Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già
An Nhiên Giữa Dòng Đời
Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già.”
Tôi không biết từ lúc nào, bàn tay cha bắt đầu run khi cầm đôi đũa. Mẹ thì hay quên, vừa kể chuyện xong lại hỏi: “Má nói chưa con?”
Lúc đầu, tôi bật cười nhẹ. Sau đó là im lặng.
Rồi một ngày, tôi chợt thấy dáng cha đứng ở cửa… nhỏ bé đến lạ.
Và bỗng hiểu: chúng ta đang chứng kiến người từng là bức tường vững chãi nhất trong đời mình… lùi dần vào phía hoàng hôn.
Người già không cần gì nhiều.
Chỉ mong con cái bớt cao giọng.
Chỉ mong có ai ngồi cạnh, nghe họ kể chuyện cũ mười lần như mới.
Chỉ mong mỗi lần lỡ tay làm rơi bát, không bị thở dài.
Họ từng là người đỡ ta qua những ngày chập chững.
Giờ đến lượt ta dắt họ đi qua những bước cuối cùng của kiếp người.
Làm người tử tế không cần điều gì cao xa.
Chỉ cần đủ dịu dàng với người đã từng vì ta mà gồng lên cả một đời.
Vì mai này, khi họ đi rồi… sẽ chẳng ai còn hỏi ta ăn chưa, hay nhắc ta mặc thêm áo khi trở trời.
Hãy thương khi còn kịp.
Đừng đợi đến lúc chỉ còn được gọi tên họ trong gió…
MDang
Những Tỷ Phú Cam Kết Từ Thiện Hết Tất Cả Tài Sản Của Mình Cho Cộng Đồng
Nghĩ Giàu – Làm Giàu
- Chuck Feeney – Người tỷ phú “vô hình”
Người sáng lập chuỗi cửa hàng miễn thuế Duty Free Shoppers, từng sở hữu khối tài sản hơn 8 tỷ USD. Ông âm thầm quyên góp toàn bộ tài sản của mình vào giáo dục, y tế và nhân quyền – đến mức khi qua đời năm 2023, ông chỉ còn vài triệu để sống giản dị trong căn hộ thuê nhỏ. Câu nói nổi tiếng của ông: “Tôi muốn tặng hết tiền khi còn sống – để được thấy tác động của nó.”
- Bill Gates – Tỷ phú đi đầu trong làn sóng từ thiện hiện đại
Ông cùng vợ cũ Melinda thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates, chi hơn 100 tỷ USD cho các chương trình chống đói nghèo, bệnh tật và giáo dục. Gates cũng là người khởi xướng phong trào The Giving Pledge, kêu gọi giới siêu giàu cam kết cho đi ít nhất 50% tài sản. Riêng ông – tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản trong đời.
- Warren Buffett – “Huyền thoại phố Wall” nhưng sống như người bình thường
Buffett cam kết hiến tặng hơn 99% tài sản của mình – khoảng 150 tỷ USD – cho hoạt động từ thiện, phần lớn thông qua quỹ của Bill Gates. Dù là tỷ phú hàng đầu, ông vẫn sống trong căn nhà mua từ năm 1958, ăn sáng ở McDonald’s và đi làm bằng xe hơi cũ.
- MacKenzie Scott – Người phụ nữ thay đổi bộ mặt từ thiện toàn cầu
Vợ cũ của Jeff Bezos không chỉ nhận được khoản ly hôn trị giá 38 tỷ USD, mà còn lập tức cam kết cho đi gần hết số tiền ấy. Chỉ trong vòng vài năm, bà đã quyên góp hơn 19 tỷ USD cho hàng nghìn tổ chức nhỏ lẻ, hỗ trợ phụ nữ, giáo dục, cộng đồng thiểu số – với nguyên tắc: “Trao quyền mà không đòi hỏi sự công nhận.”
- Ông trùm mạng xã hội Mark Zuckerberg
Khi con gái đầu lòng tên Max ra đời vào năm 2015, Mark Zuckerberg cùng vợ là Priscilla Chan đã gây chú ý khi tuyên bố không để lại khối tài sản khổng lồ cho cô bé. Thay vì lập kế hoạch thừa kế hàng tỷ USD, hai vợ chồng quyết định thành lập tổ chức từ thiện mang tên Chan Zuckerberg Initiative – một dự án đầy tham vọng nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu như khoa học, giáo dục, năng lượng sạch và kết nối cộng đồng.
“Chúng tôi cam kết dành 99% số cổ phiếu Facebook mà mình sở hữu trong suốt cuộc đời để phục vụ cho sứ mệnh này. Dù biết rằng đóng góp của chúng tôi chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh lớn, nhưng chúng tôi vẫn muốn dùng những gì mình có để góp phần thay đổi thế giới, cùng với hàng triệu con người đang nỗ lực mỗi ngày,” vợ chồng nhà sáng lập Meta bày tỏ.
#nghigiaulamgiau #typhu #tuthien
Quốc tế đồng loạt kêu gọi trả tự do cho nhà báo Phạm Đoan Trang
May 28, 2025
HÀ NỘI — Nhân ngày sinh nhật lần thứ 46 của nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang (25 Tháng Năm, 1978), bốn tổ chức nhân quyền quốc tế đã lên tiếng yêu cầu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho bà – người đang thụ án 9 năm tù vì các hoạt động ôn hòa, phản biện xã hội.
Trong một tuyên bố chung, các tổ chức gồm Phóng Viên Không Biên Giới (RSF), Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo (CPJ), Hội Văn Bút Hoa Kỳ (PEN America) và Sáng Kiến Pháp Lý Việt Nam (LIV) nhấn mạnh rằng tình trạng giam giữ bà Trang là “không thể chấp nhận được” và kêu gọi cộng đồng quốc tế gia tăng áp lực để Hà Nội chấm dứt sự đàn áp đối với giới làm báo độc lập.
“Xuyên qua các bài viết nghiêm túc và với sự can đảm khác thường, Phạm Đoan Trang là biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì quyền được biết và tự do báo chí tại Việt Nam. Việc bà bị cầm tù là điều không thể dung thứ,” bà Aleksandra Bielakowska, Giám đốc Vận động khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của RSF tuyên bố. Bà cũng nhấn mạnh tình trạng sức khỏe đáng lo ngại của bà Trang sau gần 5 năm bị giam giữ, và yêu cầu nhà chức trách phải cho bà tiếp cận đầy đủ các dịch vụ y tế độc lập.
Bà Phạm Đoan Trang bị bắt vào Tháng Mười, 2020 tại Sài Gòn, sau nhiều năm bị theo dõi và sách nhiễu vì các bài viết phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của một chế độ độc đảng. Bà bị tuyên án 9 năm tù vào cuối năm 2021 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” – một điều khoản mơ hồ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, lâu nay bị giới quan sát quốc tế xem là công cụ để dập tắt tiếng nói bất đồng.
Trước khi bị bắt, bà Trang là một trong những tiếng nói nổi bật nhất trong giới báo chí độc lập tại Việt Nam. Bà là đồng sáng lập Luật Khoa tạp chí – một trang báo mạng chuyên cung cấp kiến thức pháp lý và chính trị cho công chúng – và là tác giả của nhiều tài liệu hướng dẫn người dân tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Năm 2019, RSF vinh danh bà với giải thưởng “Tự do báo chí.” Một năm sau, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao tặng bà danh hiệu “Phụ nữ can đảm toàn cầu.”
Bà Trang là hiện thân của thế hệ trí thức trẻ, dám lên tiếng trước bất công, đấu tranh ôn hòa vì quyền con người, và chấp nhận mọi hiểm nguy – bao gồm cả tù đày – để đòi hỏi một xã hội công bằng, minh bạch hơn.
Việc bà bị giam giữ tiếp tục gây phẫn nộ trong giới hoạt động quốc tế, vốn lâu nay vẫn chỉ trích tình trạng đàn áp tự do ngôn luận tại Việt Nam. Các tổ chức nhân quyền cho rằng bản án dành cho bà Trang là bằng chứng rõ ràng cho thấy chính quyền Cộng sản Việt Nam đang bóp nghẹt quyền tự do biểu đạt, bất chấp những cam kết với cộng đồng quốc tế.
Thông điệp từ tuyên bố chung là rõ ràng: Phạm Đoan Trang không nên ở trong tù. Việc bà bị giam giữ không chỉ là một sự bất công cá nhân, mà còn là lời cảnh báo đáng sợ về tình trạng tự do báo chí đang bị đe dọa nghiêm trọng tại Việt Nam. Và nếu cộng đồng quốc tế tiếp tục im lặng, những tiếng nói như của bà Trang có thể sẽ mãi mãi bị bịt kín sau song sắt.
CHÂN DUNG MỘT SIÊU LỪA!
Nguyễn Hoàng Tuấn
Hãy nhìn qua sự nghiệp hoành tráng của người đàn ông này. Ông từng bị bắt vào Nhà tù Liên bang Mỹ do bị kết tội trong nhiều phi vụ lừa đảo khác nhau. Sau khi ra tù, Comisar tuyên bố quy ẩn giang hồ, rửa tay gác kiếm và trở thành một chuyên gia cố vấn… chống lừa đảo. Ông sau đó còn xuất hiện trên nhiều chương trình truyền hình rồi xuất bản cả một cuốn sách mang tựa đề “Cẩm nang chống lừa đảo ở Mỹ” (2012). Nhìn chung, con đường hoàn lương của Comisar có vẻ ổn thỏa, nhưng cái làm cho mọi người nhớ nhất chính là một trong những phi vụ hồi ông mới vào nghề.
Dường như thấy rằng, trong những phi vụ gạt người khác, những tay thích lừa cứ nhất thiết phải “nói dối”, Comisar tự nhủ với chính mình “tại sao lại không nói thật nhỉ?” Nghĩ là làm, chàng trai Comisar trẻ tuổi liền đặt mua một mẩu quảng cáo trên tờ tạp chí quốc gia National Enquirer với nội dung như sau:
“Thiết Bị Phơi Đồ Năng Lượng Mặt Trời, chỉ với giá 49,95 đô la. Các kiểm định khoa học cho thấy, thiết bị này đảm bảo dùng tốt lên đến 5 năm nếu được cung cấp đủ ánh sáng mặt trời. Không phải dùng bất kì một nguồn năng lượng nào khác, không pin, không điện. Miễn phí giao hàng toàn quốc.”
Những khách hàng xem được dòng chữ này tỏ ra khá là hứng thú với sản phẩm. Ai cũng biết nỗi niềm phơi đồ canh nắng chạy mưa khá là khổ sở, đó là còn chưa kể đến mùi ẩm mốc nếu quần áo không được hong khô hoàn toàn. Giờ mà có thiết bị không dùng năng lượng gì cả, chỉ tốn khoảng 50 đô la để giải quyết vấn đề này thì còn gì bằng. Thế là, những đơn hàng nối tiếp bay về.
Thời gian chờ đợi dằng dặc không cản được cảm giác háo hức khi nhận được sản phẩm. Các khách hàng cẩn thận cắt xé từng mẩu băng dán, nhẹ nhàng gỡ hộp ra và trước mặt họ, được đóng gói kĩ càng giữa hộp, là một… đoạn dây phơi đồ! Có gì đó có vẻ sai sai, rõ ràng là họ đặt hàng một thiết bị phơi đồ dùng năng lượng mặt trời chứ đâu phải đoạn dây này chứ? Vài khách hàng tìm cách liên lạc cho người bán (Comisar) và nhận được phản hồi như sau:
Sản phẩm là một thiết bị phơi đồ, đúng không? – Đúng.
Dùng năng lượng mặt trời, tức là ánh nắng, đúng không? – Đúng.
Đảm bảo dùng tốt nếu cung cấp đủ ánh sáng mặt trời? – Đúng.
Không pin, không điện, miễn phí giao hàng? – Cũng đúng nốt.
Vậy đích thị người bán đã cung cấp đúng sản phẩm y như quảng cáo, không có gì khuất tất ở đây cả.
Đến lúc này thì khách hàng đã vỡ lẽ ra họ bị “lừa” một cách không thể thật thà hơn. Không có bằng chứng hay lý do gì để khởi kiện nhà bán hàng, người mua đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Phi vụ này của Comisar đi vào sách giáo khoa của những kẻ lừa đảo khi hoàn toàn né được những cáo buộc liên quan đến pháp luật (mặc dù về sau, rồi ông cũng bị vào tù trong một phi vụ khác). Chỉ bằng những lời lẽ không thể nào thật hơn, Comisar đã chứng minh rằng, sức mạnh của ngôn từ thật vô cùng khó lường. Chỉ cần muốn, người ta có thể đổi trắng thay đen một cách rất ư dễ dàng. Giữa dòng đời nhiễu nhương, nơi lòng tin của con người liên tục bị thử thách, đừng chỉ đề phòng với những lời nói dối, vì biết đâu, ngay cả những lời nói thật 100% đấy cũng chắc gì đã tốt đẹp hơn?
( Sưu tầm )
“Vào Viện Dưỡng Lão” – Trần Văn Giang
Trần Văn Giang.
(6 điều hối tiếc)
Lời giới thiệu
Đây là một câu chuyện dài, thật buồn rất đáng đọc; nhưng cũng là một bài học lớn về việc yêu thương và tôn trọng người cao niên; đồng thời tìm cách giúp họ duy trì tự do và phẩm giá trong cuộc sống còn lại.
Có người nói “Viện dưỡng lão là phòng khách của địa ngục!?” Hay là “Thôi già rồi thì đành phải chịu thôi… Than vãn làm gì nữa hè!”
Đúng hay sai cũng còn tùy mỗi hoàn cảnh…
TVG
*******
Nếu chỉ có một điều trong đời mà tôi thực sự hối tiếc thì đó chính là bước chân vào Viện dưỡng lão.
Năm nay tôi 82 tuổi. Tóc tôi đã bạc trắng, chân cũng không còn nhanh nhẹn như xưa, nhưng tâm trí vẫn còn minh mẫn lắm. Tôi từng nghĩ rằng tuổi giả chỉ đơn giản là một hành trình nhẹ nhàng khi con người ta được tận hưởng quãng thời gian cuối đời trong sự thanh thản. Nhưng mà không. Tôi đã sai và sai lầm lớn nhất đời tôi chính là rời bỏ căn nhà mà tôi đã gắn bó suốt hơn nửa cuộc đời để bước vào nơi mà người ta vẫn hay gọi là chốn “An dưỡng tuổi già.”
Ban đầu tôi không có ý định vào Viện dưỡng lão vì tôi còn đủ sức chăm sóc bản thân, mặc dù hơi chậm chạp hơn trước một chút. Nhưng rồi con cái tôi, những đứa con mà tôi đã nuôi nấng bằng tất cả yêu thương, lại bảo rằng đưa tôi vào đó là cách tốt nhất để tôi có một cuộc sống thoải mái, được chăm sóc đầy đủ không phải lo nghĩ gì nữa. Con gái tôi nắm lấy tay tôi với ánh mắt đầy lo lắng, nhưng cũng có chút thúc giục, nói:
– “Mẹ vào đó đi. Ở đó có người chăm sóc; có bác sĩ; có bạn bè trò chuyện; Ở nhà một mình lỡ có chuyện gì không ai biết được?”
Tôi đã do dự rất lâu. Căn nhà nhỏ của tôi tuy cũ nhưng đó là nơi lưu giữ bao nhiêu kỷ niệm. Chiếc tủ gỗ do chồng tôi tự tay đóng từ thời trẻ. Góc bếp nơi tôi vẫn nấu những bữa ăn ấm cúng cho gia đình. Chiếc ghế dựa cũ kỹ cạnh cửa sổ nơi tôi hay ngồi đọc báo vào mỗi buổi sáng… Làm sao tôi có thể rời bỏ những kỷ niệm đó. Nhưng rồi tôi cũng xuôi lòng. Tôi tin vào lời con cái. Tôi tin rằng vào Viện dưỡng lão tôi sẽ có một cuộc sống tốt hơn. Tôi tin rằng mình sẽ được chăm sóc chu đáo, được trò chuyện, được an yên…
Vậy mà ngay khi cánh cửa Viện dưỡng lão khép lại sau lưng, tôi đã nhận ra một sự thật cay đắng. Nơi đây không phải là nhà và có lẽ tôi đã không còn đường quay lại. Bạn có bao giờ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi một người giả đánh mất tất cả những gì quen thuộc, những thứ làm nên cuộc sống của mình. Tôi cũng từng là người không nghĩ đến điều này cho đến khi chính mình rơi vào hoàn cảnh hiện tại.
Tôi ước chi có ai đó đã nói cho tôi biết trước khi tôi bước vào Viện dưỡng lão. Nếu bạn hiện, đang cân nhắc về việc sẽ “Vào Viện dưỡng lão,” dù cho chính mình hay cho người thân, hãy nghe câu chuyện của tôi trước khi quyết định. Vì một khi bạn bước vào Viện dưỡng lão thì cuộc sống của bạn sẽ không bao giờ còn như trước nữa. Tôi muốn kể cho bạn nghe “Sáu (6) điều mà tôi hối tiếc” như sau.
Hối tiếc 1: Đã mất đi sự tự do.
Sáng hôm đó tôi thức dậy trên một chiếc giường lạ. Tôi vươn vai theo thói quen định bước ra bên hiên nha` để hít thở chút không khí buổi sáng. Nhưng rồi tôi chùng lại vì không có hiên nhà nào cả. Không có ánh nắng nhẹ nhàng len qua khung cửa sổ quen thuộc. Không có tiếng chim ríu rít trên mái hiên. Chỉ có bốn bức tường trống trơn và mùi thuốc khử trùng thoang thoảng trong không khí.
Phải mất một lúc để tôi nhớ ra là tôi không còn ở nhà mình nữa. Tôi đã ở Viện dưỡng lão. Cảm giác xa lạ ấy không biến mất sau một ngày, một tuần, hay thậm chí một tháng. Mọi thứ trong Viện dưỡng lão đều vận hành theo một lịch trình cứng ngắc mà tôi không có quyền thay đổi: 7:00 sáng nhân viên y tế mở cửa bước vào đánh thức tôi dù tôi chưa muốn dậy; 7:30 bữa sáng được mang đến dù tôi không hề đói; 9:00 có một buổi sinh hoạt chung nơi mọi người ngồi nghe nhạc hoặc tập thể dục nhẹ; 1:00 ăn trưa dù tôi thích món khác hơn tôi vẫn phải ăn thứ được mang ra. Mọi thứ đều có sẵn nhưng tôi chẳng được lựa chọn gì cả. Tôi không còn có thể nấu món canh khổ qua nhồi thịt mà tôi vẫn thích; Không thể uống trà vào buổi chiều như tôi vẫn hay làm; Không thể đơn giản đi bộ ra đầu ngõ mua một túi bánh khi thèm một chút đồ ngọt; Ngay cả việc muốn ra đi ngoài cũng phải xin phép và chờ có người hỗ trợ (?).
Tôi nhớ ngày đầu tiên ở đây tôi đã định ra ngoài đi dạo một chút nhưng cửa đã khóa. Một nhân viên nói tôi:
– “Bác cần ra ngoài ạ? Để con gọi người dẫn bác đi.”
Tôi sững sờ. Tôi cần ai đó dẫn đi để bước ra ngoài sao? Dù chỉ là một đoạn đường ngắn thôi. Dần dần tôi hiểu ra ở đây tôi không còn được quyết định cho chính mình nữa. Từ một người có thể tự do làm mọi thứ, tôi trở thành một người phải chờ đợi người khác quyết định giúp mình. Cảm giác mất đi sự tự do không ập đến ngay lập tức. Nó len lỏi vào từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống nó khiến tôi nhận ra những thứ đơn giản nhất như tự chọn giờ ăn; Tự quyết định hôm nay sẽ làm gì là những điều tôi từng xem là hiển nhiên, nhưng giờ lại là một thứ xa xỉ.
Rồi tôi bắt đầu quen dần với việc không thể tự do ra ngoài; Quen với việc phải ăn thứ được đưa ra dù tôi không thích; Quen với việc ngồi chờ đến giờ ngủ dù tôi chưa muốn ngủ. Nhưng bạn cũng biết: Không quen, không có nghĩa là chấp nhận. Có những đêm tôi nằm trên giường mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà. Tôi nhớ lại những ngày còn ở nhà khi tôi có thể tự tay mở cánh cửa nhà mình bất cứ lúc nào. Khi tôi có thể tự quyết định hôm nay sẽ làm gì khi tôi vẫn còn là người làm chủ cuộc đời mình. Giờ đây tôi chỉ là một cái tên trên một danh sách, một phần trong hệ thống người già phụ thuộc vào lịch trình của người khác.
Nếu bạn đang cân nhắc đưa cha mẹ mình vào Viện dưỡng lão hoặc chính bạn đang nghĩ đến điều đó. Hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự tự do của mình để lấy sự tiện lợi không? Bạn có thể chịu đựng được cảm giác mỗi ngày trôi qua mà không thực sự được quyết định điều gì trong cuộc sống của mình không? Vì một khi bạn đã đánh mất sự tự do thì việc lấy lại nó gần như là không thể được.
Hối tiếc 2: Cảm giác bị lãng quên.
Những ngày đầu tiên ở Viện dưỡng lão tôi vẫn còn niềm tin. Tôi tin rằng dù có xa nhà tôi vẫn sẽ được con cháu quan tâm. Tôi tin rằng dù ở một nơi khác, tình cảm gia đình vẫn không thay đổi. Ban đầu thì đúng như vậy.
Tuần đầu tiên con gái tôi đến thăm nó mang theo ít bánh ngọt, một hộp sữa và ngồi trò chuyện với tôi suốt cả buổi chiều. Nó hỏi tôi ánh mắt đầy quan tâm:
– “Mẹ có quen không? Mọi thứ ổn chứ?”
Tôi mỉm cười gật đầu vì tôi không muốn nó lo lắng. Cuối tuần đó, các cháu tôi cũng đến. Chúng ríu rít kể chuyện trường lớp. Chúng ôm tôi rồi chụp vài tấm ảnh. Tôi cảm thấy lòng mình ấm áp. Tôi tự nhủ mình không cô đơn đâu. Mọi người vẫn sẽ nhớ đến mình… Nhưng rồi những lần thăm hỏi cứ thưa dần đi. Tuần thứ hai con gái tôi bận công việc. Nó chỉ gọi điện thoại dặn dò vài câu rồi gác máy. Tuần thứ ba cháu tôi nói nó có bài thi ở trường không thể đến thăm Ngoại. Đến tuần thứ tư thì chẳng còn ai ghé nữa. Tôi bắt đầu đếm từng ngày mong chờ có ai đó mở cánh cửa phòng nói với tôi rằng “Mẹ ơi con đến rồi.” Hoặc “Ngoại ơi. Con nhớ Ngoại lắm…” Nhưng cửa vẫn đóng, điện thoại vẫn im lặng.
Rồi tôi nhận ra tôi không phải là người duy nhất rơi vào tình cảnh này. Tôi thấy những cụ già khác cũng ngồi lặng lẽ bên cửa sổ; Đôi mắt nhìn ra xa chờ đợi một bóng dáng quen thuộc. Tôi nghe những câu chuyện thì thầm” “Thằng con tôi nói cuối tuần này nó tới; nhưng rồi lại báo là bận”; “Hôm nay là sinh nhật tôi mà chắc chẳng có ai nhớ đâu?”… Và tôi hiểu rằng một khi đã vào Viện dưỡng lão rất dễ để người ta lãng quên mình. Không phải vì con cháu không yêu thương tôi nữa. Tôi biết chúng vẫn yêu tôi, nhưng cuộc sống bận rộn khiến chúng dần dần xem sự vắng mặt của tôi là chuyện hiển nhiên.
Lần đầu tiên tôi thực sự cảm nhận được điều này là vào dịp Tết. Những năm trước, vào ngày 30 Tết, tôi sẽ cùng con gái gói bánh, quét dọn bàn thờ tổ tiên, chuẩn bị mâm cơm cúng mọi thứ luôn rộn ràng ấm áp. Nhưng năm nay tôi ngồi một mình trong căn phòng nhỏ của Viện dưỡng lão lắng nghe tiếng pháo vọng từ xa. Không ai đến đón tôi về nhà. Không ai nhớ rằng Tết của tôi không phải là ăn một phần cơm cứng ngắc trong bữa ăn tập thể mà là những khoảnh khắc bên con cháu; Là mùi hương trầm nghi ngút trong nhà.
Lúc đó tôi mới thực sự hiểu một khi bạn rời khỏi cuộc sống thường ngày của con cái, bạn cũng rời khỏi những thói quen của họ. Họ sẽ tiếp tục với công việc với gia đình nhỏ của họ họ sẽ nhớ đến bạn nhưng không còn là mỗi ngày. Họ sẽ vẫn yêu thương bạn, nhưng không còn dành thời gian cho bạn như trước và rồi dần dần bạn trở thành một cái tên trong ký ức của họ – Một điều gì đó quan trọng nhưng không còn là ưu tiên.
Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão hoặc định gửi cha mẹ mình vào đó, hãy tự hỏi là bạn có sẵn sàng sống những năm tháng cuối đời trong sự mong chờ mà không biết khi nào người thân sẽ đến thăm bạn. Có chắc rằng dù bạn không còn ở nhà con cháu vẫn sẽ đến gặp bạn thường xuyên như họ hứa bởi vì một khi bạn bước vào nơi này, cuộc sống ngoài kia sẽ tiếp tục nhưng không còn có bạn trong đó.
Hối tiếc 3: Mất đi ý nghĩa cuộc sống.
.Tôi từng nghĩ rằng khi về già, con người ta chỉ cần một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Tôi từng tin rằng không phải làm gì cả là một điều tốt… Nhưng không phải vậy. Ngày còn ở nhà tôi luôn có việc để làm. Sáng thức dậy tôi pha một ấm trà; Tưới mấy chậu cây ngoài hiên; Rồi tự nấu một bữa ăn đơn giản; Tôi có thể ra chợ đi dạo trò chuyện với hàng xóm; Tôi có thể tự tay thu dọn nhà cửa giặt rũ quần áo sắp xếp lại những kỳ vật cũ… Những điều nhỏ nhặt ấy khiến tôi cảm thấy mình vẫn còn giá trị, vẫn có một mục đích sống. Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão mọi thứ đột nhiên dừng lại.
Tôi không cần phải nấu ăn nữa vì bữa ăn được đưa đến tận nơi dù tôi có thích hay không; Tôi không cần phải quét dọn nữa; Nhân viên vệ sinh làm tất cả rồi; Tôi không cần lo lắng gì cả nhưng tôi cũng chẳng còn gì để làm. Ban đầu tôi nghĩ đây là một điều tốt (!); Cuối cùng thì mình cũng được nghỉ ngơi. Nhưng chỉ sau vài tuần, tôi bắt đầu cảm thấy trống rỗng. Buổi sáng thức dậy, tôi chẳng biết hôm nay mình sẽ làm gì? Tôi ngồi trên giường nhìn quanh căn phòng nhỏ tự hỏi mình có thực sự còn ý nghĩa gì không?
Tôi không phải người duy nhất cảm thấy như vậy. Tôi nhớ có một bác tên Minh trước đây là một thầy giáo. Lúc còn ở nhà bác vẫn dạy kèm mấy đứa trẻ trong xóm vẫn đọc sách mỗi ngày. Nhưng khi vào đây, bác chẳng còn học trò cũng chẳng còn sách vở mỗi ngày. Bác chỉ ngồi yên trên chiếc ghế cũ, lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ. Một lần tôi hỏi bác không định làm gì sao? Đọc sách viết gì đó chẳng hạn? Bác thở dài:
– “Tôi cũng muốn lắm nhưng chẳng ai cần tôi nữa. Không có ai để dạy. Không có ai để chia sẻ. Tôi dần dần quên mất mình là ai.”
Câu nói ấy ám ảnh tôi. Một người từng là thầy giáo; Một người đầy tri thức từng cống hiến cả đời cho học trò giờ đây ngồi lặng lẽ trong căn phòng nhỏ tự hỏi mình còn ý nghĩa gì nữa không? Tôi chợt nhớ lại những người bạn đồng niên ngày xưa. Một bác từng là thợ mộc ngày nào cũng sửa chữa đóng bàn ghế; Một cô từng là thợ may lúc nào cũng bận rộn với kim chỉ. Nhưng khi vào đây tất cả đều trở thành những con người ngồi chờ thời gian trôi qua. Không phải vì họ không muốn làm gì mà vì ở đây chẳng có gì để làm cả.
Dần dần tôi hiểu ra một điều con người không chỉ cần ăn uống và ngủ để tồn tại. Chúng ta cần có một mục đích một lý do để thức dậy mỗi sa’ng; Một điều gì đó để mong chờ nhưng ở Viện dưỡng lão những thứ ấy dần dần bị lấy đi.
Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão thì hãy tự hỏi điều gì khiến cuộc sống của bạn có ý nghĩa? Bạn có thể sống mà không có trách nhiệm; Không có công việc gì để làm; Không có ai cần đến bạn không? Vì khi đã mất đi ý nghĩa cuộc sống bạn không còn thực sự sống nữa. Bạn chỉ đang tồn tại.
Hối tiếc 4: Sức khỏe suy giảm nhanh hơn mong đợi.
Trước khi vào Viện dưỡng lão tôi vẫn còn khá khỏe so với tuổi của mình. Tôi không thể chạy nhanh như thời trẻ, nhưng tôi vẫn có thể tự đi chợ tự nấu ăn tự làm những công việc nhỏ trong nhà mỗi sáng. Tôi vẫn có thói quen đi bộ quanh khu phố để giữ cho chân cứng cáp. Nhưng mọi thứ thay đổi nhanh hơn tôi tưởng.
Ngày đầu tiên vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra mình không cần phải làm gì nữa: Bữa ăn đã có người mang đến tận phòng không cần phải đi chợ, không cần đứng bếp, có nhân viên chăm sóc. Nếu tôi cần gì chỉ cần bấm nút sẽ có người giúp ngay không cần phải đi bộ xa vì mọi thứ đều ở ngay trong khuôn viên chỉ vài bước chân. Nghe qua thì có vẻ như một cuộc sống lý tưởng; Nhưng chính sự thoải mái đó đã làm cho cơ thể tôi yếu đi nhanh chóng. Ban đầu, tôi chỉ nghĩ rằng mình được nghỉ ngơi; Nhưng rồi chỉ sau vài tháng tôi bắt đầu cảm thấy hai chân mình yếu hơn, đi lại chậm hơn, thậm chí đứng lên cũng thấy khó khăn hơn.
Rồi tôi bắt đầu để ý đến những người xung quanh. Có một bà tên Lành ngày đầu vào đây bà vẫn còn nhanh nhẹn tự đi lại bình thường nhưng chỉ sau vài tháng bà bắt đầu dựa vào gậy để đi rồi dùng xe lăn và cuối cùng thì bà không còn đủ sức đứng lên một mình nữa. Một ngày nọ, bà nhìn tôi cười buồn. Tôi không biết nó xảy ra từ khi nào, nhưng tôi có cảm giác như mình già đi cả chục năm chỉ sau vài tháng.
Lúc còn ở nhà, dù tôi không tập thể dục nhiều nhưng ít nhất tôi vẫn di chuyển vẫn phải tự làm mọi thứ. Điều đó giúp cơ thể tôi duy trì được sự linh hoạt. Nhưng khi vào đây, tôi ít vận động hẳn. Tôi bắt đầu ngồi nhiều hơn, và cũng nằm nhiều hơn. Rồi tôi nhận ra cơ bắp của mình dần yếu đi. Có một bác sĩ từng nói với tôi:
– “Cụ biết không, khi một người già ngừng vận động họ sẽ mất khả năng vận động nhanh hơn gấp nhiều lần so với người trẻ. Cơ thể con người vốn dĩ cần được hoạt động. Khi cụ ngừng đi lại ngừng làm việc cơ thể cụ sẽ bắt đầu suy yếu.”
Đúng vậy. Nếu tôi biết trước điều này tôi sẽ cố gắng vận động nhiều hơn ngay cả khi đã vào đây. Nhưng vấn đề là môi trường này không khuyến khích điều đó. Khi mọi thứ đều được làm sẵn người ta sẽ dần quên mất cách tự chăm sóc chính mình.
Nếu bạn đang cân nhắc Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có còn động lực để duy trì sức khỏe khi mọi thứ đã được làm thay cho bạn không? Bạn có đủ mạnh mẽ để tự thúc ép mình vận động ngay cả khi không còn ai nhắc nhở? Vì một khi bạn ngừng sử dụng cơ thể mình bạn sẽ bắt đầu mất đi; và đến khi nhận ra điều đó có thể đã quá muộn để lấy lại.
Hối tiếc 5: Mất đi sự riêng tư.
Còn nhớ ngày còn ở nhà, tôi có một căn phòng riêng, một không gian của riêng tôi. Tôi có thể đóng cửa bất cứ khi nào tôi muốn nếu tôi thấy mệt. Tôi có thể nằm dài cả buổi mà không ai làm phiền. Nếu tôi muốn tắm tôi chỉ cần bước vào phòng tắm mà không cần xin phép ai. Tôi tự quyết định mình làm gì khi nào và như thế nào. Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra rằng sự riêng tư là một thứ xa xỉ. Tại đây cánh cửa phòng không bao giờ thực sự thuộc về tôi nữa. Nhân viên y tế có thể vào bất cứ lúc nào để khám tình trạng sức khỏe của tôi; Người dọn vệ sinh gõ cửa rồi bước vào ngay cả khi tôi chưa kịp trả lời; Những cuộc kiểm tra định kỳ được thực hiện mà tôi không có quyền từ chối. Tôi không trách họ vì họ chỉ làm đúng như được chỉ định; Nhưng cái cảm giác bị theo dõi mọi lúc mọi nơi; Cái cảm giác không còn một góc riêng để thực sự gọi là của chính mình nó không dễ chịu chút nào.
Nhưng điều khiến tôi đau lòng nhất không phải là mất đi sự riêng tư mà là mất đi phẩm giá của một con người. Ở nhà, tôi tự tắm rửa tự mặc quần áo tự chăm sóc bản thân, nhưng ở đây khi tôi bắt đầu yếu đi tôi buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác. Tôi muốn đi tắm tôi phải chờ nhân viên hỗ trợ. Tôi cần đi vệ sinh, nếu tôi không tự đi được tôi phải nhấn chuông gọi. Tôi muốn mặc bộ quần áo mình thích; nhưng nếu không phù hợp với quy định tôi cũng không được mặc.
Bạn có biết cảm giác đứng trước một người xa lạ để họ giúp bạn làm những việc rất cá nhân, trong khi cả đời bạn đã tự làm những việc ấy là như thế nào không? Nó không chỉ là sự bất tiện mà nó là sự tổn thương. Tôi nhớ có lần tôi bị sốt. Người hơi yếu nên y tá giúp tôi thay đồ dù cô ấy rất nhẹ nhàng, rất chuyên nghiệp, nhưng tôi cảm thấy mình không còn là chính mình nữa. Tôi không còn là một người phụ nữ từng sống độc lập, từng tự chăm sóc bản thân. Tôi chỉ còn là một người già, một bệnh nhân, một con số trong danh sách và điều đó thực sự rất đau lòng.
Không phải ai cũng cảm thấy như tôi. Một số người ở đây có thể quen với điều đó; Thậm chí chấp nhận nó, nhưng với tôi một người đã từng tự do, từng tự quyết định cuộc sống của mình thì việc mất đi quyền kiểm soát ngay cả những điều nhỏ nhất là điều khiến tôi thấy mình không còn là mình nữa.
Nếu bạn đang nghĩ đến Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự riêng tư để đổi lấy sự chăm sóc. Bạn có chấp nhận việc mỗi ngày có thể bạn sẽ cần nhờ ai đó giúp làm những điều mà bạn từng làm một cách tự nhiên, bởi vì một khi bạn mất đi sự riêng tư bạn cũng mất đi một phần phẩm giá của chính mình và điều đó khó lấy lại hơn bất cứ thứ gì khác.
Hối tiếc 6: Khó khăn khi muốn rời đi.
Lúc mới bước vào Viện dưỡng lão, tôi đã tự nhủ rằng đây chỉ là một thử nghiệm. Tôi nghĩ nếu không hợp mình có thể rời đi bất cứ lúc nào; nhưng tôi đã quá ngây thơ. Tôi còn nhớ ngày đầu tiên con gái tôi đưa tôi đến đây nó siết chặt tay tôi và nói:
– “Mẹ cứ thử một thời gian xem sao. Nếu không thích mẹ có thể về nhà.”
Câu nói đó khiến tôi an tâm phần nào. Tôi nghĩ rằng mình vẫn có sự lựa chọn. Thế nhưng chỉ sau vài tháng tôi nhận ra rằng việc rời đi không đơn giản như tôi nghĩ. Một ngôi nhà cũ không còn là của tôi nữa. Lúc tôi vào Viện dưỡng lão, căn nhà của tôi vẫn còn đó nhưng tôi không còn ở đó để giữ gìn nó. Con cái tôi bắt đầu sắp xếp lại mọi thứ. Chúng bớt đi những đồ đạc không cần thiết. Thậm chí có ý định bán một số món đồ cũ. Hàng xóm cũng dần dần quên đi sự có mặt của tôi. Những người từng ghé qua trò chuyện mỗi sáng giờ đây không còn nhớ tôi đã từng sống ở đó?
Một ngày nọ, tôi nói với con gái rằng tôi muốn trở về nhà. Tôi tưởng rằng nó sẽ vui mừng, nhưng thay vào đó tôi thấy sự do dự trong mắt nó:
– “Mẹ có chắc không? Mẹ về nhà rồi ai chăm sóc mẹ? Mẹ có tự lo được cho mình không?”
Tôi cứng họng. Tôi biết rằng mình đã yếu hơn trước. Tôi biết rằng sự tự tin mà tôi từng có giờ đã lung lay và tôi sợ. Tôi sợ rằng nếu tôi rời khỏi Viện dưỡng lão tôi sẽ không biết cách thích nghi với cuộc sống bên ngoài nữa. Y như con chim đã được nhốt nuôi trong chuồng quá lâu. Tôi đã quá quen với việc có người mang cơm đến tận nơi; Có người nhắc nhở uống thuốc; Có người hỗ trợ khi cần. Giờ đây nếu tôi trở về tôi phải tự lo mọi thứ tôi thì liệu có làm được không? Sức khỏe của tôi đã thay đổi từ khi mới vào đây. Tôi vẫn còn khỏe mạnh, nhưng như tôi đã nói ở phần trước, việc ít vận động đã khiến tôi yếu đi nhanh hơn. Tôi không còn đi bộ nhanh như trước. Tôi không còn đủ sức nấu ăn một cách linh hoạt. Y như tâm trạng con chim nuôi trong chuồng lâu ngày nay được thả, tôi không còn cảm giác tự tin khi sống một mình.
Tôi nhận ra một sự thật cay đắng: Chính thời gian sống ở đây đã khiến tôi trở thành một người không còn đủ sức để trở về. Trước đây tôi từng nghĩ rằng Viện dưỡng lão chỉ là một điểm dừng chân tạm thời nhưng thực tế càng ở lâu tôi càng mất đi khả năng tự lập và dần dần Viện dưỡng lão trở thành nơi duy nhất mà tôi có thể tồn tại. Tôi nhìn quanh và thấy nhiều người khác cũng rơi vào tình trạng giống mình. Có cụ bà từng nghĩ rằng bà chỉ vào đây một thời gian để hồi phục sức khỏe nhưng rồi bà không bao giờ rời đi nữa vì bà đã quen với sự phụ thuộc. Có cụ ông từng nói rằng sẽ về nhà khi thấy ổn định hơn nhưng sau một năm ngôi nhà của ông bị bán đi và ông không còn nơi nào để về nữa.
Tôi chợt nhận ra một sự thật mà không ai nói với tôi trước đây: Việc vào Viện dưỡng lão là một quyết định dễ dàng nhưng một khi đã vào thì việc rời đi lại là điều gần như không thể làm được – A Mission Impossible!
Nếu tôi có thể quay ngược thời gian tôi sẽ tìm cách ở lại nhà lâu hơn. Tìm kiếm những giải pháp khác thay vì từ bỏ mái ấm, bước vào đây quá vội vàng. Tôi sẽ nhờ con cái thuê một người giúp việc bán thời gian. Tôi sẽ thử sống với một người bạn già để cùng nhau hỗ trợ. Tôi sẽ tìm đến những trung tâm hỗ trợ người cao niên mà không nhất thiết phải vào một nơi như thế này… Nhưng tôi đã không làm như vậy; và bây giờ tôi không biết mình có thể quay lại cuộc sống cũ hay không?
Nếu bạn đang suy nghĩ về Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có chắc mình sẽ dễ dàng rời đi (trở lại nhà cũ) nếu không thích? Việc trở lại không dễ như bạn tưởng và nếu bạn không chuẩn bị trước có thể bạn sẽ không bao giờ có cơ hội để làm điều đó.
Tôi hy vọng rằng câu chuyện của tôi sẽ giúp bạn có một quyết định sáng suốt hơn cho chính mình hoặc cho người thân của mình. Hãy suy nghĩ thật kỹ vì tuổi giả có thể là quãng thời gian hạnh phúc nếu bạn biết cách lựa chọn đúng để chúng ta có thể đồng hành, cùng nhau trưởng thành, cùng nhau sống bình yên và cùng nhau già đi một cách hạnh phúc, êm thắm!
Peace.
Trần Văn Giang (ghi lại)
Orange County
Tháng 3/2025
Có một Nick Út mà tôi biết-Tuấn Khanh
Tuấn Khanh
17-5-2025
Ông Nick Út về nước ra sách và tặng cho ông Trương Tấn Sang (trái) cuốn sách về cuộc đời của em bé Napalm. Ảnh trên mạng
Câu chuyện về nhà nhiếp ảnh Nick Út và bức ảnh “Em bé Napalm”, trước khi bị đưa ra ánh sáng, đã có nhiều bài viết khẳng định rằng bức ảnh này không phải của ông ta. Năm 2015, nhà bình luận Đức Hồng viết trên BBC tiếng Việt, đã khởi đi rất nhiều tranh luận của người Việt trong và ngoài nước về sự thật ai là tác giả của bức ảnh này. Bằng giọng văn thuyết phục và quả quyết, ông Đức Hồng cho thấy sau bức ảnh “Em bé Napalm” đó còn nhiều điều chưa nói hết, khiến lâu nay nhiều người Việt Nam vẫn lầm tưởng.
Bài viết đặt một câu hỏi – rất hiển nhiên – mà cũng rất cay đắng, vì sao cái gọi là nạn nhân chiến tranh xâm lược của Đế Quốc Mỹ, cô Kim Phúc, cuối cùng đã tìm cách đào thoát và được giúp tỵ nạn ở phương Tây, chứ không ở lại Việt Nam. Nạn nhân đó cũng không muốn được hưởng vinh quang như một biểu tượng chống chiến tranh. Câu hỏi đặt ra là cô Kim Phúc, nhân vật chính trong bức ảnh đó, có hài lòng cho cuộc đời trở thành điểm tựa đẹp nhất về tuyên truyền cho quân đội miền Bắc Việt Nam hay không?
Sự thật là năm 1992, cô Kim Phúc đã thoát khỏi Việt Nam, tỵ nạn ở Canada để không biến mình thành công cụ truyên truyền cho một phía, cũng như tác giả Đức Hồng đặt lên một câu hỏi rất đáng chú ý rằng năm 1972, những người lính Cộng sản Bắc Việt đang làm gì ở đất của miền Nam trong một hiệp định phân chia đất nước vẫn còn hiệu lực. Và vì sao “các em nhỏ ấy lại chạy về phía lính Việt Nam Cộng hòa để kêu cứu mà không một chút sợ sệt, sao các em không chọn những người lính Cộng sản Bắc Việt cũng đang lẩn trốn ở ngay gần đó?”.
Sự thật ít người biết là gia đình cô Kim Phúc cũng bị đánh tư sản vào năm 1975. Cả nhà sống rất khó khăn. Năm 1982 khi một phóng viên người Đức đến Việt Nam để tìm lại nhân vật lịch sử trong bức ảnh “em bé Napalm” thì Kim Phúc bị đẩy thành một nhân vật tuyên truyền cho giai đoạn sau chiến tranh. Mọi thời gian sinh hoạt của cô Kim Phúc lúc bấy giờ đều bị công an kiểm soát chặt chẽ. Thậm chí Kim Phúc bị buộc thôi học trường đại học Y khoa ở Sài Gòn, về sống ở quê Trảng Bàng để tiện dễ kiểm soát ngôn ngữ tuyên truyền.
Sau đó, khi lấy chồng là một du học sinh sống ở Cuba, nhân một chuyến đi, máy bay ngừng chặng ở Gander, Newfoundland (Canada), Kim Phúc cùng chồng trốn khỏi sự kiểm soát của công an viên đi kèm và xin tị nạn. Mọi sự kiện này không là lời kể miệng, mà được bày tỏ công khai trên trang web riêng của Kim Phúc tên là Kim Foundation, quỹ từ thiện do cô sáng lập và cũng như trong quyền hồi ký The Girl in the Picture, hiện vẫn còn bán online trên các nhà sách lớn, như Amazon.
Cùng với những câu hỏi của tác giả Đức Hồng, cũng có một câu hỏi khác được đặt ra, là một người phóng viên của AP, vì sao từ vị trí là một nhiếp ảnh gia ghi chép sự kiện một cách trung dung, ông Nick Út dần dần biến mình thành một người quảng bá sai ý nghĩa của bức ảnh, biến mình thành một nhân vật tuyên truyền hơn cả cô Kim Phúc?
Trong cuộc tranh cãi về sự kiện ông Nick Út trở lại Việt Nam hồi Tháng Sáu 2015, họa sĩ Trịnh Cung nêu một ý kiến khác. “Nếu là một phóng viên có đạo đức, Nick Út đã phải có một thái độ khác. Trái lại, ông Út đã biến cơ hội giữ lại khoảng khắc thương đau của một sinh mệnh, tạo hào quang cho mình, mà không đứng về sự thật của nạn nhân trong suốt nhiều năm liền”, họa sĩ Trịnh Cung nói, “giả sử khi được trao giải Pulitzer, ông Nick từ chối và trao tặng cho nạn nhân mà ông chụp được, có lẽ ông đã giải bày được một cách khiêm tốn về cơ may – hơn là tài năng – và tỏa sáng gấp bội lần hơn lúc này”.
Nhưng điều quan trọng là bên cạnh sự thật ít ai biết về cô Kim Phúc khi phải đào thoát sang Canada – trong số ít đó có ông Nick – thì dường như ông cũng tảng lờ việc đứng về phía nỗi khổ và khó khăn của cô Kim Phúc, và chỉ bám chặt vào bề mặt bức ảnh, lấy câu chuyện để nuôi ánh hào quang cho mình, phản bội lại đạo đức nghề nghiệp báo chí, là phải nói thật về điều mình thấy, trình bày sự thật mà mình biết.
Đạo đức nghề nghiệp đó, đã từng được chứng minh như chuyện nhà nhiếp ảnh Eddie Adams với bức ảnh chấn động thế giới về tướng Nguyễn Ngọc Loan khi bắn phục binh Bắc Việt Bảy Lốp vào năm 1968. Sau khi biết được sự thật, nhất là khi nghe tin tướng Loan qua đời, Eddie Adamas đã nói với báo chí rằng ông đã rất hối hận vì bức ảnh đó làm hại một tướng quân và làm hại một chế độ.
Đạo đức con người cũng đã được thể hiện, khi diễn viên Jane Fonda đi ra miền Bắc Việt Nam cổ vũ cho cuộc chiến tranh tương tàn vào năm 1972. Nhiều năm sau, nhiều lần, người diễn viên này đã bày tỏ sự hối hận vô bờ bến về hành động của mình khi biết rõ tác hại từ chuyến đi của mình. Bà Jane Fonda vẫn lập lại lời xin lỗi đến các cựu chiến binh Mỹ, mỗi khi có dịp.
Nhưng Nick Út thì khác. Ông quay lại Việt Nam để làm triển lãm riêng, ra sách, chụp hình với các quan chức và đặc biệt là tảng lờ về cuộc đời thật của cô Kim Phúc mà ông lúc nào cũng quảng bá là thương mến và thân thiết.
Trong các buổi ra sách, và ký tặng, ông Nick cũng chưa bao giờ nói về sự thật của cuộc đời cô Kim Phúc, cũng như luôn mỉm cười im lặng, như một sự tán đồng với hệ thống truyên truyền Nhà nước rằng đó chính là bức ảnh ông chụp như để tố cáo tội ác xâm lược của đế quốc Mỹ.
Khi được hỏi về việc bị thế giới phát hiện ông là “kẻ cắp” của bức ảnh lừng danh, Nick Út nói ông sẽ đòi công lý “với nỗi đau của mình”. Nhưng có nỗi đau nào bằng chuyện công sức của một người bị cưỡng đoạt suốt nửa thể kỷ, và ông Nick Út thì bao giờ cũng cười tươi che hết ống kính khi nghe nhắc về bức ảnh này. Cũng như có nỗi đau nào diễn đạt được thành lời, khi cô Kim Phúc luôn bị ông giấu trong bóng tối, để làm sáng lòa hơn gương mặt của ông trước báo chí và ống kính truyền thông Việt Nam.
GIÁO SƯ ĐOÀN VIẾT HOẠT QUA ĐỜI
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một trong những biểu tượng tiêu biểu của phong trào dân chủ và nhân quyền Việt Nam trong vài thập niên trở lại đây, vừa qua đời vào chiều 14/5/2025 tại Nam Cali.
Ông sinh năm 1942 tại Hà Đông, từng là phụ tá Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975. Sau năm 1975, ông bị bắt và bị giam cầm suốt 12 năm trong trại cải tạo mà không qua xét xử. Sau khi được trả tự do, ông tiếp tục đấu tranh ôn hòa cho tự do ngôn luận và dân chủ, dẫn đến việc bị kết án 20 năm tù vào năm 1993. Dưới áp lực quốc tế, ông được trả tự do và sang Hoa Kỳ năm 1998, nơi ông tiếp tục hoạt động cho đến cuối đời.
Ông được mệnh danh là “Sakharov của Việt Nam” và từng nhận nhiều giải thưởng quốc tế danh giá như Giải Tự do Báo chí Quốc tế (1993), Giải Nhân quyền Robert F. Kennedy (1995), Giải Bút vàng Tự do (1998) và được vinh danh là Anh hùng Tự do Báo chí Thế giới năm 2000.
Khoảng 3 năm trước, ông chuyển từ Washington DC tới sinh sống tại Nam Cali , nơi có đông người Việt tị nạn cộng sản.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt qua đời là một mất mát cho cộng đồng người Việt tị nạn tại hải ngoại. Di sản của ông chắc chắn sẽ là nguồn cảm hứng cho những người đi sau, trên hành trình tìm kiếm tự do cho quê hương.
NÊN CẢM ƠN AI?
Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn
“Được thừa hưởng một nền giáo dục nhân bản, nên gương mặt rất Chân chất và đôn hậu.”
Trong hình là tiến sĩ Nguyễn Thị Hoàng Dương (Kelly Nguyễn), quê Quảng Ngãi.
Hiện cô làm việc tại MRC-Phòng thí nghiệm về sinh học phân tử tại Cambridge, Anh quốc. Báo chí loan tin cô sẽ được trao huy chương Colworth năm 2024 vì những kết quả nghiên cứu xuất sắc.
Cô là nhà khoa học người Việt đầu tiên nhận huy chương này trong lịch sử 60 năm của giải thưởng.
Con đường của tiến sĩ Hoàng Dương bắt đầu khi học xong lớp 10 ở tỉnh nhà, cô nhận học bổng toàn phần chương trình phổ thông tại Trường nữ sinh Wellington New Zealand.
Khi tốt nghiệp xong, cô có thành tích rất tốt và thi đậu học bổng toàn phần học Hóa học tại đại học danh giá Australian National University (ANU). Ở đây, cô học rất giỏi và tốt nghiệp với hạng đứng đầu khóa học First Class Honours với một huy chương University Medal. Thường 1 năm chỉ có 1 sinh viên của khoa nhận vinh dự này.
Từ kết quả đó, năm 2010 cô được nhận vào học tiến sĩ với học bổng toàn phần tại University of Cambridge (Trinity College).
Cô tốt nghiệp tiến sĩ khi mới chỉ 26 tuổi và ở lại trường làm công tác nghiên cứu. Cô cũng từng qua nghiên cứu tại Đại học California Berkeley, Mỹ.
Là một nhà nghiên cứu về sinh học phân tử đầy tiềm năng, cô đã từng nhận rất nhiều giải thưởng quốc tế danh giá về chuyên ngành.
Trinity College, nơi cô theo học tiến sĩ và đang làm việc là đại học tốt nhất của Viện đại học Cambridge- trường đại học chất lượng bậc nhất thế giới. Thành lập từ 1546, trường này đã có 34 thành viên nhận giải thưởng Nobel (trong số 121 giải thưởng mà các thành viên của Đại học Cambridge nhận được). Đây là trường mà nhà vật lý Isaac Newton và rất nhiều vĩ nhân từng theo học.
Trường chỉ hiện có tổng số 180 sinh viên tiến sĩ, do đó được vào đây học hành và đỗ đạt là vô cùng vinh dự.
Có một nhà khoa học Việt tại nước Anh, trong 1 trung tâm khoa học lớn của thế giới như tiến sỹ Hoàng Dương thật quý báu. Chúc mừng cô và mong cô đạt nhiều thành tựu khoa học mới.
Nguyễn Thị Bích Hậu
Ba ‘cô tiên’ gốc Việt cứu người suýt chết trong nhà hàng ở Little Saigon
May 14, 2025
Văn Lan/Người Việt
GARDEN GROVE, California (NV) – Ba cô gái Việt Nam vừa được vinh danh trong một buổi tiệc nhỏ ở nhà hàng Brodard Chateau, Garden Grove, lúc 7 giờ tối 23 Tháng Tư, vì trước đó cứu được một người suýt chết trong một buổi tiệc ở một nhà hàng khác trong vùng Little Saigon.
Cô Michelle Đỗ (bìa trái, đại diện GSV Janet Nguyễn) trao tặng bằng tưởng lục vinh danh ba “cô tiên” cứu người, từ trái, Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Vì hành động anh hùng đó mà ba “cô tiên” Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm được Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn tuyên dương.
Tại buổi tiệc, cô Michelle Đỗ, đại diện vị dân cử gốc Việt, trao tặng bằng tưởng lục đến ba người này, và nói rằng: “Họ đã có hành động anh hùng, phản ứng nhanh chóng và vị tha trong trường hợp khẩn cấp đe dọa tính mạng người khác. Khi sự việc xảy ra, hô hấp nhân tạo (CPR) và sự hỗ trợ cần thiết của họ đã đóng vai trò quan trọng trong việc cứu sống một người. Lòng dũng cảm và lòng trắc ẩn mà bạn thể hiện phản ảnh lý tưởng cao nhất về tinh thần cộng đồng và lòng nhiệt huyết.”
Được biết, sự việc xảy ra tại nhà hàng White Palace, Westminster, hôm 15 Tháng Hai.
Cô Tricia Hoàng, y sĩ của bệnh viện UCI, nhớ lại: “Hôm đó ở nhà hàng rất đông người, rất ồn ào và náo nhiệt. Khi em đang cắt bánh sinh nhật, bỗng nhiên ông xã em chạy lại báo có một phụ nữ không được khỏe. Em chạy lại thấy người phụ nữ lúc đó còn tỉnh nhưng mặt mày phờ phạc y như người thiếu ngủ.”
“Rồi gương mặt cô ấy tái nhợt, cô không còn thở, té ngửa ra bất tỉnh kéo em té theo. Em đỡ cô ấy lên làm CPR (bằng miệng). Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là y sĩ, chạy tới làm phương pháp đập ngực để giúp tim bệnh nhân có nhịp đập trở lại. Khoảng hơn 5 phút sau, cô ấy bắt đầu thở lại được. Tiếp đến, cô Vannessa Nina Rose Phạm chạy tới nâng đầu cô ấy qua một bên, và cô ta nôn mửa lên người Nina. Mấy phút sau, xe cấp cứu tới chở cô ấy đi bệnh viện,” cô Tricia kể tiếp.
Cô Liên Nguyễn (ngồi, thứ hai từ phải), em cô Vân Nguyễn, đại diện chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” đã cứu sống chị cô. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Theo cô Tricia, “có thể cô ấy bị nhồi máu cơ tim, hoặc là gì khác nữa chăng, có nhiều nguyên nhân lắm. Ngay lúc nguy cấp đó em chỉ biết cứu người thôi. Nếu mình biết cách cứu chữa thì nên làm. Là người trong ngành y thấy người sắp chết không thể không cứu.”
Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là một y sĩ lâu năm, cộng tác với Trung Tâm Y Tế Michael Đào tám năm nay, cho biết khi cô chạy đến, bệnh nhân đã bất tỉnh, mặt tái ngắt và không còn hơi thở.
Cô tiếp: “Tricia đỡ cô ấy nằm xuống đất làm hô hấp nhân tạo, và em thăm dò coi mạch máu ở cổ còn đập hay không. Khi không thấy nhịp đập thì Tricia làm CPR, còn em kích thích nhịp tim bằng CPR, ấn lòng ngực nhiều lần để hồi sức tim phổi, kết hợp giữa ép tim trong lồng ngực và thông khí nhân tạo.”
“Sau đó, bệnh nhân có hơi thở trở lại nhưng rất yếu, tụi em ngưng làm CPR, lay cho đến khi cô mở mắt ra thì nạn nhân buồn nôn, phải đặt cô ấy nằm nghiêng một bên đề phòng khi ói không chảy ngược vào cuống phổi. Cô ấy ói rất nhiều, vài phút sau là xe cấp cứu tới đưa nạn nhân đi nhà thương,” cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần kể.
Cô Jacqueline kể thêm: “Trường hợp này cho thấy triệu chứng của người bị nhồi máu cơ tim. Ví dụ như không còn hơi thở, không còn nhịp tim, mặt tái lại, nếu để nạn nhân nằm yên không can thiệp kịp thời thì nguy cơ tử vong rất cao vì não không có oxy. Nếu có cứu được thì não cũng bị tổn thương, tuy sống sót nhưng có thể bị đột quỵ, nếu chúng em không có ở đó, có thể chuyện không hay đã xảy ra.”
Nhóm bạn và đồng nghiệp của ba “cô tiên” cứu người, trong buổi tiệc mừng vinh danh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Cô Vannessa Nina Rose Phạm, Hoa Hậu Nhân Ái California, cũng có mặt trong giây phút cấp cứu người bị nạn.
Cô cho hay cô cũng là y tá ở San Jose, California. Trong phút giây nguy cấp, cứu người là hành động tức khắc, chậm một giây phút nào là nguy đến tính mạng ngay lập tức.
Tại buổi tiệc, cô Vân Nguyễn, người bị ngưng tim trong tiệc sinh nhật hai tháng trước đã được cứu thoát trong gang tấc, vì bận việc không đến dự được, nên cô Liên Nguyễn là em của cô Vân, thay mặt chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” trong đời thường, đã kịp thời cứu chị cô qua cơn nguy hiểm.
Cô Michelle Đỗ cho hay hành động nhanh chóng, phản ứng kịp thời của ba cô này để cứu người đang cơn nguy cấp đến tính mạng rất đáng ca ngợi, vì không phải ai biết CPR cũng có thể làm với phản xạ cấp kỳ như vậy được.
Cô tiếp: “Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn khuyến khích mọi người nên biết đến phương pháp CPR này, ít nhất là trong gia đình để khi gặp trường hợp khẩn cấp có thể hành động nhanh được, cứu sống một mạng người rất quan trọng, mọi người nên để ý đến.” [đ.d.]
ANH CÒN NỢ EM….- Phan Công Tuấn
Phan Công Tuấn
Đó là bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Anh Bằng, phổ thơ Phạm Thành Tài. Nhưng có lẽ không nhiều người biết Phạm Thành Tài không chỉ là nhà giáo, nhà thơ mà còn là lương y tham gia sinh hoạt và viết sách xuất bản ở Câu lạc bộ Châm cứu Sông Bé vang bóng một thời.
Trưa nay, thấy trên mạng xã hội dẫn lại một bài viết có thông tin Thi sĩ Phạm Thành Tài sinh năm 1932 và mất năm 1997. Quê quán ở quận Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa. Ông từng bị tù cải tạo sau năm 1975, đi qua Mỹ qua diện HO và học lấy bằng Đông Y Bác Sĩ (OMD- Oriental Medical Doctor).
Tôi liền vùng dậy, lục tìm cuốn sách “Phối Huyệt Châm Cứu Chữa Bệnh Kinh Đới Trong Phụ Khoa” của lương y Phạm Thành Tài trong tủ sách của mình, và thêm vài cú nhấp chuột tôi mới khẳng định được vị lương y này chính là tác giả lời ca của nhạc phẩm nổi tiếng đó.
Về bối cảnh ra đời bài thơ, có thông tin cho biết có một phụ nữ kể lại câu chuyện tình của cô bạn thân của cô với một thanh niên học cùng trường nhưng hơn mấy lớp ở Ninh Hoà. Chàng và nàng quen nhau từ thủa học trò. Đỗ tú tài, chàng vào Sài Gòn, rồi sau đó du học Mỹ, nàng thì ở lại quê làm cô giáo trường làng. Ra đi, chàng bảo nàng yên tâm đợi chàng về. Nhưng rồi sau đó được tin chàng đã lấy vợ, một người con gái học thức, sang giàu, nàng đau khổ một thời gian rồi cũng lấy chồng.
Sau 1975, một lần họp đồng hương Ninh Hoà ở Mỹ, người phụ nữ kể chuyện gặp lại chàng, biết cô sắp về thăm quê, chàng gửi ít tiền về biếu nàng ngày xưa, vốn là bạn thân của cô. Nàng sống ở quê cùng chồng là thương phế binh chế độ cũ, với năm con, nghèo lắm nhưng từ chối món tiền của chàng.
Qua Mỹ, đến thăm chàng trong ngôi nhà cao đẹp, nhưng một mình vì đã li di vợ, có đứa con trai cũng sống với mẹ. Người phụ nữ kể lại câu chuyện, chàng ngậm ngùi nói “anh còn nợ em”.
Nhạc sĩ Anh Bằng kể rằng đọc tập thơ nhỏ của Phạm Thành Tài, có mấy bài thơ ngắn, rồi thích thú phổ thành bản Anh Còn Nợ Em.
“Anh còn nợ em, công viên ghế đá, công viên ghế đá, lá đổ chiều êm. Anh còn nợ em, giòng xưa bến cũ, giòng xưa bến cũ, con sông êm đềm. Anh còn nợ em, chim về núi nhạn, trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm. Anh còn nợ em, nụ hôn vội vàng, nụ hôn vội vàng, nắng chói qua rèm. Anh còn nợ em, con tim bối rối, con tim bối rối, anh còn nợ em. Và còn nợ em, cuộc tình đã lỡ, cuộc tình đã lỡ, anh còn nợ em.”
Trong mỗi đoạn nhạc, có 4 câu thơ mà có câu lập lại hai lần, toàn bài câu “anh còn nợ em” lập lại 8 lần; đó là nét riêng của ca khúc và lập lại mà nghe không chán.
Khi bài hát phổ biến, nhạc sĩ Anh Bằng nhờ người tìm tác giả bài thơ và khi tìm được thì thi sĩ Phạm Thành Tài đã qua đời hơn mười năm. Ông chép tay bài nhạc Anh Còn Nợ Em và tặng cho người vợ của thi sĩ làm kỷ niệm.
Phan Công Tuấn
‘Giấc Mơ Mỹ’ đang hấp hối – Trúc Phương/Người Việt
May 11, 2025
Trúc Phương/Người Việt
Nếu có thuật từ nào xứng đáng được chọn là một trong những đại diện cho xã hội văn minh hiện đại được nhắc nhiều nhất, từ đó chắc chắn là “Giấc Mơ Mỹ” (American Dream).
Người nhập cư vào Mỹ từ nhiều quốc gia trên khắp thế giới qua lao động nặng nhọc để tìm kiếm “Giấc Mơ Mỹ.” (Hình minh họa: Brent Stirton/Getty Images)
Tác giả thuật từ, James Truslow Adams, trong quyển The Epic of America (1931), đã định nghĩa: “‘Giấc Mơ Mỹ’ là niềm mơ ước về một vùng đất, nơi mà cuộc sống trở nên tốt hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho tất cả, với cơ hội cho mỗi người đều có thể có được chỉ bằng tài năng.”
“Giấc Mơ Mỹ” trở thành khái niệm quen thuộc tượng trưng cho sự thành đạt được đền bù xứng đáng từ nỗ lực bền bỉ. “Giấc Mơ Mỹ” đưa nước Mỹ trở thành cường quốc thịnh vượng. Bây giờ, sự thịnh vượng đó đang tan hoang…
Lý tưởng của “Giấc Mơ Mỹ”
Nhắc đến “Giấc Mơ Mỹ,” người ta thường liên tưởng đến hình ảnh cơn sốt đào vàng thế kỷ 19, đến sự thành đạt từ bàn tay trắng cần cù và nghị lực phi thường, đến sự khát vọng làm giàu, đến hình thái chính trị-xã hội tự do dân chủ đích thực mang lại sự phóng khoáng trong tư duy, đến mô hình kinh tế thị trường tự do và còn nhiều điều tốt đẹp khác.
Khi Franklin Delano Roosevelt nhậm chức tổng thống năm 1933 với chương trình cải tổ toàn diện New Deal đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc Đại Suy Thoái, “Giấc Mơ Mỹ” bắt đầu đâm hoa thật sự. Dân Mỹ được chăm lo tốt hơn bằng những chính sách cụ thể. “Giấc Mơ Mỹ” chưa dừng lại ở đó.
“Giấc Mơ Mỹ,” được hiểu đơn giản là những câu chuyện đổi đời ngoạn mục trên đất Mỹ, bắt đầu hình thành khi nhiều gia đình bồng bế nhau trực chỉ hướng Tây ngọn Rocky để mua hàng hecta đất với giá rẻ trong cơn sốt tìm vàng. Ðổi đời từ vàng là làn sóng ban đầu của khái niệm “Giấc Mơ Mỹ.”
Làn sóng thứ hai bắt đầu từ những người di cư. Mong muốn thoát cảnh quanh năm ruộng vườn, đặc biệt bởi nhiều yếu tố trực tiếp chẳng hạn hậu quả nạn đói kinh khủng từ trận thất mùa khoai tây lịch sử tại Ireland; và tình trạng hậu chiến sau thời Napoleon, nhiều gia đình Châu Âu bắt đầu lên đường sang Mỹ. Tính năng động và thoáng mở của xã hội Mỹ là sức hút đầu tiên. Sau Châu Âu, đến lượt nhiều gia đình Châu Á cũng đến Mỹ (tạo ra những khu phố Tàu như thấy hiện nay). Như trong ý nghĩa phổ biến về “Giấc Mơ Mỹ,” bất kỳ ai cần cù, quyết chí học và có gan làm giàu gần như chắc chắn sẽ được toại nguyện ước mơ đổi đời.
Có rất nhiều ví dụ về “Giấc Mơ Mỹ.” Andrew Carnegie là một trong số đó. Sinh tại Scotland trong gia đình với bố làm nghề dệt tay, Carnegie lớn lên trong cảnh gia đình giật gấu vá vai và đong gạo từng bữa. Sự xuất hiện của máy dệt khiến gia đình Carnegie thêm lận đận. Cuối cùng, bố Carnegie quyết định đến Mỹ, sau khi bán tất cả tài sản khiêm tốn và vay thêm 20 bảng Anh. Tháng Năm, 1848, gia đình Carnegie đến New York và bố Carnegie xin làm việc tại một nhà máy bông vải.
Andrew Carnegie cũng phải đi làm, với lương $1.2/tuần. Năm 1851, Carnegie làm người phát điện tín cho Ohio Telegraph Co với mức lương $2.5/tuần. Tự học kỹ thuật điện tín, Carnegie sau đó được công ty hỏa xa Pennsylvania Railroad Co thuê với lương $4/tuần (lúc này Carnegie 18 tuổi). Lần lần, Carnegie được bổ nhiệm giám sát khu vực Pittsburgh. Dành dụm từng xu, năm 1864, Carnegie bắt đầu đầu tư số tiền tiết kiệm $40,000 vào nông trại Storey (Pennsylvania).
Khi Nội Chiến Mỹ bùng nổ, Carnegie được ông chủ công ty Pennsylvania Railroad Co (Thomas A. Scott, lúc đó là thứ trưởng Bộ Chiến Tranh phụ trách vận chuyển quân sự) đưa lên Washington, DC với vai trò giám sát hệ thống hỏa xa quân đội và hệ thống điện tín chính phủ. Cuộc Nội Chiến Mỹ giúp nhiều ngành công nghiệp phát triển nhanh, trong đó có công nghiệp sắt thép.
Triển vọng công nghiệp thép không lọt khỏi quan tâm Carnegie. Dùng tất cả vốn liếng, Carnegie đầu tư vào ngành thép. Và đến cuối thập niên 1880, công ty Carnegie Steel đã trở thành nhà sản xuất gang, than cốc và thanh ray hỏa xa lớn nhất thế giới! Ở giai đoạn đỉnh cao sự nghiệp, Carnegie là người thứ hai giàu nhất thế giới, chỉ xếp sau vua dầu lửa John D. Rockefeller (cũng thuộc thành phần di cư từ Pháp – hoặc Ðức, như một số tài liệu ghi). Nước Mỹ đem lại cơ hội và mở cửa đón những người như Andrew Carnegie và cũng chính những điển hình Andrew Carnegie đã đem lại thịnh vượng cho nước Mỹ ngày nay. Tuy nhiên, như nhiều phóng sự gần đây, “Giấc Mơ Mỹ” thời nay dường như khó đạt được…
Ai đang phá nát “Giấc Mơ Mỹ”
Tính ổn định trong nghề nghiệp trong xã hội Mỹ, theo Griff Witte (Washington Post), trở nên ngày càng bất an. Bi kịch lên voi xuống chó xảy ra như cơm bữa. Không ít người lao động Mỹ không biết chắc đời sống mình an toàn đến chừng nào. Trình độ và bằng cấp đại học cũng không hứa hẹn.
Theo David R. Francis (Christian Science Monitor), gần 1/5 gia đình Mỹ hiện có giá trị tài sản là zero và vài trường hợp thậm chí còn nợ nhiều hơn những gì mình sở hữu. “Tính ổn định trong thu nhập đã giảm trong 20 năm qua,” theo Bhashkar Mazumder, nhà kinh tế thuộc Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Chicago (Federal Reserve Bank of Chicago).
Từ 1950-1980, thế hệ Mỹ sau thường thành công hơn thế hệ trước. Bố mẹ thường thấy con cái họ thành đạt hơn. Bây giờ, cần đến 5-6 thế hệ để xóa bớt khoảng cách giữa thành phần nghèo và lớp trung lưu. Ảnh hưởng từ chính sách là một phần nguyên nhân cho thái độ bi quan về “Giấc Mơ Mỹ.”
Donald Trump luôn hứa hẹn về một sự bùng nổ kinh tế ngay sau khi ông trở lại Tòa Bạch Ốc, hồi sinh “Giấc Mơ Mỹ” và sẽ tạo ra bốn năm thịnh vượng “chưa từng có.” “Tiền lương của các bạn sẽ cao hơn, đường phố của các bạn sẽ an toàn và sạch sẽ hơn, cộng đồng của các bạn sẽ giàu có hơn và tương lai của các bạn với tư cách là người Mỹ sẽ tốt hơn nhiều so với trước khi tôi nhậm chức,” Trump phát biểu trong cuộc vận động tranh cử cuối cùng tại Grand Rapids, Michigan. “Bởi vì đây sẽ là thời kỳ hoàng kim của nước Mỹ.”
Tuy nhiên, giọng điệu của Trump đã thay đổi đáng kể gần đây, khi đề cập đến sự “hy sinh” và “giai đoạn quá độ” cho đến khi chính sách thuế quan của ông mở đường cho “một sự bùng nổ.”
Trump đã nói về “nhu cầu” nước Mỹ phải “uống thuốc” trước khi có thể “khỏe” trở lại. “Đây là giai đoạn chuyển tiếp,” Trump nói trong chương trình “Meet the Press” của NBC ngày 4 Tháng Năm. “Tôi nghĩ chúng ta sẽ làm rất tốt… Tôi chỉ muốn nói rằng họ (người dân Mỹ) không cần phải có 30 con búp bê. Họ có thể chỉ có ba con. Họ không cần phải có 250 cây bút chì. Họ có thể chỉ có năm cây.”
Toàn cảnh, người Mỹ ngày càng hoài nghi về khái niệm “Giấc Mơ Mỹ.” Theo khảo sát của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew năm 2024, 41% người Mỹ cho biết giấc mơ không còn khả thi nữa và 6% nói rằng giấc mơ không bao giờ khả thi. Bất bình đẳng thu nhập ở Mỹ đã tăng đáng kể. Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội cho biết 10% người giàu nhất nước Mỹ đang kiểm soát gần 60% tài sản quốc gia, trong khi “một nửa dưới” chỉ nắm 6% (Newsweek ngày 9 Tháng Năm).
Một phóng sự của Vanity Fair thuật vài câu chuyện điển hình cho thấy giấc mơ Mỹ đang vỡ vụn như thế nào. Ông Greg Dillon, 49 tuổi, sống tại Marietta thuộc bang Georgia, là nhà tư vấn nghề nghiệp. Ông từng tình nguyện làm việc tại những trung tâm giới thiệu việc làm thuộc giáo hội để giúp người xin việc điền tờ khai và tư vấn chiến lược tìm việc. Bây giờ, chẳng ai có thể tư vấn để giúp ông không thất nghiệp! Vào ngày trước sinh nhật lần thứ 49, Dillon bị sa thải khỏi Forum Co., lần mất việc thứ hai trong 18 tháng…
Trả lời một cuộc phỏng vấn (“What Has Happened to the American Dream?” The New York Times ngày 3 Tháng Năm, 2025), Malinda Burke, 40 tuổi, ở Raleigh (North Carolina) nói, “Tôi có cảm giác như nó đang tuột khỏi tầm tay.”
Vài ngày trước Lễ Tạ Ơn, Malinda Burke “mất job.” Trong nhiều tháng tìm việc làm, đặc biệt trong một thị trường đột nhiên tràn ngập nhân viên liên bang thất nghiệp, Burke phải dùng tiền tiết kiệm hưu trí để trả tiền nhà và khoản nợ sinh viên. Lần đầu tiên trong đời, Burke bắt đầu hoang mang về cái gọi là “Giấc Mơ Mỹ.”
“Tôi luôn nghĩ rằng nếu làm việc đủ chăm chỉ, tôi có thể đạt được ‘Giấc Mơ Mỹ.’ Tôi đã có thể tự mua được nhà… Và rồi trong chớp mắt, tôi nghĩ, ‘Ôi trời, nếu tôi mất nhà thì sao?’… Tôi thuộc tầng lớp trung lưu vốn ngày càng bị thu hẹp. Tôi nghĩ hầu hết chúng ta đều muốn có một cuộc sống thoải mái, nhưng điều đó thực sự khó khăn trong thời buổi ngày nay…”
Năm 1941, Henry Luce (người sáng lập tờ Time) tung ra bài bình luận nổi tiếng The American Century trên tạp chí Life với nội dung rằng nước Mỹ không nên đứng ngoài lề Thế Chiến Thứ II mà nên dùng sức mạnh mình để hoằng dương “lòng yêu tự do, sự công bằng trong tận dụng cơ hội, truyền thống độc lập tự chủ và thái độ hợp tác.” Luce cũng đề nghị “Giấc Mơ Mỹ” cần được sử dụng như một cách để quảng bá lối sống Mỹ, thứ mà những quốc gia phi dân chủ nên noi theo.
Gần như trong cùng thời gian, trong diễn văn Thông Điệp Liên Bang năm 1941, Tổng Thống Roosevelt cũng gián tiếp mở rộng khái niệm “Giấc Mơ Mỹ” với việc đưa ra “bốn sự tự do tối cần thiết cho con người” mà nước Mỹ thề sẽ chiến đấu giành cho được đến cùng, gồm: Tự do ngôn luận; Tự do tôn giáo; Tự do yêu thích và Tự do sợ hãi. Bây giờ, nước Mỹ chỉ còn lại “Tự do sợ hãi,” sợ đủ thứ, và nỗi sợ đến từ chính những kẻ luôn mồm nói nước Mỹ sẽ lại thịnh vượng và “Giấc Mơ Mỹ sẽ hồi sinh.” [kn]