bị điện tử, chúng ít bị trôi dạt hoặc sai lệch hơn nhiều. Kết quả là khả năng dẫn đường có độ chính xác cao và thời gian dài mà không cần tham chiếu bên ngoài.

Boeing đã thử nghiệm công nghệ GPS lượng tử này vào tháng 3 năm 2025, khi hãng mô tả công nghệ này liên quan đến việc “sử dụng đơn vị đo quán tính lượng tử sáu trục (IMU) sử dụng “kỹ thuật cảm biến lượng tử gọi là giao thoa nguyên tử để phát hiện chuyển động quay và gia tốc bằng cách sử dụng nguyên tử”.

Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia của Hoa Kỳ đã mô tả phép giao thoa nguyên tử là “một cách cực kỳ chính xác để đo gia tốc” và đã chế tạo một “bộ điều biến quang tử silicon hiệu suất cao – thiết bị điều khiển ánh sáng lượng tử bằng vi mạch điện tử” để có thể đưa bộ đo lượng tử đi vào hoạt động.

New quantum technology could lead to GPS-free navigation

Bản vẽ ý tưởng về chip điều biến dải đơn quang tử silicon

Nguồn: Science Advances (2024).

Vấn đề cốt lõi là giao thoa kế nguyên tử có thể được sử dụng để đo vị trí – công việc tương tự như chúng ta sử dụng GPS ngày nay.

Điều này đưa chúng ta trở lại lý do tại sao Trung Quốc hơi lo lắng về X-37B: Bắc Kinh lo ngại vệ tinh định vị Bắc Đẩu của họ có thể bị vô hiệu hóa. Hoa Kỳ cũng lo ngại về việc mất vệ tinh GPS, vì chiến tranh hiện đại phụ thuộc vào chúng.

Do đó, chuyến bay X-37B này có ý nghĩa quan trọng hơn một chút vì nó đang thử nghiệm một công nghệ có thể cho phép tàu vũ trụ trong tương lai và máy bay, tàu thủy chiến đấu, tên lửa, UAV tìm đường đi đến mục tiêu ngay cả khi hệ thống định vị vệ tinh gặp sự cố vì bị JAM, phá sóng…

Lầu Năm Góc không cho biết khi nào  X-37B sẽ quay trở lại Trái Đất hoặc họ hy vọng đạt được điều gì với nhiệm vụ này.

  • Hoa Kỳ, Trung Quốc và các quốc gia khác đang trong cuộc chạy đua công nghệ lượng tử để phát triển các hệ thống Định vị, Điều hướng và Đo Thời gian bằng lượng tử (PNT) . Trung Quốc được cho là đang cố thử nghiệm các công nghệ tương tự trong giai đoạn khởi đầu.

 

 

Charlie Kirk đã tiếp cận và mang Đức Tin đến cho giới trẻ như thế nào?

Theo báo WSJ và Copilot AI

Olivia Hubbard tại Đại học Grand Canyon.

Olivia Hubbard, 19 tuổi, cho biết việc lắng nghe Charlie Kirk nói chuyện giống như được nghe tất cả niềm tin của cô được diễn đạt rõ ràng. Ảnh: Rebecca Noble cho WSJ

PHOENIX—Khi Olivia Hubbard rời Iowa để đi học đại học, cô nghĩ mình sẽ thoát khỏi chủ nghĩa bảo thủ mà cha cô vẫn luôn rêu rao. Nhưng thay vào đó, cô đã được thức tỉnh về … Đức Tin.

Hubbard, hiện 19 tuổi, đã được một người bạn cùng phòng thuyết phục gặp Charlie Kirk vào năm ngoái khi anh đến thăm Đại học Grand Canyon, cách trụ sở tổ chức Turning Point USA của Kirk 20 phút. Hubbard nói rằng nghe Kirk nói chuyện giống như được nghe tất cả niềm tin của cô được diễn đạt rõ ràng.

“Tôi nghĩ thật tuyệt vời khi có người trẻ tuổi,  học ở tất cả các trường đại học như thế này, lại còn đức tin vào Chúa và thực sự truyền bá điều đó”, Hubbard, một người theo đạo Thiên Chúa, chia sẻ. Từ khoảnh khắc đó, cô bị cuốn hút, thức khuya xem video Kirk tranh luận với sinh viên theo chủ nghĩa tự do ở các trường đại học khác.

Kirk đã bị sát hại hôm thứ Tư trong chuyến thăm Đại học Utah Valley. Người đàn ông 31 tuổi này đã trở thành người tiên phong của phong trào MAGA và được Tổng thống Trump ghi nhận vì đã xây dựng được sự ủng hộ của giới trẻ và giúp ông tái đắc cử.

Người đưa tang theo dõi linh cữu của Charlie Kirk được đưa đến Sân bay quốc tế Sky Harbor.

Người dân theo dõi lễ đưa linh cữu của Charlie Kirk đến Sân bay Quốc tế Sky Harbor ở Phoenix vào thứ năm. Ảnh: Rebecca Noble cho WSJ

Là bậc thầy về truyền thông đại chúng thế kỷ 21, Kirk đã làm được điều mà Đảng Cộng hòa đã thất bại trong nhiều thập kỷ: tạo đột phá trong việc tiếp cận thế hệ trẻ. Bất kể họ có ủng hộ ông hay không, sinh viên đại học gần như không thể mở mạng xã hội mà không xem video của Kirk.

Đối với thế hệ thanh niên bảo thủ, ông đã truyền cảm hứng cho họ tự hào chia sẻ quan điểm của mình, bao gồm cả việc phản đối phá thai và hôn nhân đồng giới. Vô số người khác cho rằng quan điểm của ông mang tính phân biệt đối xử và xúc phạm. Dù yêu hay ghét ông, Kirk vẫn hiện diện ở khắp mọi nơi.

Copilot AI nhận định

Chứng ngôn cá nhân và đức tin mạnh mẽ

  • Anh Charlie Kirk thường nói, “Tôi chẳng là gì nếu không có Chúa Jesus” , anh đã tâm sự về việc dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Kitô vào năm đang ở bậc tiểu học, lớp năm và xây dựng sứ mệnh mà Chúa giao phó cho mình dựa trên chân lý Kinh thánh.
  • Tuy nhiên, anh nói một cách cởi mở về tội lỗi mà Chúa Giế Su có thể xóa bỏ nhờ Thập Giá của Ngài, nói về sự cứu rỗi, hôn nhân và cuộc sống vĩnh hằng mai sau, ngay cả trong những môi trường thù địch.
  • Kirk biết tận dụng các nền tảng như The Charlie Kirk Show để nói về hy vọng, mục đích sức mạnh của Kinh thánh trong cuộc sống hàng ngày. Anh kêu gọi những người theo đạo Thiên chúa tham chánh để tác động đến mọi lĩnh vực của xã hội.

Đức tin đi vào các nhà thờ

  • Năm 2022, Kirk đã ra mắt Turning Point Faith , một chi nhánh mới của tổ chức Turning Point của ông nhằm mục đích giúp các nhà thờ tham gia vào các hoạt động dân sự tâm linhÔng khuyến khích các mục sư rao giảng một cách mạnh dạn về thẩm quyền của Kinh Thánh, từ chối “chủ nghĩa tự do quá trớn và chủ nghĩa phản đối có tên là “thức tỉnh”. 

Làm sao “vui để đợi chết” – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Hắn cứ hay suy nghĩ vẫn vơ. Tới tuổi “bát thập” rồi, hắn luôn tạ ơn Chúa vì hắn còn sống, còn đi đứng được, còn ăn uống được, lại được sống ở nước Mỹ đầy đủ tiện nghi và tự do nhất thế giới. Dầu vậy, hắn cũng hiểu rằng, tới tuổi 80, 81 rồi hắn sẽ ngã bịnh nặng bất cứ lúc nào?

+ Sẽ bị bịnh gì chưa biết; cao máu, tiểu đường, cao mở, stroke rồi bị liệt, mất trí nhớ (Alzheimer)… Nếu khi bị Stroke hay Alzheimer hắn sẽ không thể nói cho con cháu nghe được nữa, nên hắn muốn viết trước vài suy nghĩ, để lại cho con cháu.Hắn viết:Sinh Lão Bịnh Tử đó là con đường ta phải trải qua trong cuộc sống nhân sinh này. Ta được sinh ra không được hỏi ý kiến vì ta chỉ là đứa trẻ nít, chưa biết gì. Khi già lão thì biết, sức khỏe càng ngày càng suy yếu, hay mệt nhọc, không còn làm việc nhiều được nữa. Chạy xe gần thì được. Chạy xe đi xa hơn 30 phút là thắm mệt. Đọc sách cũng không còn tha thiết như xưa nữa.

Sáng thức dậy, cứ muốn ngủ thêm, dậy không nổi, không thấy khoẻ như trước của tuổi U70”.

1)Có một điều không dự đoán được là:

+Chắc chắn là sẽ bị bịnh gì đó rất nặng, sẽ nằm nhà thương hay nằm tại nhà bao lâu rồi mới ra đi. Rồi cũng phải chịu đựng tình trạng không tự lo cho mình được? Không tự đánh răng được, không mặc áo quần được, không tự ăn uống được, không thể đi lại được chỉ nằm chờ chết là bao lâu?

+Sẽ chết như thế nào? Chết ở nhà hay ở nhà thương?

+Khó khăn là ta phải đương đầu với bịnh tật. Khi bị bịnh nặng, ta sẽ buồn rầu chán nản, than thân, trách móc Chúa, gây gỗ với người chung quanh. Làm sao sống vui vẻ, không than thân, khóc lóc lúc bị bịnh nặng. Làm sao không gây sầu khổ, đau buồn, lo lắng cho con cháu, cho gia đình, cho người thân, bạn bè, bà con? Làm sao không gây lo lắng, khó khăn cho người chung quanh.Vô cùng khó.

Chỉ có thường suy nghĩ về sự bịnh hoạn, về sự đau đớn thể xác, sự đau khổ về tinh thần, sống dựa vào Chúa, nhờ ơn Chúa giúp sức, may ra mới chịu đựng được những đau đớn, khổ sở của bản thân mình?

2)Đối diện với đau khổ, phải có thái độ như thế nào?

+Để có thể chịu đựng được đau đớn thể xác và đau khổ về tinh thần? Làm sao chấp nhận những khó khăn, đau khổ đó ở đời này. Xem những đau khổ, khó khăn đó là món quà hy sinh, chịu đựng, dâng lên Chúa.

Ở Mỹ không có thiếu thốn về vật chất nhưng cũng không thoát khỏi sự đau khổ về tinh thần.

Ở Việt Nam nhiều người thiếu thốn về vật chất, gặp nhiều khó khăn, đau khổ. Còn những người giàu không thiếu thốn về vật chất, nhưng họ vẫn phải chịu đựng sự đau khổ về tinh thần, như con cái không chịu học hành, bỏ nhà đi bụi đời, chồng hoặc vợ ngoại tình, gia đình ly tán…

Bịnh tật và sự chết không chừa một ai. Đó là quy luật sinh lão bịnh tử.

+Trước những vấn đề đau khổ đó thái độ của chúng ta như thế nào mới là quan trọng?

Trong bài: “Đối Diện Với Đau Khổ” (trích Bài học Kinh Thánh Hằng ngày)

“Khi đối diện với đau khổ, con người có khuynh hướng than thân trách phận, trách cả Đức Chúa Trời, thậm chí có người còn chối bỏ đức tin. Nhưng ông Gióp trong mọi đau khổ xảy đến vẫn không phạm tội và không hề nói lời nào trách móc hay phạm thượng với Chúa. Khi nhận biết sự tể trị của Chúa trên cuộc đời mình, chúng ta có thể sấp mình thờ phượng, cầu nguyện, và ngợi tôn Chúa ngay cả trong cơn khủng hoảng nhất xảy đến cho mình. Bạn từng đối diện với những đau khổ nào? Bạn đã phản ứng ra sao? Gương của ông Gióp nhắc nhở bạn điều gì?

Lạy Chúa, khi cuộc đời con chan đầy nước mắt, con vẫn tin rằng Chúa ngự trên cao, tình yêu Ngài vẫn phủ trùm mặt đất, và quyền năng Ngài vẫn tỏa vượt trăng sao”

3)Tuyệt vời là ở sự chịu đựng đau đớn, đau khổ.

Sống lạc quan, vui vẻ, tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh (Tx 5, 18). Tuyệt vời là ở sự chịu đựng đau đớn về thể xác, tuyệt vời là ở sự chịu đựng đau khổ về tinh thần. Không biết có làm được không?

Khi tâm hồn lạc quan, sống vui thì ngay lúc chết, sự vui vẻ lạc quan đó giúp cho linh hồn tràn ngập niềm vui để về với Chúa, hưởng phúc thiên đàng.

 Phùng Văn Phụng

04 tháng giêng năm 2023

Xem thêm:

+Bài Học Tịnh Tâm

+Vui Để Đợi Chết

Nepal đánh nhau và bài học của chúng ta

Ba’o Tieng Dan

12/09/2025

Dương Quốc Chính

Mồi lửa trực tiếp cho cuộc nổi dậy là chỉ thị ngày 28 tháng 8 của chính phủ, yêu cầu 26 nền tảng mạng xã hội, bao gồm các ứng dụng phổ biến như Facebook, Instagram, WhatsApp, X (trước đây là Twitter), và YouTube, có vẻ như bao gồm cả Zalo, phải đăng ký hoạt động tại địa phương trong vòng bảy ngày, nếu không sẽ phải đối mặt với lệnh cấm trên toàn quốc.

Lý do chính thức mà chính phủ đưa ra là để hạn chế ngôn từ kích động thù địch, tin giả và tội phạm trực tuyến, đồng thời bảo đảm các nền tảng được “quản lý đúng đắn, có trách nhiệm và giải trình được”.

Lý do này anh em thấy quen không? Việt Nam cũng có cái gần tương tự, là nghị định 147. Nghị định này hơi bị “ảo tưởng sức mạnh” quá, không rõ ông nào nghĩ ra. Đại khái yêu cầu các mạng xã hội… phải xác thực thông tin cá nhân người dùng bằng số điện thoại của Việt Nam hay căn cước công dân. Nếu không thực hiện thì sẽ bị xử lý.

Trước đó thì dùng số điện thoại hay email (có thể clone dễ dàng) để đăng ký mạng xã hội đều được, nhà nước không kiểm soát. Mục đích mà phía Việt Nam đưa ra cũng gần tương tự Nepal, đó là kiểm soát tính chính xác của thông tin, hạn chế tin giả, tội phạm trực tuyến… Vụ này mình có viết status và cả video để phân tích. Bản chất việc đó cũng tốt, như giải trình của cơ quan chức năng, tuy nhiên, Việt Nam lại vẫn duy trì các chuồng bò với hầu hết là nick ảo, để định hướng dư luận. Thế hóa ra là tự bóp d@i hay là có con vật được bình đẳng hơn?!

Trên thực tế, Nghị định 147 đã không được thực thi đầy đủ, khi mình không thấy các mạng xã hội mà mình đang dùng yêu cầu phải xác thực thông tin cá nhân. Có nghĩa là hầu hết các mạng xã hội đều không tuân thủ Nghị định 147? Mình chỉ thấy Việt Nam đánh thí điểm Telegram, cấm thật, nhưng sau độ 1-2 tháng thì lại thấy xuất hiện dù thực tế ai dùng Telegram cũng phải dùng số điện thoại (không nhất thiết của Việt Nam).

Dường như các mạng xã hội không tuân thủ cũng chả sao? Hình như bây giờ có Reddit (mạng này coi như ẩn danh người dùng tuyệt đối) vẫn đang bị chặn? Có vẻ như Việt Nam không dám chặn các ông lớn kiểu Facebook, X, YouTube… do đó còn là nguồn sống của rất nhiều người?

​Quay lại Nepal, động thái chặn mạng xã hội của chính phủ ngay lập tức bị công chúng và cộng đồng quốc tế lên án rộng rãi, coi đây là một công cụ kiểm duyệt và là một “tiền lệ nguy hiểm cho tự do báo chí”. Lệnh cấm đã gây ra sự hỗn loạn trên toàn quốc, ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp, ngành du lịch sống còn của Nepal, và đặc biệt là cắt đứt liên lạc với cộng đồng người Nepal hải ngoại đông đảo, những người phụ thuộc vào các ứng dụng này để giữ kết nối với gia đình.

Lệnh cấm mạng xã hội chỉ là tia lửa làm bùng lên một đống lửa đã được vun sẵn từ lâu. Trước khi các cuộc biểu tình nổ ra, các nền tảng như TikTok (vốn không bị cấm vì đã đăng ký) trở thành công cụ để phơi bày lối sống xa hoa của con cái các chính trị gia, được gọi là “nepo kids”.

Các chiến dịch này làm nổi bật sự tương phản gay gắt giữa sự giàu có của giới tinh hoa và thu nhập bình quân đầu người thấp của đất nước (chỉ $1.400 mỗi năm), làm dấy lên nhận thức về nạn tham nhũng và chủ nghĩa gia đình trị đã ăn sâu vào hệ thống.

Cơn giận dữ này không phải là trừu tượng; nó gắn liền với sự thất bại của chính phủ trong việc truy tố các vụ án tham nhũng lớn và một cảm giác chung rằng tầng lớp chính trị hoạt động mà không bị trừng phạt.

Nền tảng của các cuộc biểu tình là những con số kinh tế nghiệt ngã. Tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên được Ngân hàng Thế giới ghi nhận là 20%, và thực tế là hàng ngàn người trẻ Nepal buộc phải rời quê hương mỗi ngày để tìm kiếm việc làm ở nước ngoài, đặc biệt là làm lính đánh thuê cho Nga.

Các cuộc biểu tình là tiếng nói của một thế hệ cảm thấy mình “không có tương lai” ở Nepal. Sự tuyệt vọng về kinh tế này, kết hợp với nhận thức rằng giới tinh hoa chính trị đang tích trữ của cải và cơ hội, đã tạo ra một hỗn hợp các bất bình mạnh mẽ và dễ bùng nổ.

Tại sao người biểu tình lại đốt khách sạn Hilton? Chi tiết này hay bị anh em bò đỏ chỉ trích nặng nề, cho rằng đây là hành động bạo lực bộc phát vô lý.

​Các khách sạn năm sao như Hilton, Hyatt Regency và Varnabas Museum Hotel đã bị những người đốt phá tấn công cùng lúc với các tòa nhà chính phủ và nhà riêng của các chính trị gia. Hành động này được coi là một cách để thể hiện sự phẫn nộ đối với sự giàu có và đặc quyền mà những cơ sở này đại diện trong bối cảnh một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới.

Anh em chuồng bò đang ra sức đấu tố một thanh niên tên là ​​Abiskar Raut, cậu này nổi tiếng từ một video diễn thuyết rất hùng hồn bằng tiếng Anh với âm điệu giống hệt Hitler. Vậy vai trò của thanh niên này là gì? Có phải lãnh tụ của Gen Z là phải chịu trách nhiệm về bạo lực đã diễn ra?

Cuộc biểu tình của “Thế hệ Z” ở Nepal không có một nhà lãnh đạo duy nhất, từ trên xuống. Thay vào đó, nó được mô tả là một phong trào phi tập trung và tự phát, ban đầu không có sự lãnh đạo chính thức. Tuy nhiên, trong quá trình diễn ra các cuộc biểu tình, một số cá nhân và tổ chức đã nổi lên với các vai trò chủ chốt khác nhau:

– ​​Sudan Gurung: Ông được xem là gương mặt nổi bật nhất của phong trào. Từng là một nhà tổ chức sự kiện, ông chuyển sang hoạt động dân sự sau khi tham gia công tác cứu trợ trong trận động đất năm 2015. Uy tín của ông đến từ sự tham gia ở cấp cơ sở và năng lực tổ chức, điều này đã khiến những người trẻ tuổi tin tưởng ông.

Sudan Gurung, 36 tuổi, nhân vật nổi bật trong phong trào biểu tình ở Nepal. Ông và tổ chức Hami Nepal của ông kêu gọi biểu tình ôn hòa, phản đối chính phủ vì lệnh cấm mạng xã hội. Nguồn ảnh: Facebook

– ​Hami Nepal (Chúng tôi là Nepal): Tổ chức phi chính phủ do Gurung lãnh đạo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tổ chức. Họ đã sử dụng mạng xã hội để vạch ra các tuyến đường biểu tình, chia sẻ các mẹo an toàn và huy động hàng ngàn người trẻ tham gia.

​​- Abiskar Raut: Một học sinh 16 tuổi, là trưởng nam sinh của trường Trung học Phổ thông Holy Bell English. Anh đã trở thành một biểu tượng và tiếng nói truyền cảm hứng cho phong trào sau khi một bài phát biểu đầy nhiệt huyết của anh từ tháng 3 năm 2025 lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội.

Abiskar Raut, 16 tuổi, là học sinh trường PTTH Holy Bell English. Nguồn: Free Press Journal

Trong bài phát biểu đó, anh đã lên án nạn tham nhũng và sự quản lý yếu kém của chính phủ, đồng thời kêu gọi giới trẻ đứng lên. Bài phát biểu này đã trở thành một “lời hiệu triệu” cho các cuộc biểu tình vào tháng 9. Nếu các bạn đọc/ nghe được bài phát biểu này thì sẽ thấy chàng trai này rất có tố chất chính trị, nội dung bài phát biểu rất hùng hồn và cuốn hút. Lời lẽ về tính kích động tinh thần yêu nước có thể so sánh với… Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến!

Phát biểu hùng hồn kiểu này có hai nhân vật nổi tiếng là Hitler và Fidel Castro và hình như cả Lenin.

Hiện tại, ứng viên thủ tướng được đề xuất dĩ nhiên không phải là những nhân vật trẻ tuổi nói trên (họ có lẽ chỉ là những nhà lãnh đạo trong tương lai, ít nhất là 10 năm tới).

– Sushila Karki: Nữ Chánh án đầu tiên của Nepal, nổi tiếng với lập trường chống tham nhũng mạnh mẽ. Bà là lựa chọn hàng đầu của nhiều người biểu tình, bao gồm cả phe của Sudan Gurung.

Bạo lực từ đâu mà có?

Chuyện này thông tin trên Facebook cũng bị anh em chuồng bò bẻ lái rất nhiều, họ tấn công, mạ lị cậu học sinh kia rất nặng nề và kêu gọi quân đội tấn công đàn áp kiểu Thiên An Môn.

Thực tế là ban đầu biểu tình ôn hòa, nhưng đã bị cảnh sát đàn áp bằng đạn cao su và cả đạn thật, khiến khoảng 20 người chết, gồm cả học sinh, vài trăm người khác bị thương. Vì thế mà bạo lực mới diễn ra như sự đáp trả của đám đông. Có lửa mới có khói.

Sự kiện này liệu có phải do phương Tây giật dây?

Luận điều này anh em bên chuồng bò cũng đang tuyên truyền mạnh. Tuy nhiên, thực tế chưa có bằng chứng gì cả. Thủ tướng Oli mới từ chức là thân Trung Quốc, tất nhiên Ấn Độ không ưa ông này.

Nepal bị ảnh hưởng lớn bởi hai nước lân bang là Ấn Độ và Trung Quốc. Nhưng hai nước này mới chỉ lên tiếng quan ngại, chứ không có bằng chứng gì cho thấy là đứng sau bạo động. Cũng không thấy họ có lợi ích rõ rệt. Vì thực tế là chính phủ vừa sập là liên minh cả đảng thân Tàu (CS) và thân Ấn (Quốc đại).

Còn chính phủ Mỹ chưa lên tiếng dù báo chí Mỹ thì đưa tin nhiều. Cũng chưa thấy dấu hiệu nào cho thấy phương Tây giật dây vụ này.

Vậy bài học nào cho chúng ta?

Đầu tiên phải nhắc tới là tình trạng tham nhũng và phân biệt giàu nghèo. Thứ hai là việc cấm đoán mạng xã hội, vì đó là nơi người dân được tự do biểu đạt. Hơn nữa, nó là nồi cơm của nhiều cá nhân, tổ chức, nơi trao đổi thông tin với khắp thế giới. Rất may là Việt Nam cũng chịu nhún chứ không xử lý đồng loạt mấy chục mạng xã hội!

Tất nhiên bài học trấn áp từ trứng nước thì Việt Nam đã học theo Trung Quốc từ lâu, nên Việt Nam sẽ không thể có biểu tình to như vậy, dù đã từng có tương đối to. Có lẽ vậy, nên hầu hết những ai từng biểu tình đều đã bị bắt.


 

Thiếu niên am hiểu công nghệ trở thành vị thánh đầu tiên của Giáo hội Công giáo thế hệ Thiên niên kỷ

Theo báo WSJ

Bức tượng Thánh Carlo ôm Chúa Jesus do một nghệ nhân địa phương làm ra tại một cửa hàng ở Assisi.

ASSISI, Ý—Mỗi ngày trong mùa hè này, hàng ngàn tín đồ Công giáo đã đổ về một nhà thờ thế kỷ 12 ở thị trấn thời trung cổ này để tỏ lòng thành kính với một thiếu niên am hiểu công nghệ được một số người coi là vị thánh bảo trợ của Internet.

Carlo Acutis, người qua đời năm 2006 vì bệnh bạch cầu ở tuổi 15, đã được Giáo hoàng Leo XIV chính thức công nhận là thánh vào Chủ Nhật, lần đầu tiên trao tặng danh hiệu cao quý nhất của Giáo hội Công giáo cho một người thuộc thế hệ thiên niên kỷ.

Carlo Acutis’ Online Mission: How He Used Technology to Spread the ...

Đôi khi còn được gọi là “Người có ảnh hưởng của Chúa”, biểu tượng mới nổi của Thánh Carlo thường mô tả ngài cầm một chiếc máy tính xách tay. Điều này gợi nhớ đến sở thích của ngài – lập trình máy tính – một kỹ năng mà ngài đã sử dụng để truyền bá Phúc Âm, thiết kế trang web cho các tổ chức tôn giáo và một trang web cá nhân ghi lại các phép lạ.

Vào Chủ Nhật, Đức Giáo hoàng Leo cũng vinh danh một vị thánh khác: Pier Giorgio Frassati, một nhà từ thiện người Ý và nhà hoạt động xã hội Công giáo, qua đời năm 1925 ở tuổi 24. Nhưng đám đông ở Vatican chủ yếu đến để tưởng nhớ Thánh Carlo, vị thánh đầu tiên của thế hệ ông.

“Thánh Pier Giorgio Frassati và Carlo Acutis là lời mời gọi tất cả chúng ta, đặc biệt là những người trẻ, đừng lãng phí cuộc sống của mình, nhưng hãy hướng cuộc sống lên cao và biến chúng thành những kiệt tác”, Đức Leo phát biểu với đám đông tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô vào Chủ Nhật.

Carlo Acutis: The Miracles That Prepared His Canonization – Catholic ...

Copilot AI nói về chân phước Carlo Acutis,

 1. Lòng sùng kính Thánh Thể

Cuộc sống của Carlo xoay quanh Bí tích Thánh Thể. Cậu gọi đó là “con đường cao tốc lên Thiên Đàng” và tham dự Thánh lễ hằng ngày từ năm lên bảy. Carlo từng nói:

“Khi ta đứng dưới ánh mặt trời, ta sẽ rám nắng… nhưng khi ta đứng trước Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, ta trở nên thánh thiện.”


 2. Truyền giáo qua công nghệ

Carlo là một lập trình viên tự học, đã tạo ra một trang web ghi lại 187 phép lạ Thánh Thể trên khắp thế giới. Cậu sử dụng kỹ năng công nghệ để loan báo Tin Mừng, chứng minh rằng công cụ kỹ thuật số có thể phục vụ cho mục đích thiêng liêng.


 3. Dâng hiến đau khổ

Khi được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu ở tuổi 15, Carlo đã dâng đau khổ của mình cho Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội, nói rằng:

“Con dâng tất cả đau khổ của con lên Chúa cho Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội, để không phải vào luyện ngục mà được lên thẳng Thiên Đàng.”

Carlo Acutis: Patron Saint of Computer Geeks - The Southern Cross


 4. Một vị thánh mang giày thể thao

Carlo là một thiếu niên bình thường — yêu thích bóng đá, trò chơi điện tử và bạn bè — nhưng sống với sự thánh thiện sâu sắc. Cuộc sống của cậu chứng minh rằng sự thánh thiện có thể hiện diện trong đời sống thường nhật, ngay cả trong thời đại kỹ thuật số.


✨ 5. Phép lạ và phong thánh

Hai trường hợp chữa lành không thể giải thích bằng y học đã được ghi nhận nhờ lời cầu bầu của Carlo, dẫn đến việc cậu được phong thánh vào ngày 7 tháng 9 năm 2025, trở thành vị thánh thiên niên kỷ đầu tiên.


️ Thông điệp của Carlo gửi đến thế giới:

“Buồn bã là khi ta nhìn vào chính mình, hạnh phúc là khi ta hướng về Thiên Chúa.”
“Điều duy nhất ta cần xin Chúa trong lời cầu nguyện là ước muốn được nên thánh.”


 

Tư cách của kẻ sĩ dưới thời toàn trị

 Vài kỷ niệm đẹp với giáo sư Trần Ngọc Ninh ở VN sau 1975

Nguyễn Tư Quốc

Riêng tặng cô Trần Uyên Thi, chủ biên quyển Ước Vọng Duy Tân.

Phù thế giáo một vài câu thanh nghị – Nguyễn Công Trứ – 

 Tôi viết bài này, mừng thầy Trần Ngọc Ninh qua tuổi trường thọ và vẫn còn minh mẩn. Vị thầy mà các sinh viên y khoa Sài Gòn thuở trước ít có dịp gần gủi, nên ít hiểu ông. Những điều tôi sẽ kể đều là những sự kiện có thật, xảy ra sau tháng tư 1975, đến năm 1977 là lúc thầy rời khỏi Viện Nam. Tôi mong người nào có ngày viết sử, nên để mắt tới chuyện này, để biết rằng, ở miền nam, phần lớn trí thức không phải là những kẻ hèn. Có một bác sĩ đã dẫn lời giáo sư Nguyễn văn Trung, cựu khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài gòn, nhận xét về giáo sư Trần Ngọc Ninh : Chỉ riêng lãnh vực văn hóa, ông đáng là thầy của họ (ý chỉ những giáo sư văn khoa ở Hà Nội vào nam sau 1975).

Giáo sư Đào Dức Hoành, lúc dạy sinh viên đã nói về người bạn thân của mình : Khi là sinh viên, anh đã đọc hết sách của nội trú. Khi là nội trú, anh đọc hết sách của thường trú. Khi là thường trú, anh đọc hết sách của giáo sư. Khi là giáo sư, không còn sách để đọc, anh đọc sang sách văn chương, lịch sử, ngôn ngữ học. Đó chỉ là một cách nói, vì ai vào thư viện trường y, mở sách ra, mà không thấy tên thầy Ninh, ông đã mượn và đả đọc gần hết sách của thư viện trường y khoa Sài Gòn. Khi học giả giáo sư Đào Duy Anh, từ Hà nội vào Sài Gòn, ghé thăm học giả Nguyễn Hiến Lê bàn về ngôn ngữ học.

Ông Nguyễn Hiến Lê bảo gs Anh nên tìm giáo sư Trần Ngọc Ninh mà nói chuyện, vì giáo sư Ninh giỏi hơn ông về lĩnh vực này Trong đại giảng đường trường y khoa Sài Gòn, ông là giám khảo buổi thi tốt nghiệp của sinh viên y khoa, ông nói “Các anh chớ có hội chẩn, một trăm con số không vẫn là con số không” Hội chẩn là cách tránh né trách nhiệm, sản phẩm của chế độ cộng sản, làm cho nhiều bệnh nhân thiệt mạng. Bà Bảy Vân, vợ hai của ông Lê Duẩn, kể chuyện về con gái mình ở Moscou bỏ mạng cũng vì chờ hội chẩn Khi giảng bài cho sinh viên, thầy Ninh bảo : Đây là lần cuối cùng, tôi giảng cho các anh chị về y khoa khoa học, vì sau này sẽ không còn y khoa khoa học nữa, mà chỉ có y khoa nhân dân thôi (nghĩa là hết khoa học).

Năm 1976, có một bà bịnh nhân bị gãy tay. Ông mổ xong, lúc tái khám, được bà cám ơn, bà nói : Xin đội ơn bác sĩ,, tay tôi nay đã khỏi, nhưng mắt tôi ngày càng mờ, không thấy gì rõ ràng nữa cả. Ông trả lời : Tôi cũng muốn được như bà đấy. Tôi muốn mắt tôi mờ để khỏi phải nhìn thấy những điều không muốn thấy, muốn tai tôi điếc để không phải nghe những điều không muốn nghe, muốn miệng tôi câm để khỏi phải nói những điều không muốn nói. Nghe xong, bà bệnh nhân sợ quá, bỏ đi tức khắc. Trong một bữa tiệc tiễn các bác sĩ sơ bộ chuyên khoa ngành chỉnh trục ra trường, có sự hiện diện của anh Năm Lực bí thư kiêm phó giám đốc bệnh viện Bình Dân. Gíáo sư Ninh phát biểu : “Lâu lắm rồi tôi mới thấy món thịt như bữa hôm nay”, rồi ông xin một trái ớt.

Giáo sư Ngô Gia Hy bảo : Anh thấy chưa đủ cay sao mà còn cần đến ớt. Năm Lực hiểu ra, không nói gì. Trong hành lang phòng mổ, lúc các nội trú chỉnh trực xin phép thầy chiều phải về trường học chính trị nên không thể phụ mổ với thầy . Ông bảo : Tốt, tốt lắm, các anh sẽ được dạy về chủ nghĩa Max-Lenin, đó là những lý luận một chiều, mà chiều đó ngược với chân lý ! Vì những lời lẽ đó, sinh viên tranh đấu thời VNCH Nguyễn Thanh Công đòi cho ông đi cải tạo – Nhưng rồi… sau cùng thì chính Công đã gánh những ê chề nhục nhã để “sáng mắt sáng lòng”, bị hạ tầng công tác, kiểm điểm vì khai man (hai hộ khẩu để mua nhu yếu phẩm), bị trù dập vì là trí thức tiểu tư sản thành thị. Cộng sản không ngu trên lãnh vực dùng người, nhất là trí thức. họ dùng trí thức như con cờ, được việc nhưng không bao giờ tin tưởng, vì trí thức không nằm trong thành phần cơ bản – Sau mỗi lần học chính trị, cộng sản bắt học viên phải báo cáo thu hoạch, có nghĩa là họ muốn biết học viên nghĩ gì để dễ bề đối phó.

Đêm trươ’c ngày thu hoạch, Đậu Ngọc Xuân người viết diễn văn cho ông Lê Duẫn (sau này lên làm bộ trưởng) đến tìm giáo sư Ninh trong bệnh viện Nhi Đồng để thuyết phục ông hôm sau phát biểu, do biết ông có uy tín trong hội đồng khoa, và đồng thời muốn thăm dò ý nghĩ của ông. Hôm sau GS Ninh phát biểu thế này : Học chính trị xong tôi mới biết, trong bao nhiêu năm trời tôi đã phạm rất nhiều sai lầm, nay tôi mới được mở mắt ra. trước kia tôi nghĩ mình cố học cố làm việc với kết quả tốt để cứu nhân độ thế. Nay tôi mới hiểu ra làm như thế là phản quốc. Tôi là tên đại phản quốc, đã phản lại đường lối cách mạng.

Học cho nhiều, làm cho tốt để phục vụ chế độ mỹ ngụy là phản động, cực kỳ phản động, lẽ ra tôi phải bỏ chết hết bọn ngụy kia thì mới tốt mới đúng. Họ biết ông nói kháy họ, thừa hiểu ông muốn nói gì, nhưng không thể bắt bẻ ông được. Lần khác, sau khi đã giảng cho các giáo sư bên thua cuộc về tính ưu việt của chế độ giáo dục xã hội chủ nghĩa, cán bộ tuyên huấn hỏi các giáo sư học viên xem có ý kiến gì không ?

Giáo sư Ninh trả lời là ông không có ý kiến, chỉ xin nêu một câu hỏi : Tuy Karl Marx đã được ăn học trong chế độ tư bản, Lenine trong chế độ sa hoàng, Mao Trạch Đông trong chế độ phong kiến Trung hoa, Hồ chủ tịch trong chế độ thuộc địa, thế mà họ lại lỗi lạc đến như thế, vậy thì rồi trong tương lai, các thế hệ được đào tạo trong môi trường giáo dục ưu việt xã hội chủ nghĩa sẽ sản sinh ra những anh tài kiệt xuất hơn Karl Marx, hơn Lenine, hơn bác Mao, hơn bác Hồ ư ?

Cán bộ giảng ngớ ra không thể trả lời, nói là sẽ hỏi “trên” để trả lời sau. Câu hỏi, mãi mãi không có lời giải đáp, dĩ nhiên rồi ! Ai mà dám trả lời một câu hỏi phạm thượng thế ! Đi học chính trị thời sau 75, là “ngữ cảnh” của câu thơ trào phúng thời ấy Chừng nào bạc giấy xài xu.

Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời. Thời gian ấy, thầy Ninh như cái phao cho bọn thua cuộc ở trường y, ở bệnh viện bám vào dể tìm chút vui sống hàng ngày hầu quên đi cơ cực đói rách. Khi ông đi rồi, chẳng còn ai để bám víu, phải sống với bọn người theo “cơ hội chủ nghĩa”, chà đạp bạn bè đồng nghiệp lập công dâng đảng mong thăng quan tiến chức. Thật quá buồn ! Ai cũng hối tiếc thời gian trước tháng tư 75, tình thày trò, bạn bè, đồng môn, đồng nghiệp mới đẹp làm sao ! Nguyễn Tuân, nhà văn ngang tàng của Bắc Hà, lúc cuối đời có tâm sự với bạn bè “ Tao còn sống sót tới ngày hôm nay là nhờ biết sợ” Điều ấy nói lên sự khủng bố sắt máu của chế độ. Có lần tôi hỏi thầy, vì sao thầy không sợ họ ? Ông bảo từ khi ông mổ tách đôi hai trẻ dính siamois thì họ bắt đầu làm phóng sự ca tụng ông ở đài phát thanh Hà nội, nhất là khi Thông tấn Xã Tass ở Moscou đưa tin trên, như một thành tựu của xã hội chủ nghĩa, thì ông biết mình có cây dù che, vả lại ông đã tính chuyện ra đi nên ông… cóc sợ !

Lần khác, lúc trò chuyện bằng điện thoại, tôi hòi thày về giáo sư Tôn Thất Tùng, có thật là “thần Siêu, thánh Quát” như họ tuyên truyền không ? Ông trả lời : “Cái đáng nói ở giáo sư Tùng là thủ thuật mổ gan của ông, dùng ngón tay để cột các mạch máu thật nhanh, nhưng nếu dùng pince sẽ élégant hơn nhiều”. Rốt lại, theo tôi (người viết bài này) những gì gọi là khảo cứu của giáo sư Tôn Thất Tùng, với thời gian, chẳng có gì đáng để lại cho hậu thế, chưa kể ông theo chế độ, kết án thuốc độc khai quang của Mỹ gây ung thư gan cho dân miền bắc, nay ai cũng biết là do siêu vi trùng viêm gan B và C tạo ra. Lúc giáo sư Tùng vào nam sau 75, có hỏi giáo sư Ninh : “Ninh này, có cách nào mổ con nít mà không chết?” Giáo sư Ninh trả lời : “Anh phải bỏ hết các hành trang phẫu thuật cho người lớn để học lại về cơ thể học, sinh lý, bệnh lý, hồi sức nhi khoa, thì mới cứu sống được trẻ con. Thời ấy, vẫn chưa có ngành phẩu nhi riêng rẽ tại Hà Nội, và Liên xô dịch sách phẫu nhi cũ của Mỹ, đã xuất bản từ 10 năm trước đó. Trước lúc ông ra đi, họ báo cho ông biết, ông là một trong những giáo sư miền nam cũ, được quốc hội quyết định phong chức giáo sư, nhưng ông đã đi trước ngày thụ phong. Sự ra đi của ông, có ảnh hưởng rất lớn đến số phận của các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ tù nhân cải tạo.

Họ được thả ra vì khi thày Ninh trả lời phỏng vấn của các đài phát thanh VOA và BBC. ông đã vạch trần sự dã man của chế độ toàn trị. Những suy nghĩ của vài trí thức miền nam khác mà tôi có dịp trò chuyện Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, phó chủ tịch hội Trí thức yêu nước thành phố HCM, đã nói với ông Võ văn Kiệt rằng, phải tuyển sinh trên tiêu chuẩn học lực, chứ không thể dựa trên lý lịch, vì sinh viên loại này sẽ không hấp thu được gì, chỉ mất thì giờ cho cả thày lẫn trò. Sau hai năm không có kết quả, ông từ chức các chức vụ được giao phó trong trường đại học Tổng Hợp, rồi trở về với nghiên cứu thực vật, rồi qua Pháp làm khảo cứu, sau đó tại Canada, đã cho xuất bản cuốn Cây Cỏ Việt Nam. Cái đáng khinh của người trí thức xã hội chủ nghĩa là ở chỗ này : Ông giáo sư đầu ngành thực vật ở Hà Nội viết sách, lấy tài liệu bao gồm cả hình ảnh từ cuốn Cây Cỏ miền nam của giáo sư Hộ nhưng không hề ghi xuất xứ nguồn tài liệu. Tệ hơn nữa, ông ta nói với giáo sư Hộ, nếu muốn tái bản cuốn Cây Cỏ Miền Nam thì phải đề tên ông vào cho dù ông không viết trang nào, nếu không thì không có chuyện tái bản cuốn sách. Giáo sư Hộ từ chối thẳng thừng vì ông chẳng sợ ai. Khi giáo sư Phạm Hoàng Hộ được trường đại học học Tổng Hợp báo cho biết, ông là một trong những giáo sư đầu tiên của miền nam được quốc hội phong chức giáo sư, và ông phải ra Hà Nội để nhận chức. GS Hộ trả lời : Tôi đã là giáo sư lâu rồi, không cần chức tước gì mới nữa. Và ông đã từ chối ra bắc. Việc này khiến tôi nghĩ đến thời quân chủ (gọi sai là phong kiến), có vua ban áo mão cân đai cho các tiến sĩ. Còn đâu qui chế tự trị đại học mà xưa kia, sinh viên cộng sản Huỳnh Tấn Mẫm đã kêu đòi, cốt để phá đám miền nam trong thời điểm trước 75! Tiến sĩ Phạm Văn Hai cũng là phó chủ tịch hội trí thức yêu nước, do vượt biên nên bị bắt. Thủ tướng Võ Văn Kiệt mời ông đến hỏi : “Tại sao anh bỏ đi, nếu anh muốn tôi sẽ thu xếp cho anh đi theo đường chính thức” Ông trả lời : “Người trí thức có thể chịu nghèo, chịu khổ, nhưng không thể chịu nhục. Các anh đã làm nhục trí thức miền nam lắm” 

From: TU-PHUNG


 

 Quy Luật Âm Dương – Hiểu Để Sống Thọ, Khỏe Tự Nhiên

Thật ra, phần lớn là vì chúng ta sống ngược lại với quy luật tự nhiên – quy luật Âm Dương.

 Buổi tối là thời điểm âm hàn – cơ thể cần được giữ ấm để phục hồi và tái tạo tế bào. Thế nhưng ta lại ăn uống lạnh, nằm máy lạnh, tắm đêm, uống nước đá… khiến tế bào không đủ nhiệt để sản sinh. Khi cơ thể lạnh, máu huyết ứ trệ, tắc chỗ nào là đau chỗ đó. Lâu dần, sinh ra bệnh.

Đó không hẳn là “bệnh”, mà là cơ thể đang báo động: “Tôi đang lạnh! Tôi đang thiếu dưỡng chất!”
Nhưng tiếc là ta lại không nghe. Ta đi tìm thuốc, dập triệu chứng, mà không thay đổi lối sống, cách ăn.

Cơ thể cần ấm để sống. Đôi chân phải đủ ấm (khoảng 37 độ) thì tuỷ xương mới tạo máu, tế bào mới phục hồi. Ban đêm lại càng cần bổ sung những thứ ấm nóng: một ít gia vị cay, một chút béo lành mạnh – để giữ lửa bên trong cơ thể.

Sống khỏe cần hiểu: Cơ thể cần gì để sống?
Muốn cơ thể khoẻ, tế bào cần đủ 4 nhóm chất quan trọng:

– Đạm – nuôi tế bào, tạo máu.
– Béo – giữ ấm, tạo nhiệt, giúp hấp thụ vitamin.
– Đường tốt – cung cấp năng lượng cho não, cho bạch cầu hoạt động.
– Tinh bột và khoáng chất – là nguồn năng lượng cơ bản, giúp cân bằng nhiệt trong cơ thể.

Nhiều người sợ đường, sợ béo mà kiêng khem cực đoan. Nhưng không ăn béo cũng mỡ máu, không ăn đường vẫn tiểu đường là vậy.

Điều quan trọng là ăn đúng loại, đúng cách, đúng thời điểm.

Ăn đúng không chỉ là ăn đủ chất, mà còn phải ăn đủ vị
Tạo hóa ban cho chúng ta 6 vị tự nhiên để nuôi và dẫn dưỡng chất đến đúng nơi cơ thể cần:

– Chua – dẫn lên não, thông tắc nghẽn, giúp tỉnh táo.
– Chát – dẫn xuống chân, giúp chắc xương, khỏe dây chằng.
– Đắng – làm mát cơ bắp, mát gan, rã mỡ.
– Cay – dẫn vào tuỷ xương, làm ấm cơ thể, trị lạnh đau.
– Ngọt – giúp lưu thông toàn thân, giải nhiệt, tăng đề kháng.
– Mặn – giữ nước, làm ấm thận, giúp tế bào trao đổi chất.

Không có vị nào là xấu – chỉ sai khi ta lạm dụng một vị hoặc thiếu vắng một vị trong thời gian dài.

Ví dụ: Ăn chua quá nhiều mà không ăn chát – dễ rụng tóc, nhão cơ, lạnh da. Ăn cay mà không có đắng – nóng gan, nổi mụn.

Mỗi vị là một “chìa khóa” để mở cánh cửa dẫn dưỡng chất đến từng bộ phận cơ thể.
Nếu chỉ ăn đủ chất mà thiếu vị, cơ thể sẽ nơi thừa nơi thiếu – sinh ra rối loạn.

Âm dương trong thực phẩm – cần biết để ăn đúng giờ, đúng mùa
– Vị cay – chát – mặn là dương → nên ưu tiên ăn buổi tối và trưa.
– Vị chua – đắng – ngọt là âm → nên ăn vào sáng và trưa.
– Củ dưới đất như khoai, củ sen, gừng… dương hơn rau lá trên mặt đất.
– Trái cây như cam, bưởi, dưa hấu… gần mặt trời – âm hơn.
– Nấu chín sẽ làm thực phẩm dương hơn ăn sống.

Buổi tối là giờ âm – đừng nạp thêm thực phẩm âm như trái cây, nước đá, rau luộc nguội. Hãy thêm gia vị cay nhẹ, chút dầu tốt, ăn món hầm ấm nóng – giúp tuỷ làm việc, tạo máu khi bạn ngủ.
Bạn có thể bắt đầu ngày mới bằng một ly nước ấm để giữ ấm dạ dày và kích hoạt khí huyết lưu thông nhẹ nhàng.

Sống thuận tự nhiên – khoẻ tự nhiên
Tổ tiên ta ngày xưa không có thuốc men hiện đại, không có máy lạnh, không có đồ tinh chế – mà vẫn sống khoẻ nhờ thuận theo tự nhiên:
– Ăn đúng mùa, đúng vị.
– Dùng lửa, dùng nắng.
– Ăn đủ béo từ hạt, từ dầu tốt, từ mỡ động vật sạch.
– Dùng muối biển, đường tốt, không qua tinh luyện.

Ngày nay, chúng ta bỏ lỡ hết:
– Sợ mỡ, sợ đường → mất cân bằng.
– Ăn rau quả lạnh buổi tối → âm thịnh dương suy.
– Uống nước lọc quá nhiều mà không thêm muối → mất khoáng, mệt mỏi.

Chỉ khi hiểu quy luật âm dương, ta mới làm chủ được sức khỏe của mình.
Chỉ khi trở về với tự nhiên, ta mới sống thọ, sống khỏe và an yên.

Hãy lắng nghe cơ thể mỗi ngày.
Hãy nhìn lại bữa ăn hôm nay – có đủ 4 nhóm chất? Có đủ 6 vị? Có thuận giờ thuận mùa không?
Chỉ cần vậy thôi, cơ thể bạn sẽ tự sửa chữa – mà không cần đến thuốc men.

Nếu bạn thấy điều này ý nghĩa, hãy chia sẻ cho người thân yêu – để cùng nhau sống khoẻ, sống vui, sống thuận tự nhiên

Nguồn: sưu tầm

From: Anh Dang & KimBằngNguyễn


 

Welles Crowther đã cứu ít nhất 12 mạng người

Anh Chi TTV2 

 Chỉ vài phút sau khi chuyến bay United Airlines 175 đâm vào tòa tháp Nam của Trung tâm Thương mại Thế giới, Welles Crowther, chàng trai mới 24 tuổi, đã để lại lời nhắn cho mẹ mình:

“Mẹ ơi, là con đây, Welles. Con chỉ muốn nói với mẹ rằng con vẫn ổn.”

Đó là cuộc gọi cuối cùng của anh — một bằng chứng cuối cùng về tình yêu và sự trấn an.

Welles làm nghề môi giới tài chính ở tầng 104. Nhưng khi thảm kịch xảy ra, anh không nghĩ đến sự an toàn của riêng mình. Anh chọn một con đường khác: lao xuống nơi hỗn loạn để cứu người.

Khi đến tầng 78, giữa khói lửa và đổ nát, Welles không còn là một nhân viên văn phòng bình thường. Anh trở thành một điều gì đó lớn lao hơn — “người đàn ông với chiếc khăn bandana đỏ”.

Anh buộc chiếc khăn đỏ quanh mặt, không phải để che giấu, mà để thở trong làn khói ngột ngạt. Rồi, với mảnh vải ấy, anh bắt đầu dẫn đường cho những người còn sống sót băng qua bóng tối và đống đổ nát.

Welles đã bế một người phụ nữ bị thương trên tay xuống 15 tầng. Sau đó, không ngần ngại, anh quay lại. Rồi lại cứu thêm người khác. Rồi lại quay lại. Anh đã làm đi làm lại con đường tử sinh ấy nhiều lần.

Anh nói với mọi người:

“Ai còn có thể đứng, hãy đứng dậy ngay. Và nếu bạn có thể giúp người khác, hãy làm đi.”

Giữa tiếng kêu khóc, khói đen và nỗi sợ hãi, giọng nói của anh là ngọn đèn soi sáng, mang đến bình tĩnh và quyết tâm. Anh không la hét, không bỏ chạy. Anh chỉ hành động — bằng một sự can đảm và lòng trắc ẩn khó tin, một bản năng bảo vệ mà không trường lớp nào có thể dạy.

Vài ngày sau, thi thể Welles được tìm thấy bên cạnh một nhóm lính cứu hỏa, trên tay vẫn còn cầm dụng cụ cứu hộ. Anh đã ngã xuống trên đường đi cứu lần cuối cùng.

Ling Young, một trong những người sống sót nhờ anh, đã nói về Welles bằng những lời đơn giản mà lay động:

“Anh ấy là thiên thần hộ mệnh của tôi. Nếu không có anh ấy, chúng tôi đã kẹt lại ở đó, chờ cái chết.”

Ngày hôm đó, Welles Crowther đã cứu ít nhất 12 mạng người. Anh ra đi với chiếc khăn bandana đỏ trên mặt — trở thành biểu tượng vĩnh hằng của sự hy sinh thầm lặng.

Có những anh hùng trở thành huyền thoại. Có người thành lãnh đạo. Nhưng những anh hùng vĩ đại nhất lại có khi chỉ là những con người bình thường, và với một chiếc khăn đỏ giản dị, họ nhắc nhở chúng ta rằng: sức mạnh lớn nhất trên đời này chính là tình yêu và ý chí cứu lấy người khác.

TG Văn Chương