Vươn mình, nhìn từ bài học Minh trị, Minh mạng

Ba’o Tieng Dan

24/12/2025

Mai Phan Lợi

Dòng chảy lịch sử đôi khi đặt các dân tộc trước những ngã rẽ rất hẹp: Hoặc bước tới bằng một cú nhảy đau đớn, hoặc đứng lại để rồi bị cuốn trôi.

Nhìn vào hai cái tên tưởng như chỉ cách nhau một chữ “Minh” – Minh Trị và Minh Mạng – mới thấy sự khác biệt trong lựa chọn tư duy có thể quyết định số phận của cả một quốc gia.

Và từ những bài học ấy, câu chuyện “vươn mình” hôm nay hiện lên không còn là khẩu hiệu, mà là một đòi hỏi khắc nghiệt của thời đại.

Giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản dưới thời Minh Trị đã chấp nhận tự mổ xẻ chính mình. Thiên hoàng và tầng lớp lãnh đạo trẻ hiểu rằng nếu tiếp tục khép cửa trong chiếc áo giáp truyền thống, Nhật Bản sẽ trở thành miếng mồi của phương Tây.

Vì thế, họ dám làm những việc bị coi là “phản truyền thống”: Bãi bỏ chế độ phiên trấn, xóa đặc quyền của võ sĩ samurai, gửi sứ đoàn Iwakura sang châu Âu – Mỹ học cách tổ chức nhà nước, xây dựng quân đội, cải cách giáo dục.

Đó là một cuộc cách mạng từ trên xuống, quyết liệt và liên tục, chấp nhận trả giá để đổi lấy tương lai. Kết quả là chỉ sau vài thập niên, Nhật Bản bước ra khỏi thân phận một nước phong kiến để trở thành cường quốc công nghiệp.

Trong khi đó, ở Việt Nam cùng thời, triều Minh Mạng lại lựa chọn con đường ngược lại. Trước những biến động dữ dội của thế giới, triều đình ưu tiên sự ổn định nội tại, siết chặt tư tưởng, hạn chế giao thương, bế quan tỏa cảng và duy trì trật tự cũ.

Chân dung vua Minh Mạng (trái) được minh họa trong cuốn sách “Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin-China, exhibiting a view of the actual State of these Kingdoms của John Crawfurd (1783-1868), in ở London năm 1828. Ảnh phải: Thiên hoàng Minh Trị năm 1873. Nguồn: Wikimedia/ Tiếng Dân edit

Những quyết sách ấy xuất phát từ mong muốn bảo vệ nền nếp và quyền lực truyền thống, nhưng hệ quả là đất nước ngày càng lạc hậu, không đủ sức đề kháng khi làn sóng xâm lược của thực dân phương Tây ập đến.

Lịch sử đã ghi lại cái giá của sự chậm trễ ấy bằng cả một giai đoạn mất chủ quyền và đau thương kéo dài.

Đặt hai hình ảnh đó cạnh nhau, người ta dễ nhận ra một điểm chung đáng suy ngẫm: Trong những thời khắc sinh tử, cải cách không bao giờ là con đường bằng phẳng. Nó luôn vấp phải sự phản kháng – khi thì từ thói quen, khi thì từ lợi ích đã ăn sâu vào cấu trúc quyền lực.

Thời Minh Trị, tầng lớp samurai mất bổng lộc đã nổi dậy chống đối. Nhưng triều đình Nhật không “hạ nhiệt” cải cách để xoa dịu họ, mà kiên quyết đi tiếp.

Ngược lại, sự bảo thủ thời Minh Mạng lại được củng cố bởi chính những người hưởng lợi từ trật tự cũ, khiến triều đình càng khó thoát khỏi vòng tự trói mình.

Nhìn về hiện tại, câu chuyện “vươn mình” của Việt Nam cũng đang đứng trước thử thách tương tự. Khi cải cách được đặt ra với mục tiêu tinh gọn bộ máy, chống tham nhũng, thay đổi cách vận hành quyền lực và phân bổ nguồn lực, thì sự kháng cự là điều khó tránh.

Những tiếng nói muốn “giữ nguyên để an toàn”, muốn “lò nguội” để bảo toàn lợi ích, về bản chất không khác nhiều so với tư duy đóng cửa của quá khứ.

Lịch sử cho thấy, nếu cải cách bị ngắt quãng hoặc thỏa hiệp nửa vời, cái giá phải trả thường lớn hơn rất nhiều so với những xáo trộn ngắn hạn.

Điểm đáng chú ý trong phép so sánh Minh Trị – Minh Mạng không nằm ở việc thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo, mà ở bài học về tính liên tục của cải cách.

Nhật Bản đã không thể “hóa rồng” nếu những chính sách duy tân chỉ kéo dài vài năm rồi bị đảo ngược.

Cũng vậy, bất kỳ nỗ lực thay đổi hệ thống nào ngày nay đều cần thời gian đủ dài để chính sách đi vào đời sống, để những hạt giống mới kịp nảy mầm và đơm hoa.

Sự gián đoạn, trong nhiều trường hợp, chính là món quà cho sự trì trệ.

Sau cùng, lịch sử luôn đặt lên vai người cầm lái một áp lực đạo đức nặng nề. Khi đất nước đứng trước cơ hội và thách thức đan xen, việc chọn cải cách hay né tránh không chỉ là quyết định chính trị, mà là lựa chọn mang tính trách nhiệm với các thế hệ tương lai.

Người Nhật thời Minh Trị đã cải cách trong nỗi lo bị nuốt chửng nếu chậm chân. Việt Nam hôm nay cải cách trong khát vọng không bị bỏ lại phía sau.

Hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cùng chung một lời nhắc: nếu không dám thay đổi khi còn có thể, lịch sử sẽ thay đổi thay chúng ta, theo cách khắc nghiệt hơn nhiều.

Vươn mình, vì thế, không phải là câu chuyện của những lời hô hào, mà là sự lựa chọn giữa Minh Trị và Minh Mạng – giữa dấn bước cải cách để sống, hay co mình giữ ổn định để rồi tụt lại.

Lịch sử đã trả lời một lần, và câu trả lời ấy vẫn còn nguyên giá trị cho hiện tại.


 

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Công Giáo Rôma – Chính Trực

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Nhiều người cho rằng ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ hội ngoại giáo của người Rôma như Saturnalia, Sol Invictus hay thần Mithra. Tuy nhiên, đa số các học giả ngày nay không đồng tình với giả thuyết này.

Ngày 25 tháng 12 đã ăn sâu vào tâm thức chúng ta mỗi khi nghĩ đến Giáng Sinh – với cây thông, ánh đèn và hình ảnh ông già Noel. Nhưng liệu đó có thật sự là ngày Chúa Giêsu giáng sinh? Và nếu không thể xác định chính xác, vì sao Giáo Hội lại chọn ngày này để mừng biến cố Nhập Thể?

Các Tin Mừng chỉ cung cấp rất ít chi tiết. Chẳng hạn, thánh Luca kể rằng các thiên thần đã báo tin cho những mục đồng đang canh giữ đàn chiên ngoài đồng (Lc 2,8).

Nhưng liệu các mục đồng có ở ngoài đồng vào giữa mùa đông hay không?

Ông Andrew McGowan, Viện trưởng Chủng viện Thần học Berkeley (Đại học Yale), cho rằng chi tiết này “có thể gợi đến mùa xuân, mùa chiên sinh sản”, vì vào tháng 12 lạnh giá, chiên thường được nhốt lại.

Vậy có phải ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ ngoại giáo không?

Ông McGowan tỏ ra hoài nghi. Theo ông, giả thuyết này tuy phổ biến nhưng gặp nhiều vấn đề. Trước hết, không có bất cứ văn bản Kitô giáo cổ nào nói rằng Giáo Hội cố ý chọn ngày này để đối trọng với các lễ ngoại giáo. Đúng là các tác giả Kitô giáo thời đầu có liên hệ giữa ngày đông chí và Chúa Kitô – chẳng hạn thánh Ambrôsiô gọi Chúa là “Mặt Trời đích thực”, vượt trên các thần linh giả tạo – nhưng các ngài xem đó là dấu chỉ của chương trình quan phòng Thiên Chúa, chứ không phải kết quả của một sự sắp đặt mang tính chiến lược của Giáo Hội.

Khoảng năm 200, thánh Clêmentê thành Alexandria cho biết đã có nhiều ngày khác nhau được đề nghị cho ngày Chúa Giêsu ra đời, như 20 hoặc 21 tháng 4, hay 20 tháng 5. Đáng chú ý là ngài không hề nhắc đến ngày 25 tháng 12.

Theo Jon Sorenson (Catholic Answers), thánh Hippôlytô thành Rôma, trong tác phẩm Chú giải sách ngôn sứ Đanien (khoảng năm 204), đã khẳng định Chúa Giêsu sinh ngày 25 tháng 12. Ngài viết rằng Chúa giáng sinh tại Bêlem vào ngày 25 tháng 12, và chịu khổ hình vào ngày 25 tháng 3.

Trong một tác phẩm khác của Hippôlytô là Biên niên sử, ngài cho rằng Chúa Giêsu sinh ra chín tháng sau ngày tạo dựng vũ trụ. Theo cách tính của ngài, vũ trụ được tạo dựng vào ngày xuân phân, 25 tháng 3, và vì thế, chín tháng sau – tức ngày 25 tháng 12 – là ngày Chúa giáng sinh.

Ông McGowan cho biết rằng đến thế kỷ IV, đã có hai ngày được nhìn nhận rộng rãi là ngày sinh của Chúa Giêsu: ngày 25 tháng 12 tại Tây phương và ngày 6 tháng 1 tại Đông phương, đặc biệt ở Ai Cập và Tiểu Á.

Điều đáng chú ý là thánh Hippôlytô cũng xác định ngày Chúa chịu chết là 25 tháng 3. Vậy phải chăng Giáo Hội còn biết chính xác cả ngày Chúa chịu đóng đinh? Ông McGowan nhận xét rằng, nghe có vẻ lạ, nhưng chìa khóa để xác định ngày Chúa sinh lại nằm ở việc xác định ngày Chúa chịu chết vào lễ Vượt Qua.

Theo Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu bị đóng đinh đúng lúc chiên Vượt Qua đang được sát tế, tức ngày 14 tháng Nisan theo lịch Do Thái. Còn theo các Tin Mừng Nhất Lãm, Bữa Tiệc Ly diễn ra vào đầu ngày 15, và Chúa chịu đóng đinh vào sáng hôm sau – vẫn là ngày 15. Vào khoảng năm 200, Tertullianô thành Carthage cho biết người ta đã tính rằng ngày 14 tháng Nisan tương ứng với ngày 25 tháng 3 theo lịch Rôma. Ngày này về sau được cử hành là lễ Truyền Tin – đúng chín tháng trước ngày 25 tháng 12.

Đức Bênêđictô XVI cũng xác nhận mối liên hệ này trong tác phẩm Tinh thần Phụng vụ. Khi ấy còn là Hồng y Joseph Ratzinger, ngài viết rằng yếu tố quyết định trong việc xác định ngày Giáng Sinh chính là mối liên kết giữa công trình tạo dựng, Thập Giá và mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô.

Tại Đông phương, người ta cũng gắn kết ngày Chúa chịu chết và ngày Chúa được thụ thai, nhưng dựa trên lịch Hy Lạp địa phương. Ngày 14 của tháng xuân đầu tiên – tương ứng với ngày 6 tháng 4 – được coi là ngày Chúa chịu chết và nhập thể; chín tháng sau là ngày 6 tháng 1, ngày mừng Giáng Sinh theo truyền thống Đông phương.

Giám mục Êpiphanô thành Salamis viết rằng ngày 6 tháng 4 là ngày “Chiên Thiên Chúa được cưu mang trong lòng trinh khiết của Đức Trinh Nữ thánh thiện, Đấng đã và đang xóa bỏ tội trần gian.” Cho đến nay, Giáo Hội Armenia vẫn mừng lễ Truyền Tin vào đầu tháng 4 và lễ Giáng Sinh vào ngày 6 tháng 1.

Như thế, ngày 25 tháng 12 không đơn thuần là sự vay mượn từ các lễ hội ngoại giáo, nhưng phát xuất từ một suy tư thần học sâu xa của Hội Thánh sơ khai: mầu nhiệm Nhập Thể, Thập Giá và công trình tạo dựng đều quy hướng về cùng một chương trình cứu độ duy nhất của Thiên Chúa.

Jos Nguyen chuyển ngữ  – Aleteia.org)


 

LUẬT NHÂN QUẢ

 

Bạn hãm hại người khác, thì sẽ có người khác hãm hại bạn.

 Bạn lừa dối người khác, cũng sẽ có người khác lừa dối bạn.”

 Đó không phải là lời nguyền, mà là luật nhân quả vận hành một cách âm thầm nhưng chính xác.

Bởi mọi hành động, dù là thiện hay ác, đều để lại dấu vết – và rồi, sớm hay muộn, cuộc đời sẽ trả lại đúng thứ mà bạn đã gieo ra.

 Khi bạn khiến ai đó tổn thương, đừng nghĩ rằng thời gian sẽ làm họ quên. Thời gian chỉ khiến vết thương lắng xuống, để rồi một ngày, chính bạn sẽ nếm lại cảm giác đó trong một hình thức khác.

 Không phải vì ai đó trả thù, mà vì trời đất có luật công bằng của riêng mình. Người hãm hại kẻ khác tưởng rằng mình thắng, nhưng thật ra họ đang đánh mất lòng tin, danh dự và phước phần của chính mình.

 Người lừa dối tưởng rằng mình khôn, nhưng lại đang gieo mầm nghi ngờ, để rồi mai này chính họ sẽ bị lừa trong cay đắng.

Nhân quả không đến ngay, nhưng một khi đã đến, không ai tránh được

 Sống ở đời, khôn ngoan không phải là mưu mẹo, mà là biết nghĩ cho hậu quả của từng việc mình làm.

 Làm điều đúng, lòng nhẹ. Làm điều sai, tâm bất an.

 Càng sống thiện, càng gặp lành; càng sống ác, càng gặp dữ – ấy là quy luật muôn đời, không ai có thể đổi.

Vì vậy, đừng tìm cách hại người để mình được lợi,vì cái lợi ngắn ngủi hôm nay có thể là cái họa dài lâu ngày mai.

 Hãy sống chân thành, ngay thẳng, và biết ơn, bởi cuối cùng, cuộc đời sẽ luôn trả lại cho bạn đúng những gì bạn đã gieo ra – không hơn, không kém.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

Chuyện thật như đùa – Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

22/12/2025

Diella – Bộ trưởng phụ trách Trí tuệ nhân tạo

Albanie là một nước nhỏ, chưa đến ba triệu dân ở châu Âu. Nước này từng là một quốc gia xã hội chủ nghĩa dưới thời nhà độc tài Enver Hoxha, rồi thoát khỏi chế độ XHCN sau khi Bức tường Berlin và Liên Xô sụp đổ. Nhưng cũng như nhiều nước cựu XHCN khác, Albania mang theo một di sản nặng nề: tham nhũng ăn sâu vào bộ máy quyền lực. Đã lâu người ta không còn nhắc đến đất nước nhỏ bé ấy. Bỗng nhiên, năm 2025, Albania gây chấn động dư luận quốc tế khi tuyên bố bổ nhiệm “cô” Diella làm bộ trưởng, một bộ trưởng hoàn toàn được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo.

Diella trong tiếng Albania có nghĩa là “Mặt Trời”, được chọn như biểu tượng của ánh sáng và minh bạch. Trước đó, Diella chỉ là một trợ lý ảo trên cổng dịch vụ hành chính điện tử e-Albania, giúp người dân làm giấy tờ. Đến tháng 9 năm 2025, trong lễ ra mắt nội các mới, Thủ tướng Edi Rama bất ngờ công bố Diella trở thành “Bộ trưởng Nhà nước phụ trách Trí tuệ nhân tạo”, đồng thời giao cho cô một nhiệm vụ cực kỳ nhạy cảm: giám sát toàn bộ các gói thầu công, lĩnh vực vốn gắn chặt với tham nhũng và lợi ích nhóm. Theo Thủ tướng Rama, giao việc này cho một AI sẽ giúp quy trình trở nên “100% không tham nhũng”, bởi máy móc thì không quan hệ, không thân hữu, không phong bì. Hình ảnh Diella được dựng như một phụ nữ mặc trang phục truyền thống Albania, với giọng nói và gương mặt của một nữ diễn viên thật.

Khi Diella xuất hiện và phát biểu trước Quốc hội Albania, khung cảnh vừa lịch sử vừa căng thẳng. Phe phản đối cho rằng đây là một quyết định vi hiến, vì bộ trưởng phải là con người và phải chịu trách nhiệm. Phe ủng hộ thì nói thẳng: con người đã làm quá tệ, tệ đến mức người ta sẵn sàng thử đặt niềm tin vào máy móc. Chuyện nghe như đùa, nhưng lại hoàn toàn là chuyện thật.

Và nếu thử đặt giả thiết Việt Nam cũng có Diella, không phải một, mà là cả một hệ thống Diella, thì cái lợi sẽ thật khổng lồ. Máy móc không ăn hối lộ. Như vậy, toàn bộ những kẻ sống bằng việc “ăn” sẽ mất nguồn sống. Bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, cục trưởng… tất cả bọn tham nhũng sẽ “chết đói”. Người dân thì được hưởng lợi ngay lập tức: làm việc không cần quen biết, không cần cúi đầu, không cần phong bì. Lần đầu tiên sau nhiều thập niên, luật có thể được áp dụng như luật, chứ không phải như món hàng mua bán. Đó sẽ là một cao trào sung sướng thật sự, một cảm giác giải phóng: thà để máy móc cai trị còn hơn để con người như ngày nay..  .

Nhưng chính ở đỉnh cao ấy, bi kịch bắt đầu. Bởi vì khi một xã hội sung sướng vì không còn tin con người, thì đó không phải là chiến thắng của công nghệ, mà là sự sụp đổ của niềm tin đạo đức. Diella không biết xấu hổ, không biết sợ dân, không biết day dứt. Khi một quyết định gây oan sai, câu trả lời sẽ chỉ là: thuật toán đã vận hành đúng. Và thế là trách nhiệm biến mất. Quyền lực không còn gắn với một con người có thể bị chất vấn, mà tan vào hệ thống vô hình.

Nhưng cần nói thêm một điều còn nguy hiểm hơn nữa: đằng sau Diella không phải là sự trung lập tuyệt đối, mà là các thuật toán (nói một cách đơn giản là những chuỗi lệnh) và các kho dữ liệu do chính con người tạo ra. Máy móc không tự sinh ra đạo đức; nó chỉ lặp lại những gì con người đã lập trình cho nó. Vì vậy, yếu tố con người không hề biến mất. Nó có thể ẩn mình sâu hơn, kín đáo hơn và khó truy vết hơn. Khi có sai lầm, người dân không biết trách ai: Diella không chịu trách nhiệm, còn những con người đứng sau thì vô hình. Một kiểu quyền lực như vậy đôi khi còn nguy hiểm hơn tham nhũng công khai, bởi nó lạnh lùng, vô danh, không thể chất vấn và cũng không thể lật đổ.

Tuy nhiên, tôi chỉ mong những người đang nắm quyền kịp nhận ra rằng Diella là lời cảnh báo dành cho chính họ. Sự ra đời của những Diella không xuất phát từ lòng yêu máy móc, mà từ sự tuyệt vọng của con người trước một bộ máy đã quá bẩn, quá lì và quá quen sống bằng phong bì. Nếu họ biết sợ, biết xấu hổ và biết dừng lại, có lẽ Diella sẽ mãi chỉ là một câu chuyện “thật như đùa” ở một đất nước xa xôi. Nhưng nếu họ vẫn tiếp tục coi quyền lực là đặc quyền để ăn cắp, sẽ đến một ngày, trên chính mảnh đất này, người ta buộc phải thay con người bằng những Diella — không phải vì máy móc tốt hơn, mà vì những người lãnh đạo đã hoàn toàn không đáng tin cậy.


 

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Bà đang chết dần vì căn bệnh ung thư đã di căn vào xương – nhưng những tập đoàn hóa chất đang tìm cách hủy hoại danh tiếng của bà không hề hay biết điều đó. Và bà đã sắp xếp để họ không bao giờ được biết.

Vào những năm 1950 tại Mỹ, người ta tôn sùng một loại “thuốc tiên” gọi là DDT. Loại thuốc trừ sâu này được hứa hẹn sẽ chấm dứt nạn đói và diệt trừ bệnh tật. Người ta phun nó ở khắp nơi: trên đồng ruộng, trong công viên nơi trẻ em chơi đùa. Các quảng cáo hô hào: “Sống tốt hơn nhờ hóa chất”.

Nhưng Rachel Carson, một nhà sinh vật học biển, đã nhận ra một điều mà các quảng cáo không hề nhắc tới: Lũ chim đang biến mất.

Cuộc chiến chống lại những “gã khổng lồ”

Rachel không phải là một nhà hoạt động chính trị. Bà là một nhà khoa học điềm tĩnh, yêu đại dương. Nhưng khi thấy những đàn chim chết hàng loạt, cá biến mất khỏi dòng sông và những người nông dân đổ bệnh kỳ lạ, bà biết mình không thể im lặng.

Bà phát hiện ra sự thật kinh hoàng: DDT không hề tự phân hủy. Nó tích tụ và ngấm sâu vào chuỗi thức ăn, gây ung thư, hủy hoại gen và làm sụp đổ cả hệ sinh thái.

Suốt 4 năm, bà dồn hết tâm sức viết cuốn sách “Mùa xuân vắng lặng” (Silent Spring). Cái tên đầy ám ảnh: Một mùa xuân mà không còn tiếng chim hót, vì lũ chim đã chết sạch.

Bí mật đau đớn

Năm 1960, khi đang viết dở cuốn sách, Rachel phát hiện mình bị ung thư vú thể ác tính. Bà phải phẫu thuật, rồi xạ trị. Căn bệnh di căn vào hạch rồi vào xương. Những đợt điều trị khiến bà kiệt sức, buồn nôn, nhiều lúc không thể cầm nổi bút.

Nhưng bà không nói cho ai biết.

Bà hiểu rằng nếu các tập đoàn hóa chất biết bà đang bị ung thư, họ sẽ dùng nó để tấn công bà. Họ sẽ nói bà là kẻ “hysteria”, là người đàn bà bệnh tật nên suy nghĩ không tỉnh táo, rằng nghiên cứu của bà chỉ là sự sợ hãi vô căn cứ của một kẻ sắp chết.

Thế là, trong khi âm thầm chiến đấu giành giật sự sống trong phòng bệnh, bà vẫn xuất hiện đầy bản lĩnh trước công chúng để chiến đấu cho sự sống của chim chóc, cá tôm và con người.

Chiến thắng của sự thật

Cuốn sách xuất bản năm 1962 đã gây ra một cơn địa chấn. Các đại gia ngành hóa chất như Monsanto, DuPont tuyên chiến với bà. Họ đổ hàng triệu đô la vào truyền thông để bôi nhọ bà là “kẻ cổ hủ muốn đưa thế giới về thời kỳ tăm tối”.

Rachel vẫn đứng vững. Bà xuất hiện trên truyền hình, điềm tĩnh và đầy sức thuyết phục. Bà ra điều trần trước Quốc hội Mỹ. Dưới tác động từ cuốn sách của bà, Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều tra. Dư luận bắt đầu thức tỉnh và đặt câu hỏi: Chúng ta đang phun cái gì lên thức ăn của mình thế này?

Di sản còn mãi

Rachel Carson qua đời năm 1964, ở tuổi 56, chỉ hai năm sau khi cuốn sách ra đời. Bà không sống đủ lâu để thấy DDT bị cấm chính thức hay sự ra đời của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).

Nhưng nhờ có bà, những con đại bàng đầu hói đã được cứu khỏi bờ vực tuyệt chủng. Nhờ có bà, phong trào bảo vệ môi trường hiện đại mới thực sự bắt đầu. Mỗi khi chúng ta nói về thực phẩm sạch hay bảo vệ thiên nhiên, Rachel Carson vẫn luôn ở đó.

Bà có thể dành những năm cuối đời để nghỉ ngơi trong yên bình. Nhưng bà đã chọn đối đầu với những thế lực quyền lực nhất hành tinh, dù biết mình sẽ bị tấn công tàn nhẫn, chỉ vì bà tin rằng: “Ai đó phải nói ra sự thật.”

Và bà đã nói, cho đến hơi thở cuối cùng. Nhờ giọng nói ấy, mùa xuân của chúng ta vẫn còn tiếng chim ca.

Vầng Sáng Lịch Sử

#anhchiquandiemcanhan


 

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Xuyên Sơn

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Câu hỏi như sau:

Trên đời này có tồn tại công bằng hay không?

Câu trả lời là:

Có. Đó là Thời Gian.

Tất cả mọi người đều có 24 tiếng/ngày.

Và đó là sự công bằng.

Vì vậy:

– Nếu mình nghèo, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để làm giàu

– Nếu mình kém, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để học hỏi

– Nếu mình ốm, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để xây dựng sức khoẻ

– Và nếu mình cho rằng thế giới này chẳng có gì công bằng, thì mình có 24 tiếng để cảm nhận sự công bằng của cuộc sống.

Chúng ta đều có 24 tiếng, nhưng có người lựa chọn ngủ nướng, có người lựa chọn làm việc, có người lựa chọn suy nghĩ tích cực, có người lại lựa chọn những suy nghĩ tiêu cực, có người lựa chọn can đảm làm việc khó, có người lựa chọn sự sợ hãi không dám làm…

và có lẽ nào chúng ta đã nhầm?

Cuộc sống rất công bằng, nhưng LỰA CHỌN của mỗi người mới chính là điều không công bằng.

Hãy lựa chọn cho đúng!

____________

(Nguồn:Sưu tầm/TOP Ebook Free)


 

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Trịnh Mạnh Dũng

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Từ Đức Minh

– Chúng dụ dỗ 24.000 du học sinh, con cái Đảng viên, nhà giàu Việt Nam sang Mỹ học tập.

– Chúng tiếp nhận cả tỷ USD của các đồng chí lãnh đạo Đảng viên chuyển tiền bạc tham ô sang mua nhà cửa để kiếm thẻ xanh ở Mỹ.

– Chúng xúi giục, kích động các con cháu Đảng viên bỏ Việt Nam sang Mỹ định cư.

Ví dụ như:

con gái Nguyễn Tấn Dũng,

con trai thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trương Tấn Sang,

con tướng Trung,

con bộ trưởng Kim Tiến…

– Chúng cung cấp gần 50 triệu đô-la nhằm hỗ trợ Việt Nam rà phá huỷ bom mìn chưa nổ.

– Chúng đã đền cho Việt Nam hơn 46 triệu đô-la nhằm hỗ trợ cho công dân Việt Nam khuyết tật, nhiễm chất độc dioxin.

– Chúng lập ra tổ chức USAID cung cấp 12 triệu đô la hỗ trợ cho Việt Nam phòng hạn hán và xâm nhập mặn hàng trăm nghìn hộ gia đình các tỉnh phía nam.

– Chúng cho Việt Nam 9,5 triệu USD để ứng phó với dịch COVID-19,

trong đó bao gồm 5 triệu USD cho quỹ hỗ trợ kinh tế.

– Chúng cho bác sĩ, dụng cụ thuốc men vào Việt Nam chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.

– Chúng thay Đảng Cộng Sản Việt Nam lên tiếng phản đối Trung Cộng giết hại ngư dân Việt Nam trên Biển Đông.

Từ Đức Minh

Xuyên Sơn


 

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Trần Tố Ngọc

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Lù Trọng Thắng

Bên Tàu có câu chuyện dân gian đại khái rằng, hôm ấy Diêm Vương xét duyệt cho hai người phụ nữ đầu thai lên thế gian. Người thứ nhất, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây nhà ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm nghề bán thân.

– Bán thân là gì ?

– Dạ… là làm… đĩ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

-Tội nghiệp, thôi ta cho ngươi đầu thai lên làm con gái nhà giàu.

Đến người phụ nữ thứ hai, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm đầy tớ của nhân dân ạ.

– Nghĩa là sao ?

– Dạ, là quan chức nhà nước đấy ạ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

– Ta cho ngươi đầu thai lên làm con trâu.

Người phụ nữ hốt hoảng:

– Tâu Diêm Vương sao kỳ vậy ? Con làm quan là phục vụ nhân dân, là có công lao sao lại bắt con đầu thai lên làm trâu. Trong khi chị kia làm đĩ thì lại cho chỉ đầu thai lên làm con nhà giàu.

– Ngươi bình tĩnh nghe ta giải thích. Ta hỏi là hỏi vậy thôi chớ hồ sơ các ngươi đã có đầy đủ đây nầy: Cô kia tuy làm đĩ xấu xa nhưng đó là bước đường cùng, cổ kiếm được đồng tiền phải chịu đắng cay tủi nhục. Nên ta cho cổ cơ hội để bù đắp. Còn nhà ngươi, ngươi đã nhiều lần bán thân cho quan cấp trên để được thăng chức, tội nầy đáng lý phải cưa hai nấu dầu. Nhưng đến khi có quyền cao chức trọng, ngươi lại vơ vét công quỹ, ăn hối lộ để làm giàu nên ta phạt ngươi đầu thai lên làm trâu để kéo cày suốt đời trả món nợ kia, và khi về già ngươi sẽ bị xẻ thịt lột da để đền cái tội bán dâm đổi chức…

Nghe Diêm Vương phán xong, chị ta ôm mặt khóc nức nở:

– Trời ơi, cả đời làm quan lại không bằng con đĩ nè trời!

Tố Ngọc Trần Sưu tầm


 

TUỔI GIÀ – MỘT KIẾP NGƯỜI LẶNG LẼ MÀ SÂU XA

Tuổi già là đoạn đường mà ai rồi cũng sẽ đến, nếu may mắn được sống đủ lâu. 

Có người đến đó trong an yên, có người đến trong cô độc. 

Có người hạnh phúc nhìn lại đoạn đời đã qua, có người lặng lẽ ôm những ân hận không thể sửa. 

Nhưng dầu là ai, ở tuổi già, ai cũng cần một điều – ấy là được sống cho chính mình. Cả một đời người, ta đã quen sống vì người khác. Hồi trẻ, cha mẹ lo cho con, rồi đến lúc làm cha mẹ, ta lại sống vì con cái. Mỗi ngày là một guồng quay – cơm áo, gạo tiền, trách nhiệm, bổn phận, hy sinh. Ta cặm cụi gây dựng cuộc sống cho gia đình, cho người thân, cho con cái có chỗ đứng trong đời. Có lúc vội đến nỗi chẳng kịp ngẩng đầu nhìn trời. Có khi mệt đến nỗi không biết mình đang buồn hay đang sống.

Có những người suốt bốn, năm chục năm không có một ngày thật sự cho bản thân. Vui ít, lo nhiều. Lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nại gồng gánh. Đến lúc nhìn lại, hóa ra bản thân là người ta bỏ quên nhiều nhất.

Vậy mà đến khi bước vào tuổi xế chiều, nhiều người lại mang tâm thế… chờ đợi. Chờ ngày con cái thành đạt, chờ cuộc sống ổn định, chờ lúc nhắm mắt.

Có người già rồi mà tâm chưa chịu nghỉ. Cứ đau đáu chuyện con dâu, chuyện cháu học hành, chuyện nhà cửa sau này để ai, chuyện xóm làng dâu bể. Tâm cứ bận, lòng chẳng an. Ngồi giữa căn nhà đã dựng lên cả đời, vậy mà thấy mình như kẻ qua đường.

Tuổi già không phải là giai đoạn chờ chết. Mà là một mùa sống khác – chậm hơn, sâu hơn, nhẹ hơn, nhưng không kém phần đẹp đẽ. Nó giống như mùa thu – không rực rỡ như mùa xuân, không sôi nổi như mùa hạ – nhưng đằm thắm, dịu dàng, và đủ đầy.

Sống sâu – là học cách lắng nghe mình lần nữa. Là nhắm mắt lại mà vẫn thấy ấm lòng vì tiếng gió qua vườn, tiếng chổi quét lá mỗi sáng, tiếng cháu gọi ông bà ríu rít ngoài sân. Là một tách trà vừa đủ nóng, một ánh chiều vàng rơi nghiêng nơi hiên nhà. Là đọc lại quyển sách cũ từng gối đầu giường, ngắm lại ảnh cưới đã vàng màu năm tháng. Là nhớ về người xưa không còn với mình, mà lòng không buồn – chỉ thấy biết ơn.

Sống sâu – cũng là học cách tha thứ. Tha thứ cho người, và cho chính mình. Tha thứ cho những va vấp không sửa kịp, những sai lầm chưa kịp xin lỗi. Tha thứ cho quá khứ, để tương lai còn có thể nhẹ bước. Khi ta không còn nhiều thời gian như trước, lòng nhẹ mới là món quà quý nhất ta có thể tự tặng mình.

Sống nhẹ – là biết mình không cần chứng minh nữa. Không cần gồng mình để được công nhận. Không cần so sánh mình với người bên cạnh. Không cần gánh lấy vai trò đạo đức hay mẫu mực gì nữa. Bởi lẽ, sống một đời tử tế đã là đủ. 

Còn lại là học cách thảnh thơi, học cách im lặng đúng lúc, học cách mỉm cười khi không cần nói gì. Tuổi già là lúc sống ít lời mà nhiều nghĩa. Là khi ánh mắt nhìn đời đã dịu lại, không còn sắc bén, không còn đòi hỏi. Là khi người ta có thể buông tay, nhưng không buông bỏ lòng nhân hậu. Là khi có thể im lặng, nhưng lòng vẫn đầy yêu thương. Là khi không còn tranh cãi hơn thua, mà chỉ muốn mỗi ngày còn được ăn một bữa cơm ngon, ngồi giữa tiếng cười con cháu, và ngủ một giấc bình yên.

Có nhiều người sợ tuổi già. Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lãng quên. Nhưng nếu biết sống đúng, tuổi già không đáng sợ. Nó là phần thưởng cho người đã đi hết những năm tháng nhọc nhằn. Là cơ hội để sống lần nữa – nhưng lần này là cho mình. Không cần thành đạt, chỉ cần thảnh thơi. Không cần được ca ngợi, chỉ cần được sống thật với lòng mình.

Một mái nhà đơn sơ, một cái ghế mây kê ở ban công, một khóm hoa nhỏ trước hiên, vài người bạn tri kỷ, vài quyển sách cũ, một ấm trà nóng – thế là đủ. Hạnh phúc tuổi già không ở chỗ có bao nhiêu tiền trong sổ tiết kiệm, mà ở chỗ có bao nhiêu bình an trong tâm hồn.

Vậy nên, đừng chờ đợi điều gì nữa. Mỗi ngày còn tỉnh táo, còn có thể bước ra vườn hít một hơi thật sâu – là một món quà. Còn thấy được ánh sáng, còn nghe được tiếng chim – là còn có lý do để sống.

Tuổi già, nếu biết nhìn bằng đôi mắt yêu thương, sẽ không là đoạn kết. Mà là một mùa chín rộ, ngọt ngào, lặng lẽ – như trái cây cuối mùa, thơm bền và sâu vị. Một đời người nếu đã sống trọn, thì những năm tháng cuối cùng không phải là để sợ hãi, mà là để tri ân. Tri ân cuộc đời. Tri ân những người đã đi cùng ta. Và tri ân chính mình – đã đi qua bao bão giông, vẫn còn ngồi đây, còn thở, còn biết ơn.

Tuổi già không phải là chờ “đi xa mãi” . Mà là sống – một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất.

From: TU-PHUNG


 

Tô Lâm đang bị rớt điểm trong bộ Chính Trị – Tranh Chấp nội bộ căng thẳng trước kỳ bầu Tổng Bí Thư Đảng

TRÀN NGẬP THÔNG TIN RÒ  RỈ VÀ BÌNH LOẠN TRÊN MẠNG CỦA CÁN BỘ VÀ DÂN ĐEN

BÌNH LUẬN CỦA ĐÀI BBC

bản tin HOA THỊNH ĐỐN

Một số người đặt niềm tin vào phe quân đội có thể lật đổ được phe Tô Lâm; nhưng nên nhớ, Tô Lâm có khá nhiều thân tín trong Bộ Quốc phòng như Đại tướng Trịnh Văn Quyết, Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến…

Hồi 9/10, mạng xã hội rộ lên thông tin Phan Văn Giang thay Tô Lâm làm tổng bí thư. Nguồn cơn là từ Facebook ông Đinh Bá Truyền đăng lên. Theo đó, sau khi Hội nghị Trung ương 13 bế mạc, Phạm Minh Chính, Lương Cường và Trần Thanh Mẫn coi như sẽ về vườn.

Đồng thời, ông Truyền cũng cho rằng Bộ Chính trị đã thực hiện cuộc bỏ phiếu kín cho vị trí Tổng Bí thư nhiệm kỳ sau. Trong đó, Phạm Minh Chính chỉ được 1 phiếu (có thể do ông Chính tự bầu cho mình), Tô Lâm được 6 phiếu, và điều bất ngờ là Phan Văn Giang được 9/16 phiếu bầu. Điều này có nghĩa Phan Văn Giang đang chiếm ưu thế trong cuộc đua giành ghế Tổng Bí thư.

Tới ngày 12/10, câu chuyện tiếp tục được bàn tán khi Tô Lâm và Phan Văn Giang tới dự lễ kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống lực lượng vũ trang Quân Khu 4 tổ chức ở tỉnh Nghệ An. Tại đây, người dẫn chương trình của Quân khu 4 đã đọc Đại tướng Phan Văn Giang là Bí thư Quân Ủy Trung Ương. Trong khi đó chức danh lãnh đạo tối cao của quân đội này đang là của Tô Lâm, Phan Văn Giang chỉ là Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương…

BÁO TIẾNG DÂN

Tấm hình Tô Lâm (phải) ăn thịt bò dát vàng ở London khi người dân tại Việt Nam đang khốn đốn với đại dịch COVID-19, Tháng Mười Một, 2021. (Hình: Cắt từ clip tiktok của Nusr-Et)

Khởi đầu, nhiều người phấn khích trước tin ông Tô Lâm bị buộc phải rời cương vị hiện tại (tổng bí thư) ở nhiệm kỳ tới. Kế đó, không ít người thất vọng khi nghe nói, đội ngũ lãnh đạo Bộ Chính Trị đảng CSVN nhiệm kỳ tới (khóa 14) gần như không có thay đổi nào đáng kể.

Sẽ có nhiều cá nhân lẽ ra phải rời chính trường vì quá độ tuổi đã được xác định trong Điều Lệ Đảng CSVN nhưng cuối cùng vẫn tiếp tục “cầm cân, nảy mực” vì được BCH TƯ đảng khóa này xem là “trường hợp đặc biệt!”

Tuyên bố của ông Tô Lâm về việc lựa chọn cá nhân lãnh đạo đảng CSVN nhiệm kỳ tới phải có “năm cộng” (ngoài các tiêu chí như đã biết phải thêm năm yếu tố là “đức, tài, uy tín, tầm nhìn, khả năng triển khai mục tiêu lớn”) giống như một kiểu nói đùa làm thiên hạ… ứa lệ!

 

Mạng Đại Ngu

Tô Lâm không đủ tiêu chuẩn làm Tổng bí thư nhiệm kỳ 2026-2031?

 
Chiểu theo tiêu chuẩn, bác Tổng bí thư hiện nay Tô Lâm không đủ điều kiện để làm Tổng bí thư nhiệm kỳ 2026-2031, vì:
 
1. Bác Tô Lâm không có phẩm chất đạo đức lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật. Cụ thể:
– Nghi vấn liên quan tới vụ án MobiFone-AVG …
– Vụ án bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức …
– Hình ảnh ăn bò dát vàng do đầu bếp Salt Bae cung cấp ngày 3/11/2021
– …
 
2. Về trình độ năng lực, uy tín và khả năng quy tỵ đoàn kết:
– Những thất bại trong các dự án thay đổi giấy chứng minh nhân dân, căn cước công dân, thẻ công dân…
– Những xáo trộn xã hội, xáo trộn hệ thống chưa có hồi kết sau quyết định sáp nhập tỉnh, xoá hệ thống chính quyền 3 cấp.
– … 
 
3. Về độ tuổi: Ông Tô Lâm sinh ngày 10/7/1957, tính đến nay đã tròn 68 tuổi, nằm trong độ tuổi nghỉ hưu trừ phi được Ban Chấp hành Trung ương đảng quyết định cho làm trường hợp đặc biệt.
 
4. Phẩm chất, năng lực: Không đáp ứng yêu cầu về phẩm chất, năng lực ít nhất ở mục có uy tín cao trong nhân dân. Những thống kê sơ bộ trên các trang mạng xã hôi và ngoài đời cho thấy tỷ lệ ủng hộ ông Tô Lâm được làm Tổng bí thư là rất thấp so với Đại tướng Phan Văn Giang.
 
Ngoài ra, ông Tô Lâm còn có một số dấu hiệu bè phái, địa phương chủ nghĩa khi sử dụng quyền uy của mình để sắp xếp, bố trí nhân sự trước Đại hội. Cụ thể:
 
– Cất nhắc các ông Lương Tam Quang, Nguyễn Duy Ngọc (cùng quê Hưng Yên, cùng ngành công an, cùng vây cánh) vào Bộ Chính trị khi cả hai ông này chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo quy định 241: Làm trọn một nhiệm kỳ trong Ban chấp hành Trung ương đảng.
 
– Đưa ông Vũ Hồng Văn (em trai của vợ cũ) lên chức Thiếu tướng dù ông này chỉ là lính nghĩa vụ công an chuyển sang chuyên nghiệp, sau đó đưa vào nắm chức Bí thư tỉnh uỷ Đồng Nai.
 
– Cất nhắc con trai (Tô Long) lên làm Cục trưởng Cục an ninh đối ngoại, tặng Huân chương Chiến công.
 
– Đưa ông Nguyễn Thanh Tùng, Mai Hoàng, Tô Anh Dũng… cùng quê Hưng Yên nắm các vị trí Giám đốc công an HN, HCM và Thanh Hoá, làm cho tổng số người nắm chức vụ cao trong đảng và chính quyền của riêng tỉnh Hưng Yên và những người có quan hệ họ hàng với Tổng bí thư lên con số cao bất thường…
Hoàng Dũng
 

Nhà toán học John Nash

Lê Vi

Trong hình là nhà toán học John Nash. Ông từng là giảng viên của Princeton và MIT. Nhưng sau đó ông bị tâm thần hoang tưởng và phải nhập viên từ 1959. Tới 1970, ông ra khỏi bệnh viện tâm thần và nhất quyết không quay lại nữa.

Trường Princeton mời ông quay lại trường. Từ đó “người ta thường thấy một người đàn ông gày xơ xác, tóc tai bơ phờ, mắt đờ đẫn không hồn, suốt ngày lang thang trong khuôn viên ĐH Princeton như một bóng ma, đôi lúc dừng lại trước những tấm bảng đen trong vườn và cặm cụi viết lên đó hàng tá công thức toán học kỳ quặc.”

Có người không hiểu trêu chọc ông. Nhưng phần lớn bênh vực ông và để ông thoải mái làm gì thì làm. Ông về ở với vợ cũ, bà chăm sóc ông. Đồng nghiệp cũng cố gắng giúp ông chút nào hay chút đó.

Cứ vậy cho tới tận cuối thập niên 80, ông tỉnh dần.

Năm 1994, theo đề nghị của những nhà khoa học là bạn ông, người ta tìm lại đề cử giải Nobel cho Lý thuyết trò chơi bất hợp tác của ông đã có từ 1985. Mà lẽ ra ông đã nhận giải nếu không bị bệnh.

Cuối cùng, ngày 11 tháng 10 năm 1994, Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tuyên bố: ba nhà khoa học John F. Nash Jr., John C. Harsanyi (quốc tịch Mỹ) và Reinhard Selten (Đức) được trao giải Nobel Kinh tế “vì các phân tích mở đường của họ về khái niệm cân bằng trong lý thuyết Trò chơi bất hợp tác.”

Trong lý lịch tự khai gửi Ủy ban Nobel, Nash viết: sau 25 năm gián đoạn suy nghĩ, giờ đây ông tin rằng mình có thể đạt được một số giá trị nào đấy qua các nghiên cứu hiện nay của ông hoặc với bất kỳ ý tưởng mới nào sẽ đến trong tương lai.”

Các nhà làm phim Mỹ năm 2001 có làm một bộ phim vinh danh ông, tên là Một tâm hồn đẹp ( A Beautiful Mind). Một phim tiểu sử rất hay. Bộ phim ra mắt tại các rạp chiếu phim của Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 12 năm 2001 và thu về $313 triệu trên toàn cầu và thắng 4 giải Oscar

______________-

Câu chuyện về Jonh Nash chỉ là một trong số rất nhiều câu chuyện về các thiên tài.

Họ có thể mắc nhiều tật bệnh. Thậm chí với nhiều người là bệnh di truyền qua vài đời. Tuy nhiên họ vẫn làm ra những thành tựu khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa… thuộc loại cực đỉnh trên thế giới.

Điều đó cho thấy thuyết ưu sinh là một thứ rác rưởi vì phản khoa học và không có nhân tính.

Tinh hoa chính là một món quà bất ngờ của Thượng đế ban tặng cho con người. Điều này đã được minh chứng qua mấy ngàn năm lịch sử.

Hình vợ chồng ông bà John Naáh

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân

Nguyễn Xuân Thu

 – Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân.

– Một người thực sự có học vấn. Luôn luôn khiêm tốn,thật thà, lễ độ

– Người thực sự giàu có. Luôn luôn đơn điệu. Sẽ không gặp ai cũng khoe khoang.

– Người thực sự có đức hạnh. Luôn luôn có huệ tâm. Sẽ không gặp ai cũng thể hiện.

– Người thực sự có trí tuệ. Luôn luôn tan hòa. Sẽ không phô diễn tài năng.

– Người thực sự có phong cách. Luôn luôn tự nhiên. Sẽ không uốn éo giả tạo.

– Một người thực sự có tu tâm. Luôn luôn yên tĩnh. Sẽ không tranh giành trước sau.

– Khi cơn tức giận ập tới là phúc khí đi mất rồi. Cơn giận càng lớn, cơ thể càng yếu. Trí tuệ chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát cảm xúc của chính mình.

Dùng lời nói tổn thương người khác là một hành vi không nên.

Nước sâu thì chảy chậm. Nói chậm là quý nhân….!!!

Nguồn: cuocsongmoi