NGƯỜI THẦY

Một ông cụ đang ngồi hóng nắng trong công viên, chợt có một người đàn ông trung niên đến chào và hỏi:

– “Thưa thầy, thầy nhớ em không?”

– Ông cụ nhìn lên người đàn ông trước mặt, trả lời “Thưa không.”Song ông cũng lịch sự hỏi lại, “Anh giờ đang làm gì?”

– “Giờ em cũng là thầy giáo ạ!”

– “Ồ thế à? Mà tại sao anh lại chọn nghề giống như tôi?”

– “Dạ thưa, vì thầy là người đã khiến em chọn con đường này.” Rồi anh ta kể cho người thầy cũ đầu đuôi câu chuyện:

Một hôm nọ, anh bạn cùng bàn mang ra khoe một chiếc đồng hồ thật đẹp. Em chiếp trong bụng. Đợi lúc anh ta lơ đễnh em thò tay vào túi bạn mình và ăn cắp chiếc đồng hồ. Sau khi phát hiện bị mất đồng hồ, bạn em lên mách với thầy.

Thầy nói với cả lớp rằng có người vừa mất chiếc đồng hồ, nếu có ai lấy nhầm thì hãy trả lại. Không một ai giơ tay lên, và dĩ nhiên em cũng không nói gì cả. Thấy vậy, thầy bèn đóng cửa phòng lại và bắt mọi người đứng thành hình tròn rồi nói:

“Tôi sẽ lục túi tất cả mọi người để tìm chiếc đồng hồ, nhưng với điều kiện các em phải nhắm mắt lại khi tôi làm chuyện này.”

Cả lớp làm y theo lời. Thầy soát túi từng người, và sau khi tìm thấy chiếc đồng hồ trong túi em thầy vẫn tiếp tục soát hết những trò còn lại. Xong thầy bảo mọi người mở mắt ra vì đã tìm được chiếc đồng hồ. Thầy không hề tiết lộ em là kẻ cắp, mà cũng không kể lại câu chuyện này với bất cứ ai.

Hôm đó thầy đã cứu danh dự em. Thầy không nói với em câu nào, không kéo em ra riêng để rầy la hoặc giảng luân lý. Hôm đó là ngày em cảm thấy xấu hổ nhất trong đời, và cũng là ngày em thề sẽ không bao giờ ăn cắp hay trở thành một người xấu bởi vì em nhận ra thông điệp của thầy, và hiểu được thế nào là một nhà giáo đúng nghĩa. Thầy có nhớ chuyện này không ạ?”

– “Tôi nhớ chứ,” ông cụ chậm rãi trả lời.

Tôi nhớ phải lục túi từng trò một. Nhưng tôi không nhớ anh, vì lúc ấy chính tôi cũng nhắm mắt..”

—————-

Bài và ảnh sưu tầm

 

Lễ Tạ Ơn-Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng 

Võ Thị Diệu Hằng    

  • 1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
  • 2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower
  • 3/ Nơi đến không định trước
  • 4/ Khó khăn lúc đầu
  • 5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
  • a) Lễ Tạ Ơn tại Mỹ
  • b/ Lễ tạ ơn tại Canada
  • 6/ Các món ăn
  • 7/ Tem cho lễ Thanksgiving
  • 7/Hình ảnh của Mayflower

1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  do  những  nguyên do khác  nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh… Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ 

Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn  của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận.  Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..

 Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng  năm có tổ chức  lễ hội để cúng dường Demeter,  nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.

 Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và  lễ lạc

 Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người  Do Thái vẫn còn tồn  tại từ ba ngàn năm đến nay

Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng trưng  múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông  bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang  lại sự phồn thịnh cho những ai bà  muốn ban phước. 

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  có  những  lý do khác  nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh... 

Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower

Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người  rất sùng  đạo Tin lành đã bị  vua Jacques đệ nhất  đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) .  Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng.  Tại Anh, có những  cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng  không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát… Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một “Jérusalem mới” ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng  Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến  vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.

 3/ Nơi đến không định trước

Các Pilgrims  lên tàu vào tháng  9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra  tai nạn về lửa nên  người ta phải ăn thức  ăn  lạnh. Nhiều hành khác  đau bịnh.  Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là “người đã làm một chuyến du hành”). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau  65 ngày trên biển lạnh, , vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc  đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy  biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước  sống  hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những  viên chức  hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng ngày càng rộng  lớn  ra, không thể mời tất cả các  trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.

4/ Khó khăn lúc đầu

Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620.  Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước  hòa bình với người dân da đỏ khi vực  láng giềng  (Narranganset và  Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng  không  quan trọng  lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch  đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số  18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp.   May mắn thay mùa gặt năm 1621  thành công giúp những  người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ  Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức  lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.

Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên  họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang  một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng  và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.

5/ Định ngày lễ Tạ Ơn

a) LễTạ Ơn tại Mỹ

Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông

Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên  ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc  lập và khi George Washington  thoát khỏi cuộc bao vây ở  Valley Forge, ông đã  tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789. 

Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc  thành lập ngày lễ Tạ Ơn  và sau đó bà Sarah Josepha  Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.

 Đến khi  Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11

Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến,  Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công  lao những người đã hy sinh và ông Franklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.

 b/ Lễ tạ ơn tại Canada:

Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng  10

Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã  sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những  buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức  tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện  mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước

 6/ Các món ăn:

Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không  thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ “turkey” lúc  bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ … Chắc chắn là họ không làm bánh nướng  nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông  không  ăn  khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống  lại các côn trùng, nên  đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).

Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp

Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây  luôn luôn được gắn liền với lễ này

 Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống  những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.

7/ Tem cho lễ Thanksgiving

Năm 2000  được tuyên bố là năm quốc tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba văn phòng của Liên Hiệp Quốc ngụ tại Gabrielle Loire (Pháp) và Rorie Katz (Hoa Kỳ) 

 8/ Hình ảnh của Mayflower

Sau khi rời Plymouth, những  ngày đầu tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..  Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị ngọn khổng  lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ. Ông  là người thứ 13 ký tờ  Mayflower Compact Act và cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn  lần đầu. Ông sinh 10 con  và  82 cháu. Tưởng tượng  nếu như ông  buông tay và không được cứu sống thì sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley

http://www.mikehaywoodart.co.uk

Dr Mike Haywood họa sĩ chuyên vẽ tranh và chân dung về biển

Bài đọc thêm:

George Washington

Abraham Lincoln

Franklin Delano Roosevelt

From: NguyenNThu

CON TẠ ƠN CHÚA – Bản dịch của cố Gs. TRẦN DUY NHIÊN  

Bản dịch của cố Gs. TRẦN DUY NHIÊN

 Con tạ ơn Chúa vì chồng của con cứ phàn nàn

 khi bữa cơm chưa dọn kịp,bởi lẽ anh ấy đang ở ngay bên cạnh con, chứ không phải bên ai khác.

 Con tạ ơn Chúa vì con của con cứ càu nhàu

 khi phải phụ rửa chén đĩa cho con,bởi lẽ thằng bé đang ở nhà chứ không phải lêu lổng ngoài đường.

 Con tạ ơn Chúa vì số thuế thu nhập mà con phải trả quá cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang có một công việc tốt để làm.

 Con tạ ơn Chúa vì có nhiều thứ phải dọp dẹp sau bữa tiệc nhỏ,

bởi lẽ như thế nghĩa là con luôn được bạn bè quý mến kéo đến chơi.

 Con tạ ơn Chúa vì quần áo con bỗng trở nên hơi chật,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang được đủ ăn. 

 Con tạ ơn Chúa vì cái bóng của con cứ ở sát bên con, nhìn con làm việc,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang được sống tự do ngoài nắng.

 Con tạ ơn Chúa vì nền nhà cần quét, cửa sổ cần lau, màng xối cần sửa,

bởi lẽ như thế nghĩa là con còn đang có một mái nhà để cư ngụ.

 Con tạ ơn Chúa vì hóa đơn đóng tiền điện nước của tháng này lại tăng cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là Con đang được ấm áp.

 Con tạ ơn Chúa vì cái bà ngồi phía sau con trong Nhà Thờ

hát sai tông lạc nhịp,bởi lẽ như thế nghĩa tai con còn nghe được rất tinh tế.

 Con tạ ơn Chúa vì một đống đồ rất lớn phải giặt và ủi,

bởi lẽ như thế nghĩa là con có đầy đủ quần áo để ăn mặc tử tế.

 Con tạ ơn Chúa vì các cơ bắp trong người con

nó mệt rũ ra vào cuối ngày,bởi lẽ như thế nghĩa là con có sức để làm việc nhiều.

 Con tạ ơn Chúa vì tiếng đồng hồ reo to thật sớm vào buổi sáng,

bởi lẽ như thế nghĩa là con còn đi lại, hít thở và cười nói,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang còn sống được thêm một ngày nữa.

 Và cuối cùng…

 Con tạ ơn Chúa vì đã nhận được quá nhiều E-mails gửi về,

bởi lẽ như thế nghĩa là con vẫn còn có nhiều bạn bè đang nhớ đến con

 Con gửi bài này để bạn bè con hiểu rằng:

 “Thiên Chúa luôn đến với con người bằng một quả tim yêu thương,

cho dù chúng ta đang ở trong bất cứ tình trạng nào !” 


 

HAPPY THANKSGIVING !

Thưa quý vị:

Thế kỷ 16, người di dân Pilgrims từ con tàu Mayflower đã đặt chân đến miền giá lạnh Đông Bắc Châu Mỹ. Nơi đây họ đã được thổ  dân da đỏ giúp đỡ và chỉ cách sinh tồn. Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời<https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn_Ch%C3%BAa>  đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, và họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Theo tài liệu, buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts<https://vi.wikipedia.org/wiki/Massachusetts>.

Và từ đó qua nhiều thời đại, lễ Tạ Ơn Thanksgiving đã được tổ chức tạ Hoa Kỳ mỗi năm vào thứ năm cuối cùng của tháng 11 Dương Lịch. (Riêng tại Canada lễ Thanksgiving vào ngày Monday thứ nhì của  tháng 10)

Người Việt tỵ nạn chúng ta cũng gần như thế: Cuộc di tản bằng máu và nước mắt qua biển cả và đưởng rừng để trốn chạy chế độ Cộng Sản sau 30 tháng 4 – 1975 đi tìm tự do. Chúng ta đã được Hoa Kỳ và các QG đồng minh dang vòng tay nhân ái đón nhận.

Hôm nay, Lễ Tạ Ơn Thanksgiving 2025, xin kính mời quý vị thưởng thức nhạc phẩm “Lời Cám Ơn” của NS Ngô Thụy Miên & Hạ Đỏ Bích Phượng. Phần hòa âm do PBN 114 thực hiện hợp ca. Trần Ngọc thực hiện hình ảnh minh họa (2015).

 <https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:The_First_Thanksgiving_Jean_Louis_Gerome_Ferris.png>

       Cám ơn quý vị .TN.

Happy ThanksGiving 

Happy ThanksGiving 

T ơn Chúa – hôm nay ta còn sống

Mắt còn nhìn, còn đọc được e-mail

Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu

Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả !

 

Tạ ơn Thân hữu gần xa

Hàng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều

E-mail nhận được bao nhiêu

Là bao tình cảm thương yêu chan hòa !

S.T.

TÊN TRỘM VÀ NGƯỜI CHỦNG  SINH –  L.M. Mark Link, S.J.

 L.M. Mark Link, S.J.

Tập san Catholic Digest có mục thường xuyên được gọi là “The Open Door” (Cửa Rộng Mở). Trong mục này thường có hai hay ba câu chuyện do độc giả gởi đến. Những câu chuyện này kể lại sự hoán cải trở lại đạo Công Giáo của độc giả.

 Có một câu chuyện thật cảm động về chàng thành niên lớn lên trong một gia đình Công Giáo, từng tích cực hoạt động trong Giáo Hội, và sau đó gia nhập chủng viện.

 

Rồi đến những năm đầy xáo trộn thời chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian này, ba sinh viên ở một đại học Ohio bị giết trong lúc biểu tình phản đối chiến tranh. Những cuộc dấy loạn về sắc tộc như xé nát nhiều thành phố trong nước Mỹ. Các nhà lãnh đạo quốc gia bị ám sát. Mọi sự bỗng dưng trở nên rời rạc. 

Chàng thanh niên này rời chủng viện, tham gia phong trào chống chiến tranh, từ bỏ Giáo Hội, và chế nhạo đức tin mà trước đây anh từng ấp ủ. 

Gia đình anh bàng hoàng vì sự thay đổi này. Và khi thái độ của anh ngày càng thù nghịch với tôn giáo, họ đã hoàn toàn tuyệt vọng. 

Sau đó là Tuần Thánh và trong Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1970, chàng thành niên, lúc ấy 22 tuổi, lái xe ngang qua một nhà thờ Công Giáo. Anh nhận ra tên của cha xứ trên tấm bảng trước nhà thờ. Đó là vị linh mục anh rất kính trọng. Điều gì đó đã thúc đẩy anh dừng xe và đi vào nhà thờ. 

Khi bước vào cửa, nghi thức Tôn Kính Thánh Giá bắt đầu. Anh ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh theo dõi dân chúng xếp hàng lên hôn thánh giá, trong khi ca đoàn hát bài “Were You There When They Crucified My Lord?” (Bạn có ở đó khi họ đóng đinh Chúa không?) 

Và rồi điều gì đó thật lạ lùng đã xảy ra. Anh viết: 

“Trong con người tôi, điều gì đó đột ngột xảy ra và tôi bắt đầu khóc. Sau khi dằn được xúc động, tôi nhớ lại sự bình an mà từ lâu tôi đã bỏ lại nơi nhà thờ. Đức tin đơn sơ mà giờ đây tôi đang chứng kiến thì dường như có ý nghĩa hơn là điều tôi tuyên xưng. Tôi bước ra khỏi ghế và quỳ xuống hôn Thánh Giá. Vị linh mục nhận ra tôi, ngài đến ôm lấy tôi.” 

“Từ ngày đó trở đi,” anh cho biết, “tôi trở nên một người Công Giáo tái sinh.” 

Anh kết thúc với nhận xét sau: “Tại sao tôi dừng xe ở nhà thờ đó vào ngày hôm ấy, cho đến giờ tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi biết rằng tôi thật sung sướng với các kết quả.” 

****************

Tôi thích câu chuyện này vì nó thích hợp với các bài đọc trong ngày lễ “Chúa Giêsu là Vua” hôm nay. 

Vì bài Phúc Âm diễn tả một thanh niên vô tôn giáo cách đây hai ngàn năm, Anh là một tên trộm cướp, với đầy giận dữ trong lòng nhưng anh đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên ấy. 

Và điều thay đổi cuộc đời của người thanh niên này cách đây hơn hai ngàn năm cũng chính là điều thay đổi anh chủng sinh trong câu chuyện trên đây.  Đó chính là việc đóng đinh Đức Kitô. 

Và điều mà Đức Kitô trên thập giá đã nói với người trộm thì Người cũng nói với anh chủng sinh: “Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng.” 

Thật khó có bài đọc nào thích hợp hơn để kết thúc năm phụng vụ.  Bài đọc đã tóm lược lý do tại sao Chúa Giêsu đến trong thế gian.  Chính là để tha thứ cho tội nhân, như tên trộm-và như anh chủng sinh.

Và điều này đưa chúng ta đến việc áp dụng tất cả những điều này vào thực tế đời sống chúng ta.  Đó là: 

–  Điều Chúa Giêsu đã làm cho người trộm lành và anh chủng sinh, Người cũng muốn làm cho mỗi người chúng ta.

–  Người muốn tha thứ tội lỗi chúng ta, bất kể có to lớn đến đâu và lâu đời đến đâu.

–  Người muốn nói với chúng ta điều mà Người đã nói với tên trộm và anh chủng sinh:
Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng.” 

Đây là tin mừng khiến chúng ta quy tụ nơi đây để mừng lễ Chúa Kitô Vua.

Đây là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời chúng ta và thi hành cho chúng ta điều mà Người đã làm cho tên trộm và anh chủng sinh. 

Đây cũng là tin mừng mà Thánh Phaolô đã diễn tả  trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật hôm nay: 

[Thiên Chúa] đã cứu chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa chúng ta một cách bình an đến vương quốc của Con yêu dấu của Người, mà nhờ Người chúng ta được tự do, đó là, chúng ta được tha thứ mọi tội lỗi.

L.M. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

HÀNH TRÌNH NGẮN NGỦI CỦA ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI 

Lê Châu An Thuận

Mỗi phút trôi qua, đều có người rời xa thế giới này.

Tuổi tác không liên quan gì đến điều đó.

Tất cả chúng ta đều đang xếp hàng mà không hề nhận ra.

Chúng ta không bao giờ biết có bao nhiêu người đang ở phía trước mình.

Chúng ta không thể quay lại.

Chúng ta không thể ra khỏi hàng.

Chúng ta không thể tránh khỏi hàng.

Vì vậy, trong khi chúng ta đang xếp hàng,

Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc.

Hãy bước những bước đầu tiên.

Đặt ra những ưu tiên.

Hãy dành thời gian.

Hãy làm cho người khác hạnh phúc.

Hãy biến những điều nhỏ nhặt thành lớn lao.

Hãy khiến ai đó mỉm cười.

Hãy yêu thương hết mình.

Hãy giữ gìn sự bình yên.

Hãy nói với gia đình bạn rằng bạn yêu họ nhiều như thế nào.

Đừng hối tiếc.

Hãy sống hết mình


 

CSVN kêu gọi 5 Việt kiều ở hải ngoại bị chụp mũ ‘khủng bố’ ra đầu thú

Ba’o Nguoi-Viet

November 17, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Sau hơn một tháng ban hành cáo trạng truy tố năm người gốc Việt ở hải ngoại với cáo buộc “khủng bố” và “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,” Bộ Công An CSVN lại kêu gọi “ra đầu thú, nếu không sẽ bị xét xử vắng mặt.”

Theo báo VietNamNet, hôm 17 Tháng Mười Một, Cơ Quan An Ninh Điều Tra Bộ Công An đã ban hành bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đến Viện Kiểm Sát Tối Cao đề nghị truy tố, xét xử vắng mặt đối với các ông bà: Đào Minh Quân, tự Đào Văn, ở Orange County, tiểu bang California; Phạm Lisa (tên khác là Phạm Anh Đào, Lisa Phạm) ở Denmark, tiểu bang South Carolina; Huỳnh Thị Thắm (tức Huỳnh Tammy Thắm) ở Riverside County, California; Lâm Ái Huệ (tức Lâm Kim Huệ, Huệ Lâm) ở Canada, và Đào Kim Quang (tên khác là Francis Andre Solvang, Đào Văn Tiền) ở Oslo, Na Uy.

Một phiên tòa xử các bị cáo bị cho là liên quan đến tổ chức của ông Đào Minh Quân. (Hình: Tuổi Trẻ)

Những người này bị cáo buộc về các tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân;” “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,” xảy ra tại Sài Gòn và một số tỉnh, thành phố khác.

Theo Bộ Công An, những người nêu trên là “phản động lưu vong, cầm đầu, cốt cán” trong tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời – một tổ chức thành lập tại Orange County, California, từ hơn 30 năm trước.

“Bộ Công An kêu gọi các bị can nhanh chóng ra đầu thú để được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật và thực hiện quyền bào chữa. Nếu không ra trình diện hoặc đầu thú thì coi như từ bỏ quyền tự bào chữa và sẽ bị xét xử vắng mặt,” bản kết luận nêu.

Trước đó, hôm 2 Tháng Mười vừa qua, Viện Kiểm Sát Tối Cao ở Hà Nội đã ban hành cáo trạng truy tố và phát lệnh truy nã, đồng thời kêu gọi năm người nêu trên ra đầu thú, song không có kết quả.

Liên quan vụ án này, Cơ Quan An Ninh Điều Tra cũng đề nghị truy tố, xét xử đối với 19 bị can ở Việt Nam về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.”

Kho xe gắn máy vi phạm bị cháy rụi hồi Tháng Tư, 2017, công an cáo buộc nhóm của ông Đào Minh Quân đốt phá. (Hình: Thái Hà/VnExpress)

Trong những năm qua, CSVN xử tù ít nhất 100 người, đa phần ở tuổi trung niên và cao niên, bị cho là liên quan đến tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời.

Không riêng gì nhóm này, nhiều cá nhân chỉ phát biểu quan điểm chính trị khác với đường lối độc tài đảng trị của đảng CSVN qua mạng xã hội, vận động dân chủ hóa đất nước, đều bị bắt bỏ tù với các cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” hay “hoạt động lật đổ.” Càng ngày, bản án mà họ đối diện càng nặng nề hơn trước. (Tr.N) [kn]


 

Bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố, ông Lê Trung Khoa lên tiếng

BBC Vietnamese

Ông Lê Trung Khoa nói “có bất ngờ một chút” khi nhận được tin mình bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố, nhưng trên thực tế đã lường trước việc này từ lâu.

Nhà báo Lê Trung Khoa, người sáng lập và chủ biên trang Thoibao.de tại Đức, vừa bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố và phát lệnh bắt tạm giam.

Trong thông báo được phát đi vào tối ngày 17/11/2025, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an cho biết đã ra quyết định khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam ông Lê Trung Khoa và ông Đỗ Văn Ngà để điều tra về tội “Làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Bộ Công an Việt Nam nói gì?

Bộ Công an cho biết vụ án hình sự liên quan đã được khởi tố vào ngày 8/11/2025 và giờ đây là bước khởi tố bị can.

Theo thông báo của Bộ Công an được đăng trên trang Thông tin Chính phủ, kết quả điều tra vụ án có đủ căn cứ xác định ông Lê Trung Khoa, sinh năm 1971 tại Thanh Hóa, và ông Đỗ Văn Ngà, sinh năm 1977 tại Gia Lai, đã có hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bộ Công an cho biết ông Khoa có quốc tịch Việt Nam, có hộ khẩu thường trú tại phường Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Trên thực tế, ông Khoa đã sinh sống tại Đức nhiều năm. Trong cuộc trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt mới đây, ông cho biết mình mang quốc tịch Đức từ năm 2024.

Giải thích thêm vào tối 17/11 về vấn đề quốc tịch, ông Khoa cho biết ông hiện mang hai quốc tịch Đức và Việt Nam.

Việc ông Khoa mang quốc tịch Đức sẽ khiến các nỗ lực bắt giữ ông từ phía Bộ Công an Việt Nam gặp nhiều trở ngại về pháp lý và ngoại giao.

Ông Lê Trung Khoa hoạt động báo chí truyền thông tại Đức nên có thể hiểu là ông được điều chỉnh và bảo vệ bởi các quy định pháp luật về tự do báo chí, tự do biểu đạt của nước này.

Ông Ngà được xác định có quốc tịch Việt Nam, thường trú tại xã Tuy Phước Đông, tỉnh Gia Lai, khu vực thuộc tỉnh Bình Định trước đây.

Thông báo của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an cho biết cơ quan này đang phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “điều tra, làm rõ vụ án, hành vi phạm tội của các bị can để xử lý theo quy định pháp luật”.

Ông Lê Trung Khoa nói gì?

Ông Lê Trung Khoa, hiện sống tại Đức, là người sáng lập và chủ biên trang Thoibao.de, nơi thường đăng tải thông tin về chính trị Việt Nam, trong đó có nhiều bài viết về tranh giành quyền lực, tham nhũng, các vụ bê bối chính trị. Ông cũng thường đăng tải các nội dung tương tự trên các nền tảng mạng xã hội như YouTube, Facebook.

Dù bị chặn ở Việt Nam, trang Thoibao.de vẫn thu hút đông đảo người xem từ trong nước.

Trước đây, ông Khoa cho biết cảnh sát tại Đức từng nhận được thông tin ông bị đe dọa giết và đã triển khai biện pháp bảo vệ ông.

Chia sẻ với BBC News Tiếng Việt về việc mình bị khởi tố, nhà báo Lê Trung Khoa nói: “Tôi nghĩ rằng thời điểm này là thời điểm rất quyết định vì trong thời gian vừa qua chúng tôi đã đối diện với rất nhiều hình thức tấn công từ phía Việt Nam. Cụ thể nhất là những đợt tấn công DoS từ chối dịch vụ đối với trang Thoibao.de, rồi tấn công bằng các báo cáo [trên nền tảng mạng xã hội] để xóa bài của chúng tôi diễn ra hằng ngày.”

Ông Khoa nhận định rằng có thể phía Việt Nam đã mua những phần mềm mã độc của những công ty ở châu Âu trị giá nhiều triệu đô la để tấn công, nhưng không thành công.

“Bây giờ khi không làm được gì chúng tôi vì chúng tôi vẫn tiếp tục đăng tin thì phía Việt Nam dùng con bài khởi tố,” ông nói.

Về quyết định khởi tố của Bộ Công an Việt Nam, nhà báo Lê Trung Khoa nói: “Tôi muốn nhắn nhủ đến Chính phủ Việt Nam rằng trong Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam cũng đã quy định rất rõ về do biểu đạt, tự do báo chí. Vậy quý vị hãy thực hiện đúng điều đó cho mọi công dân của mình, kể cả những công dân Việt Nam đang ở nước ngoài. Cần phải tôn trọng điều đó và phải tôn trọng pháp luật.”

Ông Khoa cho biết mặc dù bản thân sẽ cẩn thận hơn, và sẽ thông báo với các cơ quan chức năng liên quan của Đức để họ nắm được diễn biến mới từ phía chính quyền Việt Nam, nhưng vụ truy tố không làm ảnh hưởng đến công việc hàng ngày của ông và Thoibao.de.

Điều 117

Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017, 2025) quy định về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Đây là điều luật được sửa đổi từ Điều 88 của Bộ luật hình sự 1999 và có khung hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù.

Chính quyền Việt Nam từng áp dụng Điều 117 để khởi tố, bắt giam nhiều nhà hoạt động, người dân khiếu kiện đất đai, nhà báo tự do và những người bất đồng chính kiến khác.

Trong số những người từng bị khởi tố, bắt giam và phạt tù theo Điều 117 có nhà giáo Nguyễn Năng Tĩnh, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, nhà văn Nguyễn Tường Thụy, bà Cấn Thị Thêu và các con của bà là Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư (những người dân đòi đất và trở thành nhà hoạt động)…

Từ trước đến nay, nhiều cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế đã lên tiếng kêu gọi, yêu cầu bãi bỏ Điều 117, vì điều này có thể được nhà nước sử dụng để dập tắt tiếng nói bất đồng.

Vụ kiện giữa Vingroup và ông Lê Trung Khoa

Trong một vụ việc khác, nhà báo Lê Trung Khoa là một trong 68 cá nhân và tổ chức mà tập đoàn Vingroup mới đây đã tuyên bố khởi kiện và báo cơ quan chức năng về các hành vi phỉ báng, vu khống.

Vào ngày 4/11/2025, Tòa dân sự thuộc Tòa khu vực Vùng II, Berlin, đã xét đơn của ông Phạm Nhật Vượng và công ty VinFast Germany GmbH yêu cầu cấm ông Lê Trung Khoa lặp lại nhiều phát ngôn mà họ cho là vu khống. Tòa đưa ra phán quyết mang tính phân định rất rõ giữa phát biểu sự kiện và phát biểu ý kiến theo luật pháp về tự do ngôn luận của Đức.

Có một điểm tòa chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là cấm ông Khoa lặp lại phát ngôn: “Vingroup/VinFast đưa hối lộ.”

Tòa đánh giá đây là tuyên bố về sự kiện, tức một cáo buộc có thể kiểm chứng, nhưng ông Khoa không đưa ra được chứng cứ. Vì vậy, nếu ông tiếp tục lặp lại, ông sẽ bị phạt 250.000 euro cho mỗi lần, hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm. Đây là phần nguyên đơn thắng.

Ngược lại, các cáo buộc còn lại của nguyên đơn – như việc ông Khoa gọi Vingroup là “tập đoàn mafia”, “khủng bố”, hay cáo buộc “đặt bom” trụ sở Thoibao.de – đều bị tòa bác bỏ.

Tòa cho rằng các phát biểu này, dù không có chứng cứ, thuộc phạm vi ý kiến chủ quan của ông Khoa, được pháp luật Đức bảo vệ theo quyền tự do biểu đạt. Vì vậy, không thể áp lệnh cấm khẩn cấp đối với ông Khoa. Đây là phần bị đơn thắng.

Tòa cũng phân định trách nhiệm chi trả án phí dựa trên mức độ thắng – thua: nguyên đơn phải chịu 7/8 án phí và phần lớn chi phí luật sư của cả hai bên. Điều này phản ánh việc đa số yêu cầu của nguyên đơn đã bị bác bỏ.

Phán quyết này là quyết định tạm thời trong thủ tục khẩn cấp. Nguyên đơn tuyên bố sẽ kháng cáo và tiếp tục các vụ kiện khác; còn ông Khoa cho rằng phán quyết chứng minh đa số yêu cầu chống lại ông “không có cơ sở pháp lý” và thể hiện sự bảo vệ quyền tự do ngôn luận trong hệ thống tư pháp Đức.


 

Đạo chích bậc thầy – Đoàn Xuân Thu

Đoàn Xuân Thu

Phần I

Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, có một nhân vật nổi tiếng tên là Từ Trích (徐跖), người nước Tống, sống vào thời Xuân Thu – cùng thời với Khổng Tử. Từ Trích vốn là anh ruột của Tử Lộ, một môn đệ trung thành trong hàng Thập triết của Khổng phu tử. Nhưng nếu người em theo học đạo thánh hiền, thì người anh lại rẽ sang con đường khác: Con đường của kẻ trộm, nhưng là kẻ trộm có tài và có chí. Dân gian gọi ông là Đạo Chích (盜跖) – nghĩa đen là “kẻ cướp Từ Trích,” nhưng về sau thành danh xưng chung cho bọn trộm cắp bậc thầy.

Theo Trang Tử, Đạo Chích từng thống lĩnh tới chín ngàn thuộc hạ, hành nghề giữa thời loạn, chuyên cướp của nhà giàu và chia cho kẻ nghèo. Hắn có đạo lý riêng, thậm chí còn dạy người “nghề trộm,” biết chọn thời, biết phân vai, biết ẩn thân, và đặc biệt là phải có lòng trung thành giữa bọn trộm với nhau.

Trang Tử từng chép một cuộc đối thoại giả tưởng giữa Lão Tử và Đạo Chích, trong đó tên cướp biện luận rằng: “Người trị nước thì cướp của dân bằng phép tắc, ta cướp bằng tay – ai cao hơn ai?”

Lời ấy, dẫu ngông cuồng, vẫn phản chiếu một triết lý nghịch: trong xã hội đảo điên, thiện ác có khi chỉ cách nhau một lớp vỏ danh nghĩa.

Từ đó, hai chữ “đạo chích” dần mang nghĩa rộng hơn. Người ta không còn chỉ dùng để chửi mắng, mà còn hàm ý “tay trộm chuyên nghiệp, hành động tinh vi, có đầu óc tổ chức.” Một thứ “nghề” trong bóng tối, đòi hỏi sự kiên nhẫn, trí nhớ, và đôi khi cả… óc thẩm mỹ.

Và trong thế giới hiện đại, vẫn có những kẻ mang linh hồn của Đạo Chích xưa, nhưng khoác lên lớp áo của thời đại, Jack “Murph the Surf” Murphy, một huyền thoại có thật của nước Mỹ thế kỷ XX.

Phần II

Jack Roland Murphy sinh năm 1938 tại California – miền đất của ánh nắng, bãi biển và những kẻ mộng mơ. Ông là tay lướt sóng điệu nghệ, từng giành giải vô địch, có phong độ của một ngôi sao màn bạc. Nhưng đằng sau mái tóc vàng và nụ cười rạng rỡ là một tâm hồn phiêu lưu không yên – và cũng chính cái máu phiêu lưu ấy đã đẩy ông vào con đường của “nghệ thuật ăn trộm.”

Đêm 29 Tháng Mười, 1964, Murphy cùng hai đồng phạm lẻn vào Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ ở New York. Một đêm hoàn hảo cho tội ác: Hệ thống báo động không hoạt động, cửa sổ mở hé hai inch để thông gió, tủ trưng bày đá quý cũng hỏng còi. Chỉ trong vài phút, họ lấy đi 24 viên ngọc quý, trong đó có viên “Star of India” – sapphire xanh nặng hơn 560 carat, lớn nhất thế giới.

Sau khi tiêu xài hoang phí ở Miami, cả nhóm bị bắt. Murphy đồng ý giao nộp phần lớn tang vật để đổi lấy bản án nhẹ, chỉ ba năm tù. Viên “Star of India” được tìm thấy trong một tủ khóa ở bến xe buýt, còn viên “Eagle Diamond” thì biến mất vĩnh viễn – có lẽ bị cắt nhỏ và bán lẻ trên thị trường chợ đen.

Ra tù, Murphy thử làm người lương thiện nhưng thất bại. Năm 1972, ông bị kết án vì tội giết người trong một vụ tranh chấp băng nhóm ở Florida. Suốt 17 năm tù đày, ông dần thay đổi, học Kinh Thánh, trở thành mục sư Cơ đốc, đi khắp các nhà giam Mỹ rao giảng về sự hối cải. Câu chuyện của Jack Murphy – từ tay trộm ngọc lừng danh đến người rao giảng lòng nhân – khiến thiên hạ nhớ đến Đạo Chích của hai nghìn năm trước: cùng phạm tội, nhưng không mất nhân tính; cùng sống ngoài vòng pháp luật, nhưng vẫn biết sám hối.

Phần III – Từ New York đến Paris

Sáu mươi năm sau vụ Star of India, lịch sử lặp lại ở bên kia Đại Tây Dương. Paris – kinh đô ánh sáng – bàng hoàng chứng kiến một vụ trộm mà báo chí gọi là “phi vụ thế kỷ” trộm vương miện tại bảo tàng Louvre.

Sáng 19 Tháng Mười, 2025, bốn người bịt mặt dùng thang nâng cơ khí tiếp cận tầng thượng của Galerie d’Apollon, nơi trưng bày các báu vật hoàng gia Pháp. Họ cưa cửa sổ, vô hiệu hóa cảm biến, đập kính, gom tám món trang sức quý giá rồi biến mất chỉ trong bốn phút. Số hiện vật bị lấy đi gồm: Vương miện, vòng cổ, hoa tai và trâm ngọc lục bảo của các hoàng hậu Marie-Amélie, Marie-Louise và Eugénie de Montijo. Tổng giá trị ước tính 88 triệu euro, song theo giới chuyên môn, “vô giá” mới là con số đúng.

Hai nghi phạm bị bắt tại sân bay Charles de Gaulle và vùng Seine-Saint-Denis, nhưng phần lớn báu vật chưa được thu hồi. Giới chức lo rằng những viên ngọc lục bảo, sapphire và kim cương có thể đã bị tháo rời, làm tan biến manh mối – y hệt như viên Eagle Diamond năm xưa.

Câu hỏi lớn đặt ra, giữa thế kỷ XXI, trong một bảo tàng đầy camera và cảm biến, vì sao một vụ trộm như vậy vẫn xảy ra? Phải chăng, công nghệ dù tinh vi đến mấy vẫn không thể ngăn được trí tuệ và táo bạo của con người?

Nhà triết học Pháp có lần nói: “Tội phạm cũng là một phần của văn minh.” Quả thật, mỗi vụ trộm lớn đều phản chiếu mặt tối của thời đại: khi nghệ thuật bảo tồn gặp nghệ thuật tước đoạt, và khi lòng tham được tô điểm bằng kỹ năng. Từ Đạo Chích thời Xuân Thu, đến Murphy ở New York, rồi những kẻ trộm ở Paris – ba thế giới, một bản chất: kẻ thông minh dùng trí tuệ sai, và xã hội luôn trả giá cho việc ấy.

Trong hành lang sáng trắng của Louvre hôm nay, người ta vẫn để trống chỗ từng đặt chiếc vương miện. Khoảng trống ấy, hơn cả một mất mát vật chất, là lời nhắc về tính mong manh của văn minh.

Bởi chừng nào còn người ham vàng ngọc, còn kẻ dám thử thách công lý, thì bóng dáng của Đạo Chích – kẻ trộm bậc thầy từ nghìn năm trước – vẫn còn lang thang đâu đó giữa chúng ta, trong hình hài những con người tưởng như vô hại.

Đoàn Xuân Thu

From: Tu-Phung

Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

13/11/2025

Dân oan khắp nơi vì những chính sách xã hội bất cập

Tôi thấy nhiều người bình luận:

“Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao? Ngày xưa đường đất, giờ đường bê tông; ngày xưa nhà tranh, giờ nhà tầng. Sao chị không thấy sự phát triển đó để khen?”

Nghe rất ngu ngơ.

Bởi vì một đứa trẻ, dù không ai dạy, nó cũng sẽ lớn.

Bạn không thể tự hào rằng “ngày xưa tôi cao 80cm, giờ tôi 1m70” — vì đó là quy luật sinh học, không phải thành tựu.

Cũng vậy, một quốc gia sau hàng chục năm hòa bình mà có đường bê tông, có nhà cao tầng, không phải là điều để hãnh diện.

Đó là điều tự nhiên phải có, nếu con người còn làm việc và thời gian còn trôi đi.

Cái đáng nói là: khi bạn lớn lên, bạn trở thành người tử tế hơn, hay chỉ là một thân xác to hơn?

Một đất nước thật sự phát triển không đo bằng số tầng cao ốc, mà bằng mức độ tự do, công bằng và phẩm giá của người dân.

Bê tông có thể che mưa, nhưng không thể che sự bất công.

Đường nhựa có thể chạy nhanh, nhưng không thể chạy trốn khỏi nỗi sợ nói thật.

Và GDP có thể tăng, nhưng nếu niềm tin của con người giảm, thì đó không phải là phát triển – mà là phình to trong ảo tưởng.

Nếu muốn tự hào, hãy so với những nước cùng xuất phát điểm:

Hàn Quốc sau chiến tranh nghèo đói, 60 năm sau trở thành nền kinh tế công nghệ.

Nhật Bản từ đống tro tàn, vươn lên thành quốc gia văn minh bậc nhất thế giới.

Singapore không có tài nguyên, nhưng xây được nhà nước liêm chính, dân được tôn trọng.

Còn Việt Nam?

Sau gần nửa thế kỷ, người dân vẫn phải “xin” từng giấy tờ, “chạy” từng thủ tục, “đóng” từng khoản không tên.

Nếu đó là “phát triển”, thì xin hỏi: phát triển cho ai?

Cái đáng sợ nhất không phải là nghèo, mà là tự mãn trong nghèo trí tuệ.

Người ta tưởng rằng bê tông là biểu tượng của văn minh, mà quên rằng văn minh bắt đầu từ cách con người đối xử với nhau.

Một quốc gia có thể có đường cao tốc, nhưng nếu dân phải cúi đầu trước cửa quyền, thì đó chỉ là một xã hội được tráng xi măng lên sự sợ hãi.

Đừng khoe rằng đất nước đã khác xưa, khi điều duy nhất khác là lớp sơn ngoài tường.

Hãy hỏi xem:

– Con người có được tôn trọng hơn không?

– Tiếng nói của dân có được lắng nghe không?

– Và luật pháp có còn phục vụ công lý hay phục vụ quyền lực?

Bởi vì, một đất nước không thể gọi là phát triển, nếu người dân vẫn phải xin để được sống đúng luật.

Khi người dân phải nuôi cả nhà nước – đó không phải là phát triển.

Ở Việt Nam, từng đứa trẻ vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường đã phải đóng tiền để “xây dựng đất nước”, “ủng hộ đồng bào thiên tai”, “xây trường học”.

Những em bé mới mười tuổi đã bắt đầu gánh nghĩa vụ “cứu người lớn” — trong khi người lớn ấy là những người đang được trả lương để quản lý quốc gia.

Mỗi khi bão lũ xảy ra, thay vì có quỹ dự phòng quốc gia được vận hành minh bạch, thì chính phủ lại ngửa tay xin tiền dân.

Từng người nông dân, công nhân, bà bán hàng rong, chủ tiệm tạp hoá, thậm chí từng lớp học, từng doanh nghiệp nhỏ… đều phải “đóng góp cứu trợ”.

Và rồi có người vẫn nói:

“Đất nước mình đã thay đổi nhiều rồi mà.”

Thay đổi ư? Khi người dân vẫn phải trả tiền cho những thứ lẽ ra thuộc về phúc lợi

Một đất nước đứng thứ 5 về quy mô kinh tế ở Đông Nam Á, nhưng trẻ em vẫn không được học miễn phí, bệnh nhân vẫn phải “đặt phong bì” để được nằm viện, và người già vẫn phải sống nhờ con cái, thay vì được bảo đảm bằng hệ thống an sinh.

Nếu đó gọi là “thay đổi”, thì đó là sự thay đổi trên giấy, chứ không phải trong phẩm giá con người.

Ở các quốc gia phát triển, người dân nộp thuế để được bảo vệ.

Còn ở Việt Nam, người dân nộp thuế, rồi lại bị kêu gọi đóng góp để vá lỗi của chính bộ máy.

Người dân trả tiền cho trường, rồi trường vẫn xuống cấp.

Trả tiền cho bệnh viện, rồi vẫn phải mang thuốc từ nhà.

Trả tiền cho quỹ thiên tai, rồi khi lũ về, người dân vẫn tự bơi trong nước mắt của mình.

Đó không phải là “phát triển” – mà là một vòng luẩn quẩn của sự bóc lột hợp pháp hoá bằng khẩu hiệu.

Còn những “điều tích cực” mà các bạn nói là gì?

Các bạn bảo: “Hãy nhìn vào những điều tích cực chứ.”

Vậy xin chỉ cho tôi: điều tích cực nào khiến người Việt hôm nay sống hạnh phúc hơn, công bằng hơn, hay ít sợ hãi hơn?

GDP đó có cao hơn những quốc gia từng thua xa Việt Nam ba mươi năm trước hay không?

Hãy thử nhìn quanh: bao nhiêu người lao động đang sống lay lắt với đồng lương không đủ trang trải.

Những con đường bê tông mà các bạn tự hào —chính là nơi từng đứa trẻ phải đạp xe sát bên container, xe khách, xe tải, vì không có nổi một làn đường an toàn cho người dân.

Đường có thể phẳng, nhưng sinh mạng con người lại gập ghềnh hơn bao giờ hết.

Ngay cả trong bệnh viện – nơi lẽ ra là chỗ cuối cùng còn lại của nhân đạo –

đã bao nhiêu người phải chết trước cánh cửa cấp cứu, chỉ vì không kịp nộp viện phí, chỉ vì y tá, bác sĩ còn bận “hỏi giấy tờ”?

Đó là cái mà bạn gọi là “phát triển” sao?

Một xã hội nơi mạng người rẻ hơn một chữ ký, nơi sự sống phải xếp hàng chờ được phép cứu, thì mọi chỉ số GDP đều vô nghĩa.

Nếu đó là “phát triển”, thì xin lỗi — đó không phải là tiến bộ, mà là sự thích nghi của người dân với bất công.

Một quốc gia không thể được gọi là “phát triển” khi trẻ em phải đóng góp để cứu người lớn,

khi người dân phải quyên góp cho những sai lầm của chính quyền, và khi người nộp thuế phải nộp thêm lần nữa để được đối xử như con người.

Thay đổi thật sự không nằm ở màu của bê tông, mà ở màu của lương tri.

Và chừng nào người dân còn phải đi xin công lý, thì mọi con đường lát nhựa chỉ là lớp sơn mỏng trên một nền đất mục.

Hong Thai Hoang


 

Josephine Chen hành nghề bác sĩ suốt 40 năm ở Laramie

My Lan Pham

Người ta tìm thấy cô bé bị đóng băng trong một toa tàu chở hàng, chỉ với một mảnh giấy gắn trên áo khoác — và cô lớn lên để cứu chính thành phố suýt khiến mình chết.

Mùa đông năm 1892, Laramie, Wyoming.

Một công nhân đường sắt nghe thấy tiếng khóc phát ra từ một toa hàng trống và phát hiện một bé gái, khoảng bốn tuổi, môi tím tái và run rẩy. Trên chiếc áo khoác sờn cũ của cô bé có gắn một mảnh giấy:

“Con bé tên là Josephine. Tôi không thể nuôi nó. Xin hãy tử tế hơn tôi.”

Phần lớn mọi người muốn gửi cô bé đến trại trẻ mồ côi ở miền Đông.

Nhưng Martha Chen, một người phụ nữ Mỹ gốc Hoa làm nghề giặt ủi — người đã mất con gái mình vì bệnh sốt tinh hồng nhiệt — nhìn vào đôi mắt sợ hãi ấy và nói:

“Con bé sẽ ở lại với tôi.”

Cả thị trấn xì xào:

Một người phụ nữ Trung Quốc nuôi một đứa trẻ da trắng ư?

Không phù hợp. Không tự nhiên.

Nhưng Martha phớt lờ tất cả, dạy Josephine học đọc dưới ánh nến, ghi sổ tiền giặt là, và biết cách đứng vững khi người ta xì xào sau lưng.

Josephine học được hai ngôn ngữ, hai nền văn hóa, và một chân lý không thể lay chuyển:

Gia đình không chỉ là huyết thống — mà là những người ở bên ta khi thế giới sụp đổ.

Khi 17 tuổi, Josephine làm việc tại phòng khám duy nhất của thị trấn. Mùa đông năm 1905, dịch bạch hầu (diphtheria) bùng phát ở Laramie.

Bác sĩ ngã bệnh vào ngày thứ ba.

Josephine — người đã học được mọi thứ sau năm năm ghi chép và chuẩn bị dụng cụ — đã thay thế ông.

Trong hai tuần liền, cô hầu như không ngủ:

Cô pha chế thuốc, theo dõi bệnh nhân và tổ chức cách ly dựa trên những gì đọc được trong nhật ký của bác sĩ.

Khi dịch bệnh qua đi, 23 người sống sót — những người vốn không có hy vọng sống.

Chính những dân làng từng nghi ngờ sự tồn tại của cô, giờ lại mang ơn cô vì đã cứu con họ.

Khi bình phục, bác sĩ — với lòng biết ơn sâu sắc — đã đề nghị tài trợ cho cô học y khoa.

Martha Chen còn sống để chứng kiến Josephine được nhận vào trường điều dưỡng, bước đầu tiên trên hành trình trở thành một trong những nữ bác sĩ đầu tiên của bang Wyoming.

Nhiều năm sau, có người hỏi Josephine liệu cô có bao giờ nghĩ đến mẹ ruột của mình không.

Cô trầm ngâm một lúc rồi khẽ lắc đầu:

“Người phụ nữ tìm thấy tôi trong giá lạnh đã cho tôi sự sống.

Người phụ nữ nuôi dưỡng tôi đã cho cuộc đời tôi ý nghĩa.

Đó là điều mà nhiều người chẳng bao giờ có được từ chỉ một người mẹ — còn tôi thì may mắn có đến hai.”

Chiếc toa hàng — nơi từng suýt trở thành quan tài của cô — đã nằm rỉ sét nhiều thập kỷ bên ga tàu, như một lời nhắc nhở rằng:

Những khoảnh khắc lạnh lẽo nhất đôi khi lại để lại di sản ấm áp nhất.

Josephine Chen hành nghề bác sĩ suốt 40 năm ở Laramie — đỡ đẻ, nắn xương gãy, cứu người — và chứng minh rằng sự cứu rỗi không phải là kết thúc của câu chuyện.

Đôi khi, đó chỉ là khởi đầu.

Từ trang Bình luận thế sự