André Rieu – Auld Lang Syne & Auld Lang Syne with Sing Along Lyrics | Happy New Year Song
Auld Lang Syne & Happy New Year, 2026
1/ The New Year’s Eve song, explained
https://youtu.be/_xWxyxsVAsQ?si=wecdDzG_aY5SfaBH
2/ Auld Lang Syne & Happy New Year, 2026
https://youtu.be/cYkxDlIxRHg?si=LRxFJcc7oZ2ntnrG
Cô giáo trẻ mới về trường, chỉ hỏi đúng một câu đám học sinh hư hỏng chết lặng
Chi Nguyen – Những Câu Chuyện Thú Vị
Cô giáo trẻ mới về trường, chỉ hỏi đúng một câu đám học sinh hư hỏng chết lặng …
Đây là một câu chuyện có thật trong lịch sử.
Tại một trường trung học ở Mỹ, có một lớp học nọ với 26 em học sinh cá biệt.
Những em học sinh trong lớp học này đều có tiểu sử không mấy hay ho: em từng tiêm chích ma túy, em từng vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ mà trong một năm đã phá thai tới 3 lần.
Gia đình đều chán nản và đã buông bỏ chúng, các thầy cô giáo trong trường thậm chí cũng coi chúng là đồ bỏ đi.
Tưởng chừng cuộc sống đã hết hi vọng thì một ngày kia, Phila, một cô giáo mới về trường đã tình nguyện làm chủ nhiệm của những đứa trẻ hư hỏng này.
Khác với suy đoán của bọn trẻ, trong ngày đầu tiên nhận lớp, Phila đã không hề quát nạt hay ra oai với chúng. Trong chiếc đầm lụa màu xanh nhạt, mái tóc màu nâu hạt dẻ búi cao, Phila bước nhẹ lên bục giảng. Cô dịu dàng nhìn xuống lũ trẻ một lượt rồi cất tiếng với vẻ trầm ngâm:
Cô sẽ kể cho các em nghe về quá khứ của 3 người đàn ông khác nhau:
– Người thứ nhất đã từng có những vụ bê bối về chính trị, rất tin vào y thuật của thầy cúng, ông ta từng có tới 2 tình nhân, hút thuốc nhiều và uống 8-10 ly rượu mạnh mỗi ngày…
– Người thứ hai đã 2 lần bị đuổi việc, hôm nào cũng ngủ tới trưa mới dậy và tối nào cũng uống 1 lít rượu brandy. Ông ta từng hít thuốc phiện khi còn là sinh viên…
– Người thứ ba là anh hùng chiến tranh của một đất nước. Ông ta ăn chay trường, không bao giờ hút thuốc và thỉnh thoảng mới uống rượu, có uống bia nhưng uống không nhiều. Thời thanh niên chưa từng làm gì phạm pháp và chưa từng có một vụ bê bối tình ái nào…
Cô hỏi cả lớp:
Trong 3 người, ai sau này sẽ có cống hiến nhiều nhất cho nhân loại?
Những đứa trẻ đồng thanh chọn người thứ ba sau khi nghe xong câu chuyện…
Nhưng câu trả lời của Phila đã khiến lũ trẻ chết lặng.
Các em thân mến!
Cô biết chắc là các em sẽ chọn người thứ 3 và cho rằng chỉ ông ta mới có thể cống hiến được nhiều cho nhân loại. Nhưng các em đã sai rồi đấy.
Ba người này đều là những nhân vật nổi tiếng trong thế chiến thứ 2.
– Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy tàn tật nhưng ý chí kiên cường. Ông ta đã đảm nhận chức vụ Tổng thống Mỹ trong bốn nhiệm kỳ liên tiếp.
– Người thứ hai là Winston Churchill, vị Thủ tướng nổi tiếng và tài ba nhất trong lịch sử nước Anh.
– Còn người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ phát xít Đức đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người dân vô tội
Cô giáo trẻ mới về trường chỉ hỏi đúng một câu, đám học sinh hư hỏng chết lặng…
Người thứ nhất – Roosevelt
Người thứ 2 – Winston Churchill
Và người thứ 3 là Adolf Hitler
Thật không thể ngờ…
Những đứa trẻ như ngây người trước câu trả lời của Phila và dường như không thể tin nổi vào những gì chúng vừa nghe thấy.
Các em có biết không, những điều mà cô vừa nói là quá khứ của họ, còn sự nghiệp sau này của họ, là những việc mà họ đã làm sau khi đã thoát ra khỏi cái quá khứ đó.
Các em ạ, cuộc sống của các em chỉ mới bắt đầu. Vinh quang và tủi nhục trong quá khứ chỉ đại diện cho quá khứ, còn cái thực sự đại diện cho cuộc đời một con người chính là những việc làm ở hiện tại và tương lai.
Hãy bước ra từ bóng tối của quá khứ, bắt đầu làm lại từ hôm nay, cố gắng làm những việc mà các em muốn làm, và cô tin các em sẽ trở thành những người xuất chúng…
Phila vừa nói vừa nhìn chúng với ánh mắt đầy hi vọng.Và bạn biết không, sau này khi trưởng thành, rất nhiều học sinh trong số họ đã trở thành những người thành đạt trong cuộc sống. Có người trở thành bác sĩ tâm lý, có người trở thành quan tòa, có người lại trở thành nhà du hành vũ trụ. Và trong số đó phải kể đến Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, nay đã trở thành Robert Harrison – Giám đốc tài chính phố Wall.
Ý nghĩa của câu chuyện ở đây là bạn hãy đừng bao giờ ngừng hi vọng, ngừng yêu thương, ngừng cố gắng bởi hôm qua chỉ là quá khứ, ngày mai là một điều bí mật, còn ngày hôm nay là một món quà. Và đó là lý do nó được gọi là “The Present” (hiện tại/món quà).
Trong cuộc đời của con người, mỗi ngày đều có thể là một sự bắt đầu mới mẻ còn những vinh quang và tủi nhục của ngày hôm qua đều chỉ là dĩ vãng. Những việc trong quá khứ nói cho người khác biết bạn đã từng là người như thế nào, nhưng chính những việc làm ở hiện tại và tương lai mới nói lên bạn là ai.
Thế nên: Đừng bao giờ hạ thấp giá trị của mình bằng cách so sánh với người khác. Đừng bao giờ đặt mục tiêu của mình dựa vào những gì mà người khác cho là quan trọng. Chỉ bạn mới biết được những gì tốt nhất đối với chính mình. Đừng bao giờ để cuộc sống vuột khỏi tầm tay bằng cách sống khép mình vào trong quá khứ, hay uốn mình vào trong tương lai. Hãy sống cho hiện tại, lúc này và ở đây. Hãy hướng về phía mặt trời và bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy bóng tối. Và cuối cùng, hãy nhớ rằng, dù người khác có nói với bạn điều gì đi nữa, hãy tin rằng cuộc sống này là kỳ diệu và đẹp đẽ.
Bài sưu tầm – Ảnh ST.minh họa.
Liệu người Công Giáo có nên sử dụng trí tuệ nhân tạo để tái tạo lại những người thân yêu đã khuất?- Đặng Tự Do
Các chuyên gia đưa ra ý kiến.
Đặng Tự Do – 27/Dec/2025

Các ứng dụng hứa hẹn giúp tái tạo phiên bản kỹ thuật số của các thành viên gia đình đã khuất bằng trí tuệ nhân tạo tiềm ẩn “mối nguy hiểm về mặt tâm linh” đối với người Công Giáo và những người khác có thể sử dụng công nghệ này thay cho quá trình thương tiếc lành mạnh, các chuyên gia cho biết.
Công ty trí tuệ nhân tạo 2wai đã gây ra tranh cãi trên mạng xã hội vào tháng 11 sau khi tiết lộ ứng dụng cùng tên, cho phép người dùng tạo ra các phiên bản kỹ thuật số của người thân yêu bằng cách sử dụng video và âm thanh.
Calum Worthy, đồng sáng lập ứng dụng, cho biết trong một bài đăng lan truyền trên X rằng công nghệ này có thể cho phép “những người thân yêu mà chúng ta đã mất được là một phần trong tương lai của chúng ta”. Video đi kèm cho thấy một gia đình liên tục tương tác với hình chiếu kỹ thuật số của người mẹ và người bà đã khuất, ngay cả nhiều năm sau khi bà qua đời.
Việc ra mắt ứng dụng đã nhận được lời khen ngợi từ một số nhà bình luận công nghệ, mặc dù cũng có khá nhiều phản ứng tiêu cực. Nhiều nhà phê bình lên án nó là “ghê tởm”, “ma quỷ” và “đáng sợ”, trong khi những người khác dự đoán rằng ứng dụng này sẽ được sử dụng cho những mục đích rùng rợn như sử dụng người thân đã khuất để quảng cáo trên internet.
Công nghệ ‘có thể làm gián đoạn quá trình đau buồn’
Công ty 2wai không phản hồi yêu cầu bình luận về vụ tranh cãi, mặc dù Giám đốc điều hành Mason Geyser đã nói với tờ Independent rằng quảng cáo này được cố tình tạo ra để “gây tranh cãi” nhằm “khơi dậy cuộc tranh luận trực tuyến kiểu này”.
Bản thân Geyser cho biết ông coi ứng dụng này như một công cụ để sử dụng với con cái mình, giúp lưu giữ những kỷ niệm của các thế hệ trước, chứ không phải là phương tiện để thiết lập mối quan hệ với một hình đại diện AI. Ông nói: “Tôi xem nó… như một cách để truyền lại những kỷ niệm đẹp mà tôi đã có với ông bà mình”.
Liệu một ứng dụng như vậy có phù hợp với quan niệm về cái chết của Giáo Hội Công Giáo — và cả những chủ đề trừu tượng, khó hiểu hơn như nỗi đau buồn — hay không vẫn chưa rõ ràng. Cha Michael Baggot, LC, phó giáo sư đạo đức sinh học tại Học viện Giáo hoàng Regina Apostolorum, thừa nhận rằng các hình đại diện AI “có khả năng nhắc nhở chúng ta về một số khía cạnh của những người thân yêu và giúp chúng ta học hỏi từ tấm gương của họ.”
Nhưng những bản sao kỹ thuật số như vậy “không thể nắm bắt được sự phong phú trọn vẹn của con người hiện hữu”, ngài nói, và chúng có nguy cơ “làm sai lệch di sản của người đã khuất” bằng cách tạo ra những cuộc trò chuyện và tương tác nằm ngoài tầm kiểm soát của người đã khuất.
Các nhà lãnh đạo Công Giáo thường xuyên đề cập đến cả gánh nặng của nỗi đau buồn và sức mạnh cứu chuộc của nó. Năm 2020, Đức Giáo Hoàng Phanxicô thừa nhận rằng nỗi đau buồn là “một con đường cay đắng”, nhưng nó có thể “giúp chúng ta mở mắt ra nhìn cuộc sống và giá trị thiêng liêng, không thể thay thế của mỗi người”, đồng thời giúp ta nhận ra “thời gian ngắn ngủi biết bao”.
Trong khi đó, vào tháng 10, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã nói với một người cha đang đau buồn rằng những người thương tiếc cái chết của người thân yêu phải “luôn giữ kết nối với Chúa, vượt qua nỗi đau lớn nhất với sự trợ giúp của ân sủng Ngài”.
Ngài nói rằng, sự Phục Sinh “không hề có sự nản chí hay đau đớn nào giam cầm chúng ta trong khó khăn cùng cực của việc không tìm thấy ý nghĩa trong sự tồn tại của mình.”
Brett Robinson, phó giám đốc Viện McGrath về Đời sống Giáo hội tại Đại học Notre Dame, cảnh báo rằng có “nguy hiểm về mặt tâm linh” trong công nghệ thoạt nhìn có vẻ như có thể hồi sinh những người thân yêu đã khuất.
Ông nói rằng công nghệ không phải là một sản phẩm trung lập, mà là một sản phẩm “có khả năng sâu sắc định hình nhận thức của chúng ta về thực tại, bất kể nội dung được hiển thị là gì”.
“Trong trường hợp tái hiện hình ảnh những người thân yêu đã khuất, chúng ta gặp một trường hợp mà các quan niệm trước đây về danh tính, sức sống và sự hiện diện đang được định hình lại theo hướng công nghệ,” ông nói.
“Nếu một người không còn tồn tại dưới hình dạng con người, cả thể xác lẫn linh hồn, có thể được ‘hồi sinh’ từ kho lưu trữ dấu vết kỹ thuật số về cuộc đời họ, thì thực chất chúng ta đang tương tác với ai hoặc với cái gì?” ông nói.
Robinson lập luận rằng các phương thức công nghệ hiện tại có những điểm tương đồng với các thế kỷ trước “khi vũ trụ tràn ngập sự hiện diện — sự hiện diện của Chúa, của các thiên thần, của ma quỷ và của phép thuật.”
Ông nói, vấn đề ở đây là “phép màu mới” của công nghệ hiện đại “đã tách rời khỏi vũ trụ có trật tự, phân cấp của tạo hóa và cõi tâm linh.”
Donna MacLeod đã làm việc trong lĩnh vực hỗ trợ người đau buồn trong nhiều thập niên. Bà bắt đầu tham gia tư vấn hỗ trợ người đau buồn theo tinh thần Công Giáo sau cái chết của con gái út vào năm 1988. Công việc hỗ trợ tang lễ đã phát triển thành Seasons of Hope, một chương trình hỗ trợ người đau buồn dành cho người Công Giáo, “tập trung vào khía cạnh tâm linh của việc thương tiếc người thân yêu đã khuất”.
MacLeod cho biết chương trình này là một chương trình về “lòng hiếu khách và tâm linh” nảy sinh trong một cộng đồng gắn kết chặt chẽ gồm những cá nhân đang trải qua nỗi đau mất mát.
“Nó giúp xây dựng cộng đồng giáo xứ,” bà nói. “Mọi người nhận ra rằng họ không đơn độc. Điều đó rất quan trọng đối với những người đang đau buồn — rất nhiều người cảm thấy rất cô đơn trong nỗi mất mát của mình.”
“Và xã hội mong đợi mọi người đều phải vượt qua,” cô tiếp tục. “Nhưng nỗi đau buồn có thời gian biểu riêng của nó. Những người đang đau buồn bắt đầu hiểu rằng Chúa ở bên họ và Ngài thực sự quan tâm đến họ. Sẽ có hy vọng và sự chữa lành ở cuối giai đoạn này.”
“Đó là làm những gì Chúa Kitô yêu cầu chúng ta làm – cùng nhau bước đi trong những lúc khó khăn,” bà nói.
Liên quan đến công nghệ avatar AI, MacLeod thừa nhận rằng những người đã mất người thân yêu coi việc “tìm kiếm sự kết nối” với người đã khuất là “ưu tiên hàng đầu”.
“Mọi người sẽ nói, ‘Tôi sẽ không xóa giọng nói của người thân yêu khỏi máy trả lời tự động của mình,’” bà nói. “Hoặc chúng tôi có những người xóa video ghi lại các buổi họp mặt gia đình để họ có thể nhìn thấy người thân yêu của mình một lần nữa.”
“Ai cũng muốn được giữ liên lạc với những người thân yêu của mình,” bà nói. “Điều này liên quan đến đức tin Công Giáo và sự hiệp thông của các thánh – mọi người cảm nhận được sự kết nối tâm linh này với những người thân yêu của họ.”
MacLeod tự nhận mình đang “phân vân” về việc các ứng dụng avatar AI có thể ảnh hưởng đến mọi người như thế nào. Bà thừa nhận có thể có “những rủi ro về mặt cảm xúc và tâm lý khi tương tác với các phiên bản AI của những người thân yêu”, mặc dù bà cho rằng nhiều người dùng “có thể xem qua, nhưng không quá bận tâm đến nó”, trừ khi họ có các vấn đề sức khỏe tâm thần tiềm ẩn.
Nhưng “khó khăn nằm ở chỗ một số người bị mắc kẹt trong giai đoạn phủ nhận”, bà nói. Những người đang đau buồn có thể trở nên tuyệt vọng trong hoàn cảnh như vậy, bà cho biết, và đôi khi phải nhờ đến những phương tiện như thầy bói hay nhà ngoại cảm, điều mà bà MacLeod nhấn mạnh rằng Giáo hội đã cấm rõ ràng.
Liệu các avatar AI có thuộc vào loại bị cấm đó hay không vẫn chưa rõ ràng. Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nghiêm cấm mọi nỗ lực “triệu hồi người chết”. Giáo hội cho rằng việc sử dụng các nhà ngoại cảm hoặc người có khả năng nhìn thấu tương lai “đều che giấu khát vọng quyền lực đối với thời gian, lịch sử và, xét cho cùng, đối với những người khác”.
Cha Baggot cho rằng các ứng dụng như của 2wai “thu thập dữ liệu về người đã khuất mà không bảo quản thi thể người đó”.
Ngài còn lập luận thêm rằng các avatar AI “cũng có thể làm gián đoạn quá trình thương tiếc bằng cách gửi những tín hiệu mơ hồ về việc người đã khuất còn sống hay không.”
Trong khi đó, Robinson thừa nhận rằng “việc muốn kết nối với những người thân yêu đã khuất là điều tốt”, và ông chỉ ra rằng chúng ta làm điều đó “một cách trang trọng thông qua lời cầu nguyện và các buổi tưởng niệm để tôn vinh những linh hồn thân yêu của chúng ta”.
Đức Giáo Hoàng Leo XIV và cuộc chiến với Trump – Trúc Phương/Người Việt
December 27, 2025
Trúc Phương/Người Việt
Kể từ khi Đức Giáo Hoàng Leo XIV – vị giáo hoàng đầu tiên sinh ra tại Mỹ – lên ngôi vào Tháng Năm, 2025, mối quan hệ giữa Tòa Thánh Vatican và Tòa Bạch Ốc dưới thời Tổng Thống Donald Trump bắt đầu bước vào giai đoạn căng thẳng.
Đức Giáo Hoàng Leo XIV vẫy tay chào các tín hữu khi ngài đến trên xe trước khi đọc thông điệp và ban phép lành Urbi et Orbi cho thành phố và toàn thế giới, trong khuôn khổ lễ Giáng Sinh, tại Quảng Trường Thánh Phêrô ở Vatican hôm 25 Tháng Mười Hai, 2025. (Hình minh họa: Tiziana FABI / AFP via Getty Images)
Khi Vatican không thể không lên tiếng
Xuất thân từ Chicago và với kinh nghiệm mục vụ dài năm tại Mỹ Latin, Đức Giáo Hoàng Leo XIV liên tục chỉ trích chính sách nhập cư cứng rắn, kế hoạch can thiệp quân sự vào Venezuela cũng như một số khía cạnh ngoại giao của chính quyền Trump. Những phát ngôn thẳng thắn của Ngài không chỉ phản ánh lập trường truyền thống của Giáo Hội Công Giáo về phẩm giá con người mà còn đánh dấu sự chuyển hướng mạnh mẽ hơn trong cách Giáo Hội Mỹ đối phó với chính quyền hiện tại.
Mới đây, ngày 18 Tháng Mười Hai, Đức Giáo Hoàng Leo XIV bổ nhiệm Giám Mục Ronald Hicks, 58 tuổi, làm tổng giám mục mới của Tổng Giáo Phận New York – một trong những giáo phận quan trọng nhất nước Mỹ, nơi được xem là “thủ đô của các tổng giám mục trên thế giới.” (“Archbishop Capital of the World”).
Đây được xem là động thái mang tính biểu tượng cao, thể hiện đường lối quyết liệt hơn của tòa thánh trong vấn đề nhập cư. Giám Mục Hicks, gốc Chicago như chính Đức Giáo Hoàng Leo XIV, từng có nhiều năm làm việc tại El Salvador và Mexico, nổi tiếng với những cuộc vận động giúp người nghèo và tận tình hỗ trợ trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi. Kinh nghiệm cá nhân với người di cư từ Mỹ Latinh khiến Giám Mục Ronald Hicks trở thành biểu tượng cho cộng đồng Công Giáo Hispanic ngày càng lớn mạnh tại Mỹ.
Việc bổ nhiệm Giám Mục Ronald Hicks diễn ra đúng vào thời điểm chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch trục xuất hàng loạt và kiểm soát biên giới nghiêm ngặt. Tân Tổng giám mục Hicks sẽ thay thế Hồng Y Timothy Dolan – tròn 75 tuổi và vừa từ chức theo quy định giáo luật.
Nổi tiếng giao tiếp khéo léo và có mối quan hệ thân thiện với Tổng Thống Trump, Hồng Y Dolan từng chủ trì buổi cầu nguyện tại hai lần nhậm chức của ông Trump (2017 và 2025). Dưới thời Hồng Y Dolan, Giáo Hội Mỹ gần như luôn né tránh đối đầu trực tiếp các chính sách nhập cư của ông Trump. Gần đây, Hồng Y Dolan bị chỉ trích dữ dội khi so sánh Charlie Kirk, nhà hoạt động chính trị bảo thủ bị ám sát vào Tháng Chín, với Thánh Phaolô! (“Pope Leo appoints pro-migrant archbishop of New York, signaling Church’s more robust approach to Trump”/CNN).
Ngược lại, Giám Mục Hicks được đánh giá là người luôn biết lắng nghe, xây dựng cầu nối xã hội và không mang “tinh thần chiến tranh văn hóa.” Nhà bình luận Công Giáo Michael Sean Winters nhận định tân tổng giám mục New York sẽ “tuân theo đường hướng của Đức Giáo Hoàng Leo XIV,” với trọng tâm bảo vệ người nghèo, người di cư và công bằng xã hội – những giá trị cốt lõi trong giáo huấn Công Giáo. Việc bổ nhiệm trên nhận được sự ủng hộ từ Hồng Y Blase Cupich của Chicago, người thân cận với Đức Giáo Hoàng Leo XIV và giữ vai trò quan trọng tại Văn Phòng Giám Mục Vatican.
Chỉ vài tuần trước khi công bố việc bổ nhiệm Giám Mục Hicks, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ (United States Conference of Catholic Bishops – USCCB) đã phát đi thông điệp đặc biệt, trong một động thái hiếm thấy, lên án “việc trục xuất hàng loạt một cách không phân biệt” và “dùng ngôn từ hạ thấp nhân phẩm” nhằm vào người nhập cư của chính quyền Trump.
Với 216 phiếu thuận, năm phiếu chống và ba phiếu trắng, ngày 12 Tháng Mười Một, USCCB ra tuyên bố: “Chúng tôi hết sức lo ngại khi thấy trong cộng đồng chúng ta đang lan rộng bầu không khí sợ hãi và bất an xung quanh việc lập hồ sơ (người nhập cư) và thực thi luật di trú. Chúng tôi cũng vô cùng đau buồn trước thực trạng tranh luận hiện nay và việc bôi nhọ, quỷ hóa người di dân” (“A Christian Answer to Trump and Trumpism Is Finally Here/The New York Times”).
Đức Giáo Hoàng Leo XIV trực tiếp dẫn dắt làn sóng chỉ trích này. Trong các phát biểu gần đây, Ngài gọi việc đối xử người di cư tại Mỹ là “vô nhân đạo” và nhấn mạnh rằng những kẻ tự xưng “ủng hộ sự sống” nhưng cổ xúy “việc đối xử vô nhân đạo với người di cư” thì khó có thể được coi là “pro-life.”
Ngày 4 Tháng Mười Một, khi một số nhà báo nêu tình trạng đối xử tồi tệ nhằm vào những người bị nhốt tại một trại giam ICE ở Broadview, Illinois; và việc chính quyền từ chối một phái đoàn, trong đó có một giám mục Công Giáo, vào trại giam để làm lễ dâng Mình Thánh Chúa cho tù nhân, Đức Giáo Hoàng Leo XIV trả lời, bằng cách viện dẫn Kinh Thánh, rằng vào ngày tận thế, “chúng ta sẽ được hỏi, bạn đã đối xử với người ngoại quốc như thế nào?” (Đức Giáo Hoàng Leo XIV ám chỉ lời trong Ma-thi-ơ 25:35: “Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước.”).
Với người Công Giáo, việc giúp người nghèo và người bị thiệt thòi nói chung luôn là nền tảng của đức tin. Theo một thống kê, có đến hơn 2,000 đoạn Kinh Thánh quy định hoặc ủng hộ việc phục vụ người nghèo và tận hiến cho công lý. Tiếng nói chỉ trích của các giám mục về chính sách tàn bạo nhằm vào người nhập cư đang tạo sức ảnh hưởng mạnh. Khắp nơi, từ New Jersey đến California, các linh mục và mục sư dẫn đầu những cuộc biểu tình, tẩy chay lực lượng ICE và đưa ra các sáng kiến chống lại hành động tàn bạo của ICE (“Who can tame Trump? An unlikely candidate is emerging: the Catholic church”/The Guardian).
Tòa Bạch Ốc vs. Vatican
Không dừng lại ở vấn đề nhập cư, Đức Giáo Hoàng Leo XIV còn lên tiếng mạnh mẽ về chính sách đối ngoại của Trump. Ngài kêu gọi Trump không sử dụng vũ lực để lật đổ Tổng Thống Nicolás Maduro của Venezuela. “Với bạo lực, chúng ta sẽ không thắng,” Ngài nhấn mạnh. Đức giáo hoàng lo rằng việc Mỹ tăng cường hiện diện quân sự tại Caribe, thực hiện 21 cuộc tấn công vào những con tàu tình nghi vận chuyển ma túy (khiến ít nhất 83 người thiệt mạng), cùng lời đe dọa trực tiếp nhắm vào Nicolás Maduro chỉ làm tình hình thêm căng thẳng, và cuối cùng người dân Venezuela là những kẻ chịu khổ.
Về Ukraine, Đức Giáo Hoàng Leo XIV cảnh báo kế hoạch hòa bình của ông Trump – vốn nhượng bộ Nga và gần như loại bỏ sự can dự Châu Âu – đang đe dọa phá vỡ liên minh truyền thống xuyên Đại Tây Dương. “Không thể tìm kiếm thỏa thuận hòa bình mà không có Châu Âu,” Đức Giáo Hoàng Leo XIV khẳng định sau cuộc gặp Tổng Thống Volodymyr Zelensky của Ukraine. Ngài cũng chỉ trích những phát ngôn của ông Trump khi gọi lãnh đạo Châu Âu là “yếu kém” và nói châu lục này đang “suy tàn.”
Tòa Bạch Ốc dĩ nhiên phản ứng gay gắt. Thư Ký Báo Chí Karoline Leavitt bác bỏ cáo buộc việc “đối xử vô nhân đạo” với người nhập cư và đổ lỗi cho chính sách thời Biden. Phần mình, ông Trump tỏ ra “ngạc nhiên” trước các chỉ trích từ đức giáo hoàng, nói mình “chẳng nghe ông ấy nói gì cả,” và nhắc rằng anh trai của đức giáo hoàng – ông Louis Prevost – là người ủng hộ MAGA nhiệt tình (“White House pushes back on Pope Leo’s statement that immigrants are subject to ‘inhuman treatment’ in the US”/Politico).
Sự đối đầu giữa Vatican và Tòa Bạch Ốc không phải mới. Ngày 18 Tháng Hai, 2016, (cố) Đức Giáo Hoàng Phanxicô (người Argentina) từng nói: “Kẻ nào chỉ nghĩ đến việc xây những bức tường, bất kể ở đâu, chứ không phải xây những cây cầu, thì kẻ ấy không phải là người theo đạo Cơ Đốc. Điều này không có trong Phúc Âm.”
Giờ đây, với Đức Giáo Hoàng Leo XIV – một người Mỹ – cuộc xung đột mang tính nội tại hơn. Nhà bình luận Công Giáo Austen Ivereigh nhận xét Đức Giáo Hoàng Leo XIV đang “đặt ra một áp lực lớn lên chính quyền Mỹ, đặc biệt với những người Công Giáo trong nội các Trump như JD Vance hay Marco Rubio.” Trong khi đó, chuyên gia Anna Rowlands từ đại học Durham University (Anh) bình luận rằng kinh nghiệm “làm người di cư” của chính đức giáo hoàng tại Peru đã định hình lập trường của Ngài, đặc biệt việc bảo vệ quyền được đoàn tụ gia đình cũng như nhu cầu tinh thần của người bị giam giữ.
Phe bảo thủ gọi Đức Giáo Hoàng Leo XIV là “Giáo hoàng thức tỉnh” (woke pope). Cần nhắc lại, chủ nghĩa dân tộc Kitô giáo (Christian nationalism) xưa giờ vẫn đồng hành chặt chẽ với phong trào MAGA. Tuy nhiên, với tư cách là đức giáo hoàng người Mỹ đầu tiên, Đức Giáo Hoàng Leo XIV lợi thế mà không bất kỳ chính trị gia nào, kể cả Trump, có được. Đó là việc đánh động trực tiếp đến lương tâm hàng chục triệu người Mỹ mà không bị coi là “có sự can thiệp từ bên ngoài.” Cũng cần nhấn mạnh: ông Trump, 79 tuổi, chỉ “gọi gió hô mây” ba năm nữa; trong khi đó, Đức Giáo Hoàng Leo XIV 70 tuổi, từ nay đến khi về với nước Chúa, sẽ cai quản cộng đồng giáo dân 1.3 tỷ người trong đó có 20% dân số Mỹ.
Sức mạnh chính trị, trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, không là một tính chất vĩnh hằng. Chỉ có việc đặt phẩm giá con người làm trung tâm mới mang lại giá trị trường tồn. Chống lại bạo lực lẫn sự thiếu đạo đức, Đức Giáo Hoàng Leo XIV kêu gọi “công lý, đoàn kết và sự tôn kính thực sự với sự sống.” Từ Dinh Thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo cách Rome khoảng 25 km – nơi Ngài thường xuyên tiếp xúc báo chí, Đức Giáo Hoàng Leo XIV đưa ra một thông điệp có sức lay động, không chỉ với Washington mà cả toàn cầu: Phẩm giá con người không thể bị bóp nát bởi bàn tay chính trị thô lậu và không thể được biện minh bằng bất kỳ lý lẽ bất nhân nào. [dt]
GP Cần Thơ sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Thánh LM Trương Bửu Diệp năm 2026
December 21, 2025
CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Giáo Phận Cần Thơ, Việt Nam, sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp vào Thứ Năm, 2 Tháng Bảy, 2026, tại Trung Tâm Hành Hương Tắc Sậy, xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.
Hôm Thứ Sáu, 19 Tháng Mười Hai, Giám Mục Lê Tấn Lợi, giám mục Giáo Phận Cần Thơ, gởi ra thông cáo cho biết như vậy.
Tượng Linh Mục Trương Bửu Diệp tại văn phòng Truong Buu Diep Foundation, Garden Grove. (Hình minh họa: Facebook Truong Buu Diep Foundation)
“Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, Tòa Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ hân hoan loan báo một niềm vui trọng đại của giáo phận và của giáo hội tại Việt Nam: Tòa Thánh đã chính thức chấp thuận việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước cho Tôi Tớ Chúa – Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, do đặc sứ của Đức Thánh Cha Leo XIV là Đức Hồng Y Luis Antonio G. Tagle, quyền bộ trưởng Bộ Loan Báo Tin Mừng, chủ sự,” thông cáo cho biết.
Giám Mục Lê Tấn Lợi cho biết thêm: “Đây là hồng ân đặc biệt Chúa ban cho giáo phận chúng ta, đồng thời là niềm khích lệ lớn lao cho mọi thành phần dân Chúa noi gương Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trung thành sống đức tin, nồng nàn yêu mến Chúa và tận tâm hy sinh phục vụ tha nhân.”
“Xin toàn thể cộng đoàn dân Chúa hiệp thông trong lời tạ ơn Thiên Chúa, đồng thời sốt sắng cầu nguyện cho công việc chuẩn bị và tổ chức Thánh lễ Phong Chân Phước được diễn ra tốt đẹp và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng,” vị giám mục chánh tòa Cần Thơ thêm.
Giám mục kêu gọi: “Tôi tha thiết kêu gọi quý linh mục, tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân, trong khả năng và trách nhiệm của mình, nhiệt tình cộng tác và chung tay góp phần để việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Phanxicô Trương Bửu Diệp được sốt sắng, chu đáo và tràn đầy ý nghĩa đức tin.”
Được biết đây là lần đầu tiên có một Thánh Lễ Phong Chân Phước được cử hành tại Việt Nam.
Thông cáo của Giám Mục Lê Tấn Tới nói về việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Hình: Giáo Phận Cần Thơ)
Tiểu sử Linh Mục Trương Bửu Diệp
Theo Vatican News, Linh Mục Trương Bửu Diệp sinh ngày 1 Tháng Giêng, 1897, tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Đức, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Thân phụ của linh mục là ông Trương Văn Đặng và thân mẫu là bà Lê Thị Thanh. Năm 1904, sau khi mẹ qua đời, vị linh mục tương lai theo cha sang tỉnh Battambang, Cambodia, sinh sống.
Năm 1909, linh mục vào Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng, sau đó, tiếp tục tu học tại Đại Chủng Viện Phnom Penh, Cambodia, và được thụ phong linh mục tại thủ đô nước này năm 1924.
Từ năm 1924 đến năm 1927, linh mục được bổ nhiệm làm phó xứ Hố Trư, một họ đạo của người Việt Nam sinh sống tại tỉnh Kandal, Cambodia. Từ năm 1927 đến năm 1929, Linh Mục Trương Bửu Diệp về làm giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng.
Từ năm 1930, linh mục được bổ nhiệm làm chánh xứ họ đạo Tắc Sậy, tỉnh Bạc Liêu, nay thuộc xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.
Suốt 16 năm thi hành sứ vụ, linh mục tận tụy chăm sóc đoàn chiên, đặc biệt yêu thương người nghèo, không phân biệt lương giáo. Giữa thời loạn lạc chiến tranh, dù được khuyên lánh nạn, linh mục vẫn kiên quyết ở lại với giáo dân, khi nói: “Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên.”
Ngày 12 Tháng Ba, 1946, Linh Mục Trương Bửu Diệp bị Nhật bắt cùng với hơn 70 giáo dân họ Tắc Sậy. Linh mục đứng ra tranh đấu cho dân, đồng thời an ủi những người cùng bị giam. Sau lần thứ ba bị mời đi làm việc, linh mục không trở về. Sau đó vài ngày, giáo dân tìm thấy xác linh mục tại một cái ao, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.
Thi hài linh mục được vớt lên và chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo, Bạc Liêu, đến năm 1969 thì được di dời về an táng tại Tắc Sậy, nơi ngày nay trở thành điểm hành hương của đông đảo tín hữu kính nhớ một vị mục tử đã sống và chết vì đoàn chiên.
Sau khi linh mục qua đời, rất nhiều tín hữu bắt đầu đến kính viếng mộ linh mục, xin linh mục chuyển cầu và nhận được nhiều phép lạ.
Nhà thờ Tắc Sậy ở xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau. (Hình: Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam)
Án phong Chân Phước
Năm 2013, Giám Mục Tri Bửu Thiên, giám mục Giáo Phận Cần Thơ, mở án điều tra cấp giáo phận, thu thập chứng cứ, lời chứng, và các phép lạ. Hồ sơ được hoàn tất vào năm 2017 và được gửi sang Vatican. Năm 2019, Bộ Tuyên Thánh kết luận điều tra có giá trị để khởi sự án phong Chân Phước.
Ngày 25 Tháng Mười Một, 2024, trong cuộc tiếp kiến dành cho Hồng Y Marcello Semeraro, bộ trưởng Bộ Phong Thánh, Đức Giáo Hoàng Francis cho phép bộ ban hành sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của Linh Mục Trương Bửu Diệp (bị giết vì sự căm thù đức tin).
Trong thư đề ngày 3 Tháng Mười Hai, gởi đến Linh Mục Cleber Willian Lopes Pombal, thuộc Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ, Tổng Giám Mục Edgar Pena Parra, phụ tá quốc vụ khanh Tòa Thánh Vatican, cho biết, theo ý định của Đức Giáo Hoàng Leo XIV, nghi thức tuyên phong Chân Phước cho Đấng Đáng Kính Tôi Tớ Chúa Phanxicô Trương Bửu Diệp sẽ được cử hành vào vào Tháng Bảy, 2026, như đã nêu ở trên.
Nhà thờ Tắc Sậy
Theo trang web vietnamtourist.com, nhà thờ Tắc Sậy, hay còn biết đến là nhà thờ Cha Diệp, được xem là một trong những nhà thờ Công Giáo đẹp nhất miền Tây sông nước. Đây cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của Linh Mục Trương Bửu Diệp.
Nhà thờ được xây dựng năm 1925 và Linh Mục Trần Minh Kính là chánh xứ đầu tiên, từ Tháng Tám, 1926. Năm 1930, Linh Mục Trương Bửu Diệp là chánh xứ.
Tên Tắc Sậy xuất phát từ đặc điểm địa hình vùng này, có nhiều lau sậy, muốn đi vào nhà thờ phải đi qua một con đường tắt. Do người Nam biến âm “tắt” thành “tắc,” cho nên có tên Tắc Sậy.
Ngày nay, nhà thờ là một trong những điểm hành hương nổi tiếng nhất Việt Nam, thu hút nhiều du khách và giáo dân đến chiêm ngưỡng, dâng lễ, cầu nguyện, và khấn vái,…nhất là trong dịp Tết, những ngày lễ lớn của người Công Giáo, và ngày giỗ Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Đ.D.)
NGHĨ KHÁC ĐI ĐỂ HẠNH PHÚC
– Khi chán nản, hãy nghĩ xem mình còn lại bao nhiêu ngày để dằn vặt, còn bao nhiêu thời gian để phung phí? Bạn vui, một ngày cũng qua đi, bạn buồn một ngày cũng kết thúc. Nếu nhận ra điều này hẳn sẽ không dễ dãi để cuộc sống mình âm u nữa.
– Khi phiền muộn, hãy nghĩ xem thật ra cuộc sống là những phép trừ, gặp nhau một lần là ít đi một lần, sống hết một ngày là giảm đi một ngày, có gì đáng để phí hoài? Không quên tình nghĩa, không nghĩ thị phi, không chấp oan trái, không nợ nần ai, không thẹn với lương tâm là được.
– Khi thấy bi thương, hãy xem cuộc sống là một hành trình, chúng ta đến đây hai tay trắng thì rời đi cũng sẽ như vậy, không thể mang theo dù chỉ là hạt bụi hay một áng mây bay. Những công danh lợi lộc, những thế thái nhân tình, đều phải để lại. Hiểu rõ điều này rồi thì có gì phải bận tâm mà phiền lòng?
– Khi không được như ý, hãy so sánh với sự bận rộn của những người giàu có, chúng ta sống biết đủ chính là niềm hạnh phúc. Rồi nhìn qua những người đang đau khổ trong bệnh viện, chúng ta vẫn mạnh khỏe chính là niềm hạnh phúc. Và hãy xem trên thế giới một giây có bao nhiêu người phải rời đi, chúng ta vẫn còn sống chính là niềm hạnh phúc… Con người muốn có một đời sống khỏe thì tâm phải đơn giản, thân phải nhẹ nhàng.
– Khi nổi giận, hãy nghĩ xem có nên vì những kẻ không đáng mà ấm ức? Có cần vì những việc không quan trọng mà bực mình? Ăn uống đúng cách, làm việc điều độ, vận động vừa đủ, nghỉ ngơi hợp lí, khoản nào tiết kiệm thì tiết kiệm, phần nào nên tiêu thì chi ra. Bạn tốt thì gia đình và người thân mới tốt, mọi người đều sẽ tốt.
– Khi tính toán, hãy nghĩ xem con người đi một vòng trong thế gian đều trở về điểm 0, sao phải chi li so bì, không biết nhường nhịn? Nói nhiều thì tổn thương người, tính nhiều thì tổn thần khí, chi bằng đừng so đo nữa, làm một người vui vẻ dễ chịu, không thẹn với lòng!
Làm người, còn sống được là tốt.
Có cơm để ăn, có nước để uống, có áo để mặc, có giường để ngủ, có núi để leo, có sách để đọc, có việc làm ổn định đó chính là hạnh phúc.
Bài và ảnh sưu tầm.
Mỹ tấn công tổ chức Nhà nước Hồi giáo tại Nigeria đúng vào ngày Giáng Sinh – RFI
RFI
Cuộc tấn công của Mỹ nhắm vào các lực lượng thuộc tổ chức Nhà nước Hồi giáo (Daech / IS) tại Nigeria đã diễn ra đúng vào ngày Giáng Sinh, 25/12/2025. Trên mạng Truth Social, tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố : « Chúc mừng Giáng Sinh với mọi người, kể cả với những phần tử khủng bố đã chết ». Ông đe dọa « sẽ có thêm nhiều kẻ khủng bố khác bị tiêu diệt nếu việc thảm sát tín đồ Thiên Chúa Giáo tiếp diễn ».
Đăng ngày: 26/12/2025
Tại một sạp báo ở Lagos, Nigeria, ngày 26/12/2025: Trang nhất của các báo đưa tin về những cuộc không kích của Mỹ nhắm vào các phần tử Nhà nước Hồi giáo tại Nigeria. REUTERS – Sodiq Adelakun
Theo AFP, Nigeria đã xác nhận các vụ tấn công của Mỹ, đồng thời « cam kết hợp tác » với các đối tác quốc tế trong đó có Mỹ, nhằm chống lại mối đe dọa khủng bố và bạo lực cực đoan, nhưng bác bỏ thông tin về làn sóng thảm sát nhắm vào người Thiên Chúa Giáo.
Thông tín viên Loubna Anaki tường trình từ New York :
« Tôi đã cảnh báo những phần tử khủng bố này, nếu họ không ngừng thảm sát tín đồ Thiên Chúa Giáo, họ sẽ phải trả giá đắt. Và tối nay họ đã phải trả giá ». Với những lời lẽ như trên, tổng thống Mỹ thông báo Washington đã tiến hành nhiều cuộc không kích tại Nigieria. Nhiều cuộc oanh kích nhắm vào các vị trí của lực lượng Nhà nước Hồi giáo tại bang Sotoko ở miền bắc.
Theo lời tư lệnh lực lượng Mỹ tại châu Phi, cuộc can thiệp quân sự này được tiến hành theo đề nghị của chính quyền Nigeria, và « nhiều phần tử khủng bố đã bị tiêu diệt ». Đây là lần đầu tiên Mỹ tiến hành một cuộc can thiệp quân sự như vậy tại Nigeria trong bối cảnh từ nhiều tuần lễ nay, Donald Trump khẳng định tại Nigeria đã diễn ra « làn sóng thảm sát » nhắm vào tín đồ Thiên Chúa Giáo.
Tuyên bố của ông Trump bị chính quyền địa phương bác bỏ. Tuy nhiên điều này không khiến chủ nhân Nhà Trắng ngừng đe dọa tiến hành can thiệp vũ trang. Bộ trưởng Chiến Tranh Pete Hegseth đã hoan nghênh chiến dịch quân sự đêm qua và cảnh báo có thể sẽ có các chiến dịch khác.
Hơn một nửa trong tổng số 180 triệu dân của Nigeria theo đạo Hồi, chiếm đa số khu vực phía bắc. Phía nam, đa số dân Nigeria theo Thiên Chúa Giáo. Theo AFP, chính quyền Nigeria và giới nghiên cứu độc lập không thừa nhận nạn truy bức tôn giáo tại quốc gia này, một cáo buộc thường xuyên được nêu ra bởi phe chủ trương ly khai tại Nigeria, vốn có nhiều ảnh hưởng tại Washington.
LÒNG THAM VÔ ĐÁY NHƯNG CHỈ CẦN NHỮNG MẨU BÁNH VỤN VẶT
Luân Lê
Mỗi chúng ta ai cũng có nhu cầu để được sống tốt đẹp và thịnh vượng hơn, nhưng không đồng nghĩa với việc gắng sao cho thoả lòng tham của mình đối với những giá trị của người khác và để làm những điều bất chính. Lòng tham là con đường nhanh nhất dẫn đến tai hoạ và những thảm kịch.
Mới nghe thì có vẻ như đã thấy nhận định này của tôi hàm chứa trong đó đầy những mâu thuẫn và sẽ có nhiều người muốn mắng tôi ngay khi đọc những câu này. Thế nhưng xin nhẫn nại thêm một chút và chúng ta cùng nhau mổ xẻ điều tôi vừa nói.
Chẳng phải gì to tát đâu xa, tôi nói ngay đến việc người ta hành xử với nhau tàn ác còn hơn cả loài cầm thú mà chúng sẵn sàng giết thịt nhau khi có loài nào đó tấn công cái tổ hoặc cướp đi miếng ăn của nó. Có phải gì hiếm hoi đâu, chuyện những người không may mà đi trộm chó, mèo, gà, trâu hay các tài sản khác của người dân ở những vùng quê, người ta phát hiện ra thì những tên trộm cắp kia chỉ có nước chết hoặc thương tật đầy mình. Dân làng xúm vào đánh đập, gậy gộc đủ cả, cứ thế mà nã vào đầu, phang vào chân, tay, mạng sườn kẻ cắp cho đến khi chết. Thế có phải là người ta quyết bảo vệ tài sản của mình đến cùng bằng những hành động vô nhân tính hay không.
Những hành vi ấy quả là man rợ không có đất nước văn minh nào làm thế như dân chúng ta. Thử hỏi luật pháp và chính phủ còn có giá trị gì nữa để mà duy trì và điều chỉnh hành vi con người. Nhìn vào đấy thì thấy rõ là người dân sẽ làm mọi cách kể cả là hung bạo và dãn man nhất để quyết bảo vệ cho được tài sản của mình, dù chẳng phải gì to tát. Hiện trạng này ở các vùng quê thì không thiếu. Vậy có phải là họ đang hành xử không cả bằng thời thực dân, phong kiến? Ngày xưa còn có công đường để kêu quan khi làng xóm mâu thuẫn, bắt được kẻ trộm, cướp thì đều lôi lên quan mà tâu bẩm và xét xử theo luật lệ. Chứ cũng không đến nỗi như bây giờ. Mà một dân tộc tàn ác với nhau như thế có khi nào đất nước văn minh và tốt hơn lên được? Mà nó chỉ làm cho con người ngày càng tàn bạo và coi thường luật pháp hơn thôi, như thế thì cái chính phủ kia cũng bị xem thường chứ đâu có giá trị gì để mà người dân cần đến. Quả là nguy cấp cho một đất nước mà con người sẵn sàng hung khí, hô hào một cách hung hãn để mà hành hạ đồng loại mình. Thật đau đớn và bại hoại hết chỗ nói.
Với chuyện con chó, con trâu đã kinh khủng như vậy. Vậy còn chuyện hôi của khi có người bị tai nạn trên đường, chuyện ngang nhiên nhặt tài sản của người khác mang về sử dụng. Đấy là hành vi khác gì trộm cướp và coi khinh luật pháp đâu. Thế thì quả là loạn lạc thực sự rồi chứ còn phải chờ đợi đến đao binh, bom đạn, chém giết gì mới cho là loạn lạc.
Với cái miếng ăn và tài sản của mình thì bảo vệ bằng được, nhưng sẵn của người khác hở ra là lấy cắp. Mà cũng bởi lối suy nghĩ này nên hầu như là ai cũng tính vào chính phủ để có quyền chức mà tìm cách đục khoét của công, làm giàu cho mình và gia đình. Cứ nhìn vào tệ trạng tham nhũng, sự suy thoái về con người, các cơ sở hạ tầng quốc gia thiếu thốn, sơ sài, yếu kém thì có thể thấy rõ nó là kết quả của việc vơ vét cho đầy túi tham của mình mà không để tâm gì đến việc chung của đất nước… tất cả đều xuất phát từ lòng tham vô đáy mà nên.
Thế nhưng đó chỉ là những cái vụn vặt và nhỏ mọn thôi, chỉ như những mẩu bánh có thể ăn được ngay tức khắc. Còn cái lớn hơn như chuyện chính sách kinh doanh làm ăn, chuyện đánh thuế tiêu dùng, chuyện chèn ép thương nhân, chuyện bị gây phiền hà trong công việc, chuyện bị cướp đoạt tài sản bằng cách tham nhũng ngân khố quốc gia với những con số khổng lồ, mà tất cả những cái đó rất thiết thực đánh vào túi tiền và chất lượng sống, vào điều kiện kinh doanh và cơ hội phát triển của người dân, thì dân chúng lại thờ ơ như chuyện riêng của nhà quan, chẳng màng gì cả, vì người ta không thấy nó bị thiệt hại gì như việc tên trộm, cướp lẻn vào nhà bắt trộm con chó hay dắt trộm trâu, bò của người ta đi mất. Nhận thức của người dân khiến tôi lo lắng tới những hậu họa khôn lường, vì nếu một lúc nào đó họ không thể lao động đủ để đóng thuế, sông hồ và không khí ô nhiễm, thực phẩm độc hại, bệnh viện thì tăng giá, giáo dục thì nâng học phí, lộ phí đi đường và xăng, dầu, điện, nước cứ leo thang. Thế thì họ định sống thế nào và làm gì để mà trả cho những thứ đó hay lại nhăm nhăm để cướp giật của người khác?
Mà cũng vì cái lòng tham vô đáy nhưng lại dễ thỏa mãn bằng những cái nhỏ nhặt này của người Việt mà các quốc gia khác lợi dụng điểm yếu đó để khai thác và bóc lột chúng ta từ tài nguyên thiên nhiên đến trí tuệ và sức người. Họ chỉ cần rót cho ít vốn vào làm ăn, đầu tư, hoặc cho vay với lãi suất thấp, chuyển giao công nghệ giá rẻ (mà có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, độc hại với con người, năng suất thấp, vận hành tốn kém và lại mau hỏng), cam kết vài điều khoản mà có vẻ như có lợi cho chính phủ, cho người dân bằng cách chia ít lợi nhuận hoặc chia sẻ quyền lợi kinh tế, thế là làm ráo, làm tuốt và làm nhanh cật lực. Bởi thế mà chúng ta cứ bị bóc lột sau khi đã bị dụ dỗ và mua chuộc bằng ít lợi ích cho thỏa cái lòng tham của mình. Đây chính là vấn đề lớn của dân tộc mà chúng ta phải nhận ra và thay đổi, nếu không thì chúng ta sẽ luôn bị mua chuộc và lợi dụng để cho người khác làm ăn mà thôi.
Quốc gia nào mà xây dựng bằng lòng tham, thì quốc gia đó sẽ sụp đổ bởi những mẩu bánh mỳ.
Bởi vậy tôi mới nói, đa phần người dân thì lòng tham vô đáy, nhưng chỉ cần những mẩu bánh vụn vặt để no cái bụng và ấm cái thân là đã đủ rồi, chẳng cần gì khác cả. Quốc gia lụn bại và suy vong cũng từ đây mà ra.
(Trích: MỘT NGƯỜI QUỐC DÂN)
Bài học về chánh trị mà ai cũng thuộc – Nguyễn Gia Việt
Nguyễn Gia Việt
Chúng ta không cần đọc tin “thuyết âm mưu” kiểu ai đi ai ở, ai giành ai nhường. Vì suy cho cùng ai cũng như ai thôi.
Làm chánh trị đại kị nhứt là biến mình thành kẻ thù của toàn dân. Với kiểu xốc xã hội lên mà không thấy lợi lộc gì, chỉ thấy mất mát hao tốn nhiều hơn.
Xài hình phạt tràn lan trong khi dân hoàn toàn vô sản. Ngày xưa Lão Tử từng nói, quản trị như chiên cá nhỏ, con cá nhỏ khi chiên chỉ trở một lần, cứ lấy đũa trở riết cá nát bét.
Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan. Đó là câu mở đầu của Tam Quốc Chí.
Không sợ, phải nhìn và bước qua khi bánh xe lịch sử xoay chuyển.
Lịch sử là của chung dân tộc, không phải của hương hoả dòng họ hay cá nhân, đảng phái nào mà muốn làm gì cũng đặng.
Lịch sử buồn nhưng lịch sử công bằng. Lịch sử đi qua và vẫn còn đâu đó. Không thể xóa nhòa hay che ép nó đặng. Tại vì lịch sử khúc đó làm người ta nhớ hoài.
Lịch sử có tánh lặp lại.
Vũ Tài Lục nói “Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chính trị”.
Không có chế độ chánh trị nào là “mãi mãi” dù là cai trị tàn bạo.
Nhìn lịch sử Đông Tây thấy rõ ràng hễ là chế độ chánh trị thì cũng có thời, tức là có lên có xuống, lên làm sau thì xuống như vậy.
Nghiệp quả.
Chúng ta thấy nhà Trần ở VN lợi dụng hôn nhân lên ngôi thì sau đó bị nhà Hồ cũng dùng hôn nhân mà lật.
Chu Nguyên Chương dùng khởi nghĩa nông dân lật Nguyên Mông lập ra Minh triều thì sau đó cũng bị một cuộc khởi nghĩa nông dân khác do Lý Tự Thành lật đổ.
Có những triều đại, thể chế hùng cường, sức ảnh hưởng của nó kinh khủng.
Bên Châu Âu chúng ta nhìn lại thời kỳ hưng thịnh của đế chế Công Giáo Vatican khi từ thần quyền lan qua tới pháp quyền, chánh trị, cai trị và rồi cũng có ngày chựng lại lui vào nhà thờ và trao trả quyền quyết định chánh trị lại cho mọi người dân.
Hay thời đế quốc Anh, khi nữ hòang Victoria còn tại vị mà, đất của Anh trên khắp thế giới đến nổi có câu truyền ”Mặt trời không bao giờ lặn trên đất của đế quốc Anh”, nhưng rồi sau đó các xứ đòi độc lập, Anh cũng cũng phải lui về phía sau, thời thế mà.
Ở Châu Á, sẽ lấy ví dụ quân Mông Cổ và nhà Nguyên Mông.
Có một thời người Mông Cổ-đế chế Mông Cổ đặt chân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ kéo dài từ thảo nguyên Mông Cổ xuống Trung Hoa, qua Nhựt Bổn, Triều Tiên, Đại Việt, Miến Điện, Java, sang Ba Tư. Từ vùng đất lạnh giá như Siberia cũng như vùng đất nóng bức Arabia, tới Đông Âu như: Moscou, Vladmir (Nga), Kiev (Ukraine), Varsovie, Cracovie (Ba Lan), Lienitz (Đông Đức), Budapest (Hungary), tiến đến sát thành Vienne (Áo), tiến tới sông Volga…
Quân Mông Cổ tới đâu cũng đốt phá, cướp bóc, giết người, hãm hiếp tàn bạo.
Năm 1271, Hốt Tất Liệt đã tuyên bố thành lập nhà Nguyên, triều đại Nguyên Mông cai trị nước Trung Hoa trong hai thế kỷ 13 và 14, cai trị Trung Hoa 97 năm (1271- 1368). Tuy nhiên sử gia Trung Hoa chỉ công nhận từ năm 1280 là năm nhà Tống không còn cầm quyền nữa đến năm 1368 là năm người Mông Cổ bị đuổi khỏi Trung Hoa, dài 88 năm, gồm 11 đời vua.
Trong 97 năm cai trị, Mông Nguyên đã tàn bạo với Trung Hoa với chánh sách không nhẹ tay.
Nguyên Mông thi hành chánh sách áp bức bóc lột phân chia giai cấp hết sức tàn nhẫn, phân loại như sau: Mông Cổ là số 1,tới là Hồi, Thổ, Tạng, Tây Hạ, Ba Tư …Dưới là Khiết Đan, Nữ Chân, cuối cùng bét nhứt là Hán mà Mông Cổ gọi là “Nam Nhân”.
Người Hán không được cầm võ khí, không được tụ tập đông người, không được tụ họp đi săn, hành lễ tôn giáo…Mông Cổ diệt 5 họ lớn của người Hán.
Người Mông Cổ được ưu tiên như khi bị tội giết người thì người Mông Cổ chỉ bị phạt bằng gậy và đưa lên biên giới phía Bắc xung vào quân đội, còn người Hán và các dân tộc khác bị xử tử.
Người Hán không được lấy người Mông Cổ làm vợ, nhưng Mông Cổ có quyền lấy thiếp người Hán. Người Hán ít được bổ vào cơ quan hành chánh.
Về thuế khóa, Mông Cổ được miễn, các dân tộc khác nộp 1/3, Hán tộc hay Nam nhân nộp toàn bộ. Ruộng đất của người Hán bị Mông Cổ chiếm đoạt gần hết ,người Hán chỉ làm nô tì, nông nô hạng bét.
Dận số Trung Hoa thời kỳ đầu nhà Nguyên Mông có 100 triệu người, sang cuối triều Nguyên chỉ còn 60 tới 80 triệu người.
Đến cuối nhà Nguyên dân Trung Hoa đói rả ruột. Đê điều không tu sửa nên bể nhiều trận dân chết cả vùng, dân chết đói thê thảm, dịch bịnh tràn lan. Tương truyền nhà Chu Nguyên Chương chỉ còn 3 hột lúa.
Cứ nghĩ những chánh sách giết-cướp-cai trị tàn bạo của Nguyên Mông là mãi mãi?
Không.
Sau những năm đó xuất hiện rất nhiều cuộc khởi nghĩa từ tôn giáo tới nông dân.
Chu Nguyên Chương (1328 – 1398) xuất thân từ gia đình bần nông,năm 17 tuổi, cha và anh đều bị chết vì bịnh dịch, Chu Nguyên Chương phải xuất gia làm sư, vì gặp năm đói, phải đi khất thực ở nhiều nơi .
Từ năm 1352 Chu Nguyên Chương tham gia Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) của Quách Tử Hưng tới tháng giêng năm 1368 Chu Nguyên Chương xưng đế, kể ra có 16 năm chinh chiến.
Khẩu hiệu “Đánh giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, cứu dân tộc Hán”.
Sau khi lên ngôi,trước tình cảnh kinh tế be bét, dân đói tràn lan, Chu Nguyên Chương phải thi hành nhiều chánh sách an dân thời hậu chiến.
Ông nhận thức được rằng: “Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cái cây mới trồng, không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng”.
Chúng ta không thể không nhắc tới sự tàn bạo của nhà Minh khi xâm lăng Đại Việt.
Năm 1407 thời Minh Thành Tổ Chu Đệ, nhà Minh tràn qua chiếm nước Việt thời Đại Ngu của họ Hồ. Sau đó thi hành chánh sách cực kỳ tàn bạo, đốt sách, phá chùa, phá hủy tận diệt nền văn hiến của Việt Nam, bắt hết những trí thức của chúng ta qua Tàu, con nít mà đẹp cũng bắt luôn.
Nhà Minh với Trương Phụ cai trị Việt Nam bằng máu, tàn sát đốt phá và hủy diệt.
Minh Thành Tổ từng nói rằng: “An Nam vốn cùng chữ viết và phong tục tập quán giống người Trung Hoa, lại đã từng là đất của Trung Hoa hơn một ngàn năm trước kia.”
Nhưng rồi chúng ta có Lê Lợi,có Nguyễn Trãi, có khởi nghĩa Lam Sơn..
Kể từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ cai trị Việt Nam và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, thì có 20 năm Minh đô hộ xứ Việt trong máu và máu.
Và từ năm 1416 khi Lê Lợi chánh thức khởi nghĩa, và năm 1428 khi ông lên ngôi lập ra nhà Hậu Lê, vị chi Lê Lợi có 12 năm chinh chiến.
Thịnh cực tất suy, dân ý thức sẽ làm chánh trị, một cuộc cách mạng.
Chánh trị mà, dân tộc đất nước trường tồn chứ “chế độ chánh trị”cũng có lúc lên có lúc cáo chung thôi, không có gì là mãi mãi hết.
Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhơn tài như lá màu thu.
– Nguyễn Gia Việt
Vươn mình, nhìn từ bài học Minh trị, Minh mạng
24/12/2025
Mai Phan Lợi
Dòng chảy lịch sử đôi khi đặt các dân tộc trước những ngã rẽ rất hẹp: Hoặc bước tới bằng một cú nhảy đau đớn, hoặc đứng lại để rồi bị cuốn trôi.
Nhìn vào hai cái tên tưởng như chỉ cách nhau một chữ “Minh” – Minh Trị và Minh Mạng – mới thấy sự khác biệt trong lựa chọn tư duy có thể quyết định số phận của cả một quốc gia.
Và từ những bài học ấy, câu chuyện “vươn mình” hôm nay hiện lên không còn là khẩu hiệu, mà là một đòi hỏi khắc nghiệt của thời đại.
Giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản dưới thời Minh Trị đã chấp nhận tự mổ xẻ chính mình. Thiên hoàng và tầng lớp lãnh đạo trẻ hiểu rằng nếu tiếp tục khép cửa trong chiếc áo giáp truyền thống, Nhật Bản sẽ trở thành miếng mồi của phương Tây.
Vì thế, họ dám làm những việc bị coi là “phản truyền thống”: Bãi bỏ chế độ phiên trấn, xóa đặc quyền của võ sĩ samurai, gửi sứ đoàn Iwakura sang châu Âu – Mỹ học cách tổ chức nhà nước, xây dựng quân đội, cải cách giáo dục.
Đó là một cuộc cách mạng từ trên xuống, quyết liệt và liên tục, chấp nhận trả giá để đổi lấy tương lai. Kết quả là chỉ sau vài thập niên, Nhật Bản bước ra khỏi thân phận một nước phong kiến để trở thành cường quốc công nghiệp.
Trong khi đó, ở Việt Nam cùng thời, triều Minh Mạng lại lựa chọn con đường ngược lại. Trước những biến động dữ dội của thế giới, triều đình ưu tiên sự ổn định nội tại, siết chặt tư tưởng, hạn chế giao thương, bế quan tỏa cảng và duy trì trật tự cũ.
Chân dung vua Minh Mạng (trái) được minh họa trong cuốn sách “Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin-China, exhibiting a view of the actual State of these Kingdoms của John Crawfurd (1783-1868), in ở London năm 1828. Ảnh phải: Thiên hoàng Minh Trị năm 1873. Nguồn: Wikimedia/ Tiếng Dân edit
Những quyết sách ấy xuất phát từ mong muốn bảo vệ nền nếp và quyền lực truyền thống, nhưng hệ quả là đất nước ngày càng lạc hậu, không đủ sức đề kháng khi làn sóng xâm lược của thực dân phương Tây ập đến.
Lịch sử đã ghi lại cái giá của sự chậm trễ ấy bằng cả một giai đoạn mất chủ quyền và đau thương kéo dài.
Đặt hai hình ảnh đó cạnh nhau, người ta dễ nhận ra một điểm chung đáng suy ngẫm: Trong những thời khắc sinh tử, cải cách không bao giờ là con đường bằng phẳng. Nó luôn vấp phải sự phản kháng – khi thì từ thói quen, khi thì từ lợi ích đã ăn sâu vào cấu trúc quyền lực.
Thời Minh Trị, tầng lớp samurai mất bổng lộc đã nổi dậy chống đối. Nhưng triều đình Nhật không “hạ nhiệt” cải cách để xoa dịu họ, mà kiên quyết đi tiếp.
Ngược lại, sự bảo thủ thời Minh Mạng lại được củng cố bởi chính những người hưởng lợi từ trật tự cũ, khiến triều đình càng khó thoát khỏi vòng tự trói mình.
Nhìn về hiện tại, câu chuyện “vươn mình” của Việt Nam cũng đang đứng trước thử thách tương tự. Khi cải cách được đặt ra với mục tiêu tinh gọn bộ máy, chống tham nhũng, thay đổi cách vận hành quyền lực và phân bổ nguồn lực, thì sự kháng cự là điều khó tránh.
Những tiếng nói muốn “giữ nguyên để an toàn”, muốn “lò nguội” để bảo toàn lợi ích, về bản chất không khác nhiều so với tư duy đóng cửa của quá khứ.
Lịch sử cho thấy, nếu cải cách bị ngắt quãng hoặc thỏa hiệp nửa vời, cái giá phải trả thường lớn hơn rất nhiều so với những xáo trộn ngắn hạn.
Điểm đáng chú ý trong phép so sánh Minh Trị – Minh Mạng không nằm ở việc thần thánh hóa cá nhân lãnh đạo, mà ở bài học về tính liên tục của cải cách.
Nhật Bản đã không thể “hóa rồng” nếu những chính sách duy tân chỉ kéo dài vài năm rồi bị đảo ngược.
Cũng vậy, bất kỳ nỗ lực thay đổi hệ thống nào ngày nay đều cần thời gian đủ dài để chính sách đi vào đời sống, để những hạt giống mới kịp nảy mầm và đơm hoa.
Sự gián đoạn, trong nhiều trường hợp, chính là món quà cho sự trì trệ.
Sau cùng, lịch sử luôn đặt lên vai người cầm lái một áp lực đạo đức nặng nề. Khi đất nước đứng trước cơ hội và thách thức đan xen, việc chọn cải cách hay né tránh không chỉ là quyết định chính trị, mà là lựa chọn mang tính trách nhiệm với các thế hệ tương lai.
Người Nhật thời Minh Trị đã cải cách trong nỗi lo bị nuốt chửng nếu chậm chân. Việt Nam hôm nay cải cách trong khát vọng không bị bỏ lại phía sau.
Hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cùng chung một lời nhắc: nếu không dám thay đổi khi còn có thể, lịch sử sẽ thay đổi thay chúng ta, theo cách khắc nghiệt hơn nhiều.
Vươn mình, vì thế, không phải là câu chuyện của những lời hô hào, mà là sự lựa chọn giữa Minh Trị và Minh Mạng – giữa dấn bước cải cách để sống, hay co mình giữ ổn định để rồi tụt lại.
Lịch sử đã trả lời một lần, và câu trả lời ấy vẫn còn nguyên giá trị cho hiện tại.










