CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

CHIẾN ĐẤU VỚI CẢ THẾ GIỚI TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI

Bà đang chết dần vì căn bệnh ung thư đã di căn vào xương – nhưng những tập đoàn hóa chất đang tìm cách hủy hoại danh tiếng của bà không hề hay biết điều đó. Và bà đã sắp xếp để họ không bao giờ được biết.

Vào những năm 1950 tại Mỹ, người ta tôn sùng một loại “thuốc tiên” gọi là DDT. Loại thuốc trừ sâu này được hứa hẹn sẽ chấm dứt nạn đói và diệt trừ bệnh tật. Người ta phun nó ở khắp nơi: trên đồng ruộng, trong công viên nơi trẻ em chơi đùa. Các quảng cáo hô hào: “Sống tốt hơn nhờ hóa chất”.

Nhưng Rachel Carson, một nhà sinh vật học biển, đã nhận ra một điều mà các quảng cáo không hề nhắc tới: Lũ chim đang biến mất.

Cuộc chiến chống lại những “gã khổng lồ”

Rachel không phải là một nhà hoạt động chính trị. Bà là một nhà khoa học điềm tĩnh, yêu đại dương. Nhưng khi thấy những đàn chim chết hàng loạt, cá biến mất khỏi dòng sông và những người nông dân đổ bệnh kỳ lạ, bà biết mình không thể im lặng.

Bà phát hiện ra sự thật kinh hoàng: DDT không hề tự phân hủy. Nó tích tụ và ngấm sâu vào chuỗi thức ăn, gây ung thư, hủy hoại gen và làm sụp đổ cả hệ sinh thái.

Suốt 4 năm, bà dồn hết tâm sức viết cuốn sách “Mùa xuân vắng lặng” (Silent Spring). Cái tên đầy ám ảnh: Một mùa xuân mà không còn tiếng chim hót, vì lũ chim đã chết sạch.

Bí mật đau đớn

Năm 1960, khi đang viết dở cuốn sách, Rachel phát hiện mình bị ung thư vú thể ác tính. Bà phải phẫu thuật, rồi xạ trị. Căn bệnh di căn vào hạch rồi vào xương. Những đợt điều trị khiến bà kiệt sức, buồn nôn, nhiều lúc không thể cầm nổi bút.

Nhưng bà không nói cho ai biết.

Bà hiểu rằng nếu các tập đoàn hóa chất biết bà đang bị ung thư, họ sẽ dùng nó để tấn công bà. Họ sẽ nói bà là kẻ “hysteria”, là người đàn bà bệnh tật nên suy nghĩ không tỉnh táo, rằng nghiên cứu của bà chỉ là sự sợ hãi vô căn cứ của một kẻ sắp chết.

Thế là, trong khi âm thầm chiến đấu giành giật sự sống trong phòng bệnh, bà vẫn xuất hiện đầy bản lĩnh trước công chúng để chiến đấu cho sự sống của chim chóc, cá tôm và con người.

Chiến thắng của sự thật

Cuốn sách xuất bản năm 1962 đã gây ra một cơn địa chấn. Các đại gia ngành hóa chất như Monsanto, DuPont tuyên chiến với bà. Họ đổ hàng triệu đô la vào truyền thông để bôi nhọ bà là “kẻ cổ hủ muốn đưa thế giới về thời kỳ tăm tối”.

Rachel vẫn đứng vững. Bà xuất hiện trên truyền hình, điềm tĩnh và đầy sức thuyết phục. Bà ra điều trần trước Quốc hội Mỹ. Dưới tác động từ cuốn sách của bà, Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều tra. Dư luận bắt đầu thức tỉnh và đặt câu hỏi: Chúng ta đang phun cái gì lên thức ăn của mình thế này?

Di sản còn mãi

Rachel Carson qua đời năm 1964, ở tuổi 56, chỉ hai năm sau khi cuốn sách ra đời. Bà không sống đủ lâu để thấy DDT bị cấm chính thức hay sự ra đời của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).

Nhưng nhờ có bà, những con đại bàng đầu hói đã được cứu khỏi bờ vực tuyệt chủng. Nhờ có bà, phong trào bảo vệ môi trường hiện đại mới thực sự bắt đầu. Mỗi khi chúng ta nói về thực phẩm sạch hay bảo vệ thiên nhiên, Rachel Carson vẫn luôn ở đó.

Bà có thể dành những năm cuối đời để nghỉ ngơi trong yên bình. Nhưng bà đã chọn đối đầu với những thế lực quyền lực nhất hành tinh, dù biết mình sẽ bị tấn công tàn nhẫn, chỉ vì bà tin rằng: “Ai đó phải nói ra sự thật.”

Và bà đã nói, cho đến hơi thở cuối cùng. Nhờ giọng nói ấy, mùa xuân của chúng ta vẫn còn tiếng chim ca.

Vầng Sáng Lịch Sử

#anhchiquandiemcanhan


 

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Xuyên Sơn

 CÔNG BẰNG Ở ĐÂU?

Câu hỏi như sau:

Trên đời này có tồn tại công bằng hay không?

Câu trả lời là:

Có. Đó là Thời Gian.

Tất cả mọi người đều có 24 tiếng/ngày.

Và đó là sự công bằng.

Vì vậy:

– Nếu mình nghèo, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để làm giàu

– Nếu mình kém, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để học hỏi

– Nếu mình ốm, đừng đổ lỗi cho thế giới vì mình cũng có 24 tiếng để xây dựng sức khoẻ

– Và nếu mình cho rằng thế giới này chẳng có gì công bằng, thì mình có 24 tiếng để cảm nhận sự công bằng của cuộc sống.

Chúng ta đều có 24 tiếng, nhưng có người lựa chọn ngủ nướng, có người lựa chọn làm việc, có người lựa chọn suy nghĩ tích cực, có người lại lựa chọn những suy nghĩ tiêu cực, có người lựa chọn can đảm làm việc khó, có người lựa chọn sự sợ hãi không dám làm…

và có lẽ nào chúng ta đã nhầm?

Cuộc sống rất công bằng, nhưng LỰA CHỌN của mỗi người mới chính là điều không công bằng.

Hãy lựa chọn cho đúng!

____________

(Nguồn:Sưu tầm/TOP Ebook Free)


 

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Trịnh Mạnh Dũng

TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ ĐỐI VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Từ Đức Minh

– Chúng dụ dỗ 24.000 du học sinh, con cái Đảng viên, nhà giàu Việt Nam sang Mỹ học tập.

– Chúng tiếp nhận cả tỷ USD của các đồng chí lãnh đạo Đảng viên chuyển tiền bạc tham ô sang mua nhà cửa để kiếm thẻ xanh ở Mỹ.

– Chúng xúi giục, kích động các con cháu Đảng viên bỏ Việt Nam sang Mỹ định cư.

Ví dụ như:

con gái Nguyễn Tấn Dũng,

con trai thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trương Tấn Sang,

con tướng Trung,

con bộ trưởng Kim Tiến…

– Chúng cung cấp gần 50 triệu đô-la nhằm hỗ trợ Việt Nam rà phá huỷ bom mìn chưa nổ.

– Chúng đã đền cho Việt Nam hơn 46 triệu đô-la nhằm hỗ trợ cho công dân Việt Nam khuyết tật, nhiễm chất độc dioxin.

– Chúng lập ra tổ chức USAID cung cấp 12 triệu đô la hỗ trợ cho Việt Nam phòng hạn hán và xâm nhập mặn hàng trăm nghìn hộ gia đình các tỉnh phía nam.

– Chúng cho Việt Nam 9,5 triệu USD để ứng phó với dịch COVID-19,

trong đó bao gồm 5 triệu USD cho quỹ hỗ trợ kinh tế.

– Chúng cho bác sĩ, dụng cụ thuốc men vào Việt Nam chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.

– Chúng thay Đảng Cộng Sản Việt Nam lên tiếng phản đối Trung Cộng giết hại ngư dân Việt Nam trên Biển Đông.

Từ Đức Minh

Xuyên Sơn


 

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Trần Tố Ngọc

 LÀM NGHỀ GÌ ?

Lù Trọng Thắng

Bên Tàu có câu chuyện dân gian đại khái rằng, hôm ấy Diêm Vương xét duyệt cho hai người phụ nữ đầu thai lên thế gian. Người thứ nhất, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây nhà ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm nghề bán thân.

– Bán thân là gì ?

– Dạ… là làm… đĩ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

-Tội nghiệp, thôi ta cho ngươi đầu thai lên làm con gái nhà giàu.

Đến người phụ nữ thứ hai, Diêm Vương hỏi:

– Trước khi xuống đây ngươi làm nghề gì ?

– Dạ, con làm đầy tớ của nhân dân ạ.

– Nghĩa là sao ?

– Dạ, là quan chức nhà nước đấy ạ.

Ngập ngừng một chút, Diêm Vương phán:

– Ta cho ngươi đầu thai lên làm con trâu.

Người phụ nữ hốt hoảng:

– Tâu Diêm Vương sao kỳ vậy ? Con làm quan là phục vụ nhân dân, là có công lao sao lại bắt con đầu thai lên làm trâu. Trong khi chị kia làm đĩ thì lại cho chỉ đầu thai lên làm con nhà giàu.

– Ngươi bình tĩnh nghe ta giải thích. Ta hỏi là hỏi vậy thôi chớ hồ sơ các ngươi đã có đầy đủ đây nầy: Cô kia tuy làm đĩ xấu xa nhưng đó là bước đường cùng, cổ kiếm được đồng tiền phải chịu đắng cay tủi nhục. Nên ta cho cổ cơ hội để bù đắp. Còn nhà ngươi, ngươi đã nhiều lần bán thân cho quan cấp trên để được thăng chức, tội nầy đáng lý phải cưa hai nấu dầu. Nhưng đến khi có quyền cao chức trọng, ngươi lại vơ vét công quỹ, ăn hối lộ để làm giàu nên ta phạt ngươi đầu thai lên làm trâu để kéo cày suốt đời trả món nợ kia, và khi về già ngươi sẽ bị xẻ thịt lột da để đền cái tội bán dâm đổi chức…

Nghe Diêm Vương phán xong, chị ta ôm mặt khóc nức nở:

– Trời ơi, cả đời làm quan lại không bằng con đĩ nè trời!

Tố Ngọc Trần Sưu tầm


 

TUỔI GIÀ – MỘT KIẾP NGƯỜI LẶNG LẼ MÀ SÂU XA

Tuổi già là đoạn đường mà ai rồi cũng sẽ đến, nếu may mắn được sống đủ lâu. 

Có người đến đó trong an yên, có người đến trong cô độc. 

Có người hạnh phúc nhìn lại đoạn đời đã qua, có người lặng lẽ ôm những ân hận không thể sửa. 

Nhưng dầu là ai, ở tuổi già, ai cũng cần một điều – ấy là được sống cho chính mình. Cả một đời người, ta đã quen sống vì người khác. Hồi trẻ, cha mẹ lo cho con, rồi đến lúc làm cha mẹ, ta lại sống vì con cái. Mỗi ngày là một guồng quay – cơm áo, gạo tiền, trách nhiệm, bổn phận, hy sinh. Ta cặm cụi gây dựng cuộc sống cho gia đình, cho người thân, cho con cái có chỗ đứng trong đời. Có lúc vội đến nỗi chẳng kịp ngẩng đầu nhìn trời. Có khi mệt đến nỗi không biết mình đang buồn hay đang sống.

Có những người suốt bốn, năm chục năm không có một ngày thật sự cho bản thân. Vui ít, lo nhiều. Lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nại gồng gánh. Đến lúc nhìn lại, hóa ra bản thân là người ta bỏ quên nhiều nhất.

Vậy mà đến khi bước vào tuổi xế chiều, nhiều người lại mang tâm thế… chờ đợi. Chờ ngày con cái thành đạt, chờ cuộc sống ổn định, chờ lúc nhắm mắt.

Có người già rồi mà tâm chưa chịu nghỉ. Cứ đau đáu chuyện con dâu, chuyện cháu học hành, chuyện nhà cửa sau này để ai, chuyện xóm làng dâu bể. Tâm cứ bận, lòng chẳng an. Ngồi giữa căn nhà đã dựng lên cả đời, vậy mà thấy mình như kẻ qua đường.

Tuổi già không phải là giai đoạn chờ chết. Mà là một mùa sống khác – chậm hơn, sâu hơn, nhẹ hơn, nhưng không kém phần đẹp đẽ. Nó giống như mùa thu – không rực rỡ như mùa xuân, không sôi nổi như mùa hạ – nhưng đằm thắm, dịu dàng, và đủ đầy.

Sống sâu – là học cách lắng nghe mình lần nữa. Là nhắm mắt lại mà vẫn thấy ấm lòng vì tiếng gió qua vườn, tiếng chổi quét lá mỗi sáng, tiếng cháu gọi ông bà ríu rít ngoài sân. Là một tách trà vừa đủ nóng, một ánh chiều vàng rơi nghiêng nơi hiên nhà. Là đọc lại quyển sách cũ từng gối đầu giường, ngắm lại ảnh cưới đã vàng màu năm tháng. Là nhớ về người xưa không còn với mình, mà lòng không buồn – chỉ thấy biết ơn.

Sống sâu – cũng là học cách tha thứ. Tha thứ cho người, và cho chính mình. Tha thứ cho những va vấp không sửa kịp, những sai lầm chưa kịp xin lỗi. Tha thứ cho quá khứ, để tương lai còn có thể nhẹ bước. Khi ta không còn nhiều thời gian như trước, lòng nhẹ mới là món quà quý nhất ta có thể tự tặng mình.

Sống nhẹ – là biết mình không cần chứng minh nữa. Không cần gồng mình để được công nhận. Không cần so sánh mình với người bên cạnh. Không cần gánh lấy vai trò đạo đức hay mẫu mực gì nữa. Bởi lẽ, sống một đời tử tế đã là đủ. 

Còn lại là học cách thảnh thơi, học cách im lặng đúng lúc, học cách mỉm cười khi không cần nói gì. Tuổi già là lúc sống ít lời mà nhiều nghĩa. Là khi ánh mắt nhìn đời đã dịu lại, không còn sắc bén, không còn đòi hỏi. Là khi người ta có thể buông tay, nhưng không buông bỏ lòng nhân hậu. Là khi có thể im lặng, nhưng lòng vẫn đầy yêu thương. Là khi không còn tranh cãi hơn thua, mà chỉ muốn mỗi ngày còn được ăn một bữa cơm ngon, ngồi giữa tiếng cười con cháu, và ngủ một giấc bình yên.

Có nhiều người sợ tuổi già. Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lãng quên. Nhưng nếu biết sống đúng, tuổi già không đáng sợ. Nó là phần thưởng cho người đã đi hết những năm tháng nhọc nhằn. Là cơ hội để sống lần nữa – nhưng lần này là cho mình. Không cần thành đạt, chỉ cần thảnh thơi. Không cần được ca ngợi, chỉ cần được sống thật với lòng mình.

Một mái nhà đơn sơ, một cái ghế mây kê ở ban công, một khóm hoa nhỏ trước hiên, vài người bạn tri kỷ, vài quyển sách cũ, một ấm trà nóng – thế là đủ. Hạnh phúc tuổi già không ở chỗ có bao nhiêu tiền trong sổ tiết kiệm, mà ở chỗ có bao nhiêu bình an trong tâm hồn.

Vậy nên, đừng chờ đợi điều gì nữa. Mỗi ngày còn tỉnh táo, còn có thể bước ra vườn hít một hơi thật sâu – là một món quà. Còn thấy được ánh sáng, còn nghe được tiếng chim – là còn có lý do để sống.

Tuổi già, nếu biết nhìn bằng đôi mắt yêu thương, sẽ không là đoạn kết. Mà là một mùa chín rộ, ngọt ngào, lặng lẽ – như trái cây cuối mùa, thơm bền và sâu vị. Một đời người nếu đã sống trọn, thì những năm tháng cuối cùng không phải là để sợ hãi, mà là để tri ân. Tri ân cuộc đời. Tri ân những người đã đi cùng ta. Và tri ân chính mình – đã đi qua bao bão giông, vẫn còn ngồi đây, còn thở, còn biết ơn.

Tuổi già không phải là chờ “đi xa mãi” . Mà là sống – một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất.

From: TU-PHUNG


 

Tô Lâm đang bị rớt điểm trong bộ Chính Trị – Tranh Chấp nội bộ căng thẳng trước kỳ bầu Tổng Bí Thư Đảng

TRÀN NGẬP THÔNG TIN RÒ  RỈ VÀ BÌNH LOẠN TRÊN MẠNG CỦA CÁN BỘ VÀ DÂN ĐEN

BÌNH LUẬN CỦA ĐÀI BBC

bản tin HOA THỊNH ĐỐN

Một số người đặt niềm tin vào phe quân đội có thể lật đổ được phe Tô Lâm; nhưng nên nhớ, Tô Lâm có khá nhiều thân tín trong Bộ Quốc phòng như Đại tướng Trịnh Văn Quyết, Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến…

Hồi 9/10, mạng xã hội rộ lên thông tin Phan Văn Giang thay Tô Lâm làm tổng bí thư. Nguồn cơn là từ Facebook ông Đinh Bá Truyền đăng lên. Theo đó, sau khi Hội nghị Trung ương 13 bế mạc, Phạm Minh Chính, Lương Cường và Trần Thanh Mẫn coi như sẽ về vườn.

Đồng thời, ông Truyền cũng cho rằng Bộ Chính trị đã thực hiện cuộc bỏ phiếu kín cho vị trí Tổng Bí thư nhiệm kỳ sau. Trong đó, Phạm Minh Chính chỉ được 1 phiếu (có thể do ông Chính tự bầu cho mình), Tô Lâm được 6 phiếu, và điều bất ngờ là Phan Văn Giang được 9/16 phiếu bầu. Điều này có nghĩa Phan Văn Giang đang chiếm ưu thế trong cuộc đua giành ghế Tổng Bí thư.

Tới ngày 12/10, câu chuyện tiếp tục được bàn tán khi Tô Lâm và Phan Văn Giang tới dự lễ kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống lực lượng vũ trang Quân Khu 4 tổ chức ở tỉnh Nghệ An. Tại đây, người dẫn chương trình của Quân khu 4 đã đọc Đại tướng Phan Văn Giang là Bí thư Quân Ủy Trung Ương. Trong khi đó chức danh lãnh đạo tối cao của quân đội này đang là của Tô Lâm, Phan Văn Giang chỉ là Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương…

BÁO TIẾNG DÂN

Tấm hình Tô Lâm (phải) ăn thịt bò dát vàng ở London khi người dân tại Việt Nam đang khốn đốn với đại dịch COVID-19, Tháng Mười Một, 2021. (Hình: Cắt từ clip tiktok của Nusr-Et)

Khởi đầu, nhiều người phấn khích trước tin ông Tô Lâm bị buộc phải rời cương vị hiện tại (tổng bí thư) ở nhiệm kỳ tới. Kế đó, không ít người thất vọng khi nghe nói, đội ngũ lãnh đạo Bộ Chính Trị đảng CSVN nhiệm kỳ tới (khóa 14) gần như không có thay đổi nào đáng kể.

Sẽ có nhiều cá nhân lẽ ra phải rời chính trường vì quá độ tuổi đã được xác định trong Điều Lệ Đảng CSVN nhưng cuối cùng vẫn tiếp tục “cầm cân, nảy mực” vì được BCH TƯ đảng khóa này xem là “trường hợp đặc biệt!”

Tuyên bố của ông Tô Lâm về việc lựa chọn cá nhân lãnh đạo đảng CSVN nhiệm kỳ tới phải có “năm cộng” (ngoài các tiêu chí như đã biết phải thêm năm yếu tố là “đức, tài, uy tín, tầm nhìn, khả năng triển khai mục tiêu lớn”) giống như một kiểu nói đùa làm thiên hạ… ứa lệ!

 

Mạng Đại Ngu

Tô Lâm không đủ tiêu chuẩn làm Tổng bí thư nhiệm kỳ 2026-2031?

 
Chiểu theo tiêu chuẩn, bác Tổng bí thư hiện nay Tô Lâm không đủ điều kiện để làm Tổng bí thư nhiệm kỳ 2026-2031, vì:
 
1. Bác Tô Lâm không có phẩm chất đạo đức lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật. Cụ thể:
– Nghi vấn liên quan tới vụ án MobiFone-AVG …
– Vụ án bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Đức …
– Hình ảnh ăn bò dát vàng do đầu bếp Salt Bae cung cấp ngày 3/11/2021
– …
 
2. Về trình độ năng lực, uy tín và khả năng quy tỵ đoàn kết:
– Những thất bại trong các dự án thay đổi giấy chứng minh nhân dân, căn cước công dân, thẻ công dân…
– Những xáo trộn xã hội, xáo trộn hệ thống chưa có hồi kết sau quyết định sáp nhập tỉnh, xoá hệ thống chính quyền 3 cấp.
– … 
 
3. Về độ tuổi: Ông Tô Lâm sinh ngày 10/7/1957, tính đến nay đã tròn 68 tuổi, nằm trong độ tuổi nghỉ hưu trừ phi được Ban Chấp hành Trung ương đảng quyết định cho làm trường hợp đặc biệt.
 
4. Phẩm chất, năng lực: Không đáp ứng yêu cầu về phẩm chất, năng lực ít nhất ở mục có uy tín cao trong nhân dân. Những thống kê sơ bộ trên các trang mạng xã hôi và ngoài đời cho thấy tỷ lệ ủng hộ ông Tô Lâm được làm Tổng bí thư là rất thấp so với Đại tướng Phan Văn Giang.
 
Ngoài ra, ông Tô Lâm còn có một số dấu hiệu bè phái, địa phương chủ nghĩa khi sử dụng quyền uy của mình để sắp xếp, bố trí nhân sự trước Đại hội. Cụ thể:
 
– Cất nhắc các ông Lương Tam Quang, Nguyễn Duy Ngọc (cùng quê Hưng Yên, cùng ngành công an, cùng vây cánh) vào Bộ Chính trị khi cả hai ông này chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo quy định 241: Làm trọn một nhiệm kỳ trong Ban chấp hành Trung ương đảng.
 
– Đưa ông Vũ Hồng Văn (em trai của vợ cũ) lên chức Thiếu tướng dù ông này chỉ là lính nghĩa vụ công an chuyển sang chuyên nghiệp, sau đó đưa vào nắm chức Bí thư tỉnh uỷ Đồng Nai.
 
– Cất nhắc con trai (Tô Long) lên làm Cục trưởng Cục an ninh đối ngoại, tặng Huân chương Chiến công.
 
– Đưa ông Nguyễn Thanh Tùng, Mai Hoàng, Tô Anh Dũng… cùng quê Hưng Yên nắm các vị trí Giám đốc công an HN, HCM và Thanh Hoá, làm cho tổng số người nắm chức vụ cao trong đảng và chính quyền của riêng tỉnh Hưng Yên và những người có quan hệ họ hàng với Tổng bí thư lên con số cao bất thường…
Hoàng Dũng
 

Nhà toán học John Nash

Lê Vi

Trong hình là nhà toán học John Nash. Ông từng là giảng viên của Princeton và MIT. Nhưng sau đó ông bị tâm thần hoang tưởng và phải nhập viên từ 1959. Tới 1970, ông ra khỏi bệnh viện tâm thần và nhất quyết không quay lại nữa.

Trường Princeton mời ông quay lại trường. Từ đó “người ta thường thấy một người đàn ông gày xơ xác, tóc tai bơ phờ, mắt đờ đẫn không hồn, suốt ngày lang thang trong khuôn viên ĐH Princeton như một bóng ma, đôi lúc dừng lại trước những tấm bảng đen trong vườn và cặm cụi viết lên đó hàng tá công thức toán học kỳ quặc.”

Có người không hiểu trêu chọc ông. Nhưng phần lớn bênh vực ông và để ông thoải mái làm gì thì làm. Ông về ở với vợ cũ, bà chăm sóc ông. Đồng nghiệp cũng cố gắng giúp ông chút nào hay chút đó.

Cứ vậy cho tới tận cuối thập niên 80, ông tỉnh dần.

Năm 1994, theo đề nghị của những nhà khoa học là bạn ông, người ta tìm lại đề cử giải Nobel cho Lý thuyết trò chơi bất hợp tác của ông đã có từ 1985. Mà lẽ ra ông đã nhận giải nếu không bị bệnh.

Cuối cùng, ngày 11 tháng 10 năm 1994, Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tuyên bố: ba nhà khoa học John F. Nash Jr., John C. Harsanyi (quốc tịch Mỹ) và Reinhard Selten (Đức) được trao giải Nobel Kinh tế “vì các phân tích mở đường của họ về khái niệm cân bằng trong lý thuyết Trò chơi bất hợp tác.”

Trong lý lịch tự khai gửi Ủy ban Nobel, Nash viết: sau 25 năm gián đoạn suy nghĩ, giờ đây ông tin rằng mình có thể đạt được một số giá trị nào đấy qua các nghiên cứu hiện nay của ông hoặc với bất kỳ ý tưởng mới nào sẽ đến trong tương lai.”

Các nhà làm phim Mỹ năm 2001 có làm một bộ phim vinh danh ông, tên là Một tâm hồn đẹp ( A Beautiful Mind). Một phim tiểu sử rất hay. Bộ phim ra mắt tại các rạp chiếu phim của Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 12 năm 2001 và thu về $313 triệu trên toàn cầu và thắng 4 giải Oscar

______________-

Câu chuyện về Jonh Nash chỉ là một trong số rất nhiều câu chuyện về các thiên tài.

Họ có thể mắc nhiều tật bệnh. Thậm chí với nhiều người là bệnh di truyền qua vài đời. Tuy nhiên họ vẫn làm ra những thành tựu khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa… thuộc loại cực đỉnh trên thế giới.

Điều đó cho thấy thuyết ưu sinh là một thứ rác rưởi vì phản khoa học và không có nhân tính.

Tinh hoa chính là một món quà bất ngờ của Thượng đế ban tặng cho con người. Điều này đã được minh chứng qua mấy ngàn năm lịch sử.

Hình vợ chồng ông bà John Naáh

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân

Nguyễn Xuân Thu

 – Sự tao nhã chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát bản thân.

– Một người thực sự có học vấn. Luôn luôn khiêm tốn,thật thà, lễ độ

– Người thực sự giàu có. Luôn luôn đơn điệu. Sẽ không gặp ai cũng khoe khoang.

– Người thực sự có đức hạnh. Luôn luôn có huệ tâm. Sẽ không gặp ai cũng thể hiện.

– Người thực sự có trí tuệ. Luôn luôn tan hòa. Sẽ không phô diễn tài năng.

– Người thực sự có phong cách. Luôn luôn tự nhiên. Sẽ không uốn éo giả tạo.

– Một người thực sự có tu tâm. Luôn luôn yên tĩnh. Sẽ không tranh giành trước sau.

– Khi cơn tức giận ập tới là phúc khí đi mất rồi. Cơn giận càng lớn, cơ thể càng yếu. Trí tuệ chính yếu của con người nằm ở sự kiểm soát cảm xúc của chính mình.

Dùng lời nói tổn thương người khác là một hành vi không nên.

Nước sâu thì chảy chậm. Nói chậm là quý nhân….!!!

Nguồn: cuocsongmoi


 

VỀ GIÀ …

VỀ GIÀ …

* Về già, là khi ta có một đôi mắt mờ đi nhưng lại nhìn cuộc đời rõ hơn trước.

Vì có những thứ không thể nhìn bằng mắt thịt, và cũng có những điều không thể nghe bằng tai trần.

* Về già, là khi đôi chân mỏi mệt khi đã bị kéo lê gần hết quãng đường đời nhưng khi ngoái đầu lại ta dường như mới là đứa trẻ ngày hôm qua.

Bây giờ ta bước chậm hơn trước, chắc hơn trước và cũng trân trọng hơn từng cái chạm đất, vì có thể ngày mai ta không còn bước đi được nữa.

* Về già, là khi ta dùng đôi tai điếc của mình để nghe thiên hạ đang xôn xao về chuyện đời và ta biết rằng hơn một nửa trong số ấy không là thật. Bây giờ, âm thanh êm dịu duy nhất chỉ có tiếng chim tiếng gió và những âm thanh còn đọng lại trong lòng ta, của những người ta từng trân quý nhưng bây giờ không còn thể gặp lại nữa.

* Về già, là khi ta nhận ra rằng ta đã may mắn như thế nào khi từng được hít thở không khí một cách thoải mái, vì bây giờ, mỗi hơi thở là một thước đo của sự sống.

Ta thở ra nhưng ta không thể biết có thể hít vào một lần nữa được hay không?

*Về già, là khi những người tri kỷ ta còn ngồi lại cùng ta hoài niệm về một thời xa xưa, tuy là không nhiều.

Âu đó cũng là quy luật tự nhiên, khi ta không còn giá trị, những bằng hữu sẽ rời xa ta, người còn ở lại nhất định ta phải trân quý.

Về già, là khi ta nếm đủ ngọt bùi đắng cay của cuộc đời.

Những thứ làm ta say đắm ngẫm lại vui sướng không là bao nhưng đau khổ lại rất nhiều.

Có những thứ ta cứ tưởng nắm chặt trong tay rồi thì ngày mai lại trôi đi mất.

Cuộc đời như một trò đùa mộng mị mà người chơi phải trả bằng cả tuổi thanh xuân của mình, bây giờ ngẫm lại chỉ toàn là hối tiếc…

Về già, ta ngẫm lại đời mình, thăng trầm mọi nẻo, bao nhiêu người thương ta, bao nhiêu người ghét ta trong cuộc sống lạc loài, trông ngóng ngày mai, chờ đợi mỏi mòn ánh sáng tự do!

Suốt đời quý nhất cũng chỉ là hai tiếng bình yên.

Hạnh phúc cũng không phải là điều gì quá xa vời, nhưng có những người gần lúc cuối đời mới nhận ra được điều đó.

Sưu tầm


 

Từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

17/12/2025

Salomé Saqué là một nhà báo trẻ của Pháp, được biết đến bởi sự thẳng thắn, trí tuệ và lòng can đảm trong việc bảo vệ các giá trị dân chủ. Những điều cô nói không nhằm chỉ trích một dân tộc hay một chính quyền cụ thể nào. Đó là những lời cảnh tỉnh dành cho bất cứ xã hội nào đã sống quá lâu trong áp lực, hoặc mệt mỏi đến mức quên mất rằng: dân chủ không phải là thứ tự nhiên tồn tại – mà là thứ phải được nuôi dưỡng mỗi ngày.

Salomé Saqué

Dưới đây là một đoạn trong bài nói của cô:

“Nền dân chủ không bao giờ biến mất trong một ngày.

Nó chỉ tàn lụi khi người ta quen với bóng tối.”

Các xã hội không sụp đổ vì một biến cố bất ngờ, mà vì một quá trình dài: nỗi sợ được chấp nhận, sự bất công được coi là bình thường, và con người dần từ bỏ quyền lên tiếng của chính mình. Điều nguy hiểm nhất không phải là bạo lực, mà là sự thích nghi.

Bao giờ cũng vậy, trước khi tự do biến mất, một “giai điệu” quen thuộc sẽ vang lên:

rằng im lặng là khôn ngoan;

rằng phục tùng là an toàn;

rằng chân lý không quan trọng bằng sự yên ổn.

Thứ nhạc nền ấy ru con người vào trạng thái tê liệt, khiến họ tin rằng họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận. Đó chính là cách một xã hội đánh mất khả năng tự quyết: không phải vì con người thiếu hiểu biết hay thiếu dũng cảm, mà vì họ đã sống quá lâu trong một thế giới, nơi nỗi sợ trở thành thói quen, nơi sự thật bị bóp méo đến mức không còn nhận ra, nơi mỗi người thì thầm với chính mình: “Thôi, cố sống cho xong.”

Nhưng lịch sử chưa bao giờ được viết bằng sự cam chịu.

Không một nền dân chủ nào lớn lên từ sự im lặng kéo dài.

Tự do chỉ tồn tại khi con người tin rằng mình xứng đáng có nó.

Lịch sử luôn bắt đầu lại từ những khoảnh khắc rất nhỏ như thế.

Những lời nói trên của Salomé quả thật rất đáng suy ngẫm.

Nhưng tiếc thay, đó chỉ là… dân chủ tư sản.

Còn khi chúng ta đi học, chúng ta đã được dạy rất rõ ràng rằng:

“Dân chủ vô sản gấp một triệu lần dân chủ tư sản.”

Vậy nên, về nguyên tắc, những lời nhắc nhở của Salomé không dành cho Việt Nam.

Ở nước ta, dân chủ đã được giải quyết gọn gàng từ lâu. Đã có Đảng lãnh đạo tuyệt đối. Người lãnh đạo cao nhất của đất nước không cần dân bầu, vì Đảng đã bầu thay. Nhân dân, nhờ đó, được giải phóng khỏi một gánh nặng tinh thần rất lớn: khỏi phải suy nghĩ xem nên chọn ai.

Những ngày gần đây, trong nội bộ Đảng hình như đang có những cuộc đấu tranh khá quyết liệt để xem ai sẽ là người… được chọn. Tôi không có hiểu biết gì về các nhân vật chính trị này. Tôi chỉ thấy mạng xã hội xôn xao đủ loại tin đồn: ông nọ lên, bà kia xuống, người này “đang nguy”, người kia “sắp về”. Tin thật hay tin giả thì không ai biết, vì Đảng họp kín, chỉ có nhân dân là… họp hở.

Tôi cũng xin nói rõ: tôi không có hiểu biết gì về chính trị. Nhưng nếu buộc phải tổng kết một cách giản dị hai nền dân chủ, tư sản và vô sản, thì tôi thấy thế này:

Dân chủ tư sản thể hiện ở chỗ toàn dân tham gia bầu chọn người lãnh đạo cao nhất của mình. Dĩ nhiên, cũng có thể bầu sai. Ví dụ điển hình là… ông Trump hahaha.

Còn dân chủ vô sản thì khác. Toàn dân không bầu gì cả. Toàn dân chỉ… hóng.

Hóng xem ai được chọn.

Hóng xem ai bị loại.

Hóng xem ai “đi lò”.

Có thể gọi ngắn gọn là: dân chủ hóng hớt.

Nghĩ cho cùng, dân chủ như thế cũng đỡ mệt. Không phải bầu, không phải chịu trách nhiệm. Chỉ cần cập nhật tin đồn mỗi sáng là đủ cảm giác “tham gia đời sống chính trị”. Nếu dân chủ tư sản là quyền lựa chọn, thì dân chủ vô sản là nghệ thuật… chờ đợi. Ở những nơi khác, người ta đi bầu để quyết định tương lai; còn ở ta, người ta hóng để biết mình sẽ… chịu tương lai nào. Mà hóng hớt hình như lại là sở trường và môn thể thao yêu thích nhất của dân ta.

Dân chủ vô sản hiện đại, suy cho cùng, không cần phiếu bầu. Chỉ cần wifi mạnh, trí tưởng tượng phong phú và một tinh thần hóng hớt bền bỉ. Thế là đủ.


 

BỆNH KHOE CỦA NGƯỜI VIỆT…

Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.

Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.

Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.

Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.

Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”! 

Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…

Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.

Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!

From: Tu-Phung


 

NGHÈO CHO MÌNH CON MẮT KHÁC VỀ TIỀN-Lm. Anmai, CSsR

Người Giồng Trôm

Có lẽ chẳng ai muốn sinh ra trong nghèo khó, nhưng chính cái nghèo lại là một người thầy khắc nghiệt và chân thật nhất, dạy cho ta những bài học mà không trường lớp nào có thể giảng giải tường tận được, đặc biệt là bài học về đồng tiền. Khi ta lớn lên giữa những thiếu thốn, khi đôi mắt trẻ thơ sớm phải chứng kiến cảnh cha mẹ cúi người cả ngày trên cánh đồng cháy nắng hay bên gánh hàng rong trĩu nặng chỉ để đổi lấy một bữa cơm chiều, tự nhiên ta sẽ hiểu rằng tiền không bao giờ là chuyện nói chơi. Tiền bạc, đối với người nghèo, chưa bao giờ là những con số vô tri nằm trên giấy hay trong tài khoản ngân hàng, mà nó là hiện thân của mồ hôi, của nước mắt, của sức khỏe mòn mỏi và đôi khi là cả sự hy sinh lòng tự trọng. Cái nghèo cho mình một con mắt khác về tiền, một cái nhìn không nhuốm màu toan tính tham lam nhưng lại trĩu nặng nỗi trân trọng và xót xa.

Tôi nhớ những ngày tháng cũ, khi cái nghèo còn đeo bám gia đình như một chiếc bóng dài lê thê không dứt. Trong ký ức ấy, hình ảnh ám ảnh nhất không phải là ngôi nhà dột nát hay mâm cơm đạm bạc, mà là tấm lưng của cha và đôi bàn tay của mẹ. Cha tôi, người đàn ông vạm vỡ nhưng lầm lũi, dường như cả cuộc đời chỉ biết cúi mặt xuống đất. Ông cúi xuống để cày xới, cúi xuống để gieo hạt, và cúi xuống để gặt hái những hy vọng mong manh từ đất đai cằn cỗi. Có những ngày nắng như đổ lửa, hơi nóng bốc lên từ mặt ruộng làm mờ cả mắt người, cha vẫn ở đó, lưng áo ướt đẫm, khuôn mặt sạm đen vì nắng gió. Mẹ tôi, người phụ nữ tần tảo, cũng dành cả đời để chắt chiu từng đồng xu lẻ. Tôi từng thấy mẹ ngồi đếm lại những tờ tiền lẻ nhàu nhĩ, vuốt thẳng chúng ra, xếp ngay ngắn rồi lại thở dài cất vào trong chiếc túi vải sờn rách. Cái thở dài ấy nặng nề hơn bất cứ lời than vãn nào. Nhìn cha mẹ cúi người cả ngày chỉ để đủ một bữa, đứa trẻ trong tôi bỗng chốc già đi trước tuổi. Tôi hiểu rằng, để có được tờ tiền đưa cho tôi đóng học phí, hay mua một chiếc áo mới, cha mẹ đã phải bán đi từng chút sức lực của chính mình. Tiền lúc ấy không còn là phương tiện trao đổi, nó là máu thịt.

Khi người ta chưa từng nếm trải cái nghèo, người ta dễ dàng nhìn đồng tiền bằng con mắt hời hợt. Người ta có thể vung tay quá trán cho những cuộc vui, có thể lãng phí thức ăn, có thể mua sắm những thứ vô bổ chỉ để thỏa mãn cơn thèm muốn nhất thời. Nhưng với những ai đã từng thấy cha mẹ phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, đồng tiền mang một sức nặng ngàn cân. Cầm đồng tiền trên tay, tôi không dám tiêu xài hoang phí, bởi tôi nhìn thấy trong đó là những giọt mồ hôi mặn chát của cha rơi xuống luống cày, là đôi bàn tay nứt nẻ rớm máu của mẹ vào những ngày đông giá rét. Sự chi tiêu dè sẻn không phải vì bần tiện hay keo kiệt, mà là vì xót. Xót cho công sức của người thân, xót cho những nhọc nhằn mà cha mẹ phải gánh chịu. Cái nghèo dạy cho ta biết sợ. Sợ cái cảm giác bất lực khi túng thiếu, sợ ánh mắt lo âu của mẹ khi hũ gạo đã vơi, sợ tiếng thở dài của cha trong đêm khuya thanh vắng. Nỗi sợ ấy biến thành ý thức trách nhiệm. Ta không dám lười biếng, không dám buông thả, bởi ta biết cái giá của sự lười biếng chính là sự đói khổ của những người ta yêu thương.

Con mắt nhìn về tiền của người nghèo cũng không nhuốm màu kiêu hãnh hay ngạo mạn. Nếu người giàu có thể dùng tiền để khẳng định vị thế, để mua lấy sự nể trọng, thì người nghèo dùng tiền chỉ để duy trì sự sống và bảo vệ phẩm giá tối thiểu của con người. Tôi đã thấy cha tôi, một người đàn ông đầy lòng tự trọng, phải cúi đầu vay mượn người khác khi trong nhà có người ốm đau. Cái cúi đầu ấy đau đớn hơn ngàn vết roi quất vào da thịt. Tiền lúc ấy trở thành một vị quan tòa phán xét, tước đi sự ngẩng cao đầu của một con người lương thiện. Từ đó, tôi học được rằng, kiếm tiền không phải để khoe khoang, mà là để không bao giờ phải rơi vào cảnh ngộ phải đánh đổi danh dự lấy sự tồn tại. Đồng tiền chân chính phải là đồng tiền sạch, được làm ra từ chính sức lao động lương thiện, dù ít ỏi nhưng đáng quý. Người nghèo hiểu rõ hơn ai hết rằng, đồng tiền bất chính có thể đến nhanh, nhưng nó sẽ cuốn trôi đi bình an và hạnh phúc. Chỉ có đồng tiền thấm đẫm mồ hôi mới mang lại giấc ngủ ngon, dù là trên chiếc chiếu manh rách nát.

Cái nghèo còn cho ta thấy một khía cạnh khác của tiền: đó là sự sẻ chia. Nghịch lý thay, đôi khi chính những người nghèo nhất lại là những người hào phóng nhất. Bởi họ hiểu cái cảm giác của sự thiếu thốn, họ thấm thía nỗi đau của cái đói, cái rét. Khi nhìn thấy cha mẹ tuy vất vả nhưng vẫn sẵn sàng san sẻ bát cơm cho người hàng xóm cơ nhỡ, hay cho đi mớ rau, con cá dù nhà mình cũng chẳng dư dả gì, tôi nhận ra giá trị của đồng tiền không nằm ở con số in trên đó, mà nằm ở cách ta sử dụng nó. Tiền có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được bữa cơm gia đình ấm cúng; tiền có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sự quan tâm chăm sóc. Người nghèo, dù thiếu tiền, nhưng không bao giờ để mình nghèo tình thương. Chính trong sự khốn khó, tình người lại tỏa sáng rực rỡ nhất, như bông hoa sen vươn lên từ bùn lầy, ngát hương thơm ngát. Bài học ấy theo tôi suốt cả cuộc đời, nhắc nhở tôi rằng dù sau này có khá giả đến đâu, cũng đừng bao giờ để đồng tiền làm mờ mắt, làm chai sạn trái tim, làm ta quên đi cái gốc rễ yêu thương của con người.

Nhìn sâu hơn vào khía cạnh tâm linh, cái nghèo và cái nhìn về tiền bạc còn là một hành trình đức tin đầy thử thách nhưng cũng đầy ân sủng. Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nhung lụa, Người chọn máng cỏ hang lừa, chọn cuộc đời của một người thợ mộc lam lũ. Phải chăng, Người muốn thánh hóa sự nghèo khó và lao động? Khi nhìn cha mẹ cúi người làm việc, tôi thấp thoáng thấy hình ảnh của Đấng Tạo Hóa đang tiếp tục công trình sáng tạo qua đôi tay con người. Lao động không phải là hình phạt, mà là sự cộng tác với Thiên Chúa. Tiền bạc kiếm được từ lao động chân chính, vì thế, cũng mang một giá trị thiêng liêng. Nó là phương tiện để ta nuôi sống bản thân, phục vụ gia đình và bác ái với tha nhân. Cái nghèo dạy ta biết trông cậy vào Chúa. Khi túi tiền rỗng tuếch, khi mọi cánh cửa dường như đóng lại, ta mới học được cách quỳ gối cầu nguyện với một lòng tin thác tuyệt đối. Ta nhận ra rằng, tiền bạc là vật ngoại thân, nay còn mai mất, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa và tình nghĩa giữa người với người mới là vĩnh cửu. Sự “nghèo khó trong tâm hồn” mà Tin Mừng nhắc tới, có lẽ cũng bắt đầu từ việc ta biết trân trọng những gì mình đang có, biết ơn từng tấm bánh, từng manh áo, và không để lòng tham lam tiền bạc chiếm ngự tâm hồn.

Sống trong một xã hội mà đồng tiền dường như đang chi phối mọi thang bậc giá trị, việc giữ cho mình một “con mắt khác” về tiền là điều không dễ dàng. Cám dỗ của vật chất luôn rình rập, mời gọi ta đánh đổi lương tâm để lấy sự giàu sang chóng vánh. Nhưng mỗi khi lòng tôi dao động, hình ảnh cha mẹ ngày xưa lại hiện về rõ mồn một. Tôi thấy lại giọt mồ hôi rơi trên trán cha, thấy lại vết chai sần trên tay mẹ, thấy lại mâm cơm đạm bạc mà chan chứa tiếng cười. Những hình ảnh ấy như một chiếc neo giữ con thuyền đời tôi không bị trôi dạt vào dòng xoáy của thực dụng và vô cảm. Tôi hiểu rằng, sự giàu có đích thực không được đo bằng số dư tài khoản, mà bằng sự bình an trong tâm hồn, bằng khả năng yêu thương và sẻ chia. Một người có thể nghèo tiền bạc, nhưng nếu họ biết sống ngẩng cao đầu, biết lao động chân chính và biết yêu thương, họ vẫn là những người giàu có nhất thế gian.

Đồng tiền, tự bản thân nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là tấm gương phản chiếu tâm tính của người sở hữu nó. Với người tham lam, tiền là ông chủ hà khắc sai khiến họ làm điều ác. Với người biết trân trọng giá trị lao động, tiền là người đầy tớ đắc lực giúp họ xây dựng cuộc sống và lan tỏa yêu thương. Cái nghèo đã cho tôi một đặc ân, đó là khả năng nhìn thấu bản chất của đồng tiền qua lăng kính của sự hy sinh. Tôi biết ơn những ngày tháng gian khó ấy, biết ơn sự hy sinh thầm lặng của cha mẹ. Chính nhờ những ngày “cúi người” của cha mẹ, mà tôi hôm nay mới có thể “đứng thẳng” làm người. Và bài học lớn nhất mà tôi mang theo trong hành trang cuộc đời mình, không phải là cách làm sao để kiếm thật nhiều tiền, mà là làm sao để sử dụng đồng tiền cho xứng đáng với những giọt mồ hôi nước mắt đã đổ xuống. Để mỗi khi cầm đồng tiền trên tay, tôi không chỉ thấy giá trị vật chất của nó, mà còn thấy cả một trời yêu thương, một đời hy sinh, và một lời nhắc nhở thiêng liêng về phẩm giá con người.

Cuộc sống hiện đại hối hả, con người lao vào cuộc đua kiếm tiền như những con thiêu thân. Đôi khi ta quên mất lý do thực sự ta cần tiền là gì. Ta làm việc bán sống bán chết để mua những ngôi nhà to hơn nhưng lại ít về nhà hơn; ta mua những chiếc giường đắt tiền hơn nhưng lại có ít giấc ngủ ngon hơn; ta mua những gói bảo hiểm cao cấp hơn nhưng lại ít quan tâm đến sức khỏe thực sự của cha mẹ già đang mòn mỏi ở quê nhà. Cái nghèo ngày xưa, dù khắc nghiệt, nhưng lại giữ cho gia đình một sự gắn kết bền chặt mà tiền bạc không thể mua được. Bữa cơm rau mắm ngày xưa tuy đạm bạc nhưng luôn đông đủ các thành viên, tiếng cười nói rộn ràng. Còn bây giờ, mâm cao cỗ đầy nhưng đôi khi lại thiếu vắng bóng người, hoặc nếu có đủ thì ai nấy cũng cắm cúi vào chiếc điện thoại, toan tính những chuyện làm ăn xa xôi. Phải chăng chúng ta đã “giàu” lên về vật chất nhưng lại đang “nghèo” đi về tình cảm? Phải chăng ta đã để đồng tiền làm chủ thay vì làm phương tiện? Nhớ về cái nghèo, về cha mẹ cúi người lam lũ, là cách để ta giật mình tỉnh thức, để sắp xếp lại thang giá trị của đời mình, để biết đâu là điểm dừng, đâu là hạnh phúc đích thực.

Mỗi lần dâng Thánh Lễ, khi nâng chén rượu và tấm bánh lên, tôi thường thầm thì cầu nguyện cho những người lao động nghèo khó, cho những bậc cha mẹ đang ngày đêm vất vả mưu sinh. Tôi xin Chúa thánh hóa những giọt mồ hôi của họ, biến những hy sinh thầm lặng ấy thành nguồn ân sủng nuôi dưỡng tâm hồn con cái họ. Và tôi cũng cầu xin cho chính mình, và cho tất cả chúng ta, những người có may mắn thoát khỏi cảnh nghèo, không bao giờ được phép quên đi quá khứ. Đừng bao giờ nhìn người nghèo bằng ánh mắt khinh miệt, bởi đằng sau manh áo rách ấy có thể là một tâm hồn vĩ đại hơn ta tưởng. Đừng bao giờ phung phí thức ăn, bởi đó là tội lỗi đối với những người đang đói khổ. Và quan trọng nhất, đừng bao giờ coi tiền bạc là mục đích tối thượng của cuộc đời. Hãy nhớ rằng, khi ta lìa bỏ thế gian này, ta không mang theo được một đồng xu nào cả, thứ duy nhất ta mang theo được là tình yêu ta đã trao đi và những việc lành ta đã làm.

Cái nghèo cho ta con mắt khác về tiền – một con mắt biết rưng rưng, biết trân trọng và biết yêu thương. Đó là một món quà vô giá mà có lẽ chỉ những ai đã từng đi qua giông bão của sự thiếu thốn mới có thể thấu hiểu trọn vẹn. Xin cho chúng ta luôn giữ được cái nhìn trong sáng ấy, để giữa dòng đời vạn biến, ta vẫn giữ được trái tim ấm nóng của một con người, biết sống xứng đáng với những hy sinh của tiền nhân, và biết dùng những gì mình có để làm đẹp cho đời, làm sáng danh Chúa. Bởi suy cho cùng, tiền chỉ là phương tiện để ta đi qua cuộc đời này, còn đích đến cuối cùng vẫn là Tình Yêu và Sự Sống đời đời. Nhìn cha mẹ cúi người, tôi học được cách ngẩng đầu sống đúng nghĩa, và tôi hiểu: Tiền không bao giờ là chuyện nói chơi, vì nó chứa đựng cả cuộc đời của những người tôi yêu thương nhất.

Lm. Anmai, CSsR