VIỆC NHỎ CHO THẤY VẤN ĐỀ LỚN

VIỆC NHỎ CHO THẤY VẤN ĐỀ LỚN

Mạc Văn Trang

19-2-2017

Nhà giáo – ThS Tạ Thị Bích Ngọc – Hiệu trưởng nhà trường phát biểu khai mạc "Đêm hội trăng rằm 2015". Ảnh: internet

Việc bà Tạ Bích Ngọc HT trường TH Nam Trung yên, Hà Nội đi xe taxi vào sân trường, đâm gãy chân HS Kiên lớp 2A4 đang chơi ở sân trường, thực ra chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng tại sao lại thành chuyện lớn?

CHUYỆN NHỎ, nếu như bà Ngọc xuống xe, cùng mọi người chạy lại nâng em Kiên lên, hỏi han, đưa em ngay đi bệnh viện, báo cho gia đình em và GV chủ nhiệm biết. Bà thành thật nhận lỗi (ai chả mắc lỗi lầm), xin lỗi gia đình em Kiên và mọi người, khắc phục hậu quả, rút kinh nghiêm chung về việc đi xe vào sân trường… Đó là lương tâm, trách nhiệm của một người bình thường.

CHUYỆN LỚN bởi vì, người HT – linh hồn của nhà trường – tấm gương đạo đức cho GV và HS, đã không làm được điều bình thường, mà bộc lộ một nhân cách thấp kém:

1. Đi xe ô tô trong sân trường đã sai, đâm gãy chân HS của mình mà vô cảm bỏ đi, thật khó tưởng tượng, không thể chấp nhận được;

2. Khi gia đình HS có ý kiến, đã không thừa nhận, lại gian manh chỉ đạo làm phiếu lấy ý kiến CB, GV, CNV, HS, làm báo cáo, rằng ngày đó không có xe nào đi vào trường, em Kiên chơi và tự ngã gãy chân. Đây là việc làm đổi trắng thay đen, lấp liếm khuyết điểm của bản thân một cách trắng trợn, bất chấp sự thật. Hành động đó vừa ngu xuẩn, vừa khinh khi, coi thường tất cả…

3. Bà Ngọc dám làm những chuyện ngang ngược đáng đến như vậy, vì tin rằng ở cương vị hiệu trưởng của bà ta, với các “mối quan hệ” và “ê kíp lãnh đạo” đã xây dựng được thì các GV, HS, cha mẹ HS và dư luận xã hội “không là cái đinh gỉ”! Bà muốn che giấu khuyết điểm, tội lỗi, báo cáo sai là chuyện “bình thường”. Chắc chuyện này cũng đã quen với bà xưa nay, và vẫn trót lọt, nhưng không ngờ “đi đêm lắm, có ngày gặp ma”!

4. Bà Ngọc mà trở thành hiệu trưởng theo đúng “quy trình đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn” cán bộ lãnh đạo, thì không hẳn chỉ một trường hợp. Có bao nhiêu phần trăm cán bộ lãnh đạo như bà Ngọc? HT là linh hồn nhà trường. HT nào, nhà trường ấy. Hơn nữa HT còn là “Bộ trưởng tại chỗ” (Hồ Ngọc Đại). Cán bộ quản lý yếu kém đúng là vấn đề chí nguy của hệ thống giáo dục nay.

5. Khi HT hỏng thì tạo ra hiệu phó, ê kíp lãnh đạo hỏng, nội bộ GV chia rẽ, môi trường văn hóa sư phạm tiêu cực, hỏng cả một nhà trường. Bà hiệu phó trường TH Nam Trung yên đúng là làm tay sai cho bà Ngọc một cách đê hèn. Bà này cũng cần cách chức cho chuyển đi trường khác làm GV…

Tóm lại, ngành giáo dục không thể nào chấp nhận một hiệu trưởng như bà Ngọc. Bộ trưởng GD và Chủ thích TP Hà Nội đã yêu cầu xử lý nhanh “vụ bà Ngọc”. Nếu không xử lý nghiêm chuyện này, cả chính quyền Hà Nội và Bộ GD&ĐT đều chẳng còn ai tin tưởng!

CHÂN DUNG VÀ CÂY VIẾT CHÌ

CHÂN DUNG VÀ CÂY VIẾT CHÌ

Trong chuyến Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm Ấn Độ năm 1986, có những chuyện bên lề ít người biết.

Người phụ trách lộ trình cho Đức Giáo Hoàng thăm Calcutta là một Linh Mục Dòng Tên ở thành phố ấy.  Cha ở cùng Nhà Dòng nơi tôi xin trọ, Xavier’s College, 30 Park Street, Calcutta.  Vì thích tìm xem có gì liên quan tới Mẹ Têrêsa không, tôi tò mò hỏi chuyện với ngài, vô tình mới biết ngài là Linh Mục được chỉ định công việc tổ chức lộ trình trong ngày quan trọng đó.  Và câu chuyện bên lề trong chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng cũng khá thú vị.

Chuyến đi sau cùng của Đức Giáo Hoàng dự định từ gốc đường Park chạy thẳng ra phi trường.  Nhưng đến ngã tư, xe cảnh sát dẫn đầu không đi thẳng mà lại quẹo trái.  Cha kể với tôi là Linh Mục trưởng đoàn tổ chức, từ Roma qua, không hiểu có chuyện gì.  Tại sao kỳ quặc thế này?  Người ta sợ ám sát ư?  Đoàn xe đi đâu bây giờ?

Xe ngừng trên đường ghé vào Nhà Dòng chính của Mẹ Têrêsa.  Nhà này ngay bên đường, sau này cũng là nơi chôn xác Mẹ.  Đức Thánh Cha ghé thăm một lúc rồi đoàn xe tiến ra phi trường.  Trong chương trình ở Calcutta, Đức Thánh Cha chỉ tới thăm ngôi nhà săn sóc những người hấp hối mà thôi.  Lúc mới tới Calcutta, từ phi trường vào thành phố, Ngài đã ghé thăm ngôi nhà này rồi.  Không có chương trình ghé Nhà Dòng chính.

Tới phi trường, nghe cha kể lại, Linh Mục trưởng đoàn tổ chức kia rất bực mình với viên cảnh sát trưởng tại sao làm vậy mà không cho ngài biết.  Ông cảnh sát trả lời rằng phút cuối, Mẹ Têrêsa xin ông như vậy.  Ông bảo ở Calcutta này có ai là người không nghe lời Mẹ Têrêsa đâu!

Rồi cha kết luận, chính quyền ở đây không từ chối điều gì bà xin.

Chỉ khi đến Calcutta tôi mới biết chính quyền ở đây là đảng Cộng Sản.  Thể chế chính trị ở Ấn gồm nhiều đảng.  Chính phủ tiểu bang hợp thành chính phủ trung ương.  Tiểu bang nào nhiều thành phần của một đảng, đảng ấy thắng thế.  Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao trong một khu xóm, ngày nào tôi cũng đi bộ ngang qua đến Nhà Dòng Mẹ Têrêsa, họ treo ngợp cờ đỏ búa liềm.  Nhưng Cộng Sản ở Ấn rất khác Cộng Sản trên thế giới.  Họ chỉ là một đảng trong nhiều đảng của nền chính trị Ấn.  Họ chủ trương đường hướng xã hội giải thoát giới nghèo chứ không đàn áp tôn giáo.

Chưa đến Ấn, tôi chỉ biết Mẹ Têrêsa qua báo chí, qua phương tiện truyền thông là một Nữ Tu nổi tiếng thế giới vì săn sóc người nghèo.  Qua Ấn, tôi hiểu hơn, màu sắc vẽ chân dung người đàn bà này khác lạ lắm.

Bà không nổi tiếng về truyền giáo, về viết sách, về triết học, thần học, người nữ tu này làm việc rất tầm thường.  Công việc của đời bà thật đơn giản.

Qua Ấn tôi mới hiểu cái nghèo ở đây khác mọi nơi.  Nó là kiếp nghèo của định mệnh đẳng cấp do xã hội và tôn giáo tạo ra.  Trong bốn đẳng cấp, đẳng cấp thứ tư thấp nhất, chỉ có lao động, làm cu li.  Nhưng ngoài bốn đẳng cấp này, còn loại người “unclean”, “untouchable”.  Tiếng “untouchable” do Gandhi dùng để chỉ một hạng người khốn khổ nhất.  Nghĩa là họ thuộc hạng người “ô uế”.  Họ không được đụng vào người thuộc đẳng cấp khác.  Họ phải làm những việc như lau cầu tiêu, chôn xác chết.

Tóm lại, họ phải tránh xa người khác trên đường đi.  Ai đụng vào họ đều ra ô uế, phải thanh tẩy.  Vì thế, họ nghèo từ định mệnh nghèo ra, họ phải mang thân phận lầm than.  Tôn giáo và xã hội bắt họ vậy.  Cũng nhờ qua đây, tôi mới hiểu ý nghĩa sâu xa khi Kinh Thánh nói Giavê bảo vệ những người nghèo.  Cái nghèo ở đây là nghèo đến từ con người mất phẩm giá.  Nó không chỉ là cái nghèo kinh tế, nhưng nghèo vì bất công, nghèo vì bị xúc phạm.

Giữa lúc tôn giáo và xã hội xa tránh họ thì Mẹ Têrêsa đến ôm những người này!  Bà không sợ bị ô uế phải đi thanh tẩy ư?

Mãi đến năm 1957 hiến pháp Ấn mới xoá bỏ chế độ đẳng cấp.  Trong thực tế, các vùng xa xôi nó vẫn như chiếc cối đá choàng trên cổ đẳng cấp này.  Năm 1948, Gandhi bị giết do một tín đồ Ấn Giáo cực đoan vì ông chủ trương mọi người phải bình đẳng.

Trong bối cảnh xã hội và tôn giáo như thế Mẹ Têrêsa xuất hiện.

Người Nữ Tu này chủ trương một Dòng Tu đi tìm những người bất hạnh mà phục vụ.  Thế kỷ này thế giới không còn chế độ nô lệ.  Không quốc gia nào có thể chấp nhận giai cấp người nô lệ người.  Hiến pháp Ấn Độ không chấp nhận đẳng cấp, nhưng trong thâm tâm thành phần thống trị có muốn thay đổi không, đó là một chuyện khác.

Trong hoàn cảnh như thế Mẹ Têrêsa xuất hiện.

Người Nữ Tu này không là nhà cải cách tôn giáo, bà không là nhà cải tạo xã hội.  Mẹ chỉ đến với những kẻ mà người khác sợ đến gần bị ô uế.  Các Nữ Tu thuộc Dòng của Mẹ không đi truyền giáo.  Người ta không thể vì Mẹ mà sợ mất tín đồ.  Mẹ không truyền đạo để đông người, để cạnh tranh tôn giáo.  Ai lạm dụng tôn giáo và kinh tế để nắm chính trị, không thể kết án người Nữ Tu này được điều gì ngoài điều họ không dám làm là đến với những người bị bỏ rơi.

Thông tin đóng một vai trò chính yếu trong việc vẽ chân dung Mẹ Têrêsa.  Hơn một tỷ người Ấn biết đến Mẹ.  Công việc và đời sống mẹ được thông tin truyền đi.  Toàn dân Ấn biết đến một con người mà truyền thống xã hội, tôn giáo của họ đi ngược lại.  Đó là Mẹ đến với người nghèo.

Nhiều người Ấn không biết đến Giáo Hoàng.  Có thể có kẻ chống đối Vatican nữa.  Nhưng Mẹ Têrêsa đi đến đâu, người ta xếp hàng xin chúc lành.  Mẹ đã vẽ một chân dung rất trung thực về Thiên Chúa cho nhân loại.  Thiên Chúa của Tình Thương.  Công việc và đời sống của người đàn bà này rất giản dị.

ME TERESA

Đối với tín đồ Bà La Môn, không chỉ người chết mới là thánh.  Ngay người sống cũng là thánh.  Các nhà Sadhu khổ hạnh, các bậc thiền tu, họ là thánh.  Có danh từ “Phật sống” là thế.  Bởi đó, chân dung Mẹ Têrêsa là chân dung “Phật sống”, chân dung đầu thai của một thánh nhân.

Thiên Chúa đã dùng người đàn bà này để vẽ chân dung Thiên Chúa bằng ngôn ngữ thật tuyệt vời.  Một người đàn bà thấp lùn, không có tướng mạo duyên sắc.  Một người đàn bà không bằng cấp nói về chân dung rất chân thực của Chúa cho một tỉ người trên đất Ấn Giáo với không biết bao nhiêu nghìn năm bám vào đẳng cấp hệ luỵ.

Khi để Thiên Chúa dùng, chẳng ai trong chúng ta là người nhỏ bé.  Tất cả chúng ta được dựng nên trong ân sủng phi thường của Ngài.

Phải chăng vì thế Mẹ Têrêsa đã nói: “Tôi là cây viết chì trong tay Chúa, Ngài muốn vẽ gì tùy ý Ngài”.  Phải chăng vì thế, Chúa đã lấy tình thương trong trái tim Mẹ để vẽ chân dung Giáo Hội trong thế kỷ hôm nay.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, SJ

****************************** ******

Con chỉ là một Cây bút chì, rất nhu mì chẳng có là chi.
Trong tay Chúa, Chúa vẽ muôn diệu kỳ.  Quá diệu kỳ
Khi con mọn thực thi thiên ý, khiêm hạ xóa bỏ mình đi.
Trong tay Chuá, Chúa vẽ muôn diệu kỳ, rất diệu kỳ
***
Trong tay đấng toàn năng, thượng trí, con xin được làm cây bút chì
Một cây bút chì cỏn con, thật ngoan ngoãn và dễ thương
Trong tay Chúa, tài hoa tuyệt mỹ, bút phóng họa trường thiên trác tuyệt
Ngợi ca Chúa Trời hiển vinh, cảm mến phúc lộc Thiên đình

“Cây Bút Chì Trong Tay Chúa”– Hải Triều

langthangchieutim gởi

NƠI CHÚNG TA SỐNG

From facebook:   Hằng Lê

NƠI CHÚNG TA SỐNG

Sống ở Việt Nam, chi phí đắt đỏ, cái xe ô tô nhỏ xíu với giá 84 triệu đồng thì về đất nước yên bình của chúng ta nó lên tới hơn 400 triệu đồng, gấp 5 lần con số thực.

Với một chiếc xe khoảng 20.000 USD thì về Việt Nam được bán ra khoảng 60.000 USD – 80.000 USD. Một con số khủng khiếp.

Trong khi đời sống đa phần người dân của Việt Nam đều rơi vào ở mức nghèo, thuộc các nước thế giới thứ ba, tức các quốc gia đang phát triển với mức thu nhập là trung bình thấp trở xuống (khoảng 2.000USD/người/năm).

Ô nhiễm môi trường ở hàng báo động đỏ cấp nguy hiểm/nguy hại từ thực phẩm (vấn nạn quốc gia), nước (nhiễm nhiều độc tố, hay có cặn bẩn, vỡ ống dẫn), không khí (gấp 5 lần chỉ số tiêu chuẩn WHO công bố) đến tiếng ồn (gấp 1.5-3 lần ngưỡng nghe, 60dB). Giá nhà đất ở thành phố đắt hàng đầu toàn cầu (thuộc 10 nước có giá đất đắt nhất hành tinh). Giá xăng cũng thường xuyên tăng mà mức giá bán ra thị trường luôn ở mức cao so với thế giới (cao hơn 3-5 lần nhiều bang ở Mỹ). Trong khi nền sản xuất của chúng ta không có giá trị nào, kể cả làm ra một con ốc vít hoàn chỉnh cũng chưa thể làm được cho khoa học.

Khi biển bị huỷ hoại diện rộng trên hàng trăm kilomet, người dân chật vật đi khởi kiện để đòi bồi thường thiệt hại thì dễ dàng bị vu cho là gây rối an ninh trật tự, chống phá nhà nước để rồi bị đánh đến máu me be bét, bị ngăn cản và phải từ bỏ việc khởi kiện ấy tại toà án.
Vào một dịp khác, người dân đến nơi tưởng niệm hàng vạn chiến sỹ đã hy sinh vì bảo vệ tổ quốc (1979), tưởng nhớ công lao những người ngã xuống để bảo vệ đảo Hoàng Sa (1974) của chế độ khác (VNCH) thì bị cấm cản, phá rối một cách công khai. Mà giặc đánh chiếm chúng ta đều là chính quyền bành trướng hung hãn Trung Quốc.

Chính quyền đang làm gì với dân chúng vậy?

Điều đó chỉ làm xấu đi sự quản trị của quốc gia đối với chính quyền, khi họ không muốn cho người dân thực thi quyền khởi kiện của mình theo Hiến định và pháp luật; không cho người dân (hoặc mặc nhiên để cho những kẻ thực hiện hành vi phá rối người dân năm này qua năm khác diễn ra công khai mà không giải quyết) đến nơi tưởng niệm thắp hương để tri ân công lao những người đã hy sinh vì bảo vệ tổ quốc và ôn cố lịch sử bi tráng của dân tộc trong công cuộc chống giặc Trung Quốc xâm lược.

Những thứ đó làm tổn thương không những hình ảnh quốc gia, xâm hại luật pháp, mà còn gây tổn thương giá trị lịch sử, tổn thương hai thế hệ, cả người ngã xuống và những người còn sống muốn ghi ơn và quan trọng hơn cả là gây ra hao hụt niềm tin của tất thảy mọi người vào những hành động của cả hai phía, của người dân lẫn chính quyền đang trị vì đất nước.

(LS Luân Lê)

Đầu tháng 1/2017, Tổng cục Hải Quan cho biết giá xe Ấn Độ khi nhập cảng…
CAFEF.VN|BY CAFEF

Cuộc chiến 1979 thực sự đã ‘bắt đầu từ trước’

Cuộc chiến 1979 thực sự đã ‘bắt đầu từ trước’

BBC

Quốc Phương

17-2-2017

Ông Hà Văn Thịnh cho rằng thực ra cuộc chiến 1979 trên Biên giới Việt - Trung đã khởi thủy từ năm 1974 khi Trung Quốc tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa. Ảnh: FB Hà Văn Thịnh.

Cuộc chiến nổ ra ngày 17/2/1979 trên biên giới Việt – Trung thực ra đã nổ ra từ lâu trước đó, theo một sử gia từ Đại học Huế của Việt Nam.

Bình luận với BBC hôm thứ Sáu nhân 38 năm đánh dấu cuộc chiến đẫm máu trên biên giới phía Bắc của Việt Nam sau khi Trung Quốc khởi binh tấn công trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước, nhà sử học Hà Văn Thịnh nói:

“Tôi quan niệm hơi khác mọi người một chút, tôi cho rằng cuộc chiến tranh năm 1979 đã thực sự bắt đầu từ 19/01/1974 khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, đó là bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam.

“Bắt đầu năm 1979 là đỉnh cao, năm 1988 nó biến thái, ngày 14/3/1988 chiếm Gạc Ma, một phần của Trường Sa, rồi tiếp đó, chúng ta biết đầu thế kỷ 21, nào là thành phố Tam Sa, nào là đường lưỡi bò (bản đồ đường chín đoạn).

“Rõ ràng là cuộc chiến tranh năm 1979 tôi nhấn mạnh là nó bắt đầu từ năm 1974, đến bây giờ nó vẫn đang tiếp diễn…

“Theo quan điểm quả tôi, chừng nào mà đất đai, biển đảo, máu thịt của Tổ quốc vẫn bị xâm lược Trung Quốc chiếm đóng, thì chừng đó chưa thể coi là bạn được”.

Sử gia từ Huế chia sẻ một thống kê riêng của ông theo đó chỉ 5-10% sinh viên không thuộc ngành sử mà ông đã giảng dạy trong những dịp đánh dấu sự kiện biết được ngày 17/2/1979 là ngày gì và có ý nghĩa ra sao.

Khi được hỏi ông có tư vấn gì cho giới soạn thảo sách giáo khoa, giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến lịch sử ở Việt Nam liên quan sự kiện trên và cuộc chiến Việt – Trung bắt nguồn từ đó, ông Hà Văn Thịnh nói:

“Trong hội đồng soạn thảo sách giáo khoa, có không ít các thầy của tôi, bây giờ bảo khuyên các thầy thì nó không đúng, nhưng với tư cách một học trò, tuy lớn tuổi rồi và cũng am hiểu đôi chút, tôi rất muốn góp ý là kính đề nghị các thầy, kính đề nghị các đồng nghiệp bằng tuổi tôi hoặc ít hơn tuổi tôi là cần phải tôn trọng lịch sử, cần phải tôn trọng sự thật.

“Chứ không thể nào chung chung, rồi mơ hồ, nửa biết, nửa không như vậy, trắng không ra trắng, đen không ra đen…,” ông Hà Văn Thịnh, người có nhiều thập niên giảng dạy và nghiên cứu sử học tại Đại học Huế nêu quan điểm với BBC.

Phải tạo áp lực

Cũng hôm 17/2/2017, BBC đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thạch, nhà chủ xướng chương trình Sách hóa Nông thôn ở Việt Nam, ông cho BBC hay, hiện tại trong sách giáo khoa phổ thông ở nhà trường Việt Nam chí có vỏn vẹn ’11 dòng’ nói về cuộc chiến Việt – Trung năm 1979 với sự kiện mà ông gọi đích danh là ‘Trung Quốc xâm lược Việt Nam’.

Về ý nghĩa của việc người dân, nhất là giới trẻ, cần nắm được sự kiện 17/2/1979 nói riêng và những trang sử của quốc gia, kể cả những thăng trầm của dân tộc, nhà vận động văn hóa sách ở nông thôn Việt Nam nói:

“Những năm tháng, giai đoạn, những tấm thảm sử của đất nước, nếu người dân không biết, chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở chính mình là một đất nước đánh lại, chống lại được ngoại xâm, trước hết chúng ta phải tự cường, tự lực, phải có sức mạnh và phải biết đến những tấm thảm sử của dân tộc để chúng ta cùng nhau lao động, học tập, cùng nhau đặt nền tảng cho sự phát triển của quốc gia, để chúng ta có một sức mạnh…

“Bản thân sức mạnh là sự tự kháng đối với những thế lực mà muốn bành trướng, xâm chiếm quốc gia, thành ra việc chúng ta phải nhắc lại những câu chuyện của lịch sử là nghiễm nhiên và mỗi chúng ta phải nỗ lực.

“Nếu trường hợp sách giáo khoa thời gian tới người ta chưa làm, thì chúng ta phải tạo áp lực xã hội, tạo dư luận để buộc người ta phải đưa vào. Đấy là chuyện đương nhiên.

“Còn một mặt nữa, với tư cách công dân, những người hiểu biết… phải biết phổ biến nó, nói với những người xung quanh mình, nói với những đứa trẻ, với đồng nghiệp, với bạn bè của mình để sự nhận biết về lịch sử được lan truyền trong dân chúng là việc nghiễm nhiên,” ông Nguyễn Quang Thạch nói với BBC hôm thứ Sáu.

Quý vị có thể bấm vào đường dẫn này để theo dõi toàn văn cuộc trao đổi giữa BBC với ông Nguyễn Quang Thạch hôm 17/2/2017.

Em dậy sớm để nghe lời chim hót

Facebook:  Kiều Minh Huệ shared a link.
Em dậy sớm để nghe lời chim hót

Mừng mặt trời trở lại với phương Đông
Đón nắng mai cho má thắm thêm hồng
Và gọi gió mịn màng qua lối cỏ
Em dậy sớm vòm trời xanh chưa tỏ
Sương mù còn mắc võng giữa hàng cây
Bên ô vuông cửa sổ đứng gọi ngày
Vài ánh sáng đến thay vài bóng tối
Em dậy sớm cho niềm vui tiếp nối
Sau đêm dài lạnh lẽo cả không gian
Để nơi em trời lại gởi tơ vàng
Và đất nước long lanh dâng sắc biếc…

Kiều Chí Nhân

“NHỮNG NGƯỜI SẴN SÀNG CHỊU CHẾT”

“NHỮNG NGƯỜI SẴN SÀNG CHỊU CHẾT”

Liên tiếp trong mấy ngày liền, tại Phòng Công Lý và Hòa Bình DCCT, tôi được gặp chị Bùi Thị Minh Hằng vừa được thả tù về, rồi cha Đặng Hữu Nam cùng với một đoàn Giáo Dân ngược chuyến xe vào Nam. Và hôm qua hôm kia xem các clip video “chuyến đi vạn hành” của cha Nguyễn Đình Thục và bà con Song Ngọc từ Nghệ An vào Hà Tĩnh để kiện Formosa. Tất cả những anh chị em ấy đều có chung một tinh thần: không sợ tù tội, không sợ bị tấn công, không sợ bị vu khống xỉ nhục, không sợ cả cái chết !

Công bằng mà nói, họ chỉ là những Linh Mục thấp mập hoặc gầy gò, những bà mẹ, những chị em, những bạn trẻ giản dị bình thường ta có thể gặp ngoài đường,trong khu xóm, ngay bên cạnh nhà của ta. Không có một miếng võ nào để hộ thân, không có một mẩu vũ khí nào để tự vệ. Trên tay một xâu chuỗi Mai Khôi, trên miệng một lời Thánh Ca da diết “Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam…” Vậy mà sao họ lại có thể thẳng thắn nói lời cám ơn cán bộ nhà tù đã rèn luyện họ thêm “chân được cứng, đá phải mềm” ? Vậy mà sao họ lại có thể sẵn sàng để cho hàng trăm kẻ hung hăng và trang bị dữ dằn lừa gọn vào bẫy, vây lại như một đàn cừu non, hè nhau xông đến tấn công, họ chỉ í ới gọi bảo nhau “ngồi xuống, ngồi xuống” rồi bật lên tiếng cầu nguyện đau đến chảy máu bên ngoài, xé lòng bên trong ?

Có bài báo nào đó đã viết về họ như là một “hành trình đòi quyền sống trong nỗi chết”. Nghe kinh khủng quá, nhưng đó là sự thật ! Họ làm cho chúng ta rưng rưng kính phục và tự hào, rồi như được khơi lên sâu trong lòng một sự can đảm cần thiết để hiệp thông, để sát cánh với họ chứ không thể tiếp tục tụ thủ bàng quantrong một nỗi e sợ ngấm ngầm âm ỉ được khéo léo che giấu cho đỡ xấu hổ !

Hôm nay, xem lại các video cảnh bà con Song Ngọc quây quần trong sân Nhà Xứ Đông Tháp, tôi thấy nghèn nghẹn trong cổ họng và ứa nước mắt, từ cha xứ đến bà con Giáo Dân đều bảo nhau cúi đầu vâng lời Bề Trên để trở về nhà. Vâng, họ đã đành phải trở về nhà cho dẫu họ tỏ ra không hãi sợ chút nào những gì vừa trải qua, họ bảo nhau sẽ có cách đấu tranh khác với chính quyền, với Formosa, vẫn hoàn toàn bất bạo động, vẫn sẵn sàng chịu bách hại kinh khiếp hơn nữa, chỉ để cho cả nước, cho cả thế giới thấy họ có chính nghĩa, và họ quyết sống chết vì Công Lý và Sự Thật…

Tin mới nhất nhận được từ Tin Mừng cho Người Nghèo, cha già Lê Đăng Niêm của Giáo Xứ Thủ Thiêm báo tin ngày mai nhà nước cho xe đến ủi sập ngôi trường học của Giáo Xứ, cha mời gọi lúc 7g sáng ngày 17 tháng 2, mọi người hãy kéo đến hiệp thông với cha, với các Nữ Tu Mến Thánh Giá và bà con Giáo Dân. Cha già bảo “sẽ mặc áo chùng thâm, ngồi xe lăn ngay tại vị trí mà nhà cầm quyền muốn bình địa”…

Đến đây thì tôi nhớ lại biến cố năm 1975, ngược dòng thời gian đến 42 năm. Mùa Chay năm ấy, một Linh Mục Dòng Đa Minh giảng thuyết nhiều ngày liền thật hùng hồn thu hút tại Nhà Thờ Đức Bà Paris. Rất nhanh, các bài giảng được in ra xuất bản với tựa đề “Contre toute espérance”. Có ai đó cầm được một bản từ Pháp về tới Sàigòn trong những ngày đạn bom không còn ở vùng hỏa tuyến xa xôi, nhưng đã tràn về đến ngoại ô, đến cửa ngõ thủ đô miền Nam.

Cha Jean Marie Trần Văn Phán, Dòng Phanxicô ở Đakao, đã dịch rất nhanh tập sách với tựa đề “Tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông”. Câu này lấy từ Thư Rôma chương 4 câu 8, bản dịch tiếng Anh là: “Who in hope believed against hope”, bản dịch tiếng Pháp là:“Espérant contre toute espérance, il crut”, bản dịch tiếng Việt của Nhóm CGKPV là: “Mặc dầu ông Abraham không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin”. Xem ra cách dịch thoát ý của cha Phán tuy không theo sát các bản dịch Tân Ước nhưng lại lột tả được tinh thần toàn bộ bài giảng của tác giả Bernard Bro.

Tập sách được quay “roneo chui”, phổ biến ngay trong giới Linh Mục Tu Sĩ Sàigòn dạo ấy. Dù vậy, hình như cha Phán chưa hài lòng, ngay sau ngày mất Sàigòn, khi mọi người còn đang ngơ ngác, thậm chí có phần hoảng loạn vì diễn tiến lịch sử quá nhanh, quá bi đát và tàn bạo, cha sang nhà chúng tôi chỉ cách Nhà Thờ khoảng 300m, gặp ba tôi, ông Lê Văn Lộc, để bàn về một bản dịch mới, chu đáo cẩn trọng hơn. Chỉ trong khoảng mấy tháng, ba tôi đã dịch xong, nhanh nhưng rất kỹ lưỡng. Và thật bất ngờ cho tôi là thằng bé út 17 tuổi, học giỏi môn Văn, được ba tôi giao một trách nhiệm hết sức nặng nề mà vinh dự là giúp ông biên tập câu văn lại cho nó ra văn phong tiếng Việt, xuôi chảy mà không phản nghĩa nguyên tác. Ba tôi chọn dịch tựa đề ngắn hơn, mạnh hơn, lúc đầu là “Niềm cậy trông bất chấp tuyệt vọng”, rồi sau ông lại đổi ngắn hơn nữa, mạnh hơn nữa “Niềm cậy trông bất khuất”.

Và tôi đã may mắn được tiếp cận với một bộ bài giảng tuyệt vời, không chỉ về ý nghĩa Thần Học sâu xa độc đáo mà còn về cả những minh họa sống động của cuộc đời cho những giá trị Tin Mừng Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại khốn khổ bi thương ở mọi thời và ở mọi nơi, ám hợp ngay cả với hoàn cảnh đất nước quê hương Việt Nam chúng ta vừa lọt vào tay những người CS vô thần.

Bản dịch được chính ba tôi đánh máy lưu giữ trong nhà như một di sản trong khoảng năm 1978. Sau khi ba tôi mất năm 1988, tôi đi TNXP để đủ điều kiện vào Đại Chủng Viện Giuse, nhưng rồi cũng không xong, tôi xin chuyển sang DCCT. Tôi đã mang theo 6 tập sách đánh máy chữ này vào Nhà Tập năm 1991 để dùng như sách thiêng liêng. Đến 1998, làm Phó Tế về phục vụ ở vùng quê Vĩnh Long và Đồng Tháp, tôi bắt đầu mỗi ngày một chút, lọ mọ gõ mổ cò bằng bàn phím computer rồi đem đi photo, đóng bìa như một cuốn sách ấn hành đẹp.

Hôm nay, tôi xin trích một đoạn ngắn trong tập sách dịch tuyệt vời ấy để tỏ lòng biết ơn và để tôn vinh những con người Việt Nam nhỏ bé, gầy gò, hiền hòa, bình dị, đàn ông và đàn bà, còn trẻ hay đã già, còn nhanh nhẹn đi lại hay đã phải ngồi xe lăn, ở khắp mọi miền đất nước quê hương trong nhiều năm qua, và đặc biệt trong những ngày tháng đầu xuân này, đã hầu như “tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông”, phải nói họ đã có được một “niềm cậy trông bất khuất” trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người đời, để trở thành “những người sẵn sàng chịu chết” cho Lẽ Phải.

.

Xin trích bài giảng của cha Bernard Bro:

Văn hào Nga hiện đại Andrei Siniavski ( 1925 – 1997 ) đã từng mang án khổ sai, phải sống lưu vong và dạy học tại Pháp. Với nhãn quan của một người không có tín ngưỡng, ông đã viết về niềm tin Kitô giáo của các tín hữu xuyên qua các cuộc bách hại mọi thời và mọi nơi trên thế giới như sau:

Trong đội ngũ của họ, hạng người khôn ngoan không có là bao. Tiểu sử của họ là một chuỗi dài những cuộc tuẫn đạo và tử vong nặng nề của một đoàn quân chỉ biết noi gương Thiên Chúa của họ. Đó là những chiến sĩ phô bày trước thế gian những vết sẹo và thương tích như những dấu hiệu hiên ngang, tự hào và vinh quang.

Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, cả giới hạ lưu bần cùng, cả bọn trọng phạm. Thế nhưng, họ đều đã nhận lấy thập giá. Bất cứ ai cũng đều có thể gia nhập đội ngũ của họ, người dốt nát cũng như kẻ đã từng phạm tội, chỉ với một điều kiện là sẵn sàng nhảy vào lửa.

Đó là thứ tôn giáo của một niềm hy vọng lớn nhất phát sinh từ cảnh tuyệt vọng. Không một tôn giáo nào trên thế giới này lại có được sự tiếp cận mật thiết nhất với tử thần nhiều như Kitô giáo. Mà không phải là họ không biết sợ hãi đâu ! Họ không hề chiêm ngưỡng sự vĩnh cửu, nhưng họ chiếm lấy sự vĩnh cửu bằng cách phấn đấu với một thứ vũ khí duy nhất; đó là sẵn sàng chịu chết !”

Lm. QUANG UY, DCCT, đêm 16.2.2017

Tạ ơn đời – Tạ ơn bạn gần xa thăm hỏi.

Tạ ơn đời – Tạ ơn bạn gần xa thăm hỏi.

Tạ ơn đời hôm nay Tôi còn sống
Mắt còn nhìn, còn đọc được Emails

 Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu.

 Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả !

 THAM BAN

Tạ ơn các bạn gần xa
Hằng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều.
Emails nhận được bao nhiêu
Là bao tình cảm thương yêu nồng nàn. 

 

 

BẠN TA

Thăm hỏi bạn, biết rằng người còn đó

Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi
Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi
Vui được biết, Bạn bình an vui sống

Đời trần thế ví như là huyễn mộng

Kiếp nhân sinh là sinh tử, tử sinh
Quý nhau chăng chỉ ở một chữ Tình
Tình cha mẹ, tình vợ chồng, bè bạn


Tình cảm ấy ta không treo giá bán
Khi con tim không đơn vị đo lường
Bàn cân nào, cân được chữ Yêu Thương
Thế mới biết Thương Yêu là vô giá!


Cuộc đời dẫu đảo điên, nhiều dối trá
Nếu chúng ta thực sự mến thương nhau
Thì tiếc chi một lời nói, câu chào
Hãy trao gửi, sưởi ấm tình nhân thế


Có hơn không dù biết rằng chậm trễ
Vì con người ai cũng thích yêu thương
Được thương người và cũng được người thương
Hãy bày tỏ yêu thương dù có chậm


Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến


Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Người còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

 
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.

Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.

Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: “Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông”. Nói xong, người hành khất ném cả ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.

Ðã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.

Không gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.

Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.

Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?

Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: “Cho thì có hạnh phúc hơn nhận lãnh”.

Cho là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn

    Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ Mai gởi

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 7 thường niên năm A 19/02/2017

 Tin Mừng: (Mt 5: 17-37)

 Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.

 “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.

  “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.

 “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.

  “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”.Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”

                                  &    &   &

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ”

“Hạt bụi rớt xuống đời, xin lẫn vào nhau…”

(dẫn từ thơ Bùi Thanh Tuấn)

 Mt 5: 38-48 

  Mai Tá lược dịch

Địa đàng cuộc sống, là chốn miền để gợi nhớ. Hạt bụi tình người, là chất liệu để yêu thương. Thương yêu, điều Chúa nhắc nhở, ở Tin Mừng, vẫn được thánh sử ghi chú, vẫn lâu nay.

Nhiều người, rất lấy làm lạ khi được bảo: Tin Mừng thánh sử viết, là bản văn viết không vào thời Chúa hoạt động, hoặc ngay sau ngày Chúa sống lại, nhưng được viết vào nhiều thập niên sau, như: “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chẳng hạn, đã chỉ được ghi chép vào giữa thập niên ’80, ở thế kỷ đầu. Và, người ghi chép “Tin Mừng” này không phải là Mát-thêu-thu-thuế thời Chúa sống. Cũng không là một trong số mười hai tông đồ, gần gũi Chúa. Mátthêu đây là học giả Do thái hiểu biết nhiều tiếng Hy Lạp, xuất thân sinh sống tại một quận ở ngoại ô Giêrusalem, mà người thời ấy có thói quen gọi là “thày dạy”, hoặc đấng bậc “tư tế”.

Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu”, là vị thức giả từng hồi hướng về với Đạo Chúa, ngang qua các thừa sai của Chúa.Thánh sử Mát-thêu học được nhiều điều, qua hành động và cuộc sống từ các Đạo hữu theo chân Chúa. Đặc biệt, là các vị có liên hệ mật thiết với thánh Phêrô tông đồ, thời tiên khởi. Khi ghi chép Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, tác giả đã ở vào độ tuổi cao niên khá cứng, nhưng ông lại là người có tầm nhìn thông thoáng, thi vị. Ông đề cập nhiều đến những con người và người con có tâm tư chân phương, bình dị nhưng có tư cách.

Sử gia Mátthêu, là cây viết rất sáng giá. Thánh nhân, tuy chung đụng nhiều với người Do thái, nhưng dùng tiếng Hy Lạp để ghi chép Tin Mừng. Và, qua văn phong văn thể cùng lập trường chuyên chính rất Kitô, nên các nhà chú giải cho rằng tác giả là một trong các Kitô-hữu đầu tiên, ở thời ấy.

Tin Mừng do tác giả viết, lại gồm lời lẽ ân cần, gửi đến các đấng bậc khôn ngoan/thông thái ở Israel. Nên, nhờ đó ta học được rất nhiều điều qua các dạng thức, như: lời sấm, dụ ngôn, phương châm, hoặc tư vấn, nhất nhất đều nhấn mạnh đến điều Chúa giảng rao cho mọi người. Bởi thế nên, người đọc nhận ra những 73 lần tác giả lập đi lập lại cụm từ “tông đồ”, ở “Tin Mừng” này.

Và vì thế, người đọc cũng nên hiểu cụm từ “tông đồ” theo nghĩa các “đấng bậc khôn ngoan/uyên bác” chuyên học hỏi những điều hay lẽ phải, do từ Chúa phán ra. Và cũng vậy, người đọc đừng nên hiểu rằng tác giả “Tin Mừng” là nhà thức giả thuộc tầm cỡ đại học, chuyên ngồi trong phòng lạnh để viết. Hãy cứ tưởng tượng rằng: khi ghi chép “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” tác giả đã suy tư dưới ánh đèn dầu leo lét, với tâm tình nguyện cầu trong bầu khí ẩm ướt, nặc mùi khô cháy có lưới cá đang hơ hóng, ở đâu đó…

Nay có người hỏi: thánh sử Mát-thêu muốn chuyển tải điều gì mới mẻ, khi ghi chép Lời Chúa?

Hầu hết các cộng đoàn tin theo Chúa sống ở Giêrusalem, đều mang tính chất rất “Do thái”. Hết thảy đều thấy nơi Đức Giêsu một Môsê rất mới để các vị nghe lời. Vì, xét cho cùng, Ngài còn mới hơn cả chính tiên tri Môsê, bởi Ngài là Đấng luôn chủ trương những điều mới mẻ, nơi Lề Luật. Và, điều mới mẻ khác nữa, là: Ngài không cất bỏ đi yếu tố quan trọng sẵn có từ hậu duệ của Đavít. Và, mọi người còn nhận ra nơi Đức Giêsu, hệt như ở Môsê và Đavít, ảnh hình của Đấng Bậc Hiền Từ, rất đặc biệt. Đặc biệt, là bởi người người đều nhận thấy rằng: qua Ngài và ở nơi Ngài “Ơn Cứu Độ” đã đến, là đến với cả Dân ngoại nữa. Ngài đến, qua trung gian Israel hoặc những người Do thái, tức: những người lúc ấy vẫn ở trong tư thế cách xa và tách rời khỏi dân-được-chọn.

Và, họ coi đó như ân sủng riêng tư, nhận từ Chúa. Bởi thế nên, trở thành người hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, phải là người Do thái tích cực, phóng khoáng, những người chủ trương tuân giữ Luật Torah rất Đạo. Từ đó, cộng đoàn dân Chúa đã thấy mọi người tập trung nhấn mạnh đến Luật Torah. Quyết tuân giữ Lề Luật cách kiên trì, nhưng thông thoáng. Tuân và giữ, theo tinh thần tự do của người con Đức Chúa, mới đúng.

Vốn đặt nền tảng vững vàng lên truyền thống rao giảng kiểu thánh Phaolô Tông đồ, Hội thánh Chúa khi ấy đã có tầm nhìn rất khác lạ về Lề Luật. Và, Hội thánh đã coi Đức Giêsu là Đấng Bậc rất Do thái, chủ trương giữ Luật Torah thật đúng qui cách nhưng tự do, phóng khoáng, cho đúng nghĩa. Kể từ đó, Hội thánh vốn có sẵn tinh thần giảng rao của thánh Phaolô, lại đã khám phá ra rằng: tự do con cái Chúa là một hiện hữu rất đích thực, khi ta tuân thủ Lề Luật, rất Torah.

Là người Do thái sống ở miền Bắc xứ Palestin thời tiên khởi, thánh sử Mát-thêu xuất xứ từ một quá trình cuộc sống, có lập trường khá bảo thủ. Chí ít, là truyền thống giữ luật đúng qui cách, như Chúa dạy. Thánh sử cũng lo rằng nhiều truyền thống có thể sẽ mai một đi nếu không có người bận tâm lo duy trì nó. Và, thánh sử còn một mối lo ngại nữa, cứ e rằng: rồi ra sứ vụ tông đồ rao giảng kiểu Phaolô thánh nhân, có thể sẽ khiến truyền thống của người Do thái trở thành thứ yếu, mất đi tầm quan trọng. Do đó, thánh sử gia đã cảm thông với tình huống mà cộng đoàn Hội thánh ở Giêrusalem đang sống, dù cho thánh sử không thuộc về cộng đoàn này.

Cũng vì thế, tác giả quyết tâm tái cấu trúc cộng đoàn theo kiểu cộng đoàn dân Chúa ở Giuđêa, nghĩa là: không chỉ rập theo khuôn phép cũ của người Do thái, nhưng còn phổ biến lối sống của cộng đoàn Hội thánh Giêrusalem, hoặc có khuynh hướng mục vụ rao giảng theo kiểu của thánh Phaolô. Bởi thế nên, người đọc nhận ra rằng: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” cũng mang dáng vẻ bảo thủ qua việc đòi mọi người giữ luật cho đúng qui cách. Chí ít, là cải cách niềm tin của người Do thái theo khuôn khổ “chiên lạc rời khỏi ràn nhà Israel”. Thành thử, tinh thần của thánh sử và của cộng đoàn nơi thánh nhân sinh hoạt vẫn có khả năng duy trì mối liên kết chặt chẽ với đền thờ người Do thái.

Tuy nhiên, thánh sử Mát-thêu không quên rằng: chính Đức Kitô mới là Đấng ta cần tin vào Ngài. Thánh sử diễn tả lập trường này theo lối viết giản đơn, rất thông thường, rằng: thay vì ta áp dụng nguyên tắc đền và bù như: “mắt đền mắt”, “răng đền răng”, tác giả lại khuyên người đọc Tin Mừng của ngài, hãy nên sử dụng đường lối bất-bạo-động. Và, thay vì phòng thủ hoặc trả thù, thánh sử đề nghị ta nên khoan dung, độ lượng.

Thay vì lo cho riêng mình, hãy quan tâm ái ngại đến người khác. Với thánh sử Mát-thêu, đây không phải là lạc quan sáng suốt, cũng chẳng là đường lối tư riêng độc quyền của người Hy Lạp, nghĩa là đường và lối chỉ chú trọng vào cuộc sống tư riêng của người khác, thôi. Nhưng, là: hãy áp dụng luật Torah theo qui cách thương yêu, như Chúa đã khuyên dạy.

Điều cốt thiết mà thánh sử nhận ra nơi lời dạy của Chúa, là: Ngài là người giữ luật Torah, rất đúng cách. Tuy nhiên, Ngài chú trọng đến tinh thần, chứ không phải chữ viết của Luật. Nói cách khác, người đọc “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể hiểu Luật Torah cho đúng cách, nếu không thi hành lời dạy của Đức Giêsu cũng như cộng đoàn nhỏ bé của Ngài, là Hội thánh thời tiên khởi. Bởi, cộng đoàn Hội thánh mới là người sống thực Luật Torah theo tinh thần Chúa đề ra. Và, thánh sử lại thêm rằng: dân con thành thánh Giêrusalem không chắc đã nhận ra được điều này. Vì thế nên, người đọc “Tin Mừng” có thể kết luận rằng: tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” quả là phóng khoáng cũng rất đúng.

Vậy, người đọc hôm nay học hỏi được điều gì qua sự việc này?

So sánh kinh nghiệm của các thừa sai tông đồ thời tiên khởi với kinh nghiệm thời Hậu-Công Đồng Vatican II, dân con Hội thánh nhận ra được điều gì? Ta có nhận ra được năng lực và tự do con cái Chúa nơi cộng đoàn Hội thánh tiên khởi theo kiểu thánh Phaolô không? Phải chăng, so sánh kinh nghiệm về cố gắng ‘tái lập’ di sản được bảo tồn, đáng yêu từ một truyền thống rất đúng đắn? Truyền thống, có là qui cách mà tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” hằng cảnh báo Hội thánh hãy trở về với tính chất Do thái, ở lai thời không?

Nếu tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” nay còn sống, hẳn ông sẽ yêu cầu các đấng bậc vị vọng trong Hội thánh hôm nay, hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tái tục truyền thống đã có từ thời tiên khởi? Và, Hội thánh cũng nên nhìn vào Đức Giêsu hơn là các truyền thống mà các ngài muốn duy trì, bảo vệ. Hẳn rằng thánh sử Mát-thêu cũng sẽ yêu cầu mọi thành viên Hội thánh hôm nay hãy có tầm nhìn phóng khoáng và cởi mở, tốt hơn là ở lại với truyền thống xưa/cũ. Như Đức Giêsu khi xưa, vẫn đứng về phía những người duy trì Luật Torah, bằng tinh thần chứ không theo từng chữ. Và, ảnh hình Chúa chấp nhận dìm mình thanh tẩy nơi sông Giođan, sẽ là bằng chứng điển hình cho việc tuân giữ Luật Torah, rất tự do lại có tinh thần thương yêu đúng qui cách.

Thật khó mà thiết-lập được quân bình cho cơn sóng dồn và sức ép từ Lề Luật, thế mà Ngài vẫn chấp nhận dầm mình dưới giòng sông Giođan để chứng tỏ tinh thần giữ Luật đúng cách. Nhưng, tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” vẫn sẽ là vị học giả cao niên, chín chắn. Là vị thức giả hiểu rõ hơn ai hết tinh thần của người Do thái. Hiểu Đức Kitô và người nghèo, hơn ai hết. Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chính là người có được nhận thức mới về sự khôn ngoan, thông suốt cho mỗi người chúng ta.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  Mai Tá lược dịch

Từng ngày nao, nồng-nàn từng câu ca dao,

httpv://www.youtube.com/watch?v=cJIScRWJcQY

Dòng thời gian – Phan Đình Tùng (st: Nguyễn Hải Phong)

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 7 mùa Thường niên năm A 19/02/2017

“Từng ngày nao, nồng-nàn từng câu ca dao”,

Từng ngày lặng-lẽ sống với kỷ-niệm ngọt ngào.

Mình quên những giấc chiêm bao.

Qua rồi một thời yêu đương sớm tối

Giữa thênh-thang bầu trờ, nắng gió muôn nơi.”

(Nguyễn Hải Phong – Giòng Thời Gian)

(Mt 5: 12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Với nhiều người, quả y như rằng: đời mình là như thế đấy. Với một số người khác, thì: cũng qua rồi “một thời yêu đương sớm tối giữa thênh-thang bầu trời”, rất khôn nguôi.

Với tất cả mọi người, thì: cuộc đời người thường có nghĩa: “giữa thêng-thang bầu trời”, người thời nay không còn nhìn thấy “một thời yêu thương sớm tối” nữa, thì làm sao thấy được cuộc sống xã hội hôm nay, ngày ngày gặp toàn chuyện trái khuấy, kỳ lạ như nhận-định của ai đó trên mạng vi-tính có những lời lẽ sau đây:

“Xã hội này lạ lắm! Con người nay vui lắm. Giới bác-sĩ, thì chỉ muốn con bệnh mình cứ bệnh mãi, bệnh hoài để còn tìm đến mà chữa-trị. Lớp kỹ-sư, lại cứ muốn đồ đạc trong nhà/ngoài ngõ cứ bị hư. Thợ làm răng, lại những muốn người bị bệnh rang sâu, sứt mẻ hoặc vỡ/bể để còn làm những bộ rang giả khá đắt tiền. Đến như thày/cô, lại vẫn cứ mong sao cho đám trẻ mãi mãi khờ-khạo cứ là dễ bảo, để dạy kèm tăng học-lực. Thợ xây-dựng, thì cứ muốn nhà cửa hư-hỏng suốt, để còn xây thêm và chữa mãi không thôi. Chủ tiệm áo quan vẫn muốn nhiều người chết tốt, để bán hòm. Duy, có mỗi tay ăn trộm lại cứ muốn mọi người khấm khá hơn xưa để có cơ-hội mà thăm viếng, kiếm chút cháo… Thế đó, là xã hội thời hôm nay và mai ngày, cứ thế mãi.”

 Thế, Giáo hội phụng thờ Đức Chúa, thì sao?

Vâng. Đây là câu-hỏi tuy nghe nhiều vẫn thấy hay hay, nên trả lời cho đúng đắn! Trả lời vấn-nạn ở đây, quả thật không dễ. Không dễ chút nào, bởi: hôm nay đây, trong lòng Hội thánh Công-giáo được tiếng là “Giáo-hội duy-nhất, thánh-thiện và tông-tryền”, rày đã thấy có dấu-hiệu rạn-nứt/bất-đồng giữa một số hồng-y giáo-chủ và Giáo-hoàng cùng một gốc gác với Giáo Tông, Giáo . Không tin ư?

Vậy thì, mời bạn và tôi, ta cứ để mắt nhìn vào một vài sự-kiện mới xảy ra ở La Mã, rất Vaticăng.

 Nhưng, trước khi đi vào tìm hiểu chi-tiết về một “rạn-nứt/bất-đồng trong Giáo hội, cũng mời bạn và tôi, ta nghe tiếp nhạc-bản vừa trích-dẫn để có hứng mà bàn cho kỹ. Nhạc bản “Giòng Thời-gian” lại có những ca-từ đầy thi-tứ như sau:

Thời gian qua đi… bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
Tình yêu nơi đâu…

vội vàng tìm hoài không thấu…
Thôi… dừng làm chi… rồi lại đi…
Bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…

ngày tháng sao vội đi đôi khi không như ý…

trôi qua bao nhiêu năm nữa có lẽ ta không ngây ngô… như bây giờ…
Bao nhiêu cho vừa, từng ngày và từng giờ…

cành lá sao lặng im như thôi…
không mong nhớ…

cho ta bao nhiêu năm nữa có lẽ bao nhiêu đây thôi…
Cho ta nhìn thời gian trôi… “

(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Rồi cứ thế, ca từ của bài hát cứ nhẩn nha đưa ta về cõi đường dài, “nhiều chông gai” có những“tháng ngày buồn ở lại”, ngày vui mau phai” có “cơn đau nặng nề”, “khốn khó lê thế”… rất như sau:

 “Đường còn dài… và còn nhiều hơn chông gai…
Rồi thì lặng lẽ những tháng ngày buồn ở lại…

ngày vui dễ lắng… mau phai…
Mai về nhìn lại cuộc đời vui ghê…

về nhìn lại yêu thương vẫn thế…

giữa cơn đau nặng nề…

khốn khó lê thê…
Thời gian qua đi…

bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Vâng. Cuộc đời người là như thế. Thế nhưng, bên trong Giáo hội Công giáo hôm nay, cũng thấy xuất-hiện “nhưng cơn đau nặng nề, lê thê, khốn khó. Khốn và khó, nhưng bài viết bên dưới từng bật mí những bí mật sau đây:

“Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại khiến cho các viên chức Vaticăng ngỡ ngàng khi ngài chúc mừng Giáng sinh 2016 bằng lời loan báo sẽ có cải-tổ Giáo-triều Rôma và cái-gọi-là “những hành-xử đầy cởi mở”, “việc giấu diếm” và các loại ảnh-hưởng xấu xuất tự chống-đối đang gặp.

 Ngỏ lời với các hồng-y và giới chức lão-thành của Giáo-triều Rôma tập-họp tại Vaticăng hôm ấy, Đức Phanxicô nói: sở dĩ có sự cải-tân Giáo triều này là do yêu-cầu của các hồng-y từng bàn-thảo trước mật-hội năm 2013. Đức Giáo-hoàng có liệt-kê 12 tiêu-chuẩn hướng-dẫn công-cuộc cải-tổ này và ngài cũng nói đến “ba thể-loại phản-chống” mà Giáo-hội đang gặp. Và, để trả lời với những người cho rằng cuộc cải-tổ này sẽ thành-tựu một cách không đáng kể và các vị ấy cũng chỉ đưa ra một số tiến triển không là bao.

 Đây là năm thứ 3 qua đó vị Giáo Hoàng người Argentina này đi sâu vào khía cạnh chính cuộc sống của Giáo triều Rôma, tức dịch-vụ dân-sự của Giáo hoàng. Năm 2014, ngài có vạch ra “15 căn bệnh” hoặc “yếu điểm” mà các giới chức trong Giáo triều đang gặp. Năm 2015, ngài lại đưa ra các phương thuốc giải-trừ cho các tật bệnh này bằng cách liệt kê danh-sách các đặc-tính thiết-yếu mà Giáo-triều cần nắm vững để trau-dồi.

 Năm nay 2016, Đức Phanxicô lại đóng khung cuộc nói chuyện của ngài quanh vấn-đề linh-đạo nhập-thể. Nhân lúc diễn-tả Giáng Sinh như lễ hội của “tình thương yêu khiêm-hạ của Thiên Chúa” đặt nặng lên lập-luận đầy khoa-học-tính của con người, ngài nhắc mọi người rằng: Thiên Chúa chọn sinh ra trong cảnh thấp hèn, vì Ngài muốn mọi người yêu mến Ngài” và vốn dĩ là người bé nhỏ, mỏng dòn, yếu ớt nên không ai cảm thấy xấu hổ khi đến với Ngài, không ai hãi sợ Ngài hết.

 Đức Phanxicô nói: lập-luận đầy khoa-học của Thiên-Chúa hối-thúc lập-luận đầy lý lẽ của thế-gian, thứ lập-luận của quyền-lực, đội binh, rất Pharisêu, đầy cơ-hội hoặc xác-định. Đức Giáo hoàng còn nói rõ rằng đây là thứ lập-luận thật sự tạo sức sống cho Giáo-triều Rôma và củng-cố việc cải-tổ rất cần-thiết…    

      Ngài nêu rõ: “Cải tổ” có nghĩa “thuận theo” tin vui an bình của Lời Chúa trong Phúc Âm vốn dĩ phải được công-bố một cách vui tươi đầy can-đảm cho hết mọi người, đặc-biệt là người nghèo và những người bị loại trừ khỏi xã-hội họ đang sống, “phù hợp với các dấu chỉ của thời-đại để ta có thể đáp trả một cách tốt đẹp với nhu-cầu của nam nhân và nữ phụ hôm nay. Điều đó còn có nghĩa “phù hợp” với thừa-tác-vụ của người kế vị thánh Phêrô và hỗ trợ ngài trong chức vụ quan-yếu này…

 Đức Phanxicô còn cho biết: công-cuộc cải-tổ chỉ thành-tựu một cách hiệu-năng nếu được các giới chức đã “cải-tân” chứ không phải các quan-chức mới vào làm. Bởi lẽ, thay đổi nhân-sự không thôi cũng chưa đủ. Cần thiết phải “cải-tân các thành-viên của Giáo-triều cả về mặt linh-thiêng, nhân-bản lẫn chức-nghiệp” nữa. Nếu không có sự “hồi hướng trở về của các vị” này và nếu không chịu “thanh-sạch-hoá thường-xuyên”, thì không thể có cải-tổ được.

 Trong cải tổ, ta luôn gặp các khó khăn, đó là chuyện bình thường và cũng an lành nữa; và ngày hôm nay những việc như thế đều gặp phải “nhiều thể-loại chống-đối” vừa theo cách cởi mở, công khai hoặc có ác ý cũng không chừng…” (X. Gerard O’Connel, Pope Francis speaks about the Reform of the Roman Curia and the Resistance to it, Dispatched 22/12/2016).

Nói cho cùng, thì: cải-tổ nào cũng gai góc, sơ cứng và đôi khi rất khó chịu. Riêng với Giáo hội Công-giáo, 50 năm về trước cũng đã có một cải tổ khá lớn rộng cả một giáo hội qua cái-gọi-là “Công Đồng Vaticăng 2”, chứ không chỉ mỗi Giáo triều Rôma mà thôi; thế nhưng, sau 50 năm có lẻ, mọi chuyện cứ “y nguyên”, vẫn như cũ.

Thành thử, cứ như ca từ của nhạc-bản ta vừa hát, cũng nên lập lại đôi ý-từ cùng ý-tứ những nhắn nhủ mọi người bằng giòng nhạc, cứ hát rằng:

“Tình yêu nơi đâu…

vội vàng tìm hoài không thấu…
Thôi… dừng làm chi… rồi lại đi…
Bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…

ngày tháng sao vội đi đôi khi không như ý…

trôi qua bao nhiêu năm nữa có lẽ ta không ngây ngô… như bây giờ…
Bao nhiêu cho vừa từng ngày và từng giờ…

cành lá sao lặng im như thôi
không mong nhớ…

cho ta bao nhiêu năm nữa có lẽ bao nhiêu đây thôi…
Cho ta nhìn thời gian trôi…”

(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Cứ “nhìn thời gian trôi”, rồi sẽ thấy nhiều thay-đổi. Cứ tìm “Tình yêu nơi đâu”, “vội vàng tìm hoài không thấu”, rồi cũng thấy “bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…” và cứ thấy “ngày tháng vội đi khi không như ý”,… Bởi, Giòng thời gian cứ thế trôi qua, dù con người có phản-chống, cải-tổ hoặc làm gì đi nữa.

Nói thế không để bảo rằng: ta cứ thế mặc kệ mọi chuyện ciễn tiến trong/ngoài xã-hội và giáo-hội. Nói thế, chỉ để nói rằng: thời gian cuộc đời người còn trôi nhanh hơn mọi người tưởng. Thế nên, hay nhất là ta cứ vui hưởng cuộc sống rất hiện tại, dù mai ngày có ra sao, tích-cực hoặc tiêu-cực.

Nói thế, để đề-nghị với bạn và với tôi, ta lại sẽ đi vào vùng trời thánh-hiến có những Lời Vàng của đấng thánh-hiền từng bảo ban như sau:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời

thật lớn lao.”

(Mt 5: 12)

Hãy vui mừng và hớn hở, còn là và sẽ là những gì ta gặp không chỉ là phần thưởng ở trên trời mà thôi. Nhưng đã tỏ hiện ngay tại đây, lúc này ở Nước Trời Hội thánh hôm nay, trong đó mọi người không còn “đi tìm” tình-yêu nữa. Nhưng đã thấy và thực hiện tình yêu ấy cho nhau, suốt mọi ngày, trong đời.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta đi vào vườn hoa châm ngôn và truyện kể để sẽ thấy rằng “giòng thời gian” từng làm cho con người sống vui tươi, hớn hở dù lâu nay trải qua nhiều đoạn đường dài khắc khổ, sầu muộn đến chán nản.

Châm ngôn và truyện kể ở trong đời là những kinh nghiệm từng trải mà người đi trước viết lại cho người đi sau để thưởng lãm, suy-tư hầu có quyết-tâm sống những ngày dài sắp xảy đến. Châm ngôn và truyện kể, còn là những kể lể về thời gian trải dài trong cuộc sống, vẫn “cần đến một chữ duyên” như sau:

 “CUỘC SỐNG CŨNG CẦN MỘT CHỮ DUYÊN

1. Giữa người với người, có thể gần, cũng có thể xa.
Giữa việc với việc, có thể phức tạp, cũng có thể giản đơn.
Giữa tình cảm với nhau, có thể sâu, cũng có thể cạn.
2. Đừng mong cầu mọi người đối xử với mình đặc biệt, cũng chẳng nên hy vọng họ sẽ bớt đi những toan tính.
3. Cuộc sống có người nói ít làm nhiều, cũng sẽ có kẻ chỉ biết hoa chân múa tay. Bạn không nên quá bận lòng, chỉ cần quản tốt việc của bản thân, còn lại mọi việc hãy thuận theo nhân duyên.
4. Đức Phật từng nói: Với người không có duyên, dù bạn nói bao nhiêu lời cũng là thừa; còn như đã hữu duyên thì chỉ cần xuất hiện, bạn cũng có thể đánh thức mọi giác quan của họ.
5. Có một số việc, vừa phân trần trắng đen đã trở thành quá khứ.
Có một số người, giận hờn vài ngày đã trở thành dĩ vãng.
Có những nỗi đau, vừa cười lên đã tan thành bọt nước.
Có những hoàn cảnh, nhờ chịu chút thương đau mà trở nên kiên cường.
Cuộc sống cũng cần một chữ Duyên
6. Đôi khi hôm nay là việc lớn, ngày mai nhìn lại chẳng có gì đáng kể. Năm nay quan trọng, sang năm sẽ trở thành thứ yếu. Chuyện vĩ đại đời này, đời sau người ta gọi là truyền thuyết.
7. Chúng ta, nhiều nhất cũng chỉ là câu chuyện của một người. Vì thế trong cuộc sống hay công việc, nếu gặp chuyện không vừa ý, hãy nói với bản thân: “Hôm nay sẽ qua đi, ngày mai rồi cũng đến, hãy buông bỏ tất cả để bắt đầu ngày mới!”
8. Trên đời, có một số việc không phải không để tâm, mà để tâm cũng không làm được gì hơn.
9. Cuộc sống không có “Nếu Như”, chỉ có “Hậu Quả” và “Kết Quả”
10. Đón nhận đời mình như thế nào là do bản thân lựa chọn, người khác không thể quyết định thay.
11. Trưởng thành rồi, bạn sẽ biết cách lấy nụ cười đối diện với tất cả.” 
(tác giả ST Sưu tầm)

Nói cho cùng, thì “Giòng thời gian” là giòng chảy gồm nhiều giai-đoạn của cuộc đời làm nên đời người. Giòng chảy ấy, có tốt có xấu, có cả những sự và việc khiến mọi người như bạn và tôi đồng ý hay bất ưng, vui vẻ hay sầu buồn. Tất cả, vẫn chỉ là một quyết tâm. Quyết tâm sống những chuỗi ngày còn lại sau khi gặp nhiều sự việc diễn tiến trong đời mình.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hiên ngang ngẩng đầu nhìn về đằng trước rồi se sẽ hát những ca-từ vừa trích dẫn ở trên mà rằng:

“Đường còn dài… và còn nhiều hơn chông gai…
Rồi thì lặng lẽ những tháng ngày buồn ở lại…

ngày vui dễ lắng… mau phai…
Mai về nhìn lại cuộc đời vui ghê…

về nhìn lại yêu thương vẫn thế…

giữa cơn đau nặng nề…

khốn khó lê thê…
Thời gian qua đi…

bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Vâng. Đường đời vẫn còn dài, nhiều chông gai. Dù đó có là “những tháng ngày buồn” gì đi nữa, hãy cứ trông cậy vào “Giòng thời gian” cứ tuôn chảy mãi không thôi. Tuôn chảy rồi, sẽ thấy cuộc đời vẫn êm ả như những tháng ngày buông trôi thời thơ ấu, rất nên thơ.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và ý-nghĩ thoáng qua

Khi kịp nghe bài hát Giòng thời gian

Của Nguyễn Hải Phong

Rất thường tình.

TÌNH YÊU BIẾN KẺ THÙ THÀNH BẠN HỮU

 TÌNH YÊU BIẾN KẺ THÙ THÀNH BẠN HỮU

 Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.

 Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật).

 Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành.  Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.

 Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen.  Luật mới kiện toàn luật cũ.  Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:

 –      Luật cũ cấm giết người.  Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em.  Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.

–      Luật cũ cấm hành vi ngoại tình.  Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn.  Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…

–      Luật cũ quy định thủ tục li dị.  Luật mới triệt để cấm li dị.

–      Luật cũ cấm thề gian.  Luật mới dạy sống chân thực.  Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.

 Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.

–           Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau.  Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.

–          Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”.  Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ.  Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.

–          Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào.  Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.

 1.  “Hãy yêu kẻ thù”

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu.  Người đã cắt nghĩa rất cụ thể.  Yêu thương kẻ thù là:

–          Làm ơn cho kẻ ghét mình.

–          Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.

–          Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

–          Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.

          Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.

–          Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

 Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời“Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.  “Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.  “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.  Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

 “Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu.  Khó nhưng không phải là không có thể.  Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá.  Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa.  Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế.  Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người.  Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.  Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại.  Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù.  Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

 2.  Tại sao phải yêu kẻ thù?

Yêu người yêu mình thì dễ.  Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao!  Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng.  Lấy đức báo oán, oán tiêu tan.”  Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi.  Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực.  Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại.  Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu.  Những vở kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ.  Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến.  Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc.  Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy.  Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên.  Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết.  Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc.  Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ.  Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.

 Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người.  Giết người đi thì ta ở với ai?  Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi.  Nhân vô thập toàn.  Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh.  Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền.  Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này.  Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.

 3.  Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.

Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn.  Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.  Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư?  Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).

 Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ?  Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi.  Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt.  Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người.  Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối.  Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét.  Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu.  Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ.  Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…  Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).

 Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được.  Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả.  Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ.  Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng: Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?

 Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi.  Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?

 Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.

 Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa.  Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng.  Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người.  Amen.

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Langthangchieutím gởi

NGĂN KIỆN Ở TOÀ ÁN QUỐC GIA, TA KIỆN RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ

From facebook: Phạm Lê Vương Các
NGĂN KIỆN Ở TOÀ ÁN QUỐC GIA, TA KIỆN RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ

Sự kiện hàng ngàn hộ dân ở vùng biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) thực hiện quyền khởi kiện Formosa ra tòa trong một hành trình đẫm máu và nước mắt, buộc những người có lương tri phải tự hỏi rằng: “pháp luật ở đâu, công lý ở đâu?”

Việc ngăn cản và đàn áp người đi khởi kiện của nhà cầm quyền Nghệ An vào ngày hôm qua có phải đã gửi đi thông điệp khuyến khích người dân tự tìm kiếm công lý bằng các hành động “tự xử” ngoài vòng pháp luật?

Tiếp cận dưới góc độ này, thật tình tôi lo cho số phận của nhà cầm quyền hơn là lo cho người dân khởi kiện.

Nhu cầu thể hiện quyền lực và bảo vệ quyền lực có vẻ đã làm cho nhà cầm quyền mất tỉnh táo trong cách nhìn nhận sự việc và giải quyết vấn đề.

Nhưng tiếp cận ở góc độ khác, đối với người dân khởi kiện, công lý môi trường vẫn chưa bế tắc trong vụ việc này, mà vẫn còn con đường pháp lý khác.

Ngăn chặn khởi kiện ở tòa án quốc gia, ta kiện ra tòa án quốc tế.

Khởi kiện Formosa ra Toà Hình Sự Quốc Tế trước đây đã được nhiều luật sư thảo luận, nhưng có vẻ các ý kiến đều cho rằng việc này là rất khó và gần như là bất khả thi, vì trở ngại chính quyền Việt Nam vẫn chưa công nhận thẩm quyền xét xử của Toà án Hình sự Quốc tế, dẫn đến việc Toà án quốc tế sẽ nhanh chóng từ chối thụ lý đơn kiện.

Vấn đề khởi kiện Formosa ra Tòa án Hình sự Quốc tế, giờ đây không phải nằm ở điểm thụ lý hay không. Cũng giống như người dân Nghệ An đi khởi kiện, họ đã nhìn thấy trước việc sẽ bị chặn đường, bị đánh đập, và tòa án Việt Nam cũng sẽ bác đơn kiện của họ, nhưng đã không làm họ dừng bước đến toà án. Vậy điều gì đã thôi thúc họ đi kiện?

Câu trả lời cũng là thông điệp họ gửi tới tất cả người dân Việt Nam: Họ đã không im lặng và bất động trước tội ác môi trường của Formosa.

“Hãy giúp chúng tôi kiện Formosa”- là lời thỉnh cầu của những con người văn minh, đang tìm kiếm công lý bằng con đường luật pháp. Một nhu cầu đòi hỏi công lý như vậy xứng đáng nhận được đồng hành của tất cả chúng ta, đặc biệt là giới luật sư.

Giới luật sư Việt Nam hãy tiếp tục hướng dẫn, hỗ trợ các nạn nhân Formosa khởi kiện ra Tòa án quốc tế. Toà án Hình sự Quốc tế có thụ lý vụ việc hay không là không quan trọng nhưng chúng ta vẫn cứ kiện.

Khởi kiện Formosa ra Toà án Hình sự Quốc tế giờ đây như là một mệnh lệnh không thể không thực hiện vì đây là bộ mặt của quốc gia Việt Nam, thể hiện bộ mặt của cả một thế hệ người Việt Nam, và thể hiện bộ mặt của giới Luật sư Việt Nam. Hơn hết, nó thể hiện tinh thần yêu chuộng công lý dựa trên nền tảng pháp luật của người dân Việt Nam.

Qua việc xây dựng hồ sơ khởi kiện này, chúng ta sẽ cho thế giới thấy rõ tội ác môi trường của Formosa và những kẻ đang bao che cho tội ác này. Cho dù Toà án quốc tế không có thẩm quyền xử lý, nhưng cộng đồng quốc tế yêu chuộng công lý sẽ đồng hành cùng chúng ta có biện pháp xử lý khác.

Bỡi lẽ, chúng ta vẫn chưa thể hiện hết quyền lực của mình. Quyền lực của chúng ta-những người không có vũ khí: “hãy nói không với sản phẩm của Formosa trên toàn cầu”!

Image may contain: 3 people, people smiling, outdoor