Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia (ODNI): bệnh hội chứng Havana khó có nguyên do từ kẻ thù địch ở nước ngoài.

Thời Báo Nữu Ước NYTimes và các báo Hoa Kỳ khác

Những căn bệnh bí ẩn được gọi là hội chứng Havana

Những trường hợp đầu tiên được biết đến đã được báo cáo bởi C.I.A. các sĩ quan ở thủ đô Cuba vào năm 2016. Các trường hợp sau đó đã được báo cáo bởi các sĩ quan tình báo, nhà ngoại giao và các nhân viên chính phủ Hoa Kỳ khác ở Trung Quốc, Áo và hàng chục quốc gia khác.

Các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã xác định rằng một kẻ thù nước ngoài “rất khó có khả năng” chịu trách nhiệm về căn bệnh bí ẩn được gọi là hội chứng Havana mà các điệp viên và nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã báo cáo đã gặp phải tại các nhiệm vụ trên khắp thế giới kể từ năm 2016, các quan chức tuyên bố hôm thứ Tư (1-3-2023).

Bản báo cáo thuộc loại không bảo mật, được Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia (ODNI) công bố hôm thứ Tư, phản ánh quan điểm của bảy cơ quan tham gia cuộc điều tra.

Đại sứ quán Mỹ ở Havana, Cuba, nơi bắt nguồn của “hội chứng Havana” – Ảnh: REUTERS

Đánh giá được xây dựng dựa trên những phát hiện tạm thời từ Cơ quan Tình báo Trung ương vào năm ngoái rằng cả Nga và một thế lực thù địch khác đều không chịu trách nhiệm cho một chiến dịch toàn cầu nhắm vào các sĩ quan tình báo và nhà ngoại giao đã báo cáo một loạt các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt và mất thăng bằng. Trong nhiều trường hợp này, các bệnh nhân cho biết các triệu chứng bắt đầu sau khi họ nghe thấy một âm thanh lạ và cảm thấy áp lực dữ dội trong đầu.

Hội chứng Havana khó có yếu tố nước ngoài thủ ác

Nhưng các kết luận được đưa ra hôm thứ Tư đã rộng hơn, phát hiện ra rằng không có tình tiết nào mà chính phủ điều tra có thể là do hành động thù địch của nước ngoài. Đánh giá của cộng đồng tình báo cho thấy rằng mặc dù bảy cơ quan khác nhau có kết luận về vấn đề với các mức độ tin cậy được họ lượng giá khác nhau, nhưng hầu hết đều “kết luận rằng ‘rất khó xảy ra’ yếu tố từ một kẻ thù nước ngoài, đối với thủ phạm chịu trách nhiệm gây ra các bệnh được báo cáo”. Đây là một phần của cuộc điều tra, các cơ quan gián điệp Hoa Kỳ đã xem xét thông tin tình báo, cho thấy các đối tượng nghi vấn đã bối rối và nghĩ rằng các triệu chứng được báo cáo là một phần trong âm mưu của Mỹ.

Một số nhà nghiên cứu, bao gồm cả trong một báo cáo năm 2020 của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, đã cho biết thiết bị vi sóng hoặc vũ khí sử dụng năng lượng định hướng xung là nguyên nhân có thể xảy ra nhất.

giải trình về hội chứng “Havana”  https://youtu.be/tHbM20cWE_0

Nhưng hôm thứ Tư, các cơ quan tình báo kết luận rằng không có “bằng chứng đáng tin cậy” nào cho thấy bất kỳ đối thủ nào đã phát triển vũ khí hoặc thiết bị thu thập thông tin tình báo có khả năng gây thương tích như các quan chức Mỹ đã báo cáo. Tuy nhiên, một nhóm chuyên gia tại Lầu Năm Góc vẫn đang tiếp tục điều tra sự việc.

Một hội đồng chuyên gia do chính quyền Biden triệu tập vào năm ngoái đã phát hiện ra rằng cả căng thẳng hay phản ứng tâm lý đều không thể giải thích cho những chấn thương đã xảy ra (trong hội chứng Havana).

Do Đạo luật Havana, chính phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu trả tiền bồi thường cho sĩ quan tình báo C.I.A., nhân viên của Bộ Ngoại giao và các quan chức khác đã được chẩn đoán là bị thương ở đầu sau các sự cố được báo cáo. Các quan chức cho biết hôm thứ Tư rằng các khoản thanh toán đó sẽ tiếp tục bất chấp những phát hiện của các cơ quan tình báo.

Mark Zaid, luật sư đại diện cho một số bệnh nhân mắc hội chứng Havana, nói rằng, “Đánh giá tình báo mới nhất của Hoa Kỳ thiếu minh bạch và chúng tôi tiếp tục đặt câu hỏi về tính chính xác của những giải trình”.

 Phan Sinh Trần

Vaclav Havel: Vì sao người bất đồng chính kiến bị coi là ‘phản động’ ở các nước XHCN?(BBC)

BBC

21 tháng 12 2021

NGUỒN HÌNH ẢNH,LUBOMIR KOTEK

Vaclav Havel, một nhà viết kịch bất đồng chính kiến và là thành viên hàng đầu của Diễn đàn Công dân đối lập Tiệp Khắc, vẫy tay chào người dân, 29/12/1989 sau khi ông tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Tiệp Khắc.

Kỷ niệm ngày mất của cố tổng thống CH Czech Vaclav Havel (18/12/2011), BBC giới thiệu lại một phần tiểu luận của ông ‘Quyền lực của kẻ không quyền lực’, phần về khái niệm ‘bất đồng chính kiến’:

“Trong nhiều thập kỉ, lực lượng cai trị xã hội trong các nước thuộc khối Xô Viết đã dùng nhãn hiệu “đối lập” như là lời buộc tội ghê gớm nhất, đồng nghĩa với từ “kẻ thù”.

Dán cho ai đó cái nhãn “phần tử thuộc phe đối lập” cũng ngang với việc nói rằng anh ta, chị ta đang cố gắng lật đổ chính quyền và tiêu diệt chủ nghĩa xã hội (tất nhiên được bọn đế quốc trả tiền). Có thời cái nhãn đó đưa người ta thẳng tới giá treo cổ, và tất nhiên, vì thế mà chẳng ai muốn dán lên mình cái nhãn ấy.

Hơn nữa, đấy chỉ là một từ, và việc làm bao giờ cũng quan trọng hơn là nhãn mác. Lí do cuối cùng làm cho nhiều người bác bỏ thuật ngữ đó vì khái niệm “đối lập” hàm chứa một cái gì đó có tính chất tiêu cực.

Những người tự coi mình là đối lập nghĩa là chống đối một quan điểm nào đó. Nói cách khác, họ đặt mình trong mối quan hệ đặc biệt với quyền lực đang cai trị xã hội, và qua đó mà định nghĩa mình, rút ra quan điểm của mình từ quan điểm của chính quyền.

Những người chỉ đơn giản là quyết định sống trong sự thật, nói mà không cần nhìn ngang nhìn ngửa, tỏ lòng đoàn kết với đồng bào của mình, sáng tạo theo ý mình, và chỉ đơn giản là sống hòa hợp với cái Tôi tốt đẹp nhất của mình, dĩ nhiên là sẽ cảm thấy khó chịu khi phải coi quan điểm độc đáo và có tính tích cực của mình là tiêu cực, theo một nghĩa nào đó và coi mình là đang chống lại một cái gì đó chứ không đơn giản là những người như họ vốn là.

Rõ ràng là chỉ có một cách duy nhất để tránh hiểu nhầm là nói rõ – trước khi người ta sử dụng – các thuật ngữ “đối lập” và “thành viên thuộc phe đối lập” đang được sử dụng có nghĩa là gì và trong hoàn cảnh của chúng ta, chúng thực sự có nghĩa là gì.

Nếu thuật ngữ “đối lập” đã được du nhập từ các xã hội dân chủ vào hệ thống hậu toàn trị mà thiếu sự thống nhất về việc từ này có nghĩa là gì trong những hoàn cảnh vốn rất khác nhau, thì ngược lại, thuật ngữ “bất đồng chính kiến” lại được các nhà báo phương Tây chọn và bây giờ được nhiều người coi là nhãn mác cho một hiện tượng đặc trưng cho hệ thống hậu toàn trị và không bao giờ xảy ra nhất ít nhất là không ở trong hình thức như thế – trong các xã hội dân chủ.

NGUỒN HÌNH ẢNH,LUBOMIR KOTEK

Hàng trăm sinh viên Tiệp Khắc quỳ gối khi đối mặt với cảnh sát chống bạo động,19/11/1989 tại trung tâm thành phố Praha trong cuộc biểu tình đòi dân chủ hơn và yêu cầu chấm dứt chế độ Cộng sản và bầu cử đa đảng tự do. Cảnh sát chống bạo động sau đó đã đánh đập và bắt giữ nhiều người trong số họ. Một phong trào phản đối bất đồng chính kiến mạnh mẽ đã dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10/12 và sự hình thành của một chính phủ phi cộng sản ở Tiệp Khắc, 10 ngày sau khi bắt đầu hội nghị thượng đỉnh ở Malta, nơi Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev và người đồng cấp Hoa Kỳ George Bush thiết lập một kỷ nguyên mới, kết thúc Chiến tranh lạnh.

Những “người bất đồng chính kiến” này là ai?

Dường như thuật ngữ này được áp dụng chủ yếu cho công dân các nước thuộc khối Xô Viết, những người đã quyết định sống trong sự thật và thêm vào đó, đáp ứng được những tiêu chí sau đây:

  1. Họ thể hiện quan điểm bất phục tùng và ý kiến phê phán một cách công khai và có hệ thống, trong những giới hạn rất nghiêm ngặt dành cho họ và vì vậy mà họ được phương Tây biết tới.
  2. Mặc dù không được xuất bản ở trong nước và mặc dù bị chính quyền ngược đãi bằng đủ mọi cách, nhờ thái độ của mình, họ vẫn giành được sự kính trọng nhất định, cả từ phía công chúng lẫn từ phía chính quyền, và do đó mà họ thực sự có – dù mức độ rất hạn chế và thậm chí là lạ lùng nữa – quyền lực gián tiếp trong môi trường của mình. Quyền lực đó đã bảo vệ họ khỏi những hình thức ngược đãi tồi tệ nhất, hoặc ít nhất cũng đảm bảo rằng nếu họ bị ngược đãi thì chính quyền sẽ gặp một số rắc rối chính trị nhất định.
  3. Phạm vi phê phán và những cam kết của họ đã vượt ra ngoài khung cảnh chật hẹp của môi trường xung quanh họ hay vượt ra ngoài những lợi ích đặc thù, nó bao trùm lên những chủ đề thảo luận có tính bao quát hơn; và do đó, về thực chất là có tính chính trị mặc dù mỗi người lại tự coi mình như một lực lượng chính trị nhất ở những mức độ rất khác nhau.
  4. Họ là những người nghiêng về việc tìm kiếm tri thức, có nghĩa là, họ là những người “cầm bút”, những người mà ngôn từ được viết ra là phương tiện trực tiếp – và thường là phương tiện duy nhất họ có thể điều khiển được, và nhờ thế mà họ được sự chú ý, đặc biệt là từ nước ngoài. Những cách sống trong sự thật khác thì hoặc là không được các nhà quan sát nước ngoài chú ý tới vì nằm trong môi trường địa phương khó nắm bắt – đấy là nói nếu chúng vượt qua được khuôn khổ địa phương – hoặc chỉ là thành tố bổ sung cho những điều mà họ đã viết ra mà thôi.
  5. Dù nghề nghiệp của họ có là gì thì những người này cũng đã được nói tới ở phương Tây, chủ yếu là vì những hoạt động của họ trong vai trò những công dân tận tụy hay khía cạnh chính trị, khía cạnh phê phán trong các tác phẩm của họ chứ không phải là vì những công trình họ làm trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình.

Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi biết rằng có một lằn ranh vô hình mà nếu bạn vượt qua – mà thậm chí dù không muốn hay không nhận ra – thì họ sẽ không còn coi bạn như là người cầm bút vô tình trở thành một người công dân có quan tâm tới thời cuộc mà sẽ bắt đầu nói về bạn như là một “người bất đồng chính kiến” tình cờ cũng thích viết kịch (có thể là trong lúc trà dư tửu hậu?). Không nghi ngờ gì rằng có những người đạt được tất cả những tiêu chí này. Điều cần thảo luận là liệu chúng ta có nên dùng một thuật ngữ riêng cho một nhóm được định nghĩa một cách tình cờ như vậy không, và đặc biệt là có nên gọi họ là những “người bất đồng chính kiến” hay không. Nhưng, rõ ràng là, ta chẳng thể làm gì khác được.

Đôi khi để dễ nói chuyện, thậm chí tự bản thân chúng ta cũng dùng cái nhãn này, mặc dù không ưa, khá hài hước và hầu như lúc nào cũng để trong ngoặc kép nữa. Có lẽ đã đến lúc liệt kê một vài lí do vì sao chính những “người bất đồng chính kiến” lại không thích bị gọi như vậy.

NGUỒN HÌNH ẢNH,LANGEVIN JACQUES

Nhà lãnh đạo cách mạng Vaclav Havel phát biểu trước đám đông tụ tập trên một con phố chính, trong cuộc biểu tình chống chính phủ dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ Cộng sản.

‘Họ không phản bội ai cả, chỉ muốn bình đẳng’

Trước hết, cách gọi này có vấn đề về mặt từ nguyên.

“Người bất đồng chính kiến”, như báo chí chúng ta vẫn nói, cũng tương tự “kẻ phản bội” hay “tái phạm” vậy. Nhưng những người bất đồng chính kiến không coi họ là phản bội, vì một lẽ đơn giản là họ chẳng phủ định hay bác bỏ bất cứ điều gì.

Ngược lại, họ đã và đang cố gắng khẳng định bản sắc nhân văn của chính họ, và nếu họ có bác bỏ cái gì đó, thì đó chỉ là những thứ sai lầm và vong thân trong cuộc đời họ, tức là bác bỏ khía cạnh của “sống trong dối trá” mà thôi.

Nhưng đấy không phải là điều quan trọng nhất. Thuật ngữ “người bất đồng chính kiến” thường ám chỉ một nghề đặc biệt, như thể, cùng với những nghề bình thường hơn, có một nghề đặc biệt nữa là cằn nhằn về tình trạng của đời sống.

Trên thực tế, một “người bất đồng chính kiến” chỉ đơn giản là một nhà vật lí học, nhà xã hội học, một người công nhân hay một nhà thơ, là những cá nhân đang làm những việc mà họ cảm thấy là cần phải làm, và vì thế, họ thấy mình xung đột công khai với chế độ. Về phần họ, cuộc xung đột này không xuất phát từ bất cứ mục đích hữu thức nào, mà xuất phát từ logic nội tại của tư tưởng, hành vi hay tác phẩm của họ (thường là xung đột với ngoại cảnh, nằm ngoài tầm kiểm soát của họ).

NGUỒN HÌNH ẢNH,LUBOMIR KOTEK

Nhà cựu bất đồng chính kiến và nhà viết kịch Vaclav Havel, tân Tổng thống Tiệp Khắc, phát biểu 23/2/1990 từ ban công của Cung điện Kinsky tại Quảng trường Thành phố Cổ với khoảng 100.000 người trong cuộc mít tinh kỷ niệm 42 năm cuộc đảo chính năm 1948 của cộng sản. Đảng Cộng sản đầu hàng vào cuối tháng 11/1989 (trong “Cách mạng nhung” không đổ máu) và thành lập một chính phủ liên minh với Diễn đàn Công dân, và Havel được bầu làm chủ tịch, 29/12/1989. Vào tháng 6/1990, cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên kể từ 1946 được tổ chức tại Tiệp Khắc, kết quả trong chính phủ hoàn toàn phi cộng sản đầu tiên của đất nước trong hơn bốn mươi năm.

Nói cách khác, họ không cố tình trở thành một người bất mãn chuyên nghiệp, như người ta quyết định trở thành chị thợ may hay anh thợ rèn.

Trên thực tế, dĩ nhiên là họ thường không biết mình là những “người bất đồng chính kiến” cho đến khi họ thực sự trở thành một người như thế. “Người bất đồng chính kiến” xuất phát từ những động cơ khác hẳn với thói háo danh và chức tước. Nói ngắn, họ không quyết định trở thành “người bất đồng chính kiến”, và thậm chí nếu họ có dành hai bốn giờ một ngày cho nó, nó vẫn không phải là một nghề, mà trước hết đấy là một thái độ sống.

Hơn nữa, thái độ đó hoàn toàn không phải là tài sản độc quyền của những người xứng đáng với danh hiệu “người bất đồng chính kiến”, chỉ vì vô tình mà họ đáp ứng được những điều kiện bên ngoài, đã nói đến bên trên.

Có hàng ngàn người không tên tuổi khác đang cố gắng sống trong sự thật, và hàng triệu người muốn mà chưa thể, đơn giản vì có lẽ làm như thế trong điều kiện của họ cần lòng can đảm lớn hơn mười lần lòng can đảm của những người đã đi bước đầu tiên. Nếu vài chục người trong số đó được chọn ra một cách ngẫu nhiên và được xếp vào loại đặc biệt thì nó sẽ làm méo mó hoàn toàn bức tranh chung. Nó làm méo mó theo hai cách.

Hoặc là nó ngụ ý rằng những “người bất đồng chính kiến” là những người lỗi lạc, như “những loài cần được bảo vệ”, tức là người được phép làm những việc mà người khác không được làm, là những người mà chính phủ thậm chí còn nuôi dưỡng để làm bằng chứng về lòng khoan dung của nó; hoặc là nó đánh lừa người ta rằng đấy chỉ là một nhúm những kẻ bất mãn chẳng làm được trò trống gì, tất cả những người khác đều cảm thấy hài lòng, bởi vì nếu không thì họ đã là những “người bất đồng chính kiến” rồi.

NGUỒN HÌNH ẢNH,LANGEVIN JACQUES

Mọi người cầm biểu ngữ và cờ trong cuộc biểu tình chống chính phủ dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Cộng sản.

Nhưng đấy không phải là tất cả.

Cách phân loại này vô tình đã tô đậm ấn tượng rằng quan tâm chủ yếu của những “người bất đồng chính kiến” là quyền lợi phe nhóm mà họ cùng chia sẻ, như thể toàn bộ cuộc tranh luận của họ với nhà nước chỉ là xung đột trừu tượng giữa hai nhóm đối đầu nhau, chẳng liên quan gì đến xã hội.

Nhưng ấn tượng này mâu thuẫn sâu sắc với ý nghĩa thực sự của thái độ “bất đồng chính kiến”, tức là lo lắng cho quyền lợi của người khác, lo lắng trước những hiện tượng đang làm cho xã hội nhức nhối, nói cách khác, lo lắng cho quyền lợi của những người chưa dám lên tiếng.

Nếu những “người bất đồng chính kiến” có một thứ uy quyền nào đó, và nếu họ còn chưa bị tiêu diệt như những con côn trùng ngoại lai có mặt không đúng chỗ, thì đấy không phải vì nhà nước muốn giữ lại một nhóm đặc biệt này và tôn trọng tư tưởng đặc biệt của họ, mà vì chính phủ hiểu rất rõ rằng sức mạnh chính trị tiềm tàng của “sống trong sự thật” bắt rễ từ không gian bị che giấu, nó cũng nhận thức rõ thế giới, nơi bất đồng chính kiến lớn lên và thế giới mà nó hướng tới: Đấy là thế giới của đời sống thường nhật, thế giới của mâu thuẫn hàng ngày giữa những mục tiêu của cuộc đời với mục tiêu của hệ thống.

NGUỒN HÌNH ẢNH,DEREK HUDSON

Khoảng 250.000 người biểu tình tại Quảng trường Wenceslas để kêu gọi tự do hơn và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Tiệp Khắc từ chức, Miloš Jakeš, Prague, hôm 22/11/1989

Các tổ chức chính trị và cảnh sát không phí nhiều thì giờ với những “người bất đồng chính kiến” – có thể tạo ra ấn tượng là chính quyền sợ họ như thể sợ một nhóm quyền lực khác vậy – chỉ vì họ thực sự là một nhóm quyền lực khác; mà bởi vì họ là những người bình thường, với những lo lắng của người bình thường, họ chỉ khác với những người kia ở chỗ họ nói lớn điều mà những người khác không thể nói hoặc vì sợ mà không dám nói.

Tôi đã từng nhắc đến ảnh hưởng chính trị của nhà văn Nga bị đày ải Aeksandr Solzhenitsyn: nó không nằm trong sức mạnh chính trị riêng biệt mà ông có với tư cách là một cá nhân, mà ở trải nghiệm của hàng triệu nạn nhân trại cải tạo Gulag, ông chỉ làm mỗi một việc là khuếch đại và nói lại cho hàng triệu người có lương tri biết mà thôi. Tách ra một nhóm những “người bất đồng chính kiến” nổi tiếng hoặc lỗi lạc, trên thực tế, cũng có nghĩa là phủ nhận khía cạnh đạo đức cốt lõi nhất trong hoạt động của họ.

Như ta đã thấy, phong trào “bất đồng chính kiến” phát sinh từ nguyên tắc bình đẳng, dựa trên quan niệm rằng quyền con người và quyền tự do là không chia tách được. Cuối cùng, chẳng phải là những “người bất đồng chính kiến” nổi tiếng trong KOR ở Ba Lan đã đứng lên bảo vệ những người lao động không tên tuổi hay sao?

Và chẳng phải chính vì lí do này mà họ trở thành những “người bất đồng chính kiến” nổi tiếng hay sao? Và chẳng phải là những “người bất đồng chính kiến” nổi tiếng tập hợp lại trong Hiến chương 77, sau khi họ đã tập hợp cùng nhau nhằm bảo vệ những nhạc sĩ vô danh và liên kết với họ, và chính vì lẽ đó mà trở thành những “người bất đồng chính kiến nổi tiếng” hay sao? Đúng là một nghịch lí tàn nhẫn: Càng nhiều người đứng lên bảo vệ những người khác, thì họ lại càng dễ bị gọi bằng một từ làm họ xa cách với “các công dân khác”. Tôi hi vọng rằng cách giải thích này sẽ làm rõ ý nghĩa của các dấu ngoặc kép mà tôi đặt cạnh từ “người bất đồng chính kiến” trong suốt tiểu luận này…

“Quyền lực của kẻ không quyền lực” là tiểu luận trên 130 trang được Vaclav Havel viết khi ông là trí thức đối lập ở Tiệp Khắc tháng 10/1978. Vaclav Havel (1933-2011) được bầu làm tổng thống cuối cùng của Tiệp Khắc và tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Czech. Bản tiếng Việt trích đoạn ở trên có nguồn từ bản tiếng Việt xuất bản năm 2014 (xem thêm trên trang của nhóm Văn Lang, CH Czech: QuyenLuc.pdf (vanlang.eu)). Tựa đề của bài này do BBC đặt.

Chú thích: *Ủy ban Bảo vệ Công nhân, KOR – một tổ chức của Ba Lan tồn tại trước khi có sự ra đời của Công đoàn Đoàn kết năm 1980, sau được đổi tên thành KSS-KOR (Ủy ban Tự vệ Xã hội-KOR) để nhấn mạnh đến cam kết bảo vệ các quyền dân sự và ủng hộ các sáng kiến xã hội chống lại các thể chế của nhà nước toàn trị. Tiểu luận của Vaclav Havel đã đem lại hy vọng cho phong trào tại Ba Lan như lời kể của một lãnh tụ nghiệp đoàn cơ sở ở nhà máy Ursus, gần Warsaw, ông Zbigniew Bujak, khi họ bị công an Ba Lan nhốt nhiều ngày trong xưởng máy vì đình công.

** Khi Hiến chương 77 xuất hiện, chính quyền Tiệp Khắc đã tung ra chiến dịch buộc toàn dân phải tuyên bố rằng Hiến chương 77 là sai. Hàng triệu người buộc phải kí giấy ủng hộ quan điểm đó của Đảng CS.

Cái sợ nay ngả về phía độc tài

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Nguyễn Thị Cỏ May

Dân Trung Quốc xuống đường với những tờ giấy trắng. Ảnh Onet

Một phong trào biểu tình chống chế độ và chống Xi, do dân chúng và phần đông giới trẻ, sinh viên các Đại học, phát động hôm 24/11/22, nhiều người cho là lớn nhứt từ 33 năm nay. Dân chúng các thành phố lớn, sinh viên từ nhiều Đại học, xuống đường tố cáo biện pháp ác ôn  « Zéro Covid »  của Xi chống dịch vũ hán là giết người, trong lúc thế giới cũng chống dịch nhưng không ai làm như vậy.

Biện pháp Zéro Covid mà Xi trong Đại hội đảng cộng sản tàu thứ XX vẫn đề cao là độc đáo và hiệu quả tuyệt vời nên Xi tiếp tục duy trì. Những người biểu tình qui thẳng trách nhiệm làm chết người, làm suy thoái đời sống xã hội chính là đảng cộng sản và Xi vừa chiếm thêm một nhiệm kỳ Tổng Bí Thư đảng nữa.

Trước khí thế hùng hậu và căm ghét của người biểu tình, nhà cầm quyền phải chấp nhận nới lỏng biện pháp « Zéro Covid » ở vài nơi và ban hành lại chiến dịch chích ngừa cho người lớn tuổi, sau một loạt bắt bớ, đàn áp.

Tức nước vở bờ

Mọi người ai cũng nói biểu tình. Nhưng Xi không cho nói « biểu tình » mà hảy gọi đó là những « sự cố tập thể » . Tiếng gọi chánh thức những cuộc biểu tình của dân chúng tàu chống chế độ. Cũng như kéo quân, dàn trận đánh chiếm nước độc lập Ukraine mà Poutine gọi đó là cuộc  «hành quân đặc biệt »!  Cùng gốc Sịt (Staline) nên ngôn ngữ của 2 tay độc tài giống nhau tuy Á-Âu, chủng tộc khác nhau, nhưng vì bản chất lại giống nhau!

Ở Tàu, cũng như ở Nga, ở Hà nội hay ở bất kỳ xứ Độc tài nào khác, biểu tình là tuyệt đối bị cấm.

Thế mà ở Tàu, từ năm 2005, theo thống kê được phổ biến năm đó, người ta thấy có 87 000 cuộc biểu tình. Tới năm 2010, con số biểu tình tăng gắp đôi, trung bình 500 vụ mỗi ngày.  Như vậy chế độ Xi hiểu rỏ biểu tình và cũng biết rỏ cách đàn áp biểu tình hơn ai hết.

Tuy có kinh nghiệm nhiều năm về biểu tình nhưng nay Đảng-Nhà nước vẫn thấy hụt hẫng trước phong trào biểu tình hiện nay bắt đầu từ vụ cháy nhà ở Urumqi, Thủ đô của xứ Ouigour, làm chết hằng mươi người ouigours theo tin chánh thức, theo tin của các hội phi chánh phủ (ONG) thì số nạn nhơn phải lên tới nhiểu chục người. Nhiều gia đình bị chết cháy hết cả nhà. Họ đều là người ouigours. Nguyên nhơn rất đơn giản. Lửa cháy, người ở trong nhà, nhơn viên cứu hỏa không vào chữa được vì cửa đều bị khóa cứng theo biện pháp « Zéro Covid », ngõ vào khu nhà ở bị xe cộ bỏ nằm ngổn ngang ngăn cản lưu thông.

Một làn sóng phẫn nộ ập xuống chế độ Xi, đánh tan cái sợ cố hũu, cái tâm lý ngoan ngoãn nghe theo nhà cầm quyền, biến đại bộ phận dân chúng thành những người biểu tình quyết tâm và gan lì .

Nhiều người nhận xét xưa nay, người tàu chánh gốc ít khi tỏ ra thương xót cho người ouigours khi bị áp bức, đánh đập. Họ vẫn có thể dửng dưng trước nạn bị diệt chủng của dân ouigour từ những năm 2017 . Nhưng lần này, tất cả lớp dân tàu chánh gốc trung bình cùng ở những tòa nhà tương tự nhà bị cháy gần đó bỗng cảm thấy như chính mình là nạn nhơn. Họ đồng cảm sâu sắc và cùng phản ứng chống nhà cầm quyền như để bảo vệ chính mình vậy. Từ đó mà cuộc biểu tình nổi dậy cùng khắp nước Tàu.

Giáo sư Yasheng Huang ở MIT giải thích « Xưa nay, biểu tình chẳng mấy khi xảy ra ở Tàu vì thiếu những bộ phân phối hợp như tôn giáo, hội đoàn, mạng kỹ thuật. Thật mỉa mai là cái « Zéro Covid », chính nó đã thay thế cái bộ phận phối hợp đang thiếu vắng đó mà chuyển tải làn sóng biểu tình tràn lan từ tỉnh  thành đi khắp nước Tàu».

Một cơn ác mộng đen cho Xi chớ không phải là «giấc mơ tàu  như xưa nay Xi từng ôm ấp. Biểu tình không phải từng khu vực để có thể dập tắt, sau  đó truy tìm những người xách động thanh toán làm gương. Mà động lực phát động phong trào là sự giận dữ, sự căm phẫn của cả nước, không phân biệt thành phần xã hội, địa phương, chỉ nhằm thẳng vào chế độ, vào Xi. Với một mục tiêu chung là dẹp bỏ ngay cái «Zéro Covid».

Nhiều sinh viên và giới trẻ nghĩ là sau Đại hội đảng cộng sản, Xi sẽ bỏ cái «Zéro Covid », thứ đã làm chết người, tê liệt xã hội, nhưng không. Nó, không ai biết nó sẽ còn tới bao giờ. Tests, cô lập tập thể, khóa cửa nhà, cửa chung cư, … được tăng cường mạnh thêm  Ngay cả những khu sang trọng ở Bắc kinh.

Từ đó sự thất vọng, một sớm một chiều đã biến thành sự điên tiết của toàn xã hội. Thế là người người tự động đồng loạt xuống đường.

Giới trẻ và sinh viên biểu tình không chỉ nhằm đòi hỏi đơn giản tháo gỡ cái « Zéro Covid » mà chủ yếu nhằm đòi hỏi nhà cầm quyền phải thực thi nguyện vọng chánh đáng của họ là tôn trọng «Tự do», «Dân chủ», «Nhà nước pháp trị », những đòi hỏi mà người ta không được nghe từ cuộc biểu tình của sinh viên ở Thiên An môn.

Họ hô khẩu hiệu «Đả đảo đảng cộng sản». Họ dường như đang say men gan lì nên không còn biết sợ bạo quyền nữa. Và ở một nơi khác, giới trẻ và sinh viên, cùng hô lớn một khẩu hiệu độc đáo, chưa bao giờ có ở Tàu từ năm 1949 «Đả đảo Xi» . Ở cửa sổ trên lầu của một Đại học xá, một biểu ngữ vải trắng với hàng chữ vắn tắc « Xi, một tên khốn nạn». Lần đầu tiên một nhơn vật lãnh đạo đảng tối cao được nêu đích danh và bị đả đảo! Ở Thiên An môn, Đặng Tiểu bình cũng không bị chỉ măt gọi tên như vậy nữa.

Đúng là một sự phạm thượng đáng tội chết!

Liệu Xi, một con người vốn kém hiểu biết, cao ngạo và tàn bạo, sẽ phản ứng như thế nào? Nhượng bộ để giữ ghế ? Hay ra tay dẹp loạn như Mao và Sịt?

Dân chúng biểu tình trên khắp nước Tàu từ hôm 24/11/22 còn do một nguyên nhơn khác nữa. Khi đá banh ở Qatar khai mạc, dân tàu mê đá banh tụ tập trước TV của café ở khu phố theo dõi trận đấu.

Bỗng ở đâu đó, có một trường hợp bị lây nhiểm virus Vũ hán xảy ra, lập tức cả khu vực bị phong tỏa.

Nhà cửa, hàng quán đều phải đóng cửa. Thú mê đá banh bị cụt hứng, hàng quán thua lỗ làm cho mọi người nổi điên lên. Nhà xã hội học huê kỳ Jeffrey Vasserstrom ở Đại học Californie gọi hiện tượng này là « trận bão hoàn hảo »

Ngoài sự mất hứng, dân mê coi đá banh còn lấy làm khó chịu khi nhìn thấy những cầu thủ đá banh, khán giả của các nước, ai nấy đều không mang mặt nạ, còn bắt tay nhau, ôm nhau, vui cười hớn hở mỗi khi kết thúc một màn trên sân cỏ. Trong lúc đó, dân tàu lại bị khủng bố để tránh bị lây nhiễm covid .

Người ta hiểu ngay biện pháp của Xi đang áp dụng triệt để ở đây là hoang tưởng, không thật sự hiệu quả .

Một cuộc «Cách mạng tờ giấy trắng»

Những tờ giấy trắng xuất hiện ở khắp nơi, trên tay người biểu tình hoặc trên tay người hưởng ứng. Nhà cầm quyền bắt đầu hiểu ý nghĩa của tờ giấy trắng là kiểm duyệt sạch trơn. Ở Tàu chỉ có một tiếng nói duy nhứt của đảng và Nhà nước. Cái gì khác hơn đều bị kiểm duyệt. Sạch trơn như tờ giấy trắng!

Nhưng giới trẻ vẫn xoay sở được tin tức thiệt về xứ Tàu và thế giới bằng cách liên hệ với hải ngoại qua hệ thống mạng xã hội rồi truyền cho nhau.

Điều gì sẽ xảy ra ở Tàu trong những ngày tới? Theo bà Cai Xia, Giáo sư trường đảng, tỵ nạn ở Huê kỳ, thì rất khó đoán cho chính xác được.

Tánh tình của Xi, con người kém hiểu biết mà lại cao ngạo và tàn bạo, rất có thể đưa Xi tới cứng đầu trong mọi phản ứng. Xi quan niệm quyền lực thì mọi khoan nhượng đều là biểu hiện của sự yếu kém.

Hơn nữa xung quanh hắn ta chỉ có những kẻ tuân phục, không có ai dám có ý khiến khác hơn hắn.

Vụ Thiên An môn năm 1989 ngày nay vẫn còn ám ảnh nhiều người trong đảng. Nó vẫn bị cấm nhắc tới và xuất hiện trong ngôn ngữ hằng ngày. Vụ Thiên An môn lúc đầu cũng động viên một nhóm sinh viên, trong thời gian ngắn, nó kết thành một phong trào rộng lớn, đòi hỏi hảy thay đổi chế độ độc tài, chuyển qua Dân chủ Tự do. Mặc dầu thất bại và thất bại trong xương máu nên vụ Thiên An môn vẫn còn ám ảnh chế độ độc tài và là hồn ma linh thiêng của giới trẻ và sinh viên.

Nhưng từ sau vụ Thiên An môn, nhà cầm quyền độc tài Bắc kinh đã học được bài học mới. Họ tăng cường ngân sách an ninh, trang bị mạnh và tối tân lực lượng an ninh để khi có biểu tình đòi Dân chủ, họ sẽ ra tay đàn áp hữu hiệu và nhanh chóng mà không cần tới quân đội và chiến xa nữa.

Nhiều người nghĩ là rất có thể Xi sẽ ra tay dẹp mau phong trào biểu tình này sau vài tương nhượng nhỏ như đã làm đối với công nhơn lả trả lương cho họ trong những ngày xí nghiệp đóng cửa theo lệnh phong tỏa, hay làm ngơ cho một số công nhơn khác phá rào nơi phong tỏa, ra đi bộ về quê quán.

Thực tế ai cũng thấy Zéro Covid không mang lại hiệu quả mong muốn mà số người được chích ngừa lại quá ít. Nên con số người được miễn nhiễm quá it. Thuốc chích ngừa lại kém hiệu quả. Nay là lúc covid đang lây lan mạnh. Mọi biện pháp cực đoan, chỉ nhằm mục tiêu chánh trị, thiếu bảo đảm y tế, chắc chắn sẽ làm cho dân tàu chết không dưới 1, 5 triêu người ngay đợt đầu tiên, theo những nhà khoa học ước tính.

Một thảm nạn y tế có khả năng làm rung chuyển mọi chế độ.

Về mặt kinh tế, Xi vẫn tự hào là Tàu sẽ vượt qua Mỹ trong nay mai. Nhưng xưa nay, cây cổ thụ thường không làm sao vươn lên tới trời được. Chánh sách « Zéro Covid » mà Xi từng khoe khoang – một thời Hà Nội bắt chước, nhưng một hôm bỗng khôn ra, vội tháo gỡ – đã làm cho kinh tế tàu nghẹt thở . Từ tăng trưởng 8, 1% năm trước, năm nay xuống còn 3, 2% trong lúc mức tăng trưởng trong vùng là 4, 4% .

Trong lúc đó, dân số Tàu già nua mau mà thế hệ nối tiếp không kịp và không đủ thay thế . Đây là một hiểm họa cho tương lai không xa của Tàu.

Trước thục tế và viễn ảnh không xa đó, liệu Xi vẫn kiên quyết bảo vệ đường lối độc tôn có một không hai hay thay đổi để đất nước khá lên và Xi còn vào nhà dưỡng lão?

Nguyễn thị Cỏ May

Hai cuốn sách, hai góc nhìn và một kết quả

Báo Tiếng Dân

Đỗ Ngà

2-12-2022

Cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại” (Why nations fail?) của đồng tác giả Daron Acemoglu và James Robinson là một cuốn sách nói về lịch sử, kinh tế chính trị rất hay. Hai tác giả này cho rằng, nguyên nhân thất bại của một quốc gia không do địa lý, không do văn hóa v.v… mà là do thể chế chính trị. Bởi thể chế chính trị quyết định thể chế kinh tế quốc gia đó. Và đây là lý do quốc gia đấy giàu mạnh hay đói nghèo.

Hai vị giáo sư này phân biệt hai loại thể chế kinh tế rất rõ ràng, đó là thể chế kinh tế có tính dung nạp và thể chế kinh tế có tính bòn rút. Độc tài dù là loại độc đảng như Cộng sản hay độc tài cá nhân đều là loại thể chế chính trị ích kỷ, vì lợi ích của một cá nhân hay một nhóm người có cùng quyền lợi.

Kiểu thể chế kinh tế dung nạp khuyến khích mọi thành phần kinh tế, cho họ phát huy mọi tài năng cống hiến và quyền lực được chia sẻ, chứ không tập trung vào một thành phần doanh nghiệp có lợi thế, đặc biệt là lợi thế được quyền lực chính trị bảo kê như lợi ích nhóm của Việt Nam. Để có được thể chế kinh tế dung nạp thì nền tảng về thể chế chính trị phải tương xứng. Luật pháp phải bảo đảm tính công bằng và được thượng tôn.

Tại Việt Nam, Đảng Cộng Sản điên cuồng chống lại việc đa đảng, là một thứ chủ nghĩa ích kỷ. Vì ý đồ bòn rút trên đầu trên cổ dân tộc nên họ nhất quyết không chia sẻ quyền lực chính trị cho bất kỳ tổ chức chính trị nào khác. Tự ra Hiến pháp cho phép chỉ có mình mới đủ tư cách lãnh đạo đất nước.

Cái gọi là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một loại thể chế kinh tế lai căng, nó muốn được phát triển như các nước tư bản nhưng lại cũng muốn bảo vệ lợi ích nhóm. Nhà nước giữ độc quyền các ngành mang tính thiết yếu tạo ra độc quyền nhà nước, buộc dân phải chấp nhận.

Trong Chính phủ có một “siêu ủy ban”, đó là Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, ủy ban này quản lý nguồn vốn đến 5 triệu tỷ đồng, tức khoảng 200 tỷ đô la Mỹ. Ủy ban này được lập ra để cho đảng luôn được bảo đảm phần hơn trong miếng bánh kinh tế đất nước, bất chấp nền kinh tế có bị ảnh hưởng tiêu cực thế nào.

Nhân đây tôi cũng nói về một quyển sách mà nếu ai quan tâm đến tâm linh cũng nên đọc. Đó là quyển Power vs Force của tác giả David R. Hawkins. Tựa tiếng Việt khá dài, đó là “Trường năng lượng và những nhân tố quyết định tinh thần, sức khỏe con người”. Quyển sách có hơi hướng tâm linh nhưng tâm linh được lý giải dưới góc độ khoa học. Khó có cuốn sách về tâm linh nào thuyết phục bằng cuốn sách này. Tác giả phân các tầng nhận thức của con người tương ứng với mức năng lượng khác nhau.

Ở khía cạnh phân loại tầng nhận thức theo mức năng lượng thì con người chứa “tham – sân – si” trong nhận thức thì được liệt ở mức năng lượng thấp, mức năng lượng phá hủy. Nói về bản thân con người thì ai cũng dễ dàng nhận thấy điều đó. Khó ai vứt bỏ được “tham – sân – si” nhưng ở mỗi con người, mức độ “đậm đặc” của “tham – sân – si” là hoàn toàn khác nhau do mức tu tập hoặc mức giáo dục đạo đức khác nhau. Càng có giáo dục thì mức “tham – sân – si” càng thấp (giáo dục khác với học vấn, học vấn cao chưa chắc gì có giáo dục), chính vì thế mức năng lượng của họ cũng khác nhau.

****

Nói về xã hội Việt Nam thì tôi có thể dùng một từ là “kinh khủng”. Ở xã hội chúng ta không hề có lòng tin, con người lừa gạt nhau mà sống, trộm cướp khắp nơi. Trên từng mét vuông đều có thể bị cướp giật. Kẻ thấp kém thì cướp giật hay lừa đảo bất kỳ món đồ nào có thể quy đổi ra tiền được dù  giá trị thấp. Tầng trên, những đại gia nhìn vẻ bề ngoài đạo mạo, đáng kính, nhiều tiền và hay lên tiếng dạy đời thiên hạ thì té ra không ít trong đó lại là những tên siêu lừa thất đức.

Ở xã hội Việt Nam, con người sống vô cảm, chỉ biết quan tâm tới mình còn quyền lợi người khác thì mặc kệ v.v… Những gì đang diễn ra như thế, cho thấy tầng năng lượng của quốc gia chúng ta rất thấp. Ở xã hội Việt Nam, mùi “tham – sân – si” nồng nặc, mà “tham – sân – si” càng đậm đặc thì xã hội càng bất an.

Có thể nói rằng tầng năng lượng của Việt Nam là thước đo cho nguyên khí quốc gia. Nguyên khí quốc gia bị phá hủy và bị kìm hãm bởi một con người tự xưng “đi tìm đường cứu nước”. Đảng Cộng sản chính là là thủ phạm làm cho nguyên khí quốc gia bị kìm giữ ở mức thấp, chứ không ai khác. Điều thực tế ai cũng có thể nhận ra, đó là quốc gia càng giàu thì xã hội càng nhân bản chứ không phải “càng giàu càng xấu xa” như tư tưởng đấu tranh giai cấp của Cộng sản được tuyên truyền bao năm qua.

Ở hai cuốn sách, khi đọc, nó cho tôi cái nhìn đất nước Việt Nam ở hai góc độ khác nhau. Cuốn sách đầu cho tôi cái nhìn lý tính, cái nhìn logic. Cuốn thứ nhì giúp tôi nhìn đất nước mình dưới góc độ tâm linh. Dù cho ở góc độ nào thì nó đều dẫn đến một kết quả như nhau. Đó là đất nước nát, nát từ kinh tế chính trị đến nát về xã hội. Rất khó để nước ta bước ra khỏi vùng tối u ám với tình trạng năng lượng cực thấp như thế này.

Có lẽ, mỗi người cần đọc, cần lắng nghe để sửa mình nhằm cải thiện mức năng lượng cho bản thân là khả năng dễ thực hiện hơn. Nếu tích đủ lượng thì chất ắt sẽ tự biến đổi.

Ivan Bạo chúa và Stalin: Putin tuyên truyền khủng bố nhà nước như một truyền thống quốc gia

Ivan Bạo chúa và Stalin: Putin tuyên truyền khủng bố nhà nước như một truyền thống quốc gia

Hubertus Volmer trò chuyện với Dina Khapaeva

Vũ Ngọc Chi, chuyển ngữ

29-5-2022

Matryoshkas (búp bê lồng nhau) với hình ảnh Stalin và Putin trong một cửa hàng ở St.Petersburg. Nguồn: AP

Nhà khoa học văn hóa Nga, Dina Khapaeva cho biết: “Niềm đam mê về phương Tây là cốt lõi của bản sắc Nga. Điều này không có nghĩa tích cực: “Nếu không có sự khước từ phương Tây, bản sắc Nga không tồn tại”.

Khapaeva nói đến chính trị tưởng nhớ của Putin, có mục đích “khôi phục đế chế, quân sự hóa dư luận và tuyên truyền khủng bố nhà nước như một truyền thống quốc gia lớn”. Bà nói: “Bởi vì Putin và lũ bạn của ông ta không có dự án nào cho tương lai, họ chỉ có thể nhìn lại lịch sử và bắt chước quá khứ”.

***

Nhà khoa học văn hóa đề cập đến một cuốn tiểu thuyết của Nga xuất bản năm 2006 phù hợp “hoàn toàn với chính trị tưởng nhớ của Putin”. Lấy bối cảnh tương lai, cuốn sách mô tả cách Nga khuất phục châu Âu. Trong đó, việc xây dựng đế chế Nga bắt đầu bằng cuộc chiến chống lại Ukraine.

Trong cuốn tiểu thuyết này, nước Nga bị cai trị và khủng bố bởi một lực lượng quân cảnh. Theo quan điểm của Khapaeva, nước Nga ngày nay đang trên đường đi đến một hệ thống như vậy: “Những gì chúng ta đang thấy ngày nay là nhu cầu về  khủng bố nhà nước”, bà nói trong một cuộc phỏng vấn với ntv.de. “Thật không may, một bộ phận đáng kể dân chúng tin rằng khủng bố nhà nước, khi nó xảy ra, là vì lợi ích của nước Nga”.

Dina Khapaeva là giáo sư tại Trường Ngôn ngữ Hiện đại, thuộc Học viện Công nghệ Georgia (Mỹ). Bà vừa hoàn thành một cuốn sách đề cập đến chính trị tưởng nhớ tân trung cổ của Putin và quá trình tái Stalin hóa (Nguồn riêng của NTV)

Ntv.de: Vài năm trước, bà đã viết trong một cuốn sách về “Lịch sử các quốc gia” rằng cốt lõi của lịch sử Nga là “sự mê hoặc thường xuyên đối với phương Tây, cùng với sự thôi thúc vượt qua nó để tránh ảnh hưởng của nó”. Nghe giống như một mối quan hệ yêu-ghét.

Dina Khapaeva: Ý tưởng của phương Tây là trọng tâm của bản sắc Nga. Nếu không có sự khước từ phương Tây, bản sắc Nga không tồn tại. Điều này làm cho họ rất khác biệt so với các nền văn hóa châu Âu khác. Sự say mê về phương Tây là cốt lõi của bản sắc Nga. Đó không chỉ là một mối quan hệ yêu – ghét: Nga không thể tưởng tượng ra được mình nếu không so sánh mình với phương Tây và không từ chối phương Tây. Đó là một nền văn hóa rất đặc biệt về mặt đó.

Ntv.de: Làm thế nào để Nga và phương Tây có thể có một mối quan hệ hòa bình bình đẳng?

Sau cuộc chiến ở Ukraine, tôi không nghĩ điều này có thể xảy ra. Theo tôi, cuộc chiến này là kết quả của một chính sách tưởng nhớ mà Putin đã theo đuổi rất nhất quán trong ít nhất hai mươi năm. Chiến tranh cũng là kết quả của việc không sẵn sàng chịu trách nhiệm về những tội ác của chủ nghĩa Stalin. Rất có thể Nga sẽ bị đánh bại về mặt quân sự trong cuộc chiến này. Nếu sau đó nó không còn tồn tại như một quốc gia, nó có thể giúp xóa bỏ tham vọng đế quốc của mình.

Ntv.de: Nga nên chấm dứt là một quốc gia?

Tôi nghĩ rằng rất có thể vì cuộc chiến này mà Liên bang Nga sẽ ngừng tồn tại và tách ra thành một số quốc gia độc lập. Ở Liên bang Nga có nhiều đơn vị quốc gia có thể trở thành quốc gia độc lập.

Ntv.de: Nhưng ý bà không phải là phương Tây nên tấn công và giải thể Nga?

Tất nhiên là không rồi. Tôi hy vọng rằng chế độ này sẽ sụp đổ sau thất bại ở Ukraine. Tôi cũng hy vọng rằng phương Tây sẽ hỗ trợ quân sự kiên quyết hơn cho Ukraine. Sau chiến tranh, phương Tây sẽ không bị lừa một lần nữa bởi luận điệu của Điện Kremlin rằng Nga cần “công nhận”, “bị xúc phạm” và phải “vương dậy”. Vào năm 2007, khi tôi và gia đình vẫn còn sống ở Nga, người bạn thân yêu của chúng tôi, Hans Ulrich Gumbrecht đã đến thăm chúng tôi …

… trí thức người Mỹ gốc Đức và giảng viên đại học.

Ông ấy đến thăm chúng tôi ở St. Petersburg. Chúng tôi rất quan tâm đến hướng đi của đất nước và ông ấy nói với chúng tôi rằng tạp chí Time vừa đặt tên cho Putin là “Người đàn ông của năm”. Việc đề cử Putin là “Người đàn ông của năm” là hoàn toàn không phù hợp: các cuộc tấn công của chế độ nhằm vào các tổ chức nhân quyền và tự do dân chủ đang diễn ra rầm rộ. Bây giờ khi tôi đọc được rằng các chính trị gia phương Tây đang hành hương đến Moscow để gặp Putin, hoặc rằng Macron dành hàng giờ để nói chuyện với Putin, tôi thấy điều đó thật đáng xấu hổ. Khi các chính trị gia phương Tây giao tiếp với tội phạm chiến tranh này trên cơ sở bình đẳng, họ phá hoại nền dân chủ ở chính quốc gia của họ. Một nhà nước mafia nên được đối đãi như những kẻ lừa đảo mafia.

Ntv.de: Vào ngày 9 tháng 5, trong bài phát biểu tại Moscow, Putin nói rằng Nga là “một quốc gia có tính cách khác biệt”. “Chúng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ tình yêu đối với quê hương, niềm tin vào các giá trị truyền thống, phong tục của tổ tiên của chúng tôi và tôn trọng tất cả các dân tộc và các nền văn hóa”. Ông ta muốn nói gì qua điều đó?

Câu trả lời cho câu hỏi này có hai khía cạnh. Đầu tiên, tôi không nghĩ rằng quá trình suy nghĩ của Putin đủ phức tạp để chúng ta phải bận tâm phân tích nó. Tôi nghĩ những gì ông ấy nói chủ yếu là những gì mà đội ngũ nghiên cứu chính sách KGB của ông ấy sản xuất ra. Người ta không được quên: Putin không phải là Napoléon hay Alexander Đại đế. Đây chỉ là một kẻ lừa đảo của KGB, một cách tình cờ hay may mắn, đã vươn lên đứng đầu quốc gia rộng lớn này. Tôi không phủ nhận khả năng nắm và giữ quyền lực của ông ấy, nhưng chúng ta không nên cho rằng ông ấy có những ý tưởng phức tạp. Khi ông ta và băng đảng của mình lên nắm quyền, họ không quan tâm đến hệ tư tưởng. Họ muốn cướp của đất nước.

Tới một thời điểm nào đó, họ tin rằng Nhà thờ Chính thống sẽ cung cấp cho họ một loại tính hợp pháp, nhưng Nhà thờ đã không thể làm như vậy. Vì vậy, phe cực hữu của Nga bắt đầu cung cấp cho Putin và những kẻ lừa đảo khác những ý tưởng đơn giản nhất về nước Nga và lịch sử Nga. Và bởi vì Putin và bạn bè ông ta không có dự án nào cho tương lai, họ chỉ có thể nhìn lại quá khứ và mô phỏng quá khứ: hãy làm giống như tổ tiên của chúng ta, hãy gắn bó với những giá trị bảo thủ! Các sự kiện lịch sử yêu thích của họ bao gồm chủ nghĩa Stalin và Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như thời Trung cổ của Nga, đặc biệt là thời kỳ của Ivan IV “Bạo chúa”, 1565-1572. Đây là hai thời kỳ khủng bố nhà nước ở Nga. Theo phe cực hữu ở Nga, những thời điểm này được coi là nền tảng cho việc xây dựng đế chế Nga. Sự tôn vinh hai trường hợp trị vì khủng bố này được phản ánh rất rõ ràng trong cái mà tôi gọi là nền chính trị tưởng nhớ thời tân trung cổ và nền chính trị của thời kỳ tái Stalin hóa mà Putin đã theo đuổi trong hai mươi năm qua.

Ntv.de: Putin cũng cho biết, Nga sẽ hỗ trợ đặc biệt cho con em của các binh sĩ thiệt mạng hoặc bị thương ở Ukraine. “Cái chết của mỗi quân nhân và sĩ quan của chúng ta là một nỗi đau cho tất cả chúng ta và là một mất mát không thể thay thế đối với gia đình và bạn bè của họ”. Về khả năng thuyế t phục, điều đó không khác gì cách các chính trị gia Mỹ nói về những người lính đã ngã xuống, phải không?

Khi Putin nói về “sự tôn trọng đối với tất cả các dân tộc và nền văn hóa”, ông ấy sử dụng ngôn ngữ phương Tây. Đây là tầng cấp thứ hai cần được xem xét để hiểu những phát biểu của Putin: Công chúng và các chính trị gia phương Tây nghe ông ta nói và nghĩ rằng ông ta có vẻ giống họ. Nhưng họ không nên nghe lời ông ta mà hãy nhìn vào hành động của ông ta: Cuộc chiến khủng khiếp ở Ukraine đã diễn ra hơn ba tháng nay – ông có thiệt nghĩ như vậy khi nói “tôn trọng tất cả mọi người”? Dân thường Ukraine bị khủng bố, các thành phố bị tàn phá, quân đội Nga sử dụng nhà hỏa táng di động cho chính binh lính của mình. Thi thể của binh sĩ Nga bị bỏ lại. Những người đàn ông trẻ tuổi, lớn hơn một đứa con trai một chút, được đưa vào một cuộc chiến vô nghĩa, đôi khi không có thẻ xác nhận. Khi họ chết, họ thậm chí không thể được xác định, vì vậy mẹ của họ sẽ không bao giờ biết số phận của họ. Đó là mức độ giễu cợt mà tôi không thể tưởng tượng có được ở các chính trị gia Mỹ và châu Âu. Ngoài ra, nhiều binh sĩ chết ở Ukraine còn quá trẻ để có con. Vì vậy, không có gì to tát khi Putin nói rằng ông sẽ hỗ trợ các con của họ.

Điều này làm tôi nghĩ tới những tuyên bố thông thường của Putin về sự độc đáo của nước Nga. Đối với tôi, điều đó giống như sự khởi đầu của chủ nghĩa phát xít ở Đức và Ý. Ý tưởng rằng Nga khác biệt, rằng nó là duy nhất: Điều này rất quan trọng đối với Putin và các hệ tư tưởng của ông, nó giúp họ loại bỏ Nga khỏi các chuẩn mực quốc tế và tuyên bố rằng Nga có phiên bản dân chủ của riêng mình và phương Tây không thể phán xét nếu nhân quyền hay tự do dân chủ bị vi phạm ở Nga. Điện Kremlin tuyên bố có quyền làm theo ý mình vì Nga là một nơi độc nhất.

Ntv.de: Gần đây, bà đã viết một bài báo trên tạp chí “The Atlantic“, trong đó bà đã cho là một cuốn tiểu thuyết không tưởng từ năm 2006 là một hình mẫu cho chính sách đối ngoại của chủ nghĩa đế quốc Putin: “Đế chế thứ ba” của Mikhail Yuriev. Trong cuốn tiểu thuyết này, một nhà cai trị người Nga tên là “Vladimir II”. lập nền tảng cho một đế chế bao gồm cả châu Âu. Sự mở rộng này bắt đầu với một cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine. Có bằng chứng nào cho thấy Putin biết cuốn sách này không?

Năm 2014, nhật báo Vedomosti của Nga gọi cuốn tiểu thuyết này là “cuốn sách yêu thích của Điện Kremlin” và viết rằng có tin đồn rằng nhiều thành viên trong chính quyền tổng thống, bao gồm cả Putin, đã đọc cuốn sách.

Ntv.de: Mikhail Yuriev là ai vậy?

Yuriev là một trong những nhà tư tưởng của phe cực hữu Nga, người đã cung cấp Putin với những tư tưởng tân phát xít của họ. Trước khi qua đời vào năm 2019, Yuryev thuộc về cái được gọi là – trong ngoặc kép – “giới tinh hoa chính trị”. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã cố gắng gây ảnh hưởng đến Putin. Năm 2004, ông xuất bản một tập sách nhỏ có tựa đề “Pháo đài nước Nga. Một khái niệm cho Tổng thống” – một năm sau khi nhà tài phiệt Mikhail Khodorkovsky bị bắt và bỏ tù vì tội trốn thuế và biển thủ. Khodorkovsky đã tìm cách ủng hộ phe đối lập với Putin, và việc ông bị bắt giam là một phần trong quá trình chuẩn bị cho việc Putin tái đắc cử nhiệm kỳ tổng thống thứ hai. Đây là lúc nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc Nga, bao gồm cả Yuryev, bắt đầu đưa ra các khái niệm tư tưởng của họ cho Putin.

“Đế chế thứ 3” phát hành 2006. (Ảnh bìa)

Yuryev là một trong những tác giả ẩn danh của bộ sách “Dự án nước Nga”, bộ sách cổ vũ tư tưởng của phong trào tân Âu-Á. Cùng một hệ tư tưởng chứa đựng trong cuốn sách Đế chế thứ ba của ông: Nga nên trở lại thời Trung cổ, Nga nên là một xã hội phụ hệ do một sa hoàng thần thánh lãnh đạo, Nga nên chinh phục phần còn lại của thế giới, phương Tây là kẻ thù không đội trời chung của Nga và phải bị phá hủy. “Dự án nước Nga” đã được gửi đến tất cả các cơ quan cao cấp trong chính phủ Nga vào năm 2005. Vài năm sau, nó được xuất bản thành sách bởi một trong những nhà xuất bản lớn nhất của Nga.

Ntv.de: Nghe có vẻ có ảnh hưởng khá lớn

Để cho bạn biết Yuriev thuộc nhóm quyền lực bên trong như thế nào, vào năm 1996, ông trở thành Phó Chủ tịch Duma. Cùng năm, Putin bắt đầu sự nghiệp của mình ở Moscow, trong chính phủ Yeltsin. Yuryev từng là thành viên ban điều hành của Đảng Á-Âu do “Rasputin của Putin” Alexander Dugin, một trùm phát xít khét tiếng, thành lập. Ông đã làm ăn với những người thân tín nhất của Putin: cùng với Alexander Voloshin, thành viên chính phủ của Putin từ năm 1999 đến 2003, và Roman Abramovich, một trong những nhà tài phiệt của Putin, Yuriev là nhà đầu tư vào công ty Ethane Company của Mỹ. Người bạn thân và cũng là người bảo trợ của Yuriev, Mikhail Leontyev, một nhà tuyên truyền khét tiếng có chương trình trò chuyện Odnako phát sóng vào khung giờ vàng trên Channel One, đã được CEO Igor Sechin của Rosneft bổ nhiệm làm phó chủ tịch công ty. Sechin thân thiết với Putin từ những ngày còn ở St. Petersburg và có lẽ là một trong những người có ảnh hưởng nhất xung quanh ông.

Ntv.de: Bìa cuốn sách của Yuryev cho thấy một thế giới được chia thành năm nước. Sự phân chia thế giới này có phải là kết cục của cuốn tiểu thuyết?

Cuốn tiểu thuyết bắt đầu với việc Nga chinh phục thế giới và khuất phục châu Mỹ và châu Âu. Nhưng đó không phải là chủ đề chính của cuốn sách. Hai phần ba quyển sách nói về trật tự xã hội mới ở Nga. Nó mô tả sự cai trị của oprichniks, một lực lượng quân cảnh do Ivan Bạo chúa thành lập vào thế kỷ 16. Cuốn sách tuyên truyền một chương trình xã hội tân trung cổ: Nga là một đế chế thần quyền và một xã hội giai cấp, trong đó mọi người sống theo tầng lớp xã hội kế thừa của họ. Các oprichniks cai trị đất nước với khủng bố trắng trợn, mà Juriev mô tả chi tiết đẫm máu. Họ có tất cả quyền lực chính trị. Hai giai cấp khác – các giáo sĩ chính thống và giai cấp thứ ba, bao gồm phần còn lại của dân chúng – không có bất kỳ quyền chính trị nào.

Ntv.tv: “Đế chế thứ ba” có phải là một phần chính trị tưởng nhớ mà bà đã đề cập đến không?

Cuốn sách hoàn toàn phù hợp với chính sách tưởng nhớ của Putin, việc Điện Kremlin chỉnh sửa ký ức lịch sử của người Nga, đã được thực hiện trong hơn hai mươi năm qua. Toàn bộ ý nghĩa  chính trị tưởng nhớ của Putin là làm cho người Nga tin rằng nước Nga thời trung cổ là một xã hội tuyệt vời, một sự thay thế tuyệt vời cho nền dân chủ, tốt hơn nhiều so với nền dân chủ. Mục tiêu của chính trị tưởng nhớ này là khôi phục đế chế, quân sự hóa dư luận xã hội và tuyên truyền khủng bố nhà nước như một truyền thống quốc gia vĩ đại.

Ntv.tv: Stalin có vai trò gì đối với hệ tư tưởng này và đối với công chúng Nga?

Có hai xu hướng quan trọng trong chính sách tưởng nhớ của Nga bổ sung cho nhau. Một là sự trở lại thời Trung cổ, được hỗ trợ bởi các bộ phim, phim truyền hình và các tượng đài. Xu hướng thứ hai là tái Stalin hóa: cam kết cởi mở với chủ nghĩa Stalin, đặc biệt là chủ nghĩa quân phiệt. Việc quân sự hóa công chúng thông qua việc sùng bái chiến thắng trong Thế chiến thứ hai là một khía cạnh quan trọng của quá trình tái Stalin hóa. Theo thông tin chính thức của Điện Kremlin, sự khủng bố của chủ nghĩa Stalin đã làm cho nước Nga trở nên mạnh mẽ hơn và giúp đạt được một đế chế Liên Xô của Nga. Vì vậy, khủng bố là tốt.

Ntv.tv: Người Nga trung bình không biết rằng Stalin phải chịu trách nhiệm về cái chết của hàng triệu người sao?

Có chứ. Có nhiều cuộc thăm dò dư luận – bao gồm cả cuộc thăm dò ý kiến ​​mà tôi đã thực hiện với Nikolay Koposov – cho thấy rằng người Nga được thông báo đầy đủ về mức độ của cuộc đàn áp.

Ntv.tv: Và họ vẫn thích ông ấy? Tưởng điều đó đóng một vai trò quan trọng.

Người ta có thể mong đợi điều đó, nhưng nó không xảy ra. Xã hội này chưa bao giờ bận tâm đến những câu hỏi về trách nhiệm lịch sử. Những gì chúng ta đang chứng kiến ​​ngày nay là nhu cầu khủng bố nhà nước, được xây dựng từ thời hậu Xô Viết thông qua chính trị tưởng nhớ. Thật không may, một bộ phận đáng kể dân chúng tin rằng khủng bố nhà nước, khi nó xảy ra, là vì lợi ích của nước Nga.

Ntv.tv: Có hai cách để dịch tiêu đề cuốn sách của Yuryev sang tiếng Đức, “The Third Imperium” hoặc “The Third Reich”. Đó có phải là một bản dịch bất công cho cuốn sách?

Ồ không, đó là một bản dịch tuyệt vời. “Đế chế thứ ba” gợi lên một ý nghĩa lịch sử rất phù hợp, đặc biệt là vì Yuriev – giống như nhiều nhà tư tưởng cực hữu khác của Nga – công khai nói rằng Đức Quốc xã đưa ra những mô hình tuyệt vời cho chính trị Nga. Càng nực cười hơn khi Putin và bộ máy tuyên truyền của ông ta gọi người Ukraine là “Quốc xã” – một dân tộc đã chọn dân chủ thay vì chủ nghĩa toàn trị của Putin.

Ntv.tv: Đó không phải là một kết luận đặc biệt đáng khích lệ cho cuộc phỏng vấn này.

Thời đại chúng ta đang sống và cuộc chiến ở Ukraine không đáng khích lệ. Thật không may, cho dù bạn có ở cách nước Nga bao xa, cho dù bạn có viết bao nhiêu bài chống lại chủ nghĩa Putin, thì khi bạn sinh ra trong nền văn hóa này như tôi, đều có ý thức trách nhiệm khủng khiếp này về cuộc chiến ở Ukraine, về tội ác của chủ nghĩa Putin, mà chúng tôi không thể ngăn cản được.

Một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài ở Ukraine sẽ gây ra những hậu quả to lớn trên toàn cầu

Một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài ở Ukraine sẽ gây ra những hậu quả to lớn trên toàn cầu

Phân tích của Stephen Collinson, CNN

Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine đang biến thành một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài nhiều tháng tàn sát con người nhiều hơn và sẽ truyền sóng chấn động từ cuộc tấn công dữ dội của Vladimir Putin tới hàng triệu người trên toàn cầu.

Người ta đang đánh giá lại thời gian, tính chất và chi phí của cuộc chiến vì sự chuyển chiến lược của Nga nhằm tránh sa lầy, cố chiếm Kyiv và lật đổ chính phủ để sang chiều hướng tái tập trung lực lượng quân sự ở các khu vực phía nam và phía đông.

Trong những ngày đầu của cuộc chiến cách đây sáu tuần, có vẻ như một chiến dịch của Nga có thể nhanh chóng tấn công đất nước và chiếm giữ thủ đô. Tuy nhiên, sự kháng cự quyết liệt của Ukraine, được hỗ trợ bởi vũ khí của phương Tây và thương vong nặng nề của Nga đã khiến Moscow phải thay đổi kế hoạch.

Tuy nhiên, việc tái phối trí sau khi để lại những dấu vết tàn bạo khủng khiếp được công bố cho thế giới, không có nghĩa là một cuộc chiến tàn khốc mà Putin không thể để mất sẽ gần kết thúc. Trên thực tế, nó khiến các lực lượng kinh tế, chính trị và quốc tế do xung đột gây ra sẽ kéo dài trong nhiều tháng và chính xác là một thiệt hại về người sâu sắc hơn.

Andrzej Duda – Tổng thống Ba Lan, quốc gia có biên giới với Ukraine – cho biết trong một cuộc phỏng vấn với CNN hôm thứ Tư rằng mục tiêu của Putin là rõ ràng.

Ông nói với Dana Bash của CNN thông qua một phiên dịch viên rằng: “Thực tế là các thường dân của Ukraine đang bị giết cho thấy rõ nhất mục tiêu của cuộc xâm lược của Nga là gì. Mục tiêu của cuộc xâm lược đó chỉ đơn giản là để diệt vong quốc gia Ukraine.”

Hậu quả của sứ mệnh tàn nhẫn của Nga sẽ không thể nào kiềm chế được ở châu Âu.

Chẳng hạn, Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen hôm thứ Tư đã cảnh báo về “những hậu quả to lớn” của cuộc xâm lược đối với nguồn cung cấp năng lượng và thực phẩm toàn cầu. Điều đó sẽ tạo ra một chuỗi hậu quả chính trị ở Mỹ và các thủ đô phương Tây.

Ngay lập tức ở Mỹ, cuộc chiến với giá xăng và giá hàng tạp hóa – vốn đã tăng lên do lạm phát cao – có thể có những tác động chính trị, bao gồm cả đối với đảng Dân chủ của Tổng thống Joe Biden trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ sắp diễn ra.

Một cuộc chiến kéo dài cũng sẽ gây ra những hậu quả nhân đạo khủng khiếp, với chiến lược tấn công các thành phố của Putin và những hành động tàn bạo rõ ràng mà quân đội của ông đã gây ra.

Trong khi thế giới đang nổi dậy bởi hình ảnh của những thường dân thiệt mạng, một số người rõ ràng là bị hành quyết tại các khu vực do quân đội Nga bỏ lại, thì nỗi kinh hoàng đang diễn ra ở các thành phố phía nam và phía đông bị bao vây có thể còn ở mức độ nguy hiểm hơn, nhưng sẽ khó khăn hơn cho người Ukraine và các nhà báo nước ngoài . Điều này làm tăng khả năng bị trừng phạt đối với một số tội ác chiến tranh tồi tệ nhất đã gây ra trên lục địa châu Âu, ít nhất là kể từ sau chiến tranh Bosnia, và có thể có từ sau Thế chiến thứ hai.

***

Putin sẽ thử nghiệm NATO bằng một cuộc chiến Ukraine kéo dài

Một cuộc chiến kéo dài cũng sẽ là một thử thách cam go về sự thống nhất của NATO, sau quyết tâm mạnh mẽ đáng ngạc nhiên của liên minh phương Tây.

Nó cũng sẽ chứa đựng một cuộc xung đột địa chính trị kéo dài thứ hai giữa Moscow và phương Tây. Putin sẽ tìm kiếm những cơ hội để mở ra những chia rẽ mới giữa các đối tác NATO khi ông tìm cách chiếm một mảnh đất ở phía đông để lấy cớ tuyên bố chiến thắng ở quê nhà.

Steve Hall, cựu Giám đốc phụ trách hoạt động của CIA tại Nga, cho biết trên CNN hôm thứ Tư rằng: “Phần đầu của cuộc chiến đã kết thúc và Putin đã thua phần đầu của cuộc chiến, khiến ông ấy thất vọng”.

“Tôi nghĩ chúng ta sẽ ở trong tình trạng này lâu dài và tôi nghĩ rằng đây sẽ là một cuộc chiến tranh tiêu hao. Nó sẽ rất khó khăn đối với Ukraine.”

Ông Biden đưa ra cảnh báo hôm thứ Tư rằng hòa bình sẽ khó nắm bắt trong nhiều tháng.

“Cuộc chiến này có thể tiếp diễn trong thời gian dài, nhưng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục sát cánh với Ukraine và người dân Ukraine trong cuộc chiến giành tự do”, ông Biden nói với các công đoàn ngành xây dựng ở Washington.

Lời cảnh báo của ông nhấn mạnh rằng toàn bộ nhiệm kỳ tổng thống của ông – sinh ra trong một cuộc khủng hoảng, một đại dịch của thế kỷ – giờ đây có khả năng được xác định bởi sự bế tắc lớn thứ hai của phương Tây với Điện Kremlin. Dư âm chính trị từ cuộc đụng độ có thể sẽ vang vọng ngoài cuộc bầu cử giữa kỳ vào tháng 11 và cuộc đua vào Nhà Trắng năm 2024. Việc 63 thành viên Đảng Cộng hòa, nhiều người trong số đó là những người ủng hộ hàng đầu của Donald Trump, đã bỏ phiếu chống lại nghị quyết ủng hộ NATO trong tuần này sẽ làm dấy lên lo ngại rằng việc cựu Tổng thống trở lại Nhà Trắng có thể phá vỡ sự đoàn kết của liên minh.

***

Putin vẫn muốn ‘toàn bộ Ukraine’

Cảnh báo rằng cuộc chiến Ukraine hiện có khả năng là một cuộc khủng hoảng bán thường trực đang rình rập phương Tây lần đầu tiên được Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg đưa ra vào hôm thứ Tư. Cựu Thủ tướng Na Uy cho rằng việc ông Putin tái triển khai quân không có nghĩa là ông đã từ bỏ mục tiêu lâu dài là chiếm được Kyiv.

“Chúng tôi không thấy dấu hiệu nào cho thấy Tổng thống Putin đã thay đổi tham vọng kiểm soát toàn bộ Ukraine và cũng để viết lại trật tự quốc tế, vì vậy chúng tôi cần chuẩn bị cho chặng đường dài”, ông Stoltenberg nói. “Chúng ta phải thực tế và nhận ra rằng điều này có thể kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm”.

Người đứng đầu NATO đã phát biểu trước cuộc họp vào thứ Năm tại Brussels, tại đó các bộ trưởng của liên minh sẽ thảo luận về các bước tiếp theo của họ trong việc trang bị vũ khí cho Ukraine. Tổng thống Volodymyr Zelensky đã yêu cầu cung cấp xe tăng và vũ khí hạng nặng. Cho đến nay, các quốc gia phương Tây chủ yếu gửi vũ khí chống tăng và phòng không tới Ukraine, những vũ khí có tác dụng giúp đẩy lùi bước tiến của Nga.

Nhưng bây giờ câu hỏi đặt ra là liệu có nên gửi vũ khí mà Ukraine có thể sử dụng để đẩy Nga ra khỏi nước này hay không, một quyết định có thể kéo phương Tây vào cuộc chiến hơn nữa. Biden đã ngăn chặn kế hoạch của Ba Lan gửi máy bay phản lực từ thời Liên Xô cho lực lượng không quân Ukraine.

“Tôi tin rằng những gì NATO đang làm chắc chắn là chưa đủ”, Thiếu tướng về hưu Dana Pittard nói với John King của CNN trên “Inside Politics” hôm thứ Tư.

“Mục tiêu phải là để các lực lượng Ukraine thực sự giành chiến thắng. Để làm được điều đó, họ sẽ không chỉ cần xe tăng ở đây, máy bay không người lái ở đó, tên lửa Javelin. Họ cần những hệ thống, họ cần đào tạo, họ cần hỗ trợ”, Pittard nói.

Sau đó, có những câu hỏi lớn hơn mà các nhà lãnh đạo đồng minh có thể phải đối mặt về sự cần thiết phải ngăn chặn Putin hơn nữa ở Đông Âu, trong bối cảnh lo ngại liên tục rằng cuộc chiến có thể lan sang một cuộc đụng độ trực tiếp giữa phương Tây và Nga.

Ngoại trưởng Anh Liz Truss vào cuối ngày thứ Tư đã kêu gọi suy nghĩ lại về thế trận an ninh của phương Tây. Ông Truss nói tại Brussels: “Thời đại gắn bó với Nga đã qua. Chúng ta cần một cách tiếp cận mới đối với an ninh ở châu Âu dựa trên khả năng phục hồi, khả năng phòng thủ và răn đe”.

***

Yellen cảnh báo về những chấn động kinh tế toàn cầu

Nền kinh tế thế giới đã phải đối mặt với những thách thức gay gắt trước khi Putin xâm lược Ukraine.

Đại dịch đã làm gián đoạn nghiêm trọng chuỗi cung ứng toàn cầu, góp phần đẩy lạm phát cao hơn. Giờ đây, các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với nền kinh tế Nga không chỉ trừng phạt Putin mà còn đang gây ra phản ứng dữ dội ở các quốc gia áp đặt chúng.

Thứ nhất, giá xăng tăng cao cùng với việc Nga đóng cửa phần lớn thị trường dầu toàn cầu. Biden đã công kích “việc tăng giá của Putin” trong một nỗ lực nhằm chống đỡ chính trị với các cử tri vốn đã có tâm trạng chua chát khi nghĩ về bầu cử giữa kỳ.

Vào hôm thứ Tư, Yellen đã nêu ra viễn cảnh về sự gián đoạn toàn cầu kéo dài hơn do một cuộc chiến kéo dài ở Ukraine. “Hành động của Nga thể hiện sự sỉ nhục không thể chấp nhận được đối với trật tự toàn cầu dựa trên luật lệ và sẽ gây ra những hậu quả kinh tế to lớn ở Ukraine và hơn thế nữa”, Yellen nói với một ủy ban của Hạ viện. Bà cũng cảnh báo rằng các quốc gia đang phát triển đang phải đối mặt với gánh nặng nợ nần chồng chất và các cuộc đấu tranh để thoát khỏi Covid-19 có thể đặc biệt dễ bị tổn thương.

Tuy nhiên, cuối cùng, viễn cảnh chiến tranh kéo dài nhiều tháng nữa – ở một đất nước bị cắt đứt bởi cuộc xâm lược tàn bạo của Putin – sẽ thử thách lòng dũng cảm, sự đoàn kết và sức mạnh trụ vững của chính người dân Ukraine. Sự man rợ được đưa ra ánh sáng trong những ngày gần đây có thể chỉ là bước khởi đầu. Ví dụ như Mariupol, nơi hàng nghìn dân thường vẫn bị mắc kẹt trong một thành phố đã biến thành đống đổ nát sau nhiều tuần bị Nga ném bom.

“Thế giới chưa từng chứng kiến quy mô của một thảm kịch như ở Mariupol kể từ sau các trại tập trung của Đức Quốc xã”, ông thị trưởng Vadym Boychenko của thành phố cho biết trong một tuyên bố. “Những kẻ ruscists (phát xít Nga) đã biến cả thành phố của chúng tôi thành một trại tử thần.”

Một cuộc chiến kéo dài trong nhiều tháng hoặc nhiều năm có thể khiến phần lớn đất nước phải chịu chung số phận vô nhân đạo.

https://www.cnn.com/2022/04/07/politics/ukraine-war-of-attrition/index.html

From: TU-PHUNG

Hà Nội, đồng minh ởm ờ của Washington

Hà Nội, đồng minh ởm ờ của Washington

Bởi  AdminTD

Jackhammer Nguyễn

10-4-2022

Ngày 7/4/2022 tại trụ sở Liên Hiệp quốc ở New York, Mỹ; Việt Nam đã bỏ phiếu chống lại việc loại Nga ra khỏi Hội đồng Nhân quyền của tổ chức này. Các cơ quan truyền thông Việt Nam dẫn lời ông Đặng Hoàng Giang, đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp quốc, rằng Việt Nam chống lại việc tàn sát dân thường, nhưng các thông tin phải được kiểm chứng. Báo chí Việt Nam không nói đến lá phiếu chống của Việt Nam.

Cùng ngày đó, đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Marc Knapper, có mặt tại Cần Thơ để bàn về những kế hoạch bảo vệ môi trường tại vùng đồng bằng quan trọng này của Việt Nam. Tại đây ông cam kết sự ủng hộ của Mỹ với Việt Nam.

Một bên là âm thanh cuồng nộ của những hỏa tiễn Nga bắn vào trạm xe lửa Ukraine, giết chết 50 dân thường, trong đó có cả trẻ em, bên kia là những cái bắt tay thân mật giữa các viên chức Việt – Mỹ trong không gian oi ả, nhưng hãy còn yên bình của đồng bằng Cửu Long.

Không có gì diễn tả rõ ràng hơn cuộc hôn nhân thương mại Việt – Mỹ bằng những ngày đầu tháng Tư này. Bên kia bờ đại dương, tổng thống Biden gọi Putin là tên đồ tể (từ mà Hà Nội dùng gọi chế độ Polpot ở Cambodia trước đây), trong khi tại Cần Thơ, người đại diện cao nhất của Hoa Kỳ tại Việt Nam không hề nhắc tới nước Nga, mà thả hồn mình vào những cảm xúc cố tri với vùng sông Hậu.

Như vậy là sau khi Nga xâm lược Ukraine hơn một tháng, Hà Nội đã ba lần bỏ phiếu ngược lại với Washington. Lần đầu vào ngày 2-3-2022, Hà Nội bỏ phiếu trắng cho nghị quyết lên án cuộc xâm lược. Lần thứ hai, ngày 24-3-2022 Hà Nội cũng bỏ phiếu trắng cho nghị quyết kêu gọi Nga chấm dứt hành động xâm lược Ukraine, cũng như kêu gọi cộng đồng quốc tế tăng cường viện trợ nhân đạo cho Ukraine. Lần thứ ba, ngày 7-4-2022, Hà Nội bỏ phiếu chống lại chuyện trục xuất Moscow ra khỏi Hội đồng Nhân quyền.

Cả ba lần, Việt Nam bỏ phiếu giống hệt Trung Quốc, mà dư luận cho rằng Hà Nội đang đứng về phía Bắc Kinh và Moscow để chống Mỹ. Một số người dự đoán rằng, nếu có những lần bỏ phiếu sắp tới liên quan tới cuộc xâm lược của Nga ở Ukraine, Hà Nội cũng sẽ không dám bỏ phiếu ngược lại với Bắc Kinh.

Thế nhưng, phía Mỹ vẫn không có vẻ phiền trách gì Việt Nam cả. Trước cuộc xâm lăng, Mỹ làm ngơ cho Việt Nam mua vũ khí Nga, làm ngơ luôn những vi phạm nhân quyền bên trong Việt Nam, thế thì cũng không có gì lạ khi bây giờ Mỹ làm ngơ nốt thái độ của Việt Nam về chuyện Nga và nhân quyền.

Việt Nam là một hiểm địa trong cuộc đối đầu Mỹ –Trung hiện nay, với hơn 1000 km biên giới đất liền với Trung Quốc, một bờ biển dài hơn 3000 km ở biển Đông, và quan trọng hơn cả, Việt Nam là quốc gia hiểu rõ Trung Quốc nhất trên thế giới này.

Kể từ khi bắt đầu dính líu đến Việt Nam từ năm 1945, người Mỹ ngày càng hiểu Việt Nam hơn, và bây giờ chính là lúc áp dụng sự hiểu biết đó.

Tôi hoàn toàn đồng ý với sự so sánh của ông Khang Vu, một nhà quan sát người Việt ở Mỹ. Ông Khang Vu cho rằng, Mỹ xem quan hệ với Việt Nam hiện nay giống như Mỹ quan hệ với Trung Quốc sau khi cặp đôi Nixon – Kissinger đi đêm, rồi đi ngày với Bắc Kinh. Trước kia Mỹ liên minh không công khai với Trung Quốc để xé toạc Liên Xô cộng sản, nay Mỹ liên minh không công khai với Việt Nam để đối đầu với Trung Quốc.

Tùy vào mục tiêu toàn cầu của người Mỹ mà họ thay đổi các dự án của mình. Năm 1972, khi thấy cần thực hiện dự án chống Liên Xô với con bài Trung Quốc, người Mỹ bèn kết thúc dự án Việt Nam Cộng hòa. Có vẻ như hiện nay họ bắt đầu dự án mới trong đó Việt Nam là một phần rất quan trọng để chống Trung Quốc. Tương tự như vậy, dự án Afghanistan không còn cần thiết nữa, họ bỏ ngay, không đoái hoài gì đến hàng ngàn phương tiện vũ khí để lại vương vãi khắp nơi, cũng như năm 1973, sau khi rút khỏi miền Nam Việt Nam, họ để lại cả ngàn máy bay.

Rất chắc chắn, Việt Nam cộng sản đang nằm trong một dự án của Mỹ chống Bắc Kinh. Trong các dự án như vậy, Washington cũng đã từng không ngại ngùng sử dụng những chế độ độc tài, cũng như họ liên minh với Hà Nội hiện nay. Rõ ràng nhất là vào thời chiến tranh lạnh, Mỹ liên minh với các chế độ độc tài Nam Triều Tiên, Đài Loan, Bồ Đào Nha để chống cộng sản. Tại Nam Mỹ, Mỹ giúp nhà độc tài Pinochet lật đổ tổng thống dân cử Allende của Chile, để nhằm chặn đứng phong trào cánh tả tại lục địa này. Tất cả các chế độ này, theo tiêu chuẩn bên trong nước Mỹ về tự do ngôn luận, tự do bầu cử, … đều không thỏa mãn.

Hà Nội biết rõ như vậy. Trong cuộc chiến Ukraine hiện nay, Hà Nội chủ trương im lặng càng nhiều càng tốt, cực chẳng đã lắm họ mới bị bắt buộc phải xuất hiện ở diễn đàn Liên Hiệp quốc, khẽ khàng bỏ phiếu trắng và phiếu chống, phát biểu không nhắm tới quốc gia nào cả. Và dường như họ đã thành công, báo chí Mỹ không thấy họ đâu cả, thế là không bình luận gì về họ.

Bên cạnh đó họ nỗ lực “đi đêm”, họ nói với người Mỹ rằng, cả hai bên đâu cần mang danh chiến lược làm gì cho phiền, mà chỉ cần thực chất thôi. Không rõ ông thủ tướng Phạm Minh Chính khi gặp ngài tân đại sứ Knapper có nói điều gì quan trọng không, mà ông Knapper nói tại Cần Thơ rằng, Mỹ khẳng định sự cam kết của họ với vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Điều quan trọng hiện nay của Hà Nội là giữ cho việc đàn áp trong nước không tăng lên, không quá đáng đến mức đánh động các nhà lập pháp của Mỹ. May mắn cho họ là cũng chẳng còn bao nhiêu những nhân vật bất đồng chính kiến, hay các tổ chức đối lập nào gây cho họ lo ngại để mà đàn áp.

Nhưng không phải họ hoàn toàn thành công với kiểu quan hệ “đồng sàng dị mộng” đó với người Mỹ. Là quốc gia lớn hàng thứ nhì ở Đông Nam Á, chính sách ngoại giao ởm ờ, lặn sâu đó của họ là một chính sách thụ động, sẽ làm cho Việt Nam phí phạm vị trí địa chính trị đắc địa của mình. Họ đã để cho anh láng giềng Singapore bé nhỏ qua mặt, trong những động tác ngoại giao của nước này gần đây. Thủ tướng Singapore bất ngờ xuất hiện tại tòa Bạch Ốc, không cần đợi đến thượng đỉnh Mỹ-ASEAN, hiện vẫn chưa biết sắp xếp ra sao.

Hà Nội cũng không tự tin lắm đối với dư luận trong nước về hồ sơ Nga-Ukraine, vì dân chúng trong nước ngày càng chịu ảnh hưởng mạnh của truyền thông phương Tây, thông qua mạng xã hội, hay thậm chí là báo chí chính thống. Hà Nội đã không dám công bố với dân chúng Việt Nam rằng, họ chống lại việc trục xuất Nga ra khỏi Hội đồng Nhân quyền ở Liên Hiệp quốc.

Mà liệu dự án Việt Nam hiện nay của Mỹ có kéo dài hay không? Thiết nghĩ “đồng sàng dị mộng” chẳng có điều gì tốt đẹp, hơn nữa có một câu nói của người Việt xưa nay là “già néo đứt dây”!

Nói rằng Việt Nam là quan trọng với vị trí địa chiến lược của mình và kinh nghiệm Trung Quốc, điều đó đúng. Nhưng nói rằng Mỹ là một siêu cường, có nhiều khả năng, nhiều con bài trong tay, họ có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Điều này đúng và đúng hơn điều kia.

Và Hà Nội có nghĩ tới khả năng Trung Quốc thay đổi chiến lược khi nhìn thấy đồng minh Nga Putin èo uột quá?

Khi ấy không khó để nghĩ tới chuyện Mỹ – Trung đề huề tại biển Đông.

Xin nhắc lại dự án Việt Nam Cộng hòa với một góc nhìn khác.

Khi Trung Quốc tấn công Hoàng Sa vào năm 1974, tàu chiến Mỹ ở gần đó im lặng, dù Việt Nam Cộng hòa vẫn là đồng minh. Lâu nay Hà Nội hay lấy kinh nghiệm đó để nói rằng không nên dính líu quá nhiều đến Mỹ để có thể bị bỏ rơi. Sự sụp đổ của chính phủ thân phương Tây của Afghanistan gần đây lại thêm một ví dụ nữa về góc nhìn này.

Xin hãy nhìn hai trường hợp đó từ một góc khác, rằng đó là hai đồng minh không hoàn hảo, với sự yếu kém về tổ chức, quân sự lẫn chính trị, hai đồng minh đó trở thành gánh nặng cho nước Mỹ khi họ chuyển đổi dự án.

Hãy so sánh với Đài Loan và Nam Hàn. Hai chế độ độc tài đã chuyển đổi sang dân chủ thành công, và họ trở thành hai đồng minh rất mạnh, san sẻ gánh nặng cho Mỹ. Hãy nhìn sự giúp sức của phương Tây cho Ukraine kể từ cuộc nổi dậy Maidan 2014, và cuộc chiến đấu hiện nay của quân Ukraine chống Nga xâm lăng. Sự hiệu quả của nền dân chủ Ukraine non trẻ rơi đúng vào bàn cờ chiến lược phương Tây.

Vụ rút quân ra khỏi Afghanistan và những chuyến đi “chuyển trục” tới tấp của Mỹ sang châu Á, nói rằng Mỹ không hề muốn cuộc xâm lăng Ukraine diễn ra, nhưng khi nó diễn ra thì họ giúp đỡ cật lực cho Kyiv, vì Ukraine là một nền dân chủ, và sẵn sàng làm đồng minh, không ỡm ờ, không lặn sâu.

Còn đồng minh ỡm ờ Việt Nam sẽ ra sao, khi một mặt bắt tay với Mỹ, trong khi hành động thì đứng về phía Trung Quốc? Hãy nhìn lại lịch sử sau chiến tranh năm 1975, Hà Nội đã chậm hơn Bắc Kinh trong việc bình thường hóa quan hệ với Washington, để rồi phải hứng chịu cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, lẽ ra đã tránh được.

Vladimir Putin và Viktor Orban

Vladimir Putin và Viktor Orban

11/04/2022

Viktor Orban chịu khuất phục Vladimir Putin cũng dễ hiểu; giống như học trò phục thầy.

Khi nào dân Nga, dân Hungary được thi hành các quyền đó, các ông Vladimir Putin và Viktor Orban sẽ hết chỗ.

Nói những điều dối trá trắng trợn là cố ý sỉ nhục người nghe. Đó cũng là một cách thử thách xem người kia đã chịu khuất phục mình hay chưa. Sử Ký Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, kể chuyện “chỉ lộc vi mã.” Thời Trần Nhị Thế, Thừa tướng Triệu Cao nói muốn dâng vua con ngựa, nhưng sai đem đến một con hươu. Ông vua lắc đầu, bảo con ngựa làm gì có sừng! Triệu Cao chỉ con hươu hỏi các đại thần; nhiều người công nhận đó chính là một con ngựa. Nhị Thế chịu thua.

Thứ Tư tuần trước, Tổng thống Nga Vladimir Putin gọi điện thoại chúc mừng Tổng thống Hungary Viktor Orban, mới thắng cử lần nữa. Theo báo The Moscow Times, trong cuộc điện đàm ông Putin đã tố cáo chính phủ Ukraine gây hấn một cách “thô bạo và trâng tráo” bằng cách bịa đặt ra hình ảnh những xác chết ở Bucha sau khi quân Nga rút đi.

Không ai có thể “bịa đặt” được hai hố chôn tập thể với 320 thi hài đã sình thối rải rác trên đường trong một hai ngày sau khi quân Ukraine chiếm lại được Bucha. Phóng viên báo The Economist kể sau khi đi một vòng kiểm chứng trở về quần áo còn thấy mùi.

The Moscow Times không cho biết ông Orban phản ứng thế nào khi nghe ông Putin nói dối trắng trợn. Có lẽ ông Orban không phản đối, như mấy ông quan Tần nghe Triệu Cao “chỉ hươu nói ngựa.”

Viktor Orban chịu khuất phục Vladimir Putin cũng dễ hiểu; giống như học trò phục thầy. Orban làm tổng thống Hungary 10 năm sau khi Putin lên ngôi ở Nga; đã học được ông thầy các mánh khóe củng cố địa vị độc tài. Orban học được đủ các ngón nghề. Nắm lấy các cơ sở truyền thông công và tư để kiểm soát dư luận. Các đại gia chịu làm tay sai được thả cho làm giàu, trúng những mối thầu lớn; rồi mua hết các báo, đài lớn của tư nhân. Từ đó nói cùng một luận điệu như các báo, đài chính phủ. Dối trá, vu cáo, dựng lên những mối đe dọa từ bên ngoài khiến dân sợ hãi cầu mong một lãnh tụ anh minh đứng ra cứu nước. Thay đổi hiến pháp và luật bầu cử để bảo đảm phe đảng của mình chiếm được nhiều ghế nhất trong quốc hội. Trấn áp những người đối lập để ngoài mình ra dân không còn thấy ai để lựa chọn. Dùng tài sản quốc gia để ban phát ân huệ.

Trước ngày bỏ phiếu ông Orban đã gia tăng trợ cấp cho người già về hưu. Ông ra lệnh cấm tăng giá thực phẩm và thuốc men, cắt thuế cho những người lợi tức thấp, chuyện lạm phát đang tăng lên 8.3% và ngân sách khiếm hụt sẽ tính sau. Ông đe dọa dân chúng rằng nếu phe đối lập thắng họ sẽ kết thân với Cộng Đồng Âu châu hơn, sẽ ủng hộ Ukraine mạnh hơn. Nếu muốn Hungary không bị lôi cuốn vào chiến tranh thì hãy bỏ phiếu cho đảng Fidesz!

Những biện pháp mua chuộc lòng dân và các lời đe dọa đó giúp Fidesz thêm phiếu, nhưng Viktor Orban đã tin chắc sẽ thắng vì trong các năm qua đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi để thao túng các cuộc bầu cử. Đảng đã Fidesz được 53% số phiếu, nhưng chiếm 135 ghế, hai phần ba số ghế trong quốc hội, phần lớn nhờ những đơn vị ở nông thôn! Phe đối lập chiếm 35% nhưng chỉ được 56 ghế. Các luật lệ về bầu cử được ban hành trong 10 năm qua giúp Fidesz chiếm địa vị này.

Trước ngày bầu cử, nhật báo The New York Times kể chuyện ở trong ngôi làng Kispalad nhỏ bé, nằm phía Đông Bắc, giáp giới Ukraine. Năm 2014, ông xã trưởng thuộc đảng Fidesz đang lo bị thất cử. Ông mời bà Jozsefne Sanko đến nói chuyện. Bà chuyên nghề hái dưa, khi có việc làm, khi không. Ông xã trưởng nói với bà rằng xã có thể sắp xếp để cả gia đình bà có việc làm chắc chắn. Ông chỉ yêu cầu bà ký tên xác nhận 135 người đang sống trong nhà bà, họ sẽ là cử tri, có quyền bỏ phiếu. Những người đó là dân Ukraine, không sao. Con trai bà, Adam Sanko, nói với nhà báo, “Ở đây không có việc làm. Cho nên mẹ tôi đã chịu ký những tờ giấy chứng nhận đó.”

Đến ngày bỏ phiếu, các “cử tri” đã qua bỏ phiếu vì họ có địa chỉ ở Hungary. Họ đi bằng xe hơi, xe đạp hay xe buýt, bỏ phiếu xong lại về nước. Phương pháp dùng “cử tri du khách” này rất thịnh hành ở các vùng quê Hungary.

Trước ngày dân Hungary bỏ phiếu lãnh tụ đối lập Peter Mari-Zay đã được đảng Xanh, đảng Xã hội, đảng Thiên Chúa Giáo Bảo Thủ, tất cả sáu đảng ủng hộ. Nhưng ông Mari-Zay chỉ được lên truyền hình công cộng vận động dân chúng một lần duy nhất, trong 5 phút! Còn đảng cầm quyền thì được đề cao quanh năm suốt tháng. Ông mỉa mai nói cám ơn chính phủ, trong bốn năm trời, đã cho phép ông được nói 5 phút.

Bà Klara Dobrev, một đại biểu của Hungary trong quốc hội Âu châu tố cáo: “Gian lận bầu cử không phải chỉ bắt đầu lúc 7 giờ sáng khi phòng phiếu mở cửa. Nó đã diễn ra từ bao nhiêu năm rồi!” Các báo, đài công cộng do tiền thuế của người dân nuôi dưỡng chứ không phải tiền của đảng Fidesz. Bà Dobrev lên án: “Sử dụng tài nguyên chung của quốc gia để tuyên truyền cho một đảng chính trị là cái gì? Rõ ràng là gian lận bầu cử.”

Những lãnh tụ độc tài kiểu Vladimir Putin và Viktor Orban coi tài sản quốc gia như của riêng mình. Họ ban phát ân huệ cho phe đảng bằng các chức vụ trong các doanh nghiệp nhà nước. Họ ưu đãi cho đàn em khai thác tài nguyên quốc gia, rừng, biển, quặng mỏ. Họ dùng tất cả các cơ quan truyền thông nhà nước để quảng cáo cho chính mình và đảng mình. Mỗi chế độ độc tài đều là một “chế độ ăn cướp.”

Tại sao những quốc gia đã có các hiến pháp dân chủ có thể đưa các thủ lãnh độc tài lên như vậy? Chúng ta không quên rằng nước Pháp đã thiết lập chế độ dân chủ nhiều lần trong lịch sử, rồi quay trở lại vương chế, có lúc còn suy tôn một hoàng đế mang tên Napoleon, hai lần. Adolf Hitler lần đầu lên cầm quyền cũng vì được dân Đức bầu dưới chế độ Cộng Hòa. Napoleon và Hitler còn mất công sửa đổi bản hiến pháp trước khi cai trị chuyên chế. Nhiều tay lãnh tụ khác không mất thời giờ như vậy. Họ củng cố địa vị độc tài bằng cách thao túng chế độ trong khuôn khổ của bản hiến pháp.

Cần phải phân biệt hai khái niệm Dân Chủ và Tự Do. Thể chế Dân Chủ chỉ là một cái khung nhà, cái vỏ bọc bên ngoài. Nội dung căn bản là Tự Do. Khi nào một chính quyền bắt đầu cấm đoán quyền tự do của người dân, tất cả phải thấy đó là một dấu hiệu báo động. Vladimir Putin và Viktor Orban đã gậm nhấm dần dần các quyền tự do của dân Nga và dân Hungary từ khi lên nắm quyền. Hai quyền quan trọng nhất là tự do báo chí và tự do hội họp.

Bắt bỏ tù một nhà báo, các nhà chính trị đối lập. Triệt hạ một đài truyền hình bằng cách gây khó khăn cho công ty chủ nhân trong các hoạt động kinh doanh khác; để sau cùng thương lượng cho phe đảng mình mua lại. Đàn áp các cuộc biểu tình. Ngăn cản các hội đoàn trong xã hội công dân. Đó đều là những tiếng chuông báo nguy.

Mất tự do thì không còn dân chủ. Vậy trong khuôn khổ ngôi nhà hiến pháp dân chủ, cái gì có thể giúp bảo vệ các quyền tự do? Thể thức phân quyền có thể vẽ ra coi rất đẹp, nhưng chưa đủ. Các lãnh tụ độc tài biết cách thao túng cả ba ngành hành pháp, lập pháp, và tư pháp.

Yếu tố quan trọng nhất trong các bản hiến pháp dân chủ không phải chỉ là phân quyền mà là đặt ra các định chế nhằm giới hạn quyền hành của những chức vụ nắm quyền. Giới hạn bằng luật pháp chưa đủ, còn phải giới hạn bằng dư luận và phản ứng của người dân nữa. Do đó, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp cần tôn trọng nhất. Khi nào dân Nga, dân Hungary được thi hành các quyền đó, các ông Vladimir Putin và Viktor Orban sẽ hết chỗ.

Hiện tượng Ukraine

Hiện tượng Ukraine

Trần Gia Phụng (Danlambao) – Điều dễ nhận thấy là các nước Đông Âu luôn luôn nằm giữa hai thế lực chính trị quan trọng. Trước đây là đế quốc Áo-Hung ở phía tây, và đế quốc Nga về phía đông. Từ thế chiến thứ hai (1939-1945), các nước Đông Âu nằm giữa Đức Quốc Xã và Liên Xô. Hai nước nầy đều độc tài, nhưng hoàn toàn khác nhau về ý thức hệ chính trị, và cả hai đều lăm le nuốt trọn Đông Âu, Ngày nay, Đông Âu cũng nằm giữa hai khối chống đối nhau: Môt bên là NATO (North Atlantic Treaty Organization) tức Liên Minh Bắc Đại Tây Dương, lúc đầu gồm các nước tự do dân chủ Tây Âu và Hoa Kỳ, sau có thêm một số nước Đông Âu sau khi thoát ra khỏi khối cộng sản (CS), và bên kia là Cộng Hòa Nga là một nước hậu CS. Tổng thống Nga Vladimir Putin vốn là một sĩ quan công an CS Liên Xô. Liên Xô bị sụp đổ năm 1991, đổi thành Cộng Hoa Nga.

Trong số các nước Đông Âu hiện nay, các nước giáp giới về phía đông với Nga từ bắc xuống nam là Estonia, Latvia, Belarus va Ukraine. Ukraine là nước rộng nhứt và có nhiều dân gốc Nga ở phía đông. Hai nước Estonia và Latvia là thành viên của NATO từ 29-3-2004. Bealarus và Ukraine chưa gia nhập NATO. Nói chung, hai nước nầy đều trung lập, và chịu nhiều ảnh hưởng của Nga.

Bản đồ Đông Âu (Internet)

Vị trí địa lý của các nước Đông Âu gần giống như trướng hợp Việt Nam ở Đông Nam Á. Việt Nam nằm về phía đông của Indochina (Anh ngữ) hay Indochine (Pháp ngữ). Rõ ràng Indochina là chữ ghép lại từ hai địa danh là India (Ấn Độ) và China (Trung Hoa). Hai nước India và China có hai nền văn hóa và văn minh cổ xưa rất khác nhau. Ngày nay, Indochina cũng nằm giữa hai thế lực chính trị đối kháng nhau. Đó là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa theo chủ nghĩa CS, độc đảng độc tài toàn trị một bên, và bên kia là Hoa Kỳ cùng các nước Tây phương, chủ trương tự do dân chủ.

Năm 2014, hai vùng Donetsk và Lugansk ở phía đông của Ukraine gồm đa số là dân Nga, tách ra ly khai khỏi Ukraine và thành lập hai nước cộng hòa biệt lập. Lúc đầu, hai nước cộng hòa mới nầy được một số nước nhỏ công nhận, và cho đến ngày 21-2-2022, tổng thống Nga Vladimir Putin công nhận nền độc lập của hai nước nầy.

Có thể vì việc nầy, tổng thống Ukraine là Volodymyr Oleksandrovych Zelensky, một chính khách độc lập, liền cắt đứt quan hệ ngoại giao với Nga ngày 24-2-2022. Tổng thống Nga quan ngại rằng đây là dấu hiệu Ukraine nghiêng về NATO, liền xua quân đánh Ukraine cùng ngày đó.

Hành động của Vladimir Putin gần giống như hành động của lãnh tụ Đức Quốc Xã là Aolf Hitler trước thế chiến thứ hai. Ngày 1-9-1939, Hitler xua quân tấn công Ba Lan, vì trước đó một tuần, ngày 25-8-1939, Ba Lan ký hiệp định liên minh quân sự với Anh Quốc. Việc nầy làm cho Hitler lo ngại rằng quân đội và võ khí Anh sẽ đến Ba Lan và đe dọa Đức Quốc. Vì vậy, Hitler ra tay trước, xua quân tấn công Ba Lan ngày 1-9-1939. Ba ngày sau, Anh Quốc cùng Pháp trả đũa Đức Quốc Xã ngày 3-9-1939. Thê là thế chiến thứ hai bùng nổ. Phải chăng nhà dộc tài Vladimir Putin đã học theo bài học của nhà độc tài Adolf Hitler, hay lịch sử đã tái diễn?

Khi Nga, một cường quốc trên thế giới, đưa quân xâm lăng Ukraine, hầu như ai cũng nghĩ rằng Ukraine sẽ nhanh chóng sụp đổ, nhưng không ngờ là Ukraine đã anh dũng chống trả mãnh liệt, chận đứng, hoặc ít ra cũng đã làm chậm lại bước tiến của quân Nga, đúng như câu ca dao lịch sử của người Việt chúng ta thường truyền tụng: “Nực cười châu chấu đá xe / Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng.”

Thiên hạ còn mỉa mai rằng tổng thống Ukraine, ông Volodymyr Oleksandrovych Zelensky, chỉ là một diễn viên hài kịch, hay nói nôm na là một “tên hề” trên sân khấu kịch nghệ. Và thiên hạ còn bàn tán rằng một “tên hề” thì làm sao cai trị đất nước và làm sao lãnh đạo quân đội trong cuộc kháng chiến chống xâm lược?

Tuy nhiên, dù bị lực lượng hùng hậu của Nga tấn công, dù bị đe dọa, ám sát, và ba lần thoát chêt, dù đã được Hoa Kỳ mời di tản ra nước ngoài, nhưng ông Zelensky tuyên bố chiến đấu đến cùng, cương quyết ở lại Ukraine, lãnh đạo dân chúng Ukraine chống lại cuộc xâm lăng của Nga. Chưa biết tương lai sẽ như thế nào, nhưng cho đến nay, bàn dân thiên hạ trên thế giới đều phải công nhận ông Zelensky là một người yêu nước vĩ đại, cùng sống chết với toàn dân Ukraine chiến đấu chống ngoại xâm. Như thế, kinh nghiệm Ukraine cho thấy thà bầu “tên hề” làm lãnh đạo, còn hơn là bầu lãnh đạo lên làm tên hề, như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. “Cuba thức Việt Nam ngủ…” đúng là sản phẩm khôi hài đen “ma dề [made] in Việt Nam.”

Trong cuộc kháng chiến nầy, ngoài tổng thống Zelensky anh hùng, có thể nói toàn dân Ukraine đều anh hùng. Những thanh niên Ukraine đưa gia đình đi lánh nạn, rồi quay trở về làm nhiệm vụ chiến binh. Những người phụ nữ can đảm nếu không được ở lại để chiến đấu, thì tuyên bố chấp nhận hy sinh, một mình đưa gia đình ra đi lánh nạn, để chồng ở lại chiến đấu, chống ngoại xâm. Cuộc chiến đấu anh dũng của người Ukraine trong nước chẳng những làm cho thế giới khâm phục, mà thế giới còn khâm phục hơn nữa khi nhiều người Ukraine đang sống an vui, sung sướng và thanh bình ở nước ngoài, đã tình nguyện xin về nước để góp sức chiến đấu Đây mới đúng là đất nước anh hùng như thời nhà Trần chúng ta chống quân Nguyên.

Trong cuộc chiến đấu anh dũng của toàn dân Ukraine chống lại quân Nga xâm lược, truyền thông thế giới loan tin rằng quân đội Ukraine đã chận đứng được quân Nga nhờ sử dụng tài tình và hữu hiệu hai loại võ khí quan trọng.

Loại thứ nhứt là những máy bay không người lái (drone). Có hai loại drone. Drone làm công việc thám thính, theo dõi đối phương, rồi thông báo tin tức đối phương về hậu cứ để các chuyên viên hậu cứ lên chương trình tấn công địch thủ. Loại thứ hai là loại drone được các chuyên viên dựa vào những tin tức đó, rồi đặt chất nổ lên drone, và gởi đi tấn công mạnh mẽ các đoàn quân Nga xâm nhập vào Ukraine, làm cho quân Nga tiến thoái lưỡng nan, như ăn phải gân gà, nuốt vào không được, mà nhả ra cũng không xong.

Loại võ khí quan trọng thứ hai là các hỏa tiển FGM 148 JAVELIN, là loại võ khí chống tăng tầm trung rất hữu hiệu, dễ di chuyển, dễ sử dụng do Hoa Kỳ sản xuất, có thể là quân đội Nga chưa có, hoặc cũng có thể quân đội Nga chưa biết đến.

Sự kiện nầy khiến chúng ta chú ý thêm một điều là chiến tranh là cơ hội sử dụng, trình diễn và tiêu thụ võ khí, giúp cho sự phát triển kỹ nghệ quân sự. Sau thế chiến thứ hai, Liên Xô (nước Nga CS) viện trợ võ khí còn tồn đọng từ thế chiến hai cho các nước và các tổ chức thiên tả trên thế giới, từ Á Châu, qua Phi Châu, Nam Mỹ, nhằm tranh đấu để thiết lập các chế độ CS. Chính Liên Xô đã gia tăng viện trợ quân sự gấp bốn (4) lần cho Bắc Việt Nam để Bắc Việt Nam có điều kiện tấn công Nam Việt Nam, trong khi Nam Việt Nam bị phía Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ lớn lao sau hiệp định Paris ngày 27-01-1973, đưa đến kết quả ngày 30-4-1975.

Khi Liên Xô chuyển qua Cộng Hòa Nga năm 1991, kỹ nghệ võ khí Nga tiếp tục phát triển tuy âm thầm nhưng mạnh mẽ, chẳng những cần phải có thị trường tiêu thụ, mà còn cần phải có cơ hội thí nghiệm võ khi và thi triển võ công mới, võ khí mới, để chào hàng với thế giới và chiêu dụ khách hàng, cạnh tranh với các nước khác.

Ukraine là cơ hội thuận tiên cho Putin biểu diễn võ công. Vì vậy, Putin mở cuộc chiến tranh ở Ukraine không phải chỉ vì vấn đề Donetsk và Lugansk, mà còn để tiêu thụ kho võ khí mà Nga đã sản xuất, giới thiệu các sản phẩm quân sự của Nga, và chiêu khách để bán võ khí.

Vì vậy Putin ra lệnh tấn công Ukraine đúng như câu nói của các cụ đồ nho Việt Nam ngày xưa: “Đột phá nhứt điểm, khai thông toàn bộ” (tấn công một điểm, mở ra toàn bộ), nghĩa là Nga chỉ cần đánh Ukraine, thì Nga có thể mở ra được nhiều lối thoát bế tắc của Nga.

Dĩ nhiên các cường quốc kỹ nghệ võ khí Tây phương cũng không bỏ lỡ cơ hội, đáp ứng ngay cuộc tấn công của Nga, dựa vào thời cơ rất thuận tiện, gởi ngay võ khí giúp Ukraine chống lại Nga một cách hợp lý, hợp tình, hợp pháp, đồng thời bán ngay võ khí cho các nước láng giềng của Ukraine để các nước nầy tự phòng thân, vì biết đâu Putin sẽ dựa vào những lý do vu vơ, tiếp tục lấn sân, tiếp tục tung quân xâm lăng các nước Đông Âu khác như đã xâm lăng Ukraine.

Gần đây, tổng thống Ukraine là Zelenski lên TV kêu gọi Hoa Kỳ và NATO thiết lập vùng cấm bay ở Ukraine, để ngăn cản hoạt động của phi cơ Nga trên vòm trời Ukraine, nhưng Hoa Kỳ và NATO không đáp ứng. Theo tin truyền thông Tây phương, Hoa Kỳ và NATO không thiết lập vùng cấm bay trên vòm trời Ukraine, vì quan ngại quân đội Hoa Kỳ và NATO sẽ đụng độ với quân đội Nga, thì chiến tranh sẽ lan rộng, có thể đưa đến thế chiến thứ ba. Điều nầy thoạt nghe thì hợp lý và nhân bản, nhưng Hoa Kỳ và NATO lại khẩn cấp viện trợ võ khí cho Ukraine thì cũng là một cách tiếp tay với Ucraine chống Nga, vậy cũng có thể làm cho chiến tranh lan rộng.

Ở đây, xin chú ý rằng, nếu thiết lập vùng cấm bay trên không phận Ukraine, thì Nga không có cơ hội thi triển võ khí mới của Nga, như máy bay, hỏa tiễn, súng đạn… Nếu thế thì các địch thủ của Nga (tức Hoa Kỳ, NATO) không có cơ hội tìm hiểu, quan sát, nghiên cứu võ khí của Nga đã sản xuất trong thời gia gần đây. Đồng thời các nước địch thủ của Nga cũng sẽ không có cơ hội cung cấp, bán thêm sản phẩm quân sự, võ khí, máy bay, hỏa tiễn, súng đạn, quân nhu cho các nước có nhu cầu phòng thủ và chống Nga như Ukraine và các nước Đông Âu khác. Vì vậy chuyện cấm bay trên vòm trời Ukraine khó xảy ra. Ngày nay, phức trạng kỹ nghệ quân sự (military industrial complex) sinh lợi không kém các loại kỹ nghệ khác trên thế giới, kể cả kỹ nghệ xe hơi.

Một hiện tượng rõ ràng nhứt là từ trước đến nay, do ảnh hưởng của tuyên truyền, người ta cho rằng Nga là một cường quốc quân sự, võ khí hiện đại tối tân như Hoa Kỳ, nhưng qua những ngày chiến tranh vừa qua, sức mạnh võ khí của Nga không như người ta tưởng, mà chỉ là huyền thoại đồn đãi mà thôi, khác với Hoa Kỳ.

Có một điểm khá quan trọng xảy ra sau “hiện tượng Ukraine”, là ở Nga dân tình chia rẽ khá trầm trọng. Một điều hiếm thấy là sau khi Nga đưa quân vào Ukraine, thì ở bên trong nước Nga xảy ra nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh Ukraine, chống Putin. Quân đội và cảnh sát Nga đã vất vả dẹp bỏ biểu tình và bắt bớ dân chúng. Chẳng những thế, truyền thông Nga nói chung, tức các hãng thông tấn, báo chí, truyền hình, không được đưa tin chiến sự ở Ucraine, mà chỉ loan tin là quân Nga đang qua Ukraine để giúp nhân dân Ukraine xây dựng đất nước. Sao mà rất giống với truyền thông, báo chí, truyền hình Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay quá vậy?

Điều nầy ngược lại ở Hoa Kỳ. Tin tức báo chí cho biết hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vốn hiện tranh chấp nhau quyết liệt, nay lại cùng nhau lên án Nga và đòi hỏi trừng phát Nga. Vì vậy, lúc đầu tổng thống Biden còn lưỡng lự, nhưng sau khi thấy lưỡng đảng đồng tình lên án Nga, tổng thống Biden liền quyết định trừng phạt kinh tế, ngưng mua dầu khí của Nga.

Cho đến nay, cuộc xâm lăng của quân Nga vào Ukraine chưa kết thúc. Kết quả cuối cùng chưa ngã ngũ. Tuy nhiên cả thế giới đều thấy rõ, chiến tranh Ukraine là một hiện tượng lịch sử đặc biệt sau một thời gian dài hòa bình ở Âu Châu, nhắc nhở rằng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc luôn luôn âm thầm nuôi dưỡng con người đứng lên bảo vệ quê hương khi lâm nguy. Và cuồng vọng xâm lăng, làm bá chủ thiên hạ không còn chỗ đứng trong tâm thức của loài người chúng ta. HIỆN TƯỢNG UKRAINE đã chứng minh điều đó.

(Texas, 08-03-2022)

Trần Gia Phụng

danlambaovn.blogspot.com

Những câu nói bất hủ về chủ nghĩa cộng sản

Những câu nói bất hủ về chủ nghĩa cộng sản

1).Người cộng sản làm cách mạng không phải để mang đến hạnh phúc cho người dân, mà họ làm cách mạng để người dân mang hạnh phúc đến cho người cộng sản.

(Đức Đạt Lai Lạt Ma)

2). Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh và là loài trùng độc sinh sôi nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời.

(Đức Đạt Lai Lạt Ma)

3).Cộng sản sinh ra từ nghèo đói và ngu dốt, lớn lên bằng dối trá và bạo lực và sẽ chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của nhân loại.

(Đức Đạt Lai Lạt Ma)

4).Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối .

( Thủ tướng Đức Angela Merkel )

5).Tôi lớn lên trong chủ nghĩa cộng sản tại Đông Đức và tôi hiều rõ về họ: cộng sản là chủ nghĩa gian trá và man rợ nhất của nhân loại! Chủ nghĩa cộng sản là một vết nhơ của loài người và thế giới văn minh!

(Thủ tướng Đức Angela Merkel)

6).Chủ nghĩa cộng sản là giấc mơ của vài người, nhưng là cơn ác mộng của nhân loại .

(Nhà văn , nhà thơ, nhà viết kịch ,…Victor Hugo)

7).Khi thấy thằng cộng sản nói láo , ta phải đứng lên và nói nó nói láo . Nếu không có can đảm nói nó nói láo , ta phải đứng lên ra đi , không ở lại nghe nó nói láo . Nếu không có can đảm bỏ đi , mà phải ngồi lại nghe , ta sẽ không nói lại những lời nó nói láo với người khác .

(Nobel lauréat /laureate,  Văn hào Nga Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn)

8).Những người theo xã hội chủ nghĩa muốn làm mọi việc tốt hơn bằng cách lấy hết tiền mọi người , và có những người cộng sản muốn làm mọi việc tốt hơn bằng cách giết hết mọi người trừ họ ra .

(Văn hào Richmal Crompton)

9).Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản . Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá .

(Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô , awarded Nobel prize in 1990 , Mikhail Sergeyevich Gorbachev) .

10).Cộng sản không thể nào sữa chữa mà cần phải đào thải nó .

(Cố Tổng thống Nga Boris Nicholalevich Yeltsin)

11).Chủ nghĩa xã hội là một hệ tư tưởng của sự thất bại, là tiếng kêu của sự ngu dốt, là lời truyền giáo của sự ganh tị , ưu điểm của nó là chia xẻ đồng đều sự nghèo khổ .

(Cố Thủ tướng Anh , Sir Winston Leonard Spencer Churchill)

12).Chủ nghĩa tư bản không chia đều sự thịnh vượng, nhưng chủ nghĩa xã hội lại chia đều sự nghèo khổ!

(Cố Thủ tướng Anh , Sir Winston Leonard Spencer Churchill)

13).Chủ nghĩa cộng sản là logic cuối cùng khi nhân loại không còn tồn tại .

(Đức cố Tổng giám mục Fulton John Sheen )

14).Vấn đề của chủ nghĩa xã hội là tới lúc nào đó nó sẽ xài hết tiền của người khác !

(Cố Thủ tướng Anh Margaret Hilda Thatcher)

15).Nền kinh tế  chủ nghĩa xã hội hoạt đông dựa trên tư tưởng rằng: sự hiểu biết của một nhóm người cao rộng hơn sự hiểu biết của hàng trăm triệu người. Đây là một sự suy nghĩ cực kỳ kiêu ngạo.

(Nhà kinh tế học Friedrich August von Hayek)

16).Chủ nghĩa xã hội nói chung đã thất bại rõ tới độ chỉ có những nhà trí thức mù mới có thể không nhìn thấy (xin phép dịch thoát ý một chút).

(Nhà kinh tế học Thomas Sowell —> Socialism in general has a record of failure so blatant that only an intellectual could ignore or evade it. )

17).Tôi hiểu người cộng sản … hiểu sự xấu xa và gian dối của đảng cộng sản .

(Cố Thủ tướng Singapore, Lý Quang Diệu )

18).Chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại nếu không có TỰ DO, chủ nghĩa cộng sản không thể tồn tại nếu cho phép TỰ DO .

(Nhà kinh tế học , Milton Friedman, Nobel prize  for Economics in 1976 )

19).Hãy nhìn bao nhiêu người từ các xứ cộng sản đã liều chết vượt biên, vượt biển qua các xứ tư bản tự do, nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta biết nhân loại đã lựa chọn ra sao .

( Nhà kinh tế học, Milton Friedman , Nobel prize  for Economics in 1976 )

20).Khi bạn thấy một người mập đứng kế một người ốm, không có nghĩa là người mập lấy bớt phần ăn của người ốm . Nhưng đây là cách suy nghĩ của chủ nghĩa xã hội .

(khuyết danh)

21).Làm thế nào để bạn biết người đó là một người cộng sản? Đó là những người đọc Marx và Lenin. Và làm thế nào để bạn biết người đó là người chống cộng sản? Vì người đó hiểu Marx và Lenin.

(Cố Tổng thống Mỹ Ronald Wilson Reagan )

22).Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể thành công ở hai nơi :

– Thiên đường, nơi mà không cần có nó .

– Địa ngục, nơi mà nó đã có rồi.

(Cố Tổng thống Mỹ Ronald Wilson Reagan )

23).Tôi có một câu hỏi cho các nhà lãnh đạo của các nước cộng sản: nếu chủ nghĩa cộng sản có tương lai, thì tại sao các ông phải xây những bức tường (điển hình là bức tường Berlin) để giữ mọi người lại, và dùng quân lực và cảnh sát chìm để bắt công dân của các nước ông im lặng?

(Cố Tổng thống Mỹ Ronald Wilson Reagan )

24).Chấm dứt chiến tranh không phải đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho hòa bình là hàng ngàn năm tăm tối cho các thế hệ Vietnam sinh về sau !

(Cố Tổng thống Mỹ Ronald Wilson Reagan)

25).Nếu Việt cộng thắng thì toàn thể Quốc gia Việt Nam sẽ bị tiêu diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung hoa cộng sản. Hơn nữa toàn dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài vong bản, vô gia đình, vô tổ quốc,vô tôn giáo của cộng sản Việt Nam.

(Cố Tống thống Đệ nhất Viêt Nam Cộng Hòa, Ngô Đình Diệm)

26). Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm!

(Cố Tổng thống Đệ nhi Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Văn Thiệu)

27).Đảng cộng sản Việt Nam đã hi sinh hơn 2 triệu cán binh của họ để biến toàn thể nước Việt Nam thành một nước cộng sản toàn trị. Nhưng cuối cùng họ lại dùng chủ nghĩa tư bản để làm giàu cho chính họ! Vậy hơn 2 triệu người Việt Nam chết để làm gì?

(Nhà văn Dennis Mark Prager , one of America ‘s most respected Radio Talk Show hosts)

28).Giải mã nhân vật Hồ Chí Minh chính là giải mã lịch sử bất hạnh của dân tộc Việt Nam .

(Truth 23)

Các nước dân chủ không bao giờ đánh nhau?

Các nước dân chủ không bao giờ đánh nhau? 

Luật Khoa

Tìm hiểu mối quan hệ giữa dân chủ, hòa bình và chiến tranh.

On 01/03/2022

By  VINCENTE NGUYEN

Ảnh nền: Lính Ukraine sau một đợt tấn công của lực lượng Nga tại Kyiv vào ngày 26/2/2022. Nguồn: AFP. Bìa sách: Amazon.

“Học thuyết hòa bình dân chủ” (democratic peace theory) là một trong những học thuyết quan trọng và được đánh giá cao nhất trong hệ thống nghiên cứu quan hệ quốc tế đương đại.

Không hề quá lời nếu cho rằng thuyết hòa bình dân chủ là thứ gần nhất mà khoa học chính trị có thể tạo ra để tiệm cận với cái gọi là “luật” trong việc tìm hiểu nguyên tắc, định hướng và tương lai của chiến tranh trên thế giới.

Thuyết hòa bình dân chủ không phải là một học thuyết khó hiểu, tuy nhiên, nó có rất nhiều biến thể nhánh và quan điểm học thuật khác nhau. [1] Cái gốc quan trọng nhất của học thuyết này là việc khẳng định các nền dân chủ sẽ không tham gia vào các cuộc chiến tranh chống lại nhau.

Lý do quan trọng nhất là các thiết chế dân chủ – bao gồm bầu cử cạnh tranh, đa nguyên chính trị và tự do ngôn luận – đảm bảo rằng các lãnh đạo được bầu lên sẽ theo ý của đa số dân chúng. Và vì chiến tranh ảnh hưởng tiêu cực đến phần lớn người dân, những lãnh đạo nào khơi mào chiến tranh sẽ dễ dàng bị người dân phế bỏ quyền lực qua phiếu bầu.

 

Người dân Đài Loan bỏ phiếu trong cuộc bầu cử vào tháng 1/2020. Ảnh: How Hwee Young/ EPA-EFE/ Shutterstock.

Tuy nhiên, liệu dân chủ có giúp các quốc gia này hạn chế tham chiến chống lại những quốc gia “không dân chủ”, bao gồm cả những quốc gia dân chủ phi cấp tiến (non-liberal democracy) và hoàn toàn không dân chủ (non-democratic)?

Trong bối cảnh Nga xâm lược Ukraine, nhiều nhà quan sát đã cho rằng đây là một ví dụ khá kinh điển của thuyết hòa bình dân chủ khi mà Nga, một nhà nước đang dần đi đến con đường toàn trị, đã không thể chia sẻ hay trao đổi mong muốn chính trị của mình một cách bình thường với nền dân chủ Ukraine và các nền dân chủ châu Âu.

Liệu thuyết hòa bình dân chủ có thật sự là một học thuyết khả dụng?

Để cùng tìm hiểu, người viết xin giới thiệu đến bạn đọc quyển sách có tên gọi “Puzzles of the Democratic Peace: Theory, Geopolitics and the Transformation of World Politics” của Karen A. Rasler và William R. Thompson, hai giáo sư chính trị trường Đại học Indiana, Hoa Kỳ. [2]

Đây là quyển sách cô đọng với tương đối đầy đủ thông tin, cả ủng hộ lẫn thách thức thuyết hòa bình dân chủ, để chúng ta có thể có một cái nhìn toàn cảnh về vấn đề này.

Dân chủ và hòa bình: trứng và gà cái nào có trước?

Vấn đề đầu tiên mà quyển sách đặt ra là liệu chúng ta có tiếp cận sai về mối liên hệ nhân quả giữa các nền dân chủ và hòa bình hay không. Bởi một khả năng khác là việc duy trì nền hòa bình giữa các quốc gia mới chính là yếu tố tạo điều kiện cho quá trình phát triển và thực hành dân chủ.

Hai tác giả gọi đây là “peace ↔ democratic dyads” (tạm dịch là nhị nguyên hòa bình và dân chủ) trong các thảo luận chính trị liên quan, và sẽ rất dễ rơi vào vòng luẩn quẩn ngụy biện nếu chúng ta không có nền tảng lịch sử và phương pháp luận vững chắc.

Các tác giả dẫn ra nhiều nghiên cứu định lượng lẫn định tính nhằm xác định sự thật của mối quan hệ nhị nguyên giữa hòa bình và dân chủ với các nhóm kết quả khó lòng xác định rõ khác.

Ví dụ, nhóm tác giả đồng tình với nhiều nghiên cứu rằng sự thắng thế của mô hình dân chủ trên toàn thế giới trước tiên là nhờ vào chiến tranh, mà cụ thể nhất là kết quả của hai cuộc thế chiến. Theo đó, liên minh của các nền dân chủ đánh bại liên minh của các chính thể chuyên chế và từ đó tạo nền tảng cho sự lan tỏa của mô hình dân chủ. Họ giả định, nếu liên minh dân chủ thất thủ, tầm ảnh hưởng của định chế dân chủ trên thế giới chắc chắn sẽ suy giảm trầm trọng.

Như vậy, xét theo bình diện lịch sử, chiến tranh thật ra lại tạo ra động lực cho làn sóng dân chủ.

Lính Mỹ cắm cờ tại Iwo Jima trong trận chiến với quân Nhật vào tháng 2/1945 trong Thế chiến II. Ảnh: AP Photo/ Joe Rosenthal.

Tương tự, nhóm tác giả cũng nhìn nhận rằng có nhiều nghiên cứu tìm ra được những biến/ tiêu chí khác có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu chiến tranh của các quốc gia, và hòa bình hay không không nhất thiết chỉ phụ thuộc vào biến “dân chủ”. Các tiêu chí này bao gồm: nguồn nội lực và tài nguyên trong nước (domestic resources), vị trí địa lý và áp lực lãnh thổ từ bên ngoài (external threats), cán cân quyền lực cũng như truyền thống tập trung quyền lực của một quốc gia (traditional power concentration), v.v.

Với những thông tin tổng hợp này, hai tác giả tự tìm kiếm mô hình riêng của mình để xác định tầm ảnh hưởng thực tế của dân chủ đối với hòa bình và đưa ra được một mô hình tương đối hoàn chỉnh. Theo đó, các thứ tự ưu tiên để xây dựng một nền hòa bình chung là:

  1. Các mối nguy hại khu vực thấp (low external threat) => 
  2. Lượng tài nguyên nội địa không cao (low domestic resource) => 
  3. Lịch sử tập trung quyền lực chính trị nội địa không cao (low power concentration) => 
  4. Dân chủ hóa thành công (democratisation) => 
  5. Giảm trừ các hành vi gây hấn (less conflict behavior).

Hai nhà nghiên cứu từ đó khẳng định, thuyết hòa bình dân chủ về cơ bản là không sai. Quá trình dân chủ hóa có mối quan hệ đặc biệt quan trọng với xu hướng giảm thiểu các hành vi gây hấn, chiến tranh.

Tuy nhiên, họ cũng cho thấy là còn rất nhiều biến khác trước đó ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến khả năng dân chủ hình thành, bao gồm các áp lực an ninh từ bên ngoài hay tài nguyên nội địa (tài nguyên nội địa quá cao thường khó xây dựng chính quyền dân chủ).

Cách tiếp cận nhị nguyên vì vậy được cho là có vấn đề. Song rõ ràng có tồn tại sự kết nối hữu cơ giữa dân chủ và hòa bình.

Mô hình nhà nước trong bối cảnh xung đột?

Đi xa hơn những quan sát về mối liên hệ giữa dân chủ và hòa bình, hai tác giả còn tìm cách cân đo đong đếm xem liệu các mô hình chính thể khác nhau (giữa hai thái cực dân chủ và không dân chủ) có phản ứng gì khác biệt dưới áp lực xung đột hay không.

Tiếp cận với nội dung này bằng nghiên cứu định tính và nghiên cứu vụ việc thay vì định lượng, hai tác giả đưa ra những thảo luận hết sức có ý nghĩa để cân nhắc vai trò của thiết chế dân chủ và cách mà nó gây ảnh hưởng lên phương thức mà những nhà lãnh đạo đưa ra các quyết định liên quan đến chiến tranh.

Các thảo luận dẫn đến kết luận tương đối giống với phần mà chúng ta vừa phân tích ở trên, khi mà những vấn đề như áp lực quốc tế, định chế bộ máy nhà nước có hiệu quả không và công luận có những phản ứng như thế nào, v.v. đều có tác động ảnh hưởng.

Những biến này có thể rất khác nhau ngay giữa những nền dân chủ, bởi mỗi nền dân chủ tự thân nó cũng có đặc điểm lịch sử, định chế nhà nước hoàn toàn khác biệt. Yếu tố dân chủ vì vậy được xem là quá chung chung để tìm ra một kết quả đúng trong mối quan hệ nhị nguyên dân chủ – hòa bình.

Tuy nhiên, theo các tác giả, điều này cũng có thể giúp khẳng định vai trò của một nền dân chủ mạnh trong việc kiểm soát ngôn ngữ hiếu chiến và các chiến dịch tuyên truyền chiến tranh trong nội bộ các quốc gia.

*** 

Các thảo luận chất lượng, bao hàm cả định tính lẫn định lượng, giúp cho độc giả của quyển sách có một tầm nhìn bao quát hơn về thuyết hòa bình dân chủ.

Chúng ta hiểu rằng dân chủ và hòa bình chỉ là hai biến rất nhỏ trong rất nhiều những biến khác cần phải cân nhắc để có thể đưa ra nhận định phù hợp. Bản thân các nền dân chủ cũng không nhất thiết phải tương đồng với nhau về trình độ, định chế chính trị hay quan điểm dân tộc chủ nghĩa của các nhóm dân cư.

Cách tiếp cận của quyển sách cũng giúp chúng ta có những quan sát khoa học và kỹ lưỡng hơn về cuộc xâm lược mà Nga đang phát động trước Ukraine.

Ngày 24/2/2022, Nga tấn công xâm lược Ukraine. Ảnh: The Times.

Ví dụ, việc nền kinh tế Nga tiếp tục dựa dẫm vào tài nguyên và lịch sử tập quyền từ thời Sa Hoàng cho đến nay khiến Nga gặp nhiều trở ngại trong việc xây dựng một nền dân chủ lành mạnh.

Mặt khác, dù người dân Ukraine liên tục cố gắng xây dựng nền dân chủ đúng nghĩa, những rủi ro an ninh đến từ việc sống cạnh Nga luôn sản sinh ra những nhóm chuyên quyền, cực đoan (mà cụ thể các nhóm cực hữu dân tộc chủ nghĩa) để đối phó với mối lo kề cận.

Tuy không phải là một quyển sách dễ đọc, người viết cho rằng đây là một tài liệu khách quan và đầy đủ về thuyết hòa bình dân chủ và những vấn đề của nó.

Bài học từ cái chết của nền dân chủ Hong Kong

Bài học từ cái chết của nền dân chủ Hong Kong

M.V.P.

Các nhà đấu tranh dân chủ Hong Kong điều trần trước Quốc Hội Mỹ ngày 17 Tháng Chín, 2019. (Ảnh: Kalynh Ngo)

Kể từ khi Vương quốc Anh trao trả lại Hong Kong cho Bắc Kinh năm 1997, người Hong Kong đã phải đối mặt với rất nhiều trấn áp của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tiêu diệt dân chủ. Vô số các cuộc biểu tình có tổ chức chặt chẽ, với sự tham gia đông đảo của người dân: từ Phong trào Dù vàng gây chấn động thế giới năm 2014, đến các cuộc xuống đường rầm rồ phản đối dự luật An ninh Quốc gia năm 2019. Có thể nói, nhiều đoàn thể đấu tranh dân chủ ở các quốc gia độc tài toàn trị xem phong trào dân chủ Hong Kong là tấm gương tiêu biểu trong văn hoá tổ chức chính trị. Tuy nhiên, những ngày mà Hong Kong được đánh giá là pháo đài Dân Chủ Tự Do đã và đang dần phai mờ trong ký ức.

Trung Quốc đã giết chết dân chủ Hong Kong ra sao?

Kể từ cuối năm 2019 tới giữa năm 2020, thế giới thường xuyên chứng kiến phong trào dân chủ Hong Kong liên tục biểu tình phản đối luật An ninh Quốc gia. Theo bản báo cáo của khoa Luật, Đại học GeorgeTown, đạo luật này tạo ra “những mối nguy nghiêm trọng nhất với nhân quyền và pháp trị của Hong Kong kể từ khi được Anh quốc trao trả lại cho Trung Quốc”. Bất chấp làn sóng phản đối dữ dội của người Hong Kong, đạo luật mơ hồ và rừng rú này vẫn được Quốc hội thông qua vào ngày 30 Tháng Sáu, 2020.

Joshua Wong, Dennis Ho, Sunny Chueng tại buổi điều trần về dân chủ Hong Kong trước Quốc Hội Mỹ ngày 17 Tháng Chín, 2019. Ảnh: Kalynh. Ngo.

Kể từ thời điểm đó, nền dân chủ của Hong Kong cũng bị phá huỷ. Hàng ngàn người biểu tình và hơn một trăm nhà lãnh đạo của phong trào dân chủ, trong số đó là các nhà báo, giáo sư, luật sư, nhà hoạt động, và sinh viên, đã bị chính quyền Hong Kong bắt giữ và khởi tố tội phản động. Tháng Ba, 2021, chính quyền Hong Kong giới thiệu dự luật yêu cầu bất kỳ ai tranh cử vào các chức vụ địa phương sẽ phải là một “người yêu nước” – nghĩa là họ phải thề trung thành không chỉ với các cử tri, mà còn với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hàng trăm thành viên hội đồng quận của Hong Kong đã từ chức hoặc bị cách chức. Ngay cả những người tuyên thệ sẽ trung thành cũng bị loại bỏ nếu nhà chức trách nghi ngờ những lời cam kết của họ.

Các phương tiện truyền thông độc lập của Hong Kong đóng vai trò thiết yếu đối với quyền tự do và dân chủ của thành phố tự trị này. Tuy nhiên, họ đã bị chính quyền đàn áp dữ dội. Tuần giữa Tháng Sáu, 2021, khoảng 500 cảnh sát đã đột kích các văn phòng của tờ báo ủng hộ dân chủ nổi tiếng, Apple Daily, và ngay sau đó, tờ báo này cũng tuyên bố sẽ chấm dứt hoạt động.

Vào tuần cuối cùng của Tháng Mười Hai, 2021, Stand News, một trang web độc lập ủng hộ dân chủ, đã bị hàng trăm cảnh sát đột kích, bảy biên tập viên, thành viên hội đồng quản trị, và một nhà báo đã bị bắt. Tổ chức này cho biết trang web sẽ bị gỡ xuống. Vài ngày sau đó, ngày 3 Tháng Giêng, 2022, Citizen News, một trang web tin tức trực tuyến nhỏ ở Hong Kong được biết đến với thông tin chuyên sâu về các tòa án và chính trị địa phương, cho biết họ sẽ ngừng xuất bản. Tháng Chín, 2021, Citizen News là tờ báo đầu tiên loan báo rằng, các công tố viên sẽ khởi tố tội lật đổ chính quyền đối với nhóm tổ chức lễ đốt nến tưởng niệm hàng năm cho các nạn nhân của cuộc đàn áp Thiên An Môn năm 1989. Sự đàn áp thô bạo của chính quyền thân Trung Quốc làm tăng thêm lo ngại về cái chết được báo trước của truyền thông độc lập Hong Kong.

Không chỉ dừng lại ở đó, chính quyền Hong Kong còn mạnh tay đàn áp các tổ chức dân sự và chính đảng đối lập, là những tổ chức đóng vai trò tối quan trọng trong việc bảo vệ và duy trì dân chủ. Các tổ chức ủng hộ dân chủ và công đoàn đã bị giải thể, bao gồm công đoàn giáo viên và công đoàn thương mại lớn nhất Hong Kong. Mặt trận Nhân quyền Dân sự (Civil Human Rights Front) là nhóm lãnh đạo đã tổ chức một số cuộc biểu tình lớn nhất trong năm 2019 cũng đã bị giải thể.

Khi thế giới chuẩn bị chào đón năm 2022, thì nền dân chủ Hong Kong lại bị Trung Quốc giáng thêm “đòn tử”. Cột Trụ Tủi Nhục (Pillar of Shame), một tác phẩm nghệ thuật tưởng nhớ những người thiệt mạng trong cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ tại Quảng trường Thiên An Môn ngày 4 Tháng Sáu, 1989, đã bị dỡ bỏ sau hơn hai thập kỷ. Trụ cột cao tám mét đặt tại trường Đại học Hong Kong, được thực hiện bởi nhà điêu khắc người Đan Mạch Jens Galschioet, thể hiện nỗi đau và sự tuyệt vọng cho những gì đã xảy ra. Mỗi năm vào ngày 4 Tháng Sáu, các sinh viên sẽ lau rửa tượng đài để tưởng nhớ gần chục ngàn nạn nhân của vụ thảm sát do nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc gây ra.

Biểu tượng phong trào Dù Vàng 2014 của người dân Hong Kong. Ảnh: ALEX OGLE/AFP via Getty Images

Trong tác phẩm nổi tiếng, nhà văn người Pháp, gốc Tiệp Khắc (Czech Republic), đã viết về quá trình bôi trắng lịch sử có chủ đích của cộng sản Liên Xô, sau khi Liên Xô xâm chiếm quê hương của ông vào năm 1948: “Bước đầu tiên trong việc tiêu diệt một dân tộc là xóa sạch ký ức. Phá hủy sách, văn hóa, lịch sử của dân tộc đó. Sau đó, nhờ một ai viết sách mới, sản xuất một nền văn hóa mới, phát minh ra một lịch sử mới. Chẳng bao lâu nữa dân tộc đó sẽ quên quá khứ và hiện tại của mình. Thế giới thậm chí sẽ còn quên nhanh hơn nữa.”

Lịch sử đã ghi nhận, Cột Trụ Tủi Nhục là biểu tượng của khát vọng dân chủ, nhưng cũng là vết nhơ tủi nhục của cộng sản Bắc Kinh. Bởi thế, chúng xoá sạch lịch sử để người Hong Kong, Trung Quốc, và thế giới quên đi Thiên An Môn.

Bức tượng “Pillar Of Shame” trước khi bị phá bỏ. (Ảnh: Louise Delmotte/Getty Images)

Sự đàn áp độc ác của chính quyền phò Bắc Kinh đối với phong trào dân chủ đối mặt với sự chỉ trích mạnh mẽ của Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hai đầu tàu dân chủ này dường như “lực bất tòng tâm” trong nỗ lực cứu nền dân chủ Hong Kong, ngoài việc tiếp tục liên minh với các nước dân chủ để tạo sức ép ngoại giao và kinh tế. Ngay tại Hoa Kỳ, nền dân chủ cũng đương đầu với vô vàn cam go. Năm 2021, dân chủ Hoa Kỳ đã rớt xuống mức thấp nhất từ trước đến nay trong bảng xếp hạng dân chủ toàn cầu của Freedom House.

Chứng kiến nền dân chủ bị bóp chết trong sự bất lực, hơn 65 ngàn người Hong Kong đã xin visa định cư tại Anh chỉ trong vòng 5 tháng. Theo ước tính của chính phủ Anh, sẽ có khoảng 475 ngàn người Hong Kong đến định cư tại quốc gia này trong vài năm tới.

Bài học ‘xương máu’

Một bài học “xương máu” từ cái chết của dân chủ Hong Kong đó là sự mong manh, dễ vỡ của thể chế dân chủ, bởi nó bị tấn công liên tục bởi các nhà độc tài, là những kẻ xem trọng quyền lực và tư lợi hơn mọi thứ. Thực vậy, dân chủ khắp nơi đang suy yếu nghiêm trọng, đánh dấu năm thứ 15 liên tiếp về sự suy yếu dân chủ toàn cầu, và khoảng 75% dân số ở khắp nơi trên thế giới đang phải đối mặt với tình trạng kém dân chủ.

Cần phải minh định rằng thể chế dân chủ không thể tự bảo vệ được nó, mà đòi hỏi nỗ lực tham gia chính trị liên tục của những cử tri có hiểu biết, và tinh thần liên đới của các cử tri và đoàn thể.

Tổng thống thứ 39 của Hoa Kỳ – Jimmy Carter. Ảnh: Scott Cunningham/Getty Images

Cựu Tổng thống Hoa Kỳ, Jimmy Carter, đã viết một bài xã luận nhân ngày tưởng niệm Điện Capitol bị tấn công do cựu Tổng thống Donald Trump kích động, kêu gọi cử tri hãy quan tâm nhiều hơn nữa tới nền dân chủ nước nhà trước khi quá muộn. Ông thiết tha nhắn nhủ cử tri Mỹ rằng: “Quốc gia vĩ đại của chúng ta hiện đang đứng trên bờ vực thẳm ngày càng lan rộng. Nếu không có hành động ngay lập tức, chúng ta thực sự có nguy cơ xung đột dân sự và đánh mất nền dân chủ quý giá của mình. Người Mỹ phải gạt sự khác biệt sang một bên và liên đới cùng nhau trước khi quá muộn”.

Một nền dân chủ khỏe mạnh cách mấy cũng có thể bị bóp nghẹt đến chết. Nếu dân chủ của quốc gia bạn còn nhiều khiếm khuyết, thì chắc chắn bạn sẽ gặp vô vàn khó khăn để trợ giúp các dân tộc bị độc tài áp bức. Nếu bạn may mắn sống trong một quốc gia dân chủ thực sự, hãy nỗ lực hết mình bằng con đường tri thức, để vun đắp và bảo vệ nó. Có dân chủ, thì có tự do, nhân quyền, và hạnh phúc. Như Tổng thống đương nhiệm Joe Biden nhấn mạnh: “Nếu chúng ta có chung niềm tin vào nền dân chủ, thì bất cứ điều gì cũng có thể – bất kỳ điều gì”.

M.V.P.

Nguồn: saigonnnhonews

Nếu như Lenin bị xét xử…

Nếu như Lenin bị xét xử…

Vladimir Lavrov là Tiến sĩ Khoa học Lịch sử và là nhà nghiên cứu chính của Viện Lịch sử Nga thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga

Vladimir Lavrov * Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch – Lãnh tụ phải bị kết án vì những tội không lệ thuộc vào thời hiệu như tội ác chống lại nhân loại, phản quốc, chủ nghĩa cực đoan và chính sách khủng bố.

Chủ nghĩa Lenin là ý thức hệ tán thành việc sử dụng những biện pháp quá khích để đạt đến kết quả mong muốn (nguyên tắc trái với đạo đức là cứu cánh biện minh phương tiện).

Tác phẩm của Lenin đã áp đặt lên nước Nga chủ nghĩa phân biệt chủng tộc xã hội và diệt chủng xã hội, nghĩa là tiêu diệt, không hạn chế, giai cấp trung lưu, quý tộc, giới tu sĩ, trí thức Nga cũ, phú nông (kulak) và người Cossack. Nếu Đảng Công nhân Quốc Xã Đức của Hitler chủ trương chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và diệt chủng mang tính dân tộc, thì Lenin chủ trương chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và diệt chủng mang tính xã hội; nhưng do hoạt động chính trị của những nhà lãnh đạo ấy, cả hai- chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và diệt chủng – đều gây ra cái chết cho hàng triệu người, và gây ra tội ác chống lại nhân loại mà không lệ thuộc vào thời hiệu.

Lenin thường xuyên kêu gọi dùng bạo lực để lật đổ thể chế chính thống, và cầm đầu cuộc đảo chính tháng Mười 1917 và giải tán quốc hội Nga hợp pháp- Quốc hội Lập hiến. Cuộc đảo chính tháng Mười và việc giải tán Quốc hội đã gây ra cuộc nội chiến- cuộc chiến tranh trái với đạo đức nhất trong tất cả các cuộc chiến tranh, qua đó người Nga chống lại người Nga, em chống anh, con chống cha… Lenin công khai hô hào khai màn cuộc nội chiến (xem tư liệu 3).

Lenin lập ra những trại tập trung khùng khiếp và thực hiện chính sách Khủng bố Đỏ, tức chủ nghĩa khủng bố được Nhà nước bảo trợ.

Lenin vi phạm dân quyền, các quyền tự do và quyền lợi chính đáng của cá nhân và công dân dựa trên khuynh hướng tôn giáo của họ, và khích động sự không khoan dung về tôn giáo qua việc ông chế giễu tín ngưỡng tôn giáo, phân biệt chống lại những tín đồ trong các lĩnh vực xã hội chính trị và các lĩnh vực khác của cuộc sống công cộng dưới chế độ vô thần đấu tranh của ông. Và những chỉ thị ra lệnh giết càng nhiều giới tu sĩ càng tốt của Lenin là sự căm ghét con người, là phạm tội và quá khích (xem các tư liệu).

Tất cả những điều trên đã phản ánh và thể hiện qua bộ sách đồ sộ của Lenin, hơn năm mươi tập trong Toàn Tập của ông, nhưng thực ra chúng vẫn chưa đầy đủ vì những người theo Lenin sợ công bố một số tài liệu mà rõ ràng là mang tính khủng bố.

Tác phẩm của Lenin ngày nay vẫn nhồi sọ những thế hệ thiên tả và những kẻ cực đoan mới mà sẵn sàng và rất mong muốn gây ra cuộc tắm máu. Và lạy Chúa đừng có chuyện họ lại lên nắm quyền lực: nào ai biết chuyện gì xảy ra sau đó? Điều được đưa ra và được biện minh trong tác phẩm của Lenin là tàn sát tất cả những người bất đồng chính kiến, những dòng sông máu.

Vào ngày 1 tháng Hai, 1918, đức giám mục Tikhon kêu gọi những người Bolshevik dưới sự lãnh đạo của Lenin: “Hỡi những kẻ điên, hãy tỉnh ngộ để chấm dứt ngay các cuộc thảm sát của các người. Vì những gì các người đang gây ra không chỉ là tội ác: đây thực sự còn chính là việc làm của Satan, vì thế các người sẽ bị thiêu đốt đời đời trong lửa địa ngục, còn con cháu các người trong đời này trên thế gian sẽ nguyền rủa các người khủng khiếp. Bằng quyền lực Chúa đã ban cho Chúng Tôi, chúng tôi cấm các người phạm đến sự Mầu nhiệm của Đức Ki-tô, chúng tôi rút phép thông công các người…”

Những người điên đã không tỉnh ngộ.

Chúng tôi đưa ra những tư liệu sau đây như là những trường hợp về chủ nghĩa cực đoan của Lenin mà vi phạm luật hình sự.

Tôn giáo là thuốc phiện và là rượu rẻ tiền

(Tư liệu 1)

“Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần… Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Tôn giáo là thứ rượu tinh thần rẻ tiền, làm cho những người nô lệ của tư bản mất nhân phẩm…”

Lenin

Ngày 3 tháng mười hai, 1905

(Lenin Toàn Tập, tập 12, các trang 142, 143 )

Thần thánh là chứng ái tử thi

(Tư liệu 2)

“…bất kỳ vị thần nào cũng đều là chứng ái tử thi cả… mọi ý niệm tôn giáo, mọi niềm tin về bất cứ vị thần nào, mọi sự ve vãn với thần thánh cũng đều là sự ti tiện khôn tả nhất… sự ti tiện nguy hiểm nhất, bệnh truyền nhiễm thối tha nhất. “

Lenin

Ngày 13 hay 14 tháng mười một, 1913

(Lenin Toàn Tập, tập 48, các trang 226, 227, 228 – Từ thư của Lenin gởi M. Gorky. Sau khi đọc về hành động dấy loạn của nhà văn nổi tiếng về việc tạo thần, Lenin kết thúc thư như sau: “Tại sao anh làm như thế? Thật quá bực mình.”)

Hãy để Đức đánh bại Nga! Hoan hô Nội chiến!

(Tư liệu 3)

“…Những người Đại Nga không thể có cách nào ‘bảo vệ tổ quôc’ khác hơn là mong cho chế độ Nga hoàng thua trong mọi cuộc chiến tranh”; “kêu gọi ‘hoà bình là sai lầm’, chúng ta phải kêu gọi cuộc chiến tranh dân tộc biến thành cuộc nội chiến”; “điều ít tai hại nhất là sự thất bại của chế độ quân chủ Nga hoàng và quân đội của nó”.

Lenin

Tháng chín-tháng mười hai 1914

(Lenin Toàn Tập, tập 26, các trang 108-109, 6; tập văn của Lenin, tập 2, trang 195. Phản quốc rõ ràng: những gì Lenin viết là có hại cho Nhà nước Nga. Hãy nhớ Đệ Nhất Thế chiến giết khoảng 1 triệu người Nga; Nội chiến Nga, 12 triệu đến 14 triệu người; và số người chết đói vì Nội chiến, 3-5 triệu (những con số khác công bố vào thời Stalin đưa ra số người chết là 15 triệu); tóm lại, hoạt động chính trị của Lenin gây ra cái chết của từ 15 đến 19 triệu công dân Nga.)

Chặt đầu Nikolai II ngu đần!

(Tư liệu 4)

“…chúng ta phải chặt đầu ít nhất một trăm tên Romanov” (ngày 8 tháng mười hai, 1911); “ở các nước khác… không có những kẻ đần độn như Nikolai” (ngày 15 tháng năm, 1917); “Nikolai Romanov ngu ngốc” (ngày 22 tháng năm, 1917); “Romanov ngu ngốc” (ngày 12 tháng ba, ngày 13 và 29 tháng tư, 1918); “quái vật Romanov ngu ngốc” (ngày 22 tháng năm, 1918) vân vân và vân vân.

Lenin

(Lenin Toàn Tập tập 21, trang 17; tập 32, các trang 97, 186; tập 36, các trang 85, 215, 269, 362. Các thành viên của Đảng của Lenin bắn chết một người Romanov đầu tiên vào đêm 12 tháng sáu 1918; vào đêm 17 tháng bảy 1918, họ bắn chết rồi phanh thây bảy người Romanov; vào đêm 18 tháng bảy cùng năm họ đẩy sáu người Romanov vào mỏ than rồi bắn chết họ; vào đêm 24 tháng một 1919, họ bắn chết năm người Romanov.)

Bắn Trí thức!

(Tư liệu 5)

“Quyết tử chiến một mất một còn chống lại bọn nhà giàu và bọn ăn bám chúng là bọn trí thức tư sản… phải thẳng tay trừng trị chúng vì bất kỳ lỗi lầm nhỏ nhặt nhất nào chúng phạm phải… Chỗ này thì ta bắt chúng bỏ tù… Chỗ kia thì ta bắt chúng dọn nhà xí. Chỗ nọ thì sau khi chúng ra tù ta sẽ cấp thẻ vàng cho chúng… Chỗ khác thì ta sẽ bắn chúng ngay tại chỗ…  Kinh nghiệm công xã là càng đa dạng thì càng phong phú hơn và càng tốt hơn…”

Lenin

Ngày 24-27 tháng mười hai, 1917

(Lenin Toàn Tập, tập 35, các trang 200, 201, 204. Từ bài viết “Tổ chức thi đua như thế nào”)

Hãy đốt Baku thành bình địa!

(Tư liệu 6)

“… Đồng chí cũng nói lại với Ter là hãy chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để đốt Baku thành bình địa trong trường hợp bị xâm chiếm, và cho đăng thông báo trên báo chí ở Baku.”

Lenin

Ngày 3 tháng sáu, 1918

(Từ tác phẩm ‘Lenin. Chân dung Chính trị’ của D.A.Volkogonov, Bk. I.M., 1994, trang 357; PGAGPI [Cơ quan lưu trữ quốc gia Nga về lịch sử xã hội và chính trị (RNAPSH)] F. 2. Op. 2. D. 109. Chỉ thị viết tay của Lenin gởi chủ tịch cơ quan an ninh Baku là S.Ter-Gabrielyan; không biết người đưa chỉ thị là ai.)

Tiêu diệt phú nông!

(Tư liệu 7)

“… Bọn hút máu này đã và đang nắm được đất đai của đại địa chủ; chúng mãi mãi nô dịch nông dân nghèo. Phải thẳng tay đánh bọn phú nông ấy! Phải tiêu diệt chúng!”

Lenin

Nửa đầu tháng tám (sau ngày 6), 1918

(Lenin Toàn Tập, tập 37, trang 41)

Khủng bố thẳng tay với linh mục

(Tư liệu 8)

“Penza

Ban chấp hành Xô-viết tỉnh

tiến hành cuộc khủng bố thẳng tay đại quy mô chống lại bọn phú nông, cha cố và bạch vệ; nhốt những kẻ khả nghi vào trại tập trung ở ngoài thành phố.”

Lenin

Ngày 9 tháng tám, 1918

(Lenin Toàn Tập, tập 50, các trang 143-144)

Treo cổ và tịch thu tất cả thóc lúa để làm gương

(Tư liệu 9)

“Gởi Penza. Ngày 11 tháng tám, 1918

Gởi: Các đồng chí Kurayev, Bosh, Minkin và những người cộng sản khác ở Penza

Các đồng chí phải đàn áp thẳng tay cuộc bạo loạn của bọn phú nông ở trong năm huyện. Quyền lợi của toàn bộ cuộc cách mạng đòi hỏi điều này, vì trước mắt chúng ta hiện nay là “trận chiến quyết định cuối cùng” chống bọn phú nông. Chúng ta phải xử họ để răn đe kẻ khác.

1) Các đồng chí phải treo cổ (lặp lại, phải treo cổ để quần chúng thấy) ít nhất 100 tên phú nông, bọn nhà giàu, bọn hút máu khét tiếng.

2) Công bố tên của tất cả bọn chúng.

3) Tịch thu toàn bộ thóc lúa của bọn chúng.

4) Bắt giữ các con tin- theo đúng nội dung điện tín ngày hôm qua.

Việc này cần được thực hiện để làm sao nhân dân dù ở xa đến mấy cũng đều sẽ nghe thấy, rùng mình, biết đến, và thét to: chúng ta đang bóp cổ và sẽ bóp cổ những tên phú nông hút máu đó.

Nhớ điện cho chúng tôi biết các đồng chí đã nhận và đã thực hiện xong việc này.

Lenin

(A.G. Latyshev, Giải mật Lenin, 1996, trang 57. Điện tín về việc treo cổ này được tiết lộ lần đầu vào tháng mười một, 1991. RNAPSH. F.2. Op. I. D. 6898)

Tử hình khỏi cần hỏi ý kiến ai!

(Tư liệu 10)

“Saratov, gởi Paikes (nhân viên Bộ Dân ủy Nông nghiệp)

…Tôi đề nghị đồng chí chỉ định các chỉ huy của mình để xử bắn những kẻ âm mưu và dao động mà khỏi cần hỏi ý kiến ai và cũng khỏi cần thông qua tệ quan liêu giấy tờ ngu ngốc.”

Lenin

Ngày 22 tháng tám, 1918

(Lenin Toàn Tập, tập 50, trang 165. Chú thích: Khủng bố Đỏ được công bố vào ngày 2 tháng chín 1918, mà thực ra đã được phát động từ trước ngày công bố đó, trước vụ mưu sát Lenin vào ngày 30 tháng tám 1918, chứ không phải là đáp lại cuộc mưu sát ấy.)

Tiêu diệt Kazan thẳng tay không thương xót!

(Tư liệu 11 )

“Sviyazhsk, gởi Trotsky

Tôi ngạc nhiên và lo ngại vì chiến dịch chống Kazan bị trì hoãn, đặc biệt là nếu đúng như tôi được báo cáo thì các đồng chí hoàn toàn có khả năng tiêu diệt đối phương bằng hỏa lực pháo binh. Tôi tin chúng ta không được cảm thấy tiếc cho thành phố và không được trì hoãn nữa, vì phải tiêu diệt thẳng tay…”

Lenin

Ngày 10 tháng chín, 1918

(Lenin Toàn Tập, tập 50, trang 178. Lenin nhận thức tính chất trọng tội trong các yêu cầu của ông, cho nên ông che giấu dấu vết phạm tội bằng cách viết như sau trên điện tín: “Mật, bằng mật mã (gởi lại bản gốc cho tôi). (Gởi tôi bản sao mật mã.)”)

Tiêu diệt nốt người Cossack!

(Tư liệu 12)

“Kiev

Gởi: Rakovsky, Antonov, Podvoisky, Kamenev

Bằng mọi giá, bằng mọi cách phải tiêu diệt nốt bọn Cossack càng sớm càng tốt…”

Lenin

Ngày 24 tháng tư, 1919

(Lenin Toàn Tập, tập 50, trang 290 )

Người nước ngoài vào trại tập trung!

(Tư liệu 13 )

“Về những người nước ngoài, tôi khuyên không nên vội vàng trục xuất họ. Đưa vào trại tập trung có lẽ tốt hơn…”

Lenin

Ngày 3 tháng sáu, 1919

(Lenin Toàn Tập, tập 50, trang 335. Điện tín của Lenin gởi Stalin ở Petrograd. Lenin cũng ký một sắc lệnh của chính phủ do ông lãnh đạo, trong đó ghi: “Tất cả những ngoại kiều đang thường trú trong lãnh thổ RSFSR, mà thuộc về giai cấp trung lưu của những nước mà đang có những hoạt động thù địch và quân sự chống lại chúng tôi, và tuổi từ 17 đến 55 đều phải bị đưa vào các trại tập trung…”Xem: (A.G. Latyshev, sách đã dẫn, trang 56).

Nông dân là tội phạm chung

(Tư liệu 14)

“…không phải nhiều nông dân đều hiểu rằng tự do mua bán lúa mì là phạm tội chống lại nhà nước.” Tôi sản xuất ra lúa mì; đây là sản phẩm của tôi, cho nên tôi có quyền đem bán, “nông dân thường quen nghĩ như vậy, như thời trước họ vẫn hay nghĩ như thế. Nhưng chúng ta nói rằng làm như thế là phạm tội chống lại nhà nước.”

Lenin

Ngày 19 tháng mười một, 1919

(Lenin Toàn Tập, tập 39, trang 315)

Bắn những người tôn thờ Thánh Nicholas

(Tư liệu 15)

“…chịu đựng với ‘Nikola’ là ngu ngốc; chúng ta phải huy động toàn bộ Cheka để bắn ‘ những kẻ vắng mặt của ‘Nikola’.”

Lenin

Tháng mười hai (không sớm hơn ngày 23 ) 1919

(A.G. Latyshev, sách đã dẫn, trang 156; RNAPSH. F.2. Op.1. D.12176.- chỉ thị viết tay của Lenin gởi A.V. Eiduk, nhân viên đặc biệt của Ủy ban Quốc phòng, về việc những tín hữu vắng mặt vào ngày lễ Chính thống giáo Phương Đông- Ngày lễ Thánh Nicholas Người tạo các phép lạ, vào ngày 19 tháng mười hai 1919)

Trừng phạt Latvia và Estonia!

(Tư liệu 16)

“…Phải có hành động quân sự, nghĩa là dùng lực lượng vũ trang trừng phạt nặng Latvia và Estonia (chẳng hạn, “theo sát gót” Balakhovich vượt qua biên giới chừng 1 dặm và treo cổ tại chỗ từ 100 đến 1000 bọn công chức và nhà giàu của chúng).”

Lenin

Tháng tám 1920

(A.G. Latyshev, sách đã dẫn, trang 31; RNAPSH. F.2. Op.2 D. 447; D.A. Volkogonov, sách đã dẫn, trang 457. Chỉ thị viết tay của Lenin.)

Chúng ta bác bỏ nhân phẩm phổ quát

(Tư liệu 17)

“Theo ý nghĩa nào thì chúng ta bác bỏ luân thường đạo lý? Theo ý nghĩa nào mà được giai cấp tư sản tán thành, chúng cho rằng đạo đức là do giới luật của Chúa mà ra…

Chúng ta bác bỏ bất kỳ đạo đức nào mà xuất phát từ những quan điểm ở trên con người, ở trên giai cấp. Chúng ta nói rằng đạo đức như thế chỉ là lừa bịp, chỉ là gian dối và tẩy não…”

Lenin

Ngày 2 tháng mười, 1920

(Lenin Toàn Tập, tập 41, các trang 309, 311, 313.- “Những nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên” (Diễn văn của Lenin ở đại hội Komsomol lần thứ ba). Hitler nói: “Tôi giải phóng con người ra khỏi ảo tưởng tên là lương tâm.”)

100,000 rúp tiền thưởng cho mỗi người bị treo cổ

(Tư liệu 18)

(…Kế hoạch tuyệt vời. Hãy hoàn tất kế hoạch cùng với Dzerzhinsky. Chúng ta giả làm Quân Xanh (sau này chúng ta sẽ tố cáo chính bọn chúng làm chuyện đó), chúng ta sẽ thâm nhập từ 10 đến 20 dặm để treo cổ tất cả bọn phú nông và cha cố. 100,000 rúp tiền thưởng cho mỗi tên bị treo cổ. “)

Lenin

Cuối tháng mười- tháng mười một 1920

(A.G. Latyshev, sách đã dẫn, trang 31; RNAPSH. F.2. Op. 2. D.380. Chỉ thị viết tay của Lenin.)

Nguồn: Dịch từ báo Nga Novaya Gazeta, bản tiếng Anh, ra ngày 24 tháng 9, 2012. Tựa đề tiếng Anh “If Lenin were to stand trial…”.

Trần Quốc Việt

danlambaovn.blogspot.com   

Sự tan rã của Liên Xô

Sự tan rã của Liên Xô

Bởi  AdminTD

Dương Quốc Chính

26-12-2021

Lâu nay sách báo chính thống của Việt Nam vẫn cho rằng Gorbachev và sau đó là Yeltsin là những kẻ tội đồ đã phá hủy Liên bang Soviet. Có lẽ đa số đảng viên cũng nghĩ vậy.

Thực ra, Gorbachev không hề muốn nhà nước Liên bang biến mất, ông ta không muốn phá hủy Liên Xô mà muốn cải cách nó theo hướng dân chủ hóa, mở cửa và đổi mới kinh tế. Gorbachev muốn biến Liên Xô thành Liên bang các quốc gia có chủ quyền, có lẽ theo kiểu Liên bang Đức hay Mỹ hoặc lỏng lẻo hơn như Khối thịnh vượng chung của Anh hay Liên hiệp Pháp trước kia.

Tuy nhiên, nhà nước Liên bang đó mới đang ở giai đoạn thai nghén thì đã bị sẩy thai, chết non. Chuyện này có lẽ không nhiều người để ý, cứ ngỡ là Gorbachev muốn giải tán Liên Xô mà thôi. Đó là điều phi logic, ông ta đang là tổng thống một nhà nước khổng lồ thì ngu gì tự giải tán nó để thành thất nghiệp?

Việc cải tổ và đổi mới do Gorbachev khởi xướng là quá trình dân chủ hóa chính trịđổi mới kinh tế diễn ra song hành dưới sức ép của sự kiệt quệ bởi kinh tế kế hoạch và nhà nước CS toàn trị. Nhưng Liên Xô lúc đó giống như một bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, đã quá mục nát, nên việc này giống như một đợt xạ trị cường độ cao khiến cho các điểm yếu của cơ thể càng lộ rõ và trở nên không thể chống cự nổi.

Sau năm 1987 thì các mâu thuẫn về sắc tộc bị bộc lộ rõ nét, do những năm trước nó không thể bộc lộ do bộ máy chuyên chế của Liên Xô kìm hãm. Điển hình là tộc người Tatar biểu tình đòi quay về Crimea là đất cũ của họ. Hay người Gruzia biểu tình công khai để thoát khỏi sự áp bức của dân Nga… Các cuộc biểu tình lúc đó trở nên hợp pháp và không bị đàn áp do quá trình dân chủ hóa. Từ đó nhen nhóm tinh thần dân tộc và mong muốn độc lập của các nước Cộng hòa Baltic (nhập vào Liên Xô sau cùng, giai đoạn trước thế chiến), trong đó quan điểm mong muốn độc lập của Nga, Ukraine và Belarus có sức ảnh hưởng lớn nhất.

Tổng thống nước CHXHCN liên bang Nga là Yeltsin công khai bộc lộ quan điểm chống đối lại TT Liên Xô Gorbachev mà không hề bị đàn áp.

Gorbachev là người khơi mào và mong muốn Liên Xô trở thành một Liên bang các nước Cộng hòa có chủ quyền bình đẳng với nhau (khác với Liên Xô), đi theo hướng dân chủ xã hội (mô hình Bắc Âu), không theo con đường toàn trị nữa.

Ông đã vận động để có cuộc trưng cầu dân ý toàn Liên Xô vào ngày 17/3/1991 với kết quả là đa số dân ủng hộ ý tưởng có một nhà nước Liên bang như trên. Tuy nhiên, phe bảo thủ đã không chấp nhận điều đó nên đã đảo chính vào ngày 19/8/1991 (cũng 19/8!), đứng đầu bởi Chủ tịch Soviet tối cao Liên Xô (quốc hội) Lukyanov và phó tổng thống Yanaev, nhân dịp Gorbachev đi nghỉ mát. Phe đảo chính thành lập một ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp.

Cuộc đảo chính chấp dứt sau 3 ngày bởi phe do Yeltsin đứng đầu, quân đảo chính quay súng và ủng hộ phe cải cách. Gorbachev quay trở lại nắm quyền.

Nhưng cuộc đảo chính đã để lại di chứng nặng nề. Nó thúc đẩy cho quá trình tan ra Liên Xô diễn ra nhanh hơn, do nó cho thấy sự yếu đuối của nhà nước Liên Xô (không tự bảo vệ được mình mà phải nhờ tới TT Nga). Dựa trên lý do “bất ổn” đó, ngày 22/8, Yeltsin tuyên bố các doanh nghiệp thuộc Liên Xô trở thành thuộc Nga, trừ bộ máy hành chính. Ngày 24/8, Ukraine tuyên bố độc lập 1 cách đơn phương bởi Soviet tối cao Ukraine. Ngày 25/8, Belarus tuyên bố độc lập, tiếp theo là Moldova, Azerbaijan, Kyrgyzstan, Uzbekistan. Ngày 28/8, Nga giành quyền sở hữu ngân hàng nhà nước và ngân hàng ngoại thương Liên Xô.

Như vậy là Liên Xô đã bị “rút ruột” nhưng vẫn chưa sụp đổ, do vẫn còn các nước Cộng hòa còn lại lừng chừng chưa tuyên bố độc lập. Dưới tình hình quá nguy hiểm cho sự tồn tại của Liên Xô, Gorbachev thúc đẩy thêm quá trình hoàn thiện Hiệp ước Liên bang. Các nước Cộng hòa tranh cãi về hình thức liên bang sẽ như thế nào? Các nước có bình đẳng tuyệt đối? Nhà nước LB sẽ có quyền lực gì?

Ngày 2/9, đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô được họp để giải quyết khủng hoảng chính trị và công nhận độc lập của ba nước Cộng hòa Baltic, dự thảo hiệp ước Liên bang mới.

Đương nhiên Nga và Ukraine, là hai nước Cộng hòa mạnh nhất sẽ không thể chấp nhận sự bình đẳng với các nước khác và các nước còn lại đều muốn độc lập hoàn toàn khỏi Liên Xô. Tổng thống Nga và Ukraine (Kravchuk) không muốn nằm dưới TT Liên Xô. Ngày 1/12, Ukraine độc lập hoàn toàn khỏi Liên Xô qua cuộc trưng cầu dân ý. Ngày 2/12, Nga công nhận Ukraine độc lập. Ngày 3/12, Soviet tối cao Liên Xô thông qua dự thảo Hiệp ước Liên bang.

Ngày 8/12, lãnh đạo 3 nước Nga, Ukraine và Belarus gặp nhau tại Brest và tuyên bố Liên Xô không còn tồn tại như một thực thể chính trị và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (hiệp định Belovezh).

Ngày 9/12, Gorbachev tuyên bố tôn trọng sự lựa chọn của 3 nước Cộng hòa nhưng cho rằng sự tồn tại của Liên Xô không thể do 3 nước đó quyết định, cần có giải pháp hợp hiến.

Ngày 21/12, các nước Cộng hòa còn lại ủng hộ hiệp định Belovezh và cùng tuyên bố Liên Xô ngừng tồn tại để thay thế bằng Cộng đồng các quốc gia độc lập.

Ngày 25/12, Gorbachev tuyên bố từ chức TT Liên Xô, vào lúc 7h tối, đại ý là ông ủng hộ sự độc lập và bình đẳng của các quốc gia nhưng vẫn muốn duy trì nhà nước LB. Tuy nhiên, các nước vẫn mong muốn chia tách nên ông đã làm tất cả để các nước có sự hòa hợp, tiếp tục cải cách và thoát khỏi khủng hoảng.

Liên Xô sụp đổ và biến thành một cộng đồng khá lỏng lẻo mang tính hình thức. Hầu hết các nước Cộng hòa rơi vào khủng hoảng kinh tế, chính trị sau đó.

Như vậy là Gorbachev thực sự mong muốn Liên Xô được cải cách theo hướng dân chủ để khôi phục kinh tế, nhưng ông ta vô tình làm cho Liên Xô trở nên suy thoái hơn. Còn Yeltsin mới thực sự mong muốn giải tán Liên Xô để không phải đứng dưới ai. Yeltsin cũng là người đưa đảng CS ra ngoài vòng pháp luật, trước đó ông tuyên bố từ bỏ đảng CS Liên Xô.

Sau này nhiều người Nga vẫn tiếc nuối Liên Xôvà hiện tại Putin cũng có tham vọng tái lập một nhà nước Liên bang hoặc một cộng đồng kinh tế kiểu EU, có lẽ gần như mong muốn của Gorbachev nhưng không dân chủ bằng.

Nhưng điều đó rất khó thành hiện thực khi Nga và Ukraine đang đứng trên bờ vực chiến tranh, trước đó thì Nga đã sáp nhập Crimea và bảo kê cho phe ly khai ở Đông Ukraine.

Ngày làm đẹp các ngôi mộ để tưởng nhớ và ghi ơn

Le Tu Ngoc

Ai đã đọc “CUỐN THEO CHIỀU GIÓ” của bà Margaret Mitchell hẳn sẽ biết cuộc Nội Chiến của Mỹ đã diễn ra khốc liệt thể nào, khi nó kết thúc vào mùa xuân năm 1865 thì đã có hơn sáu trăm ngàn chiến sĩ của cả hai phe không thể trở về gặp mặt bạn bè lẫn người thân.

Những năm sau cuộc chiến, cứ đến độ hoa nở rộ trong vườn thì người Mỹ ở khắp nơi lại mang hoa ra cắm và cầu nguyện nơi mộ chí của những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến này bất kể là lính Nam hay lính Bắc. Người dân thành phố Waterloo của tiểu bang New York vào ngày 5 tháng 5 năm 1866 đã đóng cửa các tiệm bán buôn trong thành phố để mọi người có thể mang hoa và cờ đến cắm lên các ngôi mộ của những người lính tử trận, sự kiện này sau đó được tổ chức hàng năm ở nơi đây.

Ngày 5 tháng 5 năm 1868, Tướng John A. Logan, người đứng đầu một tổ chức cựu chiến binh miền Bắc đã kêu gọi một ngày tưởng nhớ trên toàn quốc để mọi người có thể mang hoa và cờ đi trang điểm những ngôi mộ chiến sĩ, ông chọn ngày 30 tháng 5 và gọi nó là “Ngày làm đẹp các ngôi mộ để tưởng nhớ và ghi ơn” (Decoration Day).

Trong Ngày Decoration Day được tổ chức lần đầu tiên ở nghĩa trang quốc gia Arlington, hơn 5 ngàn người gồm những goá phụ, cựu chiến binh cùng bạn bè lẫn người thân đã đến để đặt hoa và các dải ruy băng lên 20 ngàn ngôi mộ của những người chiến sĩ của cả hai phe.

Sau Thế Chiến thứ I thì ngày 30 tháng 5 dần được biết đến với cái tên Memorial Day (Ngày Tưởng Niệm) và là dịp để người Mỹ tưởng nhớ đến tất cả các chiến sĩ đã ngã xuống trong các cuộc chiến chứ không riêng gì cuộc Nội Chiến. Năm 1968 Quốc Hội thông qua đạo luật Uniform Monday Holiday Act, đạo luật này quy định lấy ngày thứ hai làm ngày nghỉ mỗi khi có dịp lễ lộc với mục đích giúp dân chúng được nghỉ liên tục 3 ngày cuối tuần đặng ăn chơi cho nó đã. Kể từ đó thì Ngày Tưởng Niệm (Memorial Day) hàng năm ở Mỹ sẽ rơi vào ngày thứ hai cuối cùng của tháng năm.

Kể sơ sơ chuyện xứ Mỹ để nói đến cái ngày 30 tháng 4 của xứ mình. Nếu tôi mà là ông tổng Trọng thì tôi sẽ gọi tên cái ngày cuối cùng của tháng tư này là ” Ngày Tiếc Thương”. Tôi sẽ khuyến khích người dân cả nước trong ngày đó đi đến tất cả các nghĩa trang lớn nhỏ mà cắm những bông hoa lên trên mộ của bất cứ ai đã bỏ mình vì những cuộc chiến tương tàn trên xứ Việt mà chẳng cần phân biệt phe nào.

Nếu tôi mà là ông tổng Trọng, tôi sẽ cách chức bất cứ quan chức nào cho phép đốt pháo hoa hay treo cờ phướng loè loẹt khắp phố phường vào cái ngày này, tôi sẽ cho người vả vào miệng bất cứ quan chức nào vẫn còn bô bô những từ “Giải Phóng, Chiến Thắng, Bản Anh Hùng Ca, Vô địch với Vĩ Đại”.

Bởi cho dù đối với người dưng kẻ lạ thì cũng chẳng có một sự phỉ báng nào vô liêm sĩ cho bằng chính vào cái ngày mà người ta tiếc thương cho thân bằng quyến thuộc đã ngã xuống của người ta còn mình lại cứ bắn pháo hoa ăn mừng, cứ lên gân hò hét lải nhải những từ ngữ mất dạy như thể cố khoét cho sâu thêm nỗi đau của những người có thân nhân chết trận, cũng như khoét cho sâu thêm những mối thù mà bất cứ một chính quyền tử tế nào cũng phải quan tâm xoa dịu.

Kiểu cách đó đối với người dưng kẻ lạ đã là hạ tiện, huống hồ gì giữa người mình mang ra để đối với người mình.

Fb Thuc Tran

Luôn muốn trừng trị kẻ khác mình? Bạn có thể có tính cách độc đoán

Luôn muốn trừng trị kẻ khác mình? Bạn có thể có tính cách độc đoán

Ai cũng có thể bị tiêm nhiễm tính cách độc đoán. Đó là nền tảng của chế độ độc tài.

 16/11/2021

By  VINCENTE NGUYEN

Minh họa: Luật Khoa. Ảnh: Nikkei, NatGeo, Karen Stenner.

Độc tài (authoritarian) thường được xem là đặc tính của một chính quyền hay một chính đảng. Ít ra là trong phạm vi chính trường Việt Nam, chúng ta thường nhắc đến độc tài như là một tính từ đương nhiên để nói về một thứ rất to tát, rất trừu tượng.

Nhưng nếu dùng một từ khác tương đương để diễn tả – độc đoán – đặc tính này lại trở nên cụ thể và gần gũi hơn nhiều. Với cách hiểu đó, các nhà khoa học xã hội không xem khái niệm độc tài/ độc đoán chỉ là để nói về cấu trúc nhà nước hay phương thức phân bổ quyền lực. Độc đoán có thể là một tính cách, bản chất, lối tư duy của một người (thường gọi chung là “authoritarian personality”). Chính tính cách này tạo không gian và nền tảng cho các nhà nước độc tài phát triển. [1]

Trong cuộc bầu cử vô tiền khoáng hậu vào năm 2016 khi ông Donald Trump giành chiến thắng trước bà Hillary Clinton, nhiều nhà khoa học đã cố gắng chứng minh tính cách độc đoán của một bộ phận dân cư Hoa Kỳ là lý do dẫn đến việc Trump thắng cử. [2]

Số khác lại cáo buộc những nhóm dân cư ủng hộ các giá trị truyền thống, ủng hộ “kỷ cương, phép nước” là những người có sẵn tính cách độc đoán và dễ bị tác động nhất. [3]

Một số cây bút phản biện, nhắc nhở rằng sẽ thật sai lầm khi cho rằng chỉ có các nhóm dân cư thủ cựu thì mới có tính độc đoán. [4]

Bỏ qua sự phức tạp, lộn xộn và dễ gây tranh cãi của chính trị Hoa Kỳ, “tính cách độc đoán” đã là một chủ đề nghiên cứu từ trước đó khá lâu của các nhà xã hội học. Quyển sách “The Authoritarian Dynamic” của giáo sư tâm lý chính trị học Karen Stenner (từng giảng dạy tại Đại học Princeton) là một điểm bắt đầu khá tốt để hiểu về tính cách độc đoán. [5]

*** 

“The Authoritarian Dynamic” được xuất bản vào năm 2005 với 10 chương sách. Thông qua các chương này, độc giả được giới thiệu khá đầy đủ về những đặc tính cơ bản của tính cách độc đoán: từ vấn đề về tư duy như “chỉ có một con đường đúng”, “chỉ có một tập thể đúng”, cho đến các kỹ thuật và số liệu liên quan, rồi vai trò của sự sợ hãi trong việc hình thành tính cách độc đoán cũng như mối tương quan giữa chủ nghĩa độc đoán (authoritarianism) và chủ nghĩa thủ cựu (conservatism).

Bìa sách “The Authoritarian Dynamic” và tác giả Karen Stenner. Ảnh: Amazon, The Larger Us Podcast.

Phần giới thiệu của quyển sách đặc biệt ấn tượng. Nó chuẩn bị đầy đủ tâm thế cho bạn đọc trước khi tiếp thu nội dung sách.

Karen Stenner nhắc người đọc rằng sẽ có những người không bao giờ sống thoải mái trong một nền dân chủ cấp tiến hiện đại (modern liberal democracy).

Đó là những người không thể đối xử một cách tử tế với bất kỳ ai mà họ cho rằng không phải “phe của họ”; những người cho rằng chỉ có những ai “nghĩ đúng” mới được quyền nêu ý kiến của mình trong môi trường chính trị; những người cho rằng bất kỳ lựa chọn đạo đức nào của một cá nhân cũng là vấn đề chung của toàn thể xã hội – và hiển nhiên là phải có sự can thiệp của nhà nước, v.v.

Đó là những cá nhân mà quyển sách muốn tìm hiểu. Vì sao họ lại như thế? Và hệ quả dành cho tất cả chúng ta là gì?

***

Theo Stenner, tính cách độc đoán là khuynh hướng tâm tính cơ bản liên quan đến cách nhìn của một người về điểm cân bằng phù hợp giữa uy quyền (authority), sự đồng nhất (uniformity) của một xã hội với các yếu tố đối nghịch như tự chủ cá nhân (individual autonomy) và đa dạng xã hội (diversity). Theo đó, những người có tính cách độc đoán sẽ thường xem trọng uy quyền và sự đồng nhất xã hội hơn là sự tự chủ hay đa dạng.

Khung phân tích của Karen Stenner để phân định giữa độc đoán (authoritarianism) và thủ cựu (conservatism).

Stenner cũng nhấn mạnh rằng tính cách độc đoán không nhất thiết chỉ áp dụng cho “lề phải” hay “lề trái”. Một người được cho là có tính cách này khi họ có xu hướng tư duy chính trị cương quyết, cho rằng họ cần bảo vệ hay thiết lập một trật tự chung, thống nhất và tương đồng (oneness and sameness) để có thể định danh, vinh danh và dành đặc quyền cho những người giống như họ – bất kể họ nhận mình thuộc “lề” nào.

Thú vị hơn, độc đoán theo Stenner không phải là hệ quả từ trên xuống của xung đột tư tưởng chính trị (politics of ideas). Nó là một biểu hiện cảm tính của những cảm xúc nguyên sơ (primitive passions), được xây dựng dựa trên biến tấu chính trị của nỗi sợ hãi (politics of fear).

***

Đáng tiếc là những thông tin tổng hợp trên (chủ yếu nằm ở chương I và chương II) là những phần dễ đọc nhất của quyển sách. Các chương sau đó khá nặng về số liệu và kỹ thuật.

Stenner áp dụng một số kỹ thuật nghiên cứu dữ liệu như Cultural Revolution Experiment (CRE), Multi-Investigator Study (MIS), Durham Community Study (DCS) cùng với một loạt các nguồn dữ liệu sẵn có như National Election Studies (NES), World Values Surveys (WVS), hay General Social Surveys (GSS). Nhìn chung, đây không phải là một quyển sách mà bất cứ độc giả nào cũng có thể cầm lên đọc từ đầu đến cuối mà không cần bỏ sách xuống mỗi mười trang để… chửi vài câu.

Tuy nhiên, giá trị nội dung mà cuốn sách mang lại là không nhỏ.

Ví dụ, ngay từ năm 2005, Stenner đã tìm ra cách lý giải vì sao một lượng lớn những người ủng hộ Trump đột nhiên xuất hiện nhiều vô kể vào năm 2016 – những người mà trước đó các chính trị gia nghĩ rằng không tồn tại.

Theo bà, có sự khác biệt giữa khuynh hướng độc đoán (authoritarian predisposition) và tính cách độc đoán (authoritarian personality). Số lượng người có khuynh hướng độc đoán thường không có sẵn các biểu hiện của tính cách độc đoán hay các kỳ vọng độc đoán ở chính quyền. Tuy nhiên, khi bị đặt vào các môi trường nhất định, với những chất xúc tác nhất định, tính cách độc đoán sẽ hình thành.

Tính cách độc đoán hình thành trong môi trường phù hợp. Ảnh minh họa: Các thành viên của tổ chức phát-xít Balilla dành cho trẻ em từ 8-15 tuổi tại Ý. Nguồn: Getty Images.

Ví dụ, trong một nghiên cứu, bà đặt ra hai lựa chọn về mục tiêu nuôi dạy con cho phụ huynh: “một đứa trẻ cần biết vâng lời cha mẹ” hay “một đứa trẻ cần nhận thức trách nhiệm cho các hành vi của mình”. Stenner cho rằng những câu hỏi này sẽ chỉ xác định được khuynh hướng độc đoán và giá trị nào là quan trọng đối với một cá nhân, chứ chưa xác định được họ sẽ có những hành vi hay thái độ ủng hộ hoạt động chính trị độc đoán.

Vì vậy, theo Stenner, cần cẩn trọng và đánh giá tính cách độc đoán ở nhiều tầng giai đoạn, nhiều hình thức và nhiều trạng thái khác nhau. Tính cách độc đoán không chỉ giới hạn ở một trạng thái, một hệ quy chiếu hay một xã hội nhất định.

Ngoài ra, vị giáo sư cũng cảnh báo tính cách độc đoán hoàn toàn có thể được xây dựng và củng cố bên trong cá nhân một cách hệ thống.

Theo đó, tính cách độc đoán, ngoài tiền tố là khuynh hướng độc đoán, sẽ chịu ảnh hưởng từ các vấn đề khác như hạn chế về nhận thức (cognitive limitations), môi trường và trình độ học vấn (environment and net of education), kinh nghiệm (experience) và sự tận tâm (conscientiousness). Từ cơ sở này, Stenner dẫn đến kết luận rằng ai cũng có thể bị tiêm nhiễm tính cách độc đoán/ toàn trị.

Hệ tính cách này, dù không biểu hiện trong đời sống thường nhật, hoàn toàn có thể bộc lộ trong những thời điểm xuất hiện các thảo luận chính trị cụ thể hay những phong trào chính trị mang đến nhiều thay đổi.

***

Dù đại đa số các nghiên cứu của Stenner là dựa trên hệ thống chính trị Hoa Kỳ hoặc châu Âu, kết quả nghiên cứu của bà cho phép chúng ta đối chiếu, so sánh và hiểu về nền tảng chính trị Việt Nam.

Chỉ cần lướt qua các trang mạng xã hội của các nhà hoạt động, những người có quan điểm khác, quan điểm trái chiều, bạn sẽ thấy vô vàn những bình luận yêu cầu công an vào cuộc, yêu cầu những người này bị bỏ tù, yêu cầu họ phải bị trừng trị. Đó là biểu hiện cơ bản của những cá nhân thiếu khả năng khoan dung và chấp nhận sự khác biệt – những dấu hiệu của tính cách độc đoán.

Đáng lo ngại hơn, như Stenner mô tả, tính cách độc đoán này hoàn toàn có thể được truyền dạy và thấm nhuần qua môi trường xã hội. Nếu tính cách này trở nên phổ biến trong cộng đồng, tương lai của các cải tổ chính trị tại Việt Nam là không hề đơn giản.

Bức tường Berlin (Phần 4): Những đứa con của bức tường

Bức tường Berlin (Phần 4): Những đứa con của bức tường

Bởi  AdminTD

Nguyễn Thọ

29-8-2021

Tiếp theo Phần 1 − Phần 2 và Phần 3

Cảnh sát Tây Berlin nhặt xác của anh thanh niên Peter Fechter bị bắn chết bên hàng rào biên giới đông tây Berlin hôm 17.08.1962. Ảnh tư liệu

Những ngày sau khi bức tường thép gai tạm thời được dựng lên, hàng trăm người Đông Berlin vẫn tìm cách lọt qua các kẻ hở để chạy trốn. Có những nơi người ta nhảy qua cửa sổ sang bên kia. Dân Tây Berlin giăng vải bạt hứng được hàng chục người nhảy cửa sổ, không có tai nạn nào xảy ra. [1]

Dần dần chính quyền Đông Đức xây hoàn chỉnh thành những bức tường cao 3m, có một dải đất phân cách cho xe biên phòng đi tuần, có tháp canh, đèn pha chiếu sáng. Nhưng người dân vẫn tìm cách đào những con đường hầm từ những khu nhà gần đường biên để sang bên kia. Rồi dần dần những hộ ở gần đường biên cũng bị di dân đi nơi khác và các ngôi nhà đó bị san ủi thành bãi hoang.

Cấu trúc bức tường Berlin. Ảnh tư liệu

Ngày 13.8.1961 được coi là ngày chính thức hoàn thành việc chia cắt nước Đức. Một sự chia cắt không cân xứng. Người dân miền Tây vẫn sang Đông được. Nhà nước Tây Đức cho dân tự do đi lại. Phía Đông Đức thì coi người Tây là nguồn ngoại tệ quan trọng. Người Tây Đức vẫn đi xe ô tô qua 3 tuyến đường cao tốc để sang Tây Berlin. Họ chỉ được dừng lại ở những cây xăng dành cho họ, không được rẽ ngang tắt. Nếu có lý do chính đáng (thăm thân, định cư hay công tác), họ sẽ được vào lãnh thổ CHDC Đức.

Nhưng người dân Đông Đức thì không được đi sang phía Tây. Sau ngày 13.8.1961, họ chỉ còn cách liều chết vượt biên hoặc xếp hàng đặt đơn đi thăm thân, xin xuất ngoại. Đơn thăm thân rất ít khi được xét, và chỉ xét cho những cán bộ đáng tin cậy. Mà tin cậy đến đâu thì chỉ có vợ hoặc chồng được đi, phần kia của gia đình phải ở lại làm con tin.

Dân chúng Đông Berlin ở phố Bernauer nhảy qua cửa sổ để chạy sang Tây Berlin hôm 13.08.1961. Ảnh tư liệu

Những người xin xuất ngoại mới khốn khổ. Họ luôn bị coi là kẻ „có vấn đề“ trong suốt thời gian chờ đợi đơn được cứu xét. Nhiều người mất việc, bị bạc đãi, sống trong sự dè bỉu của hàng xóm, đồng nghiệp. Có những người như bà Ingrid Taegner được kể ở cuối bài trước, cam chịu cả đời không được sang bên kia.

Những người không cam chịu được thì tìm cách vượt biên. Để vượt qua 155km biên giới bao quanh Tây Berlin hay 1.400km biên giới Đức – Đức đầy mìn và thiết bị điện tử, được canh gác vô cùng chặt chẽ, người ta đã sáng tạo ra muôn vàn cách thoát thân. Ở Đức có rất nhiều “bảo tàng vượt biên”, trình bày từ những cách đào hầm, đóng xe tải thành xe tăng để phá hàng rào, làm xe ô tô nhiều lớp vỏ, bay bằng khinh khí cầu, vượt biển Baltic bằng ca nô v.v.

Vượt biên trong những ngày đầu khi mới chỉ có dây thép gai. Ảnh tư liệu

Bà Liane Weinstein sinh ở Tây Berlin mới được 2 tháng. Dịp cuối tuần bố mẹ bà bận sửa nhà nên gửi cháu bé cho ông bà ngoại ở Đông Berlin. Bức tường dựng lên sáng chủ nhật 13.08 đã khiến bé phải ở lại với ông bà bên phía Đông. Bố mẹ bé ở bên kia gần như phát điên vì mất con. Họ nhờ người đào một đường hầm để đưa bé về phía tây. Kế hoạch bại lộ, những người đào hầm và ông bà ngoại bị bắt giam. Cô bé bị đưa vào trại mồ côi. 11 năm sau, nhờ sự can thiệp của chính quyền Tây Đức, cô được trả về phía Tây với bố mẹ, những người đối với cô rất xa lạ.

Gia đình bà Liane Weinstein (giữa) tan vỡ sau 11 năm bà bị giữ làm con tin ở Đông Berlin. Bố mẹ mà đã li dị nhau trước ngày bà được trả về Tây Berlin cho họ. Ba số phận có thật của những người con của bức tường Đức. Ảnh tư liệu

Trong 11 năm qua cô luôn được nghe kể rằng: bố mẹ đã nhẫn tâm bỏ con lại để hưởng lạc ở miền Tây, mặc dù chính quyền luôn mời họ về miền Đông với con gái. [2]

Thế hệ người Đức như bà Weinstein được gọi là những đứa con của bức tường. Dù gia đình họ có bị xé nát hay không, dù ở Đông hay ở Tây thì ai cũng bị ảnh hưởng bởi sự chia cắt đất nước.

Chính phủ CHDC Đức luôn tuyên bố: “Bức tường là sự lựa chọn của nhân dân”. Đầu tháng 10.1989, hàng trăm ngàn người Đông Đức biểu tình với khẩu hiệu: “Chúng tôi là nhân dân”, “Hãy mở cổng thành”. Sau hơn một tháng liên tục đấu tranh bất bạo động, đêm 9.11.1989, bức thành bị dỡ bỏ.

Người ra lệnh mở cổng thành lại chính là Trung tá an ninh STASI Harald Jäger [3]. Ngày nay người ta đặt câu hỏi. Nếu vào giờ phút lịch sử đó Jäger ra lệnh nổ súng vào đám đông quần chúng đang đòi mở cổng thành thì sẽ ra sao? Lịch sử cuối cùng cũng vẫn sang trang, vì lòng dân đã rõ, nhưng sẽ tốn máu. Viên sỹ quan STASI Jäger biết tiếc máu của dân mình vì anh cũng là nhân dân, cũng là người con đau khổ của bức tường.

Một trong những cách tuyệt vọng để vượt biên. Ảnh tư liệu

Tôi có thể viết hàng trăm bài về nước Đức chia cắt, vì tôi là đứa con miền Nam tập kết ra Bắc, chơi thân với nhiều bạn bè Đông và Tây Đức, chứng kiến nhiều số phận của họ. Tôi xin tạm dừng ở đây với các tóm tắt như sau:

– Tháng 5.1945. nước Đức thua trận bị phân chia thành 4 vùng chiếm đóng của Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô. Thủ đô Berlin nằm lọt thỏm trong vùng Liên Xô ở miền Đông nước Đức cũng bị chia 4. Chia nhưng chưa bị cắt, vì giữa các vùng vẫn đi lại được.

– Tháng 5.1949, ba vùng tư bản ở Tây Đức tập hợp thành nước CHLB Đức, kinh tế tư bản, dân chủ đại nghị.

– Tháng 10.1949, nước CHDC Đức ra đời ở miền Đông lấy Đông Berlin làm thủ đô. Biên giới Đức-Đức dài 1400km hình thành, chia cắt nước Đức thành 2 miền XHCN và TBCN.

– Trong khi đó Tây Berlin vẫn là thành phố tư bản, tự do. Đi lại giữa đông-tây thành phố vẫn “bình thường”. Tây Đức và Tây Berlin liên hệ với nhau qua các đường sắt, đường cao tốc và hàng không xuyên qua lãnh thổ CHDC Đức (theo thỏa thuận của đồng minh).

– Lỗ hổng này giúp cho 3 triệu người bỏ Đông Đức đi sang Tây Đức qua đường Tây-Berlin. Những người này được gọi là dân tỵ nạn. Lý do ra đi có thể là kinh tế, là chính trị (đòi tự do dân chủ) hoặc đoàn tụ gia đình.

– Để tránh việc chảy máu chất xám, ngày 13.9.1961, CHDC Đức bất ngờ xây bức tường Berlin, chính thức chia cắt hoàn toàn nước Đức.

– Từ sau 13.8.1961, dòng người tỵ nạn giảm hẳn. Vượt biên trở nên nguy hiểm chết người. Từ tháng 8.1961 đến ngày 11.1989, chỉ còn khoảng 500.000 công dân CHDC Đức sang được CHLB Đức. Trong đó hơn 300.000 người được cấp phép xuất cảnh định cư, đoàn tụ gia đình.

– Chính phủ CHLB Đức đã chi 5 tỷ DM để “mua giấy phép xuất ngoại” cho 250.000 đồng bào trong số 300.000 nói trên. Ngoài ra CHLB Đức chi 3,5 tỷ DM để “mua tự do” cho 33.700 tù chính trị từ các nhà tù CHDC Đức. [4]

– Số người bị bắn chết trong khi vượt bức tường trốn từ Đông sang Tây Berlin là 140 người.

– Số người chết vì bị bắn, vì vấp mìn khi vượt qua biên giới Đức – Đức là 327.

– Nếu kể cả hơn 200 người bị chết khi vượt biển Baltic để sang Bắc Âu hoặc Tây Đức và khoảng 300 người bị chết khi vượt qua biên giới các nước XHCN khác thì có khoảng 1000 người Đức đã chết chỉ vì muốn đi từ vùng đất này đến vùng đất khác của tổ quốc mình.

PS: Ai cần có thể đọc một số tư liệu khác về “Chia cắt nước Đức”:

Bài viết khác về bức tường Berlin và số phận những con người: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3195284190489632

Bài viết về những ngày phong tỏa Berlin: “Máy bay ném bom nho”: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3184493994901985

Bài viết về vụ vượt biên bằng khinh khí cầu “Gió bay về miền tây”: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3340344989316884

Bài viết về những cầu thủ bóng đá CHDC Đức: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/4734892423195460

Viết về những gì xảy ra sau ngày thống nhất đất nước: Về những bức tường trong đầu (3 bài) https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/2549301718421219

_____

*Chú thích:

[1] https://www.zdf.de/dokumentation/zdfzeit/zdfzeit-ein-tag-im-august–mauerbau-61-100.html, (Bắt đầu từ phút thứ 01:12:30)

[2] https://17juni1953.wordpress.com/2020/04/13/gerhard-weinstein-einstiger-staatsfeind-der-ddr-tot/

[3] https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/1414934981857904 (bài viết về trung tá Harald Jäger)

[4] https://en.wikipedia.org/wiki/Trading_of_East_German_political_prisoners

T R Ả L Ờ I B Ạ N N G U Y Ễ N V Ă N TUỆ

Vũ Thư Hiên is with Bùi Quang Minh

T R Ả L Ờ I B Ạ N N G U Y Ễ N V Ă N TUỆ

Tuệ Nguyễn Văn: “Có một câu hỏi vẫn luôn ám ảnh trong đầu cháu, rất mong bác Vũ Thư Hiên có thể trả lời giúp cháu đó là: “Sau tất cả những điều kinh khủng mà bác phải qua trong suốt 9 năm trời như vậy, mà sao bác không có chút hận thù, căm ghét gì với những kẻ đã hành hạ bác trong suốt những ngày tháng tù đày dã man đến vậy ạ? Đọc “Đêm giữa ban ngày” cháu có cảm tưởng như bác đang nói về chuyện của ai đó chứ không phải của mình vậy. Rất mong bác có thể trả lời giúp cháu ạ”.

Gửi bạn Nguyễn Văn Tuệ, và các bạn: Chau Nhi, Kiều Mỵ, Phan Thuý Hà, Hong Ngoc Trinh, Vương Quốc Toàn, Tran Thang, Hoài Thu Nguyễn…

Nhân bạn Nguyễn Văn Tuệ nêu câu hỏi, lần này tôi sẽ kể dài dòng một chút để bạn và các bạn khác cũng từng đặt câu hỏi tương tự biết thêm về chuyện cuốn Đêm Giữa Ban Ngày đã hình thành như thế nào. Trong câu chuyện kể này, biết đâu đấy, các bạn sẽ tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi trên.

1

Năm 1994, tôi ở Moskva (Liên Xô cũ).

Việc khởi đầu cuốn Đêm Giữa Ban Ngày liên quan tới một hiện tượng mà tôi không thể giải thích.

Một buổi sáng, vừa mắt nhắm mắt mở bước vào phòng tắm, tôi đứng sững – trước mặt tôi, trong tấm gương lớn tôi thấy không phải tôi mà cha tôi. Ông bất động, nhìn tôi bằng cặp mắt nghiêm khắc, có phần giận dữ. Hình ảnh ấy chỉ xuất hiện trong một thoáng, rất nhanh, rồi tôi lại nhìn thấy tôi trong gương như bình thường. Cảnh tượng cha tôi thoáng hiện ấy đưa tôi về một thời gian đã xa.

– Bố thấy trong người yếu lắm rồi – cha tôi thở dài – Chà, nếu bố còn khỏe! Có nhiều điều bố thấy cần phải viết ra cho đồng bào biết. Nhưng không còn sức nữa. Bố kỳ vọng ở con. Con phải viết. Đó là trách nhiệm, con ạ, là trách nhiệm.

Ông gắng gượng ngồi dậy, đặt tay lên vai tôi, nhìn vào mắt tôi:

– Không phải vì mục đích vạch tội ai mà con làm việc này, không phải vì mục đích ấy. Mục đích lớn hơn: qua vụ án này con phải để nói lên điều khác, điều rất quan trọng đối với dân tộc ta. Nhân dân ta cần phải hiểu để tránh xa vết xe đổ. Nước mà không có dân chủ, không có luật pháp, hoặc luật pháp chỉ là xảo ngôn, là mảnh đất màu mỡ cho thể chế độc tài, cho sự lộng hành tùy tiện của những tên độc tài…

Tôi hiểu tâm trạng cha tôi.

Ông khoan thứ cho kẻ thù.

Nhưng ông không ngơi lo lắng cho đất nước trước viễn cảnh xám xịt của nền chuyên chế.

Tôi quyết định bỏ mọi việc để thực hiện lời cha tôi dặn trước khi qua đời.

Ngay hôm ấy tôi đến công ty, nói lời từ biệt.

Mọi người bàng hoàng vì sự bỏ đi đột ngột của tôi. Trong công ty thuần Nga tôi là người Việt duy nhất, nhưng lại là bộ óc điều khiển hoạt động của nó. Cả chục năm ở Sài Gòn để kiếm sống tôi đã học được ít nhiều cách điều hành một xí nghiệp tư nhân, trong khi đó thì những người bạn Nga vừa thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch hoá lại rất bỡ ngỡ. Chẳng cứ dân thường, ngay chính quyền mới cũng rất vụng về trong việc chuyển sang kinh tế thị trường. Một thí dụ: công ty chúng tôi gửi ngân hàng tiền dollar Mỹ và Deutch Mark thì lập tức được ngân hàng tính thành rúp, coi như gửi rúp chứ không phải ngoại tệ. Ít lâu sau chúng tôi đến lấy ra thì tỷ suất hối đoái đã khác do lạm phát phi mã. Số tiền tính bằng rúp tăng lên chóng mặt, khoản chênh lệch giữa hai thời điểm bị ngân hàng coi như lãi và công ty phải nộp thuế cho số tiền mà người ta gọi là “lãi bất ngờ”. Kỳ quặc thế đấy, vừa buồn cười vừa xót ruột, nhưng là sự thật. Những chuyện tương tự thời chuyển đổi chế độ ở Liên Xô kể không hết.

2

Những trang đầu tiên của Đêm Giữa Ban Ngày được bắt đầu như thế nào?.

Cái sườn đầu tiên cho cuốn sách chỉ là mấy trang phác thảo nằm lại ở Sài Gòn, được cất giấu ở nhà bè bạn. Tôi không cần đến chúng nữa vì đã thuộc nằm lòng. Tôi gặp may -vào thời gian đó tôi có nhu liệu Vietbit viết tiếng Việt rất tiện lợi của tác giả Bùi Quang Minh hồi ấy cũng ở Moskva. Cái Amstrad cổ lỗ không có ổ cứng, cứ viết thẳng vào đĩa mềm, không có cách trình bày như mình muốn. Tôi mổ cò từng chữ, ngày nối ngày, miễn sao nói được điều cần nói.

Như tôi viết trong phần Tự Bạch “Văn học không có chỗ nơi đây”, tôi tránh hết sức thói quen viết văn để cuốn sách chỉ chứa đụng những gì cần phải nói. Chậm chạp, từng dòng một, ngày lại ngày kỳ cạch nối tiếp, những trang bản thảo theo nhau làm đầy dần từng đĩa. Những cái đĩa mềm ngày ấy đúng như tên gọi – chúng mềm thật và to thật, đựng trong những bao giấy có thể chứa cả kí lô usb ngày nay.

Tai họa đến bất ngờ.

Nghĩ mình giờ đã ở Moskva, một nơi an toàn cách xa Việt Nam nhiều ngàn cây số, tôi hoàn toàn yên tâm, không chút cảnh giác. Một người nào đó trong số khách đến thăm tôi tình cờ đọc được vài dòng trên màn hình Amstrad đã biết tôi đang viết gì.

Tin bay về Hà Nội. Một toán đặc nhiệm được cử sang. Lợi dụng một hôm tôi về nhà một mình, những tên đột nhập tấn công tôi ngay khi tôi vừa bước vào thang máy. Một tên trẻ măng theo chân tôi xông vào lấy tay bịt miệng tôi, đâm tôi một nhát, rồi khi thang máy lên đến tầng, những tên khác chờ sẵn xô tới, nhanh nhẹn lục túi tôi lấy chìa khoá, đưa tôi vào phòng. Ở đó chúng không nói một lời vật tôi xuống sàn, trói nghiến, bịt mắt bịt miệng tôi bằng băng dính. Sau đó, không vội vã chúng lục lọi cả giờ mọi xó xỉnh, lấy đi tất cả những gì tôi có – tiền nong, vật dụng, không từ thứ gì, kể cả quần áo. Nằm trên sàn, tôi bất lực, chú ý nghe từng câu cụt lủn chúng trao đổi với nhau, tôi hiểu – mục đích của cuộc đột nhập được tạo ra theo cách của kẻ cướp là lấy bản thảo cuốn sách

Tin nội bộ từ Hà Nội cho tôi biết không đầy nửa tháng sau vụ đột nhập, việc tôi viết Đêm Giữa Ban Ngày đã được thông báo ngắn gọn với những trích dẫn trong một cuộc họp trung ương đảng (cộng sản). Điều này cho tôi thêm chứng cớ để khẳng định kẻ nào là tác giả vụ tấn công. Tôi cũng hiểu thêm vì sao những tên đột nhập chỉ đâm tôi một nhát cảnh cáo vào đùi chứ không định đâm chết. Có thể hiểu được: chúng chỉ làm tđến hế do có chỉ đạo. Ở Moskva tôi có quan hệ rộng với nhiều nhà văn nhà báo Liên Xô, kể cả với giới quan chức, tất yếu sẽ gây ra một sự ồn ào không cần thiết và không có lợi nếu bị phanh phui. Vết đâm vào phần mềm không nặng, máu chảy ra nhiều làm ướt sũng quần và lõng bõng trong giày. Điện thoại bị chúng lấy mất, tôi phải nhờ điện thoại của hàng xóm gọi cho bạn bè và họ lập tức phóng tới để đưa tôi đi bệnh viện.

Mấy hôm sau, một trong những tên đột nhập gọi điện cho tôi vào nửa đêm, thì thào bằng giọng hấp tấp: “Hay, chú ạ, cháu đọc rồi, chú cứ viết tiếp đi nhé!”. Rồi không thì thào nữa mà cho tôi biết tôi có thể nhận lại những vật bị mất ở đâu – số điện thoại mà tên cướp cung cấp không khó khăn để tra ra là số nhà riêng của một nhân viên lãnh sự quán Việt Nam. Câu sau là quan trọng, rõ ràng được mớm lời. Chúng mới ngây thơ làm sao – đời nào tôi dại dột đâm đầu vào rọ.

Về chuyện này tôi đã kể lại với đầy đủ chi tiết trong một bài báo “Những tên cướp dễ mến” được đăng trên tờ Việt Nam Dân chủ ở Paris. Nhiều bạn đã đọc hỏi tôi có giữ lại được bài báo đó không, nhưng mặc dầu cố gắng nhờ vả nhiều người tôi không sao tìm được. Tôi không có thói quen cất giữ những gì mình viết, cho rằng nếu chúng có giá trị thì chúng sẽ tồn tại không cần đến mình.

Một tuần sau, tôi được mời tới ngôi nhà rất lớn chạy dài cả một phố Lubianka nổi tiếng mà người dân Liên Xô nào cũng biết – trụ sở của KGB (Komitet Gosudarstvennoy Bezopasnosti – Bộ An ninh). Lúc ấy cơ quan quyền lực khủng khiếp một thời đã đổi tên là FSK (Federalnaya Sluzhba Kontrrazvedki – Cục Phản gián Liên bang) . Viên đại tá tầm thước, với gương mặt thật thà của người nông dân vùng Trung Nga, tiếp tôi trong một căn phòng hẹp dưới tầng hầm. Lấy ra chai vodka và con cá khô vobla đặt lên bàn, ông ta bắt đầu câu chuyện không vui. Chúng tôi vừa trò chuyện vừa uống rượu và nhai cá khô. Cuối cùng, trước khi chia tay, viên đại tá buồn rầu bảo tôi: “Chẳng cần nói ông cũng thừa biết ai làm vụ này. Tôi xấu hổ phải nói với ông rằng FSK không thể bảo vệ ông khi người ta chỉ cần bỏ ra vài ngàn dollars là đã thuê được lũ mafia đang đói rạc giết ông ngay trên đường phố Moskva. Tôi khuyên ông hãy chạy

sang phương Tây, ở đó ông mới có thể giữ được tính mạng”.

Tôi không chạy sang phương Tây mà bỏ sang Warszawa, thủ đô Ba Lan. Ở đó tôi cặm cụi viết lại những chương bị lấy mất (khoảng một phần ba cuốn sách) và vài chương tiếp theo. Công việc rồi cũng lại bị bỏ dở vì tôi được những người tốt báo cho biết công an từ Hà Nội đã sang Warszawa để lùng tôi, không thể biết lần này họ sẽ làm gì.

Tôi lập tức lấy chuyến bay đi Paris, ở đó tôi xin tị nạn. Tôi viết nốt những chương cuối cùng ở một căn phòng hẹp, lầu áp mái. Mùa hẻ căn phòng nóng như lò than. Mùa Đông thì lạnh cóng.

Nói tóm lại, cuốn sách được viết ra với rất nhiều cực nhọc. Nếu có nói nó được viết cả bằng máu cũng không ngoa.

3

Tính từ khởi đầu cuộc trấn áp cái gọi là “nhóm xét lại chống Đảng” (1967) cho tới khi tôi đặt bút viết Đêm Giữa Ban Ngày thì đã qua gần 30 năm. Khoảng cách về thời gian ấy là một độ lùi cần thiết cho người viết hồi ký. Những trang viết sẽ tách khỏi những cảm xúc tại chỗ, nóng hổi, nhất thời, gắn với những sự việc đang hoặc vừa xảy ra. Độ lùi này làm cho sự nhìn lại và miêu tả những sự kiện xảy ra trong quá khứ khách quan hơn.

Đêm Giữa Ban Ngày đã được thực hiện đúng như ý cha tôi muốn. Nó không phải là cuốn sách về một vụ án. Tôi không có định viết về vụ “nhóm xét lại chống Đảng” như một bản buộc tội những kẻ gây ra nó, cũng là thủ phạm của vô vàn oan trái khác tràn lan trong xã hội thời ấy, hay như sự chiêu tuyết cho những nạn nhân.

Vụ án chỉ là cái nền cho sự miêu tả một xã hội, trong đó tôi đã sống, với trải nghiệm của một thành viên bất đắc dĩ. Tôi vui khi thấy nhiều bạn đọc hiểu đúng mục đích của cuốn sách. Không có gì vô duyên hơn những hồi ký kể lể danh vị của cha ông hoặc sự khoe khoang những thành đạt trong cuộc đời tác giả. Người ta đọc hồi ký là để biết một cái gì lớn hơn cuộc đời của một cá nhân – ấy là diện mạo của một xã hội trong đó tác giả nằm khuất dưới những hàng chữ với tư cách nhân chứng.

Khi viết Đêm Giữa Ban Ngày tôi không hề muốn nói về “cái tôi” trong sự kiện, mà dùng sự kiện (vụ án) như cái nền trên đó hình ảnh của một xã hội mà tôi coi là không xứng đáng với con người được lộ ra nhiều nhất có thể. Chính vì thế mà bạn đọc mới được biết về những số phận người như ông già ba chục năm tù “Jean Valjean gọi bằng Cụ”, thằng bé Hán Còi, ông nông dân hiền lành Nguyễn Thái Bút hoặc tên “gián điệp quốc tế” Dịp Pún Mằn… Nếu tôi có đưa vào cuốn sách những văn nghệ sĩ như nhà văn Nguyễn Tuân, hoạ sĩ Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái… thì đó là để nói về cách đối xử của chính quyền cộng sản với lớp công dân ưu tú mà chính quyền ở các quốc gia bình thường coi trọng.

Chính vì để miêu tả những số phận bị chà đạp, bị dày xéo ấy mà bạn thấy tôi không nói gì nhiều về thân phận của tôi trong chín năm qua nhiều trại giam và những gì tôi đã nếm trải, như thể tôi “đang nói về chuyện của ai đó chứ không phải của mình vậy”. Những nhà tù (được gọi là “trại cải tạo”) có rất nhiều chuyện đáng được nói đến, được kể ra, nhưng những cái đó nằm ngoài mục đích của cuốn Đêm Giữa Ban Ngày. Chỉ tính những gì được nói đến đã làm cho nó dày cộp rồi. Hơn nữa, tôi không có ý định viết một cuốn sách thuộc dòng văn học “tố khổ”. Những tác phẩm loại này đã có nhiều đến nỗi sự thêm vào một cuốn nữa là thừa.

Jean Fréville (Eugène Schklaff (1895-1971) có một lời khuyên đáng giá cho người cầm bút bất kể anh ta dùng thể loại văn học nào: “Hãy để sự vật nói lên”. Sức mạnh của sự vật, cũng là sức mạnh của sự thật, lớn hơn mọi thủ pháp văn chương. Tôi đã cố gắng theo đúng lời khuyên này, nhưng không chắc mình đã làm được.

Bạn hỏi: “Sau tất cả những điều kinh khủng mà bác phải qua trong suốt 9 năm trời như vậy, mà sao bác không có chút hận thù, căm ghét gì với những kẻ đã hành hạ bác trong suốt những ngày tháng tù đày dã man đến vậy ạ?”. Bảo rằng tôi không có chút hận thù hay căm ghét nào với những kẻ hành hạ tôi thì tôi nghĩ không được đúng lắm đâu. Có đấy, nó nằm trong sự thật mà bạn thấy qua những dữ kiện được trình bày bằng cái nhìn lạnh lùng. Sự thật đã được phơi bày thì mọi bình luận về nó là thừa, làm hỏng điều mình muốn nói.

Khi nhìn lại sự việc trong quá khứ cái nhìn nào cũng chứa đựng sự bao dung trong vô thức, không nhiều thì ít, với người nào cũng vậy. Không ai có thể mãi mãi khư khư ôm thù hận trong lòng trong suốt cuộc đời. Tôi nhớ có đọc đâu đó một nghiên cứu khoa học về một đặc tính của não bộ con người – nó bao giờ cũng giữ lại những kỷ niệm tốt đẹp và quên đi những việc xấu.

Tôi hiển nhiên là nạn nhân của hai tên độc tài Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, như nhiều bạn cùng thời tôi biết rõ, hay ít ra thì cũng biết nhiều hơn những người chỉ đọc những bài tụng ca các lãnh tụ anh minh. Nhưng khi đã lùi xa khỏi sự kiện, tôi mới thấy cả hai người (hay quỷ) này xét cho cùng cũng là một thứ nạn nhân – nạn nhân của sự ham hố quyền lực và danh vọng. Chúng hoàn toàn không hiểu được rằng chúng là nô lệ của sự ham hố ấy. Vô vàn tội ác của chúng cũng từ sự ham hố ấy mà ra. Chửi bới chúng là tự hạ mình xuống chỗ của chúng.

Khi “quân dữ” (tôi mượn từ Thiên Chúa giáo) hùng hổ xông vào tôi khi tôi đang đi giữa đường, quẳng tôi lên xe, đưa tôi vào thẳng Hoả Lò, nhà tù nằm giữa lòng thành phố, rồi tiếp tục cuộc hành hạ tôi chín năm, tôi thấy lòng mình hoàn toàn yên tĩnh nhờ sự biết trước rằng chúng không thể hành xử theo cách nào khác với bản chất của chúng.

Khi ấy, tôi chợt nhớ tới mấy vần thơ của Puskhin:

Đừng cười nhé nỗi buồn anh thấy trước

Anh biết đòn số mệnh chẳng buông tha

Mái đầu xanh em vẫn hằng ve vuốt

Từ ngực em sẽ tới pháp trường xa…

Tôi không biết làm thơ, nhưng trong những ngày tù đằng đẵng của mình, tức cảnh sinh tình, tôi cũng ghi lại mấy dòng giống như thơ:

Kiệt lực qua thập điện khổ đau

Tôi lử lả tiến công vào cái Ác

Trong đêm giữa ban ngày

Với vũ khí trong tay

Chỉ một ngọn bút cùn thay lưỡi mác

Tôi ngã xuống trong lốc bụi chiến trường,

Phút hấp hối còn mang mang nghe tiếng nhạc.

Thì ra máu của tim mình

nhỏ xuống

đất cằn

Và đất lên giọng hát

Bài hát của niềm tin

Từ trái tim tôi rách nát.

Các nền dân chủ dễ bị hủy hoại trong thế kỷ 21 nếu chúng ta không lên tiếng

Các nền dân chủ dễ bị hủy hoại trong thế kỷ 21 nếu chúng ta không lên tiếng

Bởi  AdminTD

Việt Linh

20-6-2021

Chỉ trong vòng 4 năm trở lại đây, các nhà lãnh đạo độc tài đua nhau sửa đổi Hiến Pháp để được nắm quyền lâu hơn như Vladimir Putin ở Nga, Tập Cận Bình ở Trung Quốc…

Các chính trị gia trên khắp thế giới đang vay mượn chiến thuật của tay đại gian thương số 1 của nước Mỹ có tên Donald Trump, chiến thuật này có một slogan: “Tôi đã chiến thắng áp đảo, nhưng họ đã ăn cướp chiến thắng của tôi“.

Những cáo buộc gian lận sai trái này của một người thua cử thật vô cùng nguy hiểm.

Xin đưa ra 5 dẫn chứng thật nhất, là 5 lời phát biểu của 5 nhà lãnh đạo quốc gia đã làm xáo trộn chính trường của quốc gia họ, đã tạo sự chia rẽ, nghi ngờ giữa các đảng phái, gây hoang mang trong xã hội, người dân:

– Câu nói đầu tiên: “Tôi chỉ thua cử nếu có gian lận …“. Đây là lời phát biểu của Jair Bolsonaro, Tổng Thống đương nhiệm của nước Brazil ngay trước cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2018, đã đem đến chia rẽ chính trường Brazil và người dân của đất nước này. Và Donald Trump đã học thuộc bài từ nhà độc tài của Brazil, đem ra áp dụng ngay trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2020.

– Câu nói thứ hai: “Chúng tôi đang chứng kiến vụ gian lận bầu cử lớn nhất trong lịch sử đất nước”. Đây là lời phát biểu của Benjamin Netanyahu, cựu Thủ Tướng nước Do Thái, là người vừa bị lật đổ trong tuần rồi, ngay sau khi những đối thủ của ông đã thành lập một liên minh quốc hội để lật đổ ông ta.

Kể từ đó, ông ta đã miễn cưỡng nhường chỗ cho Thủ Tướng mới, Naftali Bennett, nhưng ông vẫn không thừa nhận rằng sự mất mát của mình là công bằng, miệng vẫn rêu rao rằng có gian lận, nhưng ít ra, Netanyahu vẫn còn một chút sĩ diện, muối mặt ra đi và thề sẽ quay trở lại trong vinh quang trong cuộc bầu cử tới, lúc đó ông ta sẽ 75 tuổi, hy vọng sức khỏe còn để tiếp tục ra tranh cử là Thủ Tướng lần chót trước khi làm một chuyến đi xa.

– Câu nói thứ ba: “Đây có thể là bài phát biểu quan trọng nhất mà tôi từng thực hiện. Tôi muốn cung cấp thông tin cập nhật về những nỗ lực không ngừng của chúng tôi nhằm vạch trần những hành vi gian lận cử tri lớn và những bất thường. Tôi đã thắng cử với con số áp đảo, nhưng chiến thắng đã bị họ cướp mất”.

Câu nói trên là lời phát biểu của Donald Trump, cựu Tổng Thống thứ 45 của Hoa Kỳ, là người đã thua cử trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2020, không có được sĩ diện và lòng tự trọng như Benjamin Netanyahu, vẫn luôn miệng kêu gào, có gian lận, tôi đã thắng lớn, tôi sẽ quay lại Tòa Bạch Ốc, thưa kiện và thua kiện, đếm phiếu lại ở nhiều tiểu bang và chẳng tìm được gì, mãi đến 7 tháng sau, ông ta mới mở miệng chấp nhận thua cuộc. Với tên gian thương, chuyên gia nói dối này, tôi tạm gọi là, “Donald trump, sĩ diện đã bán rẻ và lòng tự trọng đến trong muộn màng“.

– Câu nói thứ tư: “Cuộc bầu cử có gian lận phiếu, chúng tôi phải ngăn chặn kết quả cuộc bầu cử bất hợp pháp này, và chúng tôi đã chặn đứng họ …” Đó là câu nói của Tổng tư lệnh quân đội Min Aung Hlain, người cầm đầu quân đội Miến Điện, đã đưa ra tuyên bố cuộc bầu cử có gian lận, làm lý do chánh cho cuộc đảo chánh quân sự, bắt nhốt lãnh đạo dân cử là bà Aung San Suu Ky, giải tán Quốc Hội, và hiện đang nắm toàn quyền sinh sát tại đất nước có thể chế dân chủ yếu kém này, đưa đất nước Miến Điện quay trở lại thời kỳ độc tài quân phiệt.

Đây cũng chính là nguồn cảm hứng cho Michael Flynn, một cựu tướng quân đội Mỹ, đã ấp ủ giấc mơ dùng quân đội để đảo chánh, giúp Trump nắm quyền và đưa nước Mỹ đến chế độ chuyên quyền độc tài.

– Và, câu nói thứ năm: “Cuộc bầu cử có gian lận sẽ bị lật tẩy, tôi sẽ chiến thắng, hỡi các bạn thân mến“. Đây là lời phát biểu của Keiko Fujimori, là cô con gái của Alberto Fujimori, cựu lãnh đạo độc tài của nước Peru. Cô này chỉ mới 46 tuổi, là lãnh đạo đảng chính trị cánh hữu, cũng vừa thua một cuộc bầu cử, nhưng lại không công nhận kết quả.

Cô Keiko Fujimori đã diễn lại y chang màn kịch kêu gào có gian lận, kêu gọi sự ủng hộ của những kẻ cực hữu, những người ủng hộ Keiko Fujimori cũng xử dụng phục trang, đội nón sừng trâu kiểu Jacob Anthony Chansley làm biểu tượng cho sự phản kháng và bạo loạn.

Sau những lời nói dối từ Benjamin Netanyahu, Donald Trump đến Keiko Fujimori… báo hiệu một xu hướng độc hại trên nhiều chính trường của các thể chế dân chủ trên toàn thế giới. Freedom House, một tổ chức tư vấn và giám sát ủng hộ dân chủ, đã cảnh báo rằng, thế giới đang trải qua “sự suy giảm dân chủ có tính lập lại trong lâu dài”.

Và nguy hiểm nhất, độc hại nhất, vẫn là những hành vi của Donald Trump sau cuộc bầu cử năm 2020, sẽ tiếp tục khuyến khích những kẻ chuyên quyền khắp thế giới thao túng các quy trình bầu cử để nắm giữ quyền lực.

Trong tất cả những trường hợp này, chẳng có nhà lãnh đạo nào thuộc diện trong sạch, liêm chính, được người dân yêu mến, ủng hộ cả. Donald Trump đang phải đối diện với nhiều vụ thưa kiện, các cáo buộc lạm dụng quyền lực, tham nhũng của công, cấu kết với nước ngoài và thất bại trong kinh doanh. Benjamin Netanyahu đã và đang bị truy tố về tội tham nhũng và gian lận. Keiko Fujimori trước đó đã phải ngồi tù một năm, trong khi chờ xét xử vì bị cáo buộc thu các khoản đóng góp chiến dịch bất hợp pháp, muốn hô hào có gian lận để lật ngước kết quả bầu cử, và tin tưởng vào chức vụ Tổng Thống để bảo vệ cô ta khỏi bị truy tố về tội rửa tiền và cản trở công lý.

Tất cả các nhà lãnh đạo tham quyền cố vị này đều có chung một lối tuyên bố giống hệt nhau, rằng bởi có gian lận trong bầu cử, họ đã không thắng cử, bị cướp mất chiến thắng, rằng ngoài những gì cá nhân họ có thể phải gánh chịu, thì quốc gia của họ cũng sẽ phải trả một cái giá rất lớn cho sự mất mát khi không có họ, rằng chỉ có họ mới đưa được đất nước giàu mạnh, phát triển.

Benjamin Netanyahu, sau khi thua cuộc bỏ phiếu, gọi chính phủ mới là một “liên minh nguy hiểm của gian lận và đầu hàng“, và đã thề sẽ “lật đổ nó rất nhanh chóng“.

Keiko Fujimori đã mô tả chiến thắng của đối thủ cánh tả của mình là một mối đe dọa sinh tử đối với đất nước Peru và cho rằng, đất nước Peru sẽ tiếp bước đất nước Venezuela trong sự đàn áp tự do và nghèo đói.

Donald Trump cho rằng nước Mỹ dưới thời một Tổng Thống thuộc đảng Dân Chủ cấp tiến sẽ đưa đất nước đổi sang một nước xã hội chủ nghĩa cộng sản, rằng ngoại trừ ông ta chiến thắng thì đó là cuộc bầu cử chính đáng, công bằng, nếu ông ta không chiến thắng, tức là có gian lận.

Những hậu quả bây giờ và tương lai đối với các thể chế dân chủ trên toàn thế giới, không chỉ ở Brazil, Hoa Kỳ, Do Thái, Miến Điện hay Peru, mà còn có thể xảy ra tại nhiều nước khác nữa. Những kẻ chuyên quyền, độc tài mới sẽ dựa vào những hình mẫu, cách thức mà những kẻ bại hoại, tham quyền cố vị đã làm, để áp dụng ngay trên chính đất nước của họ, tìm cách khiến những người ủng hộ họ chống lại chính hệ thống bỏ phiếu công bằng đã hoạt động hiệu quả từ bao lâu nay, làm mất uy tín của các cuộc bầu cử, phá hoại ý tưởng chính trị cạnh tranh.

Với nước Mỹ, không có một vị Tổng Thống Mỹ nào, từ thời lập quốc đến thời cận đại đã có những ý tưởng điên rồ, những phương kế bẩn thỉu, những mưu mô thâm độc, tàn phá thể chế dân chủ của đất nước mình, chỉ để được nắm quyền lực trong tay lâu hơn. Chỉ có Donald Trump, một tên gian thương xảo trá mới có đủ mưu ma chước quỷ làm nên những điều tồi bại đó. Và các phương tiện truyền thông xã hội trong thời đại công nghệ phát triển đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khuếch đại chúng.

Không có nhà lãnh đạo dân chủ châu Âu thời hậu chiến nào đã thử nó. Các nước thuộc khối Liên Hiệp Châu Âu đã rất may mắn, không như nước Mỹ.

Nếu nói theo định nghĩa công bằng của bất kỳ cuộc bầu cử nào trên thế giới, chiến thắng của đối thủ một ứng cử viên chỉ có thể đạt được thông qua gian lận, thì làm thế nào mà cuộc bầu cử có thể được xem là hợp pháp?

Nhưng, những người dân sống tại các nước dân chủ, tự do đã rất may mắn, rằng xu hướng tệ hại này đã không xảy ra thường xuyên, ý thức của người dân, tính nghiêm minh của luật pháp và ảnh hưởng bởi sự quan sát của thế giới đã làm chùn chân các nhà lãnh đạo độc tài.

Với Benjamin Franklin, một nhân vật quan trọng trong thời kỳ khai sáng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, khi được hỏi: “Nước Mỹ sẽ tốt hơn khi là một nền Cộng Hòa hay một chế độ quân chủ?” Ông đã trả lời: “Dĩ nhiên, đó phải là một nền Cộng Hòa, nếu bạn có thể giữ vững được nó“.

Với Richard Nixon, một Tổng Thống đảng Cộng Hòa, khi các cố vấn gợi ý rằng, ông nên tranh chấp kết quả của cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1960, ông đã từ chối và nói rằng: “Đất nước của chúng ta không thể chịu đựng được sự đau đớn của một cuộc khủng hoảng Hiến Pháp, tôi sẽ không vì quyền lực hay vì cái ghế Tổng Thống mà tạo ra cái điều chết tiệt đó“.

Một nền Dân Chủ không thể hoạt động tốt và ổn định, nếu người dân không có đức tính tôn trọng luật pháp và yêu đất nước, nếu không, sẽ rất dễ xảy ra các cuộc bầu cử với tranh chấp, bạo lực, thậm chí nội chiến đều có thể dẫn đến.

Trong nhiều thập niên qua, người Mỹ, cũng như người Do Thái và những đất nước Dân Chủ ở Châu Âu đã không bị những dịch bệnh tham quyền cố vị, nói láo và bạo lực chính trị xảy ra. Chúng ta đã không nghĩ đến những tình huống xấu xảy ra, hay chuẩn bị tinh thần cho việc các cơ quan cao nhất của chính quyền bị tấn công, huỷ hoại bởi những người không chơi theo luật, không đủ đức tính công dân và không ngại đạp đổ nền dân chủ lâu đời nếu đó là điều cần thiết để giành chiến thắng.

Chính xác rằng, Donald Trump đã đưa đường dẫn lối cho các nhà lãnh đạo có tư tưởng chuyên quyền, độc tài khác trên thế giới, với chứng minh rõ nét nhất, rằng Donald Trump có thể biến một đảng chính trị lớn và những người ủng hộ, thành một đội quân hung hãn để tấn công và phá hoại nền dân chủ.

Và, không ai có thể chối cãi, những diễn biến xấu tại các quốc gia Do Thái, Miến Điện, Peru… chính là những tác động toàn cầu từ cuộc lật đổ tiến trình Dân Chủ tại Hoa Kỳ của Donald Trump, sát thủ của nền Dân Chủ Mỹ.

______

Tham khảo:

https://www.theatlantic.com/ideas/archive/2021/06/trump-fraud-stop-steal-copycats/619226/

https://edition.cnn.com/2021/06/18/politics/republicans-trump-january-6-whitewashing/index.html

LẠI NHỚ NGUYỄN CHÍ THIỆN

LẠI NHỚ NGUYỄN CHÍ THIỆN

Nguyễn Chí Thiện ở tù cùng với tôi tại trại Phong Quang, Lào Cai.

Tính về mức độ tàn bạo, theo sự đánh giá của những người tù thâm niên, nó chỉ đứng sau trại Quyết Tiến, hoặc còn gọi nôm na là trại Cổng Trời, ở Hà Giang.

Tôi ra tù trước Nguyễn Chí Thiện vài tháng, hoặc nửa năm chi đó. Người ta thả tôi với điều kiện ngặt nghèo – phải được một cơ quan, xí nghiệp nhận vào làm việc. Người nhà, bè bạn chạy xất bất xang bang, cuối cùng rồi cũng gặp được một ông giám đốc dám làm cái việc không ai muốn làm.

Tôi được ký hợp đồng tạm tuyển, tạm tuyển thôi, làm công nhân bốc vác ở Công ty cung ứng vật liệu xây dựng Hà Sơn Bình. Nó là cái tỉnh mới, gồm Hà Đông, Sơn Tây và Hoà Bình, theo sáng kiến của ông tổng bí thư anh minh được ca ngợi là ngọn đèn 200 bougies soi đường cách mạng. Thời ông này người vào tù đông nhất. Các trại mới mọc nhanh như nấm.

Ông giám đốc tốt bụng chẳng những không bắt tôi làm công việc bốc vác, giữ tôi ở văn phòng, mà còn cho phép tôi không phải ở nhà tập thể của công ty ở thị xã Hà Đông, hết ngày thì về nhà mình ở Hà Nội.

Nguyễn Chí Thiện được thả về nguyên quán Hải Phòng, ở đấy anh còn bà chị.

Chẳng khác gì tôi, anh không thể kiếm được việc làm. Trước khi đi tù lần thứ nhất, anh làm nghề dạy học. Sau lần đi tù thứ hai vì tội làm thơ phản động, anh thất nghiệp trăm phần trăm. Trở về nghề cũ, nghề duy nhất anh biết thì chắc chắn không được rồi. Làm thầy giáo trong nhà trường xã hội chủ nghĩa nếu lý lịch không sáng như gương thì cũng phải là người không một lần vướng vòng lao lý, thậm chí không bị cái gọi là “cơ quan chức năng” cho vào sổ đen. Các cơ quan, xí nghiệp nhà nước chỉ cần lướt qua lý lịch hai lần tù của anh là xua anh như xua tà. Anh sống vắt mũi bỏ miệng, lúc đói lúc no.

Thỉnh thoảng, chẳng có việc gì để làm, anh lên Hà Nội thăm tôi và bạn tù cũ: Trình Hàng Vải, Vĩnh Đại Uý, Văn Thợ Mộc, Dũng Con…, hi vọng anh em mách bảo cách nào kiếm sống.

Trình Hàng Vải hiến kế đi buôn – cất đũa xe đạp ở Hà Nội về bán ở Hải Phòng. Thiện đi được vài chuyến trót lọt, cũng kiếm được chút đỉnh. Cái may khốn thay lại không dài – vào một ngày đông rét cắt ruột anh đụng thuế vụ. ThấyThiện mặt gày quắt, áo bông lại to xù, người nhà nước đè ra khám. Tất tật các bó đũa xe đạp quấn quanh người bị tịch thu. Thế là mất cả chì lẫn chài.

Tôi may mắn hơn Thiện.

Đang lúc không biết cách nào kiếm sống thì rất bất ngờ, tôi gặp lại ông bạn cũ, trước kia là giảng viên khóa 6 trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Tình đồng ngũ khiến anh tự tìm tôi để giúp đỡ. Lê Sĩ Thiện là con dao pha, việc gì đến tay anh cũng tìm ra cách làm bằng được. Trước khi về hưu, anh là phó giám đốc nhà máy điện Lào Cai. Mặt hàng đầu tiên chúng tôi sản xuất là bột nở thực phẩm. Chúng tôi gặp thời – trước kia bột nở phải nhập của Tàu, nay hai nước lủng củng, không có hàng về, cái quẩy giờ chỉ to bằng ngón tay. Các bà bán cháo quẩy ào ào mua hàng của chúng tôi. Nhờ có bột nở nội hoá này cái quẩy lại phồng to như cán búa.

Thấy bột nở chạy, Nguyễn Chí Thiện muốn lấy một ít về Phòng bán thử. Nhưng ngay cả tiền trả hàng mẫu anh cũng không có.

Với bạn tù, tôi không tiếc. Nhưng việc này phải được Lê Sĩ Thiện bằng lòng.

Chúng tôi khởi đầu bằng hai bàn tay trắng. Gõ mọi cửa có thể gõ mới vay được năm chục bạc, bằng lương kỹ sư một tháng. Được cái việc sản xuất không cần nhiều thiết bị lôi thôi, làm ra nhanh, chẳng mấy chốc chúng tôi đã có những đồng lãi đầu tiên. Tuy vậy, mới bắt tay vào sản xuất, tiền thu chưa được bao nhiêu. Bán chịu trong những ngày ấy không khó, nhưng nó mang lại sự xúi quẩy, người ta tin như thế.

Lê Sĩ Thiện không quen Nguyễn Chí Thiện, hai người mới chỉ gặp nhau vài lần ở nhà tôi. Tôi e anh không bằng lòng. Nhưng tôi lầm. Lê Sĩ Thiện biết chúng tôi thân nhau, rất có thể trong thâm tâm anh có cảm tình với những người bị bỏ tù vì tội chống chế độ.

Anh gãi đầu, rồi quyết:

– Để cậu ấy lấy. Bán được rồi, trả sau có sao.

Vào thời gian ấy chẳng ai trong chúng tôi, những bạn tù của Nguyễn Chí Thiện coi anh là nhà thơ, mặc dầu không ít thì nhiều chúng tôi đều được anh thì thầm đọc cho nghe thơ anh trong những buổi tối của đời tù đằng đẵng. Anh cũng thật thà thú nhận:

Thơ của tôi không phải là thơ.

Mà là tiếng cuộc đời nức nở.

Tiếng cửa nhà giam ngòm đen khép mở.

Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ.

Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ.

Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ.

Nhưng cũng có những vần thơ của anh tôi nghe một lần mà nhớ mãi:

Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương.

Còn tôi – ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng,

Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương.

Từ hai câu: Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương của thi hào Lý Bạch mà bật ra sự liên tưởng so sánh vừa hồn nhiên vừa đau đớn ấy, hồn thơ trong Nguyễn Chí Thiện đã thức giấc. Nó đặc biệt gợi nhớ cái xà lim cấm cố ai từng qua thì không thể nào quên.

Nhưng khi nghe những vần thơ khác:

Đảng như hòn đá tảng

Đè lên vận mạng quê hương.

Muốn sống trong hòa hợp yêu thương,

Việc trước nhất phải tìm phương hất xuống.

Thì Lê Sĩ Thiện hết hồn: “Bị bỏ tù còn là nhẹ. Còn sống là may.

Lê Sĩ Thiện chưa từng ở tù, anh chỉ có thể đoán, chứ không thể biết tâm trạng người tù. Con người sống trong cái xã hội được gọi là xã hội chủ nghĩa, với cái sợ được chương trình hoá, được định hình trong vô thức, anh chăm chú nghe, giật mình khi nghe, rồi ngẩn người, không thốt được lời nào.

– Tâm hồn người này thật trong sáng – Lê Sĩ Thiện nói riêng với tôi – Rất thật thà. Anh ta rồi còn gặp nhiều nguy hiểm.

Nhờ buôn bột nở, Nguyễn Chí Thiện nhanh chóng trang trải được nợ nần, thậm chí còn dư chút đỉnh giúp họ hàng ở quê, giúp các bạn tù còn loay hoay tìm kế sinh nhai. Ấy là sau này Thiện tâm sự tôi mới biết.

Thiện sòng phẳng. Bán được nhiều rồi, tích được lãi làm vốn rồi, anh lấy hàng lần nào thanh toán ngay lần ấy, không dây dưa.

Một lần, anh dồn tất cả tiền có được để mua một lượng hàng lớn theo yêu cầu của người đặt hàng.

Hoá ra ở miền Nam bấy giờ rất thiếu bột nở cho cao su để làm dép xốp Thái Lan. Lái buôn từ miền Nam ra, nghe nói Hải Phòng có thứ đó, mua về, thấy tuy chất còn kém, nhưng dùng được, liền đặt hàng, bảo Thiện có bao nhiêu lấy bấy nhiêu. Thiện tính sẽ lãi to, ai ngờ thất bại nặng. Tất cả số bột nở anh mang về đều bị thuế vụ tịch thu.

Vụ ấy tôi hoàn toàn không biết. Chỉ thấy Thiện vắng mặt lâu, không thấy lên lấy hàng.

Đùng một cái, Trình Hàng Vải hớt hải báo: “Thiện bị bắt lại rồi!”

Anh bàn với tôi và các bạn góp tiền đưa cho bà chị Thiện đi tiếp tế. Chúng tôi, tất nhiên không được thò mặt ra trong việc này. Thì ra thời gian Thiện vắng bóng là lúc anh âm thầm chép lại toàn bộ thơ làm trong tù để rồi đột nhập đại sứ quán Anh, nhờ họ chuyển ra nước ngoài. Tập thơ đầu tiên của Thiện có tựa đề “Hoa Địa Ngục”. Chi tiết vụ này thế nào mọi người đều đã biết.

Mãi sau tôi mới được nghe kể chuyện gì đã xảy ra trong chuyến lấy hàng lần chót của Thiện mang về Hải Phòng.

Một người bạn của Thiện, cựu đại uý Bảo chính đoàn, nay đạp xích-lô, một buổi tối vắng khách mới rẽ vào thăm Thiện. Đẩy cánh cửa không bao giờ khoá vào nhà, anh thấy nhà tối om. Bật lửa lên soi thì thấy Thiện nằm co trên giường. Sờ soạng tìm công tắc, bật điện Vẫn tối om.

– Điện đóm sao thế này? Đèn đâu? – anh hỏi.

Thiện ngỏng đầu lên:

– Bán rồi!

– Bán rồi là thế nào?

– Bán rồi là bán rồi, chứ còn là thế nào.

Thì ra sau vụ bị tịch thu tất cả số bột nở trên tàu, Thiện chẳng còn đồng nào trong túi. Về được đến nhà, bụng đói cật rét, trong nhà chẳng còn gì đáng giá ngoài cái bóng điện 15 watts. Bèn tháo ra mang đi đổi lấy một bơ gạo (bơ, tức là cái vỏ hộp sữa đặc, một thời được dân chúng coi là đơn vị đo lường) về nấu cháo.

Ăn cháo xong, đắp chăn ngủ.

Anh cựu đại uý đạp xích lô bảo Thiện:

– Cậu có khai với chúng nó là bột nở không đấy?

– Không.

– Cậu khai sao?

– Bảo: tôi không biết, người ta thuê tôi mang thì tôi mang.

Anh bạn thở phào:

– Thế thì có cơ cứu vãn. Chúng nó mà biết là bột nở thì xong phim. Chúng nó sẽ đem bán để chia nhau. Cậu nghe đây, tớ quen bọn ấy. Còn có cơ cứu vãn.

– Quen thế nào?

– Làm ăn ấy mà.

Thiện chồm dậy:

– Liệu lấy lại được không?

– Còn tùy tình hình. Mình sẽ hỏi chúng nó.

– Nhất rồi – Thiện reo lên – Có phải đấm mõm chúng nó không? Tớ không còn xu nào dính túi đâu đấy nhá.

Anh bạn gãi đầu:

– Không. Nhưng thế nào thì cũng phải đãi chúng nó một chầu.

– Tớ nói rồi – tớ không còn xu nào đâu.

– Để tớ lo. Sau, cậu trả lại tớ.

Anh cựu đại uý điều đình thế nào không biết. Một bữa thịt chó được anh tổ chức, không linh đình, nhưng thoả thuê. Đến lúc ấy Thiện mới biết bọn thuế vụ chẳng biết cái chúng thu là cái quái gì. Cứ thứ gì mà người mang không trình ra được hoá đơn là coi như hàng lậu, thu tất.

Thiện được trả lại tất cả số hàng bị thu.

Bữa ấy Thiện say khướt. Say đến nỗi không biết làm sao mình về được tới nhà. Anh không bao giờ uống rượu. Phần lớn thời gian đời anh trôi qua trong tù, nơi không thể có rượu, trừ những người trong toán tự giác. Những người này thỉnh thoảng cũng được một lần say sưa nhờ đổi những vật dụng tù mang theo người khi vào trại lấy rượu với dân bản lân cận.

Tôi hỏi Thiện chuyện này khi chúng tôi được sống cùng nhau trong một căn hộ tại Strasbourg, thành phố miền Bắc nước Pháp.

– Đó là lần đầu tiên tôi uống rượu, ông ạ – Thiện nói – Trước đó cũng có nhấp tí chút trong một đám giỗ, chẳng thấy ngon lành gì. Cay xè.

– Say thế làm sao về? – tôi hỏi.

– Ông này buồn cười, anh đại uý bạn tôi chở tôi về chứ. Anh ta có cả một cái xích lô cơ mà.

10.2016

TẠI SAO NÓI TẤT CẢ MỌI DÂN TỘC ĐỀU XỨNG ĐÁNG VỚI MỌI CHÍNH QUYỀN MÀ HỌ ĐANG CÓ TRONG HIỆN TẠI?

 

TẠI SAO NÓI TẤT CẢ MỌI DÂN TỘC ĐỀU XỨNG ĐÁNG VỚI MỌI CHÍNH QUYỀN MÀ HỌ ĐANG CÓ TRONG HIỆN TẠI?

Đây là nhận định sâu sắc nhất về nguồn gốc, bản chất của chính trị. Nó sẽ chỉ ra nguyên nhân gốc trong mọi nguyên nhân dẫn đến tai họa. Và cũng cho biết nên bắt đầu từ đâu.

Thông thường trước một thảm họa mất nước, bất công đa số người dân đều đổ lỗi cho chính quyền.

Nhưng các chính trị gia dân chủ thế giới trong “thế kỷ ánh sáng” đã đưa ra một nguyên lý là dân có quyền thay thế chính quyền.

Nói nôm na dễ hiểu là anh thấy kẻ ngồi trên đầu anh không tốt anh có thể kéo nó xuống và thay kẻ khác lên.

Nhưng có 2 trường hợp xảy ra:

– Kẻ ngồi trên đầu không chịu xuống.

– Kẻ ngồi trên đầu tuân lệnh lá phiếu của anh.

Trong 2 trường hợp này đẻ ra 2 thể chế chính trị khác nhau :

– Độc tài.

– Dân chủ.

Trong trường hợp đầu tiên sở dĩ một nước để cho chính quyền độc tài đè đầu mình là vì họ không thông minh và can đảm tạo ra đối lập. Họ bị chính quyền lừa bằng tuyên truyền dối trá, dùng công an, quân đội đè đầu và luật pháp do chúng đặt ra để trói buộc. Và chính trị thế giới chỉ ra rằng bằng mọi cách người dân phải thoát ra khỏi tình trạng này. Đừng bao giờ đổ thừa hoàn cảnh vì những kẻ ngồi trên đầu anh sẽ không bao giờ buông cái gọng kìm mà chúng đã siết vào đầu anh.

Trong trường hợp thứ hai khi đã có dân chủ bằng lá phiếu rồi anh cũng không được chủ quan buông xuôi mà phải luôn dùng biểu tình để dạy dỗ chính quyền, dùng báo chí, đối lập để hướng chính quyền tuân thủ hiến pháp. Sau đó hễ thấy chính quyền nào không tốt anh phải thay thế ngay sau mỗi nhiệm kỳ 4 năm.

Nhân dân Việt Nam quen nếp suy nghĩ nô lệ 4000 năm nên sẽ không bao giờ hiểu điều này. Họ luôn cho rằng ai ngồi trên đầu mình là do số phận an bài. Nó anh minh thì mình được nhờ, nó thối nát thì mình ráng chịu. Do đó họ chỉ tập trung vào chửi chính quyền để mong nó thay đổi chứ không hề nảy sinh tư duy làm cách mạng để thay thế chính quyền đưa mình lên ngai vàng.

Chính quyền tốt hay xấu đều do dân. Đó là nguyên lý.

Người được chọn kế nhiệm Thủ tướng Singapore tự rút để nhường cho lớp trẻ dù chỉ mới 60 tuổi

 

Người được chọn kế nhiệm Thủ tướng Singapore tự rút để nhường cho lớp trẻ dù chỉ mới 60 tuổi

Phó Thủ tướng Singapore Heng Swee Keat sẽ từ chức với tư cách là người kế nhiệm được chỉ định của Thủ tướng đương nhiệm Lý Hiển Long, để nhường cho lớp lãnh đạo trẻ hơn trong một quyết định bất ngờ hôm 8-4.

“Chúng tôi cần một nhà lãnh đạo không chỉ xây dựng lại Singapore sau COVID-19 mà còn dẫn dắt giai đoạn tiếp theo của nỗ lực xây dựng quốc gia của chúng ta”, ông Heng cho biết trong một bức thư được công bố hôm thứ Năm.

“Vì cuộc khủng hoảng sẽ còn kéo dài, tôi sẽ gần đến khoảng 60 tuổi rưỡi khi cuộc khủng hoảng kết thúc.

Nhưng tôi cũng xem xét độ tuổi mà ba Thủ tướng đầu tiên của chúng ta đảm nhận công việc, tôi sẽ có ‘đường băng’ quá ngắn nếu tôi trở thành thủ tướng tiếp theo”, hãng tin Reuters dẫn lời ông Heng cho hay.

Ông Heng sẽ bước sang tuổi 60 năm nay, sẽ từ bỏ tư cách bộ trưởng tài chính trong cuộc cải tổ nội các tiếp theo dự kiến ​​trong khoảng hai tuần.

Việc kế vị của thành phố giàu có ở Đông Nam Á – do Đảng Hành động Nhân dân (PAP) điều hành kể từ khi giành được độc lập vào năm 1965 – thường là một việc được lên kế hoạch cẩn thận.

Trong khi đó ở Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng, 76 tuổi, tiếp tục nhiệm kỳ thứ ba trong 5 năm trên cương vị đảng trưởng đảng Cộng sản Việt Nam và chỉ vừa mới bị miễn nhiệm chức Chủ tịch nước.

#RFAVietnamese #Maidaubactranghienngang #GanhSonhanangtriuhaivai

May be an image of 1 person, standing and text that says 'AP ĐÀIÁCHÂUTỰ DO ĐÀI ÁCHÂUTU DO Người được chọn kế nhiệm Thủ tướng Singapore tự rút để nhường cho lớp trẻ dù chỉ mới 60 tuổi'

Trung Quốc lớn mạnh, nền dân chủ ở Đông Nam Á đang chết dần

 Trung Quốc lớn mạnh, nền dân chủ ở Đông Nam Á đang chết dần

Phan Trọng Hoà

Chỉ 5 năm trước, nhiều người lạc quan rằng Đông Nam Á cuối cùng đã đạt được bước ngoặt trên con đường đi tới dân chủ. Vào thời điểm đó, quân đội Myanmar cuối cùng đã nới lỏng quyền lực kéo dài hàng thập kỷ của mình khi đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2015.

Ba năm sau, đảng đối lập của Malaysia đã loại bỏ quyền lực của đảng Mặt trận Dân tộc (BN), liên minh chính trị cầm quyền lâu năm, đánh dấu sự thay đổi chế độ đầu tiên ở Malaysia kể từ khi độc lập năm 1957. Đây là những thay đổi chính trị mang tính địa chấn. Quan trọng hơn, cả hai lần thay đổi quyền lực đều diễn ra sau các cuộc bầu cử tự do, mặc dù không hoàn toàn công bằng nhưng không có đổ máu.

Thụt lùi dân chủ từ Manila đến Naypyidaw

Ngày hôm nay, sự lạc quan đó đã không còn nữa. Thế giới đã đổ dồn chú ý vào sự sụp đổ của Myanmar sau cuộc đảo chính quân sự hồi đầu tháng 2/2021, dẫn đến các cuộc bạo loạn gây thương vong và mất tích. Tuy nhiên, không chỉ ở Myanmar, tiến trình dân chủ đã có những bước thụt lùi trên khắp khu vực.

Ở Thái Lan, chúng ta đang chứng kiến sự quay trở lại chế độ quân chủ-quân sự với vị vua mới, Maha Vajiralongkorn, người đã yêu cầu thay đổi hiến pháp để giành thêm quyền hành pháp cho chính nhà vua và kiểm soát trực tiếp Cục Quản lý Tài sản Hoàng gia. Hiện ông đã trở thành một trong những quốc vương giàu nhất thế giới với khối tài sản ước tính khoảng 60-70 tỷ USD.

Các vụ đàn áp theo luật “lese-majeste” khét tiếng của Thái Lan (còn được gọi là luật về tội khi quân) ngày càng gia tăng. Luật này thường nhắm tới những người viết bài đăng trên mạng xã hội có nội dung chống chế độ quân chủ. Năm 2020, chính phủ Thái Lan đã khởi kiện Facebook và Twitter vì phớt lờ yêu cầu xóa nội dung bị coi là vi phạm pháp luật. Đáng lo ngại hơn, một số nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng của Thái Lan cũng đã chết một cách bí ẩn ở các nước láng giềng.

Tại Philippines, ông Rodrigo Duterte lên nắm quyền Tổng thống vào tháng 6/2016 và phát động một chiến dịch trấn áp tội phạm ma túy khiến khoảng 12.000 người nước này thiệt mạng. Ông Duterte cũng đã chỉ trích các phương tiện truyền thông đưa tin về các vụ xét xử tội phạm ma túy này. Trong đó, một nhân vật “có tiếng” chỉ trích chính phủ Philippines đã bị kết tội phỉ báng vào năm 2020. Mạng truyền hình lớn nhất của đất nước, ABS-CBN, cũng đã bị đình chỉ hoạt động dưới áp lực của các đồng minh của ông Duterte trong quốc hội.

Sự lạc quan về “Mùa Xuân Malaysia” đã hoàn toàn biến mất. Hồi năm 2020, chính phủ Pakatan Harapan theo chủ nghĩa cải cách sụp đổ và một liên minh Hồi giáo-Mã Lai mới lên nắm quyền. Với xã hội đa sắc tộc và đa tôn giáo ở Malaysia, việc thành lập Đảng PN không phải là một dấu hiệu tích cực cho nền dân chủ.

Sau đó, hồi tháng 2 vừa qua, chính phủ Malaysia đã ban bố tình trạng khẩn cấp và ngừng họp quốc hội trong 6 tháng. Nhiều ý kiến cho rằng động thái này nhằm ngăn cản phe đối lập thách thức chính phủ mới.

Singapore, quốc gia giàu có nhất trong khu vực, vẫn nằm trong sự kìm kẹp của Đảng Hành động Nhân dân (PAP), đảng vừa chiến thắng trong cuộc bầu cử hồi năm 2020. PAP đã liên tục nắm quyền kể từ năm 1959.

Điểm sáng duy nhất trong khu vực xuất hiện là Indonesia. Thế nhưng, những đám mây đen đã xuất hiện ở phía chân trời. Tổng thống Joko Widodo (Jokowi) dường như đang quay lưng lại với các cải cách và “nương tay” với các phần tử Hồi giáo, những người đang muốn biến Indonesia thành một quốc gia Hồi giáo.

Kể từ sau năm 1975, khi Đảng cộng sản thành công trong việc nắm quyền cai trị đất nước, Việt Nam luôn là nước bị phương Tây đánh giá là đất nước thiếu dân chủ vì toàn bộ các thể chế Nhà nước đều do Đảng cộng sản kiểm soát và chi phối.

Đảng Cộng sản Việt Nam mới tổ chức đại hội lần thứ 13 vào hồi cuối tháng 1 và đầu tháng 2 năm nay. Phải hai tháng sau, nhân sự chủ chốt trong hệ thống chính trị Việt Nam hay còn gọi là “Tứ trụ” thì ngoại trừ chức vụ Tổng Bí thư đã công bố khi kết thúc đại hội, còn lại 3 chức vụ Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội vừa mới được công bố cách đây không lâu, với lý do để Quốc hội họp và bầu ra. Tuy nhiên, các thông tin rò rỉ từ hồi trước Tết Nguyên đán đã cho biết chính xác từng người sẽ giữ các vị trí còn lại. Điều đó cho thấy sự sắp xếp và dàn dựng các màn bỏ phiếu, như diễn một “vở kịch dân chủ” vậy.

Các nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ trước Trump đều quan tâm đến vấn đề dân chủ ở Việt Nam, nên Chính phủ Việt Nam cũng e dè trong việc kết tội những người bất đồng chính kiến, tuy nhiên dưới thời Trump làm Tổng thống, Mỹ không đặt nặng vấn đề dân chủ, nên chính quyền Việt Nam đã mạnh tay bắt bớ và kết án tù nặng nề rất nhiều những người bất đồng chính kiến, cho dù họ chỉ nói lên tiếng nói của mình, không có một tấc sắt trong tay để chống lại chính quyền.

Cho dù nhà nước Việt Nam luôn tuyên bố Quốc hội là cơ quan dân cử và là cơ quan quyền lực cao nhất, đồng thời người dân được tự do ứng cử, nhưng trong thực tế thì tất cả đều ngược lại. Quốc hội Việt Nam chỉ được quyền phát biểu về những vấn đề Đảng cho phép, cũng không có cơ chế để Quốc hội có thể cách chức những người vi phạm, mà quyền đó sẽ do các cơ quan Đảng phụ trách. Những người dân nào tự ứng cử mà Đảng không cho phép thì sẽ bị bắt giữ, như trường hợp ông Trần Quốc Khánh, Lê Trọng Hùng mới đây.

Tại sao dân chủ lại mong manh ở Đông Nam Á?

Tất cả những động thái trên đang diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc quyết tâm khẳng định vị thế cường quốc thống trị ở Đông Nam Á.

Bắc Kinh đã gửi một thông điệp rõ ràng rằng họ không thực sự quan tâm đến những chế độ hay hệ thống chính trị nào đang điều hành các nước Đông Nam Á, miễn là các nước này thừa nhận Trung Quốc là cường quốc khu vực không thể tranh cãi và không đặt câu hỏi về chủ quyền của nước này trên Biển Đông. Điều này đã gián tiếp củng cố bàn tay của các lực lượng phản dân chủ trong khu vực, với một số người công khai ngưỡng mộ hệ thống “nhà nước mạnh” của Trung Quốc.

2019-08-06T055224Z_1623793915_RC1BFB2540B0_RTRMADP_3_VIETNAM-CHINA-SOUTHCHINASEA.JPG

Biểu tình phản đối Trung Quốc trước đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội hôm 6/8/2019. Reuters

Trong khi đó, phe ủng hộ dân chủ phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan khá nghiêm trọng. Một mặt, những người ủng hộ đã hy vọng có thêm sự giúp đỡ từ phương Tây, chủ yếu là Mỹ và Australia, để thúc đẩy nền dân chủ trong khu vực. Mặt khác, họ lo lắng họ có thể bị cáo buộc là điệp viên phương Tây, khiến người dân rơi vào tay những kẻ chuyên quyền ủng hộ chủ nghĩa dân tộc dân túy.

Một thách thức khác là sự đa dạng của Đông Nam Á. Không có một khuôn mẫu hay mô hình lịch sử duy nhất nào cho một hệ thống chính trị ổn định và dân chủ trong khu vực. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á là thuộc địa của các cường quốc châu Âu, những nước đã áp đặt các ý tưởng chính trị khác nhau của họ lên các xã hội mà họ kiểm soát. Một điều mà các nhà cai trị thuộc địa đã không làm là thúc đẩy dân chủ. Họ chỉ làm điều này sau khi các thuộc địa cũ của họ giành được độc lập.

Theo tiêu chuẩn toàn cầu, nhiều quốc gia ở Đông Nam Á còn tương đối trẻ. Hầu hết các nước hình thành sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Ranh giới và hệ thống chính trị của các quốc gia này phần lớn được quyết định bởi những ông chủ thuộc địa. Điều này có nghĩa là quá trình xây dựng quốc gia vẫn đang diễn ra và phương Tây không nên giả định rằng các quốc gia này tự nhiên sẽ hướng tới xây dựng các nền dân chủ tự do.

Ở nhiều nước Đông Nam Á này, quyền lực truyền thống, thường là chuyên quyền, phong kiến và chuyên chế, vẫn rất mạnh. Trên thực tế, nhiều tầng lớp tinh hoa ở các nước này có thái độ khác nhau đối với nền dân chủ tự do. Mặc dù họ chấp nhận khái niệm bầu cử phổ thông để chọn các nhà lãnh đạo chính trị, song họ cũng tin vào khái niệm “lãnh đạo được định hướng” (guided leadership) để bầu ra nhà lãnh đạo “đúng đắn”.

Ví dụ, Sukarno, nhà lãnh đạo đầu tiên của Indonesia sau khi giành được độc lập, nổi tiếng vì thực hành một “nền dân chủ có định hướng”, trong đó, chính phủ cần phải có sự đồng thuận chính trị và đảm bảo tận dụng các cuộc bầu cử để hợp pháp hóa các nhà lãnh đạo do chế độ lựa chọn.

Đây là lý do tại sao gian lận, mua phiếu bầu và gian lận thùng phiếu là những đặc điểm phổ biến trong các cuộc bầu cử Đông Nam Á. Đây là những cuộc bầu cử mà đôi khi được biện minh là cách thức để có được nhà lãnh đạo “phù hợp”.

Không có câu trả lời dễ dàng nào cho việc thúc đẩy nền dân chủ thực sự ở Đông Nam Á. Đơn giản là chúng ta có thể phải đợi một sự thay đổi thế hệ trước khi điều này bén rễ trong khu vực. Những người trẻ tuổi khao khát dân chủ thực sự, nhưng hiện tại, họ không là lực lượng then chốt trong quân đội hoặc không có quyền hành trong quốc hội.

– Hình minh hoạ. Những người biểu tình phản đối đảo chính ở Myanmar cầm cờ Trung Quốc chuẩn bị đốt ở Yangon hôm 5/4/2021

Reuters

– Biểu tình phản đối Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte ở Manila hôm 4/4/2020. Reuters

– Biểu tình phản đối Trung Quốc trước đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội hôm 6/8/2019. Reuters

Nước Mỹ sau Donald Trump

Nước Mỹ sau Donald Trump

Nguyễn Gia Kiểng

Cho đến nay Mỹ vẫn được coi là chế độ tổng thống duy nhất đã thành công, không bị lâm vào ách độc tài hoặc xung đột bế tắc giữa lập pháp và hành pháp. Ngoại lệ đó bây giờ đã chấm dứt và Mỹ phải đối diện với thực tế. Mỹ sẽ không đương đầu được với những thách thức nghiêm trọng đang đe dọa nền dân chủ và hòa bình xã hội với chế độ tổng thống như hiện nay, ngay cả với một tổng thống đầy thiện chí và kinh nghiệm như Joe Biden.

Hôm 06/01/2021, Thượng Viện Mỹ đã biểu quyết tha bổng Donald Trump sau khi ông bị Hạ Viện buộc tội xúi giục bạo loạn. 

Thượng Viện Mỹ đã biểu quyết tha bổng Donald Trump sau khi ông bị Hạ Viện buộc tội xúi giục bạo loạn. Tuy vậy đây không phải là một thắng lợi của Donald Trump như một số người tận tình ủng hộ ông có thể nghĩ. Trái lại đây là một thất bại của Trump. Điều cần được nhìn rõ là chân dung của nước Mỹ hiện nay qua sự kiện này.

Một điều rất kỳ cục và rất sai của chế độ dân chủ Mỹ

Donald Trump đã thua vì một đa số mạnh, 57 trên tổng số 100 nghị sĩ, đã biểu quyết là ông ta có tội. Hơn nữa một số đông đảo trong số 43 nghị sĩ bỏ phiếu tha tội cho ông ta cũng tuyên bố là thực ra ông ta có tội, họ chỉ bỏ phiếu tha tội vì lý do khác.

Lý do đó là một điều rất kỳ cục và rất sai của Hiến pháp Mỹ, theo đó việc xét xử để cách chức các nhân vật cao cấp trong chính quyền Mỹ là độc quyền của Thượng Viện (Senate). Trong những trường hợp này Thượng Viện biến thành một tòa án với các nghị sĩ bỗng nhiên trở thành các bồi thẩm (Jurors). Thật là quá vô lý vì Thượng Viện không có thể xét xử tổng thống một cách đúng đắn. Các thẩm phán phải có khả năng chuyên môn cao về luật và phải hoàn toàn vô tư, không thể chịu một áp lực nào, để chỉ xét xử theo luật pháp và lương tâm. Ở đây các nghị sĩ không phải là các thẩm phán chuyên nghiệp cũng không xét xử theo luật pháp và lương tâm mà theo thẻ đảng và chỗ đứng cá nhân. Hậu quả nghịch thường là trong số những người nghị sĩ bỗng nhiên trở thành bồi thẩm này có hai người đáng lẽ cũng phải bị coi là có tội và bị đem xét xử cùng với Donald Trump. Đó là Josh Hawley và Ted Cruz. Cả hai đều đã hùa với Trump hô hào cuộc bạo loạn này. Chúng ta có thể biết trước họ sẽ biểu quyết như thế nào. Tại đa số các nước dân chủ thường có một tòa án gọi là Tòa án Hiến pháp (Cour Constitutionnel, Constitutional Court) để xét xử các nhân vật quan trọng. Thẩm phán của các tòa án này là những thẩm phán chuyên nghiệp được chọn trong số những người có uy tín nhất. Họ tuyệt đối không chịu một áp lực nào và vì thế chỉ xét xử theo hiến pháp, luật pháp và lương tâm. Mỹ cũng cần một tòa án như vậy. Đây là một dịp thêm nữa cho thấy nước Mỹ cần xét lại thể chế chính trị của mình, đặc biệt là vai trò của Thượng Viện.

Thể diện của nước Mỹ

Tuy không bình thường nhưng vụ xét xử này rất quan trọng để gỡ thể diện cho nước Mỹ và nền dân chủ Mỹ. Tội của Donald Trump quá lớn và cách hành xử của ông ta quá tệ.

Nhiều người vẫn chưa ý thức được mức độ nghiêm trọng của biến cố 06/01/2021. Không thể so sánh cuộc bạo loạn đập phá điện Capitol này với những hành động của vài phần tử lưu manh lợi dụng các cuộc biểu tình của phong trào Black Lives Matter để đập cửa kính, cướp vài đôi giầy hay vài quần Jean, cũng như không thể nói con voi bằng con chuột.

Cuộc bạo loạn 06/01 là một hành động có chuẩn bị để tấn công điện Capitol, thánh đường của nền dân chủ Mỹ, với ý đồ phá tan cuộc họp của lưỡng viện quốc hội Mỹ để long trọng tuyên bố kết quả cuộc bầu cử tổng thống 03/11/2020, một trong những cuộc bầu cử quan trọng nhất của nước Mỹ. Các tổ chức cuồng Trump –Proud Boys, Oath Keepers, Southern Plains Patriots v.v. – chủ động cuộc bạo loạn này cũng sẵn sàng giết người. Họ đã dựng một giá treo cổ để hành quyết Phó tổng thống Mike Pence, Chủ tịch hạ viện Nancy Polesi và nhiều dân biểu, nghị sĩ khác. Hậu quả đã có thể rất nghiêm trọng, đưa nước Mỹ vào khủng hoảng và nội chiến. Rất may là đã chỉ có 5 người chết và hai người tự tử sau đó.

Một lý do rất quan trọng khác nằm ở trong triết lý chính trị mà nhiều người chưa ý thức được. Nền tảng của mọi nền dân chủ là sự chấp nhận kết quả các cuộc bầu cử và chuyển giao quyền hành một cách hòa nhã. Donald Trump đã không như thế. Vài tháng trước cuộc bầu cử ông ta đã nói rằng nếu ông ta không thắng thì cuộc bầu cử chỉ có thể là gian lận. Sau khi thất bại ông ta đã khởi kiện hơn 60 vụ, tất cả đều bị các tòa án bác bỏ vì không có bằng chứng và lập luận xác đáng. Các luật sư của ông không hề phản đối các phán quyết này. Bộ trưởng tư pháp Bill Barr, Phó tổng thống Mike Pence, lãnh tụ Cộng hòa tại Thượng Viện Mitch McConnell đều nhìn nhận là không có gian lận. Còn cần gì thêm nữa để Trump nhìn nhận kết quả cuộc bầu cử ? Tuy vậy ông ta vẫn ngoan có nói bừa là đã có gian lận lớn và hô hào bạo loạn, kể cả tấn công và trụ sở Quốc hội ngày 06/01. Đây là một xúc phạm trắng trợn tới ngay nền tảng của chính quyền Mỹ.

Trump phải bị xét xử để Mỹ còn là một nước dân chủ, để nước Mỹ còn là nước Mỹ.

Lập luận của hai bên là gì ? Đúng sai ra sao ?

Điều đáng chú ý là Trump, các luật sư của Trump và những người người ủng hộ ông nhấn mạnh nhất vào vấn đề thủ tục thay vì vào nội dung. Họ nói rằng vụ án này không hợp hợp hiến pháp vì Trump không còn tại chức nữa. Như vậy một cách mặc nhiên họ đã nhìn nhận Trump có tội. Nhưng lập luận thủ tục này cũng không có giá trị vì chính Thượng Viện -định chế có thẩm quyền để phán quyết vụ xét xử này có hợp hiến hay không- đã biểu quyết đúng theo quy định là cuộc xét xử này hợp hiến. Về nội dung, họ chỉ viện dẫn được một câu nói của Trump trong bài diễn văn trước Nhà Trắng với đám đông trước khi họ tiến về điện Capitol là “hãy tiến tới một cách hòa bình và yêu nước” (going on peacefully and patriotically). Nhưng ngay trong bài diễn văn này ông ta cũng kích động bạo lực bằng những câu nói hung bạo như “Hãy chiến đấu chết bỏ” (We’ll fight like hell) ; “Nếu yếu nhược chúng ta sẽ không giành lại được đất nước” (We won’t take back our country with weakness). “Giành lại đất nước” có nghĩa là coi những người không cùng phe với ông là quân cướp nước ? Còn gì hung bạo hơn ? Trump cũng kích động căm thù cả với Phó tổng thống Mike Pence chỉ vì ông này muốn tuân thủ hiến pháp, nghĩa là không nghe theo lời ông để lợi dụng vai trò chủ tịch Thượng Viện –dành cho phó tổng thống, một trong những điều quái gở khác của hiến pháp Mỹ- để tuyên bố rằng cuộc bầu cử là gian lận và do đó Joe Biden không đắc cử. Điều này chứng tỏ Donald Trump hoặc điên hoặc không hiểu gì về Hiến pháp Mỹ. Cuộc bầu cử đã xong, các đại cử tri đã bỏ phiếu, phó tổng thống chỉ có vai trò nghi lễ là long trọng tuyên bố Joe Biden chính thức đắc cử tổng thống mà thôi. Trước đó Trump cũng đã gửi cả ngàn Tweet kích thích bạo loạn. Kể cả kêu gọi những người ủng hộ ông phải man rợ (will be WILD). Điều đặc biệt nghiêm trọng là, theo các cộng sự viên thân cận của ông, Trump theo dõi trực tiếp cuộc bạo hành tại Capitol trên truyền hình nhưng không hề can thiệp, cụ thể như kêu gọi đồng đảng chấm dứt bạo loạn hay ra lệnh cho Vệ Binh Quốc Gia cứu nguy cho Quốc hội mặc dù đã được các cộng sự viên, kể cả cựu chánh văn phòng Nhà Trắng khẩn khoản yêu cầu. Nói chung là những lập luận bênh vực Trump không có gì có trọng lượng. Các công tố, chính xác là các dân biểu Dân chủ đảm nhiệm vai trò công tố, trưng những hình ảnh của cuộc bạo loạn, những tuyên bố của Trump và đồng đảng. Họ có đầy đủ bằng cớ. Họ cũng đã biện luận rất thuyết phục và cảm động. Thực ra họ cũng không cần phải biện luận. Tất cả các nghị sĩ đều có mặt tại điện Capitol hôm đó và đều suýt là nạn nhân nếu không chạy kịp. Phòng họp của Thượng Viện, bây giờ là tòa án xét xử Trump, đồng thời cũng chính là hiện trường của cuộc bạo loạn. Tất cả các nghị sĩ đều biết Trump có tội. Tuy vậy đã chỉ có 7 nghị sĩ Cộng hòa bỏ phiếu cùng với 50 nghị sĩ Dân chủ để kết tội Trump, một ngoại lệ chưa từng có trong lịch sử Mỹ và chứng tỏ Trump đã thất bại, bởi vì trong những vụ xử trước đây chưa bao giờ một nghị sĩ nào biểu quyết kết án một tổng thống cùng đảng với mình. 43 nghị sĩ Cộng hòa khác đã biểu quyết theo thẻ đảng. Và Trump được tha bổng.

Lãnh tụ Cộng hòa tại Thượng Viện Mitch McConnell nhìn nhận cuộc bầu cử tổng thống Mỹ ngày 03/11/2020 là không có gian lận.

Kết quả và hậu quả của vụ xử án này sẽ ra sao ?

Kết quả này không làm ai ngạc nhiên nhưng hậu quả vụ này rất quan trọng. Trước hết, nó báo động về sự băng hoại của chính trị Mỹ. Băng hoại đến nỗi một con người thô lỗ và trơ trẽn, sơ sài về kiến thức, thấp kém về nhân cách, vô đạo đức và vô trách nhiệm như Donald Trump mà đã có thể trở thành tổng thống Mỹ và hơn thế nữa vẫn còn được gần một nửa dân chúng tín nhiệm sau bốn năm tác hại khiến đoàn kết dân tộc và uy tín nước Mỹ tiêu tan. Hàng trăm ngàn người cũng đã không bị thiệt mạng nếu dịch Covid-19 được xử lý một cách nghiêm túc hơn.

Vụ xử án Trump đồng thời cũng là một vụ xử án Đảng Cộng Hòa. Câu hỏi thực sự đặt ra là Đảng Cộng Hòa liệu có thể còn tồn tại được không và còn xứng đáng tồn tại nữa không ? Trong rất nhiều năm Đảng Cộng Hòa đã là nơi trú ẩn của khối người da trắng ít học kỳ thị mầu da và cuối cùng đã tạo ra hiện tượng Donald Trump. Trump không làm băng hoại bản chất của Đảng Cộng Hòa như nhiều người nghĩ. Chính sự xuống cấp cả về trí tuệ lẫn đạo đức của Đảng Cộng Hòa đã thai nghén ra Trump.

Những người có tư cách và liêm sỉ trong Đảng Cộng Hòa có đủ can đảm và sức mạnh để loại bỏ Trump để cứu Đảng Cộng Hòa không ? Không dễ.

Nếu loại bỏ Trump họ có nguy cơ sẽ mất trước mắt gần phân nửa số cử tri và cần một cố gắng hồi phục rất lớn mà chưa chắc gì họ có được. Đó hình như đang là chọn lựa của Mitch McConnell, lãnh tụ Công hòa tại Thượng Viện, và những người ủng hộ ông, kể cả lãnh tụ Cộng hòa tại Hạ Viện Kevin McCarthy. McConnell dù bỏ phiếu tha tội Trump đã lên án Trump một cách đặc biệt gay gắt. Cuộc chiến giữa Trump và McConnell đã công khai.

Nếu không dám đoạn tuyệt với Trump họ sẽ còn thảm bại hơn. Sức mạnh chính của Trump là đã phản ánh trung thực sự xuống cấp của chính trị Mỹ, thể hiện qua sự mạnh lên của những nhóm với lập trường lạc hậu như kỳ thị chủng tộc, tinh thần dân tộc hẹp hòi, chống toàn cầu hóa v.v. Nhưng giờ đây, sau khi chúng bùng phát, nước Mỹ và thế giới đã được cảnh giác về sự sai lầm của những thành kiến này. Sức mạnh của Trump cũng là sức thu hút của một diễn viên màn ảnh đã hoạt náo thành công những chương trình giải trí bình dân, nhưng Trump đã già đi và không còn khả năng giải trí nữa. Trump cũng đã gây thất vọng sau khi bỏ rơi những người bị giải tòa vì tham gia cuộc bạo loạn 6/01. Nói chung, sức thu hút của Trump đang sút giảm. Chưa kể là nhiều phiên tòa hình sự với những thẩm phán chuyên nghiệp chỉ xét xử theo luật pháp đang chờ đợi Trump và khả năng Trump có thể bị đi tù không nhỏ. Đảng Cộng Hòa nếu dại dột cố bám lấy Trump cũng không khác một người sắp chết đuối cố bám lấy một chiếc phao đang chìm. Nhưng một số khuôn mặt nổi của Đảng Cộng Hòa, như Ted Cruz và Lindsey Graham đang chọn giải pháp thiển cận này.

Sau cùng cũng có những người, như các nghị sĩ và dân biểu đã bó phiếu lên án Trump, không chấp nhận cả Trump lẫn McConnell. Họ muốn một Đảng Cộng Hòa lành mạnh và xứng đáng.

Đảng Cộng Hòa sẽ trải qua một giai đoạn tranh chấp nội bộ gay go và có nguy cơ bể thành hai đảng, thậm chí thành ba đảng nhỏ.

Chế độ lưỡng đảng của Mỹ có nhiều triển vọng sẽ chấm dứt nhường chỗ cho một giai đoạn đầy ẩn số. Đảng Dân Chủ có thể có đa số vuợt trội sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ hai năm tới đây và trong một thời gian sau đó nhưng không có gì bảo đảm là tình trạng này sẽ kéo dài. Đảng Dân Chủ cũng có thể sẽ bị vỡ thành hai, với một đảng dân chủ trung hữu và một đảng xã hội, bởi vì chính nó cũng không còn đồng thuận trên một tư tưởng chính trị chung. Có gì chung giữa Bernie Sanders và Joe Biden?

Không phải chỉ riêng Đảng Cộng Hòa có vấn đề mà Đảng Dân Chủ cũng có bởi vì chính chế độ dân chủ Mỹ đang lung lay.

Không phải chỉ riêng Đảng Cộng Hòa có vấn đề mà Đảng Dân Chủ cũng có bởi vì chính chế độ dân chủ Mỹ đang lung lay.

Dân chủ đã khiến Mỹ từ một vùng đất hoang vu với dân cư thưa thớt trở thành siêu cường vượt trội của thế giới, nhưng rồi vì đã quá tự mãn với thành công của mình Mỹ đã không chịu xét lại mô hình dân chủ của mình và dần dần tích lũy những tật bệnh nghiêm trọng. Nền dân chủ Mỹ không vững mạnh như nhiều người nghĩ. Đã có rất nhiều tác phẩm giá trị trình bày tình trạng xuống cấp báo động của nền dân chủ Mỹ. Tóm tắt rất sơ lược những báo động này cũng đòi hỏi cả một bài viết công phu. Ổ đây chỉ xin liệt những nét chính liên quan đến bầu cử.

Thứ nhất là chính quyền Mỹ không còn thực sự đại diện cho người Mỹ. Do mê mải chạy theo chủ nghĩa kinh tế phóng khoáng (liberalism), tài chính sau cùng đã chế ngự kinh tế và chính trị. Chi phí tranh cử tốn kém và không được ngân sách quốc gia tài trợ đã khiến các ứng cử viên vào các chức vụ công cử như dân biểu, nghị sĩ, thống đốc phải được những người giầu có nhất tài trợ và muốn như thế phải được họ chọn lựa để phục vụ họ. Một nghiên cứu của giáo sư Lawrence Lessig cho thấy là trên thực tế quyền chỉ định những người lãnh đạo Mỹ -tổng thống, thống đốc, dân biểu, nghị sĩ v.v.- thực ra chỉ nằm trong tay 0,02% -hay khoảng 60.000 người- giầu nhất. Không ai có thể đắc cử nếu không có sự bảo trợ của họ. 99,98% cử tri Mỹ chỉ được bầu trong số ứng cử viên đã được họ chọn trước. Cũng tương tự như các chế độ “đảng cử dân bầu” dù các quyền tự do cá nhân được tôn trọng (1).

Sau đó, trong đa số các trường hợp lá phiếu của người dân cũng không có tác dụng nào do hậu quả của thủ thuật mà tiếng Mỹ gọi là Gerrymandering, tạm dịch là “chắp vá đơn vị bầu cử”, trong đó các đơn vị bầu cử không phải là những cộng đồng gần gũi mà chủ yếu được sắp xếp để gần như chắc chắn sẽ bầu cho ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa, hay Đảng Dân Chủ. Cả hai đảng đều thi đua chắp vá cho nên cuối cùng bản đồ bầu cử là cả một sự xúc phạm đối với địa lý. Có những đơn vị bầu cử với hình thù quái đản, đôi khi giống như những con giun quằn quại. Trong một nghiên cứu đăng trên báo Washington Post, nhà báo Christopher Ingraham cho biết vì thủ thuật chắp vá này kết quả bầu cử dân biểu tại 345 trên tổng số 435 đơn vị đã được biết trước, bầu cử chỉ diễn ra trong 90 đơn vị.

Với thủ thuật Gerrymandering, cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa Mỹ đều thi đua chắp vá cho nên cuối cùng bản đồ bầu cử là cả một sự xúc phạm đối với địa lý. (Ảnh Christopher Ingraham, The Washington Post, 15/05/2014)

Tóm lại, cử tri Mỹ chỉ được bầu trong số những ứng cử viên đã được một thiểu số rất nhỏ chọn trước và sau đó trong đa số trường hợp lá phiếu của họ cũng không có tác dụng gì. Nền dân chủ Mỹ còn giá trị gì?

Và không phải chỉ có thế. Chênh lệch giầu nghèo và bất công xã hội quá đáng, hậu quả của chủ nghĩa phóng khoáng không kiểm soát, còn tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng khác. Trong các nước dan chủ phát triển Mỹ là nước có chỉ số hạnh phúc thấp nhất, tuổi thọ trung bình thấp nhất, tỷ lệ tốt nghiệp đại học thấp nhất, tỷ lệ người mắc bệnh tâm thần và tỷ lệ tội phạm cao nhất v.v. Tất cả những vấn đề đó đều rất khó giải quyết vì đã tích lũy quá lâu. Nhưng tại sao Mỹ đã không thể giải quyết các vấn đề ngay khi chúng lộ diện?

Cho đến nay Mỹ vẫn được coi là chế độ tổng thống duy nhất đã thành công, không bị lâm vào ách độc tài hoặc xung đột bế tắc giữa lập pháp và hành pháp. Ngoại lệ đó bây giờ đã chấm dứt và Mỹ phải đối diện với thực tế. Mỹ sẽ không đương đầu được với những thách thức nghiêm trọng đang đe dọa nền dân chủ và hòa bình xã hội với chế độ tổng thống như hiện nay, ngay cả với một tổng thống đầy thiện chí và kinh nghiệm như Joe Biden. Lý do là vì những cải tổ lớn đòi hỏi một đồng thuận lớn trong khi chế độ tổng thống có đặc tính là làm yếu đi các chính đảng và do đó làm xuống cấp dân trí. Một đặc tính khác của chế độ tổng thống là nó tự nhiên dẫn tới chế độ dân túy và sau đó độc tài. Donald Trump vừa là một báo động. Mỹ sẽ chỉ giải quyết được những thử thách nếu thoát ra khỏi chế độ tổng thống, bằng một cố gắng liên tục giảm dần quyền hạn của tổng thống, gia tăng quyền của Hạ Viện đề cuối cùng tiến tới chế độ đại nghị với một tổng thống do Hạ Viện bầu ra và chịu trách nhiệm trước Hạ Viện. Quyền lực của Thượng Viện được giới hạn trong quan tâm bảo vệ quyền lợi của các bang nhỏ. Nền dân chủ Mỹ rất yếu bệnh và sẽ đòi hỏi một thời gian dài để bình phục, nếu có thể bình phục.

Dân chủ và nhân quyền không còn tùy thuộc vào Mỹ mà đã trở thành nguyện ước và khuynh hướng của toàn thế giới. Ảnh minh họa : Biểu tình tại Myanmar đòi chấm dứt chế độ độc tài quân phiệt Miến

Lời cuối cùng thay cho kết luận:

Có phải lo âu cho phong trào dân chủ thế giới và các dân tộc đang chật vật để có dân chủ như Việt Nam không ? Dĩ nhiên là có khi Mỹ, nước dân chủ mạnh nhất và cho tới nay được coi là trung tâm dân chủ của thế giới, đang bị chao đảo và phải lo cho chính mình.

Tin mừng là dân chủ và nhân quyền không còn tùy thuộc vào Mỹ mà đã trở thành nguyện ước và khuynh hướng của toàn thế giới. Dân chủ chưa bao giờ mạnh bằng lúc này. Các chế độ độc tài không còn dưỡng khí để thở và sẽ tắt thở.

Nguyễn Gia Kiểng

(26/02/2021)

———————

(1) Nguyễn Gia Kiểng, “Vũ khí của Donald Trump“, thongluan-rdp.org, 26/01/2021