ĐI TỪ ĐÂU? – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta!”.

“Thiên Chúa không gọi con người đến một công việc; Ngài gọi họ đến với chính Ngài – và đó chính là sứ vụ!” – Von Balthasar.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay âm thầm đặt cho chúng ta một câu hỏi căn bản về đời sống đức tin, đời sống ơn gọi của mỗi người – nó ‘đi từ đâu?’.

 

Tin Mừng chỉ kể lại việc Gioan được sinh ra, được đặt tên và được ghi dấu căn tính thuộc về Giao Ước trong nghi thức cắt bì. Trước khi có bất cứ hành động nào, đời Gioan đã được đặt trong một mối tương quan mà chính Thiên Chúa khởi xướng và gìn giữ. Ơn gọi không khởi đi từ công việc, nhưng từ việc một người được gọi vào trong tương quan với Đấng kêu gọi. Chính sự thuộc về ấy âm thầm định hình con người Gioan, trước khi Gioan có thể ra mắt làm vị tiền hô cho Đấng Cứu Thế. “Hãy ở lại trong ơn gọi nơi bạn được gọi, và công việc của bạn sẽ thiêng liêng như sứ vụ!” – A. W. Tozer.

Lịch sử cứu độ cho thấy một quy luật quen thuộc. Cần một tổ phụ cho một dân mới, Chúa chọn Abraham, một người do dự và sợ hãi. Cần một người dẫn dân đi qua sa mạc, Ngài chọn Môsê, một người cà lăm và luôn ngần ngại. Cần một vị vua chăn dắt dân, Ngài chọn Đavít, một người đầy đam mê và vấp ngã. Cần một nền tảng cho Hội Thánh, Ngài chọn Phêrô, một người bộp chộp chối Thầy. Và khi cần một người dọn đường, Ngài chọn Gioan, đứa con sinh ra từ sự son sẻ của đôi bạn già. Không ai trong họ bắt đầu từ sự hoàn hảo, nhưng tất cả đều bắt đầu từ một mối tương quan được Thiên Chúa thiết lập. “Một người biết mình đã tìm thấy ơn gọi khi người ấy ngừng nghĩ về cách sống – giới hạn, yếu hèn của mình – và bắt đầu sống!” – Thomas Merton.

Thánh Ephrem, từ thế kỷ thứ tư, giúp chúng ta nhận ra điểm khởi đầu ấy qua hình ảnh hai người mẹ và hai người con. Elisabeth, phụ nữ đứng tuổi, sinh vị ngôn sứ cuối cùng; Maria, trinh nữ trẻ trung, sinh Chúa các thiên thần. Hai khởi điểm khác nhau, nhưng cùng trả lời cho một câu hỏi duy nhất: ‘đi từ đâu’ để Thiên Chúa có thể đến với nhân loại? Không từ sức trẻ hay tuổi tác, nhưng từ những cung lòng biết mở ra cho Ngài.

Anh Chị em,

“Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta!” – bài đọc một. Lời ấy vẫn vang vọng hôm nay. Mỗi chúng ta, trong từng hoàn cảnh, được mời gọi đặt lại câu hỏi “Tôi đã ‘đi từ đâu’ cho đời mình?”. Nếu đi từ việc làm hay thành công, chúng ta dễ mệt mỏi; đi từ thành công, chúng ta dễ tự mãn; nhưng nếu khởi đi từ một mối tương quan được gìn giữ mỗi ngày, thì không chỉ đến thời của Thiên Chúa – mà ngay lúc này và ở đây – chính đời sống chúng ta, dù âm thầm hay được biết đến, sẽ trở thành con đường để Ngài đi qua. “Những nhà lãnh đạo tương lai sẽ là những người dám nhận sự không quan trọng của mình trong thế giới đương thời như một ơn gọi thiêng liêng!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin dạy con biết khởi đi từ Chúa trong mọi sự, để hôm nay và đến thời của Ngài, đời con trở nên con đường cho Chúa đến với người khác!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***************************

Lời Chúa Ngày 23/12, Thứ Ba Tuần IV Mùa Vọng

Ông Gio-an Tẩy Giả chào đời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,57-66

57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe biết Chúa đã rộng lòng thương xót bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.

59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói : “Không được ! Phải đặt tên cháu là Gio-an.” 61 Họ bảo bà : “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết : “Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi : “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây ?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.


 

CHU TỬ: NHÀ VĂN, NHÀ BÁO, NHÀ GIÁO, NGƯỜI VƯỢT BIÊN ĐẦU TIÊN, LÀM MỒI CHO CÁ       

Việt Luận – Viet’s Herald                 

Hồ Nam

Mười mấy tuổi đã theo Phó đức Chính tham gia khởi nghĩa Yên bái, đi đánh đồn Tây thắng lợi – khi trở về, buồn ngủ quá, lăn ra bãi cát ven sông Hồng làm một giấc, nên không bị máy chém [hành hình] ở Yên bái, cùng Nguyễn thái Học, Phó đức Chính…, những chiến sĩ Việt nam quốc dân đảng tiền phong.

Chu văn Bình không bị lên máy chém vào 1930, nên đã thi đậu vào Trường đại học Luật Đông dương ở Hà nội.  Chu văn Bình được thượng thư bô Hình Nam triều, Bùi bằng Đoàn (cha đại tá Bùi Tín) đưa vào Huế, làm phụ tá cho thượng thư, mặc áo gấm, đeo thẻ bài ngà, và, trở thành một ông quan Nam triều trẻ nhất thời ấy. Sau này, khi nhắc chuyện làm quan trong triều đình Huế, Chu văn Bình tủm tỉm cười, nói với tôi, “anh từng tham gia khởi nghĩa Yên bái, mà lại đeo thẻ bài ngà, cưới vợ là hoa khôi tỉnh Nam định.”Thật mỉa mai quá, nhưng đời còn nhiều chuyện mỉa mai hơn nữa. Sau ngày đảo chính, 9-3-[1945], Nhật đảo chính Pháp- Việt nam quốc dân đảng muốn Chu văn Bình làm chánh sở Liêm phong Thanh hóa (chánh mật thám Thanh hóa), Chu văn Bình đã nhận làm, và, trong thời kháng chiến chống Pháp, Chu văn Bình được tướng Bằng Giang trao cho chức chánh án Tòa án quân sự quân khu 3. Chu văn Bình vẫn chấp nhận giữ nhiệm vụ này…

Sau 1954, khi đất nước chia 2, Chu văn Bình theo nhà cách mạng Nguyễn thế Truyền lên tòa Thánh [Cao Đài] ở Tây Ninh, gặp đức Hộ pháp Phạm công Tắc. Đức Hộ pháp Cao Đài tòa thánh Tây ninh nghe Chu văn Bình nói chuyện thời thế, đã ra thánh lệnh phong Chu văn Bình cấp bậc đại tá [trong lực lượng] quân đội Cao Đài, Con đường hoạn lộ của Chu văn Bình, còn thênh thang hơn nữa, khi luật sư Lê ngọc Chấn được thủ tướng Ngô đình Diệm [cử] làm bộ trưởng quốc phòng, đã đến thỉnh Chu văn Bình về làm đổng lý văn phòng – nhưng Chu văn Bình cười khẩy, trả lời luật sư Lê ngọc Chấn, ” hồi học luật cậu thường ‘cóp’ bài của tớ, sao tớ có thể làm ‘lại’ cho cậu được nhỉ…? “Có lẽ, vì chuyện này, mà ít lâu sau Chu văn Bình bị vu cho là ‘trùm băng ăn trộm xe hơi’, rồi tống giam vào khám Chí hoà. Khi ra tòa Chu văn Bình tự bào chữa hay, đến nỗi quan tòa phải tha bổng, Chu văn Bình được trắng án.

Sau vụ bị bắt giam đưa vào khám Chí hòa, ra tòa được trả tự do, Chu văn Bình quyết định không thèm bon chen danh lợi nữa, mà, nhận làm hiệu trưởng trường Trung học Thăng Long của Nguyễn đăng Viên (anh ruột nhà văn Mai Thảo/Nguyễn đăng Quý) và trở lại nghề viết văn, làm báo. Chu Tử phụ trách mục ‘Ao thả vịt’ [dưới bút danh Kha Trấn Ác], và viết tiểu thuyết đăng báo hàng ngày.

Ngay cuốn tiểu thuyết đầu tay đăng báo hàng ngày, với tựa đề YÊU, đăng trên tờ nhật báo Dân việt, đã làm xôn xao dư luận, báo tăng người đọc vùn vụt, trong văn giới sửng sốt, vì, Chu Tử viết hay quá, lạ quá, táo bạo quá, thời đại quá. Rồi Chu Tử cho ra đời bộ tiểu thuyết trường giang khác: SỐNG. Khi tiểu thuyết Sống mới đăng báo, văn giới đã coi như một hiện tượng văn học rồi

Chế độ Ngô đình Diệm bị lật đổ, Chu Tử dành hết thời giờ viết báo, chửi đông, chửi tây, quốc gia, cộng sản- những ai ‘láo toét’ là Chu Tử phang, [bất kể là]  sư, cha cố, ông tướng này, bà tướng kia, chửi cả Mỹ. Chu Tử đều đụng mặt hết, Chu Tử còn đưa lên mặt báo câu xã hội bậc thang xã hội thời đó: ‘nhất đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng’. Tờ nhật báo Sống của Chu Tử bán chạy như tôm tươi, nhưng, chẳng được bao lâu báo bị đóng cửa. Chu Tử liền đi thuê ‘măng-xết’ [manchette], tiếp tục làm báo nữa, không ngán gì cả. 

Những nhân vật điển hình của thời đại, bị Chu Tử hỏi thăm sức khỏe – bực lắm, mấy anh quốc gia láo lếu, bị Chu Tử gọi là ‘trí thức chồn lùi’ (nói lái), tuy vậy họ cũng còn nhất điểm lương tri, không phản ứng mạnh với Chu Tử. Tuy nhiên, Chu Tử vạch mặt ‘mấy tên… nằm vùng’, xưng nhận mình là ‘bảo vệ văn hóa dân tộc’; bị gọi là ‘lũ củ đậu’ (nói lái) (…) Chu Tử chỉ bị bắn vỡ miệng, gãy mấy cái răng, nói năng hơi ngọng nghịu, phải vào nhà thương nằm ít ngày, rồi về nhà lại viết báo chửi dữ hơn trước khi bị bắn. (…) Nhưng tới sáng ngày 30-4-75, thấy tình thế hết phương cứu chữa, Chu Tử đành bảo con rể là họa sĩ Đằng Giao lái xe chở ra Kho 5 bên Khánh hội, tìm tàu vượt biên. Chu Tử và cậu con trai lớn có được một chỗ dưới hầm, bởi ngộp quá, khi tàu đến Rừng Sát, Chu Tử leo lên boong hóng gió, thì giữa lúc đó một trái B40 của đặc công phóng lên boong tàu. Chu Tử bị miểng đạn, máu ra nhiều quá, khi tàu tới hải phận quốc tế, Chu Tử trút hơi thở cuối cùng, xác thân ném xuống biển Thái bình dương. Và, Chu Tử coi như người đầu tiên được thủy táng khi đi tìm tự do. Ông là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ ông rời xa Ðất Nước.

Hồ Nam.


 

TUỔI GIÀ – MỘT KIẾP NGƯỜI LẶNG LẼ MÀ SÂU XA

Tuổi già là đoạn đường mà ai rồi cũng sẽ đến, nếu may mắn được sống đủ lâu. 

Có người đến đó trong an yên, có người đến trong cô độc. 

Có người hạnh phúc nhìn lại đoạn đời đã qua, có người lặng lẽ ôm những ân hận không thể sửa. 

Nhưng dầu là ai, ở tuổi già, ai cũng cần một điều – ấy là được sống cho chính mình. Cả một đời người, ta đã quen sống vì người khác. Hồi trẻ, cha mẹ lo cho con, rồi đến lúc làm cha mẹ, ta lại sống vì con cái. Mỗi ngày là một guồng quay – cơm áo, gạo tiền, trách nhiệm, bổn phận, hy sinh. Ta cặm cụi gây dựng cuộc sống cho gia đình, cho người thân, cho con cái có chỗ đứng trong đời. Có lúc vội đến nỗi chẳng kịp ngẩng đầu nhìn trời. Có khi mệt đến nỗi không biết mình đang buồn hay đang sống.

Có những người suốt bốn, năm chục năm không có một ngày thật sự cho bản thân. Vui ít, lo nhiều. Lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nại gồng gánh. Đến lúc nhìn lại, hóa ra bản thân là người ta bỏ quên nhiều nhất.

Vậy mà đến khi bước vào tuổi xế chiều, nhiều người lại mang tâm thế… chờ đợi. Chờ ngày con cái thành đạt, chờ cuộc sống ổn định, chờ lúc nhắm mắt.

Có người già rồi mà tâm chưa chịu nghỉ. Cứ đau đáu chuyện con dâu, chuyện cháu học hành, chuyện nhà cửa sau này để ai, chuyện xóm làng dâu bể. Tâm cứ bận, lòng chẳng an. Ngồi giữa căn nhà đã dựng lên cả đời, vậy mà thấy mình như kẻ qua đường.

Tuổi già không phải là giai đoạn chờ chết. Mà là một mùa sống khác – chậm hơn, sâu hơn, nhẹ hơn, nhưng không kém phần đẹp đẽ. Nó giống như mùa thu – không rực rỡ như mùa xuân, không sôi nổi như mùa hạ – nhưng đằm thắm, dịu dàng, và đủ đầy.

Sống sâu – là học cách lắng nghe mình lần nữa. Là nhắm mắt lại mà vẫn thấy ấm lòng vì tiếng gió qua vườn, tiếng chổi quét lá mỗi sáng, tiếng cháu gọi ông bà ríu rít ngoài sân. Là một tách trà vừa đủ nóng, một ánh chiều vàng rơi nghiêng nơi hiên nhà. Là đọc lại quyển sách cũ từng gối đầu giường, ngắm lại ảnh cưới đã vàng màu năm tháng. Là nhớ về người xưa không còn với mình, mà lòng không buồn – chỉ thấy biết ơn.

Sống sâu – cũng là học cách tha thứ. Tha thứ cho người, và cho chính mình. Tha thứ cho những va vấp không sửa kịp, những sai lầm chưa kịp xin lỗi. Tha thứ cho quá khứ, để tương lai còn có thể nhẹ bước. Khi ta không còn nhiều thời gian như trước, lòng nhẹ mới là món quà quý nhất ta có thể tự tặng mình.

Sống nhẹ – là biết mình không cần chứng minh nữa. Không cần gồng mình để được công nhận. Không cần so sánh mình với người bên cạnh. Không cần gánh lấy vai trò đạo đức hay mẫu mực gì nữa. Bởi lẽ, sống một đời tử tế đã là đủ. 

Còn lại là học cách thảnh thơi, học cách im lặng đúng lúc, học cách mỉm cười khi không cần nói gì. Tuổi già là lúc sống ít lời mà nhiều nghĩa. Là khi ánh mắt nhìn đời đã dịu lại, không còn sắc bén, không còn đòi hỏi. Là khi người ta có thể buông tay, nhưng không buông bỏ lòng nhân hậu. Là khi có thể im lặng, nhưng lòng vẫn đầy yêu thương. Là khi không còn tranh cãi hơn thua, mà chỉ muốn mỗi ngày còn được ăn một bữa cơm ngon, ngồi giữa tiếng cười con cháu, và ngủ một giấc bình yên.

Có nhiều người sợ tuổi già. Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lãng quên. Nhưng nếu biết sống đúng, tuổi già không đáng sợ. Nó là phần thưởng cho người đã đi hết những năm tháng nhọc nhằn. Là cơ hội để sống lần nữa – nhưng lần này là cho mình. Không cần thành đạt, chỉ cần thảnh thơi. Không cần được ca ngợi, chỉ cần được sống thật với lòng mình.

Một mái nhà đơn sơ, một cái ghế mây kê ở ban công, một khóm hoa nhỏ trước hiên, vài người bạn tri kỷ, vài quyển sách cũ, một ấm trà nóng – thế là đủ. Hạnh phúc tuổi già không ở chỗ có bao nhiêu tiền trong sổ tiết kiệm, mà ở chỗ có bao nhiêu bình an trong tâm hồn.

Vậy nên, đừng chờ đợi điều gì nữa. Mỗi ngày còn tỉnh táo, còn có thể bước ra vườn hít một hơi thật sâu – là một món quà. Còn thấy được ánh sáng, còn nghe được tiếng chim – là còn có lý do để sống.

Tuổi già, nếu biết nhìn bằng đôi mắt yêu thương, sẽ không là đoạn kết. Mà là một mùa chín rộ, ngọt ngào, lặng lẽ – như trái cây cuối mùa, thơm bền và sâu vị. Một đời người nếu đã sống trọn, thì những năm tháng cuối cùng không phải là để sợ hãi, mà là để tri ân. Tri ân cuộc đời. Tri ân những người đã đi cùng ta. Và tri ân chính mình – đã đi qua bao bão giông, vẫn còn ngồi đây, còn thở, còn biết ơn.

Tuổi già không phải là chờ “đi xa mãi” . Mà là sống – một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất.

From: TU-PHUNG


 

Tô Lâm đang bị rớt điểm trong bộ Chính Trị – Tranh Chấp nội bộ căng thẳng trước kỳ bầu Tổng Bí Thư Đảng

TRÀN NGẬP THÔNG TIN RÒ  RỈ VÀ BÌNH LOẠN TRÊN MẠNG CỦA CÁN BỘ VÀ DÂN ĐEN

BÌNH LUẬN CỦA ĐÀI BBC

bản tin HOA THỊNH ĐỐN

Một số người đặt niềm tin vào phe quân đội có thể lật đổ được phe Tô Lâm; nhưng nên nhớ, Tô Lâm có khá nhiều thân tín trong Bộ Quốc phòng như Đại tướng Trịnh Văn Quyết, Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến…

Hồi 9/10, mạng xã hội rộ lên thông tin Phan Văn Giang thay Tô Lâm làm tổng bí thư. Nguồn cơn là từ Facebook ông Đinh Bá Truyền đăng lên. Theo đó, sau khi Hội nghị Trung ương 13 bế mạc, Phạm Minh Chính, Lương Cường và Trần Thanh Mẫn coi như sẽ về vườn.

Đồng thời, ông Truyền cũng cho rằng Bộ Chính trị đã thực hiện cuộc bỏ phiếu kín cho vị trí Tổng Bí thư nhiệm kỳ sau. Trong đó, Phạm Minh Chính chỉ được 1 phiếu (có thể do ông Chính tự bầu cho mình), Tô Lâm được 6 phiếu, và điều bất ngờ là Phan Văn Giang được 9/16 phiếu bầu. Điều này có nghĩa Phan Văn Giang đang chiếm ưu thế trong cuộc đua giành ghế Tổng Bí thư.

Tới ngày 12/10, câu chuyện tiếp tục được bàn tán khi Tô Lâm và Phan Văn Giang tới dự lễ kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống lực lượng vũ trang Quân Khu 4 tổ chức ở tỉnh Nghệ An. Tại đây, người dẫn chương trình của Quân khu 4 đã đọc Đại tướng Phan Văn Giang là Bí thư Quân Ủy Trung Ương. Trong khi đó chức danh lãnh đạo tối cao của quân đội này đang là của Tô Lâm, Phan Văn Giang chỉ là Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương…

BÁO TIẾNG DÂN

Tấm hình Tô Lâm (phải) ăn thịt bò dát vàng ở London khi người dân tại Việt Nam đang khốn đốn với đại dịch COVID-19, Tháng Mười Một, 2021. (Hình: Cắt từ clip tiktok của Nusr-Et)

Khởi đầu, nhiều người phấn khích trước tin ông Tô Lâm bị buộc phải rời cương vị hiện tại (tổng bí thư) ở nhiệm kỳ tới. Kế đó, không ít người thất vọng khi nghe nói, đội ngũ lãnh đạo Bộ Chính Trị đảng CSVN nhiệm kỳ tới (khóa 14) gần như không có thay đổi nào đáng kể.

Sẽ có nhiều cá nhân lẽ ra phải rời chính trường vì quá độ tuổi đã được xác định trong Điều Lệ Đảng CSVN nhưng cuối cùng vẫn tiếp tục “cầm cân, nảy mực” vì được BCH TƯ đảng khóa này xem là “trường hợp đặc biệt!”

Tuyên bố của ông Tô Lâm về việc lựa chọn cá nhân lãnh đạo đảng CSVN nhiệm kỳ tới phải có “năm cộng” (ngoài các tiêu chí như đã biết phải thêm năm yếu tố là “đức, tài, uy tín, tầm nhìn, khả năng triển khai mục tiêu lớn”) giống như một kiểu nói đùa làm thiên hạ… ứa lệ!

 

Mạng Đại Ngu

Tô Lâm không đủ tiêu chuẩn làm Tổng bí thư nhiệm kỳ 2026-2031?

 
Chiểu theo tiêu chuẩn, bác Tổng bí thư hiện nay Tô Lâm không đủ điều kiện để làm Tổng bí thư nhiệm kỳ 2026-2031, vì:
 
1. Bác Tô Lâm không có phẩm chất đạo đức lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật. Cụ thể:
– Nghi vấn liên quan tới vụ án MobiFone-AVG …
– Vụ án bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức …
– Hình ảnh ăn bò dát vàng do đầu bếp Salt Bae cung cấp ngày 3/11/2021
– …
 
2. Về trình độ năng lực, uy tín và khả năng quy tỵ đoàn kết:
– Những thất bại trong các dự án thay đổi giấy chứng minh nhân dân, căn cước công dân, thẻ công dân…
– Những xáo trộn xã hội, xáo trộn hệ thống chưa có hồi kết sau quyết định sáp nhập tỉnh, xoá hệ thống chính quyền 3 cấp.
– … 
 
3. Về độ tuổi: Ông Tô Lâm sinh ngày 10/7/1957, tính đến nay đã tròn 68 tuổi, nằm trong độ tuổi nghỉ hưu trừ phi được Ban Chấp hành Trung ương đảng quyết định cho làm trường hợp đặc biệt.
 
4. Phẩm chất, năng lực: Không đáp ứng yêu cầu về phẩm chất, năng lực ít nhất ở mục có uy tín cao trong nhân dân. Những thống kê sơ bộ trên các trang mạng xã hôi và ngoài đời cho thấy tỷ lệ ủng hộ ông Tô Lâm được làm Tổng bí thư là rất thấp so với Đại tướng Phan Văn Giang.
 
Ngoài ra, ông Tô Lâm còn có một số dấu hiệu bè phái, địa phương chủ nghĩa khi sử dụng quyền uy của mình để sắp xếp, bố trí nhân sự trước Đại hội. Cụ thể:
 
– Cất nhắc các ông Lương Tam Quang, Nguyễn Duy Ngọc (cùng quê Hưng Yên, cùng ngành công an, cùng vây cánh) vào Bộ Chính trị khi cả hai ông này chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo quy định 241: Làm trọn một nhiệm kỳ trong Ban chấp hành Trung ương đảng.
 
– Đưa ông Vũ Hồng Văn (em trai của vợ cũ) lên chức Thiếu tướng dù ông này chỉ là lính nghĩa vụ công an chuyển sang chuyên nghiệp, sau đó đưa vào nắm chức Bí thư tỉnh uỷ Đồng Nai.
 
– Cất nhắc con trai (Tô Long) lên làm Cục trưởng Cục an ninh đối ngoại, tặng Huân chương Chiến công.
 
– Đưa ông Nguyễn Thanh Tùng, Mai Hoàng, Tô Anh Dũng… cùng quê Hưng Yên nắm các vị trí Giám đốc công an HN, HCM và Thanh Hoá, làm cho tổng số người nắm chức vụ cao trong đảng và chính quyền của riêng tỉnh Hưng Yên và những người có quan hệ họ hàng với Tổng bí thư lên con số cao bất thường…
Hoàng Dũng
 

Nhà toán học John Nash

Lê Vi

Trong hình là nhà toán học John Nash. Ông từng là giảng viên của Princeton và MIT. Nhưng sau đó ông bị tâm thần hoang tưởng và phải nhập viên từ 1959. Tới 1970, ông ra khỏi bệnh viện tâm thần và nhất quyết không quay lại nữa.

Trường Princeton mời ông quay lại trường. Từ đó “người ta thường thấy một người đàn ông gày xơ xác, tóc tai bơ phờ, mắt đờ đẫn không hồn, suốt ngày lang thang trong khuôn viên ĐH Princeton như một bóng ma, đôi lúc dừng lại trước những tấm bảng đen trong vườn và cặm cụi viết lên đó hàng tá công thức toán học kỳ quặc.”

Có người không hiểu trêu chọc ông. Nhưng phần lớn bênh vực ông và để ông thoải mái làm gì thì làm. Ông về ở với vợ cũ, bà chăm sóc ông. Đồng nghiệp cũng cố gắng giúp ông chút nào hay chút đó.

Cứ vậy cho tới tận cuối thập niên 80, ông tỉnh dần.

Năm 1994, theo đề nghị của những nhà khoa học là bạn ông, người ta tìm lại đề cử giải Nobel cho Lý thuyết trò chơi bất hợp tác của ông đã có từ 1985. Mà lẽ ra ông đã nhận giải nếu không bị bệnh.

Cuối cùng, ngày 11 tháng 10 năm 1994, Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tuyên bố: ba nhà khoa học John F. Nash Jr., John C. Harsanyi (quốc tịch Mỹ) và Reinhard Selten (Đức) được trao giải Nobel Kinh tế “vì các phân tích mở đường của họ về khái niệm cân bằng trong lý thuyết Trò chơi bất hợp tác.”

Trong lý lịch tự khai gửi Ủy ban Nobel, Nash viết: sau 25 năm gián đoạn suy nghĩ, giờ đây ông tin rằng mình có thể đạt được một số giá trị nào đấy qua các nghiên cứu hiện nay của ông hoặc với bất kỳ ý tưởng mới nào sẽ đến trong tương lai.”

Các nhà làm phim Mỹ năm 2001 có làm một bộ phim vinh danh ông, tên là Một tâm hồn đẹp ( A Beautiful Mind). Một phim tiểu sử rất hay. Bộ phim ra mắt tại các rạp chiếu phim của Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 12 năm 2001 và thu về $313 triệu trên toàn cầu và thắng 4 giải Oscar

______________-

Câu chuyện về Jonh Nash chỉ là một trong số rất nhiều câu chuyện về các thiên tài.

Họ có thể mắc nhiều tật bệnh. Thậm chí với nhiều người là bệnh di truyền qua vài đời. Tuy nhiên họ vẫn làm ra những thành tựu khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa… thuộc loại cực đỉnh trên thế giới.

Điều đó cho thấy thuyết ưu sinh là một thứ rác rưởi vì phản khoa học và không có nhân tính.

Tinh hoa chính là một món quà bất ngờ của Thượng đế ban tặng cho con người. Điều này đã được minh chứng qua mấy ngàn năm lịch sử.

Hình vợ chồng ông bà John Naáh

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân

Nguyễn Xuân Thu

 – Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân.

– Một người thực sự có học vấn. Luôn luôn khiêm tốn,thật thà, lễ độ

– Người thực sự giàu có. Luôn luôn đơn điệu. Sẽ không gặp ai cũng khoe khoang.

– Người thực sự có đức hạnh. Luôn luôn có huệ tâm. Sẽ không gặp ai cũng thể hiện.

– Người thực sự có trí tuệ. Luôn luôn tan hòa. Sẽ không phô diễn tài năng.

– Người thực sự có phong cách. Luôn luôn tự nhiên. Sẽ không uốn éo giả tạo.

– Một người thực sự có tu tâm. Luôn luôn yên tĩnh. Sẽ không tranh giành trước sau.

– Khi cơn tức giận ập tới là phúc khí đi mất rồi. Cơn giận càng lớn, cơ thể càng yếu. Trí tuệ chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát cảm xúc của chính mình.

Dùng lời nói tổn thương người khác là một hành vi không nên.

Nước sâu thì chảy chậm. Nói chậm là quý nhân….!!!

Nguồn: cuocsongmoi


 

VỀ GIÀ …

VỀ GIÀ …

* Về già, là khi ta có một đôi mắt mờ đi nhưng lại nhìn cuộc đời rõ hơn trước.

Vì có những thứ không thể nhìn bằng mắt thịt, và cũng có những điều không thể nghe bằng tai trần.

* Về già, là khi đôi chân mỏi mệt khi đã bị kéo lê gần hết quãng đường đời nhưng khi ngoái đầu lại ta dường như mới là đứa trẻ ngày hôm qua.

Bây giờ ta bước chậm hơn trước, chắc hơn trước và cũng trân trọng hơn từng cái chạm đất, vì có thể ngày mai ta không còn bước đi được nữa.

* Về già, là khi ta dùng đôi tai điếc của mình để nghe thiên hạ đang xôn xao về chuyện đời và ta biết rằng hơn một nửa trong số ấy không là thật. Bây giờ, âm thanh êm dịu duy nhất chỉ có tiếng chim tiếng gió và những âm thanh còn đọng lại trong lòng ta, của những người ta từng trân quý nhưng bây giờ không còn thể gặp lại nữa.

* Về già, là khi ta nhận ra rằng ta đã may mắn như thế nào khi từng được hít thở không khí một cách thoải mái, vì bây giờ, mỗi hơi thở là một thước đo của sự sống.

Ta thở ra nhưng ta không thể biết có thể hít vào một lần nữa được hay không?

*Về già, là khi những người tri kỷ ta còn ngồi lại cùng ta hoài niệm về một thời xa xưa, tuy là không nhiều.

Âu đó cũng là quy luật tự nhiên, khi ta không còn giá trị, những bằng hữu sẽ rời xa ta, người còn ở lại nhất định ta phải trân quý.

Về già, là khi ta nếm đủ ngọt bùi đắng cay của cuộc đời.

Những thứ làm ta say đắm ngẫm lại vui sướng không là bao nhưng đau khổ lại rất nhiều.

Có những thứ ta cứ tưởng nắm chặt trong tay rồi thì ngày mai lại trôi đi mất.

Cuộc đời như một trò đùa mộng mị mà người chơi phải trả bằng cả tuổi thanh xuân của mình, bây giờ ngẫm lại chỉ toàn là hối tiếc…

Về già, ta ngẫm lại đời mình, thăng trầm mọi nẻo, bao nhiêu người thương ta, bao nhiêu người ghét ta trong cuộc sống lạc loài, trông ngóng ngày mai, chờ đợi mỏi mòn ánh sáng tự do!

Suốt đời quý nhất cũng chỉ là hai tiếng bình yên.

Hạnh phúc cũng không phải là điều gì quá xa vời, nhưng có những người gần lúc cuối đời mới nhận ra được điều đó.

Sưu tầm


 

Từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

17/12/2025

Salomé Saqué là một nhà báo trẻ của Pháp, được biết đến bởi sự thẳng thắn, trí tuệ và lòng can đảm trong việc bảo vệ các giá trị dân chủ. Những điều cô nói không nhằm chỉ trích một dân tộc hay một chính quyền cụ thể nào. Đó là những lời cảnh tỉnh dành cho bất cứ xã hội nào đã sống quá lâu trong áp lực, hoặc mệt mỏi đến mức quên mất rằng: dân chủ không phải là thứ tự nhiên tồn tại – mà là thứ phải được nuôi dưỡng mỗi ngày.

Salomé Saqué

Dưới đây là một đoạn trong bài nói của cô:

“Nền dân chủ không bao giờ biến mất trong một ngày.

Nó chỉ tàn lụi khi người ta quen với bóng tối.”

Các xã hội không sụp đổ vì một biến cố bất ngờ, mà vì một quá trình dài: nỗi sợ được chấp nhận, sự bất công được coi là bình thường, và con người dần từ bỏ quyền lên tiếng của chính mình. Điều nguy hiểm nhất không phải là bạo lực, mà là sự thích nghi.

Bao giờ cũng vậy, trước khi tự do biến mất, một “giai điệu” quen thuộc sẽ vang lên:

rằng im lặng là khôn ngoan;

rằng phục tùng là an toàn;

rằng chân lý không quan trọng bằng sự yên ổn.

Thứ nhạc nền ấy ru con người vào trạng thái tê liệt, khiến họ tin rằng họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận. Đó chính là cách một xã hội đánh mất khả năng tự quyết: không phải vì con người thiếu hiểu biết hay thiếu dũng cảm, mà vì họ đã sống quá lâu trong một thế giới, nơi nỗi sợ trở thành thói quen, nơi sự thật bị bóp méo đến mức không còn nhận ra, nơi mỗi người thì thầm với chính mình: “Thôi, cố sống cho xong.”

Nhưng lịch sử chưa bao giờ được viết bằng sự cam chịu.

Không một nền dân chủ nào lớn lên từ sự im lặng kéo dài.

Tự do chỉ tồn tại khi con người tin rằng mình xứng đáng có nó.

Lịch sử luôn bắt đầu lại từ những khoảnh khắc rất nhỏ như thế.

Những lời nói trên của Salomé quả thật rất đáng suy ngẫm.

Nhưng tiếc thay, đó chỉ là… dân chủ tư sản.

Còn khi chúng ta đi học, chúng ta đã được dạy rất rõ ràng rằng:

“Dân chủ vô sản gấp một triệu lần dân chủ tư sản.”

Vậy nên, về nguyên tắc, những lời nhắc nhở của Salomé không dành cho Việt Nam.

Ở nước ta, dân chủ đã được giải quyết gọn gàng từ lâu. Đã có Đảng lãnh đạo tuyệt đối. Người lãnh đạo cao nhất của đất nước không cần dân bầu, vì Đảng đã bầu thay. Nhân dân, nhờ đó, được giải phóng khỏi một gánh nặng tinh thần rất lớn: khỏi phải suy nghĩ xem nên chọn ai.

Những ngày gần đây, trong nội bộ Đảng hình như đang có những cuộc đấu tranh khá quyết liệt để xem ai sẽ là người… được chọn. Tôi không có hiểu biết gì về các nhân vật chính trị này. Tôi chỉ thấy mạng xã hội xôn xao đủ loại tin đồn: ông nọ lên, bà kia xuống, người này “đang nguy”, người kia “sắp về”. Tin thật hay tin giả thì không ai biết, vì Đảng họp kín, chỉ có nhân dân là… họp hở.

Tôi cũng xin nói rõ: tôi không có hiểu biết gì về chính trị. Nhưng nếu buộc phải tổng kết một cách giản dị hai nền dân chủ, tư sản và vô sản, thì tôi thấy thế này:

Dân chủ tư sản thể hiện ở chỗ toàn dân tham gia bầu chọn người lãnh đạo cao nhất của mình. Dĩ nhiên, cũng có thể bầu sai. Ví dụ điển hình là… ông Trump hahaha.

Còn dân chủ vô sản thì khác. Toàn dân không bầu gì cả. Toàn dân chỉ… hóng.

Hóng xem ai được chọn.

Hóng xem ai bị loại.

Hóng xem ai “đi lò”.

Có thể gọi ngắn gọn là: dân chủ hóng hớt.

Nghĩ cho cùng, dân chủ như thế cũng đỡ mệt. Không phải bầu, không phải chịu trách nhiệm. Chỉ cần cập nhật tin đồn mỗi sáng là đủ cảm giác “tham gia đời sống chính trị”. Nếu dân chủ tư sản là quyền lựa chọn, thì dân chủ vô sản là nghệ thuật… chờ đợi. Ở những nơi khác, người ta đi bầu để quyết định tương lai; còn ở ta, người ta hóng để biết mình sẽ… chịu tương lai nào. Mà hóng hớt hình như lại là sở trường và môn thể thao yêu thích nhất của dân ta.

Dân chủ vô sản hiện đại, suy cho cùng, không cần phiếu bầu. Chỉ cần wifi mạnh, trí tưởng tượng phong phú và một tinh thần hóng hớt bền bỉ. Thế là đủ.


 

BỆNH KHOE CỦA NGƯỜI VIỆT…

Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.

Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.

Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.

Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.

Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”! 

Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…

Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.

Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!

From: Tu-Phung


 

NGHÈO CHO MÌNH CON MẮT KHÁC VỀ TIỀN-Lm. Anmai, CSsR

Người Giồng Trôm

Có lẽ chẳng ai muốn sinh ra trong nghèo khó, nhưng chính cái nghèo lại là một người thầy khắc nghiệt và chân thật nhất, dạy cho ta những bài học mà không trường lớp nào có thể giảng giải tường tận được, đặc biệt là bài học về đồng tiền. Khi ta lớn lên giữa những thiếu thốn, khi đôi mắt trẻ thơ sớm phải chứng kiến cảnh cha mẹ cúi người cả ngày trên cánh đồng cháy nắng hay bên gánh hàng rong trĩu nặng chỉ để đổi lấy một bữa cơm chiều, tự nhiên ta sẽ hiểu rằng tiền không bao giờ là chuyện nói chơi. Tiền bạc, đối với người nghèo, chưa bao giờ là những con số vô tri nằm trên giấy hay trong tài khoản ngân hàng, mà nó là hiện thân của mồ hôi, của nước mắt, của sức khỏe mòn mỏi và đôi khi là cả sự hy sinh lòng tự trọng. Cái nghèo cho mình một con mắt khác về tiền, một cái nhìn không nhuốm màu toan tính tham lam nhưng lại trĩu nặng nỗi trân trọng và xót xa.

Tôi nhớ những ngày tháng cũ, khi cái nghèo còn đeo bám gia đình như một chiếc bóng dài lê thê không dứt. Trong ký ức ấy, hình ảnh ám ảnh nhất không phải là ngôi nhà dột nát hay mâm cơm đạm bạc, mà là tấm lưng của cha và đôi bàn tay của mẹ. Cha tôi, người đàn ông vạm vỡ nhưng lầm lũi, dường như cả cuộc đời chỉ biết cúi mặt xuống đất. Ông cúi xuống để cày xới, cúi xuống để gieo hạt, và cúi xuống để gặt hái những hy vọng mong manh từ đất đai cằn cỗi. Có những ngày nắng như đổ lửa, hơi nóng bốc lên từ mặt ruộng làm mờ cả mắt người, cha vẫn ở đó, lưng áo ướt đẫm, khuôn mặt sạm đen vì nắng gió. Mẹ tôi, người phụ nữ tần tảo, cũng dành cả đời để chắt chiu từng đồng xu lẻ. Tôi từng thấy mẹ ngồi đếm lại những tờ tiền lẻ nhàu nhĩ, vuốt thẳng chúng ra, xếp ngay ngắn rồi lại thở dài cất vào trong chiếc túi vải sờn rách. Cái thở dài ấy nặng nề hơn bất cứ lời than vãn nào. Nhìn cha mẹ cúi người cả ngày chỉ để đủ một bữa, đứa trẻ trong tôi bỗng chốc già đi trước tuổi. Tôi hiểu rằng, để có được tờ tiền đưa cho tôi đóng học phí, hay mua một chiếc áo mới, cha mẹ đã phải bán đi từng chút sức lực của chính mình. Tiền lúc ấy không còn là phương tiện trao đổi, nó là máu thịt.

Khi người ta chưa từng nếm trải cái nghèo, người ta dễ dàng nhìn đồng tiền bằng con mắt hời hợt. Người ta có thể vung tay quá trán cho những cuộc vui, có thể lãng phí thức ăn, có thể mua sắm những thứ vô bổ chỉ để thỏa mãn cơn thèm muốn nhất thời. Nhưng với những ai đã từng thấy cha mẹ phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, đồng tiền mang một sức nặng ngàn cân. Cầm đồng tiền trên tay, tôi không dám tiêu xài hoang phí, bởi tôi nhìn thấy trong đó là những giọt mồ hôi mặn chát của cha rơi xuống luống cày, là đôi bàn tay nứt nẻ rớm máu của mẹ vào những ngày đông giá rét. Sự chi tiêu dè sẻn không phải vì bần tiện hay keo kiệt, mà là vì xót. Xót cho công sức của người thân, xót cho những nhọc nhằn mà cha mẹ phải gánh chịu. Cái nghèo dạy cho ta biết sợ. Sợ cái cảm giác bất lực khi túng thiếu, sợ ánh mắt lo âu của mẹ khi hũ gạo đã vơi, sợ tiếng thở dài của cha trong đêm khuya thanh vắng. Nỗi sợ ấy biến thành ý thức trách nhiệm. Ta không dám lười biếng, không dám buông thả, bởi ta biết cái giá của sự lười biếng chính là sự đói khổ của những người ta yêu thương.

Con mắt nhìn về tiền của người nghèo cũng không nhuốm màu kiêu hãnh hay ngạo mạn. Nếu người giàu có thể dùng tiền để khẳng định vị thế, để mua lấy sự nể trọng, thì người nghèo dùng tiền chỉ để duy trì sự sống và bảo vệ phẩm giá tối thiểu của con người. Tôi đã thấy cha tôi, một người đàn ông đầy lòng tự trọng, phải cúi đầu vay mượn người khác khi trong nhà có người ốm đau. Cái cúi đầu ấy đau đớn hơn ngàn vết roi quất vào da thịt. Tiền lúc ấy trở thành một vị quan tòa phán xét, tước đi sự ngẩng cao đầu của một con người lương thiện. Từ đó, tôi học được rằng, kiếm tiền không phải để khoe khoang, mà là để không bao giờ phải rơi vào cảnh ngộ phải đánh đổi danh dự lấy sự tồn tại. Đồng tiền chân chính phải là đồng tiền sạch, được làm ra từ chính sức lao động lương thiện, dù ít ỏi nhưng đáng quý. Người nghèo hiểu rõ hơn ai hết rằng, đồng tiền bất chính có thể đến nhanh, nhưng nó sẽ cuốn trôi đi bình an và hạnh phúc. Chỉ có đồng tiền thấm đẫm mồ hôi mới mang lại giấc ngủ ngon, dù là trên chiếc chiếu manh rách nát.

Cái nghèo còn cho ta thấy một khía cạnh khác của tiền: đó là sự sẻ chia. Nghịch lý thay, đôi khi chính những người nghèo nhất lại là những người hào phóng nhất. Bởi họ hiểu cái cảm giác của sự thiếu thốn, họ thấm thía nỗi đau của cái đói, cái rét. Khi nhìn thấy cha mẹ tuy vất vả nhưng vẫn sẵn sàng san sẻ bát cơm cho người hàng xóm cơ nhỡ, hay cho đi mớ rau, con cá dù nhà mình cũng chẳng dư dả gì, tôi nhận ra giá trị của đồng tiền không nằm ở con số in trên đó, mà nằm ở cách ta sử dụng nó. Tiền có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được bữa cơm gia đình ấm cúng; tiền có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sự quan tâm chăm sóc. Người nghèo, dù thiếu tiền, nhưng không bao giờ để mình nghèo tình thương. Chính trong sự khốn khó, tình người lại tỏa sáng rực rỡ nhất, như bông hoa sen vươn lên từ bùn lầy, ngát hương thơm ngát. Bài học ấy theo tôi suốt cả cuộc đời, nhắc nhở tôi rằng dù sau này có khá giả đến đâu, cũng đừng bao giờ để đồng tiền làm mờ mắt, làm chai sạn trái tim, làm ta quên đi cái gốc rễ yêu thương của con người.

Nhìn sâu hơn vào khía cạnh tâm linh, cái nghèo và cái nhìn về tiền bạc còn là một hành trình đức tin đầy thử thách nhưng cũng đầy ân sủng. Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nhung lụa, Người chọn máng cỏ hang lừa, chọn cuộc đời của một người thợ mộc lam lũ. Phải chăng, Người muốn thánh hóa sự nghèo khó và lao động? Khi nhìn cha mẹ cúi người làm việc, tôi thấp thoáng thấy hình ảnh của Đấng Tạo Hóa đang tiếp tục công trình sáng tạo qua đôi tay con người. Lao động không phải là hình phạt, mà là sự cộng tác với Thiên Chúa. Tiền bạc kiếm được từ lao động chân chính, vì thế, cũng mang một giá trị thiêng liêng. Nó là phương tiện để ta nuôi sống bản thân, phục vụ gia đình và bác ái với tha nhân. Cái nghèo dạy ta biết trông cậy vào Chúa. Khi túi tiền rỗng tuếch, khi mọi cánh cửa dường như đóng lại, ta mới học được cách quỳ gối cầu nguyện với một lòng tin thác tuyệt đối. Ta nhận ra rằng, tiền bạc là vật ngoại thân, nay còn mai mất, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa và tình nghĩa giữa người với người mới là vĩnh cửu. Sự “nghèo khó trong tâm hồn” mà Tin Mừng nhắc tới, có lẽ cũng bắt đầu từ việc ta biết trân trọng những gì mình đang có, biết ơn từng tấm bánh, từng manh áo, và không để lòng tham lam tiền bạc chiếm ngự tâm hồn.

Sống trong một xã hội mà đồng tiền dường như đang chi phối mọi thang bậc giá trị, việc giữ cho mình một “con mắt khác” về tiền là điều không dễ dàng. Cám dỗ của vật chất luôn rình rập, mời gọi ta đánh đổi lương tâm để lấy sự giàu sang chóng vánh. Nhưng mỗi khi lòng tôi dao động, hình ảnh cha mẹ ngày xưa lại hiện về rõ mồn một. Tôi thấy lại giọt mồ hôi rơi trên trán cha, thấy lại vết chai sần trên tay mẹ, thấy lại mâm cơm đạm bạc mà chan chứa tiếng cười. Những hình ảnh ấy như một chiếc neo giữ con thuyền đời tôi không bị trôi dạt vào dòng xoáy của thực dụng và vô cảm. Tôi hiểu rằng, sự giàu có đích thực không được đo bằng số dư tài khoản, mà bằng sự bình an trong tâm hồn, bằng khả năng yêu thương và sẻ chia. Một người có thể nghèo tiền bạc, nhưng nếu họ biết sống ngẩng cao đầu, biết lao động chân chính và biết yêu thương, họ vẫn là những người giàu có nhất thế gian.

Đồng tiền, tự bản thân nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là tấm gương phản chiếu tâm tính của người sở hữu nó. Với người tham lam, tiền là ông chủ hà khắc sai khiến họ làm điều ác. Với người biết trân trọng giá trị lao động, tiền là người đầy tớ đắc lực giúp họ xây dựng cuộc sống và lan tỏa yêu thương. Cái nghèo đã cho tôi một đặc ân, đó là khả năng nhìn thấu bản chất của đồng tiền qua lăng kính của sự hy sinh. Tôi biết ơn những ngày tháng gian khó ấy, biết ơn sự hy sinh thầm lặng của cha mẹ. Chính nhờ những ngày “cúi người” của cha mẹ, mà tôi hôm nay mới có thể “đứng thẳng” làm người. Và bài học lớn nhất mà tôi mang theo trong hành trang cuộc đời mình, không phải là cách làm sao để kiếm thật nhiều tiền, mà là làm sao để sử dụng đồng tiền cho xứng đáng với những giọt mồ hôi nước mắt đã đổ xuống. Để mỗi khi cầm đồng tiền trên tay, tôi không chỉ thấy giá trị vật chất của nó, mà còn thấy cả một trời yêu thương, một đời hy sinh, và một lời nhắc nhở thiêng liêng về phẩm giá con người.

Cuộc sống hiện đại hối hả, con người lao vào cuộc đua kiếm tiền như những con thiêu thân. Đôi khi ta quên mất lý do thực sự ta cần tiền là gì. Ta làm việc bán sống bán chết để mua những ngôi nhà to hơn nhưng lại ít về nhà hơn; ta mua những chiếc giường đắt tiền hơn nhưng lại có ít giấc ngủ ngon hơn; ta mua những gói bảo hiểm cao cấp hơn nhưng lại ít quan tâm đến sức khỏe thực sự của cha mẹ già đang mòn mỏi ở quê nhà. Cái nghèo ngày xưa, dù khắc nghiệt, nhưng lại giữ cho gia đình một sự gắn kết bền chặt mà tiền bạc không thể mua được. Bữa cơm rau mắm ngày xưa tuy đạm bạc nhưng luôn đông đủ các thành viên, tiếng cười nói rộn ràng. Còn bây giờ, mâm cao cỗ đầy nhưng đôi khi lại thiếu vắng bóng người, hoặc nếu có đủ thì ai nấy cũng cắm cúi vào chiếc điện thoại, toan tính những chuyện làm ăn xa xôi. Phải chăng chúng ta đã “giàu” lên về vật chất nhưng lại đang “nghèo” đi về tình cảm? Phải chăng ta đã để đồng tiền làm chủ thay vì làm phương tiện? Nhớ về cái nghèo, về cha mẹ cúi người lam lũ, là cách để ta giật mình tỉnh thức, để sắp xếp lại thang giá trị của đời mình, để biết đâu là điểm dừng, đâu là hạnh phúc đích thực.

Mỗi lần dâng Thánh Lễ, khi nâng chén rượu và tấm bánh lên, tôi thường thầm thì cầu nguyện cho những người lao động nghèo khó, cho những bậc cha mẹ đang ngày đêm vất vả mưu sinh. Tôi xin Chúa thánh hóa những giọt mồ hôi của họ, biến những hy sinh thầm lặng ấy thành nguồn ân sủng nuôi dưỡng tâm hồn con cái họ. Và tôi cũng cầu xin cho chính mình, và cho tất cả chúng ta, những người có may mắn thoát khỏi cảnh nghèo, không bao giờ được phép quên đi quá khứ. Đừng bao giờ nhìn người nghèo bằng ánh mắt khinh miệt, bởi đằng sau manh áo rách ấy có thể là một tâm hồn vĩ đại hơn ta tưởng. Đừng bao giờ phung phí thức ăn, bởi đó là tội lỗi đối với những người đang đói khổ. Và quan trọng nhất, đừng bao giờ coi tiền bạc là mục đích tối thượng của cuộc đời. Hãy nhớ rằng, khi ta lìa bỏ thế gian này, ta không mang theo được một đồng xu nào cả, thứ duy nhất ta mang theo được là tình yêu ta đã trao đi và những việc lành ta đã làm.

Cái nghèo cho ta con mắt khác về tiền – một con mắt biết rưng rưng, biết trân trọng và biết yêu thương. Đó là một món quà vô giá mà có lẽ chỉ những ai đã từng đi qua giông bão của sự thiếu thốn mới có thể thấu hiểu trọn vẹn. Xin cho chúng ta luôn giữ được cái nhìn trong sáng ấy, để giữa dòng đời vạn biến, ta vẫn giữ được trái tim ấm nóng của một con người, biết sống xứng đáng với những hy sinh của tiền nhân, và biết dùng những gì mình có để làm đẹp cho đời, làm sáng danh Chúa. Bởi suy cho cùng, tiền chỉ là phương tiện để ta đi qua cuộc đời này, còn đích đến cuối cùng vẫn là Tình Yêu và Sự Sống đời đời. Nhìn cha mẹ cúi người, tôi học được cách ngẩng đầu sống đúng nghĩa, và tôi hiểu: Tiền không bao giờ là chuyện nói chơi, vì nó chứa đựng cả cuộc đời của những người tôi yêu thương nhất.

Lm. Anmai, CSsR


 

Thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời ngày 20/08/2025.

 Nghệ Lâm Hồng

“Trái tim dưới áo quan tòa” vừa qua đời

– by Vũ Thế Thành

Ảnh: quan tòa F. Caprio trong phiên xử người cựu chiến binh.

Sáng nay đọc báo Mỹ mới biết tin, thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời hôm qua, ngày 20/08/2025.

Hồi SG bị lockdown vì đại dịch, tôi thường xem show truyền hình “Caught in Providence” của Caprio, chiếu lại qua Youtube cho đỡ buồn.

Frank Caprio là chánh án tòa án thành phố Providence (Mỹ). Các show truyền hình về diễn biến những phiên tòa mà ông chủ tọa, thường là vụ án nhỏ như vi phạm luật giao thông. Phiên tòa vừa trang nghiêm, vừa vui vẻ, chẳng có gì là căng thẳng giữa thẩm phán, bị cáo và những người tham dự, nhưng đầy chất nhân bản trong đó.

Tôi nhớ mang máng có show thế này: Một bà mẹ vi phạm luật giao thông, xuất hiện ở tòa cùng với đứa con gái nhỏ. Quan tòa Caprio đọc nội dung vi phạm, bị cáo vui vẻ nhận tội. Quan tòa gọi đứa bé lên đứng cạnh ông, rồi hỏi. Mẹ có bị lỗi không? Có – Mẹ bị phạt bằng này tiền, có đúng không? Đúng – Giảm một phần tiền phạt cho mẹ nhé? Đứa bé cười toét miệng. Quan tòa lại hỏi, cháu sẽ dùng tiền giảm phạt đó làm gì? Nói mẹ mua kẹo mời mọi người trong tòa ăn. Cả tòa cười rộ lên vì câu trả lời của đứa trẻ.

Nhưng ấn tượng nhất với tôi  là phiên tòa xử một ông cụ 96 tuổi, bị phạt do chạy quá tốc độ gần khu vực trường học. Ông buồn rầu nhận lỗi. Tòa hỏi, vì sao? Tôi chở đứa con trai (60 hay 70 tuổi?)  đi cấp cứu. Đây là lần đầu tiên tôi vi phạm luật giao thông – Quan tòa quay sang hỏi về nhân thân của ông cụ, với những câu hỏi ngắn – Tôi là cựu chiến binh tham dự thế chiến II, được nhiều huân chương… Xuất ngũ làm công nhân cho đến khi về hưu, và chăm sóc đứa con tật nguyền. Vợ ông mất lâu rồi, không ai phụ giúp ông cả. Không khí trong tòa lặng đi khi ông cụ chậm rãi trả lời từng câu hỏi của thẩm phán, về cuộc đời cụ.

Quan tòa phán, mọi người trong tòa này đều mắc nợ cụ., rồi tuyên miễn phạt cho ông cụ. Thẩm phán Frank Caprio sau đó đã phát biểu một câu nói để đời “ Tôi không đeo huy hiệu dưới áo choàng thẩm phán. Tôi mang theo trái tim.”

Nghĩ lại mấy vụ gần đây trong nước, thầy hiệu trưởng tham nhũng 10 triệu ở Cà Mau, hay vụ án mấy con gà lôi.. Ngao ngán!

Cầm cân nảy mực, nếu luật pháp chỉ là công bằng không thôi thì chưa đủ, mà còn phải công minh. Nền tư pháp trong nước dường như nhân danh “công minh” để lạm dụng công bằng. Quan tòa đã đeo dao găm dưới áo choàng thẩm phán.

Cách đây hơn một năm, tôi có đọc bài báo phỏng vấn quan tòa Caprio, lúc này ông đã nghỉ hưu, và ngưng show “Caught in Providence” lâu rồi. Trông ông gầy hẳn vì đang chống chọi với bệnh ung thư tuyến tụy, nhưng nụ cười vẫn hiền hậu, toát ra vẻ nhân ái.

Sáng nay đọc NY Post mới biết tin Frank Caprio, vị quan tòa đã dấu trái tim dưới lớp áo choàng thẩm phán, vừa mãn phần hôm qua (20/08/25), ở tuổi 88. Judge Frank Caprio, R.I.P

Vũ Thế Thành