Người Việt đi nước ngoài – Người Buôn Gió

Người Việt (dưới chế độ Cộng Sản) đi nước ngoài .

Chuyện người Việt Nam ra nước ngoài định cư ngày càng nhiều… đủ mọi hình thức lách luật để được chính thức ở lại như những trường hợp mà tác giả “Người Buôn Gió” đã viết lên.

Cũng có trường hợp xảy ra ở Bruxelles, nơi này hiện tại nhiều người Việt sang đây với nhiều hình thức khác nhau. Chuyện lấy vợ, gả chồng là chuyện bình thường và cũng nhiều người đã làm… lại còn chuyện hắn biết giống như trường hợp được hợp pháp hoá giấy tờ như tác giả viết “Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Kiểu hợp thức hóa giấy tờ như thế này đã có xảy ra ở Bruxelles, được hợp lệ ở lại như là được cấp thẻ xanh còn đến khi nào được quốc tịch thì tính sau vì điều kiện vào quốc tịch ở Bỉ khó khăn hơn lúc hắn xin vào có nghĩa là phải đi làm full time có khai báo đầy đủ trong vòng 5 năm liên tục mới được nộp đơn xin.

Ngày càng nhiều những người ra đi như “dạng hái khế” (không phải người nghèo đi trốn lậu), đi theo dạng hái khế là một cách nói ám chỉ việc chết một cách bất ngờ, đột ngột hoặc không lường trước, giống như một quả khế chín rụng xuống đất mà không báo trước. Thành ngữ này xuất phát từ đặc điểm của quả khế là một loại trái cây chín và rụng bất cứ lúc nào hoàn toàn thể hiện sự ra đi đột ngột, bất ngờ, không báo trước, tương tự như cách quả khế tự rụng xuống .

Đọc bài viết để có một cái nhìn về đất nước và con người Việt Nam ngày hôm nay.

Ara

*****

Người Việt đi nước ngoài

Đất nào sinh ra tôi

Mẹ hiền nào nuôi thân tôi

Miền nào nuôi thân tôi

Mà giờ này tôi xa rồi 

Quê Hương Bỏ Lại là nhạc phẩm mà các ca sĩ hải ngoại di tản theo dạng thuyền nhân sau năm 1975 thường trình bày gây xúc động kiều bào vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Nội dung nhạc phẩm trải nỗi lòng của những người tị nạn rời xa quê hương, họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và không hẹn ngày trở lại.

Hơn 30 năm sau, nhiều người trong số họ đã trở về từ Khánh Ly, Chế Linh đến các ca sĩ trẻ hơn như Mạnh Quỳnh, Phi Nhung.

Nhưng làn sóng người Việt rời xứ sở ra đi ngày một nhiều hơn, sự ra đi của họ không bi tráng như những thuyền nhân trước kia, họ ra đi trên những chiếc máy bay với một lịch trình cho cuộc sống trước mắt ở xứ người đã được sắp xếp chu đáo bởi các công ty tư vấn, dịch vụ định cư.

Ngày nay trên đường phố quanh khu Bolsa của Nam Cali, thủ phủ của cộng đồng người Việt tị nạn nhan nhản những tấm biển quảng cáo cho dịch vụ định cư, du học, việc làm. Có rất nhiều gia đình quan chức cộng sản đã tìm đến Hoa Kỳ định cư theo diện đầu tư như gia đình Nguyễn Công Khế. Một nữ tổng biên tập một tờ báo ở Việt Nam là Hồ Thu Hồng với cái tên gọi là Beo Hồng cũng đã có mặt trên đất Mỹ từ lâu, tổng biên tập tờ báo Vietnamnet đình đám một thời là Nguyễn Anh Tuấn cũng như Beo Hồng, gia đình Tuấn hiện đã sinh sống tại Mỹ.

Trước mắt các bạn đã thấy ba tổng biên tập của ba tờ báo lớn Việt Nam, những tờ báo hàng ngày vẫn ca ngợi đảng và chính phủ Việt Nam đem lại tăng trưởng, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân, họ đã đưa gia đình đến nơi mà tờ báo của họ từng miệt thị, chửi bới thậm tệ để sinh sống. Những người kế cận họ lại điệp khúc khen chế độ Việt Nam (việt cộng), chửi Mỹ và đánh đấm kiếm tiền đưa gia đình sang Mỹ.

Vô vàn các nghệ sĩ, ca sĩ Việt Nam bằng cách nào đó như kết hôn, hợp đồng lao động đã kiếm cho mình được tấm thẻ xanh trên đất Mỹ.

Bây giờ tôi thường xuyên nhận được tin nhắn hỏi về việc định cư tại châu Âu. Một chủ nhà hàng lớn trong chuyến du lịch đến châu Âu, vốn là người quen cũ, ông ta hẹn tôi uống cà phê và bày tỏ ý định tìm cách định cư tại châu Âu. Dự định của ông là mua nhà bên Hy Lạp với giá khoảng 250 ngàn Euro, chính phủ Hy Lạp đang khủng hoảng về tài chính, họ có chính sách bán nhà và cấp giấy định cư cho những người nước ngoài đến mua nhà. Người mua nhà ở Hy Lạp có giấy tờ đi lại trong khối Schengen tức đi lại trong 27 nước Tây Âu, với giấy tờ này người ta có thể sống và làm việc tại bất kỳ nước nào, miễn có việc làm và nuôi được bản thân không xin trợ cấp.

Rẻ hơn nữa là Latvia, với khoảng 150 nghìn Euro mua nhà bạn có thể sở hữu được tấm giấy phép như vậy.

Còn ở Đức thì giá đắt hơn, một gia đình có thể phải mất đến vài trăm ngàn để làm một dự án kinh doanh, nhà hàng, công ty tạo việc làm để đưa cả một gia đình đi.

Đỗ Liên, đại sứ danh dự Việt Nam ở Châu Phi, chủ hãng bảo hiểm AAA khi xưa nay đang cùng chồng sau sở hữu một nhà hàng lớn ở ngay trung tâm Berlin. Liên cùng chồng sau là Toàn và các con cái đã sống ở đây vài năm, họ vẫn đi đi về về Việt Nam điều hành việc làm ăn ở nhà. Quán của vợ chồng Toàn Liên sau vài năm mở để đưa cả gia đình sang, hiện đã sang bớt cổ phần cho Quán Ngon. Số tiền vợ chồng Toàn Liên chuyển sang đầu tư đến hàng triệu Euro, riêng phần bếp đã vài trăm nghìn. Có đến hàng trăm, đó là con số tôi có thể biết về những người Việt Nam đầu tư sang Châu Âu để kiếm giấy tờ hợp pháp sinh sống ở châu Âu như vậy.

Ở Hung ngày càng nhiều người Việt hơn, với 60 nghìn euro cho gia đình 4 người và thêm khoảng 100 ngàn euro mua nhà, cả gia đình 4 người đã có giấy tờ. Trước đây Hung còn có chính sách nếu ai mua trái phiếu chính phủ khoảng 3-400 trăm ngàn euro gì đó sẽ được cấp thẻ xanh vĩnh viễn, chương trình này chấm dứt rất nhanh bởi người Trung Quốc nhanh chóng ùa đến. Sau ba năm trở lại Hung, trên con phố đi bộ đắt nhất của thủ đô Hung, bên dòng Đa Nuyp thơ mộng. Những con người từ xứ Tô Châu đã tìm đến đây để sống với một môi trường trong sạch, an toàn không ô nhiễm và đầy bạo lực như quê hương họ.

Đại sứ quán Hung ở Việt Nam không đủ người để giải quyết hàng đống hồ sơ xin mua nhà, xin tạm cư của người Việt.

Ở Hung mua nhà không bị hỏi tiền ở đâu ra, miễn là bạn mua nhà hay bất động sản ở Hung thì bạn có cầm vali tiền mặt đều được chấp nhận. Hình như sau bao nhiên năm gì đó bạn mới được bán đi.

Đấy là những người có tiền, những người ít tiền hơn họ chọn cách ra đi bằng đường du lịch sang Nga và trốn đường rừng vào Ba Lan, Lát Vi A rồi sang đến Đức, nơi có cộng đồng đông đảo người Việt đang sinh sống, những đồng bào cùng miền quê với họ sẽ giúp họ tìm việc làm và đợi thời gian tích luỹ số tiền sẽ hợp pháp hoá giấy tờ trên cơ sở điều luật nhân đạo của Đức như kết hôn, nhận bố, nhận con. Rất nhiều cô gái trẻ người Việt mặt non choẹt đẩy xe nôi trên đường phố Berlin. Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Năm sau cô sinh đứa thứ hai, một người đàn ông Việt chưa có giấy tờ nhận là bố đứa trẻ, anh ta sẽ được giấy tờ và trợ cấp. Với cách thức như thế, càng ngày càng nhiều nam nữ thanh niên Việt Nam tìm đến nước Đức qua con đường trốn từ Nga sang. 

Từ năm ngoái ở Ba Lan có kiểu những người Việt đi du lịch sang Châu Âu, khi đến Ba Lan sẽ tìm một công ty dịch vụ làm giấy tờ chứng nhận họ có hợp đồng lao động ở Ba Lan, giá chỉ 2 ngàn euro là có một giấy tạm cư 2 năm tại Ba Lan. Đây là những người nghèo khổ, ở quê hương họ không có việc làm, không có tương lai. Họ phải vay mượn, cầm cố đất đai cho những đường dây đưa người lậu để mong đến được nước Đức đổi đời.

Canada và Úc là những nước dễ nhập cư nếu như bạn có hợp đồng lao động. Một phụ nữ có hai đứa con nhỏ, chị kiếm được hợp đồng làm chăm sóc người già ở Canada, thế là chị và hai đứa con giờ ở Canada đã 5 năm. Một thằng em tôi quen trên Facebook, mới ngày nào còn la oai oái việc thanh toán tiền thi công của đối tác chậm ở Việt Nam, nay thấy ung dung đưa ảnh đang ăn hải sản bên Úc với con cua to đùng và gật gù khen ngon và rẻ hơn quê hương có mấy ngàn cây số ven biển của mình.

Những người ra đi sau này họ vẫn đi đi về Việt Nam để kiếm tiền bởi những quan hệ quan chức và các mối quan hệ làm ăn của họ vẫn đang hái ra tiền ở Việt Nam.

Một dự án hàng trăm triệu, hàng tỷ USD ở Việt Nam được thực hiện, tiền vốn chính phủ vay của nước ngoài, nhà thầu nước ngoài được phép thi công, các quan chức Việt Nam được nhà thầu lại quả trung bình 15%. Hãy hình dung chỉ cần dự án 100 triệu là có 15 triệu đủ để cả chục gia đình quan chức Việt Nam có tiền mua đất đai và giấy tờ định cư ở nước ngoài.

Những dự án đó phá hoại môi trường, gây ô nhiễm không khí, đẩy người dân vào cảnh mất đất và giao thông chật chội, hỗn loạn, khiến người dân Việt Nam luôn chất chứa sự uất ức mà chính họ không hiểu nguyên nhân. Sự uất ức đấy tích tụ và thành những hành động tiêu cực khi gặp việc, có thể họ trộn chất độc hại vào thức ăn để bán kiếm lời để lại mối hoạ ung thư tràn lan, hoặc họ rút dao ra đâm nhau khi có chuyện xích mích, hay đường xá và phương tiện với tỉ thứ trong đầu người dân khiến mạng sống con người có thể chấm dứt trong tích tắc trên đường.

Nhưng những người hái khế ưu tú đã có phương án của họ, ra đi để tránh cho gia đình mình phải chịu chung những mối lo như thế ở Việt Nam, quê hương chỉ là nơi họ hái khế phục vụ gia đình mình.

Và càng nhiều những người ra đi như dạng hái khế (không phải người nghèo đi trốn lậu) theo dạng đầu tư như trên, họ để lại đàng sau càng nhiều ô nhiễm môi trường, xã hội loan lạc, bệnh tật ở quê hương Việt Nam.

Người Buôn Gió

From: My Tran

Bây giờ có cho tiền, tui cũng không dám ở Việt Nam. 

Dat Nguyen

Ghé qua Viện Đại học Sài Gòn trước khi ra phi trường TSN về Mỹ coi như vĩnh biệt Sài Gòn! Cha con tui sợ người Sài Gòn bây giờ lắm rồi! Bây giờ có cho tiền, tui cũng không dám ở Việt Nam. 

Ác độc nhất là người lấy cắp balô đựng US Passport, visa miễn thị thực xuất nhập cảnh 5 năm, tất cả thuốc men gồm cả insulin của tui. Công an phường 11, Bình Thạnh không giúp tui tìm kiếm đồ đạc bị mất mà còn hù dọa tui đủ điều mới là lạ!

Tui thất vọng nhất là TLS Mỹ ở Sài Gòn khi họ ưu tiên phục vụ cho người Mỹ da trắng thượng đẳng chứ công dân Mỹ gốc Việt chỉ là loại công dân hạng 2? Tui yêu cầu được gặp trực tiếp giới chức Mỹ mà 2 cô người Việt đủng đỉnh phớt lờ! Tức cười làm sao khi một anh bảo vệ tỏ ra hách xì xằng với người Việt nhưng lại khúm núm với một thằng Mỹ trắng tâm thần!

Kế đến là thái độ quan liêu và làm tiền trắng trợn của công an phường 11, Bình Thạnh, cục QLXNC. Chính TLS Mỹ ở Sài Gòn kêu cha con tui đến cục QLXNC ở 333 Nguyễn Trãi. Tại đây, tui gặp cô đại uý Trịnh Thị Hồng Nhung nhưng cô bận nói chuyện qua cell phone với người thân nên cộc lốc kêu tui qua phòng QLXNC ở 196 Nguyễn Thị Minh Khai. Tại quầy #2, cô trung úy CA ở phòng QLXNC hình như không nắm vững công việc mà cô đảm trách khi kêu một VK như tui vô website dịch vụ công của bộ công an để khai báo mất visa miễn thị thực xuất nhập cảnh 5 năm và xin cấp lại mà chính cô cũng không rành thủ tục “định danh” nên cô đề nghị tui liên hệ với dịch vụ để nhờ khai báo!

Sau khi hoàn tất khai báo trên website dịch vụ công của bộ công an, tui nhận được đề nghị của bộ công an đến cục QLXNC ở 333 Nguyễn Trãi để hoàn tất thủ tục. Cuối cùng, khi tui quay lại gặp đại uý Trịnh Thị Hồng Nhung thì chính cô này chỉ nhận hồ sơ rồi đóng dấu vô Emergency passport nhưng bắt buộc tui phải đợi 10 ngày mới có. Tại sao cô không trả lại ngay khi tui phải lên máy bay về Mỹ vào cuối tuần này? Tui năn nỉ nhưng cô tỉnh bơ bỏ đi.

Nên nhớ làm công an bây giờ là job thơm nhất với lương cao chứ không phải chỉ có bổng lộc và quyền lực. Cô muốn cho tui thấy sự quan liêu hách dịch của một cán bộ công an!

Du lịch Việt Nam lần này cho tui nhiều bài học. Từ Mít MAGA cuồng Trump ở Úc, Florida, Louisiana ra sức tuyên truyền nhồi sọ, tẩy não người Việt trong nước đến chuyện ăn uống,  khách sạn mà ViệtTravel cung cấp. Đêm ở Măng Đen, máy lạnh không hoạt động nên tui báo với lễ tân nhưng không ai lên coi. Tui đề nghị đổi phòng thì lễ tân nói hết phòng. Cậu ấy đề nghị tui mở cửa sổ cho mát nhưng muỗi rừng chích ngay. Tui đành đóng cửa sổ chịu đựng đến 5am thì xuống lễ tân, gặp bảo vệ năn nỉ ông lên coi. Ông bảo remote hư nhưng không có cầu thang để leo lên chỉnh bằng tay. Thế là một đêm không ngủ!

Buồn cười nhất là tui bỏ tiền túi ra mua cơm trứng chiên cho Bảo ăn vì hầu hết các món ăn không hợp với khẩu vị của Bảo nhưng khi bếp dọn ra thì các “cô chú” tỉnh bơ thọc đũa gắp ăn, thậm chí còn dành ăn với Bảo. Bởi vậy cha con tui dứt khoát không ăn bữa nào hết suốt hành trình du lịch với Việt Travel.

Sợ nhất là khi ra đường phải gặp MAGA nói chuyện dựa trên YouTube và VNEXPRESS! Hình như họ mắc bịnh tâm thần?

Ông Tô Lâm mong muốn cải cách thì xin Ông làm ơn cải cách từ Bộ công an đi, đừng hành dân nữa và mỗi cán bộ công an không phải là một ông kẹ hù dọa người dân.

Sài Gòn bây giờ gồm lưu dân tứ xứ chứ không còn là Sài Gòn đẹp lắm mà Singapore, Nam Hàn ngày xưa gọi là hòn ngọc Viễn Đông. Sài Gòn trở nên bát nháo, tạp nham theo kiểu tả pín lù nên cướp đêm, cướp ngày đông như ruồi bu vào đống phân!

Sài Gòn của tui đã chết? Bây giờ chỉ còn là một phường với quá nhiều rác rưởi, sâu bọ, ruồi nhặng. Những người Sài Gòn cố cựu đã đi ra nước ngoài, để Sài Gòn lại cho di dân từ khắp mọi miền về đây lập nghiệp với đủ mánh khóe để sinh tồn; kể cả ăn cắp, ăn cướp, ăn bẩn, ăn quịt?

Lời thật mất lòng. Hy vọng lãnh đạo TP.HCM đọc được status này để kịp chân chính tình trạng không hay này.


 

Shark Bình bị khởi tố – Bài học cho doanh nhân Việt Nam

Tác Giả: Đàn Chim Việt

15/10/2025

Shark Bình (giữa) và các đồng phạm tại cơ quan điều tra. Ảnh báo VN

Sự kiện ông Nguyễn Hòa Bình – thường gọi là Shark Bình, người sáng lập Tập đoàn công nghệ NextTech – bị khởi tố, tạm giam với cáo buộc lừa đảo chiếm đoạt tài sản đặc biệt lớn liên quan đến dự án tiền số AntEx, đang gây chấn động dư luận. Từ “cá mập công nghệ” từng được tung hô trên truyền hình, được báo chí nhà nước ca ngợi như hình mẫu của doanh nhân trẻ Việt Nam, nay Shark Bình bỗng chốc trở thành “bị can”.

Câu chuyện này không chỉ là bi kịch của một cá nhân, mà là bức tranh trần trụi về môi trường kinh doanh ở Việt Nam – nơi mà mọi doanh nhân, dù khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng hay được gọi là “ngôi sao công nghệ”, đều có thể bị “làm thịt” bất cứ lúc nào.

  1. Khi doanh nhân Việt được “nuôi béo” để giết

Trong một hệ thống mà kinh tế thị trường bị trói chặt trong mạng lưới quyền lực – lợi ích – bảo kê, không doanh nhân nào có thể lớn mạnh chỉ nhờ năng lực. Muốn tồn tại, phải “biết điều”. Muốn phát triển, phải “chung chi”. Muốn mở rộng, phải “dựa vai ai đó”.

Những người như Shark Bình, Vượn Vin, hay trước đây là Trịnh Văn Quyết, Đỗ Anh Dũng (Tân Hoàng Minh)… đều có điểm chung: được quyền lực nâng lên, cho phép làm giàu, thậm chí bật đèn xanh cho những “vùng xám”. Và khi họ đã béo tốt, tạo ra dòng tiền lớn, thu hút hàng triệu nhà đầu tư, hàng tỷ USD – họ trở thành “miếng mồi” ngon trong trò chơi thanh trừng phe nhóm.

Bởi ở Việt Nam, doanh nhân không có quyền sở hữu thật sự đối với tài sản của mình, chỉ được “mượn” quyền làm giàu trong giới hạn mà quyền lực cho phép. Khi thế lực bảo kê suy yếu, hoặc khi cần “tế thần” để xoa dịu dư luận, con mồi sẽ bị lôi ra.

  1. 100% doanh nhân giàu có đều “phạm luật” – vì hệ thống buộc họ phải như thế

Hãy thử hỏi: Có bao nhiêu doanh nhân lớn ở Việt Nam đóng đủ thuế, hạch toán đúng luật, không chi “bôi trơn”, không lập công ty sân sau? Câu trả lời, ai cũng biết.

Bởi nếu tuân thủ hoàn toàn pháp luật, họ sẽ không thể tồn tại trong môi trường này.

Khi mọi hoạt động kinh tế đều phải “xin – cho”, khi mỗi thủ tục, giấy phép, ưu đãi, dự án… đều gắn với phong bì và quan hệ, thì mọi doanh nhân đều bị buộc phải vi phạm ở mức nào đó. Và chính điều đó khiến họ dễ dàng bị “nắm thóp”.

Tham nhũng không chỉ nằm ở quan chức, mà là cái bẫy được giăng sẵn để trói cả doanh nhân vào guồng quay lệ thuộc. Doanh nhân Việt Nam, từ giây phút ký tờ khai thuế gian dối đầu tiên hay chuyển phong bì đầu tiên, đã bước vào con đường “bị kiểm soát bằng tội lỗi”.

  1. Khi quyền lực muốn “đổi máu”

Cú ngã của Shark Bình diễn ra giữa bối cảnh chính trị Việt Nam đang có những biến động âm ỉ. Cuộc thanh trừng quyền lực lan từ giới chính trị sang giới doanh nghiệp. Những người từng được ca ngợi là “anh hùng khởi nghiệp” bỗng bị lột mặt nạ “tội phạm kinh tế”.

Không phải ngẫu nhiên mà trong vòng vài năm, hàng loạt doanh nhân lớn bị bắt: Trịnh Văn Quyết (FLC), Đỗ Anh Dũng (Tân Hoàng Minh), Trương Mỹ Lan (Vạn Thịnh Phát), Nguyễn Bảo Ngọc (F88), và giờ là Nguyễn Hòa Bình (NextTech). Mỗi vụ án đều được tô vẽ là “làm trong sạch thị trường”, nhưng đằng sau là cuộc tái phân chia quyền lực và tài sản.

Hôm nay “cá mập” công nghệ bị thịt, ngày mai có thể là “cá voi” bất động sản, hay “kỳ lân” fintech khác. Trong hệ thống này, không có doanh nhân nào được phép quá độc lập, quá nổi bật, hay quá giàu.

  1. Bài học cay đắng cho giới doanh nhân Việt

Bài học từ Shark Bình không phải là “đừng lừa đảo”, mà là đừng tin rằng bạn có thể làm giàu bền vững trong một hệ thống không minh bạch.

Bởi khi luật pháp chỉ là công cụ phục vụ phe cánh, thì mọi thành công đều có thể bị quy tội.

Khi chính quyền vừa là “trọng tài”, vừa là “người chơi”, thì sân chơi nào cũng chỉ là cái bẫy.

Một doanh nhân chân chính chỉ có thể lớn mạnh khi có pháp quyền thật sự bảo vệ quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, và quyền được sai mà không bị tiêu diệt. Nhưng ở Việt Nam, những điều đó chỉ tồn tại trên giấy.

Kết luận

Shark Bình – “cá mập công nghệ” từng được nuôi lớn bằng hào quang truyền thông và sự bảo kê ngầm – giờ trở thành “cá mồi” trên bàn nhậu quyền lực.

Đó là chu kỳ quen thuộc của doanh nhân Việt Nam trong chế độ này: được nuôi béo để làm thịt.

Bài học đau đớn cho giới doanh nhân không nằm ở công nghệ hay quản trị, mà nằm ở nhận thức:

Ở Việt Nam, bạn không thực sự là chủ doanh nghiệp của mình – bạn chỉ là người được phép giàu cho đến khi ai đó không muốn bạn giàu nữa.

LS Nguyễn Văn Đài- Facebook


 

‘Trai xinh gái đẹp’, tiếng Việt thời thổ tả?-Đoàn Xuân Thu (Melbourne)

Ba’o Nguoi-Viet

October 12, 2025

Đoàn Xuân Thu (Melbourne)

Tôi sinh ra giữa tiếng Việt thanh tao thời Việt Nam Cộng Hoà, lớn lên trong môi trường ông bà cha mẹ nói năng có chọn chữ, có văn hóa, có phẩm hạnh.

Báo chí Việt Nam đang sử dụng tiếng Việt sai lệch, cẩu thả, thậm chí phi ngữ pháp ngày càng phổ biến. Trong hình, một sạp báo ở Hà Nội. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP via Getty Images)

Mỗi từ ngữ, mỗi âm tiết đều được cân nhắc như người ta chọn ngọc gắn vào nhẫn.

Vậy mà bây giờ, thời Cộng Sản, mở tivi, đọc báo mạng trong nước, tôi chỉ thấy tiếng Việt bị lôi xềnh xệch như một thứ ngôn ngữ thời… thổ tả!

Không biết tự bao giờ, giới cầm bút trong nước hồn nhiên nói “trai xinh gái đẹp”, “anh đẹp như hoa”, “chị đẹp cực phẩm”, “em đẹp cỡ vũ trụ”.

Nghe xong, tôi chỉ muốn hỏi: Ủa, chữ nghĩa nước mình bị sốt rét ác tính từ bao giờ?

  1. “Xinh” là gì và dùng cho ai?

Từ “xinh” là tiếng thuần Việt, có nghĩa là dễ thương, có duyên, nhỏ nhắn và ưa nhìn. Nó mô tả một vẻ đẹp nhẹ nhàng, nữ tính, mềm mại.

“Cô gái xinh”, “đứa bé xinh”, “bông hoa xinh” – đó là cách dùng tự nhiên.

Trong tiếng Anh, “xinh” tương đương pretty hoặc cute. Trong tiếng Pháp, là jolie hoặc mignonne. Không một người Anh hay người Pháp nào nói “a pretty man” hay “un homme joli” cả.

Ấy thế mà ở Việt Nam thời nay, người ta gọi “trai xinh gái đẹp” một cách thản nhiên, như thể chữ “xinh” đã thoát khỏi giới hạn nữ tính của nó.

Nhưng tiếng Việt tinh tế, không phải vô giới tính. Cái tinh tế ấy mới là linh hồn của ngôn ngữ.

  1. Cái đẹp của nam và nữ – khác nhau chứ không hòa trộn. Ông bà ta xưa hiểu lắm. Ngôn ngữ truyền thống luôn tách biệt rõ: “Trai thanh gái lịch”: trai thì thanh tú, nho nhã, ăn nói đàng hoàng; gái thì lịch sự, đoan trang, duyên dáng. “Trai tài gái sắc”: trai lấy tài để so, gái lấy sắc làm duyên.

Không ai nói “trai xinh” vì cái đẹp của đàn ông nằm ở thần khí, phong độ, tri thức chứ không phải làn da hay cặp mắt.

Dùng sai từ, là lẫn lộn cái đẹp mạnh mẽ nam tính của phái nam với cái đẹp dịu dàng của phái nữ.

Hồi xưa người ta nói “người thanh tiếng nói cũng thanh”, giờ lên mạng nghe “idol nhà em xinh cực phẩm”, thấy mà ngao ngán. Tưởng đâu nói chơi, hóa ra thành… ngôn ngữ chính thức của truyền thông xã hội.

  1. Khi ngôn ngữ bị “cách mạng hóa”. Thật ra, chuyện “trai xinh” chỉ là triệu chứng của một căn bệnh lớn hơn – căn bệnh phá vỡ cấu trúc ngữ nghĩa truyền thống dưới danh nghĩa “cách tân”. Sau 1975, lớp người viết mới – phần lớn trưởng thành trong hệ thống giáo dục tuyên truyền của Cộng Sản – bắt đầu xài chữ tùy tiện, hễ “nghe vui tai, hợp khẩu hiệu” là tung lên báo.

Thế nên ta mới có những sáng tạo kiểu:

“Giải ngân nhanh chóng” (đáng lẽ là “xuất quỹ”).

“Chạy chương trình” (đáng lẽ là “vận hành”).

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức…” (dùng sai cú pháp vì “học tập” vốn là danh từ).
“Đảm bảo an toàn giao thông” (đáng lẽ là “bảo đảm”).

“Phương án tối ưu nhất” (vừa “tối ưu” vừa “nhất” là… gấp đôi thừa).

Tiếng Việt vốn thanh nhã, giờ bị nhồi nhét ngôn ngữ hành chính, biến thành thứ “Việt văn Xô viết” vừa khô, vừa kệch. Cái kiểu “trai xinh gái đẹp” nghe tưởng hiện đại, thực ra là biểu hiện của sự mất gốc ngữ cảm, một dạng bệnh lý văn hóa.

  1. Nói năng sao cho ra người Việt?

Tiếng Việt không có giống đực, giống cái như tiếng Pháp, nhưng vẫn biểu hiện giới tính qua sắc thái và cách chọn chữ.

* Nói “anh ấy đẹp trai” thì nghe mạnh mẽ, tự nhiên.

* Nói “anh ấy xinh” thì kỳ như thấy nam lực sĩ mặc váy múa ba-lê.

Người xưa không học ngôn ngữ học, nhưng họ cảm ngữ pháp bằng trái tim, nên nói đâu ra đó. Họ biết “nói năng là biểu hiện nhân cách”. Còn bây giờ, người ta tưởng nói kiểu gì cũng được, miễn vui tai. Cái vui tai giết chết cái đẹp lòng, mà cái đẹp lòng mới là cái giữ cho ngôn ngữ có hồn.

Một xã hội văn minh được đo bằng cách người ta nói với nhau, chứ không phải bằng số lần “trend” trên mạng.

  1. Trả lại tiếng Việt phẩm giá của nó.

Ngôn ngữ là gương mặt của văn hóa. Một dân tộc nói sai mãi sẽ nghĩ sai, rồi làm sai. Khi chữ nghĩa bị bôi bác, đạo đức cũng theo đó mà nhòe tèm lem tuốt luốt.

Hồi trước, người miền Nam học tiếng Việt với sách của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Lê Ngọc Trụ – ngôn từ trau chuốt, văn phạm sáng tỏ.

Sau này, sách giáo khoa mới biến tiếng Việt thành công cụ tuyên truyền, đầy khẩu hiệu và “định hướng tư tưởng”, khiến học sinh mất khả năng cảm thụ cái đẹp ngôn ngữ.

Nói “trai xinh gái đẹp” tưởng là chuyện nhỏ, nhưng thực ra là một mảnh vụn của sự xuống cấp toàn diện – nơi cái đúng bị coi là cổ hủ, cái sai lại được tung hô là “hiện đại”.

  1. Kết – Hãy học lại tiếng Việt!

Tiếng Việt ông bà mình tinh tế, sáng sủa và có đạo lý. Nó biết “trai thanh gái lịch”, biết “trai tài gái sắc”, biết “nói có trước có sau”.

Tiếng Việt ấy là linh hồn dân tộc, là chứng tích của một nền văn minh biết tôn trọng chữ nghĩa.

Còn thứ tiếng Việt bây giờ – với “trai xinh”, “gái ngoan như cún”, “đỉnh của chóp”, “xịn xò”, “hết nước chấm” – chẳng khác nào món canh chua bị đổ nguyên chai nước mắm vô nồi. Mùi thì mạnh, mà vị thì hư.

Cho nên, tôi nói thiệt, hãy học lại tiếng mẹ đẻ! Đừng để tiếng Việt trở thành ngôn ngữ của thời thổ tả – vừa hôi, vừa hỏng.


 

Uyên Thao – Giấy Bút Lầm than của một thời báo chí miền Nam

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

14/10/2025

Đường  Cổ Ngư – Hà Nội

Chữ Nghĩa thay cho súng đạn (Uyên Thao)

Nhà văn Uyên Thao, tên thật là Vũ Quốc Châu, sinh năm 1933 tại Hà Nội. Lần đầu viết văn vào năm 1952. Vào Sài Gòn năm 1953, ông cộng tác với nhiều báo cũng như những tập san văn học nghệ thuật.

Cuộc đời của ông gặp nhiêu gian nan, lận đận. Ông trải qua 4 lần trong các nhà tù phía Quốc Gia từ năm 1957 đến 1974.

Và nhà tù cộng sản từ tháng 5-1975 cho đến năm 1986.

  • Các tác phẩm của Uyên Thao bao gồm nhiều thể loại như cuốn tiểu thuyết: Những Con Cọp Cháy Móng,. Một cuốn dã sử Trong Ánh Lửa Thù tại Hoa Kỳ và tập thơ viết trong tù Không Tên. Ông cũng còn viết phê bình Văn học với: Thơ Việt Hiện Đại 1900-1960 và cuốn: Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900-1970 tại Sài Gòn.
  • Cuối cùng, ông cũng là người sáng lập và điều hành nhật báo Sóng Thần từ năm 1970-1974.
  • Ngay khi đặt chân lên đất Mỹ cuối năm 1999, ông đã nghĩ đến việc thành lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương và nhận được sự cộng tác của rất nhiều bạn bè ngay từ khi ông khởi xướng. Tác phẩm đầu tiên là: Thân phận Ma Trơi của Nguyễn Thụy Long. Theo nhà Văn Uyên Thao:

’Tuy nhiên, đối với những tác phẩm từ trong nước gửi ra, mình phải lượng được người viết sẽ phải chịu những gì. Có những người trả lời dứt khoát thôi. Cái gì cũng được, cứ việc làm đi. Tức là họ cần phải gióng lên tiếng nói của họ trước dư luận còn hậu quả như thế nào họ sẵn sàng chịu. Nhưng cũng có những trường hợp phải nói ngay là mình phải dè dặt và cuối cùng chúng tôi phải từ chối. Chẳng hạn có một tác giả gửi sách cho bọn tôi. Tuần lễ sau, tôi nhận được một lá thư của vợ tác giả. Người vợ đó  nói với tôi rằng;: Chú mà in thì gia đình cháu sẽ nguy hiểm lắm. Trong trường hợp đó, tôi nghĩ rằng chuyện đó phải xét lại thì người viết sách nói cháu chấp nhận ly dị vợ để in cho cháu không thể nào nhìn thấy đất nước mình bây giờ mà cháu ngậm miệng được. Nếu vợ cháu sợ thì cháu sẽ ly dị. Ngay trường hợp đó, tôi cũng thấy là tôi không dám in. Tôi nói phải thu xếp chuyện gia đình.”.

Ông nói tiếp:

‘’ Tất cả nỗ lực của tôi là làm sao giới thiệu những tác phẩm của những người viết mà không có dịp để đưa tiếng nói ra trước công chúng. Nỗ lực lớn nhất của tôi chỉ là cái đó thôi. Chớ ở tuổi 80 rồi thì không thể làm được việc gì khác.”

Phần người viết bài này, có duyên văn học được dịp gặp nhà văn Uyên Thao và ông đã cho phép đàm đạo với ông trong vài ngày gặp gỡ, xin ghi lại ở đây những chia xẻ tư liệu hiếm có này.

Tản mạn 18 giờ với nhà báo Uyên Thao, tác giả “Giấy bút lâm than”

18 giờ mạn đàm với anh Uyên Thao được cắt quãng bằng những khoảng không gian ở San Diego, ở quận Cam và cả ở Hoa Thịnh Đốn. Và có thể tại một quán phở, tại nhà những người bạn như nhà anh Phạm Bá Cát, hoặc ngay cả trên xa lộ, hoặc ở chính ngôi nhà hiện anh đang ở tại Hoa Thạnh Đốn. Có khi chỉ có hai người, có khi có bạn bè khác để nói đủ thứ chuyện.

Chuyện lớn, chuyện nhỏ, chuyện con người, chuyện báo chí, chuyện chính trị, chuyện chế độ, chuyện tôn giáo, chuyện tranh đấu và dĩ nhiên có cả những chuyện vui, chuyện buồn, chuyện liên quan đến một cá nhân, v.v…

Mỗi câu chuyện mà anh Uyên Thao kể lại, nó mang một ý nghĩa, một góc nhìn và chúng ta có thể rút ra được một điều gì là tùy theo mỗi người.

Cuộc đời của anh cũng như một cuốn film nhiều tập với nhiều tình tiết và giai thoại kỳ ngộ.

 “Có gì đâu”

Uyên Thao là một con người đặc biệt, khác mọi người trong cách ứng xử, cách sống, nhất là thái độ chọn lựa hành động. Có thể nói anh là loại người thay vì lụy một người mà trên vạn người thì anh chọn vế thứ hai, đứng về phía vạn người để nói tiếng Không với một người.

Nhiều người bảo anh gàn có thể vì thế.

Nhiều quyết định trong mỗi giai đoạn đời sống của anh làm tôi ngỡ ngàng. Nhưng đối với riêng anh, anh chỉ coi đó là những chọn lựa bình thường. Anh thường đi đến kết luận là “có gì đâu”.

Có gì đâu là cách trả lời của anh Uyên Thao mỗi khi bị cật vấn về mỗi một quyết định của anh.

Nhưng với người đối diện đang đàm đạo với anh thì sự chọn lựa ấy quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của anh.

Cách chọn lựa ấy xem ra cho thấy hình như anh có vẻ coi nhẹ mọi chuyện ở đời này. Nó là một thứ triết lý của riêng anh, thứ triết lý vừa như người ở trong cuộc, vừa như thể đứng ra bên lề, không thiết thân.

Nó giản lược vào câu nói: “có gì đâu”!

Và có thể nói chính sự chọn lựa của anh trong một số tình huống làm nên cá tính, nét đẹp con người của Uyên Thao. Uyên Thao là như thế! Sống đẹp với những chọn lựa của mình.

Kinh nghiệm ít người có được anh vừa ở trong nhà tù Quốc Gia về một câu chuyện “vớ vẩn” và khổ nhục nhưng vẫn can trường trong nhà tù cộng sản.

Một người từng ở hai chế độ nhà tù sẽ hiểu bản chất của cả hai chế độ ấy và định lằn ranh giới đâu là địa ngục, đâu là trần gian.

Anh đi tù chỉ vì ngòi bút của anh – điều mà anh gọi là ‘’giấy bút lầm than. »

Đối với chế độ miền Nam trước 1975, thái độ cầm bút của các nhà văn, nhà báo là một thái độ dấn thân, nhập cuộc.

Sau 1975, người cầm bút chỉ cần là người viết như một người tử tế đã đủ là một vinh dự cá nhân rồi.

Mặc dầu biết tiếng anh khá lâu. Nhưng phải đợi một cơ duyên là có một tập tài liệu về báo Sóng Thần được anh đồng ý cho nhà Nam Sơn trước đây in lại. Tập tài liệu này nói về Phong trào Nhân dân chống tham nhũng của Lm Trần Hữu Thanh, rồi Ngày ký giả đi ăn mày và ngày Báo chí thọ nạn, đặc biệt là vụ Sóng Thần ra tòa. Tập tài liệu quý báu với đầy đủ một số hình ảnh, tên tuổi do chính anh và những người trong nhóm tờ báo Sóng Thần ghi lại như sau: Uyên Thao – Lê Văn Thiệp (tức Lê Thiệp) soạn thảo với sự cộng tác của Giáo sư Đặng Thị Tám, nhà văn Trùng Dương, ký giả Trần Phong Vũ soạn thảo trước 1975.

Khi Nam Sơn in lại xong từ ấn bản chính, tôi gửi đến anh như một món quà quý giá. Chắc là anh phải thích lắm vì tìm lại được đứa con tinh thần của mình.

Nhưng vẫn chưa có cơ hội được gặp anh.

Từ đó, mối liên lạc cứ thế mà thêm chặt chẽ. Lần đầu tiên được gặp anh cách đây 6 năm trong buổi họp mặt của nhóm anh em Đàn Chim Việt tổ chức.

Anh là khách mời đặc biệt của DCVOnline.net từ Washington sang cùng với Bùi Tín, Vũ Thư Hiên từ Pháp và một số anh em trẻ từ Mỹ, từ Đông Âu sang.

Anh xuất hiện trong các buổi họp mặt khá mờ nhạt, ít nói, ít phát biểu bên cạnh những khuôn mặt trổi bật như các anh Bùi Tín, Vũ Thư Hiên.

Quả thực, anh không phải là mẫu người của đám đông, của những xuất hiện công khai.

Bản tính vốn giản dị, ăn mặc đến xuềnh xoàng không tươm tất. Dáng người lại gầy gò, ốm yếu, xanh xao. Anh đến các buổi họp mặt của Đàn Chim Việt để nghe, để quan sát nhiều hơn để nói.

Cho đến khi anh về lại thủ đô Hoa Thạnh Đốn, tôi cũng ít có dịp để nói chuyện riêng với anh.

Có lẽ cái xa hoa duy nhất của Uyên Thao là ngồi với bạn bè đấu láo, phì phèo hút thuốc lá ba số 555. Vì thế khi sang Mỹ ở nhà anh Phạm Bá Cát thì thấy trên bàn khách anh Cát đã biết ý mua vài ba thuốc lá ba số 555 để dành cho anh.

Đãi khách hôm ấy, chủ nhà cho uống trà tầu và ăn vài cái bánh rán. Vậy mà nhớ lại không khí tọa đàm hôm ấy nổ ran từ việc này sang việc khác.

Hôm ấy chủ yếu là gặp lại bạn bè, nhưng chính là đì tìm lại chính mỗi người qua những câu chuyện quá khứ đã một thời làm nên họ.

Hành Trình thời tuổi trẻ của Uyên Thao

Theo như lời Uyên Thao kể lại thì anh học tại các trường Thăng Long Hà Nội nơi có một số lãnh đạo cộng sản giảng dạy như Võ Nguyên Giáp. Anh cũng theo học ở trường Văn Lang mà hiệu trưởng là giáo sư Ngô Duy Cầu. Một giáo sư toán dạy nổi tiếng ở miền Nam thập niên 1955-60. Các trường tư ở Hà Nội lúc bấy giờ vẫn còn giảng dạy theo chương trình Pháp.

Những nhắc nhở này gợi nhớ lại thời niên thiếu của mỗi người. Chẳng hạn như đạp xe đạp trên con đường Cổ Ngư – một thứ con đường tình như con đường Duy Tân Sài Gòn thuở nào.

Hà Nội còn có những toa xe điện tiêu biểu cho một thành phố thuộc địa cách đây hơn một thế kỷ.

Những kỷ niệm chung như thế giúp người ta gần nhau hơn.

Năm 1953, anh đỗ tú tài một xong thì quyết định thôi học. Tại sao lại bỏ học ngang xương như thế?

Bình thường, một học sinh đỗ tú tài hoặc sẽ chọn con đường tiếp tục học tú tài hai để rồi học tiếp lên đại học. Nếu không thì cũng sẽ đi sĩ quan theo con đường binh nghiệp như một số thanh niên thời bấy giờ.

Uyên Thao đã không chọn lựa hai con đường đó như mọi thanh niên khác đã làm.

Anh chọn lựa một con đường cho riêng anh, theo cách lý giải của riêng anh.

Nhưng anh cũng nhắc đến một trường hợp khác chẳng may mắn gì. Đó là trường hợp Trung úy Kiều Duy Vĩnh chỉ hơn Uyên Thao hai tuổi khi chọn lựa ở lại miền Bắc.

Sau 1954, thay vì di cư vào Nam như nhiều sĩ quan quân đội quốc gia khác. Kiều Duy Vĩnh vì lý do nào đó không biết đã ở lại Hà Nội và đã bị bắt tù lên trại Cổng Trời.

Chính ở nơi đây, bị đầy lên Cổng Trời – nơi sinh ra để chết, theo một lối nói của Tạ Duy Anh. Kiều Duy Vĩnh còn sống sót trở về viết lại.

Theo anh Uyên Thao, Kiều Duy Vĩnh cả đời chỉ cần viết hai bài đủ nổi tiếng một thời về trại Cổng Trời. Bài thứ nhất mang tên “Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời” đăng tải trên tờ Thế Kỷ 21, số 98, tháng sáu 1997 và bài thứ hai: “Đức thánh Tử vì đạo thứ hai mà tôi được gặp”, số 10 Thế kỷ 21, tháng 8, 1997 lúc Phạm Phú Minh làm Chủ bút.

Theo lời tòa soạn, bản viết chỉ để tên tắt K. Vĩnh và viết bằng bút mực lem nhem, không dễ đọc.

Mặc dầu vậy, đây là hai bài viết “động trời”, đọc xong đến lạnh gáy về cái độ tàn bạo của chế độ cộng sản.

Trại Cổng Trời qua ngòi bút của Kiều Duy Vĩnh trở thành một bản án về sự tàn bạo tiêu biểu nhất của chế độ XHCN, nơi giam cầm những người tù như Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Chí Thiện, tu sĩ Lâm Đình Túy (người mà Kiều Duy Vĩnh gọi là Đức Thánh tử đạo).

Xin được trích dẫn một vài đoạn biết đâu may ra có thể “làm gương” cho những lãnh đạo tôn giáo nào còn vẫn tin tưởng ngây thơ vào cộng sản.(1)

Tôi đọc Kiều Duy Vĩnh và xúc động khôn cùng về những gì xảy ra trên trại tù Cổng Trời ngày xưa, gợi nhớ đến người Anh Cả của tôi cũng từng bị giam trên Cổng Trời. Tôi xót xa và hình dung ra những gì anh tôi từng phải chịu đựng đói khát và rét và gông cùm. Và những gì đang xảy ra cho TGM Ngô Quang Kiệt với cùng thứ ngôn ngữ mạ lỵ, bôi bẩn của cán bộ trên Cổng Trời.

Tôi phải tự dằn lòng để không dùng thứ ngôn ngữ “bất xứng” của cán bộ Cự và nghĩ tới các tu sĩ lãnh đạo cao cấp của Thiên Chúa giáo như Hồng Y Mẫn, Tổng Giám mục Thể và Tổng Giám mục Nhơn.

Mời mọi người đọc để ra một phút đễ suy nghĩ về những điều tên cán bộ Cự phát biểu. Cán bộ Cự tiêu biểu cho những tên lãnh đạo thành phố Hà Nội ngày hôm nay đối với TGM Ngô Quang Kiệt.

Phần anh Uyên Thao, sự chọn lựa của anh thật hiếm người đã làm.

Do ngay từ khi lúc 18 tuổi đầu, anh đã cầm bút viết cho tờ Cải Tạo. Tờ Cải Tạo là một tờ báo chuyên về văn học và chính trị, giới thiệu văn học cổ điển Pháp. Uyên Thao coi đây như giai đoạn vỡ lòng của nghiệp cầm bút. Nhưng cũng không thiếu say mê và hứng khởi mà sau này anh đành cay đắng viết bài “Giấy bút lầm than”.

Người viết lấy tựa đề này làm chủ đề cho bài viết này.

Anh cộng tác bằng cách dịch sách báo Pháp và viết bình luận về Văn Học Pháp. Anh coi công việc này chỉ là chuyển tải có tính cách trường ốc những gì đã đọc được của Pháp mà thôi.

Rồi do mối quan hệ quen biết với văn chương, anh quen biết một vài người đàn anh trong giới văn học chính trị như Trần văn Ân, Nguyễn Đức Quỳnh trên tờ Đời Mới.

Anh đã vào Nam, do ảnh hưởng của những người trên chăng và anh đã gia nhập quân đội Cao Đài của tướng Trình Minh Thế với cấp bậc như thiếu úy.

Một quyết định quan trọng như thế liên quan đến số phận đời người, số phận tuổi trẻ, anh bình thản cho là quyết định của một đứa con nít, “Có gì đâu”.

Anh giải thích về quyết định gia nhập quân đội Cao Đài chỉ vì một lẽ đơn giản là không muốn bị bắt đi lính cho Tây và cũng không muốn đi theo cộng sản.

Đã có bao nhiêu người tuổi trẻ chọn con đường của Uyên Thao? Tôi không chắc có được bao nhiêu người! Hiếm hoi có những người như Đinh Thạch Bích hay lớn tuổi hơn như Trần Văn Ân, Nhị Lang, v.v…

Anh trực thuộc Trung Đoàn 60 của Cao Đài ở miền Đông. Hỏi anh về giai đoạn làm sĩ quan trong quân đội Cao Đài. Anh rất kiệm lời như thể không có gì đáng nói cả. Anh kể lại một cách bình thản về đời sống quân ngũ mà từ việc ăn uống thiếu thốn, lương bổng kể như không có – tiền lương lính cùng lắm đủ để phì phèo thuốc lá, uống vài ly cà phê.

Xem ra anh chọn lựa Cao Đài một cách hầu như một xung động, như một bất đắc dĩ vì không có chọn lựa nào khác. Có vẻ như anh cũng không thiết thân gì lắm với công việc của môt người lính tác chiến ở thế lưỡng đầu thọ địch với Pháp, với Quốc Gia thời Bảo Đại và với cả Việt Minh.

Hỏi thêm các chi tiết về con người tướng Trình Minh Thế, về tổ chức quân đội, về tinh thần binh đội Cao Đài, về trang bị võ khí, về các trận đánh, về mối liên hệ giữa binh đội cao Đài của tướng Thế và Tòa thánh Tây Ninh, v.v… Anh thường kiệm lời, trả lời nhát gừng bằng đôi ba câu.

– Nói chung quân đội ấy có kỷ luật, có tổ chức, nhất là có cái tình, lương bổng thì có gì đâu.

– Về tướng Thế thì anh cho biết anh chỉ là một sĩ quan quèn, xa mặt trời, lâu lâu gặp tướng Thế có biết gì mà nói. Anh nhận xét là binh lính phải quý mến tướng Thế lắm nên mới quen gọi là anh Tư.

– Về ông Nhị Lang thì anh Uyên Thao có cơ hội gặp gỡ nhiều hơn vì đã có dịp ngồi nói chuyên với Nhị Lang. Anh nhận xét Nhị Lang là người ghét Tây. Nhị Lang cũng là người đàng hoàng, luôn nói sự thật, được tướng Trình Minh Thế tin dùng. Vì thế cuốn sách viết về Trình Minh Thế của ông Nhị Lang là đáng tin cẩn.(*)

– Có một người trẻ tuổi cỡ 20 tuổi cũng gia nhập Cao Đài thời đó là ông Đinh Thạch Bích (sau này là luật sư Đinh Thạch Bích cũng đứng tham gia biện hộ cho tờ Sóng Thần. Trong phần tiểu sử của luật sư Đinh Thạch Bích có đôi chỗ “cường điệu”. Đinh Thạch Bích sinh 14/8/1932 tại Ninh Bình, năm 1951 thì vào miền Nam. Anh Uyên Thao muốn cải chính một vài điều như Đinh Thạch Bích là người vấn kế cho Nhị Lang và tướng Thế đưa ra đề nghị truất phế Bảo Đại.

Anh nhận xét: Ở tuổi đó, độ 20 tuổi, Đinh Thạch Bích còn là loại “măng sữa” làm sao có đủ uy tín để đóng vai cố vấn.

Trong phần tiểu sử của luật sư Đinh Thạch Bích có ghi như sau: tham dự việc thành lập Chiến khu Quốc Gia kháng chiến với tướng Trình Minh Thế. Khi đó ông mới vừa 19 tuổi.

–Về cái chết của tướng Trình Minh Thế(*). Uyên Thao cho rằng không dễ để biết hết những âm mưu bên trong. Nhiều điều chỉ là những lời đồn. Nhưng mặc dầu không nói thẳng ra, Uyên Thao xem ra không ưa chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa và luôn ở thế tránh ra xa.

Bằng chứng là sau khi tướng Trình Minh Thế bị thảm sát thì có một số lớn binh sĩ Cao Đài gia nhập quân đội Quốc Gia. Một số nhỏ quay lại núi Bà Đen, hoặc trốn sang Cam Pu Chia và một số rất nhỏ chọn ở lại Sài Gòn.

Họ chọn sống lang bang ở Sài Gòn.

Uyên Thao lại một lần nữa chọn nằm trong số ít ỏi những người này! Phải chăng, anh là người luôn luôn đứng về thế đối lập với cái gì chính thức – một thái độ của một số người trí thức thiên tả? Và cũng như thế, sau này anh làm Chủ nhiệm tờ Sóng Thần, gây chống đối với chính quyền của TT Nguyễn Văn Thiệu về luật báo chí với vụ án lịch sử 31/10/1974, Ngày Công Lý và báo chí thọ nạn.

Uyên Thao lại ở trong số ấy. Tôi gọi đó là cách chọn lựa “rất Uyên Thao”. Chọn lựa của Uyên Thao. thường khác người theo cách suy nghĩ của anh. Nó gần như ngược dòng, không đi theo số đông bất kể những bất lợi xảy đến cho những chọn lựa này.

Anh nói: “Còn tôi, tôi chọn lựa tan hàng, rã đám, sống tự do.”

Sống tự do thật ra chỉ là chọn lựa sống lang bang ở Sài Gòn và anh đã tìm một chỗ trú ẩn trong các ngôi chùa như một chỗ “nương nhờ cửa Phật” đối với các vị sư cho anh tá túc. Nhưng đối với anh có thể là một thứ “tỵ nạn chính trị”, hay một thứ Chờ Thời tương đối an toàn.

Trong nhiều tình hình chính trị khác nhau, trong nhiều năm tháng, từ năm 1956 khi rời bỏ Cao Đài, anh thường tìm chỗ trú ẩn trong chùa. Trước 1963 để trốn tránh chế độ Đệ nhất Cộng Hòa, anh cũng vào ở trong chùa. Sau 1963 đi tù được thả về lại anh cũng vào chùa. Sau 1975, không nhà không cửa khi đi học tập về, nhà chùa một lần nữa lại là chỗ để anh nương tựa.

Anh luôn luôn sống nhờ vào tấm lòng nhân hậu của một số tăng sĩ Phật giáo.

Anh nói đùa: “Tôi ở dưới trướng các vị sư.”

Và điều căn bản là các vị sư đều quý mến con người Uyên Thao và tận tình giúp đỡ. Điều đó đối với tôi rất là tự nhiên và không lấy gì làm lạ. Ai đã gặp Uyên Thao, ai đã có cơ hội nói chuyện với anh ấy rồi thì dễ bị cái tình cảm quý mến anh ấy chi phối. Nơi anh toát ra một cái chất thiện, một sự trung thực trong một thứ ngôn ngữ ngắn gọn, hà tiện lời làm cho người đối diện tin tưởng.

Nó giống như một cô con gái nhà lành mà từ phong cách, lời nói, cử chỉ, ngôn ngữ toát ra sự tinh tuyền, không tỳ vết.

Sự trung thực và tấm lòng qua thân xác hiển lộ mà không cần một lời biện bạch.

Sự trung thực nơi Uyên Thao như thể là bản tính con người của anh.

Uyên Thao lộ ra một nhân cách làm cho người tiếp xúc với anh tin những điều anh nói. Mà không cần anh phải dài dòng thuyết phục.

Thời gian “nằm chùa đợi thời”, anh đánh cờ tướng với các vị sư. Anh tự hào là anh đánh cờ tướng từ Sài Gòn ra Huế, xuống Cà Mâu “không có đối thủ”. Đánh là chấp xe, chấp pháo đối thủ tùy trường hợp. Những vị sư mà anh quý mến nhất là sư Đức Tuệ (sư thúc của TT. Thích Tâm Châu) rồi các vị sư khác như Đức Nhuận, Thích Thiện Hoa và Thích Tâm Châu.

Đã có lần thày Tâm Châu nhận xét về cách đánh cờ của Uyên Thao và nói đùa: “May là chú không ở trong quân đội, vì nếu thế chú trở thành tên sát thủ.”

Nói đánh cờ chỉ là một thời gian chờ thời. Phần lớn thời giờ còn lại anh đọc sách, học hỏi thêm.

Những bài viết của anh sau này, dù chỉ là một lời giới thiệu một cuốn sách cho thấy anh trích dẫn khá nhiều các tác giả ngoại quốc. Kiến thức của anh cho thấy đọc nhiều, rộng rãi, quảng bá. Cộng thêm lối hành văn khá chải chuốt, mượt mà, có lửa, dụng ý thâm thúy, có nhiều khi phải tìm đọc ý nghĩa giữa hai hàng chữ với chiều sâu của suy tưởng.

Văn viết của anh vì thế khác hẳn với lối nói chuyện đơn chất, đơn điệu của anh.

Nhìn lại mối liên hệ của anh với các vị sư trong chùa cho thấy có điều đặc biệt. Tình thày trò, tình của một người chân tu với kẻ ngoài đời, lang bạt kỳ hồ có duyên gặp gỡ, hiểu nhau trong chiều hướng chia xẻ có lúc sẽ sinh hoa kết trái.

Mối giao duyên đó gợi nhớ cho tôi câu chuyện “Đôi Bạn Chân Tình” của nhà văn Đức Hermann Hesse do Vũ Đình Lưu dịch. Nó miêu tả một kẻ chân tu và gã lang bạt ngoài đời đến một lúc nào đó – với hai con đường đi khác nhau – một khổ hạnh trong sự chiêm nghiệm và một phóng lãng giang hồ vào một lúc nào đó hiểu được chân lý ở đời, hiểu thế nào là đau khổ là hạnh phúc.

Và nhất là họ hiểu nhau. Họ trở thành Đôi bạn mặc dầu hành trình đi vào đời mỗi người một nẻo đi khác nhau.

Anh kể chuyện khi ở chùa, nhà sư Đức Tuệ ra lệnh cho nhà bếp mua thịt cá cho các chú ăn uống như ngoài đời, vì chúng nó có đi tu đâu. Nhưng khi được tin đệ tử ruột của nhà sư về thăm – sư Tuệ Hải – ông vội nói nhà bếp đừng mua thịt cá gì hết, bởi vì “thằng” Hải nó lên, nó rất nghiêm khắc biết được, nó sẽ la lối.

Thật là đẹp. Chúng tôi cùng cười về thái độ của thầy Đức Tuệ.

Cũng chính vì thế sau 1963 khi vừa ở tù ra, Uyên Thao lại ghé tạm trú nhà chùa. Sư Độ Lượng đã vét quỹ công quả trong thùng được 1.200.000 đồng đưa cả cho Uyên Thao muốn làm gì thì làm.

Nhà sư Đức Nhuận góp ý là nên để anh Uyên Thao viết lại cuộc đấu tranh của Phật giáo. Anh Uyên Thao đã nhận lời và thế là cuốn sách được ra đời với lời đề tựa của TT. Thích Tâm Châu. Cuốn sách được in xong nhờ số tiền 1.200.000 của các thày cho, sau đó sách được giao cho các Phật tử mang đi bán. Phần Uyên Thao kể như công việc của anh đã hoàn tất và không còn biết điều gì xảy ra tiếp theo nữa.

Rất mong là có ai đó còn giữ được cuốn sách này thì quý hóa biết bao nhiêu như một tài liệu lịch sử!

Và cuốn sách đó cần được in lại.

Cũng vậy mong là cuốn sách của anh viết về một số nhà văn nữ trước 1975 chóng được in lại như lời hứa đứng ra in lại của nhà văn nữ Nguyễn Thị Thanh Bình.

Cũng rất là “Uyên Thao”, anh là người trách nhiệm nhà xuất bản Tiếng Quê Hương nay đã xuất bản gần tới con số 100 đầu sách của các tác giả khác.

Nhưng sách của Uyên Thao thì để người khác lo!

Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang

Nhà văn Uyên Thao nhận xét về hai vị sư tiêu biểu nhất của miền Nam: Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang

Nhân tiện nói về mối liên giữa các vị sư và nhà văn Uyên Thao, anh có dịp đưa ra một số nhận xét vắn tắt khá trung thực về hai vị sư lãnh đạo thời 1963 như sau:

Ông Trí Quang là người có nhiều tham vọng, tham vọng ấy đã đẩy ông đi rất xa. Người ta có cảm tưởng ông chỉ nghĩ đến bản thân mình biết lợi dụng công việc, hoàn cảnh cho riêng mình.

Uyên Thao nhắc lại chỉ một sự việc nhỏ sau đây thôi làm anh thất vọng. Và chỉ một sự việc nhỏ nhoi này làm anh mất tất cả sự kính trọng đáng nhẽ phải có đối với nhà sư này. Anh cũng nhìn nhận có nhiều người tôn sùng ông Trí Quang như trường hợp, “thằng” Lý Đại Nguyên. Lý Đại Nguyên coi ông Trí Quang như một thần tượng, một bậc thầy không cần bàn cãi nữa. Nhưng đó là dựa trên những mối liên hệ tình cảm giữa hai bên.

Anh Uyên Thao kể lại trước 1963, đang ở đài phát thanh ở ngoài Huế về thì bị bắt không có lý do gì cả. Vì thế anh không có cơ hội theo dõi những biến động trước 1963 cũng như phong trào tranh đấu của Phật giáo.

Tôi hỏi tại sao anh bị chính quyền bắt? Anh trả lời dấm dẳng:

“Tuyền những chuyện vớ vẩn. Giam vài tháng trong đó có cả Trần Quang Thuận, Vũ Tài Lục, Lý Đại Nguyên, Hư Chu (hoạt động cho cộng sản), v.v… thì đảo chánh. Sau đó, Thủy quân lục chiến vào khám, dùng súng bắn vỡ ổ khóa cửa nhà tù để thả tất cả.”

Anh được phóng thích. Khi mới ở tù ra, sau 1963, anh có dịp đến chùa Xá Lợi. Lần đầu tiên, anh được nhìn thấy ông Trí Quang xuất hiện. Nhìn thấy ông Trí Quang đứng trên khán đài mà ở dưới có hàng ngàn Phật tử đang đứng nghe, trong đó có Uyên Thao. Anh nhìn thấy ông Trí Quang chắp tay sau đít, mặt lạnh như tiền, mắt thì ngước lên nhìn trời như không thèm để ý gì đến đám đông đang đứng ở phía dưới chờ đợi để được nghe ông nói.

Anh nhận thấy con người đó không ích lợi gì cho đại cuộc.

“Tôi thấy con người đó không được,” Uyên Thao chỉ nói tóm tắt như thế. Đó là những nhận xét trực cảm nhậy bén bắt được do cảm nghiệm mà không cắt nghĩa được.

Anh nói thêm, “Hình ảnh ấy cứ ám ảnh tôi mãi. Con người ấy không thể làm nên chuyện lớn tốt đẹp được.”

Sau này, để lên án nhóm Phật giáo Ấn Quang, anh Uyên Thao đã viết bài: Con ngựa gỗ Ấn Quang (Trích lại câu chuyện Con ngựa gỗ thành Troie – Le cheval de Troie – đưa đến tai họa mất thành Troie). Bài viết này phải chăng bắt đầu từ cái cái cảm nhận của anh lúc lần đầu tiên gặp ông Trí Quang.

Về nhà sư Tâm Châu: Ông thày Tâm Châu, theo Uyên Thao trái lại có thể gần gũi hơn, “người hơn” thực tế hơn, biết điều hơn, hiểu thấu công việc mà không có tham vọng nên không cực đoan. Đó là mẫu người lãnh đạo tốt, mặc dầu về bản thân có những giới hạn.

Chính vì hai người có những quan điểm nhìn, tính tình khác biệt và hành động khác nhau như thế nên đi đến chỗ bất đồng, những tranh chấp không tránh được đưa đến chia rẽ thành hai khối Giáo Hội sau này.

Uyên Thao nhà báo đấu tranh

Cái nghiệp dĩ của anh Uyên Thao, chính là làm báo dấn thân. Đó là Giấy bút lầm than đã làm nên cuộc đời anh.

Từ tờ Cải Tạo khi ở miền Bắc, rồi tờ Mùa Lúa Mới (Đỗ Tấn làm tổng thư ký tòa soạn) đến các tờ Dân Chủ, báo Sống của Chu Tử đến Sóng Thần. Anh đã cộng tác và viết cho nhiều báo rồi làm đài phát thanh. Cũng chính vì thế, anh biết nhiều chuyện trong làng báo. Và điểm kết thúc nghiệp báo là khi anh làm chủ nhiệm tờ Sóng Thần vào đầu thập niên 1970.

Khi làm tờ Dân Chủ thì anh nhớ lại xảy ra câu chuyện “Ăn chè nhà Bè “của nhạc sĩ Phạm Duy. Anh kể là ngay sáng hôm sau, bà Thái Hằng đã đến tòa soạn yêu cầu: “Xin các anh đừng đăng chuyện gia đình của tôi.” Thật đúng là mẫu mực người phụ nữ VN. Tuy nhiên câu chuyện vẫn đổ bể lớn không bịt miệng được thiên hạ và cái scandale Phạm Duy trở thành giai thoại “ăn chè nhà Bè”.

Khi viết cho tờ Mùa Lúa Mới ở miền Trung có Võ Phiến cộng tác. Anh Uyên Thao cho biết lúc bấy giờ, Võ Phiến chưa nổi danh như khi ông cộng tác với tờ Bách Khoa sau này. Võ Phiến với “Chữ Tình” được kể là hay lắm. Văn Võ Phiến tỉ mỉ, chi ly từng chi tiết một, nhưng không rườm rà mà súc tích, đào sâu, hấp dẫn. Nó khác với lối viết của Mai Thảo bay bướm mà có phần hời hợt. Anh nói thêm, Mai Thảo có thể dễ dãi quá với mình nên viết trở thành nhạt, nội dung không có. Anh gọi Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan là thứ văn chương ưỡn ẹo còn nhà văn Túy Hồng ngược lại là ưỡn ẹo văn chương. Nhưng về lúc cuối đời, Mai Thảo viết xuất thần trong: “Ta thấy hình Ta những miếu đền”.

Khi kể về chuyện di cư của Kiều Chinh – Không biết bằng cách nào, câu chuyện đàm đạo giữa chúng tôi lại dẫn đến cuộc di cư từ miền Bắc vào miền Nam, trong đó có câu chuyện thật đặc biệt về Kiều Chinh. Phần tôi, chỉ tình cờ gặp nữ nghệ sĩ điện ảnh Kiều Chinh tại nhà một nhạc sĩ trong một bữa phở buổi trưa năm 2010.

Tôi còn nhớ khi viết về cuộc di cư, anh Nguyễn Duy Chính có gửi tặng cuốn: “50 năm Bắc Kỳ di cư, 1954-2004”, trong đó Kiều Chinh có viết về cuộc di cư của bà. (Bài này bà đã phát biểu trong dịp được trao giải thưởng Emmy Award tại Hàn Lâm viện khoa Học Truyền Hình Hoa Kỳ với nhan đề, “Kieu Chinh, a Journey Home, 1996”.

Câu chuyện của Kiều Chinh là một bi kịch và đầy bất ngờ của cuộc di cư 1954. Xin ghi lại lời của KC:

“Là con út trong ba chị em, tôi được Bố thương nhất. Suốt thời niên thiếu, tôi chỉ biết có Bố. Bố tôi, ông Nguyễn Cửu, một Viên chức tài chánh Quốc Gia, Hà Nội, ngay khi cuộc di cư bắt đầu vào tháng tám, 1954, đã quyết định vào Nam. Bố sửa soạn cho chính mình và mỗi đứa con một túi vải đeo vai, gồm giấy tờ, thuốc men khẩn cấp, lương thực khô… Đêm trước ngày ra đi, anh tôi bỏ nhà trốn ra khu theo phong trào thanh niên cứu quốc. Anh Lân là con trai duy nhất của Bố, năm đó mới 20 tuổi.

Sáng hôm sau, chỉ còn hai bố con ra phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Hàng ngàn người già trẻ lớn bé nằm ngồi la liệt dưới nắng cháy, chờ đợi để được lên máy bay di cư vào Nam. Mãi tới cuối ngày mới tới lượt bố con tôi. Bố đẩy tôi lên máy bay rồi bất ngờ nói “Con vào Nam trước, Bố ở lại tìm anh Lân rồi sẽ vào sau”. Tôi la khóc cố nhào ra với Bố, nhưng bị đám đông xô lấn đẩy lui. Cửa máy bay xập xuống. Đó là lần cuối được nhìn thấy Bố”.

(Trích bài viết của Kiều Chinh, 50 năm di cư tị nạn, trang 81-82)

Kịch bản đau thương của Kiều Chinh không dừng lại ở đó. Sau này, có dịp sang Pháp dự đại hội điện ảnh thế giới, gặp lại chị Tĩnh, người chị ruột sống ở Pháp, Kiều Chinh mới được biết “Cả bố và anh tôi đều bị cầm tù ở miền Bắc nhiều năm không xét xử. Và sau 50 năm di cư: “Bố tôi đã chết, anh tôi đã chết. Nhiều người di cư thời 50 năm trước đã ra đi vĩnh viễn. Thế hệ tôi cũng sắp ra đi.

Xin thắp một nén nhang cho những người quá cố”. (Trích KC, Ibid)

Tuy nhiên, có thể bà Kiều Chinh đã không thể biết sự thực đời sống của anh và Bố như thế nào ở miền Bắc.

Ở đây, xin ghi lại trung thực đầy đủ những điều mà nhà báo Uyên Thao tiết lộ nhằm mục đích cho thấy thêm một lần nữa sự tàn bạo của chế độ cộng sản như thế nào.

Theo anh Uyên Thao kể lại thì “thằng” Quốc Văn có ra Bắc gặp Ngọc Giao và Ngọc Giao kể lại thì ông già Kiều Chinh sau ngày ra tù sống khốn khổ, vô nghề nghiệp, bị bỏ rơi đến phải đi ăn mày.

Đây là một câu chuyện thương tâm có thật vì ai nên nỗi! Bố Kiều Chinh và người anh ruột bị đầy đọa nhiều năm tù rồi sống lang bang như thế ở ngoài miền Bắc.

Trong khi Kiều Chinh ở miền Nam, coi như mồ côi cả cha lẫn mẹ lại có đủ các cơ hội trở thành một diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất miền Nam thời bấy giờ và tôi tự hỏi phải chăng những vai điện ảnh Kiều Chinh đóng là cớ sự đưa đến tù đầy của anh và bố?

Anh Uyên Thao có yêu cầu Quốc Văn viết lại chuyện này cũng như số phận một số nhân vật như Trương Tửu ở miền Bắc, “nhưng nó cứ lần lữa 10 năm chưa viết gì cả”.

 Những mối giao tình giữa Uyên Thao và chủ nhiệm Nguyễn Quang Lãm và tờ báo Xây Dựng

Lm Nguyễn Quang Lãm

Anh Uyên Thao đã thích thú kể lại kinh nghiệm làm báo và trường hợp Lm Nguyễn Quang Lãm. Lm Lãm là một người du học từ Pháp về, bạn bè của những Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu, bác sĩ Nguyễn Văn Ái về VN sau 1954. Những ai học trường Nguyễn Bá Tòng, đường Bùi Thị Xuân đều biết Lm Lãm là hiệu trưởng đầu tiên của trường. Giám học là ông Nguyễn Đình Đầu.

Lm Lãm tướng cao lớn, nhưng gầy, mặt rỗ hoa cà, trán nhô và miệng rộng quá khổ. Sau khi rời chức vụ Hiệu trưởng trường Nguyễn Bá Tòng, ông ra đứng chủ nhiệm và chủ bút tờ báo Xây Dựng. Ông viết bài dưới bút hiệu Thiên Hổ. Tờ Xây Dựng cũng là nơi mà nhà văn Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp viết báo lấy bút hiệu Thương Sinh.

Theo anh Uyên Thao, anh không có mấy thiện cảm với Thương Sinh trong cung cách viết phóng sự.

Nó có phần “ma giáo” để làm tiền các nhân vật có tai tiếng. Nó lợi dụng ngòi bút. Sau này, khi làm chủ nhiệm báo Sóng Thần, anh đã đuổi mấy thằng ký giả hù người ta lấy tiền. Về những phóng viên làm tiền các ông Tỉnh trưởng cũng được ghi lại trong bài viết của Nguyễn Mộng Giác “Sống và viết tại Hải ngoại”, 1998, đăng lại trên Diễn Đàn Thế kỷ như sau:

Trước khi vượt biên, tôi rất lơ mơ về nghề báo, cũng không thân thiết và xin thú thực, không mấy cảm tình với các ký giả. Có thể tôi không may mắn gặp được những ký giả chân chính và uyên bác. Tôi bị định kiến vì hồi còn dạy học ở Qui Nhơn, lâu lâu lại gặp những ký giả một tờ nhật báo nổi tiếng ở Sài Gòn ra thu tiền hụi mấy ông tỉnh trưởng quận trưởng, sau một bài báo thuộc loại điều tra phóng sự hứa hẹn nhiều khám phá động trời và sẽ đăng làm nhiều kỳ”.

Nhưng riêng với Lm Lãm, anh Uyên Thao quý mến cái tính xuề xòa và “tếu”, nhất là không chấp nhất, không thù vặt và có lòng của vị linh mục này nghĩ tới công việc chung. Ngồi đâu là Lm Lãm cũng có cái điếu cầy để hút thuốc lào với thái độ ngất ngưởng rất “nhà quê Bùi Chu”.

Anh nói mà không dấu được cảm động kể lại rằng khi thấy anh cứ hùng hục làm báo, suốt ngày ngồi ở tòa soạn. Lm Lãm trách nhẹ: “Thứ bảy, chủ nhật, mày phải dành thì giờ đưa vợ con đi chơi chứ. Không có xe, lấy xe của tao.”

Có lần Uyên Thao đùa hỏi cắc cớ, “cha không đi nhậu làm sao làm báo?” Ông Lãm cười khà khà, nhe hàm răng rộng hỏi ngược lại, “tao không đi nhậu nhẹt thì làm sao biết chúng mày tán gái ra sao để viết báo?”

Sau này, TT Nguyễn Văn Thiệu bắt đóng ký quỹ 20 triệu mới cho ra báo. Đối với các tờ như Thần Chung của ký giả Nam Đình thì nhằm nhò gì. Nhưng báo Xây Dựng của ông Lãm nghèo không đóng nổi đành đóng cửa.

Thế là Thiên Hổ, Trần Tấn Quốc, Ngọa Long về cộng tác với Sóng Thần.

Một giai thoại khác là tướng Nguyễn Cao Kỳ nhờ Lm Lãm giới thiệu một nhân vật Thiên Chúa giáo tham gia nội các. Lm Lãm giới thiệu một người quen biết từ hồi còn du học ở bên Tây, kỹ sư Võ Long Triều, người miền Nam, không dính dáng đến chế độ Đệ nhất Cộng hòa. Thế là Võ Long Triều bèn ôm gà chọi làm lễ ra mắt đứng chờ đợi để được diện kiến Nguyễn Cao Kỳ. Trong Hồi ký của ông, Võ Long Triều đã viết khác hẳn.

Lm Lãm còn kể những chuyện “vượt thẩm quyền giáo hội” khi biết được những đôi trai gái khác đạo muốn lấy nhau. Thay vì bắt học đạo, rửa tội, cha làm lễ đám cưới cho họ.

Uyên Thao nói: “Tôi chịu cái tính của Thiên Hổ.”

Ông nói: “Mày thấy không, những ông cha khác từ chối làm đám cưới. Phần tao, tao làm hết, vì chúng nó yêu nhau.”

Anh Uyên Thao nhắc nhớ lại kỷ niệm lần chót gặp Nguyễn Quang Lãm vào ngày 27, 28 tháng tư gì đó. Uyên Thao đến thăm ông Lãm, ông buồn rầu hỏi: “Mày không đi à?”

Sau đó, Uyên Thao thấy Lm Lãm ôm mặt khóc. Ông Lãm là người lúc nào cũng cười khà khà bất cứ trong tình cảnh nào.

Lần đầu tiên trong đời, Uyên Thao thấy một ông linh mục biết khóc. Khóc vì biết miền Nam sẽ không còn như trước nữa.

Câu chuyện tờ Chính Luận với bác sĩ Đặng Văn Sung-Thái Lân và câu chuyện bà Ba

Góp mặt trong buổi trà đàm này quy tụ nhiều người, trong đó có anh chủ nhà Phạm Bá Cát, cựu giám đốc đài phát thanh ở Sài gòn, anh Hồng Dương, cựu ký giả báo Chính Luận, anh Trần Phong Vũ, chủ nhiệm Nguyệt san Diễn đàn giáo dân, anh Uyên Thao, chủ trương tủ sách Tiếng Quê Hương và tôi.

Buổi trà đàm rất náo động, vui vẻ, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề kia, nhưng đều tập trung vào chuyện làm báo ở Sài Gòn.

Trước hết, chúng tôi xoay quanh cái chết của ký giả Từ Chung, báo Chính Luận vào cuối năm 1965. Chính Luận vốn được coi là tờ báo của CIA tài trợ. Đấy là dư luận, đúng hay sai nay chỉ có mình ký giả Thái Lân, nguyên là Tổng Thư Ký Chính Luận biết được.

Ký giả Từ Chung, báo Chính Luận và Chu Tử, báo Sống là đích nhắm, là những người cộng sản muốn trừ khử. Trong hai người, chẳng may Từ Chung bị bắn chết. Chu Tử, chủ nhiệm báo Sống chỉ bị thương.

Cho đến nay, không có tài liệu điều tra nào về phía chính quyền Quốc Gia để tham khảo. Chỉ có tài liệu phía cộng sản được viết trong “Trui rèn trong lửa đỏ” thừa nhận vụ ám sát này cũng như vụ đặt bom nổ tòa soạn báo Chính Luận.

Theo sách “Trui rèn trong lửa đỏ”, trang 111, tháng 9-1969 khi Hồ Chí Minh qua đời, Chính Luận nhân dịp đó có viết bài “bôi xấu” Hồ Chí Minh. Thành đoàn Cộng sản cử hai tên Ba Gia và Ba Trung đến tòa soạn Chính Luận trên đường Lê Lai để một chiếc cặp da trên quầy báo trong đó có mìn gài sẵn. Tòa soạn của Chính Luận bị hư hại nặng.

Ký giả Hồng Dương báo Chính Luận chỉ nói về những sự việc liên quan xa gần đến đời tư của nhà báo Từ Chung. Nhưng không ai trong những người ngồi lại với nhau nói chuyện làm báo thời VNCH được biết hư thực về cái chết này như thế nào ..

Tôi có đặt một câu hỏi tại sao cộng sản không nhằm ám sát ông chủ nhiệm Đặng Văn Sung mà nhằm ký giả Từ Chung cũng như đặt mìn tòa soạn Chính Luận? Hỏi để hỏi thôi. Không có câu trả lời.

Từ đó câu chuyện xoay quanh bác sĩ Đặng Văn Sung. Nhất là phần cuối đời của ông liên quan đến việc ông quyết định theo đạo Thiên chúa.

Anh Phạm Bá Cát có dính dáng đến chuyện này vì anh là người giới thiệu Lm Vũ Đình Trác đến giúp dạy giáo lý cho ông Đặng Văn Sung.

Nhưng theo anh Phạm Bá Cát cái lý do nào đưa đến quyệt định cuối đời của bác sĩ Đặng Văn Sung là do một người phụ nữ tầm thường. Người phụ nữ này có tên là bà Ba vốn là người giúp việc lâu đời của gia đình ông Đặng Văn Sung. Bà ít học, quê mùa đến độ mà theo anh Phạm Bá Cát kể lại mỗi khi gặp tôi bà xưng bằng Ngài và con, “Thưa ngài con…” Làm sao một người như thế, lại có thể có sức mạnh tinh thần ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của ông Đặng Văn Sung?

Nghe câu chuyện này hay và có ý nghĩa, anh Uyên Thao đề nghị phải gặp bà Ba cho bằng được, ngoài phần thăm hỏi và giúp đỡ bà còn phải viết lại thành chuyện.

Đó là một câu chuyện lý thú. Mọi người đều hoan hỉ và hưởng ứng ý của anh Uyên Thao.

Anh Phạm Bá Cát đề nghị thêm cái người có thể biết mọi chuyện từ đầu tới cuối trong mấy chục năm không ai khác là ông Thái Lân, quản lý sau là Tổng Thư ký Chính Luận. (trong thời gian tranh đấu của báo Chính Luận, Nguyễn Thái Lân và Ngô Đình Vận và nhiều ký giả khác đã bị mời lên bộ Tư lệnh Cảnh sát để lấy lời khai về việc làm báo của họ).

Thế là như một đám thanh niên hăng say, cả đám ùn ùn quyết định phải đến ngay thăm ông Thái Lân và giao phó cho tôi trách nhiệm làm sao để thuyết phục ông Thái Lân. Chúng tôi vội vã đi trên hai xe hơi đến nhà ông Thái Lân.

(Ông Thái Lân, khi làm tờ Ngôn Luận – bộ mới – trong ba ngày liền viết bài kết án Uyên Thao là cộng sản nằm vùng. Dựa trên những bài báo của Uyên Thao viết về tình hình đất nước, trích riêng ra đoạn nọ đoạn kia để xuyên tạc, chụp mũ Uyên Thao. Nhưng sau đó có dịp hiểu nhau. Và mọi chuyện coi như bỏ qua. Sau này, ở hải ngoại biết Uyên Thao, ông Hồ Anh, chủ nhiệm báo Ngôn Luận mời anh Uyên Thao về làm báo Văn Nghệ Tiền Phong.)

Ông Thái Lân mặc dầu lớn tuổi, dáng còn khỏe mạnh đang làm vườn, tiếp đón bọn tôi một cách vui vẻ và cởi mở. Trong câu chuyện, mỗi người lần lượt yêu cầu ông phải nói hết mọi chuyện trong giai đoạn làm báo ở Sai Gòn và cho tôi được phỏng vấn ông.

Nói đủ thứ lý luận, nài ép cũng có, ông vẫn tìm cách tránh né không chịu mở miệng. Lý do duy nhất nêu ra là tôi già rồi, trí nhớ kém. Trong nay mai, có dịp gặp ông, tôi thử “thời vận” một lần nữa xem sao và tiếp tục hỏi anh Phạm Bá Cát xem về vụ bà Ba đi đến đâu rồi?

Giai đoạn làm báo Sóng Thần

Có lẽ đây là giai đoạn sôi động nhất trong cuộc đời làm báo của Uyên Thao và để lại trong anh niềm hãnh diện cũng có và nỗi đau cũng không thiếu.

Một người ra một tờ báo mà một đồng xu dính túi cũng không có. Chỉ có một tấm lòng, một lý tưởng tranh đấu chống tham nhũng bất công xã hội và sự hăng say.

Sóng Thần như tên gọi chẳng khác gì một cơn nước lũ muốn kéo đi tất cả những rác rưởi xã hội, cho một bộ mặt mới.

Miền Nam rơi vào tình thế mất còn với nhiều xáo trộn. Chính quyền TT Nguyễn Văn Thiệu xem ra bó tay trước áp lực của người Mỹ và tỏ ra thất thế, yếu kém về quân sự trong việc đương đầu với cộng sản.

Thật vậy, sau Hiệp Định Paris thì linh mục Cao văn Luận đi nước ngoài có ghé Roma và đã gặp hồng y Casaroli, Quốc Vụ Khanh tòa thánh. Hồng y Casaroli đã nhắn nhủ các giám mục VN qua Lm Luận là nên chuẩn bị giai đoạn để phải sống chung với cộng sản và chấp nhận cái thuận lợi hay không thuận lợi (oppotune, importune) khi phải đối đầu.

Điều đó chỉ ra rằng ở ngoại quốc người ta tiên đoán trước được những điều gì xảy cho miền Nam.

Phong trào Nhân Dân chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh ra đời trong hoàn cảnh đó: Chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hòa bình bằng cách liên kết mọi thành phần Dân tộc sau cuộc phân hóa 1963.

Trong cáo trạng chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh đặc biệt có nêu ra một số vụ tham nhũng như: Vụ Còi hụ ở Long An, vụ gạo ở miền Trung, vụ buôn bán Bạch phiến (Thương số buôn bán Bạch phiến lên đến 88 triệu Mỹ kim, tương đương 57 tỷ bạc VN/một năm. Nếu tính 5 năm thì số tiền lên đến 285 tỉ bạc VN, chia đều cho 19 triệu dân miền Nam thì mỗi người được 13.000 đồng. Tài liệu cũng tố cáo trực tiếp TT Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm cầm đầu những vụ này.

(Trích theo cuốn “The politics of Heroine in Southeast Asia” của Alfred W. Mc Coy, năm 1972)

Tiếp đến là các vụ đầu cơ phân bón, đặc biệt vụ án Đồng ở Đà Nẵng có liên quan đến một vị tướng hiện còn sống như sau:

“Vụ án Đồng ở Đà Nẵng, chỉ kết án con buôn, nhưng những ông Tướng, những ông Tá nào bán Đồng cho họ thì không bị xét xử và của ăn cắp không được thâu hồi cho công quỹ.

Tài liệu được trích dẫn là tờ báo Pacific Star and Stripes phát hành ngày 13.6.1973 phanh phui vụ Thủ tướng Trần Thiện Khiêm toa rập cùng một số Tướng lãnh và gian thương, xuất cảng lậu số đồng phế thải của Quân đội Mỹ trao lại cho Việt Nam Cộng Hòa, trị giá trên 17 triệu 300 ngàn Mỹ kim, mà Tổng thống cố tình ám nhẹm, không biết vì lý do gì?

(Trích tài liệu Vẽ Đường Cho Hươu Chạy, Nguyễn Văn Trung).

Riêng tờ Chính Luận trong số báo đề ngày thứ năm 04/7/1974, dưới hàng tít chạy 6 cột trang nhứt, Chính Luận có loan tin: “Một âm mưu xuất cảng lậu 15.000 tấn đồng phế thải trị giá lối 7.000 triệu bạc VN, tức 7 tỷ, bị Phủ Thủ tướng phát giác và một tham chánh văn phòng Phủ Thủ tướng, ông Huỳnh Huy Dương đã bị bắt để điều tra.”

Chỉ vì vụ này, ông Nguyễn Thái Lân bị gọi ra cảnh sát nhiều lần và nay bị Bộ Tư Lệnh Cảnh sát giải ra tòa.

Rất tiếc, ông Thái Lân đã không cho phỏng vấn để biết rõ vụ này như thế nào?

Trong cái tinh thần và bối cảnh chính trị như thế, tờ Sóng Thần có mặt và hỗ trợ Phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh từ đầu.

Vì thế nay không lạ gì trong tập Tài liệu nhật báo Sóng Thần, các anh đã nêu cái tinh thần Hà Thúc Nhơn với lời ghi: Sóng Thần, đầu sóng ngọn gió có ghi: “Nhóm chủ trương Hà Thúc Nhơn chủ trương.”

Bác sĩ Hà Thúc Nhơn bị bắn chết ở Nha Trang do chống tham nhũng ở quân y viện Nha Trang trở thành biểu tượng của Sóng Thần.

(theo tôi khi đó đang dạy học ở Nhatrang, bác sĩ Hà Thúc Nhơn là một người mắc bệnh tâm thần ngổ ngáo, ai cũng sợ ông hết. Cái chết của ông  là do chính ông  bạo trợn gây ra..)

Theo anh Uyên Thao, trong buổi tạ từ của báo Sóng Thần ngày 30 tháng 10 cho biết: “Gia đình Sóng Thần gồm những người trẻ đã được khai sinh và nuôi dưỡng bằng tình thương yêu và thắm thiết của đồng bào anh em khắp nước.”

Cụ thể là những trí thức, dân biểu, giáo sư, quân nhân các cấp đã đóng “hụi chết” để Sóng Thần có thể ra đời và tồn tại được mấy năm. Tuổi thọ của Sóng Thần kéo dài không được bao lâu, nhưng dư âm còn đọng lại và tiếng tốt vẫn còn để lại trong lòng nhiều người.

Tôi có đọc một danh sách dài thườn thượt những người đã góp công của cho Sóng Thần ra đời vào 24/9/1971 khi Sóng Thần ra mắt tại Trung Tâm Văn Bút.

Tôi nghĩ bụng Uyên Thao phải là con người để bạn bè tin tưởng như thế nào.

Theo lời kể của anh Uyên Thao, xin tạm không nêu tên, có một ông tướng nổi tiếng tham nhũng đã gửi một số tiền không nhỏ là 2 triệu đồng qua ông Chu Tử. Anh Uyên Thao đã từ chối nhẹ nhàng không nhận và gửi trả lại số tiền đó.

Không dễ mấy ai có thể chối từ một số tiền lớn lao như vậy vào thời đó.

Sự từ chối này làm nên nhân cách Uyên Thao và làm cho Sóng Thần có uy tín với độc giả, nhất là trong giới quân nhân là đông nhất.

Cái uy tín ấy tóm tắt trong lời của Lm Lãm, một đồng nghiệp của Uyên Thao viết:

“Tôi nghĩ đến vai trò của Sóng Thần trong cuộc tranh đấu hôm nay, đến hành động của anh em Sóng Thần đốt báo rực đường phố, đốt sắc luật 007 làm rung chuyển Hội Trường Quốc Hội hôm nào.

Và mai đây vào sáng ngày 31-10 này, hai chữ Sóng Thần lại sẽ thực sự được khắc vào bia đá của lịch sử đấu tranh.”

(Trích Vẽ đường cho Hươu chạy, Ibid, NVT)

Ngày Ký giả đi ăn mày và Ngày báo chí thọ nạn

Nguyên nhân của vụ này là báo Sóng Thần đã đã đăng tải những tin tức, thông cáo của Phong Trào Nhân dân chống tham nhũng.

Như thể Sóng Thần là phát ngôn viên chính thức hay cái loa của phong trào này. Xin ghi lại một số tít chạy trên báo Sóng Thần như sau:

“30.000 giáo dân Biên Hòa nhập PTNDCTN bất hợp tác với chính quyền Tỉnh. 4 mối nguy của Làng báo. Tổng thư ký nhật báo Chính Luận bị bộ Tư Lệnh Cảnh sát bắt giải tòa. Sổ tay Ngô Đình Vận; Đau quá. Luật 007/72 đã vi phạm công lý ra sao? Giáo dân Nha trang-Cam Ranh đồng loạt tố tham nhũng. Nhiều linh mục tuyên bố sẵn sàng nhận cho còng tay dẫn vào tù. LLPG/HGDT công bố cương lãnh 17 điểm. Đưa 6 điểm cáo trạng số 1 ra thử lửa. LM Thanh tuyên bố sẵn sàng nhận: Đối thoại công khai với TT. Thiệu với điều kiện báo chí dự khán và được đăng tải đầy đủ mọi chi tiết”.

Những loạt bài báo như thế như thách thức sự kiên nhẫn chịu đựng của Tổng trưởng Thông tin và Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã, thách thức chính quyền.

Nhất là đăng bản cáo trạng với hàng tít chữ chạy như sau: Nguyên văn 6 điểm cáo trạng số 1.400 chữ làm rung chuyển cả nước. Khối DTXH chất vấn TT Nguyễn Văn Thiệu về 6 điểm cáo giác. Sóng Thần nổi lửa chống đàn áp Tự Do ngôn luận. Ký giả tẩy chay họp báo, kết án tịch thu báo. Ký giả Trần Tấn Quốc nhập cuộc với bài: Báo chí trong kềm kẹp của luật 19/69, SL 007.

(Trích tài liệu báo Sóng Thần trong Vẽ đường cho Hươu chạy)

Liên tiếp hàng loạt các bài viết trên Sóng Thần đặt chính quyền TT. Nguyễn Văn Thiệu vào thế bị tấn công và ghế bị cáo.

Để trả đũa, ngoài sắc lệnh bắt ký quỹ 20 triệu đồng cho mỗi tờ báo, nhiều báo phải đóng cửa như Xây Dựng, rồi Hòa Bình (có đóng tiền ký quỹ, nhưng báo bị tịch thu nhiều lần nên cuối cùng phải sập tiệm. Linh Mục Trần Du đã viết một thư gửi TT. Nguyễn Văn Thiệu ngày 31/5/1974 có câu viết:

“Có những tin tức rất “vô tư” như “Công Chúa Anh ngã ngựa”, một bản tin lấy tư thông tấn xã UPI hay một bản tin đăng lại của Việt Tấn xã như: “Phụ nữ Quốc tế nghĩ gì về Thanh niên Pháp”. Nhiều báo như Chính Luận, Bút Thép, Độc Lập, Sóng Thần cũng đăng bài đó, nhưng không bị tịch thu.

Chúng tôi bó buộc phải tự ý tạm đình bản từ ngày 31 tháng tám 1974 thỉnh cầu Chính phủ giải quyết vấn đề một cách nghiêm chỉnh vì chính quyền ra lệnh tịch thu báo.

(Trích tài liệu Ngày Công Lý và báo chí thọ nạn của báo Sóng Thần trong Vẽ Đường cho Hươu chạy. Ibid) .

Chưa bao giờ ở Sài gòn lại dấy lên ngọn lửa đấu tranh với nhiều thành phần tham dự, nhiều tổ chức tham dự, nhiều chức sắc tôn giáo một cách tự phát như vậy.

Thật chưa bao giờ. Nó như báo trước một biến cố kết thúc và hạ màn của một giai đoạn sắp tới. Nó đặt mọi người trong tâm thức một báo động đỏ. Nó đại diện cho đủ mọi khuôn mặt trong mọi giới.

Phía Phật giáo có Thượng Tọa Quảng Độ, Đức Nhuận, Giác Đức. Phía Thiên Chúa giáo có Linh mục Trần Hữu Thanh, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Nghị, Phan Khắc Từ. Phía Quốc Hội có Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, Tôn Ái Liêng, Tôn Thất Đính. Dân biểu Nguyễn Văn Ki, Nguyễn Trọng Nho, Lê Tấn Trang, Võ Long Triều, Nguyễn Công Hoan. Phía Văn hữu có LM Thanh Lãng, Nhật Tiến, Đỗ Phương Khanh, Nguyễn Thị Vinh. Các Nghị viên có Nguyễn Đình Trị, Nguyễn Tấn Khang, Đoàn Kỉnh, Dương Văn Long.

Phía luật sư có thể là đông nhất chỉ xin nêu một số vị như: luật sư Bùi Tường Chiểu, Hồ Tri Châu, Nguyễn Phước Đại, Đặng Thị Tám, Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Văn Chức, Đàm Quang Lâm, Đinh Thạch Bích, thủ lãnh luật sư đoàn ở Huế Lý Văn Hiệp.

Trong ngày báo Sóng Thần ra tòa được gọi là ngày Công Lý thọ nạn – ngày 31-10-1974, có tất cả 205 đứng nhận biện hộ cho Sóng Thần.

Bị cáo đại diện cho Sóng Thần là bà Trùng Dương (Nguyễn Thị Thái từ phòng luật sư tiến sang phòng xử với một đoàn hộ tống đông đảo các luật sư).

Trên báo chí, nhiều tít lớn chạy suốt cột báo như:

31/10 Ngày dài vô tận. Tâm thư của Lm Thanh cho Sóng Thần: Đập các anh là đập cả cả chúng tôi. Hội chủ báo công bố quyết định số 3: Toàn thể báo chí VN đình bản, dốc toàn lực yểm trợ Sóng Thần ra tòa 31-10. 32 nhà văn, nhà thơ tên tuổi ký tên chung tuyên bố phản đối báo chí, truy tố Sóng Thần. 60 phút công lý bị kẽm gai bao phủ.

(Trích tài liệu Ibid )

Đặc biệt trong số luật sư nhận biện hộ cho Sóng Thần có luât sư Đặng Thị Tám. Bà sinh năm 1939, tại Hải Phòng, tiến sĩ luật khoa Paris, giáo sư đại học luật khoa Sài Gòn, gia nhập luật sư đoàn 1973.

Bà có mối kết giao thâm tình với nhà văn Uyên Thao. Trước 1975, học trò trong giới Hải quân đến mời bà di tản, bà đã từ chối vì đã chán cái cảnh sống ở Âu Châu thời còn đi du học. Bà đã quyết đinh ở lại như trường hợp Uyên Thao. Sau này chẳng hiểu bà có hối hận về quyết định này hay không? Cuộc sống của bà cũng gặp nhiều nỗi truân chuyên, bất hạnh. Phi công Nguyễn Văn Cử đi học tập cải tạo về sống với bà, nhưng khi sang Mỹ theo diện HO đã để bà ở lại.

Xin được viết lại đôi dòng sinh hoạt tòa báo Sóng Thần sau lần bị tịch thu báo để độc giả sống lại cái giai đoạn ấy.

17 giờ: Ủy Ban tiến đến nhà in Tân Minh, lực lượng an ninh đang vây quanh nhà in rất gắt. Tiếng còi lệnh, tiếng gọi máy, tiếng ra lệnh hô hoán chưởi bới nổi lên từ hàng ngũ cảnh sát. Nhiều cấp cảnh sát cấp Trung Tá, đại tá có mặt ngồi trên các xe chỉ huy. Đồng bào từ khu Vườn Chuối túa ra chặn xe. Có thêm 4 xe cam nhông cảnh sát thường phục được tăng cường, đổ quân vây quanh đám biểu tình.

Vừa thấy “viện binh” kéo đến, anh em Sóng Thần mở cửa nhà in đón tiếp, lực lượng an ninh ùa vào. Mấy sĩ quan cảnh sát cũng nhảy xô vào dành giựt báo với dân chúng.

Các vị linh mục, ni sư cản “ba người anh em” vây quanh linh mục Nguyễn Ngọc Lan khi cha ôm một chồng báo phát cho dân chúng. Một người ‚giật cùi chỏ” cha Lan té nhào xuống đất. Hai người khác nhào tới “sớt” chồng báo chạy ù về phía an ninh. Cha Lan phóng theo, đồng bào áp vào, bên kia lực lượng cảnh sát báo động. Người ta nghe những tiếng la lớn: đừng bắn, đừng bắn…

Các nhiếp ảnh viên, phóng viên truyền hình ngoại quốc vây quanh cha Nguyễn Ngọc Lan vì cha nắm được một nhân viên an ninh, một trong ba người đã hành hung cha. Đồng bào nhào tới, Linh mục Lan sợ “người anh em” bị đòn hội chợ nên thả ra cho người này chạy về phía lực lượng cảnh sát dàn hàng ngay tại cổng xe lửa góc đường Bùi Chu – Hồng Thập Tự.

Tòa soạn báo Sóng Thần sau những đợt tịch thu báo vẫn không sờn lòng. Một số dân biểu như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung, Nguyễn Văn Bình dựa vào quyền Bất khả xâm phạm đến cơ sở ấn loát Tân Minh chất hàng chồng báo lên xe riêng của mỗi người tình nguyện đi phát báo các khu phố để đồng bào có thể đọc được bản Cáo Trạng số 1 tố tham Nhũng của cha THT. Có cảnh xô xát và giằng co giữa dân biểu và cảnh sát. Cuối cùng cảnh sát lên cò súng, các ông dân biểu phải nhường một bước để cảnh sát tịch thu lại báo.

Uyên Thao, người được mệnh danh là “mặt sắt đen sĩ”, ngồi thừ người trên ghế khi nghĩ lại cái cảnh xô xát dành giựt báo chí ngày hôm qua. Báo Sóng Thần lại bị tịch thu mặc dầu có sự cổ võ của các dân biểu tu sĩ.

Anh cố làm vui, hâm nóng anh em bằng những lời khích lệ, nhưng chẳng ai có ý kiến. Cả đến Tấn Typo cũng lo lắng ra mặt. Trong tòa soạn không khí căng thẳng mỗi người một việc như Huy Tường, Vị Ý, Cũ Nghim, Trương Cam Vĩnh lui cui dán, kẻ can trên tấm Report. Hà Thế Ruyệt (Nghị Viên và cũng là người tổ chức buổi đốt 10 ngàn tờ Sóng Thần sau này để tờ báo không bị tịch thu) tới lúc 10 giờ và phấn khởi nói: “Anh em yên trí, chúng ta không cô đơn trong cuộcc dấn thân. Nhiều bạn Đồng nghiệp sẽ đăng chuyện Sóng Thần ngày hôm qua và sẽ cùng đăng bản Cáo trang số 1.”

Và công việc lại tiếp tục. Săn tin, chọn hình, đặt tít, sắp, dán, mise. Ông quản lý thì áy náy vì quảng cáo kẹt lắm rồi.

Bữa cơm trưa vẫn bà đưa cơm đó, vẫn dưa chua, vẫn canh cải, vẫn mấy món cũ mà mọi người như không nuốt nổi. Có cái gì nghẹn ngào, có cái gì vướng vào cổ, có cái gì trục trặc trong bàn ăn, trong khắp các xó xỉnh tòa soạn. Niềm tin của TTK Uyên Thao bơm vào không khí hình như không thấm được và không trấn an được ai ..

Buông đôi đũa xuống, anh ra lệnh: “Thiệp trực tòa soạn. Điển lo tiếp khách. Hùng Phong, Vĩnh Hải sang tăng cường với ông Vĩnh ở nhà in. Ông Lý Đại Nguyên cũng ở bên đó tiếp khách dùm. Còn lại ai lo việc nấy. Hãy tỏ ra là coi được, Sóng Thần không xệ. Đồng ý không?”

Tất nhiên Sóng Thần không xệ, nhưng cái niềm tin mong manh còn sót lại liệu có bị tan vỡ như bong bóng trời mưa không?

(Trích lại Ngày Công Lý và Báo chí thọ nạn. Tài liệu của Sóng Thần Ibid).

Cuối năm 1974 báo Sóng Thần đóng cửa.

Đỗ Ngọc Yến đang làm Sóng Thần xin sang giúp tờ Đại Dân Tộc của nhóm Võ Long Triều gặp Uyên Thao nói: “Các anh phải hồng hồng một chút xíu, anh chống Cộng thế này thì sao sống được.”

– Đỗ Ngọc Yến có thể làm cho CIA, mình sao biết được.

Tôi (anh Uyên Thao) vỗ vai nó nói: “tao chống Cộng đến sáng.”

– Sau khi Sóng Thần đóng cửa thì anh làm gì?

– Chẳng làm gì cả. Vì người ta nghĩ rằng chuyện Chống Cộng không cần thiết nữa.

Báo hại các Thầy Thiện Hải, Đức Nhuận đã đến lúc lại phải chở gạo và các thứ đến nhà Uyên Thao đều đều. Phần vợ anh lại ra tay đi giao hàng, buôn bán thêm để nuôi sống gia đình như bà Tú Xương mất.

Nhìn lại hình ảnh và tài liệu minh chứng thì đây là một biễu diễn dân chủ ngoạn mục tiêu biểu nhất của chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa và tất cả những ai đã từng tham gia cách này cách nọ, trực tiếp hay gián tiếp trong phong trào này đều có quyền hãnh diện. Những người như Linh mục Trần Hữu Thanh được gọi là “Cha già dân tộc”.

Nhìn lại những giai đoạn tranh đấu hào hùng này, đánh dấu một chặng đường làm báo với giấy bút lầm than. Anh Uyên Thao vẫn nghĩ rằng việc làm lúc bấy giờ là đúng là bắt buộc phải làm như vậy.

Có thể đây là điểm duy nhất tôi không hoàn toàn đồng ý với anh Uyên Thao xét theo bối cảnh chính trị lúc bấy giờ.
Ngày 31 tháng 10, 1974 – ngày báo chí thọ nạn – cho thấy chỉ còn đúng 6 tháng nữa làm toàn miền Nam bị rơi vào tay cộng sản.

Nếu có kẻ vẽ đường cho Hươu chạy thì Hươu cuối cùng sẽ rơi vào một cái bẫy sập. Ai là bẫy sập? Anh Uyên Thao nhìn nhận là biết nhiều bọn cán bộ cộng sản trà trộn trong hàng ngũ người Quốc Gia, nhưng để nguyên. Trường hợp Vũ Hạnh ai cũng biết. Trường hợp Nguyễn Nguyên cũng vậy. Và năm 1980 khi anh đi học tập về gặp một số nhân viên báo Sóng Thần là những cấp chỉ huy ở quận năm. Bọn chúng nói với Uyên Thao là xin vào làm Sóng Thần để phá Sóng Thần.

Sau ngày 30/10, vẫn còn có những buổi đêm canh thức, đốt nến, đốt đuốc cầu nguyện. Và chẳng bao lâu sau, tháng Ba, 1975, tin Ban Mê Thuột bị mất.

Tin này đã làm tắt tiếng tất cả những phong trào đấu tranh. Biến cố này làm cho các phong trào đấu tranh, đặc biệt PTNDCTN rơi vào tình cảnh không biết xử trí ra sao: Chẳng lẽ trong tình thế mất còn như thế này mà còn tiếp tục chống ông Thiệu?

Trong Lịch sử ngàn người viết, tâm sự của Nguyên Sa cho thấy cái phi lý của cuộc rút quân này trong một tình thế hoang mang cực độ.

Nguyễn văn Trung tóm tắt giai đoạn này một cách khá trung thực là giai đoạn:
Vẽ đường cho Hươu chạy. Vì đâu nên nỗi mất miền Nam. Vì đâu Nguyên Sa choáng váng khi mất Ban Mê Thuột!

Lúc Phước Long mất, một bữa ăn uống ở nhà đại tướng Dương Văn Minh. Anh Uyên Thao kể lại là ông Minh trò chuyện đã yêu cầu: các anh phải xét lại quan điểm chống Cộng, vì người ta đã tính bỏ Cao Nguyên rồi.

Nghe thế, anh Uyên Thao nghĩ rằng nếu bỏ Cao Nguyên thì kể như miền Nam bị mất luôn.

Thật sự nghĩ lại cũng khó quy trách cho ai. Vì lịch sử của một ngàn lời ca trong đó có những người ca lỗi nhịp.

Về Phong trào chống tham nhũng của Lm Trần Hữu Thanh có bàn tay của Mỹ không? Hai cựu dân biểu cánh tay mặt của Lm Thanh khẳng định với tôi qua điện thoại là không có chuyện đó. Có thì họ phải được biết.

Thế nhưng, những tài liệu chống TT Nguyễn Văn Thiệu ai là người cung cấp cho Lm Thanh? Chính Lm Thanh phân phát một tài liệu, ký tên Broqueto phúc trình phê phán mạnh mẽ ông Thiệu cho các linh mục khác, sau cùng chính ông nhìn nhận không có linh mục nào tên Broqueto cả.

Nhưng nếu tin vào một người bạn của Lm Thanh, một người bạn mà Lm Thanh đã viết như sau khi Lm Thanh bị bắt:

“Không biết anh có ái ngại gì vì tôi bị bắt sau khi được anh mời cơm tối ở nhà anh không. Tôi ra đường Hiền Vương thì thấy các xe xích lô khác giang ra, chỉ còn một chiếc tôi leo lên xe để về Nhà Dòng. Chiếc xe mới toanh tôi xin ông tài đạp nhanh nhanh lên, ông cứ tà tà. Lúc quẹo đường Đoàn Thị Điểm thì có công an chạy theo, chặn lại và lúc nhìn rõ mặt, bảo tôi đi theo về quận ba, rồi xe jeep đưa đến an ninh nội chính. Tôi nghĩ nhà nước không muốn đến bắt tại nhà Dòng sợ gây xôn xao nên bắt giữa đường vậy thôi vì sau đó nhiều cha khác cũng bị bắt như vậy.”

Trích thư riêng gửi cho người bạn vào ngày 18 tháng 10, 1979.

Lm Thanh bị bắt vào đầu năm 1977. Hồ sơ chống Tham Nhũng cũng được giao cho người bạn này giữ và Lm Thanh có cho biết người Mỹ đã đến tiếp xúc với ông và khuyên cha nên đứng ra làm chuyện này. Và ông đã làm.

Tôi có gặp Lm Thanh năm 2006, linh mục cũng say sưa nói về giai đoạn này. Nhưng chuyện có người Mỹ nhúng tay vào hay không, ông không nói. Có thể tôi không đủ mức tin cẩn để ông nói về vấn đề tế nhị ấy. Nếu tin vào điều tiết lộ của người bạn Lm Thanh thì phong trào chống Tham Nhũng của Lm Thanh chỉ là một dạng khác của vụ tranh đấu Phật giáo 1963.

Tranh đấu Phật giáo năm 1963 hay Tranh đấu chống tham nhũng 1974 chống TT Nguyễn Văn Thiệu đều có một kẻ đứng ra “vẽ đường cho Hươu chạy”? Người Mỹ phải chăng là kẻ vẽ đường cho Hươu chạy?

Nhận định về Ngày ký giả đi ăn mày, anh Uyên Thao cho rằng nó chẳng ra làm sao cả. Các ông chủ báo và Nghiệp đoàn ký giả đang ngồi hội họp với nhau để chọn danh xưng thì ký giả Lê Thiệp báo Sóng Thần đi qua. Lê Thiệp bảo “thì cứ gọi mẹ nó là Ngày ký giả đi ăn mày”. Nói xong anh bỏ đi một nước. Thế là thấy hay hay, mọi người đồng ý gọi là ngày ký giả đi ăn mày.

Ngày hôm sau dẫn đầu là Lm Thanh Lãng, Lm Nguyễn Quang Lãm, ông Hồ Hữu Tường, đội nón cầm gậy đi trên đường phố Sài Gòn. Và cũng theo anh Uyên Thao, câu chuyện Ngày ký giả đi ăn mày diễn ra chỉ trong khoảng một tiếng đồng hồ rồi chấm dứt! Nó chỉ có thế thôi.

Hai Nghiệp đoàn báo chí đã đi lạc hướng hết. Các ông ấy không nắm được và cũng không nghĩ ra được mục tiêu đấu tranh là gì. Cộng sản cũng lợi dụng trà trộn vào.

Ngày hôm nay, rất nhiều người tham dự vào Phong Trào Nhân Dân chống tham nhũng cũng như Ngày Ký giả đi ăn mày và Ngày Công Lý thọ nạn, chúng ta có cần viết lại điều đó để rút ra được bài học gì với tư cách người trong cuộc .

Lịch sử của ngàn lời ca. Nhưng lời ca nào của Trịnh Công Sơn, của Thích Nhất Hạnh, của Nguyễn Ngoc Lan, của Huỳnh Công Minh, của Phan Khắc Từ, của Lý Chánh Trung, của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Nguyễn Đắc Xuân, của Hồ Ngọc Nhuận. Và lời ca nào là của chúng ta?

Và hôm nay là lời ca của ai?

 Uyên Thao và những chọn lựa cuối cùng trước 1975 và hoàn cảnh của người tù trong gông cùm cộng sản

Biến cố 1975 đã làm thay đổi diện mạo miền Nam, dập tắt tất cả những cao trào tranh đấu dân chủ và công bằng xã hội xảy ra trước đó. Hầu hết mọi người bất kể từ phía nào đều quyết định ra đi nếu có điều kiện. Ván bài đã lật ngửa rồi còn có gì để chơi, dù là chơi tháu cáy.

Phần Uyên Thao, anh quyết định ở lại, dù có phương tiện di tản. Chu Tấn, một phi công lái máy bay từ Cần Thơ về rủ anh đi cùng. Anh không đi. Chu Tấn cũng quyết định không đi. Anh ân hận về việc này. Chu Tấn bị 10 năm tù cải tạo.

Một trường hợp khác liên quan đến luật sư Tám. Uyên Thao nói với luật sư Tám: Tôi không đi, quyết định ở lại. Luật sư Tám nói: Em cũng không đi. Bà vừa nói vừa khóc: Em đã quá mệt mỏi trong thời gian sống ở ngoại quốc rồi. Bà muốn về quê ở. Những ngày cuối cùng của VNCH, anh Uyên Thao đến ở nhà bà Nguyễn Thị Tám, nhà ngay trước dinh Độc Lập.

Tôi có hỏi lý do tại sao không đi? Anh trả lời rất Uyên Thao, chúng nó đi hết rồi thì còn ai ở lại. Tôi có nói với bọn Trần Phong Vũ và nghĩ lầm rằng ít nhất cũng còn 5, 6 tháng, nếu đi hết thì còn ai. Và cho dù Cộng sản có chiếm được miền Nam thì họ cũng trúng độc và bị tha hóa.

Sau đó tôi đã không đi trình diện.

Công an đến nhà nói, “chúng tôi có lệnh bắt ông.”

– Anh đi học tập với tư cách gì? Sĩ quan hay công chức cao cấp hay nhà báo?

–Tư cách gì hả, tư cách tôi là một thằng phản động.

Anh Uyên Thao kể tiếp, “Hai năm đầu bị biệt giam ở Tổng Nha Cảnh sát. Đến năm 1977 thì bị đưa ra Bắc tại K3.”

– Với vóc dáng và sức của anh, làm sao anh chịu đựng nổi những ngày tháng biệt giam.

– Vậy mà chịu đựng nổi đấy.

– Rồi sau đó, lý do nào anh được thả?

– Thả về thì biết được thả về. Nhưng cán bộ vẫn cảnh báo, “anh coi chừng, anh vẫn có thể bị bắt tù trở lại.”

– Ra tù thì anh làm gì?

– Ngày hai lần lên trình diện công an. Sáng một lần và chiều một lần về việc làm trong ngày. Y như đi xưng tội mấy ông cha vậy.

– Sau đó có trung tá Mục đi sang Mỹ nhường cho cái xe bán cà rem ở các công viên.

Cán bộ cấm không cho bán cà rem. Tôi hỏi họ: “Không cho bán cà rem thì tôi làm gì để sống?” Cán bộ: “Này, anh đừng giở cái giọng đó ra với bọn tôi nhé. Tôi tha bắn cho các anh là phúc rồi.”

– Sau đó, anh làm gì?

– Lúc đó đang ở chùa vì nó trục xuất không cho về nhà. Rồi đi theo một ông đại tá bới rác ở Hạnh Thông Tây, đi kiếm xương bò về bán cho các cơ xưởng chế thức ăn cho gia súc. Mỗi lần bán xong thì đủ tiền mua thuốc hay một khúc bánh mì.

Cứ như thế cho mãi đến năm 1988 mới được về nhà với vợ con và không còn phải mỗi ngày bá cáo nữa. Vợ phải đi bán bún riêu thì nay ở nhà phụ một tay, giúp các việc lặt vặt.

– Rồi sau này tại sao anh không nộp đơn được đi theo diện HO?

– Chẳng tại sao cả. Tôi không nộp đơn, vì thấy các ông HO hung hăng thích thú quá mức. Năm 1994 thì chương trình đoàn tụ chấm dứt, đóng cửa.

– Vậy làm thế nào anh lại có thể sang Mỹ vào năm 1999?

– Tất cả công việc này do bà Khúc Minh Thơ phối hợp với Bộ Ngoại giao Mỹ. Và họ đã đứng ra bảo lãnh cho tôi mặc dầu tôi không được quen biết với bà Khúc Minh Thơ. (Bà Khúc Minh Thơ là chủ tịch Hội Tù Nhân Chính trị và chương trình Humanitarian Operation).

Nghĩ lại số anh Uyên Thao lúc nào cũng có quới nhân phù trợ dù anh cứ đi ngược dòng!

Uyên Thao với tủ sách Tiếng Quê Hương

Sang Mỹ vào một thời điểm đã quá muộn, 1999, để có thể làm một điều gì cho bản thân cũng như cho Cộng Đồng. Về bản thân anh Uyên Thao vốn thân xác gầy còm ốm yếu cộng thêm những năm tù tội cộng sản làm anh đuối rồi.

Cùng lắm sống tuổi già ra quán cà phê, ngồi tán dóc với bạn bè hay chửi đổng.

Vậy mà bằng cách nào Uyên Thao đã làm nên chuyện!

Sang năm 1999, năm 2000, Tủ sách Tiếng Quê Hương ra đời. Tủ sách Tiếng Quê Hương đã ra đời, quy tụ nhiều tên tuổi chung quanh anh như Minh Võ, Trần Phong Vũ, Lê Thiệp, Đàm Quang Lâm, Hoàng Hải Thủy, Thái Thủy, Hà Thế Ruyệt, Hồng Dương, Hoàng Song Liêm, Phan Diên, Vũ Ánh, Trịnh Đình Thắng, Lã Huy Quý, Hoàng Ngọc Liên, Thanh Thương Hoàng, Trùng Dương, Phùng Thị Hạnh, Lê Phú Nhuận, Nguyễn Thiên Ân, Chu Tấn, Nguyễn Tuyên, Nguyễn Hữu Diên, Việt Dương, Trương Cam Vĩnh, Xuân Bích, Phạm Quốc Bảo, Phạm Trần, Đặng Đình Khiết, Dư Thị Diễm Buồn, Phó Hồng Hà, Mạc Ly Hương…

Tôi gợi nhớ đến giai đoạn của Sóng Thần mà một số tên tuổi thời đó còn sót lại. Anh Uyên Thao phải chăng là điểm quy tụ Oméga của những người có lòng với những lý tưởng chung. Tiếng Quê Hương là tiếng của mọi người, từ trong nước ra hải ngoại. Nguyễn Thụy Long, Văn Quang, Tạ Duy Anh, Bùi Ngọc Tấn, Tô Hải có mặt từ trong nước gửi ra.

Và dĩ nhiên vô số các tác giả ở hải ngoại. Nay Tiếng Quê Hương được kể là nhà xuất bản phát hành sách đều đặn nhất và có chọn lọc.

Tôi cũng có hân hạnh được Tiếng Quê Hương chọn và xuất bản cuốn “20 năm miền Nam”. Trong tâm sự, anh Uyên Thao bày tỏ một sự kiên nhẫn phi thường nói là anh rất vất vả vì cuốn sách của tôi với đống tài liệu ngổn ngang và đã rất vất vả, vì có bài anh để ra 10 lần để đọc và edited lại.

Xin ghi lại một lời cảm tạ.

Tiếng Quê Hương hoạt động mạnh là nhờ vào hai người. Người đọc và edited lại là anh Uyên Thao. Và người thứ hai là anh Trần Phong Vũ, lo in ấn, phát hành trên khắp nơi. Không có sự phối hợp nhịp nhàng và ăn ý ấy thì mọi chuyện đã không thành ..

Hai anh đều là người đã luống tuổi, ai sẽ là người tiếp nối công việc của các anh?
Đó là câu hỏi đặt ra cho Tiếng Quê Hương và cho tất cả các sinh hoạt khác của Cộng Đồng người việt Hải ngoại?

 **********************************

Chú thích của tác giả:

(1) Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người cộng sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ. Thứ nhất là các đấng bậc trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ nam lẫn nữ. Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim, rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội trống, hội kèn cũng bị đi tù hàng loạt.

[…] Cho đến hôm nay 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gạp lại ai, ngoài một người cộng sản là anh Nguyễn Hữu Đang.

[…] Linh mục Hiếu lên trại Vinh Quang lần thứ hai thì được phó giám thị Cự công bố với toàn trại tù là ông cha đạo Hiếu này chính là một tên lưu manh chuyên nghiệp. Mọi người cứ há mồm, ngớ ra không hiểu.

Cự giải thích như sau:

“Hiếu là một tên vốn lười biếng, thích ăn ngon mà không thích lao động, một tên ăn bám xã hội, trông mẽ người anh ta thì thấy ngay là loại ăn trắng mặc trơn, ăn ngon mặc đẹp nên đi tu, làm nghề tôn giáo, lừa bịp các giáo dân để kiếm ăn. Thử hỏi, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta, những người yêu lao động có thể nào chấp nhận phần tử ăn bám đó. Trí thức như Hiếu, thì giá trị không bằng cục cứt (trích Mao Trạch Đông), mà trí thức gì cái anh ta: Học được mấy chữ “ la tanh tưởi” đến nhà thờ rao giảng, lẽ thường ra khấn khứa thì cứ theo như lối Việt Nam ta: gần bay là xa bay bổng mời các cụ về hưởng lộc cho con cháu. Nhưng y lại không khấn khứa như thế, y nói: “ca tê ri om, ca thế dran” ra cái điều cao siêu bí hiểm, nó có cái quái gì là bí hiểm đâu, nó là: cá trê rán, cá trê om nói trệch đi. Đấy y lừa bịp các giáo dân như vậy đấy. Chỉ để kiếm miếng ăn như mấy lão thầy cúng chập chững ấy mà.”


 

Việt Nam có thật sự là nơi đáng sống hay không?

Ba’o Nguoi-Viet

October 14, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Tư Ngộ

Việt Nam được người ta dẫn chứng từ “chỉ số hạnh phúc” giả tạo đến các thống kê hàng triệu du khách theo nhau đến Việt Nam mỗi năm để quảng cáo xứ này là nơi đáng sống trên thế giới.

Nhưng theo một ký sự ngắn viết trên mạng của tổ chức thông tin Công giáo khu vực Á Châu (UCAN) ngày 14 Tháng Mười 2025 thì có lẽ nơi này đáng sống nếu người ta bưng tai, bịt mắt trước mọi nghịch cảnh và bất công xã hội ở chung quanh.

Các loại xe được hướng dẫn chạy trên những đường phố ngập nước ở Hà Nội ngày 7 Tháng Mười 2025 vì hậu quả của trận bão số 11 (Matmo) và các đập thủy điện xả lũ. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Nói khác, người ta chỉ có thể sống mà không gặp gì rắc rối nếu chịu thích nghi, giữ mồm giữ miệng chứ không chê bai chỉ trích chính trị, sống theo khuôn khổ cho phép của nhà cầm quyền. Bằng không, người ta sẽ thấy đất nước này vô cùng ngột ngạt. Người ta hứa hẹn giắt tay đi lên thiên đường xã hội chủ nghĩa dù chỉ có trong những cái loa tuyên truyền treo ở đầu đường xó chợ.

Bài viết trên UCAN dẫn lại một chuyện cũ, thảm kịch, xảy ra 6 năm trước. Tất cả 39 người, đa số là dân Nghệ An, gồm 31 đàn ông và 8 phụ nữ, đã chết ngộp trên chiếc xe tải đông lạnh khi đến được nơi họ muốn đến, ngoại thành London, nước Anh. Gia đình họ đã cầm cố nhà cửa, bán tài sản gom góp tiền bạc để trả cho bọn buôn người đưa họ đi lậu qua đó để kiếm tiền, cơ hội đổi đời cho gia đình.

Thảm kịch gây xúc động không riêng gì tại Việt Nam mà cho cả thế giới nhưng nay đã đi vào quên lãng. Việt Nam đang được tô vẽ như một nơi rất đáng sống trên hành tinh này, một đất nước đang phát triển, an toàn và đầy lạc quan. Nhà cầm quyền CSVN quảng cáo đất nước hòa bình phát triển thịnh vượng nên đầu tư ngoại quốc ùn ùn đổ tiền vào đây, thúc đây gia tăng nhanh chóng tầng lớp trung lưu.

Trên mạng xã hội, có nhiều video clip quảng cáo Việt Nam “đáng sống hơn Tây phương”. Một số bloggers ca tụng đời sống nơi đây chi phí thấp, đồ ăn ngon, người địa phương thân thiện, thời tiết thì quanh năm ấm áp. Mới đây, trang mạng của đài CNBC Mỹ kể câu chuyện của một cựu chiến binh Mỹ tên Markeiz Ryan, 36 tuổi. Sau khi giải ngũ, anh ta đến Sài Gòn sống thoải mái với tốn kém trung bình mỗi tháng $4,000 USD và không có ý định đi nơi nào khác, kể cả về lại nước Mỹ.

Số tiền chi tiêu hàng tháng đó đến từ tiền hưu trí cựu quân nhân, tiền anh làm thêm như dạy Anh ngữ và các khoản kiếm thêm khác. Tiền ăn uống chỉ tốn $400 USD một tháng thôi nhưng tiền thuê nhà $850 USD, tiền điện nước, tiền bảo hiểm sức khỏe và các khoản linh tinh khác cộng lại nên nhiều như vậy.

Dù sao, Markeiz Ryan nhìn nhận “Người ta ở đây chỉ chú ý tới đời sống hàng ngày của họ chứ không để ý mấy tới mấy chuyện chính trị gì đang xảy ra”.

Theo thống kê, giữa các năm 2016 đến 2020, hơn 24,000 người Việt Nam từ bỏ quốc tịch để nhập tịch ở nước khác trong khi chỉ có vài trăm người xin nhập tịch hoặc xin hồi tịch quốc tịch Việt Nam. Nhưng chỉ nửa năm 2014, có hơn 2,100 trường hợp nhà cầm quyền Hà Nội khoe “liên quan đến quốc tịch” được Bộ Tư Pháp “xử lý”.

Nhưng những con số trên cho thấy số người muốn thoát ra khỏi Việt Nam, cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp, vẫn nhiều hơn là số người muốn đến Việt Nam sống hoặc quay về cố quốc để sống những ngày cuối đời. Hồi năm ngoái, cảnh sát Liên Âu đã phá vỡ một tổ chức buôn người Việt Nam, bỏ tù 16 người. Con đường di dân lậu từ Việt Nam qua ngả Nga, vòng vèo ở nhiều nước trước khi đến nước Anh bằng xuồng cao su hay xe tải vẫn tiếp diễn chứ không dừng lại. Cảnh sát liên bang Đức coi những nhóm tội phạm gốc Việt là một số trong những nhóm bóc lột di dân lậu tàn nhẫn nhất khi ép họ làm tại các nhà hàng, tiệm móng tay, nông trại, để trừ nợ cho chuyến đi.

Giới đầu tư quốc tế không đặt nặng vấn đề chính trị. Họ không cần biết cái chế độ này hay chế độ kia tàn ác thế nào đối với các người bất đồng chính kiến. Họ chỉ biết được yên thân thuê nhân công giá rẻ, làm ra sản phẩm để bán kiếm lời cao.

Chế độ Hà Nội khoe hồi tuần trước là tính đến cuối Tháng Chín, “tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam bao gồm: vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28.54 tỷ USD, tăng 15.2% so với cùng kỳ năm trước.” Nghĩa là, dù Việt Nam đang phải đối phó chật vật với thuế quan đối ứng của Mỹ, giới đầu tư vẫn thấy làm ăn được.

Cùng lúc ấy, Việt Nam lại được một tổ chức khuyến khích du lịch quốc tế ở Hong Kông trao tặng giải thưởng công nhận nước này có một số trong những trung tâm du lịch sinh thái tuyệt vời nhất trên thế giới như Đồng Văn Mèo Vạc, Phong Nha – Kẻ Bảng.

Xã Thất Khê tại tỉnh Cao Bằng chìm dưới nước khi bão số 11 (Matmo) đưa mưa lũ tới, rồi các đập thủy điện nhỏ bé ở tỉnh này hối hả xả lũ chống vỡ đập làm nước sông Bằng Giang dâng cao bất thường. Người chết, tài sản thiệt hại nghiêm trọng. (Hình: Anh Túc/AFP/Getty Images)

Chẳng vậy, năm 2024, Việt Nam đón tiếp 17.5 triệu du khách, tăng 39.5% so với năm 2023. Năm nay, 9 tháng đầu 2025, Việt Nam đã tiếp đón đến 15.4 triệu du khách, tăng 19.5% so với cùng thời gian này của năm ngoái.

Người ta dẫn chứng các con số về gia tăng phát triển kinh tế hàng năm, về sự ổn định chính trị để nói rằng cái đất nước này đáng sống. Nhưng người ta không biết rằng đó chỉ là bề nổi, mặt ngoài mà thôi. Đại đa số người dân vẫn chạy ăn từng bữa toát mồ hôi, còn tầng lớp trung lưu và giàu có nằm trong giới “tư bản đỏ” tại Việt Nam vẫn chỉ là thiểu số.

Như ở trên trình bày, muốn yên thân sống ở Việt Nam, đừng đòi hỏi gì về nhân quyền. Quyền tự do phát biểu, tự do báo chí, hội họp, tự do biểu tình, tự do tôn giáo tín ngưỡng, cái gì cũng có cả đấy, nhưng chỉ có trên giấy mà thôi. Các quyền tự do ấy bị các điều luật hình sự trói lại bằng những từ ngữ mơ hồ để bắt tù những ai cắc cớ. Ít nhất 4 người đã bị bắt giam trong Tháng Chín vừa qua.

Tóm lại, Việt Nam chỉ là nơi có thể đáng sống của những người chấp nhận cúi đầu sống cái thân phận con lừa kéo xe để được cho ăn cho ít cỏ, uống ít nước, rồi cắm đầu chạy tiếp theo lệnh cái roi vụt lên lưng. Muốn chống đối? Cái cùm tại 53 trại giam trên toàn quốc đang sẵn sàng.


 

MƯỜI BÀI HỌC THIÊNG LIÊNG TỪ THÁNH NỮ TÊRÊSA AVILA – Lm. Ed Broom, OMV 

Lm. Ed Broom, OMV 

Chỉ cách nhau hai tuần trong Lịch Phụng Vụ, chúng ta kính nhớ hai vị thánh tuyệt vời, đầy cảm hứng và đáng mến, những người thật sự yêu thương chúng ta và cũng mong chúng ta đáp lại tình yêu của họ: thánh Têrêsa Lisieux và thánh Têrêsa Avila.

Chúng ta mừng kính thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ngày 1 tháng 10; còn ngày 15 tháng 10 là lễ nhớ thánh Têrêsa Avila.  Vậy điểm chung giữa hai vị thánh này là gì?  Cả hai đều là phụ nữ, đều thuộc số ít nữ Tiến sĩ Hội thánh, đều là những nhà chiêm niệm tuyệt vời, đều là những nữ tu dòng kín Cát Minh, nhưng điều quan trọng nhất là họ đều đã, đang, và sẽ mãi đến muôn đời là những hiền thê vĩ đại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ ta.

 Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn tri ân thánh Têrêsa Avila và nêu bật mười đóng góp vĩ đại của thánh nữ cho Giáo hội Công giáo và cho mỗi người chúng ta, như một mẫu gương về sự thánh thiện mà tất cả chúng ta đều được mời gọi noi theo.  Hãy nhớ lại những lời của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ ta, đã nói trong Bài giảng trên núi: “Anh em hãy nên thánh, như Cha anh em trên trời, là Đấng thánh.” (Mt 5, 48)

 Nên thánh và đạt tới một đời sống thánh thiện không phải một điều kiện phụ thuộc, một ước muốn viễn vông, càng không phải là điều chỉ riêng một số ít được mời gọi, mà là điều dành cho tất cả chúng ta.  Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đặt ra cho ta một thách thức với những lời đánh động này: “Nên thánh không phải là đặc ân của thiểu số, mà là bổn phận của tất cả mọi người.”

 Bây giờ, hãy cùng hướng nhìn lên thánh Têrêsa Avila, người sẽ dẫn dắt ta đến với Đức Giêsu, Đấng là Chúa, là Đấng Cứu Thế, và là Người Bạn trung tín của chúng ta.

 1.Cầu nguyện

Một trong những điểm nổi bật về các mức độ thiêng liêng sâu xa của thánh Têrêsa Avila là tầm quan trọng của việc cầu nguyện.  Dù gặp không ít khó khăn trong nhiều năm dài, thánh nữ vẫn dạy ta một chân lý thiêng liêng căn bản nhưng không thể thiếu: Hãy kiên trì trong việc cầu nguyện!  Hãy suy ngẫm và ghi nhớ những lời bất hủ đầy khôn ngoan này của thánh nữ: “Chúng ta phải có một quyết tâm vững chắc để không bao giờ từ bỏ việc cầu nguyện.”

 Đức Giêsu đã dạy chúng ta chân lý tối quan trọng này qua dụ ngôn bà góa kiên trì và quan tòa bất chính.  Nhờ lòng kiên trì và bền chí, người đàn bà góa cuối cùng cũng nhận được sự giúp đỡ từ vị quan tòa vô tâm lạnh lùng (Lc 18, 1-8).  Thánh Têrêsa nhấn mạnh rằng chúng ta không bao giờ được từ bỏ việc cầu nguyện.  Nếu bạn cần một phép ví von: không khí cần thiết cho phổi thế nào thì cầu nguyện cũng cần thiết cho linh hồn như thế.  Một lá phổi khỏe mạnh cần nguồn khí trong lành và liên tục; một linh hồn khỏe mạnh cũng cần hít thở không ngừng bằng việc cầu nguyện liên lỉ— nguồn ôxy của linh hồn! 

  1. Định nghĩa việc cầu nguyện

Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta một lời khuyên đơn giản nhưng vô cùng chắc chắn: hãy định nghĩa một chủ đề thật rõ ràng trước khi nói về điều đó.  Bằng cách này, ta có thể tránh được nhiều hiểu lầm.  Thánh Têrêsa Avila đã đưa ra một trong những định nghĩa kinh điển về cầu nguyện trong lịch sử Giáo hội: “Cầu nguyện không gì khác hơn là dành thời gian dài lâu một mình bên Đấng mà tôi biết là Ngài yêu tôi.”

Một đúc kết ngắn gọn?  Hai người bạn yêu thương nhau!  Chính Đức Giêsu đã gọi các tông đồ là bạn hữu – và chính chúng ta cũng được mời gọi để nên bạn hữu với Thầy Giêsu! 

  1. Tình yêu với Chúa Giêsu 

Thánh Têrêsa cho chúng ta một gợi ý để thăng tiến trong đời sống cầu nguyện.  Vị nữ Tiến sĩ Hội thánh này từng nói rằng ngài nhận được rất nhiều ân sủng khi suy ngẫm về nhân tính của Chúa Giêsu.  Dành thời gian cùng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, và bước vào cuộc trò chuyện với Người là con đường vững bền để thăng tiến trong cầu nguyện.  Hãy thử xem!  Trong tập sách Linh Thao, thánh Inhaxiô Loyola nhấn mạng việc cầu xin ân sủng này: “Ơn hiểu biết sâu sắc về Chúa Giêsu để chúng ta yêu Ngài cách nồng nhiệt hơn và bước theo Ngài cách gần gũi hơn.” 

  1. Yêu mến Chúa Giêsu trong những đau khổ của Người

Dường như giữa các vị thánh có một mẫu số chung – lời mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu qua cuộc thương khó đau khổ của Người – thánh Piô Năm Dấu, thánh nữ Catarina thành Siêna, thánh nữ Faustina và thánh nữ Têrêsa Avila.  Phần thánh Têrêsa, thánh nữ đã có một trải nghiệm thần bí về Chúa Giêsu Chịu Khổ Nạn (Ecce Homo: này là Người); ngài đã nhìn Đức Giêsu đầu đội mạo gai, và điều này đã thúc bách thánh nữ yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn. 

  1. Chúa Thánh Thần: Vị Thánh Sư trong cầu nguyện

Có một lần, thánh nữ gặp khó khăn trong việc cầu nguyện và đã tìm đến một linh mục Dòng Tên để xin lời khuyên về cách vượt qua khó khăn này.  Lời khuyên của vị linh mục rất đơn giản và đi thẳng vào trọng tâm, nhưng nó đã làm thay đổi đời sống của thánh nữ!  Cha đã nhấn mạng việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.  Kể từ đó, khi nghe theo lời khuyên này mà cậy dựa nơi Chúa Thánh Thần, đời sống cầu nguyện của thánh Têrêsa đã cải thiện đáng kể.  Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô cũng nhắc lại điều tương tự: “Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.” (Rm 8, 26).  Hãy để chúng ta được dẫn dắt bởi Thầy Dạy tốt nhất trong các thầy, Bậc Thầy nội tâm của việc cầu nguyện, Chúa Thánh Thần. 

  1. Hướng dẫn thiêng liêng

Để thăng tiến không ngừng trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cần một hình thức hướng dẫn thiêng liêng nào đó.  Chúng ta ai cũng từng kinh nghiệm về sự mù tối trong đời sống thiêng liêng.  Ma quỷ có thể trá hình hoặc giả trang thành thiên thần ánh sáng.  Và ta càng tiến xa trên con đường thiêng liêng, những chiêu trò và cám dỗ của ma quỷ càng tinh vi – “như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5, 8-9). 

Trong suốt cuộc đời mình, thánh nữ Têrêsa Avila đã tìm đến sự hướng dẫn từ nhiều vị linh hướng, và một số trong đó hiện nay đã được phong thánh: thánh Gioan Thánh Giá (dòng Cát Minh), thánh Phanxicô Borgia (Dòng Tên), thánh Phêrô thành Alcantara (dòng Phan Sinh), và cuối cùng là cha Jerome Gracian – một học giả và nhà thần học nổi tiếng dòng Đa Minh.  Đúng là không phải ai trong chúng ta cũng có ba vị thánh và một thần học gia dòng Đa Minh làm người hướng dẫn, nhưng chúng ta có thể và phải tìm một hình thức hướng dẫn thiêng liêng định kỳ nào đó.  Thánh Gioan Thánh Giá đã nói rất thẳng thắn: “Ai tự mình làm người hướng dẫn thì sẽ có một kẻ ngốc làm môn đệ.” Rất chuẩn! 

  1. Hoán cải và Canh tân

 Một dấu ấn nổi bật trong cuộc đời Thánh Têrêsa Avila nằm ở toàn bộ phạm trù hoán cải và canh tân.  Cùng với Thánh Gioan Thánh Giá, ngài là khí cụ chính mà Thiên Chúa chọn để cải tổ dòng Cát Minh.  Tuy nhiên, thánh Têrêsa luôn ý thức rõ một điều: để hoán cải người khác, ta phải bắt đầu từ chính bản thân mình trước – và đó cũng là điều thánh nữ đã làm trong suốt cuộc đời trần thế của mình.  Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi rao giảng đã là: Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15).

 Nguyện cho chúng ta luôn không ngừng hoán cải cách sâu sắc hơn nữa qua lời cầu thay nguyện giúp của thánh nữ Têrêsa Avila. 

  1. Những kiệt tác thiêng liêng – Các tác phẩm của thánh nữ

Chắc chắn, một trong những đóng góp lớn nhất của thánh Têrêsa Avila cho Giáo hội cũng như cho toàn thế giới chính là những tác phẩm, hay những kiệt tác thiêng liêng của ngài.  Một trong những chủ đề chính yếu mà thánh nữ nhấn mạnh là tầm quan trọng của cầu nguyện, và việc nỗ lực tiến sâu xa hơn trong cầu nguyện cho đến khi hồn ta đạt tới sự hiệp nhất huyền nhiệm với Chúa Giêsu, Đấng Tình Quân Thiên Quốc.  

Ai thật sự nghiêm túc với đời sống cầu nguyện của mình đều nên biết đến những tác phẩm của thánh Têrêsa và dành thời gian đọc những trang viết đầy tràn ơn Chúa của thánh nữ.  Những tác phẩm kinh điển của ngài là gì?  Đây là một số trong số đó: “Tự Thuật” (Her life), “Đường Hoàn Thiện” (The Way of Perfection), “Lâu Đài Nội Tâm” (The Interior Castle), “Các Nền Tảng” (Foundations).  Ngoài những sách này, thánh nữ còn để lại nhiều bức thư đầy truyền cảm.  Bạn muốn trở thành một vị thánh?  Hãy đọc và tận hưởng nguồn ơn thiêng từ những trang viết của các thánh, nhất là các thánh Tiến sĩ Hội thánh! 

  1. Thập giá – con đường vào Nước Trời

Chúa Giêsu từng nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”  Một điểm chung khác trong cuộc đời của các thánh là sự hiện diện của thập giá.  Thánh Luy Maria Montfort thường chúc lành bạn hữu mình như thế này: “Nguyện xin Chúa chúc lành cho anh và ban cho anh nhiều thập giá nhỏ!” 

Thánh nữ Têrêsa đã sống trọn đời mình với người bạn chí thiết là thập giá của Thầy Giêsu.  Sức khỏe của thánh nữ luôn rất yếu, và ngài từng suýt chết khi còn rất trẻ.  Hơn nữa, để thực hiện việc cải tổ dòng Cát Minh, thánh nữ còn chịu đựng nhiều chống đối và bách hại từ các nữ tu khác trong nhà dòng, những người ưa thích một đời sống dễ dãi hơn, từ các linh mục (dòng Cát Minh), và từ các đấng bậc khác trong Giáo Hội.  Thay vì nhụt chí hay nản lòng, thánh nữ càng hân hoan tín thác hơn nữa vào Thiên Chúa – dù sao đi nữa, đây chính là công trình do tay Người thực hiện. 

  1. Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse

Trong suốt đời tu trì của mình, thánh Têrêsa Avila đã luôn hết lòng yêu mến Đức Trinh Nữ Maria – một lòng sùng kính thường thấy ở các vị thánh, và hy vọng cả nơi bạn cũng vậy!  Tước hiệu Đức Mẹ mà thánh nữ sùng kính cách đặc biệt là Đức Mẹ Núi Cát Minh.  Khi tỏ lòng yêu mến Mẹ, đừng ai quên mang Áo Đức Bà Camêlô.  Đây sẽ là dấu chỉ bề ngoài của các con cho việc tận hiến dành cho Đức Maria. 

Hơn nữa, thánh Têrêsa Avila còn lấy lòng con thảo mà kính yêu Thánh Cả Giuse.  Thánh nữ tin rằng sự bình phục sau một cơn bệnh hiểm nghèo gần như đã kết thúc cuộc đời mình là nhờ lời cầu bầu quyền năng của Thánh Giuse.  Ngài cũng đặt tên cho tất cả các tu viện mới thành lập của dòng là San Jose – Thánh Giuse! 

Kết lại, nguyện xin cho vị nữ Tiến sĩ Hội thánh – Tiến sĩ của cầu nguyện – thánh Têrêsa Avila luôn là nguồn khích lệ cho bạn trên đường hành hương của linh hồn tiến về cõi Thiên Quốc.  Nguyện xin thánh nữ nâng đỡ để ta biết cầu nguyện nhiều và sâu sắc hơn, đạt tới sự hoán cải con tim sâu xa hơn, và đến cùng vẫn luôn yêu mến Chúa Giêsu là trọng tâm và là nguồn sống của đời ta!

 Lm. Ed Broom, OMV

Chuyển ngữ: Nam Anh

Từ: https://catholicexchange.com

Nguồn: dongten.net

LÒNG NHÂN LÀNH CỦA ĐỨC MẸ FATIMA – Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 Tôi – phụ nữ Đức – kết hôn với một tín hữu Công Giáo Bồ Đào Nha.  Sau khi hiền phu qua đời, bà con bên chồng mời tôi mang đứa con gái nhỏ 5 tuổi, trở về Bồ Đào Nha, để cô bé học biết ngôn ngữ của thân phụ.  Tôi hân hoan chấp nhận lời mời.

Tại quê chồng, tôi được gia đình tử tước De Caleiro tiếp đón nồng hậu trong dinh thự ở Donro.  Bà chị họ chồng tôi có 4 đứa con – tuổi tác suýt soát con gái nhỏ tôi – nên cô bé học tiếng Bồ rất nhanh, nhờ chơi đùa với mấy anh chị em họ.  Nhưng cuộc sống êm đềm tốt đẹp không kéo dài lâu.  Bệnh đậu lào đổ ập trên vùng, gieo chết chóc trong các gia đình.

Dinh thự gia đình chúng tôi xem ra an toàn cho đến ngày đứa con gái nhỏ của tôi mắc chứng bệnh khủng khiếp ấy.  Chúng tôi tức tốc dời cô bé đến căn phòng biệt lập gần nhà nguyện của dinh thự.  Không thể nào tìm ra y tá, vì ai ai cũng sợ lây phải chứng bệnh hiểm nghèo!  Tôi đành một mình săn sóc cho con, túc trực ngày đêm bên giường con.  Nhờ ơn THIÊN CHÚA, tôi không ngã bệnh.  Con bé mỗi ngày một kiệt sức.  Bằng mọi cách, tôi phải cứu sống con.  Tôi cho mời một bác sĩ trẻ tuổi nhưng nổi tiếng người Pháp, từ thủ đô Paris đến.

Bà chị họ nói với tôi là chị cùng mấy đứa con làm tuần chín ngày kính Đức Mẹ Fatima, xin Đức Mẹ MARIA cứu sống con bé.  Chị mời tôi cùng hiệp ý với gia đình chị.  Tôi không tin mà cũng không hề để ý đến Đức Mẹ Fatima, nhưng tôi chấp nhận đề nghị và bằng lòng làm tuần chín ngày nơi nhà nguyện cạnh phòng con tôi.  Trong khi đó thì sức khoẻ của con bé bước vào tình trạng vô cùng tuyệt vọng.  Các ngón tay đã tím xanh.  Con bé không ăn uống gì và nằm im bất động.  Cả hai bác sĩ chữa chạy cho cô bé cũng bó tay và khuyên tôi chuẩn bị đón nhận một thử thách nặng nề.  Trước khi từ biệt, cả hai vị hứa sẽ trở lại sáng hôm sau, nhưng không chắc cô bé có qua khỏi đêm nay không!

Quý vị có thể đoán được tâm tình rối loạn của tôi khi nghe câu tuyên bố này!  Tôi đã mất một người chồng yêu dấu, một người chồng có quả tim vàng!  Giờ đây đứa con gái duy nhất – bảo ảnh, bảo chứng tình yêu của chồng – đang lâm nguy!  Trong cơn tuyệt vọng, tôi liền chạy đến nhà nguyện.  Bấy giờ là mùa đông.  Tôi quỳ sụp xuống và tha thiết kêu xin Đức Mẹ MARIA cứu đứa con gái nhỏ.  Tôi hứa với Đức Mẹ là nếu con bé khỏi bệnh, tôi sẽ dâng hiến con cho Đức Mẹ và sẽ đi hành hương về đồi Cova-da-Ira, nơi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn chiên làng Fatima.  Tôi ở lại nhà nguyện thật lâu, không biết mấy tiếng đồng hồ, cho đến khi toàn thân rã rời thấm lạnh, tôi mới rời nhà nguyện.

 Tôi trở về phòng của con.  Vừa mở cửa phòng, tôi ngạc nhiên thấy con bé đang nhảy nhót trên giường.  Con bé nói:

– Má đi đâu mà lâu dữ vậy?  Con đói quá, Má cho con cái gì để ăn đi!

Tôi tìm cách đặt con bé nằm xuống, bụng nghĩ thầm:

– Con bé gần chết nên nói sảng đây!

Nhưng con bé tiếp tục nói:

– Con lành bệnh rồi!  “Mẹ THIÊN CHÚA Fatima” bảo con như thế!

Sáng hôm sau, tôi nhờ bà chị họ mời hai bác sĩ đến.  Vừa trông thấy họ, Margarida – tên con gái tôi – vui vẻ chào hai người, đặc biệt, cô bé nói với vị bác sĩ của gia đình:

– Bây giờ Bác nhớ cho cháu con búp bê mà Bác hứa, nếu cháu lành bệnh.  Cháu muốn đi chơi với mấy anh chị em họ của cháu.  Cháu khỏi bệnh rồi.  “Mẹ THIÊN CHÚA Fatima” nói với cháu như thế, khi Má cháu bỏ cháu một mình trong phòng.

Vị bác sĩ già nghiêm khắc nhìn tôi và nói:

– Bà phải nói thật bà đã làm gì cho con bé đêm vừa rồi?  Bà mời một tên phù thủy đến chữa bệnh phải không?

Nghe thế, tôi nổi giận hét lớn:

– Sao bác sĩ lại có tư tưởng lạ kỳ đối với một người Đức như tôi?  Những người Bồ Đào Nha đồng hương của bác sĩ, có bao giờ ngây thơ đến độ đi cầu cứu với các tên phù thủy không?  Hẳn là không, phải không?

Vị bác sĩ lão thành lắc đầu nói:

– Con của bà hấp hối, giờ đây bỗng dưng trở lại bình thường.  Một sự kiện không thể giải thích theo khoa học!

Nghe thế, tôi kể lại tất cả những gì xảy ra trong đêm vừa qua.  Nghe xong, vị bác sĩ già, quỳ sụp xuống, vừa khóc vừa nói:

– Một phép lạ cả thể đã xảy ra.  Chúng ta hãy cùng dâng lên Đức Mẹ Fatima lòng biết ơn sâu xa của chúng ta!

… “Đức Chúa là Vua, là Đấng cứu chuộc Israel, và là Đức Chúa các đạo binh, Người phán thế nầy: Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta.  Ai được như Ta, người ấy cứ lên tiếng, cứ kể ra và trình bày cho Ta xem những gì đã xảy ra từ thời cổ đại, khi Ta tạo dựng loài người.  Và những gì sẽ xảy đến, cứ kể ra đi.  Đừng run, đừng sợ.  Ta đã chẳng cho ngươi nghe từ thưở nào, đã chẳng báo cho ngươi biết đó sao?  Chính các ngươi là nhân chứng của Ta.  Hỏi có thần nào khác, hỏi có núi đá nào khác, ngoại trừ Ta?  Ta biết chắc là không” (Isaia 44,6-8)….

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Editeur, Paris 1992, trang 41-44)

From: Langthangchieutim

 Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

BẢO TỒN TIẾNG VIỆT

   Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

Cách đây mấy ngày thấy có tờ báo đăng tin 2 thanh niên Nhật Bản bị bắt vì tội…dùng đũa cá nhân để gắp gừng trong chiếc lọ đựng gia vị trên bàn ăn của một nhà hàng, rồi quay clip và post lên mạng xã hội. Chủ quán báo cảnh sát, vì hành động “mất vệ sinh” này làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ! Thôi, chắc không cần bình luận nữa về sự nghiêm ngặt của luật pháp xứ ấy.

Tình cờ là cũng hôm trước, tôi có mấy người bạn ghé chơi, trong đó có 2 người mới từ Nhật về nước. Một ông nói, đi 7 năm, về VN 2 tháng rồi nhưng vẫn bị “sốc nhiệt”. Tôi hỏi vì sao bên đó đang làm ăn ngon lành thế mà lại về làm gì.

– Bị đuổi về. Vi phạm pháp luật.

Anh ta kể rằng buôn xe ô tô, mua phải một chiếc xe ăn cắp, bị bắt và giam 15 ngày, sau khi điều tra, kết luận đúng là mua nhầm chứ không phải tự mình ăn cắp, thì được thả nhưng trục xuất luôn.

Lạ là, dù bị bắt tạm giam, nhưng việc đầu tiên là cảnh sát hỏi về thực đơn và thói quen ăn uống của mình, thích ăn những món gì, khẩu vị ra sao…, có nhu cầu gì thay đổi về đồ ăn thì cứ “yêu cầu”, họ phải đáp ứng hết. Bị giam nhưng nhiều lúc quên mất là mình đang phạm tội, vì nào là kêu bật điều hòa, tăng nhiệt độ, giảm nhiệt độ, rồi nói đi mua thứ này, đi lấy thứ kia…, cảnh sát chỉ việc “ngoan ngoãn” làm theo yêu cầu. Không bao giờ có chuyện to tiếng hay tỏ thái độ bất lịch sự với mình, chỉ một lòng cúc cung “phục vụ”.

“Hết 15 ngày sau khi đã có kết luận thì được thả, về Đại sứ quán đang chuẩn bị lên đường hồi hương theo lệnh của chính quyền Nhật thì có người của sở cảnh sát tới, mang theo một chiếc áo. Chiếc áo này tôi bỏ quên ở chỗ giam giữ. Mà thực ra cũng chẳng phải bỏ quên, áo rẻ tiền, lại cũ rồi, vứt đi chứ lấy làm gì. Nhưng họ phái 3 cảnh sát mang tới tận nơi, hỏi có phải áo của anh không, giao lại đường hoàng rồi mới đi”.

Ở Nhật, nếu vì lý do nào đó mà anh “ngủ bờ ngủ bụi” thì sẽ có cảnh sát đứng canh cho ngủ, không để ai làm phiền, khi nào anh tỉnh dậy họ có làm gì mới làm, tuyệt đối không quấy rầy giấc ngủ của anh, chỉ tận tụy đứng đó, giữ đồ và “canh giấc ngủ” cho anh!

Ông bạn này còn kể, có một ông già độc thân, cứ thỉnh thoảng lại ăn trộm ít trái cây trong vườn nhà hàng xóm, để được đi tù! Thế là cứ ra tù là lại liền ăn trộm, vì ở trong tù sướng hơn ở ngoài nhiều. Trong đó, được chăm sóc tận tình và đối xử tử tế. Ở Nhật, cảnh sát và người nhà nước đúng nghĩa là “đầy tớ” luôn. Thử vi phạm giao thông mà xem, cứ ngồi trong xe bật điều hòa mát, họ tới ăn nói lễ phép, chỉ thiếu khúm núm xin được kiểm tra nữa thôi. Không bao giờ có chuyện hách dịch kiểu như ở VN chứ đừng nói chuyện vòi tiền…

Anh ta nói, ở Nhật đúng là có hơi “phát xít” thật, vì quy tắc rất nghiêm, cái gì cũng phải nhất nhất tuân thủ, nhưng quyền con người cao lắm, không ai được nhân danh nhà nước để xúc phạm hay đối xử thô bạo với anh, dù anh có phạm tội gì đi chăng nữa.

Còn một chuyện lạ đời này nữa: ví dụ, người dân trồng vài cây trái trong vườn nhưng chủ yếu để cho đẹp chứ rất ít khi ăn, thường để rụng đầy gốc, rồi ra siêu thị mua về dùng. Lý do là cây trái tự mình trồng thật đấy, nhưng vẫn không “chắc ăn”, cứ ra cửa hàng hay siêu thị mua về, ăn nếu lỡ có vấn đề gì thì có chỗ mà bắt đền. Thực phẩm trên thị trường Nhật gần như tuyệt đối an toàn, và nếu có nơi nào bán đồ mà ăn vào “có vấn đề gì” thì chỗ đó chỉ có điêu đứng. Oái oăm thay, ở ta mà muốn bán được hàng thì phải kèm theo câu “nhà làm”…

Những chuyện lan man không đầu không đuôi như thế nhưng cứ làm hiện dần lên hình ảnh của 2 đất nước, như thuộc về hai cõi khác nhau. Đến bao giờ chúng ta mới có được một xã hội vừa nghiêm khắc nhưng lại cũng rất tự do và nhân văn, không còn coi “Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay”* mà vụ án cô giáo Dung vừa minh họa một cách hùng hồn?

Ông bạn bảo, 200 năm nữa, may ra…

*Lời thơ cô giáo Trần Thị Lam:

“Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kỳ vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỷ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…”

Thái Hạo


 

TẠI SAO NHỮNG CA KHÚC TRƯỚC NĂM 1975 VẪN ĐƯỢC ƯA CHUỘNG? – Nguyễn Văn Tuấn

Kimtrong Lam

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nọ, có nghe ông Nguyễn Phú Trọng phàn nàn là Việt Nam không có những bài hát hay. Tôi thì nghĩ khác ông ta, vì Việt Nam có những bài hát hay, có thể ông chưa nghe đó thôi. Chúng ta thử tìm về nhạc thời trước 1975 ở miền Nam xem, có nhiều bài hay lắm chứ, và vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay dù nó bị vùi dập nhiều lần …

Câu hỏi đặt ra là tại sao những bài ca đã được sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà đến nay vẫn còn được giới thưởng ngoạn, từ bình dân đến lịch lãm, đều ưa thích. Tôi nghĩ đến 4 lý do và cũng là đặc điểm của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam: tính nhân văn, tự do tư tưởng, tính phong phú, và giàu chất nghệ thuật.

NHÂN VĂN

Thứ nhất là đậm chất nhân văn. Nếu nhìn lại những bài ca trước 1975 ở miền Nam và so sánh với những sáng tác ở miền Bắc, tôi nghĩ ít ai có thể bác bỏ tính nhân văn trong các sáng tác ở trong Nam. Khi nói “nhân văn”, tôi không chỉ nói đến những sáng tác về thân phận con người, mà còn kể cả những sáng tác thuộc dòng nhạc lãng mạn, trữ tình, nói lên cảm xúc của con người trước thời cuộc.

Người ta thường phân nhóm những sáng tác của Trịnh Công Sơn thành hai nhóm tình yêu và thân phận, nhưng tôi nghĩ cách phân nhóm đó cũng có thể áp dụng cho nhiều nhạc sĩ khác như Từ Công Phụng chẳng hạn. Tình yêu không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn tình yêu quê hương đất nước (“Tôi đi xem để thấy những gì yêu dấu Việt Nam”) và giữa người với người “Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu”).

Thỉnh thoảng cũng có một vài bài có chất “máu” (như câu “nhưng thép súng đang còn say máu thù” trong bài “Lính xa nhà”), nhưng cho dù như thế thì câu kết vẫn có hậu “Hẹn em khi khắp trời nở đầy hoa có tôi về”. Có thể nói rằng cái đặc tính nhân văn và nhân bản của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam là yếu tố mạnh nhất để phân biệt so với các ca khúc cùng thời ngoài Bắc, vốn lúc nào cũng có nhiều mùi máu và súng đạn.

NGHỆ THUẬT

Cái đặc điểm nổi bật thứ hai là tính nghệ thuật trong các ca khúc. Khi nói “nghệ thuật” tôi muốn nói đến những lời ca đẹp, giàu chất thơ, và những giai điệu đẹp. Những bài ca mà ngay cả từ cái tựa đề đã đẹp. Những Dấu tình sầu, Giáng ngọc, Mùa thu cho em, Nghìn trùng xa cách, Tuổi biết buồn, Thà như giọt mưa, Giọt mưa trên lá, Hạ trắng, Diễm xưa, Ướt mi, và biết bao tựa đề có ý thơ và sâu lắng như thế đã đi vào lòng người thưởng ngoạn.

Thử so sánh những tựa đề của các sáng tác cùng thời ngoài Bắc như Bài ca năm tấn, Em đi làm tín dụng, Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng, Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc, v.v… thì chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Lời ca trong những ca khúc trước 1975 ở miền Nam cũng là những lời đẹp. Tôi thán phục những nhạc sĩ như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hoài Linh [không phải anh hề], Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên (và nhiều nữa) đã viết ra những lời ca đi vào lòng người. Không phải chỉ đơn giản nhân văn theo kiểu những ý tưởng trừu tượng trong sáng tác của Trịnh Công Sơn (ví dụ như “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, hay “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”), nhưng có khi đi thẳng vào vấn đề như Phạm Duy (“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”).

Còn nhiều nhiều bài đã đi vào lòng người qua những lời ca đẹp và giản dị: “Hôm xưa tay nắm tay nhau anh hỏi tôi rằng: ‘Những gì trong đời ta ghi sâu vào tâm tư / Không tan theo cùng hư vô, không theo tháng năm phai mờ / Tình nào tha thiết anh ơi?”.

Có những lời ca mà tôi nghĩ giới trẻ ngày nay có thể mỉa mai cười khẩy nói sến, nhưng tuổi trẻ thì thường chưa đủ lớn để cảm những câu như “Phút ban đầu ấy / Thư xanh màu giấy viết nhưng chưa gởi em / Ngõ đi chung một lối / Đôi khi định nói với em một lời.”

Không biết từ thuở nào mà tôi đã mê bài Trộm nhìn nhau và đã từng dự báo rằng bài này có ngày sẽ nổi tiếng. Thời đó, tôi mới về thăm nhà sau 20 năm xa cách, và nhìn người xưa, tôi thấy những câu “Ðôi khi trộm nhìn em / Xem dung nhan đó bây giờ ra sao / Em có còn đôi má đào như ngày nào” sao mà hay quá, hợp cảnh quá. Chỉ trộm nhìn thôi. Lời nhạc rất thơ.

Mà, thật vậy, đa số những lời ca trong các sáng tác trước 1975 được viết ra như vẫn vần thơ hoặc phổ từ thơ. Người phổ thơ thành nhạc hay nhất là Nhạc sĩ Phạm Duy, được xem như là một “phù thủy âm nhạc”. Chính vì thế mà âm nhạc trước 1975 có những lời ca sang trọng. Thời nay, trong môi trường những ca khúc dung tục, rất hiếm thấy những ca khúc có những lời ca đẹp như trước.

Lạ một điều là cũng là nhạc tuyên truyền (ở ngoài Bắc gọi vậy) hay nhạc tâm lý chiến (cách gọi trong Nam), nhưng những sáng tác trong Nam thì lại được người dân nhớ và xưng tụng. Sau cuộc chiến, những bài gọi là “nhạc đỏ”, dù được sự ưu ái của nhà cầm quyền văn hóa, chẳng ai nhớ hay muốn nhớ đến chúng.

Ngược lại, những sáng tác về người lính ở trong Nam thời trước 1975 thì lại còn lưu truyền và nuôi dưỡng trong lòng dân, dù nhà cầm quyền ra sức cấm đoán! Ngay cả những người lính miền Bắc cũng thích những bài hát về lính của các nhạc sĩ trong Nam. Tại sao vậy ? Tôi nghĩ tại vì tính nghệ thuật và nhân bản trong những sáng tác ở miền Nam. Người lính, cho dù là lính cộng sản hay cộng hòa, thì vẫn cảm được những câu “Con biết xuân này mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương” hay “Thư của lính, ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay”. Những lời ca đó không có biên giới chính trị.

TỰ DO

Đặc điểm thứ ba là tự do. Dù có kiểm duyệt, nhưng nói chung các nghệ sĩ trước 1975 ở miền Nam có tự do sáng tác. Không ai cấm họ nói lên nỗi đau và những mất mát của chiến tranh. Không ai “đặt hàng” họ viết những bài ca tụng lãnh đạo như ngoài Bắc. Thật vậy, nhìn lại dòng nhạc thời đó, chẳng có một ca khúc nào ca tụng ông Nguyễn Văn Thiệu cả. Có một bài ca tụng ông Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chẳng ai ca vì nó được dùng trong mấy rạp chiếu bóng là chính. Thay vì ca ngợi “lãnh tụ” dòng nhạc miền Nam ca ngợi con người và dân tộc, nhưng cũng đồng thời nói lên nỗi đau của chiến tranh.

Trịnh Công Sơn viết hẳn một loạt “Ca khúc Da Vàng” (mà hình như cho đến nay vẫn chưa được phép phổ biến). Trong thời chiến mà họ vẫn có thể phổ biến những sáng tác không có lợi cho chính quyền. Những ca khúc như “Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ/ Dù anh trở về bằng chiếc xe lăn” chắc chắn không có cơ may xuất hiện trong âm nhạc miền Bắc thời đó (và ngay cả sau này).

Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất trong thời chiến có lẽ là bài “Kỷ vật cho em” (phổ thơ của Linh Phương) với những lời ca ray rứt, bi thảm: “Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime/ Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã/ Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả/ Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa/ Anh trở về bằng chiếc băng ca/ Trên trực thăng sơn màu tang trắng.” Nghe nói ca khúc này đã làm cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rất khó chịu với nhạc sĩ.

Tiêu biểu cho tinh thần tự do sáng tác có lẽ là tự sự của Phạm Duy: “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình … Thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.”

Cái tính tự do còn thể hiện qua một thực tế là chính quyền thời đó không cấm đoán việc phổ biến các nhạc sĩ còn ở ngoài Bắc. Những sáng tác của Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, v.v…đều được phổ biến thoải mái trong Nam. Ngay cả bài quốc ca mà chính quyền vẫn sử dụng bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước vốn là một người cộng sản. Ngược lại, nhà cầm quyền ngoài Bắc thì lại cấm, không cho phổ biến các sáng tác của các nhạc sĩ trong Nam hay đã vào Nam sinh sống.

ĐA DẠNG

Đặc điểm thứ tư của âm nhạc ngày xưa là tính phong phú về chủ đề. Khác với nhạc ngoài Bắc cùng thời tất cả dồn cho tuyên truyền và kêu gọi chiến tranh, các sáng tác trong Nam không kêu gọi chiến tranh nhưng yêu thương kẻ thù. Nhạc thời đó đáp ứng cho mọi nhu cầu của giới bình dân đến người trí thức, từ người dân đến người lính, từ trẻ em đến người lớn quan tâm đến thời cuộc, từ tình yêu lãng mạn đến triết lýhiện sinh, từ tục ca đến đạo ca, từ nhạc trẻ đến nhạc “tiền chiến”, từ nhạc tâm lý chiến (tuyên truyền) đến nhạc chống chiến tranh, nói chung là đủ cả. Không chỉ sáng tác bằng tiếng Việt mà còn trước tác hay dịch từ các ca khúc nổi tiếng ở nước ngoài để giới thiệu cho công chúng Việt Nam.

Tôi nghĩ bốn đặc điểm đó có thể giải thích tại sao những ca khúc dù đã sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà vẫn còn phổ biến và được yêu chuộng cho đến ngày nay. Mai kia mốt nọ, nếu có người viết lại lịch sử âm nhạc, tôi nghĩ họ sẽ ghi nhận những sáng tác thời trước 1975 ở miền Nam là một kho tàng vàng son của âm nhạc Việt Nam. Như là một quy luật, những bài hát tuyên truyền thô kệch và nhồi sọ, những bài ca sắt máu, những sáng tác kêu gọi giết chóc và hận thù sẽ bị đào thải, và thực tế đã chứng minh điều đó. Ngược lại, chỉ có những sáng tác đậm tính nhân văn, giàu chất nghệ thuật, và phong phú xuất phát từ tinh thần tự do, thì mới tồn tại theo thời gian.

Nguyễn Văn Tuấn.


 

Sao ông Trump không được giải Nobel Hòa Bình?- Hiếu Chân/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

October 10, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Cuộc tranh luận sôi nổi chung quanh triển vọng đoạt giải Nobel Hòa Bình 2025 của Tổng Thống Mỹ Donald Trump đã ngã ngũ vào rạng sáng Thứ Sáu, 10 Tháng Mười, sau khi Uỷ Ban Nobel Hòa Bình Na Uy (Norwegian Nobel Committee – NNC) công bố quyết định trao giải thưởng cho bà Maria Corina Machado – người lãnh đạo phe đối lập chống độc tài ở Venezuela. Toà Bạch Ốc ngay lập tức ra thông báo lên án NNC “đặt chính trị trên hoà bình.”

Tổng Thống Donald Trump. (Hình: Andrew Caballero-Reynolds/AFP via Getty Images)

Bất ngờ đến phút cuối

Sự kiện ông Trump không được nhận giải năm nay gây bất ngờ lớn cho nhiều người đã chắc mẩm thế nào giải năm nay cũng sẽ về tay nhà lãnh đạo dân tuý “do Chúa chọn” mà họ ủng hộ hết mình, dù bản thân ông Trump có lần bộc lộ một cách cay đắng rằng: “Họ sẽ không bao giờ trao cho tôi giải Nobel Hòa Bình. Thật đáng tiếc. Tôi xứng đáng, nhưng họ sẽ không bao giờ trao cho tôi.”

Vì nghĩ mình xứng đáng nên ông Trump đã nhiều lần yêu cầu chính phủ Na Uy trao giải cho mình, viện dẫn ông có công dàn xếp bảy cuộc xung đột lớn trên thế giới; thậm chí chính quyền của ông lặng lẽ gây áp lực đối với chính phủ Na Uy, buộc họ phải chọn ông để trao giải. Ông là ứng viên duy nhất làm như vậy do ông không nhận ra hoặc phớt lờ sự thật rằng NNC do Quốc Hội Na Uy bổ nhiệm nhưng hoạt động độc lập, không chịu sự chỉ đạo hay can thiệp của chính phủ; chính tính độc lập và khách quan của Ủy Ban Nobel là yếu tố tạo nên uy tín và danh giá của giải thưởng này. Đi xa hơn, trong cuộc “huấn thị” các tướng lãnh quân đội Hoa Kỳ hôm 30 Tháng Chín, ông Trump nói nếu ông không được giải Nobel Hòa Bình năm nay thì đó là “sự lăng nhục nước Mỹ” (!).

Ông Trump cũng là người duy nhất được nhiều nhà lãnh đạo quốc gia đề cử, hầu hết là những nhà độc tài, từ Pakistan, Azerbaijan, đến Cambodia và Israel. Có điều, sự đề cử của các nhà lãnh đạo này gần như chỉ là tâng bốc để ông Trump ban phát đặc ân cho họ mà không hoàn toàn dựa trên thành tích của ông hoặc dựa vào các tiêu chuẩn của giải Nobel. Tuyên bố của ông Trump trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc rằng ông có công dàn xếp bảy cuộc xung đột bị coi là một lời phóng đại, khoe khoang thành tích xa rời thực tế. Thủ Tướng Ấn Độ Narendra Modi chẳng hạn đã phủ nhận “công lao” của ông Trump dàn xếp vụ ngừng bắn giữa Ấn Độ và Pakistan mới đây khiến ông nổi giận và đánh thuế trừng phạt 50% đối hàng hóa Ấn Độ.

Công chúng thế giới dường như có cái nhìn khác với các chính trị gia. Ở mục theo dõi giải Nobel Hòa Bình 2025, trang mạng chuyên dự đoán (prediction) nổi tiếng Polymarket.com ghi nhận, trong ngày Thứ Năm, 9 Tháng Mười – một ngày trước khi công bố kết quả – tỷ lệ đặt cược vào các ứng viên hàng đầu thay đổi chóng mặt. Vào lúc 3 giờ 40 phút chiều, bà Yulia Navalnaya (vợ góa nhà đấu tranh dân chủ Alexei Navalny của Nga) dẫn đầu với 9%, tiếp theo là ông Donald Trump 4.5%, trên cả bà Maria Corina Machado 3.6%, và Đức Giáo Hoàng Leo XIV 0.3%. Nhưng tình hình thay đổi rất nhanh, đến 4 giờ 5 phút chiều, bà Maria Corina Machado vượt lên dẫn đầu với 43.4%, ông Trump xếp thứ hai với 4.8%, vượt qua bà Yulia 4.5%. Nửa giờ sau, lúc 4 giờ 30 phút, cơ hội để bà Maria giành giải Nobel tăng vọt lên 65.2% trong khi các ứng viên còn lại bị giảm, bà Yulia còn 3.5% và ông Trump chỉ còn 2.3% – và dao động quanh tỷ lệ này cho đến lúc NNC xướng danh người thắng giải vào lúc 11 giờ sáng ngày 10 Tháng Mười, giờ Na Uy.

Vì sao ông Trump không xứng đáng được giải?

Không thể phủ nhận Tổng Thống Trump có vai trò quan trọng thúc đẩy Israel và Hamas ký kết thỏa thuận ngừng bắn, trao đổi con tin và tù nhân sau hai năm chiến tranh đẫm máu ở dải Gaza. Chúng tôi đã có bài phân tích vai trò của ông Trump và kế hoạch hòa bình Gaza 20 điểm của ông trên trang báo này. Nhưng ngừng bắn chưa hẳn là hoà bình vĩnh viễn, và không ai dám đoan chắc thỏa thuận ngừng bắn vừa ký kết giữa Israel và Hamas sẽ chấm dứt xung đột. Trong lịch sử, người ta thấy sau Hiệp Định Paris vào Tháng Giêng, 1973 chấm dứt chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, giải Nobel Hòa Bình 1973 được trao cho hai ông Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, cuộc chiến vẫn tiếp tục diễn ra ác liệt dẫn tới sự sụp đổ của chính thể VNCH chỉ hai năm sau đó.

Công lao của ông Trump ở Gaza là rất đáng tuyên dương nhưng đóng góp muộn màng ấy không đủ để xóa đi tác động mà những chính sách gây tranh cãi của chính quyền Trump gây ra cho nước Mỹ và cộng đồng quốc tế. Và đây chính là lý do mà ông Trump chưa được trao giải Nobel, chưa được có tên trên bảng vàng danh dự những người đóng góp lớn cho hòa bình thế giới.

Ngay sau khi kết quả xét chọn giải Nobel Hòa Bình 2025 được công bố, trên trang Foreign Policy In Focus (FPIF), ông Clarence Lusane, giáo sư khoa chính trị học kiêm giám đốc chương trình nghiên cứu quốc tế của đại học Howard University ở thủ đô Washington, DC, đã viết một bài dài chỉ ra 10 lý do khiến ông Trump không xứng đáng với giải thưởng cao quý đó.

Theo Giáo Sư Lusane, ông Trump đã có các chính sách phản hòa bình như ân xá cho 1,500 tù nhân gây ra vụ bạo loạn ngày 6 Tháng Giêng, 2021, chiến dịch chống người nhập cư tàn bạo, đóng cửa cơ quan viện trợ phát triển USAID, đưa Vệ Binh Quốc Gia và quân đội đến các thành phố, đe doạ xâm chiếm Canada, Greenland, và kinh đào Panama, trừng phạt Brazil và Tòa Hình Sự Quốc Tế vì “tội” truy tố các đồng minh chính trị của ông, ném bom cơ sở nguyên tử của Iran và rút Mỹ ra khỏi các tổ chức quốc tế quan trọng; chưa kể việc tấn công giết người mà không xét xử, không có chứng cứ tội phạm trên vùng biển quốc tế gần Venezuela mới đây.

“Chính sách chuyên chế của ông ấy nhằm định hình lại nước Mỹ và hạ thấp tất cả các định chế chính quyền, xã hội, tài chính, và văn hóa, tự nó là một mối đe doạ hòa bình”… “Chính sách cai trị độc tài và phản dân chủ của ông ngày càng trở nên nguy hiểm và tai hại hơn, không chỉ đối với Hoa Kỳ mà còn đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế,” Giáo Sư Lusane viết và cho rằng ông Trump chẳng những không đủ tiêu chuẩn để được giải mà còn “đáng bị loại khỏi danh sách đề cử.”

Một cuộc thăm dò của Washington Post-Ipsos cho thấy 76% người Mỹ không cho rằng ông Trump xứng đáng với giải thưởng Nobel, bao gồm 49% người Cộng Hòa.

Dân chủ là điều kiện của hoà bình

Uỷ Ban Nobel Hòa Bình, trong thông cáo báo chí phát hành cùng với việc xướng danh người được giải, nhận định: “Dân chủ là điều kiện tiên quyết của hòa bình bền vững. Nhưng chúng ta đang sống trong một thế giới mà dân chủ đang thoái trào, ngày càng nhiều các chế độ chuyên chế thách thức các quy tắc và lạm dụng bạo lực… Chúng ta đang chứng kiến một xu hướng toàn cầu: Pháp quyền bị các nhà cai trị lạm dụng, truyền thông tự do bị bịt miệng, người phản biện bị cầm tù và các xã hội bị đẩy về hướng chuyên chế, quân sự hóa.”
Bà Maria Corina Machado, 58 tuổi, hiện đang phải lẩn trốn sự truy lùng của nhà cầm quyền của Tổng Thóng Nicolas Maduro, được cho là người “đang đấu tranh không mệt mỏi để thúc đẩy các quyền dân chủ cho người dân Venezuela và cho sự chuyển tiếp hòa bình từ độc tài sang dân chủ.” Trao giải Nobel cho bà, NNC muốn “giữ ngọn lửa dân chủ cháy sáng trong bóng tối ngày càng dày đặc,” thông cáo viết.

Xem ra, với NNC, hòa bình gắn liền với dân chủ, chỉ thể chế dân chủ mới bảo đảm mối quan hệ hòa bình giữa các dân tộc; ngược lại, các thể chế độc tài thường sử dụng bạo lực để tranh đoạt và duy trì quyền lực. Chiến tranh xâm lược của Nga tại Ukraine, vụ tấn công hèn hạ và dã man của tổ chức Hamas vào Israel cũng như vụ trả đũa tàn khốc vào người Palestine của chính quyền cực hữu Do Thái cho thấy ở đâu thiếu vắng dân chủ thì bạo lực lộng hành và hòa bình bị thủ tiêu trong bom đạn.

Cần tôn vinh những người bảo vệ dân chủ

“Khi các nhà chuyên chế nắm quyền lực, điều cấp bách là phải công nhận những người bảo vệ dũng cảm của tự do, những người đứng lên và phản kháng. Dân chủ phụ thuộc vào những người không chấp nhận im lặng, những người dám tiến về phía trước bất chấp rủi ro sinh tử, và những người nhắc nhở chúng ta rằng tự do không bao giờ là thứ mặc nhiên được hưởng mà phải luôn được bảo vệ – bằng ngôn từ, với lòng can đảm và cương quyết,” thông cáo của NNC khẳng định.

Quan điểm về hòa bình, dân chủ, tự do như vậy đã là nền tảng tư tưởng để NNC trao giải Nobel Hòa Bình cho các nhà đấu tranh dân chủ như Nelson Mandela của Nam Phi, Martin Luther King Jr. của Mỹ, Aung San Suu Kyi của Miến Điện, Lưu Hiểu Ba của Trung Quốc, và mới đây là Malala Yousafzai của Afghanistan (2014). Việc trao giải cho bà Maria Corina Machado năm nay tiếp tục xu thế đó.

Uỷ Ban Nobel không nhắc tới ông Trump và các ứng viên khác, nhưng rõ ràng quan điểm lựa chọn của họ hoàn toàn trái ngược với ông Trump, với đường lối mà ông đang thực hiện ở Mỹ theo hướng ngày càng độc tài chuyên chế, xa rời các chuẩn mực dân chủ, pháp quyền. Nếu ông Trump không thay đổi chính sách thì không chỉ năm nay mà trong nhiều năm tới, ông vẫn chưa thể chạm tay vào giải Nobel Hòa Bình danh giá dù ông có khao khát đến đâu. Một cuộc khảo sát dư luận của YouGov UK công bố sáng 10 Tháng Mười ghi nhận có tới 69% người Anh cho rằng trong tương lai, ông Donald Trump không nên được trao giải Nobel Hòa Bình, chỉ có 14% cho rằng ông xứng đáng, và 17% không có ý kiến. [đ.d.]


 

NGƯỜI ANH HÙNG TRÊN CON TÀU ĐỊNH MỆNH KG 3640

Tỵ Nạn Bidong 

NGƯỜI ANH HÙNG TRÊN CON TÀU ĐỊNH MỆNH KG 3640

(Kỷ niệm về một người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH – anh Tài Công)

Kỷ niệm không thể phai

Nếu ai hỏi tôi, kỷ niệm nào sâu đậm nhất trong hành trình vượt biển tìm tự do – trước khi đặt chân lên đảo Pulau Bidong, tôi sẽ không ngần ngại mà nói:

“Đó là hình ảnh anh Tài Công, người Thủy Quân Lục Chiến của tàu chúng tôi – KG 3640, số thứ tự 367.”

Giữa biển trời sinh tử

Hôm ấy, con tàu ọp ẹp chở đầy những người bỏ xứ ra đi, dập dềnh giữa trùng khơi mênh mông. Nước tràn dần vào khoang, thân tàu rệu rã.

Trước mặt chúng tôi là đất liền Mã Lai – chỉ hơn hai trăm mét, gần trong tầm mắt mà xa như cõi mơ.

Bất ngờ, tiếng quát tháo và súng nổ vang lên từ phía bờ.

Bọn lính Mã Lai đứng thành hàng, nòng súng chĩa thẳng ra khơi, xua đuổi con tàu nhỏ bé đang thoi thóp.

Những phát đạn thị uy rít lên trên mặt sóng, tiếng gió hòa cùng tiếng khóc của phụ nữ, tiếng nức nở của trẻ em. Không khí trên tàu bao trùm nỗi tuyệt vọng.

Khoảnh khắc người lính bước ra ánh sáng

Giữa giây phút ấy, anh Tài Công – cựu sinh viên Đại học Phú Thọ, người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH – đứng bật dậy.

Gương mặt sạm nắng, đôi mắt sáng quắc, anh bước ra mũi tàu.

Không một lời hô hào, anh nhảy xuống biển, bơi thẳng vào bờ, giữa làn đạn rít và sóng dữ.

Trước những nòng súng lạnh lùng đang chĩa thẳng vào mình, anh không hề run sợ.

Giữa gió biển và tiếng sóng, anh cất cao giọng – tiếng Anh vang dội, mạnh mẽ và đầy khí phách:

“Con tàu này đã thủng đáy, không thể ra khơi nữa!

Trên tàu là những con người vô tội – phụ nữ, trẻ em, người già.

Các anh có thể nhẫn tâm xua họ đi vào chỗ chết sao?”

Giọng anh vang lên như tiếng sét giữa biển trời, làm khựng lại những bước chân đang hung hăng.

Ánh mắt anh sáng rực, cứng rắn mà nhân hậu – ánh mắt của người lính từng quen nhìn thẳng vào cái chết, nhưng vẫn chọn cứu người.

Khi lòng can đảm lay động bạo lực

Toán lính Mã Lai, thoáng chốc lúng túng.

Rồi, như bị khuất phục bởi khí phách và lẽ phải, họ hạ súng, ra hiệu cho con tàu được phép tiến gần bờ.

Lúc ấy, tàu đã nghiêng ngả, thân tàu vỡ toác.

Mọi người dìu dắt nhau, bồng bế trẻ em, lội dần vào đất liền trong nước mắt, giữa tiếng gió và tiếng cầu nguyện.

Những bước chân yếu ớt nhưng chan chứa niềm tin vào sự sống –

và trong tim tất cả, hình ảnh người lính ấy hiên ngang, bất khuất, nhân từ.

Sau bốn mươi lăm năm nhìn lại

Đã hơn bốn mươi lăm năm trôi qua…

Nhưng trong ký ức tôi, hình ảnh anh Tài Công – người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH trên con tàu KG 3640 vẫn còn nguyên vẹn.

Anh – người đã dám đứng lên, dám bước ra khỏi cái chết, để mở đường sống cho đồng bào mình.

Không ai phong anh là anh hùng.

Nhưng trong lòng chúng tôi – những người sống sót – anh mãi là người anh hùng vô danh của biển cả, người đã viết nên một trang sáng chói trong hành trình thuyền nhân vượt biển tìm tự do.

Lời gọi hồn biển

Giờ đây, giữa cuộc sống bình yên nơi đất mới, đôi khi tôi vẫn tự hỏi:

“Anh ở đâu, anh Tài Công của con tàu KG 3640?

Anh còn nhớ chuyến tàu định mệnh năm ấy chăng?”

Nếu một mai có dịp gặp lại, tôi chỉ muốn cúi đầu nói một lời:

“Cảm ơn anh – người lính Thủy Quân Lục Chiến của quê hương tôi.”

Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?

Xin nguyện thắp nén hương lòng,

Tưởng nhớ và tri ân anh – người anh hùng giữa lòng biển lớn.