Chuyện tình khó quên của cha đẻ chiếc áo dài Việt Nam!

Xuyên Sơn

 MỘT CHUYỆN TÌNH

Chuyện tình khó quên của cha đẻ chiếc áo dài Việt Nam!

Lê Thiếu Nhơn

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường

(sinh năm 1912, mất năm 1946)

chính là cha đẻ của chiếc áo dài

Việt Nam. Từ kiểu áo Lemur của Nguyễn Cát Tường, chiếc áo dài tiếp tục được cải tiến và dần dần trở thành trang phục truyền thống tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ nước ta. Thế nhưng, ít ai biết rằng,

một trong những người đầu tiên góp công phô diễn chiếc áo dài của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, chính là vợ ông

– bà Nguyễn Thị Nội!

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường sinh ra và lớn lên ở Sơn Tây – Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, họa sĩ Nguyễn Cát Tường cộng tác với báo Phong Hóa do nhà văn Nhất Linh làm chủ biên.

Bằng con mắt liên tài, nhà văn Nhất Linh nhận ra chàng họa sĩ trẻ Nguyễn Cát Tường ngoài sở trường vẽ tranh minh họa còn có khả năng đưa ra những

ý kiến bổ ích để tư vấn làm đẹp cho phái nữ.

Vì vậy, trên báo Phong Hóa số 85 ra ngày 11/2/1934, nhà văn Nhất Linh mở chuyên mục

“Vẻ đẹp riêng tặng các bà, các cô”

và giao cho họa sĩ Nguyễn Cát Tường phụ trách.

Sau 4 số báo nhẩn nha phân tích về trang phục phụ nữ Việt, họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhấn mạnh:

“Quần áo tuy dùng để che thân thể, nhưng nó có thể như tấm gương phản chiếu trình độ trí thức của một nước.

Bộ quần áo rồi sẽ phải như thế nào? Trước hết, nó phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc,

với khuôn khổ, với mực thước của thân hình mỗi bạn.

Sau nữa, nó phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ thẩm mỹ lịch sự. Nhưng dù thế nào, nó cũng phải có cái tính cách riêng của nước nhà mới được. Các bạn là phụ nữ Việt Nam, vậy áo của các bạn phải có một vẻ riêng để người khác khỏi nhầm các bạn với phụ nữ nước ngoài, như nước Tàu, nước Pháp, nước Nhật Bản chẳng hạn”.

Với quan niệm ấy, trên báo Phong Hóa số 90 ra ngày 23/3/1934, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã công bố bản vẽ chiếc áo dài đầu tiên, đặt tên là áo dài Lemur. Nhà văn Thạch Lam đã lên tiếng ủng hộ áo dài Lemur rất nồng nhiệt:

“Sự cải cách y phục của phụ nữ ta có thể bởi cái nguyên nhân sau:

cái dáng điệu tự nhiên của thân thể người ta mà các họa sĩ biết thưởng thức. Biết sự mềm mại tha thướt của dáng điệu, rồi làm thế nào cho cái ống quần, cái tà áo theo cái mềm mại tha thướt đó, để làm tăng vẻ đẹp của thân hình cô thiếu nữ trẻ trung”.

Để chiếc áo dài Lemur bước từ trang báo ra cuộc đời, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã hợp tác với hiệu may

Cử Chung ở số 100 phố Hàng Bông

– Hà Nội và hiệu may Phạm Tá ở số 23 phố Bờ Hồ – Hà Nội để khuyến khích phụ nữ trưng diện trang phục này.

Đích thân họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã đi tìm những phụ liệu nhằm làm tăng thêm sức hấp dẫn cho chiếc áo dài.

Và một lần ra ga Hàng Cỏ để gặp một ông chủ xưởng dệt ren ở Bắc Ninh lên, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã nhận được món quà nhân duyên lớn nhất đời mình!

Khi tàu từ Bắc Ninh vào ga Hàng Cỏ,

họa sĩ Nguyễn Cát Tường chờ mãi không thấy ông chủ xưởng dệt ren đã có hẹn với mình. Đang mắt trái mắt phải ngó nghiêng kiếm tìm, họa sĩ Nguyễn Cát Tường sửng sốt khi phát hiện một cô gái đi ngang. Không trang điểm,

trên đầu lại chít khăn xô đại tang,

nhưng nhan sắc của cô gái làm họa sĩ Nguyễn Cát Tường ngơ ngẩn.

Sau mấy phút choáng váng,

họa sĩ Nguyễn Cát Tường hoàn hồn và chạy theo cô gái. Lễ nghi lúc ấy không cho phép trai gái làm quen sỗ sàng,

họa sĩ Nguyễn Cát Tường dò la biết được cô gái kia tên là Nội cũng ở

Bắc Ninh và là con gái một chủ xưởng dệt ren vừa qua đời.

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường xã giao với người kéo xe của cô Nội để nhờ đưa thư. Sau mấy lần thư đi thư lại và thưởng không ít bạc cho người kéo xe,

họa sĩ Nguyễn Cát Tường được

thông báo rằng cô Nội hẹn ông ở chuyến tàu Bắc Ninh – Hà Nội dịp cuối tuần.

Đúng giờ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường chưng diện bảnh bao để đứng đợi cô Nội ở ga Hàng Cỏ.

Cô Nội xuống tàu thật, với hai chiếc va li to đùng. Họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhào đến, cúi chào cô Nội rất điệu đàng kiểu quý ông.

Cô Nội hơi ngơ ngác nhưng vẫn không tỏ thái độ gì, chỉ nhìn xuống… hai cái va li. Dù không phải loại người khỏe mạnh, nhưng họa sĩ Nguyễn Cát Tường cũng tỏ ra ga- lăng, hai tay nhấc bổng hai cái va li lên.

Cứ thế, nàng nhẹ nhàng đi trước,

chàng hổn hển theo sau.

Ra khỏi cổng ga, nàng đi thẳng vào… đồn cảnh sát.

Hơi khó hiểu, nhưng chàng cũng vào luôn và hồn xiêu phách tán khi nghe nàng tố giác tội phạm:

“Ông này lấy cắp hai cái va li của tôi!”.

Nhân chứng và vật chứng đều có đủ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường không biết cách nào biện hộ cho bản thân,

đành lấy mấy lá thư của cô Nội mà mình lúc nào cũng mang bên mình để

chứng minh cả hai có quan hệ với nhau. Cô Nội khăng khăng

“không phải chữ của tôi”,

và mượn giấy bút của cảnh sát để biểu diễn chữ viết hoa mỹ gấp trăm lần thứ chữ viết mà họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhận được.

Trời đất như sụp đổ dưới chân họa sĩ Nguyễn Cát Tường.

Cô Nội thì nhận lại hai cái va li để đi xa rồi, còn họa sĩ Nguyễn Cát Tường phải ngồi ở đồn cảnh sát để tường trình sự việc và chờ người của báo Phong Hóa đến bảo lãnh.

Tất nhiên, thuở đó nhà văn Nhất Linh – chủ báo Phong Hóa cũng là nhân vật có quyền lực, nên họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhanh chóng thoát nạn.

Bấy giờ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường mới vỡ lẽ bị người kéo xe giở trò lừa đảo.

Cái gọi là thư của cô Nội, đều do người kéo xe tự viết để mong có mấy

đồng tiền thưởng từ họa sĩ Nguyễn Cát Tường.

Oan gia ngõ hẹp, mấy ngày sau họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhận được trát của tòa án.

Lý do, cô Nội về nhà kể lại cho mẹ nghe những điều đã xảy ra trên Hà Nội.

Và bà góa chủ xưởng thêu ren ở

Bắc Ninh quyết không buông tha kẻ đã bôi nhọ thanh danh con gái cưng của mình bằng sự vu vạ “viết thư cho trai”. Thủ phạm là người kéo xe bị vạch mặt, nhưng họa sĩ Nguyễn Cát Tường vẫn thua kiện và phải

“bồi thường một đồng danh dự”

cho cô Nội.

Hình ảnh cô Nội ngỡ đã tan thành mây khói trong giấc mộng của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, thì cái câu

“hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”

lại ứng nghiệm.

Tuy chồng đã qua đời, nhưng cam kết cung cấp nguyên liệu cho việc may áo dài vẫn được người vợ thừa kế xưởng dệt ren thực hiện.

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường được mời xuống Bắc Ninh để gặp mặt tiếp tục thỏa thuận cho một thương vụ êm thắm. Thật bất ngờ, cô gái của bà chủ xưởng thêu ren thay mẹ rót trà mời khách, không ai khác, chính là cô Nội.

Không giống như sự giận dữ trước đây đối với kẻ xúc phạm con gái mình,

mẹ của cô Nội hết sức khen ngợi

tài năng của họa sĩ Nguyễn Cát Tường và không giấu giếm ý muốn nhận họa sĩ Nguyễn Cát Tường làm con rể.

Cuối năm 1936, sau khi mãn tang

thân phụ, Nguyễn Thị Nội xuất giá.

Đám cưới được tổ chức tưng bừng ở

Bắc Ninh. Trong ngày vu quy, cô dâu Nguyễn Thị Nội mặc chiếc áo dài do

tân lang Nguyễn Cát Tường thiết kế.

Vốn có gien kinh doanh của gia tộc, Nguyễn Thị Nội từ ngày làm vợ họa sĩ Nguyễn Cát Tường, đã giúp chồng phát triển thương hiệu áo dài Lemur rất thịnh vượng tại Hà Nội. Hiệu may Lemur với đặc sản áo dài được mở tại số 16 phố

Lê Lợi, trở thành địa chỉ nổi tiếng nhất về y phục phụ nữ.

Bà chủ Nguyễn Thị Nội không chỉ

khéo léo chiều chuộng khách hàng,

mà còn là người mẫu thuyết phục nhất để người ta yêu thích chiếc áo dài.

Cũng nhờ người mẫu Nguyễn Thị Nội, họa sĩ Nguyễn Cát Tường có cảm hứng sáng tạo rất nhiều mẫu áo dài, để in thành cuốn sách

“50 mẫu y phục phụ nữ Lemur”

do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành.

Năm 1939, hiệu may Lemur chuyển về số 14 phố Hàng Da.

Và tại địa chỉ này, bà Nguyễn Thị Nội đã mở phòng trà Thiên Hương quy tụ những nghệ sĩ lừng lẫy nhất thủ đô

hội ngộ hàng đêm.

Bà Nguyễn Thị Nội sinh cho họa sĩ Nguyễn Cát Tường cả thảy 5 người con, 3 trai 2 gái.

Ngày 17/12/1946, họa sĩ Nguyễn Cát Tường qua đời, hiệu may Lemur cũng đóng cửa.

Sau năm 1954, bà Nguyễn Thị Nội đưa gia đình vào Sài Gòn, và một mình làm lụng nuôi các con khôn lớn.

Bây giờ bà Nguyễn Thị Nội cũng đã thành người thiên cổ, nhưng những ngày bà cùng chồng mình – họa sĩ Nguyễn Cát Tường quảng bá chiếc áo dài, xứng đáng được thế hệ sau truyền tụng. Bởi lẽ, tình yêu của họ đã giúp người Việt Nam có được một trang phục truyền thống mang vẻ đẹp quyến rũ, như nhà thơ Nguyên Sa bồi hồi: 

“Có phải em mang trên áo bay/

Hai phần gió nổi một phần mây/

Hay là em gói mây trong áo/

Rồi thở cho làn áo trắng bay”,

hoặc như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên xao xuyến:

“Tháng giêng em áo dài trang nhã/

Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam/

Đài các chân ngà ai bước khẽ/

Quyện theo tà lụa cả phương Đông”.

Mời nghe radio

https://nongnghiep.vn/…/hoa-si-nguyen-cat-tuong-hanh…

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH THEO GƯƠNG MẪU THÁNH GIA NA-DA-RÉT –  Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

 LỄ THÁNH GIA

 XÂY DỰNG GIA ĐÌNH THEO GƯƠNG MẪU THÁNH GIA NA-DA-RÉT –  Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  

 (Suy niệm lễ Thánh gia thất)

 Sứ điệp: Hãy chiếu theo khuôn mẫu Thánh gia Na-da-rét để xây dựng “Hội thánh tại gia” của mình.

 ***

Nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, người cha, người mẹ cũng như con cái trong gia đình được trở nên chi thể của Chúa Giê-su (GLHTCG số 1.267. Thư I Cr 6, 15; 12, 27) và được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLHTCG 1.265. 2Pr 1,4). Vì thế họ được trở nên thánh và gia đình họ là nơi có thánh cha, thánh mẹ, thánh con… sum họp nên được Giáo hội và đặc biệt là Công đồng Vatican II và thánh giáo hoàng Gioan Phao-lô II xác nhận rằng đó là một Hội thánh qua câu nói: “Gia đình Kitô hữu là Hội thánh tại gia .”

 Noi gương Thánh gia Na-da-rét để xây dựng Hội thánh tại gia

Để có thể xây dựng một công trình kiến trúc có tính mỹ thuật và chất lượng thì trước hết cần phải có một mô hình hay một bản  thiết kế hoàn chỉnh. Người thợ xây chỉ việc chiếu theo bản thiết kế hay mô hình đó để thi công đúng theo từng chi tiết thì công trình sẽ được hoàn thành tốt đẹp.

 Trong việc xây dựng các hội thánh tại gia cũng  vậy, các Ki-tô hữu cũng cần một mô hình, một bản thiết kế hoàn chỉnh. Chính Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người đã bỏ ra 33 năm kiến tạo nên mô hình tuyệt hảo là Thánh gia Na-da-rét, để làm mẫu mực cho tất cả các hội thánh tại gia khác dựa theo đó mà xây dựng thánh gia của mình.

Vậy thì, muốn xây dựng gia đình theo khôn mẫu thánh gia Na-da-rét, mỗi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba đấng thánh trong thánh gia nầy, cụ thể là:

– Người chồng phải yêu thương, tôn trọng và phục vụ vợ, con như thánh Giuse đã thực hành đối với Đức Mẹ và Chúa Giê-su;

– Người vợ phải yêu thương và chăm sóc chồng, con như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ Chúa Giê-su và thánh Giuse;

– Cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giê-su hết tình;

– Con cái trong gia đình phải hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giê-su đã làm đối với Cha Mẹ Ngài.

 Tuy nhiên, có người hỏi: Người chồng, người vợ, những đứa con trong nhà… chỉ là người phàm, thì có xứng đáng để được chăm lo, phục vụ… như là phục vụ cho Chúa không?

Thưa, hoàn toàn xứng đáng! Rất xứng đáng để mỗi người chúng ta chăm lo và phục vụ.

Tại sao? Vì mỗi người tín hữu là chi thể của Chúa Giê-su, là hiện thân của Chúa Giê-su, có Chúa hiện diện trong mỗi người và nên một với mỗi người, nên rất đáng được yêu thương, chăm sóc, phục vụ. Hãy nhớ lại lời Chúa Giê-su dạy: “Những gì các con đã làm cho những người này là làm cho chính Ta.”

 Lạy Chúa Giê-su,

Chúng con hết lòng tạ ơn Chúa vì đã nâng gia đình chúng con lên bậc thánh gia.                                                            

Nguyện xin Chúa, Mẹ Maria và thánh cả Giu-se hằng hiện diện trong gia đình chúng con, giúp chúng con biết quý trọng gia đình mình vì đó là hội thánh nhỏ của Chúa và cố công xây dựng gia thất chúng con nên giống Thánh gia của Chúa. Amen. 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  

From: NguyenNThu


 

GP Cần Thơ sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Thánh LM Trương Bửu Diệp năm 2026

Ba’o Nguoi-Viet

December 21, 2025

CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Giáo Phận Cần Thơ, Việt Nam, sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp vào Thứ Năm, 2 Tháng Bảy, 2026, tại Trung Tâm Hành Hương Tắc Sậy, xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.

Hôm Thứ Sáu, 19 Tháng Mười Hai, Giám Mục Lê Tấn Lợi, giám mục Giáo Phận Cần Thơ, gởi ra thông cáo cho biết như vậy.

Tượng Linh Mục Trương Bửu Diệp tại văn phòng Truong Buu Diep Foundation, Garden Grove. (Hình minh họa: Facebook Truong Buu Diep Foundation)

“Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, Tòa Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ hân hoan loan báo một niềm vui trọng đại của giáo phận và của giáo hội tại Việt Nam: Tòa Thánh đã chính thức chấp thuận việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước cho Tôi Tớ Chúa – Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, do đặc sứ của Đức Thánh Cha Leo XIV là Đức Hồng Y Luis Antonio G. Tagle, quyền bộ trưởng Bộ Loan Báo Tin Mừng, chủ sự,” thông cáo cho biết.

Giám Mục Lê Tấn Lợi cho biết thêm: “Đây là hồng ân đặc biệt Chúa ban cho giáo phận chúng ta, đồng thời là niềm khích lệ lớn lao cho mọi thành phần dân Chúa noi gương Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trung thành sống đức tin, nồng nàn yêu mến Chúa và tận tâm hy sinh phục vụ tha nhân.”

“Xin toàn thể cộng đoàn dân Chúa hiệp thông trong lời tạ ơn Thiên Chúa, đồng thời sốt sắng cầu nguyện cho công việc chuẩn bị và tổ chức Thánh lễ Phong Chân Phước được diễn ra tốt đẹp và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng,” vị giám mục chánh tòa Cần Thơ thêm.

Giám mục kêu gọi: “Tôi tha thiết kêu gọi quý linh mục, tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân, trong khả năng và trách nhiệm của mình, nhiệt tình cộng tác và chung tay góp phần để việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Phanxicô Trương Bửu Diệp được sốt sắng, chu đáo và tràn đầy ý nghĩa đức tin.”

Được biết đây là lần đầu tiên có một Thánh Lễ Phong Chân Phước được cử hành tại Việt Nam. 

Thông cáo của Giám Mục Lê Tấn Tới nói về việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Hình: Giáo Phận Cần Thơ)

Tiểu sử Linh Mục Trương Bửu Diệp

Theo Vatican News, Linh Mục Trương Bửu Diệp sinh ngày 1 Tháng Giêng, 1897, tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Đức, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Thân phụ của linh mục là ông Trương Văn Đặng và thân mẫu là bà Lê Thị Thanh. Năm 1904, sau khi mẹ qua đời, vị linh mục tương lai theo cha sang tỉnh Battambang, Cambodia, sinh sống.

Năm 1909, linh mục vào Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng, sau đó, tiếp tục tu học tại Đại Chủng Viện Phnom Penh, Cambodia, và được thụ phong linh mục tại thủ đô nước này năm 1924.

Từ năm 1924 đến năm 1927, linh mục được bổ nhiệm làm phó xứ Hố Trư, một họ đạo của người Việt Nam sinh sống tại tỉnh Kandal, Cambodia. Từ năm 1927 đến năm 1929, Linh Mục Trương Bửu Diệp về làm giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng.

Từ năm 1930, linh mục được bổ nhiệm làm chánh xứ họ đạo Tắc Sậy, tỉnh Bạc Liêu, nay thuộc xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.

Suốt 16 năm thi hành sứ vụ, linh mục tận tụy chăm sóc đoàn chiên, đặc biệt yêu thương người nghèo, không phân biệt lương giáo. Giữa thời loạn lạc chiến tranh, dù được khuyên lánh nạn, linh mục vẫn kiên quyết ở lại với giáo dân, khi nói: “Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên.”

Ngày 12 Tháng Ba, 1946, Linh Mục Trương Bửu Diệp bị Nhật bắt cùng với hơn 70 giáo dân họ Tắc Sậy. Linh mục đứng ra tranh đấu cho dân, đồng thời an ủi những người cùng bị giam. Sau lần thứ ba bị mời đi làm việc, linh mục không trở về. Sau đó vài ngày, giáo dân tìm thấy xác linh mục tại một cái ao, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.

Thi hài linh mục được vớt lên và chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo, Bạc Liêu, đến năm 1969 thì được di dời về an táng tại Tắc Sậy, nơi ngày nay trở thành điểm hành hương của đông đảo tín hữu kính nhớ một vị mục tử đã sống và chết vì đoàn chiên.

Sau khi linh mục qua đời, rất nhiều tín hữu bắt đầu đến kính viếng mộ linh mục, xin linh mục chuyển cầu và nhận được nhiều phép lạ.

Nhà thờ Tắc Sậy ở xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau. (Hình: Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam)

Án phong Chân Phước 

Năm 2013, Giám Mục Tri Bửu Thiên, giám mục Giáo Phận Cần Thơ,  mở án điều tra cấp giáo phận, thu thập chứng cứ, lời chứng, và các phép lạ. Hồ sơ được hoàn tất vào năm 2017 và được gửi sang Vatican. Năm 2019, Bộ Tuyên Thánh kết luận điều tra có giá trị để khởi sự án phong Chân Phước.

Ngày 25 Tháng Mười Một, 2024, trong cuộc tiếp kiến dành cho Hồng Y Marcello Semeraro, bộ trưởng Bộ Phong Thánh, Đức Giáo Hoàng Francis cho phép bộ ban hành sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của Linh Mục Trương Bửu Diệp (bị giết vì sự căm thù đức tin).

Trong thư đề ngày 3 Tháng Mười Hai, gởi đến Linh Mục Cleber Willian Lopes Pombal, thuộc Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ, Tổng Giám Mục Edgar Pena Parra, phụ tá quốc vụ khanh Tòa Thánh Vatican, cho biết, theo ý định của Đức Giáo Hoàng Leo XIV, nghi thức tuyên phong Chân Phước cho Đấng Đáng Kính Tôi Tớ Chúa Phanxicô Trương Bửu Diệp sẽ được cử hành vào vào Tháng Bảy, 2026, như đã nêu ở trên.

Nhà thờ Tắc Sậy 

Theo trang web vietnamtourist.com, nhà thờ Tắc Sậy, hay còn biết đến là nhà thờ Cha Diệp, được xem là một trong những nhà thờ Công Giáo đẹp nhất miền Tây sông nước. Đây cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của Linh Mục Trương Bửu Diệp.

Nhà thờ được xây dựng năm 1925 và Linh Mục Trần Minh Kính là chánh xứ đầu tiên, từ Tháng Tám, 1926. Năm 1930, Linh Mục Trương Bửu Diệp là chánh xứ.

Tên Tắc Sậy xuất phát từ đặc điểm địa hình vùng này, có nhiều lau sậy, muốn đi vào nhà thờ phải đi qua một con đường tắt. Do người Nam biến âm “tắt” thành “tắc,” cho nên có tên Tắc Sậy.

Ngày nay, nhà thờ là một trong những điểm hành hương nổi tiếng nhất Việt Nam, thu hút nhiều du khách và giáo dân đến chiêm ngưỡng, dâng lễ, cầu nguyện, và khấn vái,…nhất là trong dịp Tết, những ngày lễ lớn của người Công Giáo, và ngày giỗ Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Đ.D.)


 

NGHĨ KHÁC ĐI ĐỂ HẠNH PHÚC

Những Câu Chuyện Thú Vị

– Khi chán nản, hãy nghĩ xem mình còn lại bao nhiêu ngày để dằn vặt, còn bao nhiêu thời gian để phung phí? Bạn vui, một ngày cũng qua đi, bạn buồn một ngày cũng kết thúc. Nếu nhận ra điều này hẳn sẽ không dễ dãi để cuộc sống mình âm u nữa.

– Khi phiền muộn, hãy nghĩ xem thật ra cuộc sống là những phép trừ, gặp nhau một lần là ít đi một lần, sống hết một ngày là giảm đi một ngày, có gì đáng để phí hoài? Không quên tình nghĩa, không nghĩ thị phi, không chấp oan trái, không nợ nần ai, không thẹn với lương tâm là được.

– Khi thấy bi thương, hãy xem cuộc sống là một hành trình, chúng ta đến đây hai tay trắng thì rời đi cũng sẽ như vậy, không thể mang theo dù chỉ là hạt bụi hay một áng mây bay. Những công danh lợi lộc, những thế thái nhân tình, đều phải để lại. Hiểu rõ điều này rồi thì có gì phải bận tâm mà phiền lòng?

Khi không được như ý, hãy so sánh với sự bận rộn của những người giàu có, chúng ta sống biết đủ chính là niềm hạnh phúc. Rồi nhìn qua những người đang đau khổ trong bệnh viện, chúng ta vẫn mạnh khỏe chính là niềm hạnh phúc. Và hãy xem trên thế giới một giây có bao nhiêu người phải rời đi, chúng ta vẫn còn sống chính là niềm hạnh phúc… Con người muốn có một đời sống khỏe thì tâm phải đơn giản, thân phải nhẹ nhàng.

– Khi nổi giận, hãy nghĩ xem có nên vì những kẻ không đáng mà ấm ức? Có cần vì những việc không quan trọng mà bực mình? Ăn uống đúng cách, làm việc điều độ, vận động vừa đủ, nghỉ ngơi hợp lí, khoản nào tiết kiệm thì tiết kiệm, phần nào nên tiêu thì chi ra. Bạn tốt thì gia đình và người thân mới tốt, mọi người đều sẽ tốt.

– Khi tính toán, hãy nghĩ xem con người đi một vòng trong thế gian đều trở về điểm 0, sao phải chi li so bì, không biết nhường nhịn? Nói nhiều thì tổn thương người, tính nhiều thì tổn thần khí, chi bằng đừng so đo nữa, làm một người vui vẻ dễ chịu, không thẹn với lòng!

Làm người, còn sống được là tốt.

Có cơm để ăn, có nước để uống, có áo để mặc, có giường để ngủ, có núi để leo, có sách để đọc, có việc làm ổn định đó chính là hạnh phúc.

Bài và ảnh sưu tầm.

Mỹ tấn công tổ chức Nhà nước Hồi giáo tại Nigeria đúng vào ngày Giáng Sinh – RFI

RFI

Cuộc tấn công của Mỹ nhắm vào các lực lượng thuộc tổ chức Nhà nước Hồi giáo (Daech / IS) tại Nigeria đã diễn ra đúng vào ngày Giáng Sinh, 25/12/2025. Trên mạng Truth Social, tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố : « Chúc mừng Giáng Sinh với mọi người, kể cả với những phần tử khủng bố đã chết ». Ông đe dọa « sẽ có thêm nhiều kẻ khủng bố khác bị tiêu diệt nếu việc thảm sát tín đồ Thiên Chúa Giáo tiếp diễn ».

Đăng ngày: 26/12/2025 

 

Tại một sạp báo ở Lagos, Nigeria, ngày 26/12/2025: Trang nhất của các báo đưa tin về những cuộc không kích của Mỹ nhắm vào các phần tử Nhà nước Hồi giáo tại Nigeria. REUTERS – Sodiq Adelakun

Trọng Thành

Theo AFP, Nigeria đã xác nhận các vụ tấn công của Mỹ, đồng thời « cam kết hợp tác » với các đối tác quốc tế trong đó có Mỹ, nhằm chống lại mối đe dọa khủng bố và bạo lực cực đoan, nhưng bác bỏ thông tin về làn sóng thảm sát nhắm vào người Thiên Chúa Giáo.

Thông tín viên Loubna Anaki tường trình từ New York :

« Tôi đã cảnh báo những phần tử khủng bố này, nếu họ không ngừng thảm sát tín đồ Thiên Chúa Giáo, họ sẽ phải trả giá đắt. Và tối nay họ đã phải trả giá ». Với những lời lẽ như trên, tổng thống Mỹ thông báo Washington đã tiến hành nhiều cuộc không kích tại Nigieria. Nhiều cuộc oanh kích nhắm vào các vị trí của lực lượng Nhà nước Hồi giáo tại bang Sotoko ở miền bắc.

Theo lời tư lệnh lực lượng Mỹ tại châu Phi, cuộc can thiệp quân sự này được tiến hành theo đề nghị của chính quyền Nigeria, và « nhiều phần tử khủng bố đã bị tiêu diệt ». Đây là lần đầu tiên Mỹ tiến hành một cuộc can thiệp quân sự như vậy tại Nigeria trong bối cảnh từ nhiều tuần lễ nay, Donald Trump khẳng định tại Nigeria đã diễn ra « làn sóng thảm sát » nhắm vào tín đồ Thiên Chúa Giáo.

Tuyên bố của ông Trump bị chính quyền địa phương bác bỏ. Tuy nhiên điều này không khiến chủ nhân Nhà Trắng ngừng đe dọa tiến hành can thiệp vũ trang. Bộ trưởng Chiến Tranh Pete Hegseth đã hoan nghênh chiến dịch quân sự đêm qua và cảnh báo có thể sẽ có các chiến dịch khác.

Hơn một nửa trong tổng số 180 triệu dân của Nigeria theo đạo Hồi, chiếm đa số khu vực phía bắc. Phía nam, đa số dân Nigeria theo Thiên Chúa Giáo. Theo AFP, chính quyền Nigeria và giới nghiên cứu độc lập không thừa nhận nạn truy bức tôn giáo tại quốc gia này, một cáo buộc thường xuyên được nêu ra bởi phe chủ trương ly khai tại Nigeria, vốn có nhiều ảnh hưởng tại Washington.


 

LÒNG THAM VÔ ĐÁY NHƯNG CHỈ CẦN NHỮNG MẨU BÁNH VỤN VẶT

Luân Lê

 Mỗi chúng ta ai cũng có nhu cầu để được sống tốt đẹp và thịnh vượng hơn, nhưng không đồng nghĩa với việc gắng sao cho thoả lòng tham của mình đối với những giá trị của người khác và để làm những điều bất chính. Lòng tham là con đường nhanh nhất dẫn đến tai hoạ và những thảm kịch.

Mới nghe thì có vẻ như đã thấy nhận định này của tôi hàm chứa trong đó đầy những mâu thuẫn và sẽ có nhiều người muốn mắng tôi ngay khi đọc những câu này. Thế nhưng xin nhẫn nại thêm một chút và chúng ta cùng nhau mổ xẻ điều tôi vừa nói.

Chẳng phải gì to tát đâu xa, tôi nói ngay đến việc người ta hành xử với nhau tàn ác còn hơn cả loài cầm thú mà chúng sẵn sàng giết thịt nhau khi có loài nào đó tấn công cái tổ hoặc cướp đi miếng ăn của nó. Có phải gì hiếm hoi đâu, chuyện những người không may mà đi trộm chó, mèo, gà, trâu hay các tài sản khác của người dân ở những vùng quê, người ta phát hiện ra thì những tên trộm cắp kia chỉ có nước chết hoặc thương tật đầy mình. Dân làng xúm vào đánh đập, gậy gộc đủ cả, cứ thế mà nã vào đầu, phang vào chân, tay, mạng sườn kẻ cắp cho đến khi chết. Thế có phải là người ta quyết bảo vệ tài sản của mình đến cùng bằng những hành động vô nhân tính hay không.

Những hành vi ấy quả là man rợ không có đất nước văn minh nào làm thế như dân chúng ta. Thử hỏi luật pháp và chính phủ còn có giá trị gì nữa để mà duy trì và điều chỉnh hành vi con người. Nhìn vào đấy thì thấy rõ là người dân sẽ làm mọi cách kể cả là hung bạo và dãn man nhất để quyết bảo vệ cho được tài sản của mình, dù chẳng phải gì to tát. Hiện trạng này ở các vùng quê thì không thiếu. Vậy có phải là họ đang hành xử không cả bằng thời thực dân, phong kiến? Ngày xưa còn có công đường để kêu quan khi làng xóm mâu thuẫn, bắt được kẻ trộm, cướp thì đều lôi lên quan mà tâu bẩm và xét xử theo luật lệ. Chứ cũng không đến nỗi như bây giờ. Mà một dân tộc tàn ác với nhau như thế có khi nào đất nước văn minh và tốt hơn lên được? Mà nó chỉ làm cho con người ngày càng tàn bạo và coi thường luật pháp hơn thôi, như thế thì cái chính phủ kia cũng bị xem thường chứ đâu có giá trị gì để mà người dân cần đến. Quả là nguy cấp cho một đất nước mà con người sẵn sàng hung khí, hô hào một cách hung hãn để mà hành hạ đồng loại mình. Thật đau đớn và bại hoại hết chỗ nói.

Với chuyện con chó, con trâu đã kinh khủng như vậy. Vậy còn chuyện hôi của khi có người bị tai nạn trên đường, chuyện ngang nhiên nhặt tài sản của người khác mang về sử dụng. Đấy là hành vi khác gì trộm cướp và coi khinh luật pháp đâu. Thế thì quả là loạn lạc thực sự rồi chứ còn phải chờ đợi đến đao binh, bom đạn, chém giết gì mới cho là loạn lạc.

Với cái miếng ăn và tài sản của mình thì bảo vệ bằng được, nhưng sẵn của người khác hở ra là lấy cắp. Mà cũng bởi lối suy nghĩ này nên hầu như là ai cũng tính vào chính phủ để có quyền chức mà tìm cách đục khoét của công, làm giàu cho mình và gia đình. Cứ nhìn vào tệ trạng tham nhũng, sự suy thoái về con người, các cơ sở hạ tầng quốc gia thiếu thốn, sơ sài, yếu kém thì có thể thấy rõ nó là kết quả của việc vơ vét cho đầy túi tham của mình mà không để tâm gì đến việc chung của đất nước… tất cả đều xuất phát từ lòng tham vô đáy mà nên.

Thế nhưng đó chỉ là những cái vụn vặt và nhỏ mọn thôi, chỉ như những mẩu bánh có thể ăn được ngay tức khắc. Còn cái lớn hơn như chuyện chính sách kinh doanh làm ăn, chuyện đánh thuế tiêu dùng, chuyện chèn ép thương nhân, chuyện bị gây phiền hà trong công việc, chuyện bị cướp đoạt tài sản bằng cách tham nhũng ngân khố quốc gia với những con số khổng lồ, mà tất cả những cái đó rất thiết thực đánh vào túi tiền và chất lượng sống, vào điều kiện kinh doanh và cơ hội phát triển của người dân, thì dân chúng lại thờ ơ như chuyện riêng của nhà quan, chẳng màng gì cả, vì người ta không thấy nó bị thiệt hại gì như việc tên trộm, cướp lẻn vào nhà bắt trộm con chó hay dắt trộm trâu, bò của người ta đi mất. Nhận thức của người dân khiến tôi lo lắng tới những hậu họa khôn lường, vì nếu một lúc nào đó họ không thể lao động đủ để đóng thuế, sông hồ và không khí ô nhiễm, thực phẩm độc hại, bệnh viện thì tăng giá, giáo dục thì nâng học phí, lộ phí đi đường và xăng, dầu, điện, nước cứ leo thang. Thế thì họ định sống thế nào và làm gì để mà trả cho những thứ đó hay lại nhăm nhăm để cướp giật của người khác?

Mà cũng vì cái lòng tham vô đáy nhưng lại dễ thỏa mãn bằng những cái nhỏ nhặt này của người Việt mà các quốc gia khác lợi dụng điểm yếu đó để khai thác và bóc lột chúng ta từ tài nguyên thiên nhiên đến trí tuệ và sức người. Họ chỉ cần rót cho ít vốn vào làm ăn, đầu tư, hoặc cho vay với lãi suất thấp, chuyển giao công nghệ giá rẻ (mà có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, độc hại với con người, năng suất thấp, vận hành tốn kém và lại mau hỏng), cam kết vài điều khoản mà có vẻ như có lợi cho chính phủ, cho người dân bằng cách chia ít lợi nhuận hoặc chia sẻ quyền lợi kinh tế, thế là làm ráo, làm tuốt và làm nhanh cật lực. Bởi thế mà chúng ta cứ bị bóc lột sau khi đã bị dụ dỗ và mua chuộc bằng ít lợi ích cho thỏa cái lòng tham của mình. Đây chính là vấn đề lớn của dân tộc mà chúng ta phải nhận ra và thay đổi, nếu không thì chúng ta sẽ luôn bị mua chuộc và lợi dụng để cho người khác làm ăn mà thôi.

Quốc gia nào mà xây dựng bằng lòng tham, thì quốc gia đó sẽ sụp đổ bởi những mẩu bánh mỳ.

Bởi vậy tôi mới nói, đa phần người dân thì lòng tham vô đáy, nhưng chỉ cần những mẩu bánh vụn vặt để no cái bụng và ấm cái thân là đã đủ rồi, chẳng cần gì khác cả. Quốc gia lụn bại và suy vong cũng từ đây mà ra.

(Trích: MỘT NGƯỜI QUỐC DÂN)


 

 Bài học về chánh trị mà ai cũng thuộc – Nguyễn Gia Việt

Lê Vi

Nguyễn Gia Việt

Chúng ta không cần đọc tin “thuyết âm mưu” kiểu ai đi ai ở, ai giành ai nhường. Vì suy cho cùng ai cũng như ai thôi.

Làm chánh trị đại kị nhứt là biến mình thành kẻ thù của toàn dân. Với kiểu xốc xã hội lên mà không thấy lợi lộc gì, chỉ thấy mất mát hao tốn nhiều hơn.

Xài hình phạt tràn lan trong khi dân hoàn toàn vô sản. Ngày xưa Lão Tử  từng nói, quản trị như chiên cá nhỏ, con cá nhỏ khi chiên chỉ trở một lần, cứ lấy đũa trở riết cá nát bét.

Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan. Đó là câu mở đầu của Tam Quốc Chí.

Không sợ, phải nhìn và bước qua khi bánh xe lịch sử xoay chuyển.

Lịch sử là của chung dân tộc, không phải của hương hoả dòng họ hay cá nhân, đảng phái nào mà muốn làm gì cũng đặng.

Lịch sử buồn nhưng lịch sử công bằng. Lịch sử đi qua và vẫn còn đâu đó. Không thể xóa nhòa hay che ép nó đặng. Tại vì lịch sử khúc đó làm người ta nhớ hoài.

Lịch sử có tánh lặp lại.

Vũ Tài Lục nói “Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chính trị”.

Không có chế độ chánh trị nào là “mãi mãi” dù là cai trị tàn bạo.

Nhìn lịch sử Đông Tây thấy rõ ràng hễ là chế độ chánh trị thì cũng có thời, tức là có lên có xuống, lên làm sau thì xuống như vậy.

Nghiệp quả.

Chúng ta thấy nhà Trần ở VN lợi dụng hôn nhân lên ngôi thì sau đó bị nhà Hồ cũng dùng hôn nhân mà lật.

Chu Nguyên Chương dùng khởi nghĩa nông dân lật Nguyên Mông lập ra Minh triều thì sau đó cũng bị một cuộc khởi nghĩa nông dân khác do Lý Tự Thành lật đổ.

Có những triều đại, thể chế hùng cường, sức ảnh hưởng của nó kinh khủng.

Bên Châu Âu chúng ta nhìn lại thời kỳ hưng thịnh của đế chế Công Giáo Vatican khi từ thần quyền lan qua tới pháp quyền, chánh trị, cai trị và rồi cũng có ngày chựng lại lui vào nhà thờ và trao trả quyền quyết định chánh trị lại cho mọi người dân.

Hay thời đế quốc Anh, khi nữ hòang Victoria còn tại vị mà, đất của Anh trên khắp thế giới đến nổi có câu truyền ”Mặt trời không bao giờ lặn trên đất của đế quốc Anh”, nhưng rồi sau đó các xứ đòi độc lập, Anh cũng cũng phải lui về phía sau, thời thế mà.

Ở Châu Á, sẽ lấy ví dụ quân Mông Cổ và nhà  Nguyên  Mông.

Có một thời người Mông Cổ-đế chế Mông Cổ đặt chân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ kéo dài từ thảo nguyên Mông Cổ xuống Trung Hoa, qua Nhựt Bổn, Triều Tiên, Đại Việt, Miến Điện, Java, sang Ba Tư. Từ vùng đất lạnh giá như Siberia cũng như vùng đất nóng bức Arabia, tới Đông Âu như: Moscou, Vladmir (Nga), Kiev (Ukraine), Varsovie, Cracovie (Ba Lan), Lienitz (Đông Đức), Budapest (Hungary), tiến đến sát thành Vienne (Áo), tiến tới sông Volga…

Quân Mông Cổ tới đâu cũng đốt phá, cướp bóc, giết người, hãm hiếp tàn bạo.

Năm 1271, Hốt Tất Liệt đã tuyên bố thành lập nhà Nguyên, triều đại Nguyên Mông cai trị nước Trung Hoa trong hai thế kỷ 13 và 14, cai trị Trung Hoa 97 năm (1271- 1368). Tuy nhiên sử gia Trung Hoa chỉ công nhận từ năm 1280 là năm nhà Tống không còn cầm quyền nữa đến năm 1368 là năm người Mông Cổ bị đuổi khỏi Trung Hoa, dài 88 năm, gồm 11 đời vua.

Trong 97 năm cai trị, Mông Nguyên đã tàn bạo với Trung Hoa với chánh sách không nhẹ tay.

Nguyên Mông thi hành chánh sách áp bức bóc lột phân chia giai cấp hết sức tàn nhẫn, phân loại như sau: Mông Cổ là số 1,tới là Hồi, Thổ, Tạng, Tây Hạ, Ba Tư …Dưới là  Khiết Đan, Nữ Chân, cuối cùng bét nhứt là Hán mà Mông Cổ gọi là “Nam Nhân”.

Người Hán không được cầm võ khí, không được tụ tập đông người, không được tụ họp đi săn, hành lễ tôn giáo…Mông Cổ diệt 5 họ lớn của người Hán.

Người Mông Cổ được ưu tiên như khi bị tội giết người thì người Mông Cổ chỉ bị phạt bằng gậy và đưa lên biên giới phía Bắc xung vào quân đội, còn người Hán và các dân tộc khác bị xử tử.

Người Hán không được lấy người Mông Cổ làm vợ, nhưng Mông Cổ có quyền lấy thiếp người Hán. Người Hán ít được bổ vào cơ quan hành chánh.

Về thuế khóa, Mông Cổ được miễn, các dân tộc khác nộp 1/3, Hán tộc hay Nam nhân nộp toàn bộ. Ruộng đất của người Hán bị Mông Cổ chiếm đoạt gần hết ,người Hán chỉ làm nô tì, nông nô hạng bét.

Dận số Trung Hoa thời kỳ đầu nhà Nguyên Mông có 100 triệu người, sang cuối triều Nguyên chỉ còn 60 tới 80 triệu người.

Đến cuối nhà Nguyên dân Trung Hoa đói rả ruột. Đê điều không tu sửa nên bể nhiều trận dân chết cả vùng, dân chết đói thê thảm, dịch bịnh tràn lan. Tương truyền nhà Chu Nguyên Chương chỉ còn 3 hột lúa.

Cứ nghĩ những chánh sách giết-cướp-cai trị tàn bạo của Nguyên Mông là mãi mãi?

Không.

Sau những năm đó xuất hiện rất nhiều cuộc khởi nghĩa từ tôn giáo tới nông dân.

Chu Nguyên Chương (1328 – 1398) xuất  thân  từ  gia đình bần nông,năm 17 tuổi, cha và anh đều bị chết vì bịnh dịch, Chu Nguyên Chương phải xuất gia làm sư, vì gặp năm đói, phải đi khất thực ở nhiều nơi .

Từ năm 1352 Chu Nguyên Chương tham gia Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) của Quách Tử Hưng tới tháng giêng năm 1368 Chu Nguyên Chương xưng đế, kể ra có 16 năm chinh chiến.

Khẩu hiệu “Đánh giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, cứu dân tộc Hán”.

Sau khi lên ngôi,trước tình cảnh kinh tế be bét, dân đói tràn lan, Chu Nguyên Chương phải thi hành nhiều chánh sách an dân thời hậu chiến.

Ông nhận thức được rằng: “Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cái cây mới trồng, không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng”.

Chúng ta không thể không nhắc tới sự tàn bạo của nhà Minh khi xâm lăng Đại Việt.

Năm 1407 thời Minh Thành Tổ Chu Đệ, nhà Minh tràn qua chiếm nước Việt thời Đại Ngu của họ Hồ. Sau đó thi hành chánh sách cực kỳ tàn bạo, đốt sách, phá chùa, phá hủy tận diệt nền văn hiến của Việt Nam, bắt hết những trí thức của chúng ta qua Tàu, con nít mà đẹp cũng bắt luôn.

Nhà Minh với Trương Phụ cai trị Việt Nam bằng máu, tàn sát  đốt phá và hủy diệt.

Minh Thành Tổ từng nói  rằng: “An Nam vốn cùng chữ viết và phong tục tập quán giống người Trung Hoa, lại đã từng là đất của Trung Hoa hơn  một ngàn năm trước kia.”

Nhưng rồi chúng ta có Lê Lợi,có Nguyễn Trãi, có khởi nghĩa Lam Sơn..

Kể từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ cai trị Việt Nam và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, thì có 20 năm Minh đô hộ xứ Việt trong máu và máu.

Và từ năm 1416 khi  Lê Lợi chánh thức khởi nghĩa, và năm 1428 khi ông lên ngôi lập ra nhà Hậu Lê, vị chi Lê Lợi có 12 năm chinh chiến.

Thịnh cực tất suy, dân ý thức sẽ làm chánh trị, một cuộc cách mạng.

Chánh trị mà, dân tộc đất nước trường tồn chứ “chế độ chánh trị”cũng có lúc lên có lúc cáo chung thôi, không có gì là mãi mãi hết.

Tuấn kiệt như sao buổi  sớm

Nhơn tài như lá màu thu.

– Nguyễn Gia Việt


 

Vươn mình, nhìn từ bài học Minh trị, Minh mạng

Ba’o Tieng Dan

24/12/2025

Mai Phan Lợi

Dòng chảy lịch sử đôi khi đặt các dân tộc trước những ngã rẽ rất hẹp: Hoặc bước tới bằng một cú nhảy đau đớn, hoặc đứng lại để rồi bị cuốn trôi.

Nhìn vào hai cái tên tưởng như chỉ cách nhau một chữ “Minh” – Minh Trị và Minh Mạng – mới thấy sự khác biệt trong lựa chọn tư duy có thể quyết định số phận của cả một quốc gia.

Và từ những bài học ấy, câu chuyện “vươn mình” hôm nay hiện lên không còn là khẩu hiệu, mà là một đòi hỏi khắc nghiệt của thời đại.

Giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản dưới thời Minh Trị đã chấp nhận tự mổ xẻ chính mình. Thiên hoàng và tầng lớp lãnh đạo trẻ hiểu rằng nếu tiếp tục khép cửa trong chiếc áo giáp truyền thống, Nhật Bản sẽ trở thành miếng mồi của phương Tây.

Vì thế, họ dám làm những việc bị coi là “phản truyền thống”: Bãi bỏ chế độ phiên trấn, xóa đặc quyền của võ sĩ samurai, gửi sứ đoàn Iwakura sang châu Âu – Mỹ học cách tổ chức nhà nước, xây dựng quân đội, cải cách giáo dục.

Đó là một cuộc cách mạng từ trên xuống, quyết liệt và liên tục, chấp nhận trả giá để đổi lấy tương lai. Kết quả là chỉ sau vài thập niên, Nhật Bản bước ra khỏi thân phận một nước phong kiến để trở thành cường quốc công nghiệp.

Trong khi đó, ở Việt Nam cùng thời, triều Minh Mạng lại lựa chọn con đường ngược lại. Trước những biến động dữ dội của thế giới, triều đình ưu tiên sự ổn định nội tại, siết chặt tư tưởng, hạn chế giao thương, bế quan tỏa cảng và duy trì trật tự cũ.

Chân dung vua Minh Mạng (trái) được minh họa trong cuốn sách “Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin-China, exhibiting a view of the actual State of these Kingdoms của John Crawfurd (1783-1868), in ở London năm 1828. Ảnh phải: Thiên hoàng Minh Trị năm 1873. Nguồn: Wikimedia/ Tiếng Dân edit

Những quyết sách ấy xuất phát từ mong muốn bảo vệ nền nếp và quyền lực truyền thống, nhưng hệ quả là đất nước ngày càng lạc hậu, không đủ sức đề kháng khi làn sóng xâm lược của thực dân phương Tây ập đến.

Lịch sử đã ghi lại cái giá của sự chậm trễ ấy bằng cả một giai đoạn mất chủ quyền và đau thương kéo dài.

Đặt hai hình ảnh đó cạnh nhau, người ta dễ nhận ra một điểm chung đáng suy ngẫm: Trong những thời khắc sinh tử, cải cách không bao giờ là con đường bằng phẳng. Nó luôn vấp phải sự phản kháng – khi thì từ thói quen, khi thì từ lợi ích đã ăn sâu vào cấu trúc quyền lực.

Thời Minh Trị, tầng lớp samurai mất bổng lộc đã nổi dậy chống đối. Nhưng triều đình Nhật không “hạ nhiệt” cải cách để xoa dịu họ, mà kiên quyết đi tiếp.

Ngược lại, sự bảo thủ thời Minh Mạng lại được củng cố bởi chính những người hưởng lợi từ trật tự cũ, khiến triều đình càng khó thoát khỏi vòng tự trói mình.

Nhìn về hiện tại, câu chuyện “vươn mình” của Việt Nam cũng đang đứng trước thử thách tương tự. Khi cải cách được đặt ra với mục tiêu tinh gọn bộ máy, chống tham nhũng, thay đổi cách vận hành quyền lực và phân bổ nguồn lực, thì sự kháng cự là điều khó tránh.

Những tiếng nói muốn “giữ nguyên để an toàn”, muốn “lò nguội” để bảo toàn lợi ích, về bản chất không khác nhiều so với tư duy đóng cửa của quá khứ.

Lịch sử cho thấy, nếu cải cách bị ngắt quãng hoặc thỏa hiệp nửa vời, cái giá phải trả thường lớn hơn rất nhiều so với những xáo trộn ngắn hạn.

Điểm đáng chú ý trong phép so sánh Minh Trị – Minh Mạng không nằm ở việc thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo, mà ở bài học về tính liên tục của cải cách.

Nhật Bản đã không thể “hóa rồng” nếu những chính sách duy tân chỉ kéo dài vài năm rồi bị đảo ngược.

Cũng vậy, bất kỳ nỗ lực thay đổi hệ thống nào ngày nay đều cần thời gian đủ dài để chính sách đi vào đời sống, để những hạt giống mới kịp nảy mầm và đơm hoa.

Sự gián đoạn, trong nhiều trường hợp, chính là món quà cho sự trì trệ.

Sau cùng, lịch sử luôn đặt lên vai người cầm lái một áp lực đạo đức nặng nề. Khi đất nước đứng trước cơ hội và thách thức đan xen, việc chọn cải cách hay né tránh không chỉ là quyết định chính trị, mà là lựa chọn mang tính trách nhiệm với các thế hệ tương lai.

Người Nhật thời Minh Trị đã cải cách trong nỗi lo bị nuốt chửng nếu chậm chân. Việt Nam hôm nay cải cách trong khát vọng không bị bỏ lại phía sau.

Hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cùng chung một lời nhắc: nếu không dám thay đổi khi còn có thể, lịch sử sẽ thay đổi thay chúng ta, theo cách khắc nghiệt hơn nhiều.

Vươn mình, vì thế, không phải là câu chuyện của những lời hô hào, mà là sự lựa chọn giữa Minh Trị và Minh Mạng – giữa dấn bước cải cách để sống, hay co mình giữ ổn định để rồi tụt lại.

Lịch sử đã trả lời một lần, và câu trả lời ấy vẫn còn nguyên giá trị cho hiện tại.


 

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Công Giáo Rôma – Chính Trực

 VÌ SAO GIÁO HỘI MỪNG GIÁNG SINH NGÀY 25 THÁNG 12?

Nhiều người cho rằng ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ hội ngoại giáo của người Rôma như Saturnalia, Sol Invictus hay thần Mithra. Tuy nhiên, đa số các học giả ngày nay không đồng tình với giả thuyết này.

Ngày 25 tháng 12 đã ăn sâu vào tâm thức chúng ta mỗi khi nghĩ đến Giáng Sinh – với cây thông, ánh đèn và hình ảnh ông già Noel. Nhưng liệu đó có thật sự là ngày Chúa Giêsu giáng sinh? Và nếu không thể xác định chính xác, vì sao Giáo Hội lại chọn ngày này để mừng biến cố Nhập Thể?

Các Tin Mừng chỉ cung cấp rất ít chi tiết. Chẳng hạn, thánh Luca kể rằng các thiên thần đã báo tin cho những mục đồng đang canh giữ đàn chiên ngoài đồng (Lc 2,8).

Nhưng liệu các mục đồng có ở ngoài đồng vào giữa mùa đông hay không?

Ông Andrew McGowan, Viện trưởng Chủng viện Thần học Berkeley (Đại học Yale), cho rằng chi tiết này “có thể gợi đến mùa xuân, mùa chiên sinh sản”, vì vào tháng 12 lạnh giá, chiên thường được nhốt lại.

Vậy có phải ngày 25 tháng 12 được chọn để thay thế các lễ ngoại giáo không?

Ông McGowan tỏ ra hoài nghi. Theo ông, giả thuyết này tuy phổ biến nhưng gặp nhiều vấn đề. Trước hết, không có bất cứ văn bản Kitô giáo cổ nào nói rằng Giáo Hội cố ý chọn ngày này để đối trọng với các lễ ngoại giáo. Đúng là các tác giả Kitô giáo thời đầu có liên hệ giữa ngày đông chí và Chúa Kitô – chẳng hạn thánh Ambrôsiô gọi Chúa là “Mặt Trời đích thực”, vượt trên các thần linh giả tạo – nhưng các ngài xem đó là dấu chỉ của chương trình quan phòng Thiên Chúa, chứ không phải kết quả của một sự sắp đặt mang tính chiến lược của Giáo Hội.

Khoảng năm 200, thánh Clêmentê thành Alexandria cho biết đã có nhiều ngày khác nhau được đề nghị cho ngày Chúa Giêsu ra đời, như 20 hoặc 21 tháng 4, hay 20 tháng 5. Đáng chú ý là ngài không hề nhắc đến ngày 25 tháng 12.

Theo Jon Sorenson (Catholic Answers), thánh Hippôlytô thành Rôma, trong tác phẩm Chú giải sách ngôn sứ Đanien (khoảng năm 204), đã khẳng định Chúa Giêsu sinh ngày 25 tháng 12. Ngài viết rằng Chúa giáng sinh tại Bêlem vào ngày 25 tháng 12, và chịu khổ hình vào ngày 25 tháng 3.

Trong một tác phẩm khác của Hippôlytô là Biên niên sử, ngài cho rằng Chúa Giêsu sinh ra chín tháng sau ngày tạo dựng vũ trụ. Theo cách tính của ngài, vũ trụ được tạo dựng vào ngày xuân phân, 25 tháng 3, và vì thế, chín tháng sau – tức ngày 25 tháng 12 – là ngày Chúa giáng sinh.

Ông McGowan cho biết rằng đến thế kỷ IV, đã có hai ngày được nhìn nhận rộng rãi là ngày sinh của Chúa Giêsu: ngày 25 tháng 12 tại Tây phương và ngày 6 tháng 1 tại Đông phương, đặc biệt ở Ai Cập và Tiểu Á.

Điều đáng chú ý là thánh Hippôlytô cũng xác định ngày Chúa chịu chết là 25 tháng 3. Vậy phải chăng Giáo Hội còn biết chính xác cả ngày Chúa chịu đóng đinh? Ông McGowan nhận xét rằng, nghe có vẻ lạ, nhưng chìa khóa để xác định ngày Chúa sinh lại nằm ở việc xác định ngày Chúa chịu chết vào lễ Vượt Qua.

Theo Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu bị đóng đinh đúng lúc chiên Vượt Qua đang được sát tế, tức ngày 14 tháng Nisan theo lịch Do Thái. Còn theo các Tin Mừng Nhất Lãm, Bữa Tiệc Ly diễn ra vào đầu ngày 15, và Chúa chịu đóng đinh vào sáng hôm sau – vẫn là ngày 15. Vào khoảng năm 200, Tertullianô thành Carthage cho biết người ta đã tính rằng ngày 14 tháng Nisan tương ứng với ngày 25 tháng 3 theo lịch Rôma. Ngày này về sau được cử hành là lễ Truyền Tin – đúng chín tháng trước ngày 25 tháng 12.

Đức Bênêđictô XVI cũng xác nhận mối liên hệ này trong tác phẩm Tinh thần Phụng vụ. Khi ấy còn là Hồng y Joseph Ratzinger, ngài viết rằng yếu tố quyết định trong việc xác định ngày Giáng Sinh chính là mối liên kết giữa công trình tạo dựng, Thập Giá và mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô.

Tại Đông phương, người ta cũng gắn kết ngày Chúa chịu chết và ngày Chúa được thụ thai, nhưng dựa trên lịch Hy Lạp địa phương. Ngày 14 của tháng xuân đầu tiên – tương ứng với ngày 6 tháng 4 – được coi là ngày Chúa chịu chết và nhập thể; chín tháng sau là ngày 6 tháng 1, ngày mừng Giáng Sinh theo truyền thống Đông phương.

Giám mục Êpiphanô thành Salamis viết rằng ngày 6 tháng 4 là ngày “Chiên Thiên Chúa được cưu mang trong lòng trinh khiết của Đức Trinh Nữ thánh thiện, Đấng đã và đang xóa bỏ tội trần gian.” Cho đến nay, Giáo Hội Armenia vẫn mừng lễ Truyền Tin vào đầu tháng 4 và lễ Giáng Sinh vào ngày 6 tháng 1.

Như thế, ngày 25 tháng 12 không đơn thuần là sự vay mượn từ các lễ hội ngoại giáo, nhưng phát xuất từ một suy tư thần học sâu xa của Hội Thánh sơ khai: mầu nhiệm Nhập Thể, Thập Giá và công trình tạo dựng đều quy hướng về cùng một chương trình cứu độ duy nhất của Thiên Chúa.

Jos Nguyen chuyển ngữ  – Aleteia.org)


 

LUẬT NHÂN QUẢ

 

Bạn hãm hại người khác, thì sẽ có người khác hãm hại bạn.

 Bạn lừa dối người khác, cũng sẽ có người khác lừa dối bạn.”

 Đó không phải là lời nguyền, mà là luật nhân quả vận hành một cách âm thầm nhưng chính xác.

Bởi mọi hành động, dù là thiện hay ác, đều để lại dấu vết – và rồi, sớm hay muộn, cuộc đời sẽ trả lại đúng thứ mà bạn đã gieo ra.

 Khi bạn khiến ai đó tổn thương, đừng nghĩ rằng thời gian sẽ làm họ quên. Thời gian chỉ khiến vết thương lắng xuống, để rồi một ngày, chính bạn sẽ nếm lại cảm giác đó trong một hình thức khác.

 Không phải vì ai đó trả thù, mà vì trời đất có luật công bằng của riêng mình. Người hãm hại kẻ khác tưởng rằng mình thắng, nhưng thật ra họ đang đánh mất lòng tin, danh dự và phước phần của chính mình.

 Người lừa dối tưởng rằng mình khôn, nhưng lại đang gieo mầm nghi ngờ, để rồi mai này chính họ sẽ bị lừa trong cay đắng.

Nhân quả không đến ngay, nhưng một khi đã đến, không ai tránh được

 Sống ở đời, khôn ngoan không phải là mưu mẹo, mà là biết nghĩ cho hậu quả của từng việc mình làm.

 Làm điều đúng, lòng nhẹ. Làm điều sai, tâm bất an.

 Càng sống thiện, càng gặp lành; càng sống ác, càng gặp dữ – ấy là quy luật muôn đời, không ai có thể đổi.

Vì vậy, đừng tìm cách hại người để mình được lợi,vì cái lợi ngắn ngủi hôm nay có thể là cái họa dài lâu ngày mai.

 Hãy sống chân thành, ngay thẳng, và biết ơn, bởi cuối cùng, cuộc đời sẽ luôn trả lại cho bạn đúng những gì bạn đã gieo ra – không hơn, không kém.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

Chuyện thật như đùa – Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

22/12/2025

Diella – Bộ trưởng phụ trách Trí tuệ nhân tạo

Albanie là một nước nhỏ, chưa đến ba triệu dân ở châu Âu. Nước này từng là một quốc gia xã hội chủ nghĩa dưới thời nhà độc tài Enver Hoxha, rồi thoát khỏi chế độ XHCN sau khi Bức tường Berlin và Liên Xô sụp đổ. Nhưng cũng như nhiều nước cựu XHCN khác, Albania mang theo một di sản nặng nề: tham nhũng ăn sâu vào bộ máy quyền lực. Đã lâu người ta không còn nhắc đến đất nước nhỏ bé ấy. Bỗng nhiên, năm 2025, Albania gây chấn động dư luận quốc tế khi tuyên bố bổ nhiệm “cô” Diella làm bộ trưởng, một bộ trưởng hoàn toàn được tạo ra bằng trí tuệ nhân tạo.

Diella trong tiếng Albania có nghĩa là “Mặt Trời”, được chọn như biểu tượng của ánh sáng và minh bạch. Trước đó, Diella chỉ là một trợ lý ảo trên cổng dịch vụ hành chính điện tử e-Albania, giúp người dân làm giấy tờ. Đến tháng 9 năm 2025, trong lễ ra mắt nội các mới, Thủ tướng Edi Rama bất ngờ công bố Diella trở thành “Bộ trưởng Nhà nước phụ trách Trí tuệ nhân tạo”, đồng thời giao cho cô một nhiệm vụ cực kỳ nhạy cảm: giám sát toàn bộ các gói thầu công, lĩnh vực vốn gắn chặt với tham nhũng và lợi ích nhóm. Theo Thủ tướng Rama, giao việc này cho một AI sẽ giúp quy trình trở nên “100% không tham nhũng”, bởi máy móc thì không quan hệ, không thân hữu, không phong bì. Hình ảnh Diella được dựng như một phụ nữ mặc trang phục truyền thống Albania, với giọng nói và gương mặt của một nữ diễn viên thật.

Khi Diella xuất hiện và phát biểu trước Quốc hội Albania, khung cảnh vừa lịch sử vừa căng thẳng. Phe phản đối cho rằng đây là một quyết định vi hiến, vì bộ trưởng phải là con người và phải chịu trách nhiệm. Phe ủng hộ thì nói thẳng: con người đã làm quá tệ, tệ đến mức người ta sẵn sàng thử đặt niềm tin vào máy móc. Chuyện nghe như đùa, nhưng lại hoàn toàn là chuyện thật.

Và nếu thử đặt giả thiết Việt Nam cũng có Diella, không phải một, mà là cả một hệ thống Diella, thì cái lợi sẽ thật khổng lồ. Máy móc không ăn hối lộ. Như vậy, toàn bộ những kẻ sống bằng việc “ăn” sẽ mất nguồn sống. Bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, cục trưởng… tất cả bọn tham nhũng sẽ “chết đói”. Người dân thì được hưởng lợi ngay lập tức: làm việc không cần quen biết, không cần cúi đầu, không cần phong bì. Lần đầu tiên sau nhiều thập niên, luật có thể được áp dụng như luật, chứ không phải như món hàng mua bán. Đó sẽ là một cao trào sung sướng thật sự, một cảm giác giải phóng: thà để máy móc cai trị còn hơn để con người như ngày nay..  .

Nhưng chính ở đỉnh cao ấy, bi kịch bắt đầu. Bởi vì khi một xã hội sung sướng vì không còn tin con người, thì đó không phải là chiến thắng của công nghệ, mà là sự sụp đổ của niềm tin đạo đức. Diella không biết xấu hổ, không biết sợ dân, không biết day dứt. Khi một quyết định gây oan sai, câu trả lời sẽ chỉ là: thuật toán đã vận hành đúng. Và thế là trách nhiệm biến mất. Quyền lực không còn gắn với một con người có thể bị chất vấn, mà tan vào hệ thống vô hình.

Nhưng cần nói thêm một điều còn nguy hiểm hơn nữa: đằng sau Diella không phải là sự trung lập tuyệt đối, mà là các thuật toán (nói một cách đơn giản là những chuỗi lệnh) và các kho dữ liệu do chính con người tạo ra. Máy móc không tự sinh ra đạo đức; nó chỉ lặp lại những gì con người đã lập trình cho nó. Vì vậy, yếu tố con người không hề biến mất. Nó có thể ẩn mình sâu hơn, kín đáo hơn và khó truy vết hơn. Khi có sai lầm, người dân không biết trách ai: Diella không chịu trách nhiệm, còn những con người đứng sau thì vô hình. Một kiểu quyền lực như vậy đôi khi còn nguy hiểm hơn tham nhũng công khai, bởi nó lạnh lùng, vô danh, không thể chất vấn và cũng không thể lật đổ.

Tuy nhiên, tôi chỉ mong những người đang nắm quyền kịp nhận ra rằng Diella là lời cảnh báo dành cho chính họ. Sự ra đời của những Diella không xuất phát từ lòng yêu máy móc, mà từ sự tuyệt vọng của con người trước một bộ máy đã quá bẩn, quá lì và quá quen sống bằng phong bì. Nếu họ biết sợ, biết xấu hổ và biết dừng lại, có lẽ Diella sẽ mãi chỉ là một câu chuyện “thật như đùa” ở một đất nước xa xôi. Nhưng nếu họ vẫn tiếp tục coi quyền lực là đặc quyền để ăn cắp, sẽ đến một ngày, trên chính mảnh đất này, người ta buộc phải thay con người bằng những Diella — không phải vì máy móc tốt hơn, mà vì những người lãnh đạo đã hoàn toàn không đáng tin cậy.


 

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Bà đang chết dần vì căn bệnh ung thư đã di căn vào xương – nhưng những tập đoàn hóa chất đang tìm cách hủy hoại danh tiếng của bà không hề hay biết điều đó. Và bà đã sắp xếp để họ không bao giờ được biết.

Vào những năm 1950 tại Mỹ, người ta tôn sùng một loại “thuốc tiên” gọi là DDT. Loại thuốc trừ sâu này được hứa hẹn sẽ chấm dứt nạn đói và diệt trừ bệnh tật. Người ta phun nó ở khắp nơi: trên đồng ruộng, trong công viên nơi trẻ em chơi đùa. Các quảng cáo hô hào: “Sống tốt hơn nhờ hóa chất”.

Nhưng Rachel Carson, một nhà sinh vật học biển, đã nhận ra một điều mà các quảng cáo không hề nhắc tới: Lũ chim đang biến mất.

Cuộc chiến chống lại những “gã khổng lồ”

Rachel không phải là một nhà hoạt động chính trị. Bà là một nhà khoa học điềm tĩnh, yêu đại dương. Nhưng khi thấy những đàn chim chết hàng loạt, cá biến mất khỏi dòng sông và những người nông dân đổ bệnh kỳ lạ, bà biết mình không thể im lặng.

Bà phát hiện ra sự thật kinh hoàng: DDT không hề tự phân hủy. Nó tích tụ và ngấm sâu vào chuỗi thức ăn, gây ung thư, hủy hoại gen và làm sụp đổ cả hệ sinh thái.

Suốt 4 năm, bà dồn hết tâm sức viết cuốn sách “Mùa xuân vắng lặng” (Silent Spring). Cái tên đầy ám ảnh: Một mùa xuân mà không còn tiếng chim hót, vì lũ chim đã chết sạch.

Bí mật đau đớn

Năm 1960, khi đang viết dở cuốn sách, Rachel phát hiện mình bị ung thư vú thể ác tính. Bà phải phẫu thuật, rồi xạ trị. Căn bệnh di căn vào hạch rồi vào xương. Những đợt điều trị khiến bà kiệt sức, buồn nôn, nhiều lúc không thể cầm nổi bút.

Nhưng bà không nói cho ai biết.

Bà hiểu rằng nếu các tập đoàn hóa chất biết bà đang bị ung thư, họ sẽ dùng nó để tấn công bà. Họ sẽ nói bà là kẻ “hysteria”, là người đàn bà bệnh tật nên suy nghĩ không tỉnh táo, rằng nghiên cứu của bà chỉ là sự sợ hãi vô căn cứ của một kẻ sắp chết.

Thế là, trong khi âm thầm chiến đấu giành giật sự sống trong phòng bệnh, bà vẫn xuất hiện đầy bản lĩnh trước công chúng để chiến đấu cho sự sống của chim chóc, cá tôm và con người.

Chiến thắng của sự thật

Cuốn sách xuất bản năm 1962 đã gây ra một cơn địa chấn. Các đại gia ngành hóa chất như Monsanto, DuPont tuyên chiến với bà. Họ đổ hàng triệu đô la vào truyền thông để bôi nhọ bà là “kẻ cổ hủ muốn đưa thế giới về thời kỳ tăm tối”.

Rachel vẫn đứng vững. Bà xuất hiện trên truyền hình, điềm tĩnh và đầy sức thuyết phục. Bà ra điều trần trước Quốc hội Mỹ. Dưới tác động từ cuốn sách của bà, Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều tra. Dư luận bắt đầu thức tỉnh và đặt câu hỏi: Chúng ta đang phun cái gì lên thức ăn của mình thế này?

Di sản còn mãi

Rachel Carson qua đời năm 1964, ở tuổi 56, chỉ hai năm sau khi cuốn sách ra đời. Bà không sống đủ lâu để thấy DDT bị cấm chính thức hay sự ra đời của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).

Nhưng nhờ có bà, những con đại bàng đầu hói đã được cứu khỏi bờ vực tuyệt chủng. Nhờ có bà, phong trào bảo vệ môi trường hiện đại mới thực sự bắt đầu. Mỗi khi chúng ta nói về thực phẩm sạch hay bảo vệ thiên nhiên, Rachel Carson vẫn luôn ở đó.

Bà có thể dành những năm cuối đời để nghỉ ngơi trong yên bình. Nhưng bà đã chọn đối đầu với những thế lực quyền lực nhất hành tinh, dù biết mình sẽ bị tấn công tàn nhẫn, chỉ vì bà tin rằng: “Ai đó phải nói ra sự thật.”

Và bà đã nói, cho đến hơi thở cuối cùng. Nhờ giọng nói ấy, mùa xuân của chúng ta vẫn còn tiếng chim ca.

Vầng Sáng Lịch Sử

#anhchiquandiemcanhan