Thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời ngày 20/08/2025.

 Nghệ Lâm Hồng

“Trái tim dưới áo quan tòa” vừa qua đời

– by Vũ Thế Thành

Ảnh: quan tòa F. Caprio trong phiên xử người cựu chiến binh.

Sáng nay đọc báo Mỹ mới biết tin, thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời hôm qua, ngày 20/08/2025.

Hồi SG bị lockdown vì đại dịch, tôi thường xem show truyền hình “Caught in Providence” của Caprio, chiếu lại qua Youtube cho đỡ buồn.

Frank Caprio là chánh án tòa án thành phố Providence (Mỹ). Các show truyền hình về diễn biến những phiên tòa mà ông chủ tọa, thường là vụ án nhỏ như vi phạm luật giao thông. Phiên tòa vừa trang nghiêm, vừa vui vẻ, chẳng có gì là căng thẳng giữa thẩm phán, bị cáo và những người tham dự, nhưng đầy chất nhân bản trong đó.

Tôi nhớ mang máng có show thế này: Một bà mẹ vi phạm luật giao thông, xuất hiện ở tòa cùng với đứa con gái nhỏ. Quan tòa Caprio đọc nội dung vi phạm, bị cáo vui vẻ nhận tội. Quan tòa gọi đứa bé lên đứng cạnh ông, rồi hỏi. Mẹ có bị lỗi không? Có – Mẹ bị phạt bằng này tiền, có đúng không? Đúng – Giảm một phần tiền phạt cho mẹ nhé? Đứa bé cười toét miệng. Quan tòa lại hỏi, cháu sẽ dùng tiền giảm phạt đó làm gì? Nói mẹ mua kẹo mời mọi người trong tòa ăn. Cả tòa cười rộ lên vì câu trả lời của đứa trẻ.

Nhưng ấn tượng nhất với tôi  là phiên tòa xử một ông cụ 96 tuổi, bị phạt do chạy quá tốc độ gần khu vực trường học. Ông buồn rầu nhận lỗi. Tòa hỏi, vì sao? Tôi chở đứa con trai (60 hay 70 tuổi?)  đi cấp cứu. Đây là lần đầu tiên tôi vi phạm luật giao thông – Quan tòa quay sang hỏi về nhân thân của ông cụ, với những câu hỏi ngắn – Tôi là cựu chiến binh tham dự thế chiến II, được nhiều huân chương… Xuất ngũ làm công nhân cho đến khi về hưu, và chăm sóc đứa con tật nguyền. Vợ ông mất lâu rồi, không ai phụ giúp ông cả. Không khí trong tòa lặng đi khi ông cụ chậm rãi trả lời từng câu hỏi của thẩm phán, về cuộc đời cụ.

Quan tòa phán, mọi người trong tòa này đều mắc nợ cụ., rồi tuyên miễn phạt cho ông cụ. Thẩm phán Frank Caprio sau đó đã phát biểu một câu nói để đời “ Tôi không đeo huy hiệu dưới áo choàng thẩm phán. Tôi mang theo trái tim.”

Nghĩ lại mấy vụ gần đây trong nước, thầy hiệu trưởng tham nhũng 10 triệu ở Cà Mau, hay vụ án mấy con gà lôi.. Ngao ngán!

Cầm cân nảy mực, nếu luật pháp chỉ là công bằng không thôi thì chưa đủ, mà còn phải công minh. Nền tư pháp trong nước dường như nhân danh “công minh” để lạm dụng công bằng. Quan tòa đã đeo dao găm dưới áo choàng thẩm phán.

Cách đây hơn một năm, tôi có đọc bài báo phỏng vấn quan tòa Caprio, lúc này ông đã nghỉ hưu, và ngưng show “Caught in Providence” lâu rồi. Trông ông gầy hẳn vì đang chống chọi với bệnh ung thư tuyến tụy, nhưng nụ cười vẫn hiền hậu, toát ra vẻ nhân ái.

Sáng nay đọc NY Post mới biết tin Frank Caprio, vị quan tòa đã dấu trái tim dưới lớp áo choàng thẩm phán, vừa mãn phần hôm qua (20/08/25), ở tuổi 88. Judge Frank Caprio, R.I.P

Vũ Thế Thành


 

 Vì sao trong tranh luận, người ta thường tấn công cá nhân thay vì tập trung vào nội dung,

Đoàn Thị Thùy Dương

 Vì sao trong tranh luận, người ta thường tấn công cá nhân thay vì tập trung vào nội dung, và hiện tượng này đặc biệt phổ biến ở những xã hội có nhà nước tập trung quyền lực?

Trong một xã hội lý tưởng, tranh luận là công cụ để tìm kiếm sự thật, làm rõ vấn đề và thúc đẩy tiến bộ. Tuy nhiên, trong thực tế, đặc biệt ở những nơi quyền lực nhà nước được tập trung cao độ, tranh luận thường nhanh chóng trượt khỏi nội dung cốt lõi và chuyển sang tấn công cá nhân. Hiện tượng này không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của nhiều yếu tố mang tính cấu trúc chính trị, tâm lý xã hội và văn hóa quyền lực.

Trước hết, tấn công cá nhân là hậu quả trực tiếp của việc thiếu không gian an toàn phê bình – chất vấn. Trong các xã hội tập trung quyền lực, quyền lực chính trị thường gắn chặt với “chân lý chính thống”. Khi một quan điểm được nhà nước hoặc hệ tư tưởng cầm quyền bảo trợ, việc phân tích, phê bình nội dung không còn là tranh luận học thuật, mà bị xem như hành vi thách thức quyền lực. Trong bối cảnh đó, người tranh luận không còn mục tiêu tìm đúng – sai, mà là bảo vệ vị thế an toàn của bản thân. Tấn công cá nhân trở thành cách đánh lạc hướng: thay vì trả lời lập luận, họ phá hủy uy tín người nói, biến vấn đề trí tuệ thành vấn đề đạo đức hay chính trị cá nhân.

Thứ hai, tranh luận nội dung đòi hỏi năng lực lý luận, trong khi tấn công cá nhân chỉ cần quyền lực hoặc cảm xúc. Phê bình một lập luận cần kiến thức, tư duy logic và khả năng chấp nhận khả năng mình sai. Ngược lại, tấn công cá nhân không cần chứng minh điều gì về nội dung, mà chỉ cần gán nhãn: “thiếu đạo đức”, “động cơ xấu”, “không đủ tư cách”. Trong xã hội tập trung quyền lực, nơi giáo dục thường ưu tiên sự tuân phục hơn là tư duy phản biện, kỹ năng tranh luận lý tính không được nuôi dưỡng. Khi thiếu công cụ để phản biện nội dung, con người tự nhiên chọn con đường dễ hơn: công kích người nói.

Thứ ba, quyền lực tập trung tạo ra tâm lý “đứng về phía mạnh” thay vì “đứng về phía đúng”. Khi quyền lực không bị kiểm soát, đúng – sai không còn được xác định bằng lý lẽ mà bằng vị trí quyền lực. Do đó, trong tranh luận, việc chứng minh đối phương “không thuộc phe đúng” quan trọng hơn việc chứng minh lập luận của họ sai. Tấn công cá nhân lúc này mang chức năng chính trị: loại đối phương ra khỏi cuộc chơi bằng cách gắn họ với hình ảnh “kẻ thù”, “phản động”, “thiếu trung thành” hay “động cơ đen tối”.

Thứ tư, nỗi sợ hãi làm méo mó hành vi tranh luận. Ở những xã hội quyền lực tập trung, tranh luận không chỉ là hành vi trí tuệ mà còn tiềm ẩn rủi ro xã hội, nghề nghiệp, thậm chí pháp lý. Trong bối cảnh sợ hãi, con người ít khi dám đối thoại công bằng. Thay vào đó, họ chọn cách thể hiện sự trung thành bằng cách công kích cá nhân người đưa ra ý kiến trái chiều. Tấn công cá nhân vì thế không chỉ là phản ứng cảm xúc, mà còn là chiến lược tự bảo vệ.

Cuối cùng, khi quyền lực không bị chất vấn, sự thật trở nên thứ yếu. Tranh luận nội dung chỉ có ý nghĩa khi mọi bên đều thừa nhận rằng sự thật tồn tại độc lập với quyền lực. Nhưng trong hệ thống quyền lực tập trung, “sự thật” thường được định nghĩa sẵn. Khi kết luận đã có trước, tranh luận nội dung trở nên vô nghĩa; việc còn lại chỉ là xác định ai “được phép nói” và ai “không được phép nói”. Tấn công cá nhân, vì vậy, trở thành công cụ duy trì trật tự quyền lực hơn là công cụ tìm kiếm chân lý.

Tóm lại, hiện tượng tranh luận chuyển hướng sang tấn công cá nhân không đơn giản là vấn đề đạo đức cá nhân hay văn hóa ứng xử, mà phản ánh sâu sắc cấu trúc quyền lực của xã hội. Ở nơi quyền lực càng tập trung, tranh luận càng ít xoay quanh lý lẽ và càng nhiều xoay quanh con người. Khi lý trí không còn được bảo vệ, công kích cá nhân trở thành ngôn ngữ thay thế cho lập luận. Và đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy xã hội ấy không sợ sai, mà sợ bị chất vấn.


 

400 năm ngày giỗ Thuỷ tổ Quốc ngữ Việt Nam

My Lan Pham

Francisco de Pina (1585 – 15/12/1625)

Cách đây tròn bốn thế kỷ, ngày 15 tháng 12 năm 1625, tại vùng biển Đà Nẵng, linh mục Dòng Tên Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha, đã vĩnh viễn ra đi trong một tai nạn chìm tàu khi ông lao mình cứu giúp những hành khách gặp nạn. Cái chết của ông lặng lẽ, nhưng di sản mà ông để lại thì bền bỉ và sâu xa, gắn liền với lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ Việt Nam.

Francisco de Pina được xem là người châu Âu đầu tiên nói tiếng Việt một cách trôi chảy, không chỉ để giao tiếp mà còn để giảng dạy, truyền đạo và nghiên cứu ngôn ngữ. Trong bối cảnh đầu thế kỷ XVII, khi người Việt chưa có một hệ thống chữ viết ghi âm tiếng nói phổ thông bằng mẫu tự dễ học, cha Pina đã sớm nhận ra nhu cầu cấp thiết ấy. Từ đó, ông trở thành người tiên phong đặt nền móng cho việc ghi âm tiếng Việt bằng ký tự La-tinh.

Năm 1619, khi mới 34 tuổi, cha Pina đã biên soạn bản từ vựng tiếng Việt đầu tiên (nay đã thất lạc). Đến khoảng 1622–1623, ông báo cáo với Toà Thánh rằng mình đã hoàn thành một cuốn sách về luật chính tả và ngữ âm tiếng Việt ,điều cho thấy ông không chỉ học tiếng Việt, mà còn tiếp cận ngôn ngữ này bằng tư duy khoa học, có hệ thống. Đây chính là viên đá nền đầu tiên cho tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ sau này.

Năm 1624, khi linh mục Alexandre de Rhodes đến Thanh Chiêm (Quảng Nam), ông đã tận mắt chứng kiến cha Pina giảng Kinh Thánh hoàn toàn bằng tiếng Việt. Đối với các giáo sĩ châu Âu đương thời, đây là một hiện tượng chưa từng có: một người phương Tây không cần thông ngôn, giảng đạo bằng chính ngôn ngữ bản địa với sự uyển chuyển và chính xác hiếm thấy. Alexandre de Rhodes sau này nhiều lần thừa nhận rằng cha Pina là người thầy đầu tiên và quan trọng nhất của ông về tiếng Việt.

Đáng tiếc thay, khi công trình ngôn ngữ còn dang dở, cha Francisco de Pina đã qua đời quá sớm. Phần lớn các bản thảo của ông không còn lưu lại, nhưng tinh thần khoa học, phương pháp ghi âm và tư duy ngữ âm học mà ông khởi xướng đã được các thế hệ giáo sĩ kế tiếp tiếp thu, phát triển và hoàn thiện. Vì vậy, trong lịch sử chữ Quốc ngữ, Francisco de Pina xứng đáng được nhìn nhận là thuỷ tổ ,người đặt nền móng đầu tiên, trước khi chữ Quốc ngữ đạt đến hình thức hoàn chỉnh hơn vào giữa thế kỷ XVII.

Ngày nay, chữ Quốc ngữ đã trở thành linh hồn của văn hoá Việt hiện đại, là phương tiện giúp người Việt tiếp cận tri thức, xây dựng văn học, báo chí và bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới. Nhìn lại hành trình ấy, không thể không dành sự ngưỡng mộ đối với tài năng ngôn ngữ, và lòng biết ơn sâu sắc đối với Francisco de Pina ,người đã âm thầm gieo hạt giống đầu tiên cho một cuộc chuyển mình lớn lao của tiếng Việt.

400 năm sau ngày ông mất, tưởng nhớ Francisco de Pina không chỉ là một hành động tri ân lịch sử, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra rằng: ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp, mà là chiếc cầu nối giữa các nền văn hoá, giữa quá khứ và tương lai.

 


 

Tĩnh tâm ở Giáo Triều Roma với Đức Thánh Cha

Giảng Thuyết: Linh mục dòng OFM , Roberto Paosolini.

Roberto Pasolini O.FM Cap. ( Milan , ngày 5 tháng 11 năm 1971) là một nhà thần học người Ý và là tu sĩ dòng Phan xi cô của Giáo hội Công giáo , Giảng thuyết viên cho Phủ Giáo hoàng .

Tiểu sử

Đang khi là một kỹ sư máy tính trẻ,  tham gia điều hành lĩnh vực máy tính, cũng như hoạt động chính trị, anh Roberto chợt khám phá ra rằng các hệ tư tưởng không làm cho con người tự do hơn. Tự do duy nhất chỉ có thể đến từ Chúa vì “tự do thực sự là giải thoát bản thân khỏi cảm giác tội lỗi, bởi vì sự cứu chuộc của Chúa Kitô đã khôi phục lại mối liên hệ tốt đẹp với Chúa”. Rồi ơn gọi của Chúa đến …

Cha Roberto khấn trọn đời trong Dòng Phanxicô của các anh em Capuchin vào ngày 7 tháng 9 năm 2002 và được thụ phong linh mục vào ngày 23 tháng 9 năm 2006. Sau khi lấy bằng tiến sĩ thần học Kinh Thánh tại Đại học Giáo hoàng Gregorian ở Rome, Ngài là giáo sư ngôn ngữ Kinh Thánh và Kinh thánh tại Studio Teologico Laurentianum Interprovincial của dòng Phan xi cô khó khăn,  Capuchin ở Milan và Venice.

Cha Roberto PasoliniNgày 20 tháng 12 năm 2024, Cha Roberto Pasolini, giảng thuyết cho Giáo hoàng, đã kêu gọi các nhà lãnh đạo Giáo hội hãy trân trọng phẩm chất “khiêm nhường” trong dịp tĩnh tâm Giáng sinh, kêu gọi các tín hữu noi gương Chúa Kitô và phản đối nhu cầu phải cảm thấy “quan trọng trong mắt người khác”. | Nguồn: Ảnh do Festival Bíblico cung cấp

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

Luật sư Nguyễn Văn Đài và FANS 

Nguyễn Minh Cần,  Nguyên phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội viết:

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

1/ Cuộc đấu tranh giành độc lập của dân ta đã theo con đường khác, rất có thể là theo con đường của cụ Phan Châu Trinh, và dân tộc chúng ta sẽ sớm giành được độc lập mà không phải đổ máu, giống như nhiều nước khác trong vùng Đông Nam Á, Nam Á;

2/ Chúng ta tránh được nạn ám hại các người đứng đầu các đảng phái yêu nước – phần đông họ là những thành phần ưu tú của dân tộc – bằng những ban ám sát của ĐCS;

3/ Tránh được cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu, tàn bạo, làm trên 100 nghìn người chết oan uổng và làm đảo lộn đạo lý truyền thống của dân tộc, mà có một cuộc cải cách ruộng đất ôn hòa, hợp tình, hợp lý để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế;

4/ Tránh được những cuộc cải tạo công thương nghiệp và cưỡng bức hợp tác hóa nông nghiệp làm suy sập nền kinh tế của đất nước và triệt tiêu các lực lượng năng động nhất trong nền kinh tế;

5/ Tránh được những trận đàn áp văn nghệ sĩ, trí thức làm cho văn hóa, văn học nghệ thuật nước ta tụt hậu hàng nhiều thập niên, trái lại, nền văn hóa, văn học nghệ thuật nước nhà được tự do chắc chắn đã nảy sinh được nhiều thành tựu rực rỡ;

6/ Dân tộc ta tránh được cuộc chiến tranh Bắc Nam kéo dài hàng chục năm trời làm gần một chục triệu người dân và binh sĩ của cả hai phía phải bỏ mạng, tránh được sự chia rẽ nặng nề của dân tộc đến nay vẫn còn khó khăn hòa giải hòa hợp;

7/ Tránh được hệ thống những trại tù mang danh “trại cải tạo” để đày đọa hàng trăm nghìn con người yêu nước, những trí thức có tinh thần tự do và dân chủ và tránh được cái chết oan uổng của hàng vạn con người;

8/ Tránh được cái “công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng”, không có chuyện dâng đất, dâng biển dễ dàng cho Trung Quốc như vừa qua, không có chuyện bauxit Tây Nguyên, cho thuê rừng đầu nguồn, đưa hàng chục nghìn lao động Trung Quốc vào các vùng xung yếu của nước ta, và đặc biệt là không có nguy cơ mất nước như ngày nay ….

Nói tóm lại, nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì ngày nay đất nước Việt Nam từ lâu rồi đã được tự do, dân chủ và độc lập thật sự, đã đạt được mức tiến bộ về mọi mặt không kém gì các nước tiên tiến trong vùng, như Nam Hàn, Đài Loan.”

Fbk.  Nguyễn Doãn Đôn

Ảnh nguồn mạng


 

Thư Gửi Cho Chính Mình Khi Về Già

Con à, khi con già đi…

Đừng cố dạy ai điều gì. Dù con có đúng, hãy nhớ lại, ngày xưa chính con cũng khó chịu thế nào khi người lớn tuổi luôn cho rằng họ biết hết.

Đừng ép buộc ai, cũng đừng cố bảo vệ hết thảy những người thân khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời. Chỉ cần yêu họ thôi là đủ. 

Đừng suốt ngày than phiền về bệnh tật, về hàng xóm, về chính quyền hay về lương hưu. Đừng biến mình thành một bà cụ cáu kỉnh. 

Đừng mong chờ con cái phải biết ơn. Hãy nhớ: không có con cái nào vô ơn cả – chỉ có những bậc cha mẹ dại khờ, đặt quá nhiều kỳ vọng vào lòng biết ơn. 

Đừng bao giờ nói những câu khó nghe như:

“Ngày xưa mẹ bằng tuổi con thì…”,

“Cả tuổi thanh xuân mẹ đã hy sinh cho con…”,

“Mẹ lớn tuổi hơn nên mẹ biết nhiều hơn…”.

Những lời ấy chẳng giúp gì, chỉ khiến người nghe thêm nặng lòng.

Nếu có cháu, hãy để chúng gọi con bằng bất cứ cái tên nào chúng thích. Điều quan trọng không phải là cách gọi, mà là tình cảm chúng dành cho con. 

Đừng lãng phí tiền vào những liệu pháp “cải lão hoàn đồng”. Vô ích thôi. Hãy dành số tiền ấy cho một chuyến đi, một trải nghiệm vui, một kỷ niệm đẹp.

Đừng soi gương trong bóng tối để tự lừa dối mình. Hãy nhìn thẳng vào tuổi tác, và cố gắng giữ cho mình nét thanh lịch, sang trọng. Không cần trẻ lại, chỉ cần đẹp trong sự chín muồi. 

Hãy chăm sóc chồng con, ngay cả khi ông ấy đã trở thành một ông già gầy yếu, khó tính. Đừng quên rằng, đã có lúc ông ấy trẻ trung, mạnh mẽ, vui tươi… Và có thể chính lúc này, ông ấy mới thật sự cần con nhất.

Đừng cố chạy theo thời đại: con không cần phải rành công nghệ mới, không cần ép mình theo dõi mọi tin tức, không cần học thêm mọi thứ chỉ để “không tụt hậu”. Hãy làm những gì khiến con vui, thế là đủ.

Đừng tự trách mình vì những gì đã qua – trong đời con hay trong đời con cái. Con đã làm hết sức rồi.

Và trên hết, hãy giữ phẩm giá của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cho đến giây phút cuối cùng.

Cuối cùng, xin nhớ: nếu con còn sống, nghĩa là vẫn có ai đó cần đến con. 

Tác giả vô danh – nhưng như viết cho tất cả chúng ta.

From: TU-PHUNG


 

Quyền lực và tiền bạc có đem lại hạnh phúc? – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

 Say mê quyền lực cũng như say mê tiền bạc đó là điều thường thấy của con người khi còn sống ở trần thế này. Quyền lực và tiền bạc thường dính liền nhau. Có quyền thì dễ kiếm tiền. Có tiền thì dễ kiếm quyền. Tiền và quyền dính quyện vào nhau.

 Khi con người đam mê quyền lực và say mê tiền bạc còn ghê gớm hơn người say rượu hay say thuốc, nếu say mê quá đáng bất chấp đạo lý, lẽ phải, thiếu lòng yêu thương, thường nhận lãnh hậu quả khôn lường được.

 Thí dụ vì say mê quyền lực và tiền bạc như trường hợp sau: 

1)Hậu thương vụ AVG: Bắt giam 2 cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn

2 cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn 

Theo báo Thanh niên, ngày 23.2, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố bị can; lệnh bắt bị can để tạm giam; lệnh khám xét đối với ông Nguyễn Bắc Son, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông và ông Trương Minh Tuấn, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, cùng về tội danh vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 3 điều 220 bộ luật hình sự năm 2015.

Theo BBC, ngày 10/7/2018, Bộ Công an đã khởi tố vụ án liên quan đến thương vụ Mobifone mua AVG, làm thất thoát khoảng 8000 tỷ đồng ngân sách nhà nước.

 Trường hợp nhà giàu cũng khóc, cũng khổ: 

2)Chủ cà phê Trung nguyên: 

Theo báo Zing. Việt Nam, khối tài sản của ông chủ cà phê Trung Nguyên theo như luật sư của ông Vũ cũng đưa ra 13 bất động sản chung có giá trị 725 tỷ đồng.

Về các tài sản khác được xác minh tại ngân hàng (tháng 10/2018) vào khoảng 2.102 tỷ đồng, gồm tiền mặt, ngoại tệ, vàng. 

Vì vụ ly hôn với vợ là bà Lê Hoàng Diệp Thảo, Chủ tịch tập đoàn Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ than thở, đau đớn nói rằng “Tiền nhiều đề làm gì?”

 Ông Vua Cafe Trung Nguyên: Tiền Nhiều Để Làm Gì?

https://www.youtube.com/watch?v=jr5AgBvAaz0 

* * * Có câu chuyện, một ông trùm người Trung Quốc qua đời, để lại cho vợ 1,9 tỉ đô trong ngân hàng. Bà vợ ông sau đó đã lấy người lái xe của chính ông. Người lái xe nói: Tôi đã nghĩ tôi phải làm việc cho ông chủ mình. Nhưng giờ đây tôi mới nhận ra rằng cả đời ông chủ làm việc cho tôi. 

* * *

Điều quan trọng là sống lâu hơn là có nhiều của cải. Vì vậy chúng ta phải cố gắng để sống khỏe mạnh.

Với một chiếc điện thoại xịn thì 70% công năng của nó chúng ta không dùng đến

Với một chiếc xe đắt tiền thì 70% tốc độ và các đồ phụ kiện là không cần thiết

Với 1 căn biệt thự thì đến 70% không gian là chúng ta không dùng đến 70% quần áo trong tủ của bạn không được mặc tới

Cả cuộc đời làm việc thì đến 70% số tiền kiếm được là dành cho người khác tiêu

Vì vậy chúng ta phải bảo vệ và tận dụng hết khả năng 30% còn lại của chính mình bằng cách:

– Đi kiểm tra sức khỏe thường xuyên, cho dù không ốm đau

– Uống nhiều nước, ngay cả khi không khát

– Học cách buông bỏ, ngay cả khi đối diện với những vấn đề nghiêm trọng

– Học cách thỏa hiệp, ngay cả khi bạn là người đúng

– Học cách khiêm tốn, ngay cả khi bạn giàu có và có quyền lực

– Học cách bằng lòng, ngay cả khi bạn không giàu

– Tập luyện thể thao, ngay cả khi bạn bận rộn

– Dành thời gian cho những người bạn yêu mến 

Cuộc sống này rất ngắn ngủi, vì vậy hãy vui vẻ sống, tìm cách sống có ý nghĩa nhất, hạnh phúc nhất, trọn vẹn nhất nếu có thể!

(từ Do Tan Hung) 

* * * Theo báo tin nóng 24h/Việt Nam, ngày 30/06/2019,

 Bình Phước: Bắt giữ nghi phạm sát hại mẹ ruột vì mâu thuẫn tiền bạc

Vì tiền bạc mà con đã giết mẹ ruột: ông Châu văn Hưng, 37 tuổi, đã giết mẹ ruột là bà Trần Thị Mộng Hoa, 53 tuổi. 

Bài báo viết: “Tại cơ quan điều tra, bước đầu Hưng khai nhận, khoảng 20 giờ 30 phút tối 29/6, sau khi hát karaoke tại nhà ông Vũ Văn Giáp (cách nhà khoảng 100 mét) thì Hưng cùng mẹ mình là bà Trần Thị Mộng Hoa trở về nhà trước, ông Văn (bố Hưng) ở lại hát tiếp”.

“Khi về đến nhà, giữa Hưng và mẹ là bà Hoa xảy ra cự cãi do mâu thuẫn về tiền bạc. Trong lúc tức giận, Hưng đã dùng kéo đâm nhiều nhát vào cổ và người bà Hoa”. 

CÓ THỂ và KHÔNG THỂ (Trầm Thiên Thu)

 Cuộc sống có nhiều mối liên kết giữa vật chất và tinh thần, có loại CÓ THỂ và có loại KHÔNG THỂ. Có lẽ thứ “rắc rối” nhất là vật chất, tiền bạc, bởi vì “cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Người ta nói rằng “Tiền là Tiên, là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân”…

 Theo Việt ngữ, Tiền là Tiên bị đè bởi cái đà “dấu huyền” nên thành Tiền. Bất cứ mối quan hệ nào “dính líu” tới nó đều gặp “phiền phức” lắm. Về mối liên quan với tiền bạc, một thi sĩ người Na Uy (quên tên rồi) có nhận định thú vị thế này:

Tiền có thể mua được thực phẩm nhưng không thể mua được sự ngon miệng.

Tiền có thể mua được thuốc tốt nhưng không thể mua được sức khỏe.

Tiền có thể mua được kiến thức nhưng không thể mua được sự khôn ngoan.

Tiền có thể mua được sự lộng lẫy nhưng không thể mua được vẻ đẹp.

Tiền có thể mua được trò cười nhưng không thể mua được niềm hoan hỉ.

Tiền có thể mua được người quen nhưng không thể mua được bạn tri kỷ.

Tiền có thể mua được người hầu nhưng không thể mua được sự trung thành.

Tiền có thể mua được sự nhàn rỗi nhưng không thể mua được sự bình an.

 Theo cách lý luận đó, chúng ta có thể lý luận thêm nhiều điều khác trong cuộc sống. Chẳng hạn vài điều này:

 Tiền có thể mua được trang phục đẹp nhưng thể không mua được nhân cách.

Tiền có thể mua được ngôi nhà nhưng không thể mua được tổ ấm.

Tiền có thể mua được đám cưới nhưng không thể mua được hạnh phúc.

Tiền có thể mua được đám giỗ nhưng không thể mua được lòng hiếu thảo.

Tiền có thể mua được chiếc giường êm nhưng không thể mua được giấc ngủ ngon.

Tiền có thể mua được bằng cấp nhưng không thể mua được sự giáo dục.

Tiền có thể mua được chức tước nhưng không thể mua được uy tín.

Tiền có thể mua được tiệc mừng nhưng không thể mua được lý tưởng.

Tiền có thể mua được tác phẩm nhưng không thể mua được tài năng.

Tiền có thể mua được bảo hiểm nhưng không thể mua được sự an toàn.

Tiền có thể mua được tặng vật từ thiện nhưng không thể mua được lòng nhân đạo.

Tiền có thể mua được hoa, nến, nhang, đèn… nhưng không thể mua được lòng thành kính.

Tiền có thể mua được nhân chứng nhưng không thể mua được phép lạ.

Tiền có thể mua được nhà thờ nhưng không thể mua được đức tin.

Tiền có thể mua được đài tưởng niệm nhưng không thể mua được phúc trường sinh.

 Chính Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Mt 6:19-21; Lc 12:33-34).

 Chúa Giêsu mạnh mẽ xác định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6:24; Lc 16:13).

 Phùng Văn Phụng 

Tháng 07/2019

Nỗi buồn của hận thù còn lớn hơn “nỗi buồn chiến tranh”- Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

11/12/2025  

Gần đây, tại Việt Nam, cuốn Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh trong một giải thưởng văn học. Một cử chỉ cần thiết, vì cuốn tiểu thuyết này là tiếng nói hiếm hoi dám đi thẳng vào vết thương chiến tranh bằng sự trung thực của một con người đã kinh qua chiến tranh đó.

Thế nhưng ngay lập tức, nhiều kẻ giáo điều phản đối quyết liệt, tâm trí họ vẫn còn bị trói buộc bởi những tư duy cũ, lỗi thời. Chiến tranh đã kết thúc nửa thế kỷ, mà trong lòng họ, cuộc chiến và hận thù vẫn còn nguyên vẹn.

Chính phản ứng ấy làm tôi nhớ đến một câu chuyện khác, xa xưa hơn một nghìn năm, nhưng lại soi chiếu vào hiện tại Việt Nam một cách kỳ lạ. Một câu chuyện về hận thù, trả thù, và sự phi lý mà con người có thể đạt đến khi họ không chịu buông bỏ quá khứ.

Đó là câu chuyện về Giáo hoàng Formose.

Câu chuyện tưởng như hoang tưởng này là một màn hài kịch đen, một cảnh tượng phi lý chỉ có thể bước ra từ tiểu thuyết trào lộng. Nhưng đó là sự thật. Và nó nói lên một điều rất sâu sắc, rất đáng sợ về cơ chế của hận thù chính trị.

Formose đã chết được chín tháng khi kẻ thù của ông, người kế nhiệm ông, Giáo hoàng Étienne VI, quyết định đưa ông ra xét xử. Người ta đào xác Formose lên, mặc lại phẩm phục giáo hoàng, đặt ông ngồi trên ngai rồi mở một phiên tòa thật. Ở đó họ buộc tội ông, họ gào thét vào một thân xác bất động, họ chặt những ngón tay đã từng ban phúc rồi ném xác ông xuống sông.

Trong truyền thống Công giáo, khi ban phúc, linh mục hay giáo hoàng giơ ba ngón tay, ngón cái, trỏ và giữa, tượng trưng cho Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì vậy, khi kẻ thù của Formose chặt ba ngón tay này, đó không chỉ là sự xúc phạm thân xác mà còn là cách tước bỏ biểu tượng thiêng liêng, phủ nhận mọi phép lành và mọi thẩm quyền tôn giáo ông từng mang.

Một người chết. Một thi thể lạnh ngắt. Vậy mà hận thù vẫn đòi phải sỉ nhục, phải trả thù cho bằng được như thể ông vẫn còn sống.

Không có minh họa nào rõ hơn cho sự thật này: hận thù không tự dừng lại. Nó tự nuôi mình. Nó lớn lên. Nó đòi hỏi nhiều hơn. Nếu kẻ thù còn sống, ta muốn đánh bại. Nếu hắn gục ngã, ta muốn đạp nát. Nếu hắn chết rồi, ta vẫn muốn trả thù ngay cả trên xác chết.

Đó là cơ chế. Và cơ chế ấy, tôi đã tận mắt chứng kiến trong cuộc chiến tàn khốc nhất mà tôi từng sống qua, cuộc chiến đã xé nát Việt Nam, đất nước của tôi, và làm rạn vỡ linh hồn dân tộc cho đến tận hôm nay.

VIỆT NAM, NGƯỜI CHẾT CŨNG KHÔNG YÊN. NGƯỜI SỐNG LẠI CÀNG KHÔNG.

Hận thù ở Việt Nam không chờ đến cái chết mới bùng lên. Bên thắng cuộc không quên. Bên thua cuộc cũng không quên. Và hầu như mỗi người đều mở một phiên tòa trong tâm trí mình, xét lại, buộc tội, cáo trạng, lật đi lật lại những ký ức tưởng đã chôn sâu.

Trầm trọng hơn cả La Mã thế kỷ IX, hận thù ở Việt Nam đã sống lâu hơn chiến tranh, lâu hơn con người, lâu hơn cả một thế hệ. Chiến tranh kết thúc khi tôi tròn đôi mươi. Năm mươi năm sau nó vẫn còn sờ sờ ra đó, mặc dù tôi và nhiều người bạn đã chủ trương hòa giải ngay khi chiến tranh vừa kết thúc. Và lạ lùng thay, những người chủ trương hòa giải lại bị đánh phá bởi cả hai phía, bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc, thậm chí còn đang bị tù đầy.

Nhưng đây là điều người Việt cần nghe.

Sau phiên tòa xử xác chết đó, Giáo hoàng Étienne VI, kẻ đứng ra xét xử một người đã chết, bị lật đổ, bị tống giam và cuối cùng bị siết cổ chết trong ngục. Thành Rome, chán ngấy cảnh trả thù vô nghĩa, đã quay lưng lại với những kẻ gieo hận. Người ta vớt xác Formose lên, chôn cất lại và phục hồi danh dự cho ông.

Cuối cùng, hận thù đã thua. Vì đến một lúc nào đó, người ta nói: đủ rồi.

Và Việt Nam thì sao?

Nửa thế kỷ nay, chúng ta tiếp tục sống lại cuộc chiến ấy, mỗi người trong một chiến tuyến ký ức của riêng mình.

Hận thù nuôi dưỡng hận thù nhưng chẳng xây nổi điều gì.Nó không trả lại công lý cho người đã khuất. Nó cũng không chữa lành được người đang sống.

Không dân tộc nào có thể bước tới tương lai trong khi cứ kéo lê một xác chết phía sau.

Chúng ta cũng vậy.

Người La Mã, nổi tiếng vì những cuộc tranh chấp không hồi kết, cuối cùng cũng tỉnh táo. Họ nhận ra rằng càng kéo dài sự trả thù càng làm ô uế chính mình.

Chúng ta đang đến đúng điểm đó ?

Đã đến lúc Việt Nam ngừng bới lại những oán hờn cũ, thôi dựng lại những phiên tòa ký ức để xét xử nhau mãi, hướng về những người đang sống, về những đứa trẻ chưa từng chọn cuộc chiến này, và nói: quá đủ rồi.

Không ai từ bên ngoài có thể mang hòa giải đến cho chúng ta. Chỉ chính chúng ta mới làm được điều đó.

Câu chuyện về Formose từ hơn một nghìn năm trước dạy ta một điều giản dị mà sâu sắc: hận thù chẳng mang lại gì, và cuối cùng nó sẽ quay lại nuốt chửng chính những kẻ nuôi dưỡng nó.

Vậy hãy học lấy bài học ấy. Cứ ôm hận mãi thì chết cả nút.

Cũng là một kiểu ngu. Mà cái ngu kéo dài nửa thế kỷ thì người ta gọi thẳng là NGU LÂU.

Ngoài hiên mưa vẫn rơi.

“Buồn dâng lên đôi môi…

Buồn đau hoen ướt mi ai rồi…”

Cái buồn đi trong đêm khuya ấy, cái buồn rơi theo đêm mưa ấy — tôi sợ rằng nó sẽ còn theo người Việt chúng ta rất lâu nữa.

Tôi bi quan, vì tôi tin nỗi buồn này, nỗi buồn của hận thù, sẽ còn dài hơn cả cuộc đời tôi.

Và có lẽ, nó sẽ theo tôi sang tận thế giới bên kia, nếu chúng ta không dừng lại ngay từ bây giờ.

Paris 07/12/2025


 

Thời kỳ Minh Trị Thiên Hoàng và cuộc Minh Trị Duy Tân

Thời kỳ Minh Trị Thiên Hoàng và cuộc Minh Trị Duy Tân

Minh Trị Thiên hoàng

(3 tháng 11 năm 1852 – 30 tháng 7 năm 1912)

Tháng 4 năm 1868, các lãnh tụ samurai trẻ đưa một thanh niên – Minh Trị Thiên Hòang lên ngôi với 5 Lời thề Hiến Chương (Charter Oath) như sau:

Điều 1: Dự trù thiết lập các hội đồng (quốc hội) rộng rãi khắp nơi, để lấy quyết định cho mọi thảo luận công cộng.

Điều 2 : Mọi giai cấp cao hay thấp phải đoàn kết thi hành việc quản trị đất nước

Điều 3: Mọi công dân phải được phép đeo đuổi nguyện vọng để tránh sự bất bình.

Điều 4: Mọi hủ tục trong quá khứ sẽ bị dẹp bỏ và tất cả mọi việc đều chỉ dựa trên các luật của Thiên Nhiên.

Điều 5: Hiểu biết sẽ được tìm kiếm khắp thế giới, để củng cố nền tảng cai trị của hoàng đế.

Có 3 điểm đáng chú ý nhất trong 5 lời thề này:

1/ Chuẩn bị cho một mô hình hiến pháp, chuyển từ một chế độ phong kiến sang một chế độ quốc hội nghị viện, tức là trao quyền lại cho quốc dân

2/ Đoạn tuyệt quyết liệt với một nền văn hóa cũ không còn thích hợp.

3/ Tìm kiếm những kiến thức mới trên khắp thế giới để canh tân đất nước.

Trong suốt thời gian trị nước Nhật từ năm 1968 cho đến 1912 Minh Trị Thiên Hoàng luôn theo đuổi 5 lời thề lúc nhậm chức.

Là một người vốn thông minh và sáng suốt, vua Minh Trị ý thức rõ ràng trách nhiệm của mình đối với tiền nhân và đối với tiền đồ của đất nước, đã dồn mọi tâm quyết vào việc canh tân đất nước để bắt kịp Tây Phương. May mắn cho giới trí thức Nhật là trong thời gian trị vì Minh Trị cũng là cơ hội thuận tiện nhất cho họ thi thố tài năng.

Ngày nay khi nói về vua Minh Trị, điều mà người Nhật biết ơn ông không phải là những đóng góp trong công cuộc canh tân đất nước, mà còn vì ông biết đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân. Sau khi nghiên cứu quá trình phát triển của nền văn minh Tây Phương các nhà Tây học của Nhật nhận ra rằng muốn bắt kịp họ không phải chỉ học về kỹ thuật, mà còn phải có một thể chế chính trị do dân và vì dân. Sau 3 năm soạn thảo và bàn luận cuối cùng vào tháng 9 năm 1871 Hội Đồng Quốc Gia ra đời. Đây là bước đầu trước khi áp dụng thể chế Quân Chủ Lập Hiến theo kiểu Anh Quốc. Tháng 12 năm 1885 nước Nhật có Thủ tướng đầu tiên do Nhật Hoàng đề cử và đến đầu năm 1889 bản Hiến pháp đầu tiên ra đời, Nhật Bản chính thức trở thành nước theo thể chế quân chủ lập hiến, gồm Quốc Hội Nghị Viện do dân bầu. Đây là hệ thống chính phủ đại diện cho dân đầu tiên ở Á Châu.

Những năm đầu của Triều Đại Minh Trị là một giai đoạn khó khăn nhất, vấn đề nan giải làm sao để tập trung quyền hành về một mối, có nghĩa là phải dẹp bỏ các lãnh chúa địa phương, mà dưới quyền các lãnh chúa địa phương này là các võ sĩ sumarai. Chính quyền Minh Trị giải quyết bằng cách bồi thường cho các lãnh chúa địa phương và các samurai hoặc tuyển dụng các samurai cũ vào quân đội quốc gia mới thành lập.

Từ năm 1876 trở đi, trên đường phố Nhật Bản không còn thấy cảnh các samurai mặc quần áo võ sĩ, để tóc dài, đeo kiếm bên hông, trước đó là một đặt quyền. Xem như cuộc Cách Mạng Duy Tân đã hoàn tất mà không phải đổ máu giống như cuộc Cách mạnh Pháp năm 1789.

Cuộc cách mạng canh tân bắt đầu ngay sau khi vua Minh Trị lên ngôi, kéo dài 30 năm (1868-1898). Nhờ cuộc cách mạng này mà nước Nhật đã tạo được những thay đổi thần kỳ, là nền móng cơ bản đưa Nhật bản trở thành một trong những cường quốc trên thế giới. Trong đó 10 năm đầu là giai đoạn quan trọng nhất mà người Nhật gọi là “Thời kỳ Văn minh khai hóa”.

Khi nói về cuộc canh tân Minh Trị người ta thường nghĩ đơn giản đó là sự mở cửa để giao thương và học kỹ thuật tân tiến của Tây Phương. Thật sự không phải như vậy. Học hỏi kỹ thuật của Tây Phương chỉ là mặt nổi bên ngoài, thực chất của cuộc Minh Trị Duy Tân là người Nhật muốn học những tinh hoa văn minh của người Tây Phương để tự khai hóa mình và để gìn giữ được nền độc lập quốc gia.

May mắn thay cho nước Nhật, vào thập niên 1860, một nhóm trí thức Nhật Bản vì niềm hãnh diện dân tộc cùng với ý thức trách nhiệm đối với tiền đồ đất nước, quyết định tìm đến các nước Tây Phương để học hỏi. Họ nôn nóng cái gì cũng muốn biết, từ kỹ thuật, quân sự, chế độ chính trị cho đến tư tưởng, phong tục tập quán….

Họ ra đi bằng nhiều cách khác nhau, kẻ đi Âu, người đi Mỹ, kẻ đi chính thức, người trốn xuống các tàu buôn…tìm đến tập nơi, nhìn thấy tận mắt những thành quả của nền văn minh để so sánh với hiện trạng của đất nước mình và tránh vết xe đổ của nhà Thanh.

Sự nghiệp đáng nói của các bậc tiền nhân dân tộc Nhật Bản là không để mất cái đã có trong quá trình tiếp thu cái mới. Dù ngỡ ngàn trước ánh sáng của nền văn minh Tây Phương nhưng người Nhật lúc nào cũng chủ trương phải giữ lại tinh thần của Nhật Bản với niềm tự hào: “Người Âu Châu không dạy cho người Nhật mà chính vì người Nhật tự mình muốn học hỏi các phương pháp tổ chức dân sự và quân sự của phương Tây”.

Riêng đối với chính quyền, muốn đổi mới thì phải có kiến thức về kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quan hệ ngoại giao, luật pháp… những ngành này mới lạ và chưa có ai dạy ở Nhật, cho nên chỉ còn cách là phải gởi người ra Tây Phương học hỏi Chính phủ chọn ra các sinh viên ưu tú gởi đi du học, bất kể là nam hay nữ, dựa vào năng khiếu của từng người gởi đến một quốc gia thích hợp nhất. Họ không chọn một quốc gia nào làm kiểu mẫu, mà chọn mô hình tốt nhất ở mỗi lãnh vực. Họ gởi người đến Đức để học về kỹ thuật, quân đội và y khoa, đến Anh học về hải quân-hàng hải, đến Pháp học về luận pháp và tòa án, đến Mỹ học về thương mại và mậu dịch.

Đồng thời một phái đoàn Ngoại giao của chính phủ có tên Iwakura Mission gồm 48 viên chức cao cấp bao gồm những nhân vật lỗi lạc như Itō Hirobumi, Ōkubo Toshimichi, Kido Takayoshi, Mori Arinori, trưởng phái đoàn là Bộ Trưởng Iwakura Tomomi, thực hiện một chuyến công du đến Âu Châu và Mỹ từ tháng 12 năm 1871 cho đến tháng 9 năm 1873 (gần 2 năm). Mục đích của chuyến đi là để đàm phám lại các hiệp ước bất bình đẳng đã ký với các nước Âu Châu và Hoa Kỳ, nhưng chính yếu là để thu thập các thông tin về quân sự, kinh tế, kỹ thuật, xã hội.. tại những nơi mà họ thăm viếng để trở về thực hiện chương hiện đại hóa đất nước.

Chính những thành phần đi du học hay tu nghiệp này, sau khi trở về trở thành lực lượng nồng cốt cho công cuộc canh tân, điển hình như Itō Hirobumi trở thành thủ tướng đầu tiên của Nhật và Mori Arinori trở thành Bộ Trưởng Giáo Dục – được xem là người sáng lập ra hệ thống giáo dục hiện đại của Nhật.

Học hỏi được từ người Mỹ, người Nhật bắt đầu thành lập những hội trí thức để chia sẻ nhau thông tin và phổ biến tư tưởng đến quần chúng. Hội có nhiều ảnh hưởng nhất với xã hội trong giai đoạn này là Hội Trí Thức Meirokusha, do Mori Arinori và Nishimura Shigeki sáng lập năm 1873, quy tụ những nhà khai sáng theo Tây học có tâm quyết như Nishi Amane, Tsuda Mamichi, Nakamura Masanao, Katô Hiroyuki, Mitsukuri Shuuhei, Fukuzawa Yukichi, Sugi Kôji, Mitsukuri Rinshô, Nishimura Shigeki.

Mục đích của hội là giới thiệu văn minh Tây Phương và khuyết khích người Nhật canh tân theo chiều hướng này. Họ lập ra tờ báo Meiroku – tạp chí tư tưởng đầu tiên ở Nhật để thảo luận mọi đề tài liên quan đến đất nước, xã hội, từ vấn đề vợ chồng, cách dạy con, đạo đức nam nữ, vấn đề hôn nhân, cho đến những việc trọng đại hơn như vấn đề giáo dục, tín ngưỡng, các quyền tự do, quyền được bình đẳng, quyền được chọn một quốc hội do dân bầu. Họ cũng bàn về tiền tệ, thuế má, mậu dịch, tài chính v.v..

Đồng thời hội chỉ dẫn cho người dân học cách suy nghĩ và phương pháp tư duy mới để vượt qua lối mòn của nho giáo chỉ lập lại những gì trong sách vỡ và may mắn cho họ là có nhiều người trẻ ở lứa tuổi 40 trong số các thành viên để tiếp nối và phần đông đã tham gia chính quyền để thực hiện hoài bão khai hóa quốc dân.

Các học giả Nhật làm điều này bằng cách dịch sách vở của Tây Phương sang tiếng mẹ đẻ, và áp dụng theo phương châm: “Thầy làm sao trò làm vậy.” Người Đức chế tạo cơ khí ra sao họ cố gắng làm theo như vậy, người Anh đóng tàu và tổ chức hải quân ra sao họ làm giống như vậy, người Pháp tổ chức hệ thống luật pháp ra sao họ cũng bắt chước làm theo như vậy…nhưng 10, 20 năm sau trò có thể qua mặt cả thầy.

Trong thời gian 10 năm đầu này, các tác phẩm chính yếu của nền văn minh Tây Phương đều được dịch sang tiếng Nhật tiêu biểu như: Lịch sử nền Văn minh của nước Anh (History of Civilization in England) của Henry T. Buckle, Khế ước xã hội (Du contrat social) của Jean-Jacques Rousseau, Quyền con người (Rights of Man) của Thomas Paine, Sự Thịnh Vượng của Quốc Gia (the Wealth of Nations) của Adam Smith, Tự Do Luận (On Liberty) và Các nguyên Lý về Chính Trị Kinh Tế Học (Principles of political economy) của John Stuart Mill, Tinh thần của luật pháp (De l’esprit des lois) của Montesquieu, Tự giúp (Self-help) của Samuel Smiles, Thuyết Tiến Hóa (The Theory of Evolution) của Charles Darwin….

Việc dịch thuật từ tiếng Anh, Đức hay Pháp sang tiếng Nhật là một việc vô cùng khó khăn đối với các học giả Nhật vào thời phôi thai này, lý do là vì tiếng Nhật giống như tiếng nôm của ta dựa trên tiếng Hán, cho nên họ phải tự tìm ra những từ ngữ khoa học hay triết học tương xứng. Vậy mà họ vẫn vượt qua được. Chỉ việc này thôi họ đã đi trước người Trung Hoa và Việt Nam rất xa.

Thời kỳ Văn minh khai hóa này cũng tạo ra một dòng “văn học khai sáng”, ở đó các nhà văn viết hàng loạt “tiểu thuyết chính trị” để giải thích, không phải chỉ cho quốc dân mà còn cho những người lãnh đạo đất nước, hiểu về những giá trị của con người, về lợi ích của giáo dục, về bản chất của Tinh thần luật pháp, về dân chủ như một “giá trị đạo đức” và “phương thức quan hệ” trong xã hội, về con đường để rèn luyện văn hóa dân chủ và tuân thủ những giá trị đạo đức đó…

Những tên tuổi lớn của Nhật trong thời kỳ này gồm có Katô Hiroyuki là người tiên phong của nghành chính trị học, Nishi Amane mở đầu cho ngành triết học. Mitshkusi Rinsho là cha đẻ nghành nghiên cứu luật pháp. Sugi là người sáng lập ra ngành xác xuất thống kê (statistics). Fukuzawa Yukichi dẫn đầu trong ngành giáo dục, nhà tư tưởng Nakae Chômin được xem là một “Jean-Jacques Rousseau của phương Đông” v.v….

Những nhà canh tân của Nhật trong thời kỳ này không xa rời thực tế của đất nước họ. Vì tư tưởng của Tây Phương hoàn toàn mới lạ đối với đại đa số quần chúng, cho nên họ phải trang bị cho mình một kiến thức toàn khoa để đáp ứng được nhu cầu của thực tế.

Bên cạnh những sinh viên gởi đi du học, họ còn sẵn sàng trả số lương hậu hĩ cho các giáo sư, chuyên viên Tây Phương đến Nhật dạy tại các trường đại học, trường dạy nghề, cố vấn cho các công ty tư nhân và các cơ quan của chính phủ. Theo tài liệu của học giả Fukuzawa trong quyển “Khuyến Học” cho biết là chỉ trong 4 năm, từ 1868-1812, để học hỏi thể chế chính trị, xã hội và kỹ thuật của Phương Tây, chưa kể phần tư nhân, chính phủ Minh Trị, đã thuê hơn 500 chuyên viên, học giả sang Nhật làm việc, trong đó đông nhất là Bộ Công Nghiệp có 130 cố vấn Tây Phương.

Dĩ nhiên giữa những nhà canh tân không phải là không có những xung đột vì bất đồng quan điểm nhưng như một nhà văn Nhật đã nhận xét: “Cảnh tượng buổi đầu thời cận đại ở Nhật giống như một sân khấu lớn đầy những diễn viên đóng mọi vai trò. Những trào lưu tư tưởng đã xung đột, kết hợp, giao thoa với nhau để làm nguồn cảm hứng tạo ra một nước Nhật cận đại phong phú và đa dạng”

Dù đứng trên quan điểm nào những nhà tư tưởng khai sáng Nhật Bản cũng có chung một quan điểm là họ không thể đi ngược lại quá trình tiến hóa của nhân loại, từ man rợ tiến tới văn minh. Đồng thời họ cũng không thể quên chân lý từ ngàn xưa đến nay là muốn mở mang trí tuệ thì trước hết con người phải được thoải mái về vật chất.

Kết quả của 10 năm Khai Hóa Văn Minh

Nếu chỉ cần có 25 năm người Nhật đã biến một nước Nhật hoang tàn đổ nát sau Đệ Nhị Thế Chiến trở thành một cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới, thì gần 100 năm trước đó người Nhật cũng làm được một phép lạ kinh tế tương tự. Chỉ có 10 năm sau khi bắt đầu cuộc Minh Trị Duy Tân, người Nhật đã tạo ra được những thành đáng nể, qua mặt cả một số nước ở Âu Châu.

Dưới đây chỉ là vài kết quả tiêu biểu:

– Năm 1871 hệ thống bưu điện, điện tín được thành lập.

– 1872 đường xe lửa nối liền Tokyo với hải cảng Yokohama dài gần 40km, Kobe được nối liền với Osaka năm 1874 và với Kyoto 3 năm sau, Tokyo – Kobe năm 1877.

– Cùng năm 1872 Bộ Giáo Dục được thành lập để quản trị từ bậc Tiểu Học lên đến Đại Học.

– Nhiều đại học được thành lập trong thời gian này, Đại Học Tsukuba được thành lập năm (1872), Đại Học Tokyo (1877), trước đó Đại học tư nhân của Fukuzawa là Keio được thành lập năm 1858.

– Xưởng đóng tàu tại Hyogo (Kobe) được thành lập 1868.

– Các hãng chế tạo vũ khí hiện đại tại Tokyo và Okasa cũng được thành lập.

– Năm 1870 hãng chế tạo đồ tiêu dùng Mitsubishi ra đời

– 1876, Mitsui Bank, ngân hàng tư nhân đầu tiên của Nhật được thành lập…

và vô số những thành quả khác.

Đến năm 1895 thì Nhật đã trở thành một nước mạnh nhất ở Á Châu khi đánh bại Trung Hoa và 10 năm họ đã thật sự trở thành một cường quốc sau khi đánh bại Nga tại eo biển Đối Mã. Chiến thắng này đã làm sửng sốt tất cả các nước Tây Phương bởi vì không ai nghĩ  họ có thể chiến thắng trước sức mạnh quân sự của Nga. Nên nhớ là vào thời điểm 1905 Nga đã là một đế quốc, lãnh thổ bao gồm phần lớn các nước trong Liên Bang Sô Viết cũ, rộng đến 23 triệu cây số vuông, dân số 140 triệu, trong lúc Nhật chỉ rộng có 377 ngàn cây số vuông, dân số 45 triệu vào thời điểm đó.

Tính từ năm 1868 đến 1905, có nghĩa là chỉ 37 năm kể từ khi cuộc Minh Trị Duy Tân bắt đầu, nước Nhật từ một nước phong kiến tụt hậu trở thành một cường quốc hiện đại trên thế giới. Thành tích thần kỳ là nhờ lòng yêu nước và niềm kiêm hãnh dân tộc là động lực khiến họ đoàn kết trên dưới một lòng quyết tâm đưa đất nước lên vị trí ngang hàng với các cường quốc Tây Phương.

Ngoài yếu tố tinh thần, một bài học mà chúng ta có thể học được từ cuộc Cách Mạnh Duy Tân của người Nhật là họ đã biết cách làm như thế nào để chuyển hóa từ một nước lạc hậu sang một nước văn minh.

Ngoài Minh Trị Thiên Hoàng, sẽ thật thiếu sót vô cùng nếu không nói về một nhân vật lỗi lạc khác của Nhật đã có công đóng góp rất lớn cuộc Minh Trị Duy Tân – một người mà cho đến ngày nay người Nhật vẫn gọi là “Người khai sinh ra nước Nhật hiện đại”.

Phạm Hoài Nam


 

VÌ SAO NHIỀU QUỐC GIA THẮNG TRONG CHIẾN TRANH NHƯNG THUA TRONG HÒA BÌNH?

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

Có một nghịch lý xuyên suốt lịch sử hiện đại:

Những nhà nước từng chiến thắng vẻ vang trong chiến tranh lại thường thất bại cay đắng trong hòa bình.

Đế quốc Nga thắng Thế chiến II nhưng Liên Xô tan rã năm 1991.

Nam Tư chiến thắng phát xít nhưng vỡ vụn trong nội chiến.

Cuba, Triều Tiên, Ethiopia, Angola… đều là những ví dụ của sự vinh quang trên mặt trận quân sự nhưng lao đao trong quản trị thời bình.

Vì sao?

Bởi chiến tranh và hòa bình đòi hỏi hai năng lực khác nhau.

Một nhà nước có thể rất mạnh trong chiến tranh nhưng lại không có bộ gen phù hợp để tồn tại trong hòa bình.

  1. Chiến tranh cần quyền lực tập trung; hòa bình cần quyền lực phân tán

Trong chiến tranh, mô hình hiệu quả nhất là:

– Mệnh lệnh từ trên xuống

– Kỷ luật tuyệt đối

– Sự hy sinh cá nhân cho mục tiêu chung

– Tập trung quyền lực để ra quyết định nhanh

Nhưng một mô hình quyền lực tập trung không thể vận hành xã hội dân sự trong hòa bình, nơi cần:

– Cơ chế kiểm soát

– Minh bạch

– Luật pháp độc lập

– Báo chí giám sát

– Người dân phản biện

Nhà nước quen dùng mệnh lệnh chiến tranh sẽ bị “đơ cứng” trong quản trị kinh tế – xã hội.

Một xã hội nhiều vấn đề nhưng lại ít cơ chế phản hồi giống như chiếc nồi áp suất không có van xả.

  1. Chiến tranh tôn vinh hy sinh; hòa bình đòi hỏi năng lực

Hậu chiến, nhiều vị trí chủ chốt được trao cho những người “có công” trong chiến đấu — điều hợp lý ở thời điểm ấy.

Nhưng ở thời bình, quốc gia cần chuyên gia:

– Kinh tế

– Luật pháp

– Công nghệ

– Giáo dục

– Quản trị công

Khi tiêu chuẩn bổ nhiệm vẫn dựa vào “thành tích cách mạng” thay vì năng lực quản trị, nhà nước bị mắc kẹt trong vinh quang quá khứ, không bước kịp thời đại.

Năng lực không tự sinh ra từ lòng dũng cảm.

Một vị tướng giỏi chiến trận chưa chắc là người xây dựng được thể chế pháp quyền.

  1. Cơ chế chiến tranh không chống được tham nhũng thời bình

Khi chiến tranh kết thúc, lượng tài nguyên tái thiết khổng lồ đổ vào hệ thống.

Nếu thiếu minh bạch – thiếu kiểm soát, thì tham nhũng trở thành sản phẩm tự nhiên.

Ví dụ điển hình:

– Liên Xô kiểm soát kinh tế thời chiến rất tốt, nhưng trong hòa bình, cơ chế bao cấp – độc quyền đẻ ra hệ thống tham nhũng khổng lồ.

– Nam Tư của Tito đoàn kết trong chiến tranh, nhưng sau hòa bình, các nhóm lợi ích địa phương tranh giành tài nguyên, dẫn đến sụp đổ.

Một bộ máy được xây dựng để đánh giặc không thể tự chuyển đổi thành bộ máy minh bạch.

  1. Tâm lý “kẻ thù” không phù hợp với xã hội dân sự

Trong chiến tranh: ai đặt câu hỏi = có thể nghi ngờ là kẻ phá hoại.

Trong hòa bình: người dân phải có quyền đặt câu hỏi, chất vấn, phản biện.

Nhưng nhiều nhà nước bước ra từ chiến tranh không thay đổi tư duy đối – lập:

– Phản biện bị xem là chống đối

– Báo chí bị kiểm soát

– Dân bị coi là đối tượng quản lý, không phải đối tác xây dựng quốc gia

– Cơ quan công quyền quen dùng biện pháp cưỡng chế hơn là phục vụ

Khi người dân trở thành “đối tượng”, còn nhà nước giữ tư duy “trật tự chiến tranh”, thì xã hội sớm muộn cũng rơi vào mâu thuẫn.

  1. Chiến thắng không đồng nghĩa với khả năng phát triển kinh tế

Lịch sử chứng minh:

đánh trận giỏi không đồng nghĩa quản lý kinh tế giỏi.

Hàn Quốc và Nhật Bản phát triển thần kỳ sau chiến tranh không phải nhờ chiến thắng, mà nhờ:

– Cải cách thể chế

– Tự do hóa kinh tế

– Minh bạch hóa bộ máy

– Giáo dục và công nghệ

– Tôn trọng quyền công dân

Ngược lại, nhiều quốc gia thắng chiến tranh nhưng stagnate (đình trệ) trong hòa bình vì:

– Duy trì cơ chế bao cấp

– Không khuyến khích sáng tạo

– Sợ thay đổi

– Sợ mất quyền kiểm soát

– Tâm lý tự mãn vì quá khứ

Sự tự mãn là kẻ thù của phát triển.

  1. Không có kẻ thù chung, sự đoàn kết thời chiến tan rã

Trong chiến tranh, toàn dân đoàn kết vì địch rất rõ ràng.

Trong hòa bình, các lợi ích nhóm xuất hiện:

– Nhóm kiểm soát tài nguyên

– Nhóm kiểm soát đất đai

– Nhóm kiểm soát quyền lực địa phương

– Nhóm kinh tế – chính trị

Nếu nhà nước không có cơ chế điều phối và kiểm soát quyền lực hiệu quả, thì xung đột lợi ích nội bộ phá hủy sự ổn định.

Nói cách khác:

chiến tranh thống nhất – hòa bình phân rã.

  1. Không chuyển đổi được từ “tự do chiến đấu” sang “tự do công dân”

Một quốc gia chỉ thực sự chiến thắng trong hòa bình khi:

– Quyền con người được bảo đảm

– Luật pháp bảo vệ dân, không chỉ bảo vệ bộ máy

– Cơ quan công quyền minh bạch và chịu trách nhiệm

– Công an – quân đội phục vụ dân, không đứng trên dân

– Người dân được quyền giám sát Nhà nước

Nếu một nhà nước coi hòa bình như “sự kéo dài của chiến tranh bằng biện pháp hành chính”, thì nó sẽ thua.

Một nhà nước thắng chiến tranh nhờ sức mạnh tập trung,

nhưng thắng hòa bình lại cần năng lực phân quyền, minh bạch, pháp quyền và tôn trọng nhân dân.

Nếu không thay đổi, vinh quang quá khứ trở thành chiếc neo kéo quốc gia đi xuống.

Hòa bình không phải là phần thưởng, mà là bài kiểm tra.

Và nhiều quốc gia đã không vượt qua bài kiểm tra đó.

Hong Thai Hoang

 


 

CHUYỆN CỦA BA CHÚ KHỈ – Mônica Têrêsa Túy Nga

CHUYỆN CỦA BA CHÚ KHỈ KHÔNG NHÌN KHÔNG NGHE KHÔNG NÓI

Mônica Têrêsa Túy Nga

(Viết với ánh nhìn đời thường) 

  1. Giới thiệu

*Xét về mặt giá trị mỹ thuật thì ba chú khỉ tượng trưng cho ba KHÔNG, làm bằng gốm mỹ nghệ cao cấp được nung bao phủ bên ngoài lớp sơn bóng nổi vân màu xanh cẩm thạch này xứng đáng bị gia chủ nào đó đem vứt bỏ vào ngày 28 Tết vừa qua. Vì nhìn chúng vừa cũ kỹ, vừa lại có chú đã bị gảy mất một bàn chân, có chú bị trầy sờn một bàn tay nữa… Thế mà tôi đã hân hoan đi ôm lượm mang hết về nhà, rửa chùi thật sạch, rồi ân cần đặt bên cạnh gốc cây mai nhỏ ngoài ngõ. Những ngày Mừng Xuân, con cháu rút hết về quê ăn Tết, tôi ở nhà một mình. Ngoài giờ đi tham dự Thánh lễ ở giáo đường và đọc Kinh cầu nguyện tại gia ra, tôi để mặc cho  ba chú khỉ khọt này múa máy làm khuấy động tâm trí tôi! Vì đây là sự “khuấy động” hướng thiện, gợi hứng cho tôi ngồi viết bài này. Rất mong nhận lại được nhiều ý kiến đóng góp, cho các vấn đề được sáng tỏ và hữu ích hơn. 

  1. Hình thức và một thoáng truy cứu về nguồn gốc

 *Cả ba chú khỉ hiện diện trước mặt tôi đều được nghệ nhân cho đổ khuôn theo kiểu ngồi chồm hổm, mỗi chú cao khoảng một tấc rưởi, nhìn kỹ tôi không thấy có chú nào toát nét vui vẻ gì cả. Nhưng chịu khó nhìn cho sâu hơn, toàn bộ cho tôi bắt gặp cái “khí thế ưng chịu” phải là như thế! Cho mọi sự giao thoa được bình yên. Thật thấy mà thương thay!! Và, vì “thương” nên tôi tìm hiểu thêm, được biết:- Ba bức tượng của ba chú khỉ này từ rất lâu nay được thoát thai từ bức tượng thần Vajrakilaya có sáu tay ở Ấn Độ. Mỗi đôi tay của tượng thần Vajrakilaya giơ cao lên để bịt kín đôi mắt, bịt kín miệng, và bịt kín hai tai của mình lại. Hiện nay ở vùng Nikko, cách Tokyo khoảng 140 cây số về  hướng Bắc, trong đền Toshogu hãy còn đó một bức điêu khắc cổ bằng gỗ quí, trong đó có ba chú khỉ nhìn rất sống động, ẩn ý triết lý răn dạy người đời một cách cao siêu, của một nghệ nhân  nổi tiếng vào thế kỷ 17, ông tên là Hidan Jingoro. Và Mizaru, Kikazaru, Lwazaru, là tên của ba chú khỉ đó. Chú khỉ Mizaru bịt mắt, không nhìn. Chú khỉ Kikazaru bịt tai, không nghe. Và chú khỉ Lwazaru, bịt miệng, không nói. Phía sau của ba chữ không nhìn không nghe không nói, chúng ta thấy có hai nguyên âm và hai phụ âm đứng gần nhau kết thành âm đôi zaru. Zaru khi phát âm ra lại giống trài trại với Saru, mà nghĩa của Saru là con khỉ. Thế là từ đó hình ảnh của ba con khỉ thân mến như đã nói bên trên được lên ngôi, làm biểu tượng khuyên răn con người. Con người nên nhìn, khi cần phải nhìn. Con người nên nói, khi cần phải nói. Con người nên nghe, khi cần phải nghe. Cả ba hành xử vừa nêu, ngay trong Năm Thánh này, đem kết hợp chặt chẽ với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, thì không có gì sánh bằng. 

  1. Nhìn – nghe – nói: Ba thú khoái của ma quỷ!

Có lẽ nên thử nghĩ lại mà xem, nếu toàn thể loài người chúng ta ai cũng không nhìn không nghe không nói gì cả thì hẳn thế giới này đã thành một thế giới câm. Đức Chúa Trời của chúng ta chưa hề ban cho chúng ta một thế giới câm như vậy. Ngài luôn muốn đoàn con cháu của Ngài sống đoàn kết yêu thương và vui vẻ hạnh phúc bên nhau. Ngài ban cho loài người đôi mắt  để nhìn vạn vật đẹp xung quanh. Ngài ban cho đôi tai để con người nghe điều hay lẽ phải, nghe được luôn các âm điệu dịu dàng ngọt lịm của thinh không là bầu trời xanh dẫn đưa con người gặp được vị Cha chung hằng ngự trên cõi thiên đàng. Ngài ban cho cái miệng để cho vào bao tử thức ăn thức uống có chọn lựa để nuôi thân, và để đôi môi phát ra êm ái những lời tế nhị ngọt ngào, giúp người xấu trở nên tốt, giúp người tốt càng lúc càng được tốt hơn. Thế nhưng, bất cứ ở nơi đâu càng tập trung nhiều người quyết chí sống đời thánh thiện, thì nơi đó là nơi “hấp dẫn” nhất đối với loài ma quỷ! Ma quỷ sẵn sàng len vào thần trí của con người không có hoặc không vững Đức Tin, để biến con người này trở thành công cụ sắc bén của chúng. Trong các tài liệu bộc bạch về lời Giảng Lễ của Cố Đức Thánh Cha Phanxicô chúng ta, tôi rất tâm đắc câu ngài nói: 

 <<Cái hay cái tuyệt vời của loài ma quỷ là chúng làm cho chúng ta không hề biết chúng chính là ma quỷ>>. 

Từ câu nói thực tế và rất chính xác trên của Cố Đức Thánh Cha Phanxicô, tôi xin phép được suy ra: Người chính là ma quỷ, nhưng rất dễ dàng làm cho người khác lầm tưởng họ là người thánh thiện người chân chính, chính là các Đấng bậc có chức có quyền cao trọng, hay có chức quyền phó cao trọng trong Giáo hội, phân nhỏ xuống Ông Bà Anh Chị làm Trưởng nhóm, phó nhóm, làm thơ ký trong các cộng đoàn, nói riêng và nói chung. Vì vậy, việc quyết tâm không mở cửa tâm linh cho loài ma quỷ nhảy xổm vào, làm chủ và quấy rối bản tâm, là việc làm phải chú ý hàng đầu, không loại trừ bất cứ ai, ngay trong thời điểm mà Ánh sáng và Bóng tối – Thiện lành và Tội lỗi đang tranh giành quyền lợi riêng. 

Còn đối với một người giáo dân bình thường như tôi, ma quỷ sẽ có cách cám dỗ ngọt ngào êm ái khác, nếu hằng ngày tôi sống buông lơi Lời Chúa và không xem các giờ Kinh Phụng Vụ là việc làm rất cần thiết nữa. Và nếu tôi đã là như vậy, thì tôi sẽ để cho đôi mắt tôi, đôi tai tôi, và cái miệng của tôi hoạt động một cách ráo riết, không hề biết mệt mỏi. 

-Đôi mắt tôi: Trừ giờ nằm ngủ, chúng cần mở to, để nhìn bên này, ngó bên kia. Nếu chúng ngó nhìn không rõ, chúng sẽ khiến tôi xê dịch chỗ đứng, cho tầm nhìn được ngắn hơn, để chúng soi rọi bới xới chuyện của người khác. Ai là người biết nhún nhường và thân thiện với tôi, đôi mắt tôi sẽ nhìn họ với ánh nhìn có chút phần thông cảm. Ai là người không cùng phe phái với tôi, chống đối tôi, đôi mắt của tôi sẵn sàng ban cho họ những tia hận thù và chia rẽ. 

-Đôi tai tôi: Vì tôi là tay sai của loài ma quỷ, nên tôi rất ghét nghe lời hay ý đẹp. Trái lại tôi rất khoái nghe các cô bà xúm nhau “tám” chuyện của người khác. Ôi thôi nào là chuyện đánh ghen của xóm trên kéo dài xuống chuyện giựt hụi của xóm dưới…. Nào là chuyện ông cha ở nhà thờ này giảng hay, ông cha ở nhà kia giảng dở ẹc. Nào là dì phước này mặt đẹp như tiên sa, tu sẽ không bền; dì phước nọ nhìn xấu xí, đi tu là phải, chứ ở ngoài đời, ai mà cưới cho. Đại khái, chuyện “tám, tám, tám…” của họ càng hoành tráng, đôi tai của tôi càng khoái nghe.

 -Cái miệng tôi: Phải nhìn nhận rằng thị giác và thính giác của tôi là hai cơ quan truyền thông rất hữu hiệu trong việc đưa các sự kiện lên bộ não tôi, một bộ não vốn hay tưởng tượng và cường điệu ra thêm. Rồi từ bộ não tôi con đường truyền thông này được tuôn ra miệng, buộc tôi phải nói… nói… và nói…. Nói sự thật không đã, tôi bèn thêm mắm dậm muối thêm vô, để chuyện không có gì tôi nói cho thành có, tôi mới thỏa lòng. 

Kết quả: Tôi bị gia đình, xóm giềng, bạn bè …xếp tôi vào hạng người đáng ghê tởm!Cần tránh xa ra! Nếu không sẽ bị họa lây những chuyện không hay do chính tôi gây ra.

 4-Bài học quý giá

Sau khi bị mọi người bỏ rơi, như vừa nói bên trên, tôi giựt mình, nhìn lại chính mình! Và, ngay giờ đây ba chú khỉ tượng trưng cho ba KHÔNG, tên Mizaru, Kikazaru, và Lwazaru chính là ba vị Thầy của tôi. 

– Chú khỉ Mizaru bịt mắt không nhìn, dạy tôi chỉ nhìn khi cần phải nhìn. Mà nếu đã nhìn thì hãy nhìn với ánh mắt của Lòng Chúa Xót Thương, từ đó mọi chuyện dù có xấu cũng được từ từ hóa giải cho thành tốt. 

-Chú khỉ Kikazaru bịt tai không nghe, dạy tôi biết lắng nghe với tinh thần biết trân trọng mọi sự, nhất là biết lấy lương tâm ra mà phân biệt tốt xấu phải trái để:- Hoặc tôi học theo gương sáng, hoặc tôi lấy bước vấp ngã của người khác mà làm kinh nghiệm cho con đường thẳng tiến tốt lành của mình. 

-Chú khỉ Lwazaru bịt miệng không nói, dạy tôi nên nói, khi cần thiết phải nói. Và nếu đã nói thì tôi chỉ nên luôn nói lời khiêm nhường dịu ngọt êm tai để làm vui lòng người khác. Cho dù người đang đứng trước mặt tôi đã từng làm đau lòng tôi. Hy sinh như vậy đâu ăn thua gì đối với Tình Yêu Thiên Chúa hằng ban cho tôi, nhất là trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này. 

  1. Kết bài

“Ra đây lên núi chơi với khỉ

Khỉ nhảy cà tang ta nhảy cà tưng

Nhảy cho đã để quên đời khỉ gió

Mai mạnh giò ta tiếp bước gian truân”.

(Trích thơ của Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca)

Và, theo tôi, không có gian truân nào khốn khổ cho bằng cái gian truân khi ta phải chiến đấu với ý thức hệ của chính bản thân ta. 

Mônica Têrêsa Túy Nga

From:  Ngoc Bich & KimBang Nguyen


 

ĐỜ ĐẪN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa!”.

“Thiên thần Niềm Tin bước vào lòng tôi; vừa đi, vừa hát, vừa thổi sáo. Những vị khách lần lượt ra đi – Sợ Hãi và Lo Lắng, Đau Buồn và Ảm Đạm lao vào màn đêm! Tôi tự hỏi, làm sao như thế được? Niềm Tin thì thầm, ‘Bạn không thấy sao? Họ thực sự không thể cùng tôi chung sống!’” – Một nhà thơ cổ.

Kính thưa Anh Chị em,

Đoản thơ trên hé mở một điều: khi niềm tin hiện diện, những gì làm tê liệt tâm hồn phải tự rút lui. Lời Chúa hôm nay cũng cho thấy, không chỉ thiên thần, nhưng chính Chúa Giêsu vẫn thường bước vào lòng chúng ta; Ngài vừa đi, vừa hát, vừa thổi sáo. Tiếc thay, như lũ trẻ ngoài chợ, không ít lần chúng ta lại trở nên… “đờ đẫn!”.

Isaia diễn tả ‘nhã nhạc’ Thiên Chúa hát cho dân Ngài, “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi sẽ chan chứa như dòng sông!” – bài đọc một. Nhưng Israel bỏ ngoài tai. Thời Chúa Giêsu, cảnh tượng lặp lại! Ngài cất giọng mà hầu như chẳng ai hưởng ứng; Gioan được cho là “quỷ ám”, Ngài được gọi là “bợm nhậu”. “Chúng ta lại sợ chính thứ ánh sáng mà mình khao khát!” – C.S. Lewis.

Cũng thế với chúng ta. Khi không muốn nghe Chúa, chúng ta tìm đủ cách để khéo từ chối; và với thời gian, lòng ra tê liệt, không còn bén nhạy trước tiếng Ngài. Cần phân biệt trọng tâm sứ điệp với cách thức sứ điệp được chuyển tải. Phaolô nói, “Chúng tôi mang kho tàng ấy trong những bình sành” – chiếc bình không quan trọng bằng kho tàng nó chứa. Chúa vẫn dùng những tác nhân bất toàn để nói; nhiều người mang những yếu đuối đáng kể, thế nhưng không ít vị đã làm thánh vì và nhờ chính những yếu đuối đó. Nếu quá bận tâm đến “chiếc bình”, bạn và tôi sẽ bỏ lỡ “kho tàng!”. “Thiên Chúa không im lặng; chính chúng ta điếc trước Ngài!” – Søren Kierkegaard.

Thánh Vịnh đáp ca khẳng định, “Ai theo Chúa, sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống!”. Nhưng chỉ ai nhận ra bóng tối của mình mới gặp được ánh sáng ấy. “Quay mặt về phía ánh sáng, bạn sẽ không còn thấy bóng tối nữa!” – Helen Keller. Khi nghe một sứ điệp, chúng ta thường sàng lọc phong cách người rao giảng; bởi thế, khi một người chia sẻ Lời Chúa cho 20 người, có thể sinh ra 20 thông điệp khác nhau. Điều đó không sai, miễn là mỗi người thực sự để Chúa soi rọi và không để lòng mình ra chai lỳ.

Anh Chị em,

“Các anh không nhảy múa?”. Có thể bạn và tôi không nhảy múa vì để “sợ hãi, lo lắng, đau buồn, ảm đạm” chiếm chỗ. Đức Phanxicô cảnh báo, “Đó là những con người buồn bã vốn luôn chỉ trích những người rao giảng, vì sợ rằng mình sẽ mở lòng ra trước Thánh Thần. Hãy cầu nguyện để không trở nên buồn bã – những người cướp đi ‘sự tự do của Thánh Thần’ – vốn thường đến qua sự vụng về của người rao giảng. Thật bê bối khi Chúa nói qua những con người tội lỗi, giới hạn; nhưng bê bối hơn, khi Ngài cứu chúng ta qua một người tự nhận mình là Con Thiên Chúa nhưng kết thúc như một tội phạm!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con tê liệt trước tiếng Chúa. Xin cho con nhận ra giai điệu Ngài đang hát cho con mỗi ngày!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***********************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần II Mùa Vọng

Họ không nghe lời ông Gio-an, cũng chẳng nghe Con Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 11,16-19

16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông rằng : “Tôi phải ví thế hệ này với ai ? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, 17 và nói :

‘Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa ;
tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không đấm ngực khóc than.’

18 Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo : ‘Ông ta bị quỷ ám.’ 19 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo : ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.’ Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”