Nhà văn Doãn Quốc Sỹ vừa qua đời ở Cali tuổi 103

Le Thanh Hoang Dan

Được tin nhà văn Doãn Quốc Sỹ vừa qua đời ở Cali tuổi 103, thành thật chia buồn cùng gia đình, và đại gia đình Sư Phạm Sài Gòn. Chúng tôi dạy trường này cùng một thời, trước năm 1975.

“Doãn Quốc Sỹ (17 tháng 2 năm 1923), còn được biết đến với tên Doãn Quốc Sĩ, là một nhà văn miền Nam Việt Nam.

Ông sinh ra tại tỉnh Hà Đông, miền Bắc Việt Nam, quê ở làng Hạ Yên Quyết (tên Nôm gọi là làng Cót) thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (về sau thời kỳ 1946-1954 đổi thành xã Hạ Yên Quyết thuộc quận Cầu Giấy, đại lý Hoàn Long, ngoại thành Hà Nội; ngày nay thuộc quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội).

Năm 1954, ông di cư vào Nam và sống ở Sài Gòn nơi ông thành lập nhà xuất bản Sáng Tạo cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và những người khác, đồng thời cho ra đời tạp chí văn chương cùng tên Sáng tạo có nhiều ảnh hưởng đương thời…

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Khu rừng lau, một trường thiên tiểu thuyết gồm 4 tập: Ba sinh hương lửa (1962), Người đàn bà bên kia vĩ tuyến (1964), Tình yêu thánh hóa (1965), và Những ngả sông (1966).

Theo Lê Văn, đặc phái viên Việt ngữ của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, trong một cuộc phỏng vấn ông, có dẫn chuyện rằng “Ba Sinh Hương Lửa người ta thường ví như những tác phẩm lớn của Nga như Chiến tranh và hòa bình” trong đó nội dung mô tả lại những cảm xúc đớn đau của một thế hệ thanh niên mới lớn tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng sau đó phát giác ra mình đã bị lợi dụng như công cụ đấu tranh giai cấp của những người cộng sản và “có lẽ chính vì thế mà anh đã bị cộng sản bỏ tù khi họ khi chiếm được miền Nam”

Sau năm 1975, ông bị nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tạm giam nhiều lần vì tội “viết văn chống phá cách mạng”, tổng cộng là 14 năm. Ông có tên trong danh sách những tên “biệt kích văn hóa”, bị bắt trong chiến dịch khởi động ngày 3 tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, cùng hàng trăm nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, nhân sĩ miền Nam bị xếp hạng “phản động”: Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Nhã Ca, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hữu Hiệu, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Vĩnh Lộc, Trịnh Viết Thành, họa sĩ Chóe, Như Phong Lê Văn Tiến, linh mục Trần Hữu Thanh, linh mục Đinh Bình Định, thượng tọa Thích Huyền Quang… Ông được phép di cư sang Hoa Kỳ vào năm 1995. Hiện nay ông sống tại Houston, Texas từ khi sang định cư tại Hoa Kỳ.

Ông là tác giả của khoảng 25 cuốn sách. Chuyện ngụ ngôn của ông có tựa đề Con cá mắc cạn đã được dịch ra tiếng Anh (The Stranded Fish) và có trong sách Việt Nam: bạn đồng hành văn chương của một du khách (Vietnam: A traveler’s literary companion) do John Balaban và Nguyễn Quí Đức biên soạn.” (Wikipedia)

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo


 

 Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại – 50 Năm Nhìn Lại – Vĩnh Chánh

Kimtrong Lam

BS Vĩnh Chánh

Sau nhiều làn sóng di cư rời khỏi Việt Nam, ngay trước ngày 30 tháng 4, 1975 và tiếp tục về sau, qua các cuộc di tản, vượt biên vượt biển, Đoàn Tụ Gia Đình, Ra Đi Có Trật Tự ODP, Tái Định Cư Nhân Đạo HO, Chào đón Con Lai qua nghị định American Home Coming Act, rồi về sau với di dân hợp pháp, di dân kinh tế…cộng đồng người Việt tỵ nạn CS ở Hải Ngoại lớn dần, mạnh dần, qua những nỗ lực quả quyết từ bàn tay trắng đạt được thành công vượt bực. Họ và các thế hệ tiếp nối đã không ngừng tích cực hội nhập vào xứ sở tạm dung đã cho họ cơ hội, đóng góp tài năng trí tuệ, văn học nghệ thuật, chính trị xã hội trong khi vẫn cố gắng duy trì văn hóa quê hương. Sự lớn mạnh trong 50 năm vừa qua của cộng đồng VN là một trang sử kiêu hùng, là niềm kiêu hãnh của đa số dân chúng từng sống tại Miền Nam Việt Nam, viết lên được ý chí và quyết tâm gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, như tinh thần hiếu học, giáo dục gia đình, tính siêng năng, kỷ luật có trên nhường dưới, tình đoàn kết cộng đồng, tôn trọng lẫn nhau trong xã hội. Bên cạnh, sự dung hòa thiết thực và dễ dàng chấp nhận giữa văn hóa gốc và văn hóa nước tạm dung đã đóng góp phần quan trọng trong hội nhập cho cộng đồng người Việt tại Hải Ngoại.

Trong phạm vi hạn hẹp của hiểu biết, tôi xin chú trọng bài viết nhiều về cộng đồng người Việt tại Mỹ, hơn là với cộng đồng người Việt sống tại các nước Canada, Âu Châu hay Úc Châu. Điều này cũng dễ hiểu khi có đến 2.4 triệu người Việt sống tại Mỹ, so với khoảng 280 ngàn tại Canada, 400 ngàn tại Pháp, 335 ngàn tại Úc, 219 ngàn tại Đức (mà đa số từ Đông Đức qua), vài chục ngàn tại các nước khác như Bỉ, Hà Lan, Anh, Na Uy, Thụy Điển và …

Cho dù hiện tại, người Việt Hải Ngoại theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng cần phải khẳng định căn cước chung của tất cả người Việt rời khỏi Việt Nam là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS. Và ngay từ đầu, chính vì mẫu số chung tỵ nạn CS, có sẵn căn bản tôn tri trật tự của một xã hội nhân bản qua giáo dục từng trân trọng nhân phẩm, tư cách con người, truyền thống gia đình, nên người Việt Hải Ngoại dễ dàng thông cảm, chỉ dẫn cho nhau, giúp nhau tìm nơi ăn chốn ở, rồi chỉ cho nhau bất cứ công việc gì để nuôi sống gia đình, tìm trường lo xây dựng tương lai cho con cháu qua học vấn, mở những cơ sở thương mãi chú trọng vào sở thích hay nhu cầu của đồng hương, tập hợp với nhau thành nhóm nhỏ, hội đồng hương, hội thân hữu đồng môn hay đồng nghiệp – đơn cử Hội Y Sĩ VN tại Canada, Hội đầu tiên có tổ chức bình diện thế giới tự do, mở màn cho các hội chuyên nghiệp có tầm vóc quốc tế về sau – hội đoàn các cựu quân nhân, rồi từ từ mới thành ra được một cộng đồng người Việt Hải Ngoại lớn mạnh theo thời gian. Người Việt thường có khuynh hướng tụ tập sinh sống gần nhau, nên các khu thương mãi, siêu thị, các phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, dược phòng, văn phòng luật sư, cùng các dịch vụ đi kèm, các quán rồi các nhà hàng sang trọng to lớn xuất hiện dần với ẩm thực Việt Nam, trong các khu vực thương mãi xung quanh Little Saigon, Quận Cam, trung tâm thương mãi ở Houston , Dallas, Austin, San Jose; trung tâm Eden và Little Saigon, Arlington, Virginia; ở Montreal,Vancouver, Toronto, Ontario, Alberta; ở Sydney, Melbourne, Perth, Brisbane; quận 13 tại Paris; Cha mẹ lại được khuyến khích cho con học thêm tiếng Việt tại các trung tâm cộng đồng tự nguyện dạy thêm tiếng Việt với mục đích gìn giữ văn hóa cổ truyền và ngôn ngữ Việt …

Năm qua năm, cộng đồng người Việt lớn dần, mạnh dần, thế hệ thứ nhất ổn định, an cư lạc nghiệp. Họ đã sống qua những cố gắng phi thường, chịu khó chịu khổ, cần cù xây dựng học hỏi; những trái ngang trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, vì buồn tủi của kiếp tha hương, vì bao vấn nạn cam go trong mưu sinh, cùng với mất mát bỏ lại trên quê hương hay trên biển cả, những vết sẹo trên cơ thể, kể luôn cả chấn thương tâm lý không chảy máu… đã và đang từ từ dịu dần, nhường lại cho sự phấn chấn và biết ơn đất nước đón nhận mình, liên tục cho mình cùng gia đình và cộng đồng mình nhiều cơ hội vươn lên, hội nhập vào vườn hoa muôn sắc muôn màu, đa văn hóa, đa chủng tộc. Sau 50 năm, cây xương rồng nở hoa, cây trái cho hoa quả ngọt ngào; cứ thế, thế hệ thứ 2 và thứ 3 hội nhập mạnh mẽ vào xã hội nước sở tại. Không thiếu những thành công vượt bực, những thành đạt đáng ngưỡng mộ của các thế hệ thứ nhất, thứ hai rồi thứ ba trong cộng đồng VN tại Hải Ngoại, là niềm hãnh diện chung, không những của cộng đồng người Việt chúng ta, mà còn là sự trân trọng của chính quyền nước sở tại. Trong mọi ngành nghề. Từ hệ thống chính trị cấp liên bang, tiểu bang đến các quận hạt địa phương, từ hệ thống quân đội, giáo dục, kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, nhân văn xã hội, trong thương trường, báo chí, văn học nghệ thuật, kỹ nghệ giải trí, ca nhạc điện ảnh, thể dục thể thao… đâu đâu cũng có những tên tuổi Việt Nam, đâu đâu cũng có đề tài thành công của người Việt chia sẻ với người Việt để tạo thêm niềm tin cho nhau

Với sự kém hiểu biết, với trí nhớ kém dần, và khuôn khổ của bài viết, tôi biết mình sót tên của vô số nhân vật đồng hương có công đóng góp cho sự tiến mạnh của cộng đồng người Việt. Mong quý vị thông cảm.

Dưới đây là danh sách cắt ngắn của một số những danh nhân trong các lãnh vực nói trên:

*** Các chính trị gia, các quan chức trong chính phủ liên bang:

*Đinh Đồng Phụng Việt. Cựu thứ trưởng Tư Pháp nội các Tổng thống 43 George W. Bush, tác giả của Patriot Act năm 2001, giáo sư Luật Khoa ĐH. Georgetown

*Hùng Cao, được hành pháp đề nghị vào chức vụ thứ trưởng Bộ Hải Quân, đang chờ Thượng Viện chuẩn y.

*Joseph Cao, cựu dân biểu liên bang của TB Louisiana.

*Derek Trần, dân biểu liên bang, địa hạt 45th, tiểu bang California.

*Stephanie Murphy, cựu dân biểu liên bang địa hạt 7, tiểu bang Florida

*Đạt Trần, quyền bộ trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, tháng 1, 2020- tháng 2, 2021.

*Tony Phạm, Phụ tá bộ trưởng Bộ Home Land Security, và từng là quyền giám đốc US Immigration & Customs Enforcement.

*Giao Phan, giám đốc điều hành NAVSEA, đồng chức với một đô đốc 3 sao của Hải Quân Hoa Kỳ, điều khiển 85 ngàn người, vừa quân sự vừa dân chính, trách nhiệm nghiên cứu, phát triển, mua sắm, bảo trì, thiết kế những tàu chiến, từ nhỏ cho đến lớn như các hàng không mẫu hạm cho Hải Quân Hoa Kỳ.

* Joe Nguyễn, thượng nghị sĩ TB Washington.

*Jacqueline Nguyễn, Thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Washington DC..

*Miranda Mai Du, thẩm phán tòa án liên bang vùng Nevada.

* Michele Ginda, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao về Public Diplomacy + Public Affairs.

*Danny Lam Nguyễn, thẩm phán tòa án Tối Cao của District of Columbia.

*J. Peter Phan, đại sứ gốc Việt đầu tiên, cho vùng Sahel Region của Africa.

*Dương Như Nguyện, thẩm phán Mỹ gốc Việt đầu tiên, Houston,Texas, cựu GS. Luật ĐH Denver.

*Nguyễn Lâm Kim Oanh, GS TS. Giáo Dục, nguyên giám đốc chương trình Ngôn Ngữ/hệ thống ĐH TB CA, rồi giám đốc Nha Ngoại Ngữ và giáo dục Quốc Tế Liên Bang, và cố vấn cao cấp cho tòa Bạch Cung về liên hệ đến người Á Châu. Hiện tại bà đang giữ chức GS Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Cao Cấp tại Hoa Thịnh Đốn.

*Đinh Hân, giám đốc kỹ thuật và giao thông của Tổng Nha Bưu Điện Hoa Kỳ, người đưa ra và hoàn tất hệ thống xe thư chạy bằng điện, giải thưởng Giao Thông cao quý của Tổng Thống George W. Bush. Ts. Hân là em trai của Bs. Quân Y Nhảy Dù Đinh Hà.

*Phan Quang Tuệ, thẩm phán Tòa Di Trú liên bang ở San Francisco. Ông là con trai của Phó Thủ Tướng Phan Quang Đán.

*Nguyễn Trọng Nho, cựu thẩm phán tòa án Thượng Thẩm, quận Cam, California.

*Bs. Philipp Roesler, nguyên là 1 bác sĩ ngành giải phẫu lồng ngực, là phó thủ tướng kiêm bộ trưởng kinh tế của nước Đức khi ở tuổi 38.

*Ngô Thanh Hải, Thượng nghị sĩ liên bang, Canada.

*Hoàng Mai, dân biểu liên bang vùng Montreal, Canada.

*Hiến Văn Lê, Thống Đốc của South Australia.

*Tại thành phố Brimbank với khoảng 2 trăm ngàn dân, cách Melbourne chừng mười cây số, năm 2024, có đến 4 nghị viên thành phố là người Việt trên 11 nghị viên, lại toàn là phụ nữ. Như sau: Kim Thiên Trương, Thùy Đăng (mới 25 tuổi nhưng giữ chức thị trưởng), Lucy Nguyễn và Duyên Anh Phạm.

***Các chính trị gia, thị trưởng của các quận hạt địa phương và của tiểu bang, như:

Tony Lâm, thị trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên của thị xã Westminster, Quận Cam, Janet Nguyễn, Thượng Nghị Sĩ (TB CA), Văn Trần, Dân biểu (TB CA); Hubert Võ (dân biểu TB. Texas), Hoan Hùng (dân biểu TB. Illinois), Hoàn Nguyễn (dân biểu TB. Utah), John Trần (thị trưởng Rosemead, CA), Bao Nguyễn (thị trưởng Garden Grove, CA), Helen Trần (thị trưởng San Bernardino, CA), Michael Vu (thị trưởng Fountain Valley, CA), Richard Trần (thị trưởng Milpitas, CA), Andrew Võ (supervisor của OC, CA)…

*** Các tướng lãnh trong quân đội Hoa Kỳ

*Thiếu tướng Lương Xuân Việt.

*Thiếu tướng LapThe Chau Flora, Vệ Binh Quốc Gia

*Thiếu tướng William H. Seedy, TQLC

*Phó Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn, mà toàn gia đình ông bị VC thảm sát trong Mậu Thân 1968.

*Chuẩn Tướng Danielle Ngô, Công Binh

* Phó Đề Đốc Vũ Thế Thùy Anh, Dịch vụ Y tế Công Cộng, Hải Quân

* Chuẩn Tướng John R. Adwards, Không Quân

Tính cho đến tháng 9, 2024 có trên 105 sĩ quan Cấp Đại Tá, cả nam lẫn nữ, trong các quân binh chủng phục vụ trong Quân Đội Hoa Kỳ. Không tính 57 vị đã hồi hưu. Mà trong đó Y Sĩ Đại Tá Nguyễn Dương, tốt nghiệp YK Saigon trước 1975, từng là y sĩ trưởng một sư đoàn Thiết Giáp trong trận chiến Desert Storm tại Iraq; và có 2 chị em đều là Đại Tá Quân Y: Y Sĩ Đại Tá Mylene Trần Huỳnh (Không Quân), và Y Sĩ Đại Tá Appolo Trần (Bộ Binh), là con gái và con trai của vợ chồng Bs. Trần Đoàn (RIP, bác sĩ Quân Y Nhảy Dù VNCH) và Dược sĩ Phan Thị Nhơn, VA, Hoa Kỳ. Tại Pháp, còn có Đại Tá Trần Đình Vị. Ông gia nhập Quân Đội Pháp sau khi rời VN 1975 với cấp bậc Thiếu Tá Quân Lực VNCH, và hồi hưu với cấp bậc Đại Tá của Quân Đội Pháp. Tại New Zealand, có Bs. Nguyễn Quang Giao, nguyên Y Sĩ Thiếu Tá VNCH, nay là Phó Giám Đốc Nha Quân Y của Tân Tây Lan.

*** Nghiên cứu, Khoa Học, Giáo Dục:

Về nghiên cứu, nhiều nhà khoa học người Việt đang làm việc tại các trường đại học và viện nghiên cứu uy tín tại Mỹ. Họ tham gia vào các nghiên cứu khoa học tiên tiến trong các lĩnh vực như khoa học máy tính, kỹ thuật điện, vật liệu, và y sinh học, tạo ra những đột phá và phát minh mới.

Trong giáo dục, nhiều người Việt Nam đang giảng dạy tại các trường đại học và cao đẳng ở Mỹ. Họ truyền đạt kiến thức và kỹ năng cho thế hệ tương lai, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghệ cao, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành này.

Sau đây là danh sách ngắn của các khoa học gia, các giáo sư cùng các nghiên cứu gia tên tuổi:

*Eugene Trinh Trịnh Hữu Châu, tiến sĩ Vật Lý đại học Princeton, chuyên về Vật Liệu Học (Material Sciences), trước đó học ở CalTech, là phi hành gia NASA gốc Việt đầu tiên bay vào không gian với chuyến bay STS-50 (Columbia Space Shuttle). Ông là nhân viên cao cấp và trọng yếu của cơ quan hàng không và không gian quốc gia tại Washington DC và Jet Propulsion Lab, Pasadena California, giáo sư đại học California Institute of Technology (CalTech).

*Nguyễn Xuân Vinh, tiến sĩ Toán Học (Pháp), tiến sĩ Hàng Không Không Gian đại học Colorado, những nghiên cứu của ông tác động hữu hiệu trong việc sắp đặt quỹ đạo cho phi thuyền (optimization). Ông được giải thưởng Dirk Brouwer vinh danh những thành tựu trong chuyên môn về hàng không, không gian. Ông đã là Đại Tá cựu tư lệnh không quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cuốn sách “Đời Phi Công” với bút hiệu Toàn Phong đã là động lực cho rất nhiều thanh niên gia nhập không quân. Ông là giáo sư Emeritus ĐH Michigan.

*Trịnh Xuân Thuận, tiến sĩ Vật Lý Thiên Văn đại học Princeton, trước đó theo học CalTech, nổi tiếng không những trong chuyên môn Vật Lý Thiên Văn (Astrophysics), mà còn trong văn học, diễn giải những kiến thức chuyên môn qua văn chương, được UNESCO vinh danh, đoạt giải thưởng Prix Mondial Cino Del Duca, có huân chương Chevalier của Pháp. Nghiên cứu về tiến hóa các ngân hà, và hình thành sao, góp phần vào hiểu biết vũ trụ. Hiện tại, ông là GS ĐH Virginia.

*Ngô Bảo Châu, tiến sĩ Toán Học Université de Paris, trước đó Ecole Normal Superieure. Ông lãnh giải thưởng Field Medal, được coi như cao nhất về Toán Học, được tuần báo Time vinh danh, được giải MacCarthur Fellows Program ($800,000 tổng cộng trong 5 năm, phát 3 tháng một lần) cho những công trình nghiên cứu tự ý chọn lựa. Giáo sư môn Toán Học đại học Chicago.

*Jane Lưu Lệ Hằng, tiến sĩ Vật Lý Thiên Văn MIT, trước học Stanford, có thực tập tại Jet Propulsion Lab của NASA, có tên trên bản đồ Thiên Văn với Asteroid 5430LUU, đánh dấu sự dầy công nghiên cứu về vòng đai Kuiper ở ngoài cùng của Thái Dương Hệ (Solar System). Có thêm giải thiên văn cao quý Kavli Prize. Đã là giáo sư của MIT và đại học Leiden (Hòa Lan), hiện là khoa học gia trong Lincoln Lab của MIT, 1 trong 5 trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu của Hoa Kỳ.

* Lê Duy Loan, kỹ sư tốt nghiệp đại học Austin, Texas, senior Vice President gốc Việt đầu tiên của ngành kỹ thuật và quản trị của Texas Instruments. Được mời nói chuyện về quản trị và lãnh đạo tại các đại học danh tiếng như Westpoint Academy của quân đội Hoa Kỳ, giúp cho nhiều sinh viên xuất sắc theo học các đại học hàng đầu của Mỹ.

*Nguyễn Cường Charles, tiến sĩ điện tử đại học George Washington, DC, trước học ở Konstanz, Đức Quốc. Khoa trưởng gốc Việt đầu tiên ở một đại học có tầm vóc quốc gia (Catholic University of America), trong vòng 16 năm đã đưa vị trí của phân khoa kỹ sư (school of engineering) của trường này lên nhiều bậc cao hơn, có những nghiên cứu về tự động hoá (robotics) với Goddard Space Flight Center NASA, đại học này đã thiết lập giải thưởng Dean Charles Cuong Nguyen Leadership Award, phát thường niên cho các sinh viên ngành kỹ sư, ngoài ra ông là chủ bút nhiều tập san chuyên môn về tự động hóa (Automation). Hiện là dean emeritus.

*Võ Đình Tuấn, tiến sĩ học viện kỹ thuật Zuerich (Thụy Sĩ), trước đó Ecole Polytechnique Lausanne. Ông chuyên khoa về Photonics, sự chuyển động, tuần hoàn, vận hành của ánh sáng (physical science of light).Ông được xếp hạng là nhân vật số 43 trong 100 nhân tài xuất chúng trong khoa học. Ông được bầu vào hàn lâm viện khoa học các sáng chế gia (National Academy of Inventors). Là giáo sư của đại học Duke trong khu Research Triangle ở tiểu bang North Carolina, một trung tâm tập trung nhiều cơ sở khoa học hàng đầu của Mỹ.

*Thục Quyên Nguyễn, TS. GS Hóa Học của UC Santa Barbara. Bà ở trong danh sách top 1% các khoa học gia có ảnh hưởng lớn nhất đến thế giới.

*Đàm Thanh Sơn, tiến sĩ Vật Lý Học Viện Nghiên Cứu Nguyên Tử (Institute for Nuclear Research, Moscow, Russia), ông là vật lý lý thuyết (theoretical physicist) xuất sắc, được bầu vào hàn lâm viện quốc gia về khoa học (National Academy of Sciences), được đại học Chicago phong danh hiệu hiếm hoi là university professor (cho tới giờ chỉ có khoảng 30 người được đại học này phong), được giải MacCarthur Fellows Program ($800,000 tổng cộng trong 5 năm, phát 3 tháng một lần) cho những công trình nghiên cứu tự ý chọn lựa. Giáo sư môn Vật Lý đại học Chicago.

*Trương Công Hiếu, kỹ sư, Canada, phát mình cách in màu trên tiền đúc bằng kim loại, giải thưởng của Nữ Hoàng Anh.

*Đỗ Đức Cường, chuyên viên cao cấp ngân hàng Mỹ, được biết đến như là cha đẻ của máy ATM.

*Dương Nguyệt Ánh, khoa học gia trách nhiệm phát triển vũ khí Thermobaric cho Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Một phụ nữ chiếm nhiều cảm tình của người Việt hải ngoại.

*Võ Tá Hân. Tốt nghiệp MIT. Ngân hàng gia quốc tế (Bank of Montreal, Singapore Finance, UBS), CEO (Tập đoàn công ty bất động sản, khách sạn, kỹ nghệ Hong Leong Singapore) Thành viên Board of Trustees (Đại học Quản lý Singapore) & Board of Directors (Singapore Arts House – Bộ Văn Hóa Singapore). Sống và làm việc ở Á châu hơn 30 năm. Được xem như một trong những nhân vật ngoại quốc quan trọng đã giúp đảo quốc Singapore phát triển mạnh về kinh tế. Sáng lập MIT Club of Singapore và Singapore Classical Guitar Society. Khi về hưu tại Nam Cali. là CEO của Trung Tâm Y Tế Nhân Hoà, đưa Trung Tâm đạt tiêu chuẩn liên bang và thành lập chương trình MD100 giúp 100 sinh viên Mỹ gốc Việt vào trường Y. Ông còn được biết đến như một nhạc sĩ với những nhạc phẩm về Huế và về đạo Phật rất nổi tiếng. Từ nhiều năm qua, ông mở lớp dạy guitar cho những người cao niên.

*Nguyễn Sơn Bình, GS. TS Hóa Học tốt nghiệp Ca. Tech, và giảng dạy tại ĐH Northwestern. Có 30 bằng sáng chế trong nhiều lãnh vực và nhiều giải thưởng cao quý của National Science Foundation Career.

*Mya Lê Thái, nữ TS UC Irvine với phát minh loại pin Nanobattery, có thể xử dụng đến 400 năm.

*Nguyễn Trọng Hiền, TS từ Princeton, trong lãnh vực nghiên cứu bức xạ nền vũ trụ. Khi làm việc cho NASA, ông có nhiều đóng góp lớn vào nghiên cứu Nam Cực.

*Vũ Thành Long, Định cư tại Mỹ năm 1980, lấy xong 2 bằng cử nhân cơ khí & kỹ thuật hàng không không gian, tiếp tục tốt nghiệp tiến sĩ. Một thành viên fellow cao cấp của cơ quan NASA.

*Nguyễn Viết Kim, du học Đức Quốc từ thập niên 60, định cư về sau tại Mỹ và tốt nghiệp Tiến Sĩ. Phục vụ NASA và NSA (National Security Agency) cho đến khi hồi hưu. Đáng ngưỡng mộ hơn nữa ông từng là một con người khiêm nhượng và từng là gà trống nuôi 3 con thành đạt.

* Amanda Nguyễn, người phụ nữ trong năm 2022 của tuần báo Time. Một hoạt động viên cho nhân quyền và là phi hành gia trong chuyến bay tiểu quỹ đạo (sub orbital) Blue Origin NS-31 của ông Jeff Bezos, vào ngày 14 tháng 4, 2025, cùng với 5 phụ nữ khác.

*Kelly Nguyễn, nữ TS Hóa Học, Đại Học Australia, vinh danh và nhận nhiều giải thưởng qua nghiên cứu làm chậm tiến trình Lão Hóa.

*Nguyễn Cẩm Vân: tốt nghiệp hạng nhì Naval Academy, bác sĩ y khoa, ĐH Stanford, BS. phi hành ở Pensacola, chuyên khoa ĐH. Pennsylvania. Phục vụ tại tổng y viện Walter Reed và trường đại học quân y quân lực Hoa Kỳ. Cấp bậc HQ Đại Tá (Navy Captain).

*Lê Tự Quốc Thắng, tiến sĩ Toán. Từng đạt huy chương vàng Olympic toán học quốc tế (IMO) lần thứ 23 tại Budapest, năm 1982, với số điểm tuyệt đối 42/42. Cựu học sinh trường Quốc Học Huế. Hiện là GS Học Viện Công Nghệ TB Georgia.

*Ông Huy, GS Emeritus, Khoa trưởng Dược Khoa, Đại Học Montreal, Canada. Ông Huy là con rể của GS YK Nguyễn Hữu, YK Saigon.

*Bùi Tiến Đài, GS TS Điện Toán và Phần Mềm, Khoa trưởng Đại Học Concordia, Montreal, Canada

*Nguyễn Hữu Trâm Anh, Bs. gây mê, là trưởng ban gây mê cho cuộc ghép mặt người đầu tiên trên thế giới. Bs. Trâm Anh còn là chủ tịch Hội Y Sĩ VN tại Canada.

*Bs. Võ Văn Cầu, tốt nghiệp 1968 ĐH YK Huế, là Chủ Tịch và sáng lập viên của United Care Medical Group, một HMO nổi tiếng tại Orange County, CA, xử dụng trên 200 bác sĩ gia đình và hơn 300 bác sĩ chuyên môn gồm đủ mọi ngành. Bs. Cầu là một khuôn mặt lớn trong cộng đồng VN tại Quân Cam và là người đóng góp thường xuyên cho các công tác xã hội thiện nguyện.

*Bs. Nguyễn Ngọc Thạch, thành viên Hội YK Huế Hải Ngoại, thành viên của ban chấp hành của American College of Cardiology, của hội American Heart Association, fellow của Society of Cardiovascular Angiography & Intervention, và của Advanced International Cardiology, từng là thuyết trình viên quốc tế về Tim Mạch, khoa trưởng ĐH YK Tân Tạo, VN. Tác giả của Practical Hand book of Advanced Interventional Cardiology, đứng hàng thứ 3 được mua trên online, và sách được dịch qua tiếng Tàu và tiếng Việt.

Vĩnh Chánh

 


 

VÔ LIÊM SỈ – Chủ biên sách lớp 1 nhưng cho cháu nội mình học bên trời tây.

Xuyên Sơn

VÔ LIÊM SỈ

Sáng mắt ra chưa?

Chủ biên sách lớp 1 nhưng cho cháu nội mình học bên trời tây.

Dân VN quá dễ bị gạt từ anh hốt rác, cô kỹ sư, chị lao công, chú xe ôm, cô bác sĩ, cô/chú giáo viên….. cắm đầu mua sách dỏm cho con mà không dám lên tiếng… họ mới làm vậy được.

Gặp dân giãy chết là bị xách ra luận tội lâu rồi.

Tại sao GS-TS Nguyễn Minh Thuyết không dạy cháu Nội ông bằng chính bộ sách ông biên soạn, mà cho cháu Nội ông đi du học từ cấp I, để tỵ nạn giáo dục, từ tiền chia % bán sách?

Người đàn ông phía dưới là GS-TS Nguyễn Minh Thuyết, từng là đại biểu quốc hội, vừa qua là TỔNG CHỦ BIÊN bộ sách TIẾNG VIỆT 1 đầy tai tiếng mà ông Thuyết biện luận rằng sáng tạo, giáo dục thông minh cho con trẻ….

Ông là GS-TS tổng chủ biên, tại sao ông lại cho cháu nội ông đi tỵ nạn giáo dục từ cấp tiểu học tại Singapore, sau khi hết cấp một ông và gia đình lại cho cháu nội ông du học qua xứ giãy chết.

Tiền đâu các ông có nhiều vậy nếu không phải là do bóp cổ anh công nhân vệ sinh, chị bán hàng xén ký sinh trùng khắp nơi trên dải  đất gian nan khó nhọc hình chữ S này phải chắt chiu từng đồng để mua bộ sách lớp 1 cho ông và ban biên tập của ông ngồi mát, ăn bát vàng và có tiền gửi con cháu tỵ nạn giáo dục ở xứ giãy chết?

Đất nước này nghèo nàn và lạc hậu cũng vì những người như Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Công Khế, Nguyễn Thị Quyết Tâm… nói một đường làm một nẻo như quý vị.

Người dân VN trong nước và ngoài nước  nếu có lương tâm, hãy cùng nhau lên tiếng và đưa ra dư luận những hành động nói một đường làm một nẻo như trên.

PS:

Hình phía dưới ông khoe tiệc sinh nhật của cháu Nội ông ở Singapore trước khi lên đường đi nước khác du học, trong khi một bé gái khác bằng tuổi phải chầu chực bán từng tờ vé số sinh nhai.

KỸ SƯ TRANG.

Nguồn Fb Tấn Trần

Nguồn Nhật ký yêu nước


 

 NHÂN VIÊN NHÀ XÁC (2)-Đỗ Trí Hùng

Chau Nguyen

Đỗ Trí Hùng

1 –  Tôi là kẻ sợ ma nhưng vẫn liều lĩnh xin việc làm nhân viên trực nhà xác ở bệnh viện N, rồi đêm đầu tiên tôi đã sợ thế nào và cô bạn gái tên Huyền đến thăm để giúp tôi vơi đi nỗi sợ ra sao…

Và, chúng tôi đã ôm nhau, rồi hôn nhau, cú ôm hôn chứa chan tình yêu đó, xảy ra ngay trong sân … nhà xác bệnh viện, trong ánh sáng nhá nhem, trước sự chứng kiến của các hồn ma, và tôi tin, họ cũng vui vẻ chúc phúc cho tôi!

2 – Quay lại đoạn dở dang, khi Huyền đã về và tôi trở lại phòng trực, ở đó đã tụ tập 6, 7 người, họ chờ tôi về mở cửa nhà xác, và họ rất tức giận vì phải chờ lâu

Họ chính là bố mẹ, anh chị, vài cô gái bạn thân và ông lỏi “ bạn trai”, tức người yêu của cô gái kia…

Tôi vội thanh minh rồi mở cửa cho họ.

Họ vào, lật tấm khăn đậy xác chết lên và tất cả khóc rú, rất thê thảm. Cô bé hotgirl mới 19 tuổi, rất xinh đẹp, trong đêm tưng bừng gì đó, họ phóng xe máy tốc độ cao, vừa hò hét “ tự hào quá… bu ôi, tự hào hát mãi … bu ôi!”, thì xe lao thẳng gốc cây, cô gái vỡ toác thủ cấp, người bạn ngồi sau chấn thương sọ não nặng…

Hai bác sĩ thực tập lúc này quay ra, bảo tôi đang đứng ngơ ngẩn ở cửa ra vào:

– Anh cứ về phòng đi, kệ họ, anh đừng vào! Lát nữa hết giờ thăm, chúng tôi sẽ đưa xác chết vào ngăn lạnh, rồi báo anh sang khóa cửa là xong!

Tôi gật đầu, quay về phòng trực, cắm ấm điện đun nước pha trà, bật tivi nghe thời sự, tin kinh tế phát triển, văn hóa thành công…. cho đỡ sợ cảnh nhà xác

3 – Nước sôi, vừa châm vào ấm trà, rồi tráng chén chuẩn bị thưởng thức, thì một gã đàn ông xộc vào. Gã này tuổi ngoài 40, đi cùng nhóm người nhà xác chết, chính là tay “ hóa trang cho tử thi” đến để gặp đối tượng mà mình sẽ trang điểm…

Anh ta vừa cười nhăn nhở vừa chào tôi:

– Xin chào, có thuốc lá tớ xin điếu, lúc đi vội quá quên mang thuốc, mà vào phòng lạnh, nhìn xác chết một lúc … là thèm thuốc không chịu nổi!

Tôi có thuốc, nhân tiện vừa pha trà nên mời anh ta uống chén trà luôn thể. Anh hào hứng rít thuốc, rồi nhấp ngụm trà, rồi khoe:

– Tớ vừa nhận thỏa thuận miệng thôi, mai ký hợp đồng, mười triệu!

Tôi hơi choáng, vì 10 triệu thời những năm 199x to lắm, bèn hỏi:

– Trang điểm xác chết … được trả cao thế à?

– Đâu có, nếu chỉ trang điểm, oánh tý phấn bôi tý son, thì giá 500 ngàn thôi! Nhưng cô bé này sọ vỡ toác, mặt nát bét biến dạng, thì trang điểm con khỉ gì, tớ phải làm lại mặt cho cô ấy, gọi là … phục hồi giao diện nên giá là 10 triệu.

Tôi tò mò hỏi thêm về chuyên môn, rằng anh phục hồi mặt cho xác chết bằng chất liệu gì, dựa trên ảnh của nạn nhân hay sự miêu tả của người thân

Đang cơn hào hứng vì có trà thuốc, anh khoe tôi, chả cần giấu diếm, rằng chất liệu thì bột mì trộn thạch cao, rồi dựa theo ảnh chân dung mà làm ra cái khuôn, rồi đổ thạch cao trộn bột mỳ vào khuôn, sẽ cho ra sản phẩm là cái “ mặt nạ”, mặt nạ đó sẽ lắp vào thủ cấp của xác chết…

– Tuy nhiên, làm thế thì mất công lắm, vì căn cứ theo ảnh để làm khuôn là việc rất khó, phải tỷ mẩn mất ít nhất vài hôm cho nên tôi cứ làm sẵn vài cái khuôn….

– Khuôn làm sẵn? – Tôi kinh ngạc – Khuôn làm sẵn thì giống làm sao được?

– Hầu hết, những người trẻ tuổi như cô hotgirl này, khi sống chỉ mơ ước mình giống Kim Chin Su, ngay cả ước mơ của họ cũng giống nhau. Họ cố ăn mặc, trang điểm y chang thần tượng, giờ họ chết rồi, người nhà họ cũng muốn giúp họ thực hiện giấc mơ mà lúc sống họ chưa làm được. Vậy là, tôi chỉ cần làm ra cái mặt nạ Kim Chin Su, rồi đắp vào cho họ, cho nên, cứ đúc sẵn một cái khuôn, mười cô chết trẻ thì cả mười cô muốn được giống Kim Chin Su…

Nhân tiện, Kim Chin Su là ai tôi chả biết đâu!

4 – Về giấc mơ được giống Kim Chin Su của các hotgirl  thời của tôi, họ chỉ có cách bắt chước lối trang điểm và ăn mặc thời trang thôi…

Ngày nay, các bạn biết rồi, giấc mơ đó dễ thực hiện hơn, chỉ cần sang Hàn quốc và đem theo chừng 300 triệu

Vậy là lúc đi, những bậc phụ huynh tiễn con là Lê Thị Thảo Toét để 1 tháng sau, đón về một Kim Tea Hee, Kim Chin Su, Pắc Giun Kim .v.v.. gì đó, đến nỗi chính bố mẹ họ cũng không nhận ra con mình…

Gần đây, trên newfeed của tôi hiện một bài viết, kèm bức ảnh 3 hotgirl ngồi bên nhau, trong một ks sang chảnh, quả tút ngắn đại ý “ Chỉ phụ nữ mới đem hạnh phúc cho nhau”. Mới nhìn tôi tưởng họ là chị em … sinh 3, vì họ giống nhau kinh hoàng, giống đến từng milimet. Xem kỹ hóa ra họ chả liên quan gì đến nhau, bố mẹ ông bà họ cũng chả quen nhau. Họ chỉ làm lại mặt cùng đợt, cùng lò, cùng xuất xứ … mà thôi!

5 – Quay lại với chuyện anh chuyên gia trang điểm tử thi, anh kể rằng anh làm sẵn mấy cái khuôn, rồi cứ mỗi đợt bóng đá quê mình chiến thắng, hoặc ngày kỷ niệm, ngày … chẳng ngày gì cả!

Lớp trẻ cứ vui lên là đua xe, mà đua xe thì thể nào cũng vài mạng về giời…

Thế là anh lại nhận hợp đồng tơi tới, kiểu “ Con tôi nó muốn giống Kim Chi Sun” “ Con tôi muốn thành Pắc Cu Xoăn…” là anh lại tha hồ mà kiếm xèng…

Chúng tôi trò chuyện một lúc, anh chuyên gia khuyên tôi nên học thêm nghề của anh, chứ lương trông nhà xác chả được bao nhiêu, tôi cười bảo, trước hết tôi phải học để không còn sợ ma nữa, rồi đủ can đảm nhìn xác chết mà không vãi đái, rồi cuối cùng mới đủ can đảm sờ mặt xác chết, rồi tô son điểm phấn cho nó….

Chừng 30 phút sau thì tiếng khóc bên nhà xác cũng ngừng, rồi hai ông bác sĩ thực tập sang phòng tôi bảo tôi sang khóa cửa nhà xác.

Anh chuyên gia trang điểm cũng chào tôi rồi về.

Đêm ấy, trong giấc ngủ chập chờn, tôi mơ giấc mơ kỳ dị. Cô bé hotgirl nằm bên phòng lạnh bỗng trở dậy, sang bên này, ngồi ngay cạnh giường ngủ của tôi, mặt cô chính là mặt Kim Chi Sun, cô nói rằng cô chưa muốn chết. Tôi bảo chẳng ai muốn chết cả, nhưng chết rồi thì phải chịu thôi.

Tôi hỏi cô rằng, vì sao cô từ chối gương mặt cũ cha sinh mẹ đẻ của mình để lắp gương mặt người khác vào làm gì, vì mặt cũ của cô cũng rất đẹp cơ mà

Cô gái lại giải thích:

– Con người, anh biết đấy, là sinh vật … không bằng lòng, đầu tiên là không bằng lòng với gương mặt của mình, rồi không bằng lòng với bố mẹ mình, tiếp theo là không bằng lòng với xã hội, với chính quyền, bởi vậy, con người mới sáng tác ra cả một học thuyết triết học về “ Cải tạo xã hội”, mà cải tạo xã hội luôn bắt đầu bằng việc cải tạo … chính khuôn mặt mình, đúng không? Nếu con người biết bằng lòng, thì đã không có ngành phẫu thuật thẩm mỹ, không có các lớp dạy làm giàu, không có khát vọng vươn lên, và chẳng có … cuộc cách mạng nào sinh ra cả!

Tôi sửng sốt, sao một hotgirl lại có thể nói như triết gia vậy?

Rồi tôi chợt hiểu, ai chết rồi, cũng thành triết gia cả!

Đỗ Trí Hùng


 

21 tổ chức quốc tế thúc giục CSVN trả tự do cho Phạm Đoan Trang

Ba’o Nguoi-Viet

October 6, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Hai mươi mốt tổ chức quốc tế thúc giục các chính phủ trên thế giới áp lực buộc chế độ Hà Nội trả tự do vô điều kiện cho nhà tranh đấu, blogger Phạm Đoan Trang.

Các tổ chức này cùng đứng tên chung trong một bản kêu gọi gửi cho cộng đồng thế giới, gồm cả các chính phủ, vận động họ cùng đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN chấm dứt đàn áp bà Phạm Đoan Trang nhân dịp bà bị bỏ tù đã năm năm.

Logo của các tổ chức quốc tế thúc CSVN trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang nhân dịp bà bị bỏ tù đã năm năm. (Hình: CPJ)

Bà Phạm Đoan Trang, 47 tuổi, bị Công An CSVN bắt ở Sài Gòn ngày 6 Tháng Mười, 2020, đưa về giam tại Hà Nội. Hơn một năm sau, ngày 14 Tháng Mười Hai, 2021, bà mới bị đưa ra tòa kết án chín năm tù. Bà bị giam tại nhà tù An Phước thuộc tỉnh Bình Dương, nay khu vực này bị sáp nhập vào thành phố Sài Gòn.

Trước khi bị bắt, bà là một trong những blogger, nhà báo độc lập nổi tiếng tại Việt Nam. Các bài viết, phân tích thời sự xã hội rất sắc sảo của bà trên mạng xã hội được hàng trăm ngàn người theo dõi. Bà cũng là tác giả của một số quyển sách nổi tiếng như “Chính Trị Bình Dân,” “Cẩm Nang Nuôi Tù,” “Phản Kháng Phi Bạo Lực,” “Báo Cáo Đồng Tâm,”…

Bà từng được chính phủ Mỹ qua Bộ Ngoại Giao vinh danh là một trong những “Phụ Nữ Can Đảm” trên thế giới năm 2022 vì bà cổ võ nhân quyền, sự bình đẳng pháp luật cũng như quyền tự do phát biểu chính kiến tại Việt Nam. Bà từng bị Công An CSVN hành hung, đánh đập rất dã man nhiều lần đến mang thương tật nhưng không hề sợ hãi hay chùn bước trước bạo lực cường quyền.

Bà là một trong những sáng lập viên của tờ Luật Khoa tạp chí. Báo này hiện vẫn xuất bản trên mạng dù bà đang ở tù. Nhờ dùng ngòi bút đấu tranh không ngừng nghỉ, bà được tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF), Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) và một số tổ chức quốc tế khác vinh danh và trao tặng giải thưởng vì vận động quyền tự do báo chí, phát biểu.

Người ta thấy trong số 21 tổ chức đứng ra vận động đòi trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang có RSF, CPJ, PEN Ameriaca, PEN International, VCHR, AI (Amnesty International), Freedom House, Vietnam Human Rights Network…

“Bà Phạm Đoan Trang bị bỏ tù chỉ vì những gì bà làm trong tư cách của một nhà báo để rồi bị giam giữ tù đày trong những điều kiện sống tồi tệ,” lời kêu gọi của 21 tổ chức quốc tế viết.

Bà Phạm Đoan Trang tại phiên tòa sơ thẩm ngày 14 Tháng Mười Hai, 2021. (Hình: VNExpress)

Lời kêu gọi gửi cộng đồng quốc tế của 21 tổ chức viết rằng: “Bản án rất nặng mà CSVN áp đặt cho bà Phạm Đoan Trang cũng không thể xóa bỏ được cuộc đấu tranh cho tự do báo chí và quyền tự do thông tin tại Việt Nam.”

Bởi vậy “sau năm năm bị cầm tù, việc công nhận lòng can đảm phi thường và tinh thần làm báo nghiêm túc của bà quan trọng hơn bao giờ hết. Đã đến lúc cộng đồng quốc tế gia tăng áp lực để CSVN phải trả tự do cho bà.”

Trong khi bà còn bị giam giữ, họ kêu gọi cộng đồng quốc tế buộc CSVN phải bảo đảm sự an toàn, không được khủng bố tinh thần, đồng thời phải để bà được chữa trị đầy đủ các thứ bệnh và thương tật tại các cơ sở y khoa độc lập cũng như tham vấn với các luật sư riêng được bà lựa chọn.

Không những đòi trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang, các tổ chức trên còn kêu gọi cộng đồng quốc tế áp lực đòi CSVN thả tất cả các tù nhân luông tâm hiện cũng đang bị cầm tù như bà tại Việt Nam. (NTB) [kn]


 

Nguyễn Phương Hằng kiện 6 YouTuber: Hai bên rời tòa, ‘chưa ngã ngũ’

Nguyễn Phương Hằng kiện 6 YouTuber: Hai bên rời tòa, ‘chưa ngã ngũ’

Ba’o Nguoi-Viet

October 1, 2025

HOUSTON, Texas (NV) – Cả nguyên đơn và bị đơn trong vụ bà Nguyễn Phương Hằng kiện sáu YouTuber đều cảm thấy “vui vẻ” sau ngày điều trần đầu tiên của phiên tòa diễn ra tại tòa án Harris County ở Houston, Texas, hôm Thứ Ba, 30 Tháng Chín.

Theo đơn kiện, bà Nguyễn Phương Hằng, quốc tịch Cyprus, kiện sáu người ở Mỹ gồm Nghị Viên NamQuan Nguyễn của Westminster (California), ca sĩ Nguyễn Tiến Dũng (Daniel Trần), Luật Sư Hoàng Duy Hùng (Al Hoàng), Ava Hồ Trương (Mỹ Phụng), Thu Thương Đoàn, và Diệu Hiền T. Châu (Phương Anh Châu Diamond) tội phỉ báng vì những phát ngôn trên YouTube.

Bà Nguyễn Phương Hằng trước khi bước vào tòa án ở Houston. (Hình: Chụp từ màn hình YouTube Hoa Mộc Lan TV)

Xuất hiện trên YouTube của mình hôm Thứ Tư, 1 Tháng Mười, ông NamQuan Nguyễn và ông Nguyễn Tiến Dũng tiết lộ một số diễn tiến của phiên điều trần.

Nghị Viên NamQuan Nguyễn nói: “Mục đích của chương trình hôm nay là chúng tôi muốn hai người ở trong cuộc, trình bày một cách rất là trung thực, rõ ràng, tất cả những gì đã xảy ra ngày hôm qua, trong phiên tòa điều trần về đòi hỏi, yêu cầu của phía bên bà Nguyễn Phương Hằng là muốn những người YouTuber, sáu người YouTuber bị kiện, không được nói về bà nữa.”

“Bà ấy yêu cầu xóa những video mà bà muốn, mà những người YouTuber đã đăng tải trong thời gian qua,” ông NamQuan nói tiếp. “Đó là yêu cầu của bà. Và trong phiên tòa ngày hôm qua, người ta chỉ xử chuyện đó thôi, không có xử lan man qua các chuyện khác.”

Trước đó vài ngày, bà Hằng nhấn mạnh rằng khi đến Mỹ, bà “sẽ không trả lời phỏng vấn của bất cứ người nào làm báo đài ở Mỹ.”

Ông NamQuan tiếp: “Phiên đầu trần này chỉ lắng nghe hai bên – luật sư của bà Nguyễn Phương Hằng và luật sư của bên NamQuan, Tiến Dũng, và Mỹ Phụng – trình bày về lệnh tạm thời (temporary injunction) cấm những người YouTuber giống như NamQuan, Tiến Dũng, và Mỹ Phụng nói về bà Nguyễn Phương Hằng.”

“Chúng tôi sẽ đưa ra kết luận hoặc để cho quý vị tự kết luận ai thắng ai thua trong phiên tòa hôm qua, mà nguyên cả cộng đồng mạng xào xáo lên là tại sao bà Nguyễn Phương Hằng tuyên bố là bà thắng. Bên ủng hộ bà tuyên bố ăn mừng chiến thắng. Còn phía ủng hộ bên này, sáu người YouTuber, nói là bên này thắng. Trong những cái post (viết trên mạng xã hội) ngày hôm qua, NamQuan và Tiến Dũng chưa nói là mình thắng hay thua,” ông NamQuan tiếp.

Ca sĩ Nguyễn Tiến Dũng tiếp: “Trên post tôi chỉ ghi là ‘Mình được luật pháp bảo vệ quyền tự do ngôn luận.’”

Ông NamQuan tiếp: “Trên trang Facebook của mình, tôi không dùng chữ ‘chiến thắng’ nhưng trong phần trả lời các kênh YouTube bạn thì tôi có dùng chữ ‘chiến thắng.’”

Và vị dân cử của Westminster giải thích vì sao “chúng tôi” dùng chữ “chiến thắng” và “chiến thắng thuộc về ai.”

“Tu Chính Án số 1 về tự do ngôn luận đã giúp NamQuan và những người làm truyền thông chiến thắng trong phiên tòa hôm qua. Bây giờ tôi dùng chữ ‘chiến thắng.’ Tại sao như vậy? Đòi hỏi tạm thời của bà Hằng là muốn là bịt miệng những người YouTuber. Chỉ có một yếu tố đó thôi. Họ chỉ muốn NamQuan, Tiến Dũng, Mỹ Phụng và ba người còn lại không được nói bất cứ gì về những chuyện của Nguyễn Phương Hằng,” ông NamQuan nói.

Ca sĩ Nguyễn Tiến Dũng giải thích: “Chiến thắng này là chiến thắng giống như cho tất cả đài truyền hình Mỹ cũng như những kênh YouTube.”

Ông Dũng cho rằng trường hợp này có thể tạo ra tiền lệ là người có tiền ở các quốc gia độc tài như Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam,…bỏ tiền ra để tận dụng luật pháp Mỹ hòng bịt miệng những người khác hoặc đài truyền hình muốn nói lên sự thật.

“Rồi đem hết vụ này về Texas để xử thì tiền lệ đó không hề tốt đẹp chút nào,” ông Dũng tiếp. “Tuy nhiên, cho tới hôm nay, vì chưa có phán quyết, nên chúng tôi không dám ‘đi trước’ ông tòa. Chúng tôi chỉ phân tích phán quyết của ông tòa qua miệng ông lúc đó thôi.”

Ông Dũng nói thêm: “Nếu ngày hôm qua mà bà Hằng thắng thì sẽ làm rúng động tất cả anh em YouTuber…” và tiền lệ này sẽ được áp dụng nhằm bịt miệng những người khác.

Ông Dũng cũng cho rằng tất cả những gì các YouTuber nói đều dựa trên sự kiện và dựa theo những gì bà Hằng nói.

Theo tường thuật của ông NamQuan, phía bị đơn chỉ có ba người có mặt tại phiên tòa là ông, ca sĩ Nguyễn Tiến Dũng, và bà Mỹ Phụng. Về phía nguyên đơn có bà Nguyễn Phương Hằng.

Ông NamQuan kể tiếp: “Sau khi nghe hai bên trình bày, phán quyết bằng miệng của quan tòa là phiên tòa này gây sự chú ý của rất nhiều người. Cho nên, những người YouTuber, những người làm truyền thông, có quyền đưa tin, có quyền nói về những người này, những sự kiện như vậy. Và Tu Chính Án số 1 bảo vệ chuyện này. Và ông sẽ không đưa ra phán quyết nào cấm NamQuan, Tiến Dũng, Mỹ Phụng và những người khác nói về Nguyễn Phương Hằng.”

Ông NamQuan thêm: “Quan tòa nói vẫn có quyền tiếp tục nói về bà Hằng và những gì xảy ra xung quanh. Chỉ có cái là cố gắng đừng có gọi là kích động, gây bạo lực, hay là gây nguy hiểm cho những người mà mình nói tới.”

“Đó là phần chính nhất, quan trọng nhất trong cái lệnh tạm thời mà phía bên kia họ đòi hỏi,” ông NamQuan nói.

Và ông lập luận: “Bây giờ quý vị nghĩ đi, bà Hằng đòi bịt miệng chúng tôi mà chánh án không cho, vậy thì ai thắng ai thua ở đây? Quý vị suy nghĩ đi.”

Trong khi đó, trên mạng xã hội, ông Andrew Lê, một người đi chung xe limo với vợ chồng bà Hằng và các luật sư của bà, và có vào bên trong tòa, tường thuật như sau: “Sau hơn 3 giờ nghe tranh luận của hai bên, quan tòa nói rằng: ‘Một trong những giá trị cao quý mà đất nước này trân trọng là tự do ngôn luận, đặc biệt khi truyền thông thực hiện vai trò đưa tin. Đó là quyền hiến định và cần được bảo vệ. Tuy nhiên, quyền đó cũng có giới hạn. Trong vụ này, ranh giới ấy đã nhiều lần bị vi phạm.’”

Nghị Viên NamQuan Nguyễn (trái) và ca sĩ Nguyễn Tiến Dũng nói về phiên tòa bị bà Nguyễn Phương Hằng kiện. (Hình: Chụp từ màn hình YouTube Trusted Media Network)

“Vì vậy, phán quyết của tôi là chấp thuận lệnh cấm một phần cũng như là bác bỏ một phần,” ông Andrew Lê tường thuật tiếp lời quan tòa. “Tôi chấp thuận trong phạm vi là những hành vi cáo buộc bà Hằng ngoại tình rõ ràng không phù hợp, hoặc cáo buộc một người phạm tội mà không hề có bằng chứng. Những điều này thể hiện sự cẩu thả và coi thường sự thật, không thể tha thứ hành động này được.”

Ông Andrew Lê tiếp tục dẫn lời quan tòa: “Tuy nhiên, việc đăng tải trên kênh YouTube hoặc bày tỏ quan điểm cá nhân, về những vấn đề mà họ (YouTuber) cho là đáng đưa tin, và rõ ràng là với sự hiện diện của rất đông người hôm nay, điều này chứng minh rằng quan tâm của công chúng là có thật. Đó là quyền mà phía truyền thông có quyền thực hiện. Do đó, lệnh này được đưa ra sẽ có giới hạn trong phạm vi cần thiết của nó.”

Theo ông Andrew Lê, quan tòa sau đó yêu cầu nguyên đơn và bị đơn chuẩn bị dự thảo nộp cho nhân viên tòa, trong đó phải trình bày rõ ràng, chặt chẽ, có đủ các yếu tố nhằm bảo đảm “vừa duy trì quyền tự do ngôn luận của bị đơn, đồng thời ngăn chặn được lạm dụng của chính họ. Quyền tự do đó rất quan trọng, nhưng không có nghĩa là vô hạn.”

Video trên mạng xã hội cho thấy bà Nguyễn Phương Hằng đến tòa bằng xe limo cùng với chồng là ông Huỳnh Uy Dũng (tức Dũng Lò Vôi) và luật sư của bà, có cảnh sát bảo vệ.

Phía trước tòa có hàng chục người ủng hộ bà, bước đến thăm hỏi, chụp hình, và dùng điện thoại quay phim và trực tiếp livestream.

Trước khi vào tòa, bà Hằng nói về các bị đơn như sau: “Hôm nay, những gì họ làm, tôi cầu xin tòa nghe và phán xét đúng lương tâm, đúng công lý, dành cho tất cả mọi công dân. Đúng không quý vị?”

“Bây giờ chúng ta vào tòa. Em đẹp không quý vị? Em thiệt là quá đáng phải không quý vị? Nhưng mà đáng yêu, đúng không quý vị?” bà Hằng vui vẻ nói trước những người ủng hộ mình.

Ca sĩ Nguyễn Tiến Dũng đến sau, cầm theo di ảnh ca sĩ Phi Nhung, bị những người ủng hộ bà Hằng phản đối.

Được biết, phán quyết chính thức về lệnh tạm thời sẽ được tòa đưa vào Thứ Sáu, 3 Tháng Mười. (Đ.D.)


 

ÔNG SCHWEITZER VÀ NGƯỜI NGHÈO – Lm Mark Link, S.J.

Lm Mark Link, S.J.

Vào năm 1950, một ủy ban gồm đại diện của 17 quốc gia đã chọn ông Albert Schweitzer là “người của thế kỷ.”  Hai năm sau, 1952, ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình.

Ông Schweitzer được cả thế giới ca tụng là một thiên tài đa dạng.  Ông là một triết gia lỗi lạc, một thần học gia sáng giá, một sử gia đáng kính nể, một nhạc sĩ độc tấu, và là một bác sĩ truyền giáo.

Nhưng điều đáng kể là đức tin Kitô Giáo thật sâu đậm của ông.  Chính đức tin này đã ảnh hưởng đến từng góc cạnh của đời ông.

Khi 21 tuổi, Schweitzer tự nhủ là ông sẽ vui hưởng nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi.  Sau đó ông sẽ dành cuộc đời còn lại để làm việc cho những người nghèo dưới hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.  Và vì thế vào ngày sinh nhật thứ 30, ngày 13-10-1905, ông bỏ vào thùng thư ở Ba Lê một vài lá thư.  Đó là thư gửi cho cha mẹ và các bạn thân, ông báo cho họ biết là ông sẽ theo học về y khoa.  Sau đó ông sẽ sang Phi Châu để làm việc cho các người nghèo với công việc của một bác sĩ.

Ngay lập tức các lá thư ấy đã tạo nên một chấn động.  Ông kể lại trong cuốn Out of My Life and Thought:  “Thân nhân và bạn hữu của tôi tất cả đều thành khẩn đưa ra các nhận định của họ về quyết định điên rồ của tôi.  Họ nói, tôi đang chôn vùi các tài năng thiên phú…  Một bà thật hăng say thuyết phục rằng tôi có thể đạt được nhiều kết quả cho việc giúp đỡ người nghèo qua các bài diễn giảng hơn là hành động trực tiếp mà tôi đang ấp ủ.”

Tuy nhiên, ông Schweitzer không thay đổi ý định.

Vào năm 38 tuổi, ông là một bác sĩ đầy đủ bản lĩnh.  Vào năm 43 tuổi, ông sang Phi Châu để mở một bệnh xá ở cạnh bìa rừng mà sau này được gọi là Equatorial Africa.  Ông từ trần ở đây năm 1965 khi được 90 tuổi.

Động lực nào đã khiến ông Schweitzer dám gạt bỏ danh vọng và tiền tài để làm việc cho người nghèo ở Phi Châu?

Ông cho biết, một trong những ảnh hưởng là khi ông suy niệm về đoạn phúc âm mà chúng ta vừa nghe hôm nay về người giầu và ông Lagiarô.  Ông nói:

“Thật không thể hiểu nổi khi tôi tự cho phép mình sống một cuộc đời sung sướng, trong khi quá nhiều người chung quanh tôi đang vật lộn với sự đau khổ.” 

Và đó là điều đưa chúng ta đến câu chuyện phúc âm hôm nay.

Tội của người nhà giầu trong bài phúc âm hôm nay không phải là ông đã ra lệnh tống cổ Lagiarô ra khỏi khu vực của ông.  Cũng không phải là người nhà giầu đã đánh đập hay chửi rủa ông Lagiarô mỗi khi đi ngang qua.

Tội của người nhà giầu là ông không bao giờ để ý đến Lagiarô.  Ông coi Lagiarô như một phần đương nhiên của khung cảnh cuộc đời.  Tội của người nhà giầu là ông chấp nhận mà không bao giờ thắc mắc về sự kiện, Lagiarô thì nghèo và chính ông thì giầu.  Tội của người nhà giầu không phải là tội về một hành động, là thi hành một điều gì đó mà lẽ ra không nên làm.  Tội của người nhà giầu là một tội quên sót, đó là, không thi hành điều phải làm.  Tội của người nhà giầu là đắm mình trong của cải mà không động đến ngón tay để giúp ông Lagiarô khi cùng cực.  Tội của người nhà giầu cũng chính là tội đang được tái diễn ngày hôm nay.  Và chính tội này khiến chúng ta phải thực sự lưu tâm đến những gì cần phải thi hành không chỉ cho người nghèo nhưng còn cho xã hội.

Ông John F.Kennedy đã đề cập đến mối ưu tư này khi ông nói, “Nếu một xã hội tự do không thể giúp gì cho người nghèo thì nó cũng không thể cứu được một thiểu số giầu có.”  Nói cách khác, sự thiếu lưu tâm đến người nghèo không chỉ tiêu diệt người nghèo mà còn tiêu diệt luân lý của xã hội chúng ta. 

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi để thi hành điều mà ông Albert Schweitzer đã làm.

Nó là lời mời để suy tư về câu chuyện của người nhà giầu và ông Lagiarô, và tự vấn lương tâm chúng ta câu hỏi mà chính ông Schweitzer đã thắc mắc: Làm thế nào chúng ta có thể sống sung sướng trong khi có quá nhiều người đau khổ? 

Nó là lời mời chúng ta hãy suy tư lời của Tướng Dwight D. Eisenhower: 

“Mỗi một khẩu súng được chế tạo, mỗi một tầu chiến được hạ thủy, mỗi một tên lửa được phóng đi, trong một ý nghĩa nào đó chúng là sự trộm cắp của người đói không có gì ăn, của người lạnh không có gì mặc.”

Nó là lời mời chúng ta hãy quý trọng lời của Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay.

Hãy kết thúc bài giảng bằng những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến tông du Hoa Kỳ năm 1979, khi người giảng ở vận động trường Yankee Nữu Ước. Đức Giáo Hoàng nói: 

“Chúng ta không thể ngồi đó bất động, vui hưởng sự giầu sang và tự do, nếu ở chỗ nào đó vẫn còn một Lagiarô của thế kỷ 20 đứng trước cửa nhà chúng ta.

“Dưới ánh sáng của bài dụ ngôn của Đức Kitô, giầu sang và tự do có nghĩa một trách nhiệm đặc biệt.  Giầu sang và tự do tạo nên một nhiệm vụ đặc biệt.

“Và vì vậy, nhân danh tình liên đới đã trói buộc chúng ta trong một bản tính nhân loại, tôi muốn nói lên phẩm giá của mỗi một con người.

“Người giầu và Lagiarô đều là con người, cả hai được dựng nên cách bình đẳng trong hình ảnh và giống như Thiên Chúa, cả hai đều được cứu độ bởi Đức Kitô với một giá đắt, là giá máu châu báu của Đức Kitô…

“Người nghèo của Hoa Kỳ và của thế giới là anh chị em của các bạn trong Đức Kitô.  Các bạn không thể lấy làm mãn nguyện khi để họ hưởng các mẩu vụn của bàn tiệc.

“Các bạn phải nhìn đến thực chất của mình chứ không chỉ sự dư dật của các bạn và giúp đỡ họ.  Và các bạn phải đối xử với họ như khách được mời đến dự tiệc trong nhà của mình.”

Lm Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tác giả ‘Bài Thánh Ca Buồn,’ qua đời ở Sài Gòn

Ba’o Nguoi-Viet

September 24, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tác giả ca khúc nổi tiếng ‘Bài Thánh Ca Buồn,’ vừa qua đời tại nhà riêng ở Sài Gòn vào chiều 24 Tháng Chín, thọ 81 tuổi.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944, tại Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống tại Đà Lạt, sau đó là Sài Gòn cho đến cuối đời.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Theo báo Tuổi Trẻ, nhạc sĩ Nguyễn Vũ qua đời lúc 5 giờ 20 chiều 24 Tháng Chín vì đột quỵ tại nhà riêng trên đường Nghĩa Hưng, phường Tân Hòa, TP.HCM (trước đây là Phường 6, Quận Tân Bình).

“Bài Thánh Ca Buồn” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, được sáng tác vào năm 1972. Hơn 50 năm qua, ca khúc này được hàng triệu người hát, mỗi khi dịp Giáng Sinh về.

Ngoài “Bài Thánh Ca Buồn,” nhạc sĩ Nguyễn Vũ còn có nhiều nhạc phẩm nổi tiếng khác được nhiều người biết đến như “Nhìn Nhau Lần Cuối,” “Ga Chiều Phố Nhỏ,” “Lời Cuối Cho Em,” “Bài Cuối Cho Người Tình,” “Huyền Thoại Chiều Mưa,” “Đêm Kỷ Niệm…”

Theo cáo phó của gia đình, được báo Tuổi Trẻ trích đăng, cho biết: “Nghi thức tẩm liệm và phát tang vào lúc 11 giờ tối 24 Tháng Chín. Ngày 25 Tháng Chín là thời gian thân bằng quyến thuộc cầu nguyện. Đến 5 giờ sáng 26 Tháng Chín là nghi thức động quan và di quan. Sau đó, linh cữu nhạc sĩ được hỏa táng tại Trung Tâm Bình Hưng Hòa. Gia đình thông báo miễn phúng điếu kể cả hoa, trái cây và nhang đèn.”

Hàng triệu người Việt Nam, có thể ai đó không nhớ tên nhạc sĩ Nguyễn Vũ, nhưng không ai không biết nhạc phẩm nổi tiếng của ông khi vang lên: “Bài thánh ca đó còn nhớ không em?….” Và, “… Rồi những đêm thế trần đón Noel – Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu – Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối – Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn…” [kn]


 

Một chút để suy gẫm – Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

Tôi từng ngồi ở hành lang bệnh viện vào một chiều oi ả, khi nghe thấy một câu nói mà đến giờ, mỗi lần nhớ lại, lòng tôi vẫn thắt lại một nhịp.

Một cô hộ lý trẻ nói với giọng bực dọc:

– Bác ơi, bác lại tè ra giường nữa rồi đó nha!

Cụ ông nằm trên giường, ánh mắt ngơ ngác như đứa trẻ bị bắt quả tang làm điều sai.

Ông quay mặt vào tường. Không nói. Chỉ lặng lẽ.

Ở giường bên, một người nuôi bệnh khẽ nói với con gái:

– Con nít tè dầm thì người ta thương. Người già tè dầm… lại bị mắng.

Cô gái gật đầu, rồi hỏi nhỏ:

– Sao lại vậy má?

Bà đáp, chậm rãi, như thể chạm vào một nỗi niềm mà chỉ ai từng già đi, từng lặng lẽ một mình, mới hiểu hết:

– Vì người già… không còn mẹ để thương nữa.

Người ta hay nói: “Già như con nít.” Nhưng không.

Trẻ con có mẹ.

Người già thì không.

Trẻ con lấm lem thì có người lau mặt, dỗ dành, xoa đầu mà bảo:

 “Không sao, mẹ đây rồi.”

 Người già lấm lem thì bị nhíu mày, bị nhắc nhở, bị những cái thở dài kéo dài đến rã rời.

Trẻ con được nâng niu vì còn cả một đời phía trước.

Người già bị bỏ mặc… vì chẳng còn bao nhiêu đời để mà mong chờ.

Tôi nhớ cha mình – một người thợ mộc từng thẳng lưng suốt đời, từng không biết cúi đầu trước ai – đứng run rẩy ở cửa phòng tôi, chỉ để thốt lên một câu:

“Con ơi, giúp ba thay áo với.”

Ông đứng đó, như thể xin một đặc ân.

Tôi bước ra, thấy bàn tay ông đã không còn vững, cúc áo cài lệch, vạt áo lộn trong ra ngoài.

Lòng tôi thắt lại.

Người từng dạy tôi cài khuy áo… giờ không cài nổi áo cho mình.

Ông xấu hổ. Không phải vì chiếc áo.

Mà vì lần đầu trong đời, ông cần con trai… như ngày xưa tôi từng cần ông.

Người già không đáng thương vì họ yếu.

Họ đáng thương… vì họ đã từng mạnh.

Từng đội mưa đạp xe mấy chục cây số chỉ để con kịp đến lớp.

Từng nhường miếng cá cuối cùng trong nồi canh chua cho đứa con thích ăn đầu.

Từng thức cả đêm chỉ để mở cửa khi ta đi chơi về muộn mà không một lời càm ràm.

Giờ đây, họ chỉ mong một bàn tay đủ dịu dàng để không gạt đi, đủ kiên nhẫn để không gắt gỏng.

Họ chỉ mong… một người chịu nắm tay họ đi qua đoạn đời cuối cùng – như chính họ đã từng nắm tay ta qua những tháng năm đầu tiên.

Chúng ta thương con bằng bản năng.

Nhưng lại thương cha mẹ già… bằng sự kiên nhẫn giới hạn.

Vì sao?

Vì ta đã quen thấy họ gồng gánh, mạnh mẽ.

Nên khi họ yếu mềm, ta bối rối.

Khi họ lẩm cẩm, ta khó chịu.

Khi họ phụ thuộc, ta lảng tránh.

Ta quên mất rằng…

Người từng là chỗ dựa, cũng cần được dựa lại.

Người từng thay ta tã, giờ chỉ cần ta lau cho họ một giọt nước tiểu mà không rít lên vì mệt.

Đừng đợi đến khi họ không còn… rồi mới thốt hai chữ “giá như”.

Giá như mình nhẹ giọng hơn một chút.

Giá như mình không gắt lên hôm đó.

Giá như mình chịu dắt mẹ ra ngồi nắng chiều trước cổng, chỉ vài phút thôi…

Người già không còn mẹ.

Và chúng ta – những đứa con – chính là phần dịu dàng cuối cùng họ còn.

Thương một người già, đôi khi không cần phải làm điều gì lớn lao.

Chỉ cần đủ kiên nhẫn để đừng khó chịu.

Đủ mềm lòng để không nhẫn tâm.

Và đủ tử tế… để không rời tay họ, khi họ bắt đầu run rẩy.

 Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

From: taberd & NguyenNThu

Tiểu Tử – Tác Giả: Nguyễn Thị Cỏ May 

Tác Giả: Nguyễn Thị Cỏ May 

Ba’o Dan Chim Viet

21/09/2025

 Viết về Tiểu Tử không khó nhưng không thật đơn giản. Nếu nói « Tiểu Tử » là kỹ sư điện chuyên ngành Thủy điện, tốt nghiệp năm 1955, ở trường kỷ sư điện Marseille, thì không phải chúng ta nói chuyện về ông Tiểu Tử, nhà văn, mà đó là ông Võ Hoài Nam, năm nay 95 tuổi, an dưỡng tuổi già tại tư gia ở vùng Paris .

 Vừa ở Marseille về, ông dạy nhạc ở Pétrus Ký, qua năm sau, ông  dạy Lý Hóa các lớp Đệ II Cấp . Ông Cụ thân sanh của ông muốn ông theo nghiệp dạy học vì chính Cụ là giáo sư Sử Địa và Pháp văn ở Pétrus ký và một số trường Trung học tư ở Sài gòn như Lê Bá Cang, Lyceum Nguyễn văn Khuê, Đồng Nai, lúc ở Sài gòn còn học theo chương trình Đông dương, Trung học có các lớp từ 1ère Année, …4è Année, thi DEPSI (Diplôme d’Etudes Primaires Supérieures Indigènes – Văn bằng Cao Tiểu hay Thành chung) và/hoặc Brevet du 1er Cycle/Brevet Élémentaire .

Cụ Võ Thành Cứ muốn người con trai duy nhứt của mình, đậu kỹ sư ở Pháp, về xứ đi dạy học vì Cụ vẫn nặng tinh thần khai hóa cho thanh niên . Tham gia các hoạt động chống thực dân với các cụ Nguyễn An Ninh, Phan văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần văn Thạch, .. Cụ vừa dạy học để nuôi gia đình, vừa giúp bạn và gia đình bạn khi bạn gặp tù tội . Sau đó, Cụ mở một trường Trung học tư ở đường Dixmude, Sài gòn II (Đề Thám sau này) để làm nơi làm việc và gặp gở cho các bạn tranh đấu và nhứt là các bạn vừa ở tù ra có nơi làm việc tạm một thời gian .

Cuộc đời của Cụ Võ Thành Cứ cũng khá ly kỳ và đẹp lắm .

Vừa thi đậu DEPSI và cả Brevet Élémentaire, Cụ được bổ nhiệm làm thầy giáo cho trường Tiểu học ở Rạch giá . Lúc bấy giờ, người đi làm việc với bằng  Brevet Élémentaire ăn lương 90$ tháng, còn với bằng DEPSI, ăn lương chỉ có 45$ tháng .

Ông Đốc Giản là thầy dạy Cụ hồi lớp nhứt (Cours Supérieur) ở Tây ninh, cũng là thầy của nhiều người sau này có danh phận lớn, như Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Thủ tướng Nguyễn văn Tâm, …) nghe tin học trò củ được bổ nhiệm làm thầy giáo và biết học trò của mình vốn con nhà nghèo, Cụ Đốc bèn kêu học trò củ tới và bảo bà vợ lựa 2 bộ quần áo của Cụ còn mới đem cho học trò mặc đi dạy học tạm thời gian đầu.

Đi dạy học được vài năm, một hôm viên Thanh tra Học chánh Tỉnh tới xét trường. Hắn lấy tay chà cạnh bàn học của học trò, đưa ngón tay dính bụi quẹt vào mặt đứa học trò ngồi ở bàn đó và đưa lên cho thầy giáo coi . Không dằn lòng được, Thầy Cứ tiến tới đánh viên Thanh tra người pháp mấy phát tuy người của thấy cao chỉ hơn 1, 5m nhưng nhờ có tập nghề võ .Dĩ nhiên viên Thanh tra thưa Cụ nhưng chính viên Thanh tra bị xử có lỗi và bị đổi đi nơi khác .Câu chuyện một thầy giáo người an-nam-mít dám đánh Thanh tra người pháp chỉ vì tụ ái dân tộc lan truyền ra khắp Rạch giá.

 Một hôm, Cụ Ngô văn Thính, một nhà điền chủ lớn ở Rạch giá, tới thăm thầy giáo Cứ . Cụ Thinh hỏi thầy Cứ vậy thầy có thấy bằng lòng với địa vị hiện tại hay muốn tiến hơn nữa không?

Thầy Cứ thưa « Tôi nhà nghèo, nay được công ăn việc làm như vầy là quá rồi . Muốn tiến thêm, có muốn cũng không làm được » .

Cụ Thinh liền nói rõ: «Nếu thầy muốn, thiệt tình, thầy có dám bỏ việc làm này không, để đi qua Pháp học thêm vài năm nữa ? Tiền đi và ăn học, tôi lo hết . Nhưng khi về, thầy phải truyền bá chánh trị ở trong xứ, chống Tây» (Chuyện này, Cỏ May tôi tình cờ đọc được 1 báo cáo của an ninh pháp ở Văn khố về Đông dương ở Aix . Tên Thinh hay Thính, viết không có dấu rỏ ràng . Năm 1954, tới nhà thầy Cứ ở Gò Dầu Hạ chơi, có gặp Bà vợ bé của Cụ Thinh, thầy Cứ gọi bằng Dì, nhưng lúc đó, Cỏ May tôi chưa biết câu chuyện ly kỳ và đẹp như vừa kể) .

Cụ Cứ, xong Tú Tài ở vùng Toulouse, lên Paris học Sử Địa ở Sorbonne. Vừa xong Dự bị, thế giới bị kinh tế khủng hoảng, tiền mất giá, giá lúa xuống, điền chủ trắng tay. Thế là Cụ phải xuống tàu về xứ. Lúc đó đi qua Pháp học, học sinh và sinh viên đều đi tàu biển và phải mua vé đi và cả về. Đi hạng cá kèo, nằm võng dưới hầm tàu. Người nằm võng trên, khi say sóng, cho người nằm võng dưới ăn chè. Nhờ vậy mà nhớ mặt nhau, vế sau trở thành bạn thân khi gặp lại.

Cụ về Sài gòn, làm báo và dạy học, tham gia tranh đấu chống thực dân.

 Võ Hoài Nam

Đang học Seconde (Đệ Tam sau này), Võ Hoài Nam được cho qua Pháp học tiếp Trung học. Tới Marseille, ông qua vùng Garonne sur Lot và học Première theo tuổi tác. Lúc đầu, Tây giảng bài, ông thở dài vì theo không kịp nhưng nhờ toán, lý hóa học được nên ông bám trụ rồi cuối năm cũng đậu được Tú Tài I. Qua năm Tú Tài II, không còn thấy quá khó khăn nữa.

Trở lại Marseille, ông vào trường kỹ sư điện. Qua năm thứ hai, ông cùng với bạn bè đóng phim « Vì đâu nên nỗi » (Có chiều ở Sài gòn 1955).  Chủ đề Việt Nam nên phim cảnh phải Việt Nam. Mà ở Pháp làm sao có cảnh Việt Nam như ruộng lúa ngặp nước, có nông dân cấy lúa vừa hò? Cũng may, ở vùng Camargue, cách Marseille về hướng Tây, chừng 70 km, có ruộng ngập nước giống như ruộng lúa vùng Gia định, Long An. Năm 1942, Lính Thợ việt nam trồng lúa ở đây theo cách làm ruộng ở quê nhà. Tới mùa gặt năm đầu tiên thu hoạch được 40 tấn. Và số thu tăng lần, chỉ trong vài năm sau, số gạo Camargue đủ cho thị trường Pháp. Ngày nay vẫn còn gạo Camargue bán, với nhiều thứ như gạo lứt, gạo đỏ, gạo đen, hột dài, hột tròn, …

Sau phim « Vì đâu nên nỗi », Võ Hoài Nam bắt đầu mê văn nghệ, bỏ học. Nhà trường viết thư báo tin về gia đình. Dĩ nhiên ông bị ông Già rày la và ông Cụ viết thư qua nhà trường xin lỗi. Đọc lời lẽ cảm động của một đồng nghiệp xa xôi, nhà trường gọi cậu sinh viên bỏ học tới, la rầy, đưa cho ông coi thư của ông Già . Không thể làm gì khác hơn được, Võ Hoài Nam trở lại học tiếp. Và đậu kỹ sư điện năm 1955.

Về nước, sau 2 năm đầu dạy học ở Pétrus Ký, ông vào làm cho Shell ở Sài gòn. Lúc làm việc, ông học vẽ với vài họa sĩ tên tuổi ở Sài gòn. Cuối tuần, ông vác giá vẽ đi ra ngoại ô tìm đề tài tập vẽ. Ông say mê vẽ. Nhưng chưa kịp triển lãm tác phẩm của mình. Đến khi hưu trí ở Paris, ông vẽ trở lại, và vẽ nhiều về tĩnh vật. Tranh của ông có triển lãm ở Thị xã Paris 13 suốt nhiều ngày và bán được mươi bản.

Vốn mê văn nghệ, ông học đờn ca vọng cổ với nhạc sĩ mù Văn Vĩ, người mà sau 30/04/75, cỡi xe Honda chạy khắp đường phố Sài gòn .

Nhưng học chưa xong, tuy đã tới trình độ lên sân khấu ca 6 câu được rồi, thì bị đuổi vì một lý do rất vô duyên .

Khi tới xin học, ông giới thiệu mình với Văn Vĩ là làm thư ký hãng Shell. Thầy trò đang cơm lành, canh ngọt, bỗng một hôm, có một cô tới xin học ca vọng cổ và giới thiệu đang làm thư ký cho hãng Shell. Văn Vĩ hỏi có biết ông Võ Hoài Nam, đang học ở đây và cũng làm thư ký ở đó. Cô ấy bảo biết nhưng ông ấy làm lớn lắm, làm Giáo đốc, chớ không phải thư ký.

Thế là hôm sau, Võ Hoài Nam tới, Văn Vĩ đuổi ngay. Anh đi về đi. Đi khỏi nhà tui ngay. Anh thấy tui đui, anh khi dễ tui, phải không?

Ông Võ Hoài Nam ngớ người, không hiểu gì hết. Chuyện gì vậy?

Tới khi hiểu chuyện, Võ Hoài Nam giải bày với Văn Vĩ là chuyện ông làm việc đâu có liên hệ gì với việc học ca vọng cổ. Ông nói dối chỉ là cách nói đơn giản về mình mà thôi.

Nhưng Văn Vĩ không chịu bỏ qua.

Thế là bài ca vọng cổ phải xuống hò ở đây .

Tuy học chưa hết nghề của Văn Vĩ nhưng ông ca vông cổ vẫn mùi tận mạng .

Văn Vĩ thường nhắc ông là ít hôm nữa ông sẽ ca ăn khách và sắm liền xe Nash (loại xe tiêu chuẩn ngon của Sài gòn thủơ đó) .

Võ Hoài Nam học ca vọng cổ vì lúc đó ông đang mê cải lương. Ông có một tuồng được gánh Thủ Đô hát ở Sài gòn, khá ăn khách. Tuồng «Tình, Tiền và Sự nghiệp » .

Và cũng là lúc ông muốn nghỉ làm Shell để đi theo Cải lương . Có lẽ bị cú bất ngở của Văn Vĩ mà ông tiếp tục làm Shell cho tới ngày cuối của Sài gòn .

 Tiểu Tử

Tiểu Tử là bút hiệu ký dưới những bài «Trò Đời » (loại film du jour) đăng hằng ngày trên nhựt báo «Tiến» ở Sài gòn trước 75 của Đặng văn Nhâm . Hai người quen biết nhau vì Đặng văn Nhâm là học trò củ của Cụ Võ Thành Cứ ở Pétrus ký .

Ông  chọn tên «Tiểu Tử » hàm ý, rất đơn giản, xác nhận mình vốn không phải là «Đại Nhơn» . Ngày nay là «Đại Gia»!

 Ngày nay, Tiểu Tử là tên được quen biết rộng rải, trong Cộng đồng người Việt ở gần khắp thế giới . Nhưng Tiểu Tử hoàn toàn là nhà văn, có tiếng tăm nhưng vẫn không liên hệ xa gần gì với kỷ sư Võ Hoài Nam . Vì Tiểu Tử không phải là kỷ sư . Hơn nữa, Tiểu Tử cũng không phải người đóng phim ở Camargue năm 1954, cũng không phải họa sĩ, cũng không phải soạn giả cải lương. Vẫn biết đó là một người.

Vì nhiều người hiện nay chỉ biết Tiểu Tử là nhà văn. Truyện ngắn cùa ông rất đôc đáo về nội dung và cả hình thức.

Tiểu Tử là tác giả của  «Tiểu Tử Toàn Tập » 2 quyền, xuất bản năm 2017 ở Pháp. Trước đây, truyện ngắn của ông được in nhiều lần thành tập . Sau cùng, có một độc giả ở Hòa-lan, vì ngưởng mộ ông nên tự ý tập họp lại tất cả truyện của ông làm thành 2 cuốn, mỗi quyền hơn 300 trang, bìa màu xanh tươi, có hình tác giả ở góc mặt phía dưới.

Truyện ngắn của Tiểu Tử ở những lần xuất bản trước có tựa (Titre) khác nhau . Như quyển đầu tiên có tựa sách là «Bài Ca Vọng cổ».

Nay, trong «Tiểu Tử toàn Tập », tác giả cũng lấy «Bài Ca Vọng cổ » làm truyện số 1 ở trang  đầu tiên của « Tiểu Tử Toàn Tập », Quyển Thượng .

 Vì tác giả uu ái truyện « Bài Ca Vọng cổ » hơn những truyện khác?

Riêng Cỏ May tôi vẫn không quên trường hợp ông viết truyện ngắn này mà nhiều người yêu thích . Một câu chuyện đơn giản mà ăn khách mãnh liệt .

Tiểu Tử với Cỏ May tôi vẫn thường nói chuyện qua điện thoại nếu không gặp nhau về đủ thứ chuyện . Hôm ấy, tôi muốn biết chút ít về vộng cổ nên hỏi Tiểu Tử vì biết ông là nhà nghề về môn âm nhạc Nam kỳ này. Ông nói về kỷ thuật ca, cách đờn, … Và, bất ngờ, ông nói sẽ gởi cho tôi coi về vọng cổ .

Vài hôm sau, ông fax cho tôi « Bài Ca Vọng Cổ », một truyện ngắn, chớ không phải một bài lý thuyết về ca, đàn vọng cổ như tôi mong đợi .

Tôi in ra và đọc . Tôi liền liên lạc với một cậu thanh niên ở Stuttgart, gốc sinh viên Miền Bắc du học ở lại, nhờ đánh máy tiếng việt có dấu đầy đủ vì lúc đó chúng tôi chưa biết xài Computer . Đánh máy xong, cậu ấy fax qua cho tôi và tôi gởi cho tác giả để từ đó phổ biến (Nhắc lại chuyện củ, tôi không biết cậu này ngày nay ở đâu, sanh sống như thế nào, sau khi xin ở lại Đức, bị từ chối) .

 Đúng. Bài Ca Vọng cổ là một tuyện ngắn hay viết về một thanh niên da đen, lai Việt Nam, cha người Côte d’Ivoire nơi tác giả làm cho Công ty đường mía ở đó và sau qua làm cho Shell cho tới ngày hưu trí .

Người đọc, ai cũng nhìn nhận giá trị văn chương của nó. Nó đơn giản nhưng từng bước nhè nhẹ, nó len trọn vào tâm hồn người đọc. Nó đánh thức tình cảm về quê hương xứ sở của người Việt nam tỵ nạn đang sống ở xứ người .

Đọc Bài Ca Vọng  cổ, người đọc như bổng chốc sống trên quê hương của mình . Không bằng cảnh vật mà bằng tình cảm . Bằng sự rung động từ một chìu sâu thầm kín nào đó trong người :

 « Có chớ bác . Con có lai chớ bác.

Hắn xòe hai bàn tay đưa ra phía trước, lật qua, lật lại :

Bên nội của con là nằm ở bên ngoài đây nè .

Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim:

Còn bên ngoại của con, nó nằm ở bên trong . Ở đây, ở đây nè bác.

Bổng hắn nghẹn lại:

Con lai Việt nam chớ bác!

Nhớ Sài gòn quá nên con ca vọng cổ cho đở buồn. Hồi nảy, bác lại đây là lúc con đang ca Đường về quê ngoại đó bác ».

 Truyện của Tiểu Tử nặng tình quê hương xứ sở . Vì đó là thứ tình cảm mà ông bị mất cũng như bà con Miền Nam của ông. 

 Có nói về sự thù ghét Việt cộng sau 30/04/75 của dân chúng Sàigòn, ông cũng nói một cách nhè nhẹ, châm biếm nhưng sâu sắc. Ít khi thấy ông bộc lộ sự thù hằn một cách hung hãn.

Thế mà trong truyện Chị Tư Ù, ông cho chị Tư Ù bửa đầu thằng công an việt cộng một cách ngọt xớt, gọn bâng, như cách chị Tư Ù chẻ đầu cá, không để lại những bầy nhầy:

 «Vừa thấy chị Tư bước vào, thím Út òa lên khóc:

 Tụi nó giết anh Út rồi, chị Tư ơi …

 Chị dang tay ôm hết ba mẹ con, ôm hết những gì còn lại của Út Cón .  Không còn nước mắt để khóc, nhưng còn đủ tỉnh táo để nhận thấy rằng từ đây chính mình phải thay Út Cón để bảo vệ gia đình này mặc dầu không ai gởi gắm hết.

 Nửa khuya đêm đó, chị Tư trở dây . Trong bóng tối, chị mò mẫm khoác áo bà ba đen máng sẳn trên cây cột từ đầu hôm, cập nách con dao phay quấn trong cái bao bố nhỏ đặt sẵn cạnh chân bộ ván gõ, bước ra đóng nhẹ cửa lại . Bên ngoài, trời đầy sao . Gió sông nhè nhẹ mát rượi . Chị bước đi tự nhiên, chẳng chậm rải, chẳng gấp rút . Giống như đi công chuyện bình thường . Ngoài đường vắng teo . Mấy con chó hoang ngủ dưới dãy thớt thịt trong nhà lòng chợ ngóc đầu lên nhìn, sủa vu vơ vài tiếng rồi lại nằm xuống . Chẳng có gì phải bận tâm . …

Chị Tư bước vào hàng ba, thấy trong nhà có ánh đèn . Nghĩ « chắc thằng trời đánh đó đang làm báo cáo . Không biết nó đang muốn hại ai nữa đây ? » . Chị đưa tay gỏ cửa . Có tiếng người hỏi :

 -Ai đó?

 Chị Tư trả lời như không trả lời:

 -Tui!

 Nghe giọng đàn bà, tên công an yên chí :

 -Chờ chút!

 Có tiếng khóa lọc cọc rồi cánh cửa mở ra . Ánh đèn dầu từ bên trong hắt lên người chị Tư, tuy không sáng lắm nhưng vẫn thấy rỏ nét trầm tỉnh tự nhiên trên gương mặt tròn trịa . Ở đó vừa hiện lên một nụ cười mà tên công an giàu tưởng tượng cho là đầy « nhiệt tình cách mạng » . Anh ta bước ra đảo mắt nhìn quanh rồi mới mời :

 -Vô đi!

 Tiếng đi vừa dứt là chị Tư đã bổ con dao phay vào ngay giữa đầu, nhanh gọn và chính xác như chị bổ cái đầu cá . Xong, chị bước vào thổi tắt cây đèn dầu rồi ra sàn nước rửa tay chơn, mình mẩy và con dao . Trước khi ra về, chị nhìn lại hàng ba : trong bóng tối, chị vẫn thấy «thằng trời đánh» nằm một đống, không nhúc nhích… ».

 Cũng trong  truyện « Chị Tư Ù», bất ngờ có một chi tiết khá ly kỳ là Tiểu Tử chi ra một hoạt động  « tình báo nhân dân » – thứ mà việt cộng khoe là hơn cả CIA, hơn cả Phòng Nhì Pháp – của tên công an việt cộng vừa bị chị bửa đấu, đem áp dụng khai thác chị để tìm lấy cho sạch tài sản của Út Cón, bạn của chị, mà hắn nghi chủ tiệm vàng còn cất dấu .

 « Rồi sực nhớ ra, chị Tư hỏi :

 -À ! Chút xíu nữa quên mất . Anh muốn gặp tui có chuyện gì không ?

 Tên công an như nắm được cái phao, vội vã đổi giọng ra chìu thân mật :

 -Chuyện này xin chị giữ kín cho . Người ta nói với tôi rằng Út Cón còn dấu vàng, không kê khai hết trong kỳ kiểm kê vừa rồi . Tôi cũng nghĩ như vậy bỡi vỉ thấy anh ta…thế nào ấy .

 Chị Tư nghiêm giọng :

 -Chuyện này …Anh là chánh quyền, anh phải đi hỏi ảnh chớ sao lại hỏi tui ?

 Tên công an thấp giọng :

-Người ta nói với tôi là chị thân với Út Cón lắm . Tôi muốn nhờ chị nói với anh ấy một tiếng để ảnh mang nạp cho Nhà nước số vàng còn cất dấu . Tôi sẽ giữ kín vụ này và không báo cáo lên cấp trên . Tôi muốn giải quyết như trong gia đình thôi . Chị hiểu không ? » .

Tiểu Tử là nhà văn đặc sệt miền nam

Nhận xét về Tiểu Tử, có khá nhiều người . Cỏ May tôi xin mời bạn đọc 2 người quen thuộc, hoàn toàn gốc ở quê hương của văn học và chữ nghĩa Việt nam, đánh giá Tiểu Tử .

-Cụ Từ Thức nhà báo (VN Press, Sài gòn) ở Paris nhận xét Tiểu Tử: 

« Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không “làm văn”. Ông kể chuyện; không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. 

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp, Giáng Hương như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My, Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm, bà Năm Cháo lòng. Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ”miệt vườn’’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như một câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch. » (Từ Thức, « Những giọt nước mắt – Những tiếng thỏ dài ») .

-Cụ Nguyễn văn Lục, Giáo sư Văn chương và phê bình Văn học, viết về Tiểu Tử : Người tiếp lửa và giữ hồn của Miền Nam (DCV Online, 2023) :

« Tôi biết Tiểu Tử khá muộn khi ông đã thành danh và tích lũy một di sản văn học đáng nể như một loại trầm tích lắng đọng từ lâu. Nhưng khi biết rồi thì càng đọc văn của ông càng thấy gần gũi, gắn bó.

Hình như ông không viết truyện dài mà chỉ chuyên viết truyện ngắn. Mỗi truyện ngắn đều như nhắc nhở xa gần đến những cột mốc văn học đàn anh, xa xôi như Hồ Biểu Chánh, hay gaadn hơn như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên. Có thể vì cách thức diễn tả, ngôn từ xử dụng, tâm tình và cá tính của ông thì đặc sệt là dân Nam Kỳ.

Nhưng về nội dung cũng như mục đích viết của Tiểu Tử thì tôi xin vài thưa rằng: Nó hoàn toàn không giống các “nhà văn miệt vườn” ‒ không giống Bình Nguyên Lộc, càng xa Sơn Nam ‒ và còn có thể khác biệt với Lê Xuyên. Tôi không dám nói rằng tôi phủ nhận các nhà văn miền Nam tiền bối. Tôi đã từng mê truyện dài đầu tiên Chú Tư Cầu của Lê Xuyên ‒ cuốn truyện dài viết phơi-ơ-tông1 mỗi ngày ‒đã từng làm Lê Xuyên nổi tiếng.

… Bấy nhiêu năm lưu lạc ở xứ người. Vốn chữ nghĩa vẫn không bị han rỉ, xói mòn. Ông vẫn giữ được cá tính miền Nam: bình dân, giản dị, thật thà, dí dỏm. Ông vẫn giữ được cốt cách một lối viết chân chất, kiểu nghĩ sao viết dzậy, không màu mè, không kiểu cách, không uốn éo văn hoa làm dáng. Điều này cho thấy ông khác hẳn nhà văn Mai Thảo. Mai Thảo vẫn nghĩ rằng ông là nhà văn, Những người làm ra chữ.

Nhưng chính lối viết chân chất ấy quyến rũ người đọc. Chính chỗ bình dị làm nên vóc dáng văn học. Chữ của ông là có sẵn, chỉ khác nó nằm trong văn cảnh toàn bộ hỏi đáp trao đổi giữa những người dân bình thường. Đọc là gợi nhớ, đọc là thấy mình trong đó như tìm về như có người nhắc hộ » .

 Nay Tiểu Tử và Võ Hoài Nam, cả hai, đều vừa từ giả chúng ta hôm thứ năm 18 tháng 9/2025 (tại tư gia ở Noisy-le Grand, Pháp) !

 Nguyễn thị Cỏ May


 

Khi bạn chết đi…

Phuong Tran

Đừng lo lắng về thân thể của bạn… người thân của bạn sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết tùy theo khả năng của họ. Họ sẽ cởi quần áo của bạn, tắm rửa, mặc quần áo cho bạn, đưa bạn ra khỏi nhà và đưa bạn đến địa chỉ mới.

Nhiều người sẽ đến dự đám tang của bạn để “nói lời tạm biệt”. Một số sẽ hủy bỏ các cam kết và thậm chí bỏ lỡ công việc để đến dự đám tang của bạn.

Đồ đạc của bạn, ngay cả những thứ bạn không muốn cho mượn, sẽ bị bán, cho đi hoặc đốt cháy.

Chìa khóa, dụng cụ, sách, giày, quần áo của bạn… Và hãy yên tâm rằng thế giới sẽ không dừng lại vì bạn. Nền kinh tế sẽ tiếp tục.

Trong công việc của bạn, bạn sẽ bị thay thế. Người có năng lực tương đương hoặc tốt hơn sẽ thay thế vị trí của bạn.

Tài sản của bạn sẽ thuộc về những người thừa kế của bạn…. Và đừng nghi ngờ rằng bạn sẽ tiếp tục bị trích dẫn, phán xét, chất vấn và chỉ trích vì những điều nhỏ nhặt và lớn lao mà bạn đã làm trong cuộc sống.

Những người chỉ biết đến bạn qua vẻ bề ngoài sẽ nói; Đàn ông hay đàn bà tội nghiệp!

Những người bạn chân thành của bạn sẽ khóc trong vài giờ hoặc vài ngày, nhưng sau đó họ sẽ trở lại cuộc sống vui vẻ và cười đùa bình thường.

Những con vật của bạn sẽ được cho đi và sẽ mất thời gian nhưng chúng sẽ quen với người chủ mới.

Những bức ảnh của bạn sẽ được treo trên tường hoặc lưu lại trên một món đồ nội thất trong một thời gian, nhưng sau đó có thể chúng sẽ được cất giữ ở đáy ngăn kéo. Và chúng ta sẽ chỉ sống trong ký ức của những người yêu thương chúng ta.

Người khác sẽ ngồi trên ghế của bạn và ăn tại bàn của bạn.

Nỗi đau sâu sắc trong ngôi nhà của bạn sẽ kéo dài một tuần, hai tuần, một tháng, hai tháng, một năm, hai năm… Rồi bạn sẽ được thêm vào những kỷ niệm và rồi, câu chuyện của bạn kết thúc.

Nó kết thúc ở giữa con người, nó kết thúc ở đây, nó kết thúc ở thế giới này.

Nhưng hãy bắt đầu câu chuyện của bạn trong thực tế mới… trong cuộc sống sau khi chết.

Cuộc sống của bạn, nơi bạn không thể di chuyển với những thứ từ đây bởi vì khi bạn rời đi, chúng đã mất đi giá trị mà chúng có.

Thân hình

Sắc đẹp

Vẻ bề ngoài

Họ

An ủi

Tín dụng

Tình trạng

Chức vụ

tài khoản ngân hàng

Trang chủ

Xe hơi

Nghề nghiệp

Tiêu đề

Bằng cấp

Huy chương

Cúp

Bạn

Địa điểm

Vợ chồng

Gia đình…

Trong cuộc sống mới, bạn sẽ chỉ cần tinh thần của mình. Và giá trị bạn tích lũy được ở đây sẽ là tài sản duy nhất bạn có ở đó.

Vận may đó là thứ duy nhất bạn mang theo bên mình và nó được tích lũy trong suốt thời gian bạn ở đây. Khi bạn sống một cuộc sống yêu thương người khác và hòa bình với hàng xóm, bạn đang tích lũy vận may tinh thần của mình.

Đó là lý do tại sao bạn nên cố gắng sống trọn vẹn và hạnh phúc khi còn ở đây vì :

“TỪ ĐÂY.. BẠN SẼ KHÔNG LẤY NHỮNG GÌ BẠN CÓ MÀ CHỈ LẤY NHỮNG GÌ BẠN ĐÃ CHO “…

Tác giả : Thi Thien

Ảnh minh họa


 

Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử

Thu Doan 

  1. Nhà văn Tiểu Tử :

Họ tên : Võ Hoài Nam

Sanh năm : 1930

Nguyên quán : Gò Dầu Hạ (Tây Ninh )

Bút hiệu : Tiểu Tử

Ông là con trai duy nhứt của giáo sư Võ Thành Cứ, cựu giáo sư trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.

– Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955.

– Dạy lý hoá trung học Petrus Ký : 1955/1956.

– Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt Nam từ năm tháng 10 năm 1956 đến 30/04/1975.

– Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay.

– Làm việc cho hãng đường mía của Nhà nước Côte d’ Ivoire ( Phi Châu ) 1979/ 1982.

– Làm việc cho hãng dầu SHELL Côte d’ Ivoire từ năm 1982 đến 1991, về hưu ở Pháp.

– Trước 1975, giữ mục biếm văn ” Trò Ðời ” của nhựt báo Tiến.

– Bắt đầu viết truyện ngắn khi lưu vong qua Côte d’Ivoire.

– Tập truyện ” Những Mảnh Vụn ” ( Làng Văn Toronto xuất bản ) là tập truyện đầu tay.

Bài ca vọng-cổ

Cái Loa

Cái mặt

Cái miệng

Chị Tư Ù

Chiếc khăn mu-soa

Chợ trời

Chuyện Bình Thường

Chuyện chẳng có gì hết

Chuyện di tản 1975

Chuyện Giả Tưởng

Chuyện ở quê tôi

Chuyện thuở giao thời

Cơm nguội

Con Mẹ Hàng Xóm

Con Mén

Con số 3

Con rạch nhỏ quê mình

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Đám cưới ngày xưa

Đạp xích lô

Đèn Trung Thu

Đi Xe Đò, Đi Xe Ôm

Giọt mưa trên tóc

Làm Thinh

Lẫn

Made in Việt Nam

Mài Dao Mài Kéo

Mũ “bảo hiểm”

Mùa Thu Cuộc Tình

Ngày nầy, năm 1975 …

Người Bán Liêm Sỉ

Người Viết Mướn

Ngụy

Những câu chuyện Di Tản của nhà văn Tiểu Tử – Tường An, thông tín viên RFA

Những chuyện nho nhỏ…

Những hình ảnh đẹp

Nói

Nói: Hết rồi!

Nói Láo

Nội!

Ông già ngồi bươi đống rác

Ông Năm Từ

Tấm vạc giường

Thằng Chó Đẻ của Má

Thằng dân

Thằng đi mất biệt

Thằng Khùng

Thầy Năm Chén

Thèm

Tiết Nhơn Quí

Tóc Trắng

Tô cháo huyết

Tôi đi bầu

Tôi nằm gác tay lên trán

Tôi … xém làm kép cải lương

Vẫn Còn Cái Gốc

Viết một chuyện tình

Vọng cổ buồn …

Xíu.

  1. Vĩnh biệt nhà văn Tiểu Tử

Người ta hay hỏi tôi: “Quê ông ở đâu? – Câu hỏi nghe giản dị, mà trả lời thì… khó hơn đi thi vô Petrus Ký. Bởi lẽ, cái quê của tôi, cái chỗ chôn nhau cắt rún, tôi đã bỏ ra đi từ lâu, từ cái thuở biển dâu, thời cuộc cuốn người ta ra khỏi vòng tay của ngõ xóm, của hàng dừa, hàng cau, của mái nhà lợp lá. Ấy thế mà, mỗi đêm khi nằm trên chiếc giường ấm áp, tôi vẫn thấy quê hương trở lại, rõ mồn một, như một bức tranh khắc sâu trong ký ức: nghèo trớt mùng tơi, mà vẫn thương, vẫn nhớ đến xót xa.

Có anh bạn văn thường nhậu nhẹt với tôi, hay hỏi vặn:

– Khi nào ông “dìa” quê?

– Muốn “dìa”, nhưng đâu biết quê đâu mà dìa!

Ảnh cười khề khà:

– Thôi thì ông tấp về quê tui đi, ngay đất Tân Định nè.

Nghe vậy mới ngớ người ra. Té ra, đối với ảnh, quê không phải là xứ khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối, mà chính là mảnh đất Sài Gòn nơi mình cất tiếng khóc chào đời. Cái quê ấy có mùi khói thuốc rê, có tiếng guốc mộc của các bà, có những con hẻm nhỏ mà tuổi thơ rong chơi

đánh lộn tới u đầu sứt trán.

Tân Định – cái đất ấy đã nuôi lớn bao thế hệ. Từ đường Trần Quang Khải, quẹo qua Trần Nhật Duật, thẳng tới bờ kinh Nhiêu Lộc, những con đường nhỏ như Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quý Khoách, Trần Khánh Dư, đã in dấu chân của học trò trường Văn Lang, của những giấc mộng tuổi trẻ. Và cũng từ nơi ấy, bao nhiêu phận đời đã bước ra, đi khắp năm châu, mà khi tóc bạc vẫn còn ngoái lại, nhớ da diết từng mái hiên, từng ngọn đèn đường.

Trong số những người đi qua đất Tân Định, có một người đặc biệt: nhà văn Tiểu Tử.

Ông sinh năm 1932, tốt nghiệp kỹ sư tại Marseille, rồi về dạy tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký vào những năm 1955–1956.

Sau biến cố 1975, ông vượt biên, định cư ở Pháp, và từ đó, văn chương trở thành cách để ông bắc nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.

Tôi biết đến Tiểu Tử qua truyện ngắn “Tô cháo huyết”. Và khi nghe tin ông qua đời trên đất Pháp, lòng tôi bỗng dưng nghẹn lại.

Câu chuyện ông kể tưởng như vụn vặt, mà hóa ra thấm đẫm tình người, tình quê. Hình ảnh một người ngày xưa, trên đường đi làm về ghé xe cháo huyết của bà xẩm già ở gần rạp Casino Đa Kao. Bà bày cái nồi cháo nghi ngút khói, với vài miếng huyết vuông vức nổi lên trên. Ông múc một muỗng, vừa có cháo vừa có huyết, thổi cho nguội rồi cho vào miệng. Hương vị ấy, dân dã mà ấm áp, như gói cả hồn Tân Định.

Nhưng đời dân Sài Gòn sau cuộc đổi đời từ nghèo sang mạt sau tháng Tư năm 1975 đâu phải lúc nào cũng có tiền. Có khi cả tháng rỗng túi, ông né luôn cái xe cháo của bà xẩm, chỉ vì sợ mình thèm.  Cho đến một hôm, bà mời:

– Vô ăn đi thầy Hai, lâu quá mà…

– Tôi không có tiền! – Ông đáp, thật thà đến bật khóc.

– Không có thì cũng vô ăn, chừng nào trả cũng được. Mình quen mà!

Ông viết: “Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghẹn ngang ở cổ, làm tôi ứa nước mắt.”

Chao ôi! Một tô cháo huyết mà chan chứa nghĩa tình. Nó không còn là món ăn của bụng đói, mà là của tình người nơi xóm cũ. Để rồi hơn nửa thế kỷ sau, ở tận trời Âu, ông vẫn còn nhớ như in, nhớ đến nhói tim, nhớ đến mức viết thành một truyện ngắn để gửi gắm nỗi lòng.

Tôi đọc truyện ấy mà thấy mình rưng rưng buồn trong tấc dạ. Bởi mỗi người tha hương đều có một “tô cháo huyết” riêng trong ký ức. Với nhà văn Tiểu Tử, đó chính là xe cháo huyết của bà xẩm Tân Định. Và khi ông kể lại, không phải chỉ kể một món ăn, mà là kể về một

quê hương đã mất, kể về cái tình người Sài Gòn xưa, kể về một thời mà “ăn chịu” không phải chuyện đáng xấu hổ, mà là biểu hiện của tin cậy, của chia sẻ, của đồng bào.

Tin ông mất khiến tôi buồn như mây chiều trôi. Hình dung nơi nghĩa trang lạnh lẽo ở Pháp, có một nấm mộ mới của một người từng viết: “Tôi đi để lại đường xưa.” Đường xưa ấy chính là Trần Quang Khải, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Văn Giai, Bùi Hữu Nghĩa… những con đường quanh Tân Định, đã nuôi dưỡng tâm hồn và văn chương của ông.

Có lẽ, trong giây phút cuối đời, ông vẫn còn nhớ tô cháo huyết năm nào. Và chúng tôi, những kẻ hậu sinh, đọc văn ông mà thấy trong cổ họng mình cũng nghèn nghẹn, như chính ông đã nghẹn ngày xưa.

Giờ ngồi viết những dòng này, tôi nhớ tới bạn bè, nhớ tới những buổi nhậu lai rai mà kể chuyện quê xưa. Tôi nhớ tới cảnh học trò chen chúc thi vào Petrus Ký nơi dạy của nhà văn Tiểu Tử với cái tên Võ Hoài Nam tiền định sống phải xa quê.

Tôi nhớ tới nhà văn Tiểu Tử, một kiếp người long đong phiêu bạt, nhưng đã kịp để lại cho đời những trang văn chan chứa tình quê, tình người. Cái tên “Tiểu Tử” nghe thì nhỏ nhoi, mà văn ông lại lớn lao, bởi ông đã nói hộ cho cả một thế hệ lưu lạc: quê hương không bao giờ mất, nó sống mãi trong từng mùi vị, từng ký ức, từng khói bốc lên từ nồi cháo huyết chiều nào.

Thưa Thầy, ở phương trời xa ấy, xin Thầy an nghỉ. Trần gian này thiếu vắng Thầy, nhưng những dòng chữ Thầy để lại, những ký ức về một tô cháo huyết bình dị, sẽ còn sống mãi. Để cho những đứa con xa quê, mỗi lần nhớ Sài Gòn xưa, lại tìm thấy bóng dáng mình trong câu văn mộc mạc mà rưng rưng của Thầy.

Hu hu… Tôi viết mà mắt cứ nhòa đi.

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.