2025-1975, Nửa Thế Kỷ Nhìn Lại: Tháng Tư Đen và Chuyến Di Tản Của Gia Đình Tôi Trong Ngày Cuối Cuộc Chiến

Viet Bao

22/04/2025

Tầu Đông Hải neo trong vịnh Tân Gia Ba vào tháng 5 năm 1975, sau khi hơn nửa số người di tản trên tầu đã được chuyển sang các tầu khác. Ảnh: Tác giả cung cấp.

 Viết cho hương hồn bố

và cho mẹ, vợ, cùng các em

Bắt phong trần, phải phong trần, 

Cho thanh cao mới được phần thanh cao 

(Truyện Kiều)

Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi.

Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó.

Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.

Tháng Ba Xám, Tháng Tư Đen

Lúc bấy giờ tôi đang là sinh viên ban Đốc Sự của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (QGHC), một cơ sở giáo dục nằm trên đường Trần Quốc Toản, đặt trọng tâm vào việc đào tạo nhân viên hành chánh cao cấp cho chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Nói rõ hơn, tôi là một sinh viên gốc quân nhân trong số 105 sinh viên của khóa.

Đầu năm 1974, khi 21 tuổi và đang là chuẩn úy phục vụ tại tiểu đoàn 253 Pháo Binh, thuộc sư đoàn 25 Bộ Binh, tôi ghi danh học hàm thụ năm thứ nhất Luật khoa, viện đại học Sài Gòn. Tháng 7 năm ấy, tôi thi đậu chứng chỉ năm thứ nhất với số điểm cao thứ hai trong tất cả thí sinh. Thừa thắng xông lên, hai tháng sau tôi thi đậu vào ban Đốc Sự khóa 22 của Học Viện QGHC với học trình 4 năm. Theo quy định của chính phủ lúc bấy giờ, các quân nhân thi đậu được trở lại đời sống sinh viên, một hình thức xem như biệt phái vĩnh viễn từ quân đội sang hành chánh. Tháng 12 năm 1974, khi đã được thăng chức thiếu úy trong lúc tình hình chiến sự trở nên sôi động, tôi nhận được sự vụ lệnh từ Bộ Quốc Phòng để trình diện trường QGHC. Được bảo trợ bởi đại học Michigan State University, trường QGHC tổ chức chương trình học gồm hai khóa mùa Xuân và mùa Thu với những kỳ thi cuối khóa như những đại học ở Hoa Kỳ.

Chúng tôi nhập học ngay sau Tết Dương Lịch năm 1975. Đến ngày 12 tháng Ba, tin tức thị xã Ban Mê Thuột thất thủ trước sự tấn công của Cộng quân khiến quân dân miền Nam rúng động. Gia đình tôi có nhiều kỷ niệm với thành phố cao nguyên này. Năm 1968, bố tôi, khi còn là thiếu tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), giữ chức vụ quận trưởng quận Ban Mê Thuột trong gần hai năm cho đến khi ông được thăng chức trung tá và đổi về Sài Gòn. Gia đình tôi đã chuyển lên sống tại thị xã này trong thời gian ấy.

Hai ngày sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh triệt thoái khỏi Kontum và Pleiku. Cao nguyên Trung phần ở Vùng II chiến thuật bị thất thủ. Thêm vài ngày nữa, Quảng Trị, Quảng Ngãi rồi Huế ở Vùng I mất vào tay địch. Cuối tháng Ba, Đà Nẵng, Phú Yên, và Bình Định cùng chung số phận. Sang đầu tháng Tư, đến lượt Khánh Hòa, Bình Thuận, Phan Rang. Chỉ trong vòng chưa đầy ba tuần, miền Nam đã mất nửa lãnh thổ. Quân đội hoang mang, lắm nơi địch chưa đến mà người lính đã bỏ thành. Làn sóng đồng bào từ vùng I và vùng II ồ ạt theo chân người lính VNCH, trốn chạy Cộng sản bằng đường bộ và đường thủy. Những tội ác của Cộng sản Việt Nam như chiến dịch cải cách ruộng đất ở miến Bắc trong giai đoạn 1954-1957 và cuộc thảm sát tại Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968 còn gieo rắc kinh hoàng trong ký ức họ. Cũng vì hồi ức về những tội ác của Cộng sản mà hàng triệu người miền Nam đã cuống cuồng tháo chạy khỏi những vùng bị địch chiếm đóng trong những ngày tang thương thuở ấy. Biết bao chuyện thương tâm đã xẩy ra trên những con đường di tản đầy máu và nước mắt, bi thảm nhất là dọc Liên Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku đến Phú Bổn, nơi hàng ngàn thường dân đã bị tàn sát vì đạn pháo của Việt Cộng liên tục rót vào đoàn người đang lũ lượt gánh gồng xuôi Nam vào hạ tuần tháng Ba.

Bước sang tháng Tư, Hoa Kỳ đã bắt đầu cho di tản người Mỹ còn ở Việt Nam cùng các nhân viên người Việt đang làm cho sở Mỹ, và gia đình các quân nhân, công chức VNCH mà họ nghĩ sẽ bị Cộng sản trả thù sau khi chiếm được miền Nam. Lúc ấy, chúng tôi, những sinh viên QGHC, sau giờ học, thường vào câu lạc bộ của trường, gọi một tách cà phê hay ly nước ngọt, đăm chiêu ngồi bàn chuyện thời sự. Thật đau lòng khi trông thấy tấm bản đồ miền Nam với những tỉnh lỵ, thành phố được tô đỏ dần trên các tuần báo Time và Newsweek.

Theo chỉ thị của Ban Giám Đốc học viện, sáng ngày 8 tháng Tư, lớp chúng tôi tề tựu tại sân trường, chuẩn bị lên ba chiếc GMC đến trại Chí Linh, trung tâm huấn luyện cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, tại Vũng Tầu để giúp người tỵ nạn từ miền Trung theo tầu, thuyền đến thành phố này. Khi xe lăn bánh, chúng tôi nghe hai tiếng nổ lớn, vang đến từ hướng trung tâm thủ đô. Nhìn về hướng tiếng nổ phát ra, mọi người trông thấy một phản lực cơ F5 của Không lực VNCH đang lượn trên vùng nơi dinh Độc Lập tọa lạc nên đoán là quân đội, hay một phần của quân đội đang thực hiện cuộc đảo chánh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Mãi khi đến trại Chí Linh, chúng tôi mới nghe kể một phi công của Không lực VNCH oanh tạc dinh Độc Lập rồi bay ra vùng Việt Cộng đã chiếm.

Theo chương trình đã hoạch định, lớp chúng tôi ở Vũng Tầu một tuần. Tuy nhiên, đến sáng ngày thứ ba của chuyến đi, tức ngày 10 tháng Tư, trường QGHC cho xe đón chúng tôi trở về vì e ngại an ninh trên lộ trình Vũng Tầu – Sài Gòn sẽ không còn được bảo đảm trong vài ngày sắp đến. Hôm trước, bốn sư đoàn Cộng quân đã tấn công Xuân Lộc, nơi được ví von là cánh cửa thép để bảo vệ Sài Gòn từ hướng Đông của thành phố. Trên đường về, qua từng chặng, chúng tôi lại thấy những đơn vị lính kẻ đứng người ngồi dọc hai bên lề. Không hiểu họ được lệnh canh gác huyết lộ dẫn đến thủ đô hay triệt thoái về đấy để tránh sức ép của địch. Đó đây, có những đoàn người tay xách, nách mang đi bộ về hướng về Sài Gòn. Có lẽ họ là những người dân chạy loạn.

Tin tức những người được Mỹ chấp thuận cho di tản đã lên máy bay từ phi trường Tân Sơn Nhất rời khỏi Sài Gòn được loan truyền rộng rãi. Khoảng trung tuần tháng Tư, bố tôi liên lạc với một đại tá quân đội Mỹ đang phục vụ tại Tòa Đại sứ Hoa Kỳ mà ông quen biết đã nhiều năm để nhờ ông này giúp gia đình tôi rời khỏi Việt Nam bằng đường hàng không. Ông đại tá hứa sẽ giúp và bảo bố tôi rằng khi nhận được điện thoại của ông, cả gia đình phải ra ngay phi trường Tân Sơn Nhất. Mẹ tôi may cho chúng tôi, mỗi người một túi vải nhỏ để đựng hai bộ quần áo. Bà dặn tôi và các em, sau giờ học, phải về nhà ngay, đừng để sự vắng mặt của mình ảnh hưởng đến cả gia đình.

Bố Tôi 

Bố tôi tình nguyện nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, tiền thân của Quân lực VNCH, năm 1951. Ông tốt nghiệp thủ khoa trường Võ bị Phà Đen ở Hà Nội với cấp bậc chuẩn úy và rồi phục vụ trong một liên đoàn lưu động từng tham gia các trận đánh khốc liệt với Việt Minh, về sau gọi là Việt Cộng, tại Bắc phần. Di cư vào Nam, đơn vị ông đóng ở Phú Yên rồi Bình Định. Năm 1956, ông tham dự lớp Chỉ Huy Tham Mưu và tốt nghiệp thủ khoa nên được thuyên chuyển về Phòng Ba Bộ Tổng Tham Mưu. Đôi ba năm sau, ông được thăng cấp đại úy và giữ trách nhiệm Trưởng Khối Kế Hoạch. Năm 1968, ông theo học khoá Quân Chánh, khoá học bắt buộc dành cho các sĩ quan sẽ được bổ nhiệm làm tỉnh hay quận trưởng. Sau khi mãn khóa, được chọn quận đầu tiên vì tốt nghiệp thủ khoa, ông đã chọn Ban Mê Thuột, quận lỵ lớn nhất ở cao nguyên Trung phần thuộc tỉnh Dak Lak. Tháng Ba năm 1970, ông được biệt phái sang hành chánh và trở về Sài Gòn. Năm 1974, ông giữ trách nhiệm chánh sở kế hoạch thuộc Bộ Nội Vụ.

Bố tôi nhập ngũ một phần vì mối căm thù với Việt Cộng, sau khi họ giết ông nội tôi một cách dã man.

Thẻ căn cước quân nhân của thân phụ tác giả bài viết

Ông tôi vốn là nhà giáo trong một làng thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng chục cây số. Khi Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội vào năm 1945, làng bố tôi trở thành vùng xôi đậu, ban ngày Quốc Gia kiểm soát, ban đêm Việt Minh mò về. Những người bên kia ép buộc ông tội nghỉ dậy không được nên trong một đêm năm 1947, họ xông vào nhà tuyên án tử, rồi bắn ông tôi 5 phát súng lục trước sự chứng kiến của người thân. Lúc đó bố tôi đang là thông ngôn, làm việc ở nơi khác. Bắn xong, họ khênh ông tôi đi rồi bỏ lại đầu ngõ vì nghĩ ông đã chết. Bác gái tôi, tức chị kế bố tôi năm ấy mới 20 tuổi, thấy ông còn thoi thóp nên cùng hai người trong họ thay nhau khênh cáng đưa ông đến một đồn lính Tây cách nhà khoảng 3 cây số nhờ họ chữa trị tạm thời. Mãi ba hôm sau, những người lính trong đồn mới có xe đưa ông tôi lên nhà thương Phủ Doãn ở Hà Nội. Ông dần dần bình phục và tạm trú ở Hà Nội. Đầu năm 1951, làng bố tôi trở thành làng Tề, tức đã được quân Pháp và quân đội Quốc Gia kiểm soát. Những người trong làng ra Hà Nội thỉnh cầu ông tôi trở về dậy học lại. Bùi tai, ông quay về làng. Ít lâu sau, vào một buổi tối, khi dân trong làng, trong đó có ông tôi, đang xem hội hàng năm của làng thì cán bộ Việt Minh đột kích vào bắn ông tôi. Khi ông tôi ngã xuống, họ cẩn thận đâm thêm dăm bẩy nhát dao găm cho chết hẳn rồi mới rút lui.

Bố tôi có người em út, kém ông 15 tuổi, là đại úy trưởng Phòng Tiếp Liệu Quân Y Viện Ban Mê Thuột. Khi thành phố thất thủ, ông theo đoàn người chạy giặc ra vùng ngoại ô và được một chiếc trực thăng bốc về Sài Gòn ngày hôm sau, trong khi vợ và con gái nhỏ vẫn đang kẹt lại thành phố. Khi về đến Sài Gòn, ông tá túc tại nhà chúng tôi nhưng không tìm đường ra nước ngoài với hy vọng được đoàn tụ vợ con. Hậu quả là ông phải trả giá với hơn 5 năm tù. Khi cùng vợ con sang định cư tại Houston năm 1990 theo diện tù cải tạo, ông kể rằng trong những năm tháng bị cầm tù, ông và các bạn đồng cảnh phải học tập cái gọi là “tội ác Mỹ Ngụy,” dĩ nhiên theo sự tuyên truyền dối trá của Cộng Sản. Trong những “tội ác” này có chiến dịch truy lùng cán binh Cộng Sản nằm vùng tại Phú Yên sau hiệp định Geneva mà bố tôi là người trong cuộc. Lúc ấy, tiểu đoàn 10 khinh chiến của Quân Đội Quốc Gia do đại úy Vũ Duy Đê là tiểu đoàn trưởng và bố tôi là trung úy đại đội trưởng Đại Đội Chỉ Huy đã lùng soát và tiêu diệt thành phần chủ chốt của Việt Cộng tại làng Ngân Sơn, thị trấn Chí Thạnh thuộc tỉnh Phú Yên. Hiện nay vẫn còn rất nhiều báo mạng của Cộng Sản Việt Nam ghi lại chuyện này nhưng với những lời thêu dệt, như những dòng sau đây trên trang mạng báo Phú Yên Online: “Ngày 5/9/1954, tiểu đoàn lính ngụy mang tên Lê Hữu Từ (một linh mục phản động khét tiếng ở Bùi Chu – Phát Diệm di cư vào Nam) do Vũ Duy Đê chỉ huy đã gây ra vụ thảm sát Ngân Sơn – Chí Thạnh làm chết 64 người, bị thương 76 người. Đây là một trong ba vụ thảm sát man rợ ở miền Nam gây chấn động cả nước và quốc tế.”

Nói tóm tắt, bố tôi là người không bao giờ có thể sống chung với Việt Cộng. Miền Nam mất mà ông còn ở lại trong nước thì cách này hay cách khác, ông cũng mất. Gia đình tôi biết rõ như vậy.

Thân phụ tác giả và các con trong buổi tiệc mừng thọ 80 tuổi của ông vào năm 2009.

Ba Tổng Thống trong 10 Ngày Cuối của Miền Nam Tự Do

Tối 21 tháng Tư, đài truyền hình Sài Gòn chiếu trực tiếp cảnh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lãnh đạo đất nước cho tân tổng thống Trần Văn Hương, trong lúc tình hình chiến sự thêm bi thảm cho quân đội VNCH.

Trong khung cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, trong tâm trạng buồn rầu, hoang mang, lo lắng ấy, chúng tôi tự đánh lừa mình với một giải pháp chính trị chấm dứt cuộc chiến sẽ xuất hiện trong những ngày sắp tới. Tin tưởng như thế để còn có thể gạo bài chuẩn bị cho kỳ thi cuối khoá.

Gần 8 giờ sáng thứ Hai ngày 28, chúng tôi ngồi trong lớp chờ giáo sư Đoàn Triệu Yến, vị thày môn Kinh Tế đến phát đề tài bài thi đầu tiên trong kỳ thi cuối học kỳ. Giáo sư đến đúng giờ với y phục chỉnh tề như thường lệ; vừa bước vào lớp, ông tuyên bố môn thi được hoãn lại cho đến ngày sẽ được thông báo sau. Ngay sau đó, ông ra về. Sau này, tôi nghe một bạn cùng lớp kể lúc đến trường, ông đưa gia đình theo trên chiếc xe hơi. Sau khi ông rời trường, họ đến phi trường Tân Sơn Nhất, lên một vận tải cơ của Hoa Kỳ đưa những người tỵ nạn thoát khỏi Sài Gòn. Nếu chuyện thật sự xẩy ra như vậy, ông là một người đáng ngưỡng mộ. Ít ra thì ông cũng đến trường để cho sinh viên biết họ được hoãn thi và chào giã biệt chúng tôi. Tư cách ông hơn hẳn biết bao cấp chỉ huy quân sự đã lén lút trốn thuộc cấp để đào tẩu trong những ngày tháng gian nan ấy.

Được hoãn thi, tôi và một số bạn trong lớp lại vào câu lạc bộ của trường chia sẻ cho nhau những tin tức cùng tin đồn về tình hình chiến sự và chính trị. Lúc bấy giờ có rất nhiều tin đồn đang được loan truyền. Đến quá trưa, mọi người từ giã, hẹn mai gặp nhau cho môn thi khác.

Khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, khi tôi đứng ở cổng nhà trong cư xá Bắc Hải tiễn người bạn cùng khóa Đốc sự vừa đến thăm, chợt có tiếng bom nổ rung chuyển nhà cửa vang đến từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Về sau, tôi được biết Nguyễn Thành Trung, một phi công của Không lực VNCH nhưng là gián điệp cho Cộng Sản Việt Nam đã hướng dẫn các phi công miền Bắc lái 4 chiếc oanh tạc cơ A-37 do Không quân bỏ lại ở phi trường Phan Rang để dội bom Tân Sơn Nhất. Trung cũng là người lái chiếc F5 oanh tạc dinh Độc Lập sáng ngày 8 tháng Tư như đã kể.

Chừng một tiếng sau, đài truyền hình Sài Gòn trực tiếp buổi bàn giao chức vụ tổng thống giữa cụ Trần Văn Hương và đại tướng Dương Văn Minh tại phòng khánh tiết dinh Độc Lập. Ngày hôm trước, Quốc Hội lưỡng viện sửa đổi hiến pháp để ông Minh thay cụ Hương trong niềm hy vọng ông đủ uy tín đàm phán với Việt Cộng để đạt được một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được.

Ngay sau khi nhận trách nhiệm tổng thống, tối 28, ông Dương Văn Minh tuyên bố Sài Gòn được đặt trong tình trạng thiết quân luật, người dân bị cấm ra khỏi nhà.

Cư Xá Sĩ Quan Chí Hoà

Cư xá nơi gia đình tôi cư ngụ trước kia có tên là Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa, thuộc Quận 10 trước tháng Tư năm 1975. Cư xá do người Pháp khởi công xây từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, dành cho những sĩ quan trong quân đội Pháp. Tuy nhiên, khi cư xá vừa xây xong thì người Pháp phải về nước theo quy định của Hiệp Định Geneva chia đôi nước Việt. Năm 1957, chính quyền VNCH cấp các hộ trong cư xá cho gia đình những sĩ quan trung cấp và cao cấp của Quân Lực VNCH đang phục vụ ở Sài Gòn và họ có thể cư trú tại đây trong thời gian tại ngũ. Gia đình tôi là một trong những gia đình đầu tiên dọn đến cư xá vào mùa hè 1957 và ở đây suốt 18 năm trời. Thoạt đầu, cư xá chỉ có 16 dẫy nhà, mỗi dẫy gồm 4 hộ ở tầng dưới và 4 hộ ở tầng trên, tức tổng cộng 128 hộ. Cổng chính cư xá ăn thông với đường Bắc Hải dẫn ra đường Lê Văn Duyệt. Cổng sau hướng ra cuối đường Nguyễn Tri Phương, nơi cắt ngang đường Tô Hiến Thành. Khoảng năm 1965, chính quyền cho xây thêm nhiều dẫy ở các khoảnh đất rộng gần cổng sau, nâng số hộ trong cư xá lên đến hơn 300. Đến cuối năm 1968, chính quyền cho những sĩ quan đứng tên chủ gia đình ở đây mua các căn hộ họ đang cư ngụ và cũng cho phép thường dân sở hữu các căn này. Vì không còn được dành riêng cho các sĩ quan như trước, nên cư xá được đổi tên thành Cư Xá Bắc Hải.

Kể từ những ngày đầu tiên, cư xá luôn có vị sĩ quan được chính quyền chỉ định là người có thể đưa ra những quyết định liên quan đến sự quản trị cư xá mà cư dân quen gọi là “trưởng trại.” Vị trưởng trại sau cùng là trung tướng Đổng Văn Khuyên. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, trong thời gian dầu sôi lửa bỏng vào tháng Tư năm 1975, trung tướng Khuyên giao quyền điều hành cư xá cho đại tá Lê Kim Ngô thuộc binh chủng Công Binh. Ông đại tá này có lẽ ác cảm với những người đang tìm cơ hội thoát khỏi Việt Nam nên ra lệnh cho trung đội lính và đám Nhân Dân Tự Vệ canh gác chặt chẽ tại hai cổng cư xá, nội bất xuất ngoại bất nhập từ chiều ngày 28 đến sáng 30. Trong thời gian này, tuy có lệnh thiết quân luật nhưng dân chúng vẫn tiếp tục tất tả ngược xuôi trên các nẻo đường thành phố, chỉ riêng cư xá chúng tôi bị ông quyền trại trưởng phong tỏa. Tôi được biết nhiều gia đình đã không thể di tản khỏi Sài Gòn trong ngày 29 vì không ra được cổng cư xá.

Rốt cục, ông quyền trại trưởng ở lại khi cuộc chiến kết thúc và cũng phải đi “lao động cải tạo” nhiều năm trời như những sĩ quan QLVNCH khác. Nghe nói ông và gia đình đã sang Hoa Kỳ tỵ nạn theo diện cựu tù nhân cải tạo tức Humanitarian Operation vào đầu thập niên 1990.

Hỗn Quan, Hỗn Quân

Sáng thứ Ba ngày 29, tôi lấy xe định đến nhà một người bạn. Tuy nhiên, cổng ra vào cư xá đã đóng với những người lính cơ hữu của cư xá cùng vài anh Nhân Dân Tự Vệ lăm lăm tay súng đang đứng gác. Những người này giải thích với tôi rằng đại tá Lê Kim Ngô, quyền trường trại, đã ra lệnh nội bất xuất còn ngoại bất nhập, tức là tất cả cư dân trong cư xá không được ra ngoài, ngoại trừ những quân nhân có sự vụ lệnh di chuyển. Người từ ngoài cũng không được vào nếu không xuất trình giấy tờ chứng minh mình đang ở cư xá. Những người lính gác cổng nói năng khá nhã nhặn nhưng các ông Nhân Dân Tự Vệ luôn biểu diễn nét mặt khó đăm đăm. 

Tôi trở về nhà, pha tách cà phê mang ra ngồi ở bậc thềm, vừa uống vừa nghe tin tức đài phát thanh Sài Gòn từ chiếc radio nhỏ. Có tiếng bấm chuông, tôi ra mở cổng, trông thấy anh Tiềng, một trong số hơn 10 công nhân của nhà in do một Hoa kiều và mẹ tôi làm chủ. Đây là một trong năm hay sáu nhà in các bộ bài tại miền Nam thời bấy giờ; bài Tây có, bài chắn, tứ sắc, tam cúc, bất, tổ tôm cũng có. Gọi là nhà in chứ thật ra chỉ là một cơ sở in đặt trong hai căn phòng khá lớn mà mẹ tôi cho xây thêm ở vườn sau nhà. Các công nhân làm việc, ăn ở tại đây.

Anh Tiềng trạc tuổi tôi nhưng không phải đi lính. Có người thợ in đồng nghiệp nói anh được hoãn dịch gia cảnh. Lại có người bảo anh trốn quân dịch. Anh quý tôi nên thỉnh thoảng mời tôi đi uống cà phê sáng tại một tiệm khá gần cổng sau cư xá. Hôm ấy, khi lên nhà trên nhưng không gặp tôi nên anh đi bộ một mình đến quán. Anh kể là khi trở về, đi ngang sân cỏ rộng mà các thanh, thiếu niên trong cư xá dùng làm sân bóng đá, anh trông thấy một chiếc trực thăng, có lẽ loại UH-1 khá thông dụng trong chiến tranh Việt Nam, đang bay là là chực đáp xuống. Gần đó là một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn hay năm con, đứa lớn, đứa nhỏ với hành lý lỉnh kỉnh đứng chờ bên cạnh một chiếc xe hơi. Bỗng dưng một chiếc gắn máy phóng rất nhanh đến. Hai thanh niên đeo băng tay Nhân Dân Tự Vệ xuống xe, giơ súng carbine nhắm bắn vào trực thăng, có lẽ là bắn dọa. Trực thăng vội bốc cao lên, đảo một vòng tròn có vẻ ngập ngừng như chưa biết nên bay xa hay liều đáp xuống. Hai anh nhắm bắn thêm vài phát. Chiếc trực thăng vút cao hơn rồi bay thẳng.

Nhân Dân Tự Vệ là lực lượng dân quân bán thời gian được thành lập sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 với mục đích bảo vệ an ninh tại làng, xã, thôn xóm. Hầu hết nhân sự trong lực lượng là thanh, thiếu niên chưa đến hạn tuổi quân dịch và không được huấn luyện đầy đủ, nhiều người còn chưa được học sử dụng súng, đạn. Báo chí thời bấy giờ gần như đăng tin mỗi ngày trong mục tin vặt “Từ Thành Đến Tỉnh“ về chuyện Nhân Dân Tự Vệ bắn lầm, bắn lẫn nhau khi tức giận, phá phách xóm làng, hay nghịch ngợm súng đạn đến nỗi gây thương vong cho người khác và cho chính mình. Những tin tức này nhiều đến nỗi lắm tờ báo bắt chước báo Sóng Thần đặt tít cho bản tin thường ngày về chuyện này là “Truyện Dài Nhân Dân Tự Vệ.” Trong hai tháng cuối của cuộc chiến, tình trạng hỗn quan hỗn quân khiến các anh Nhân Dân Tự Vệ cảm thấy mình uy quyền hơn, quan trọng hơn lên để thế thiên hành đạo mà đoàn Nhân Dân Tự Vệ trong cư xá chúng tôi là một trường hợp điển hình.

Anh Tiềng kể tiếp rằng những người đứng cạnh xe hơi đứng ngẩn ra nhìn theo bóng dáng chiếc trực thăng nhỏ dần, nhỏ dần, rồi mất hút. Họ lục tục mang hành lý trở vào xe. Xe nổ máy rồi rời sân bóng.

Hai anh Nhân Dân Tự Vệ đứng chờ vài phút để chắc chắn trực thăng không quay lại. Sau đó họ lên xe gắn máy, nổ máy và lao đi.

Tôi tự hỏi chiếc trực thăng ấy định đưa gia đình những người đứng chờ cạnh chiếc xe hơi đến đâu; một tầu chiến Mỹ đang đợi sẵn ngoài khơi Vũng Tầu hay một nơi nào họ nghĩ còn an toàn ở vùng IV? Tôi cầu xin ơn trên cho gia đình họ rồi sẽ thoát khỏi cánh cửa địa ngục đang mở dần để nuốt trọn khối người dân miền Nam tự do.

Trong chiều hôm ấy, hai em trai tôi, đứa lớn chín tuổi và đứa nhỏ bẩy tuổi, đã chứng kiến một tình trạng tương tự, nhưng với kết thúc có hậu cho người di tản.  

Đang chơi đùa trước cửa, hai cậu em trông thấy một trực thăng, có lẽ cũng là loại UH-1, đảo vòng tròn trên sân bóng tròn, cùng lúc các thanh niên Nhân Dân Tự Vệ ngồi trên vài xe gắn máy phóng nhanh ngang nhà. Trẻ con thì lúc nào chẳng hiếu kỳ và hiếu động, các cậu bé chạy đến sân bóng xem chuyện gì. Khi các cậu đến nơi, đám Nhân Dân Tự Vệ đến trước đã dựng xe máy, giơ súng bắn chỉ thiên về chiếc trực thăng nhưng trực thăng vẫn đáp xuống bãi cỏ. Các cậu đang hăm hở xông đến thì bỗng có một tràng đạn chát chúa vọng ra từ trực thăng. Tất cả khựng lại thì thấy ngoài viên phi công, trên máy bay có người xạ thủ chĩa nòng súng đại liên đang bốc khói về hướng mình. Một tràng đạn nữa nổi lên từ khẩu đại liên, chắc người xạ thủ chỉ bắn dọa. Thế là cả đám hoảng hốt chạy lui. Ba bốn người đang đứng đợi gần đó phóng nhanh đến trực thăng, rồi được người xạ thủ kéo lên. Chiếc trực thăng từ từ  bốc cao trong khi nòng đại liên vẫn hướng về đám Nhân Dân Tự Vệ.

Về sau, tôi nghe kể có thêm vài trực thăng khác định đáp xuống cư xá chúng tôi trong ngày hôm ấy nhưng cũng bị đám Nhân Dân Tự Vệ bắn đuổi. Cư xá lúc bấy giờ là nơi cư ngụ của nhiều vị sĩ quan cao cấp trong đó có cả mươi ông tướng nên các trực thăng đến đón gia đình họ trong hai ngày cuối của cuộc chiến là điều bình thường.

Tôi nghĩ không hẳn các anh Nhân Dân Tự Vệ của cư xá trong những ngày tháng ấy là những kẻ xấu, thích hành hạ người khác. Không hiểu lúc ấy họ suy nghĩ gì. Họ hành động theo lệnh cấp trên hay họ muốn thể hiện uy quyền? Khi được giao quyền lực với khẩu súng trong tay, họ có sức mạnh của tập thể và muốn thể hiện quyền uy với người khác, với đồng bọn, và với chính mình.

Hay phải chăng vì gia đình họ quyết định không di tản hoặc không có phương tiện để ra đi nên họ ngăn cản những người khác? Tao không đi được thì mày cũng không được đi, thế thôi!

Đêm Cuối Ở Sài Gòn 

Trưa ngày 29, sau bữa cơm trưa với gia đình, bố tôi mặc quân phục, đeo lon trung tá, lái xe ra đi. Tôi ngồi trong nhà dán tai vào chiếc radio để theo dõi tin tức. Khoảng 3 giờ, đài phát thanh Sài Gòn phổ biến lời thủ tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu người Mỹ rời khỏi Việt Nam ngay lập tức. Cuộc chiến đến hồi kết thúc. Coi như xong! Thật khủng khiếp khi biết trước thứ tương lai tồi tệ đang đưa cao bàn tay gớm chiếc vẫy gọi mình và mình đang bị kéo đến gần theo từng nhịp vẫy của nó.

Đến 6 giờ chiều, bố tôi trở về gọi tôi, mẹ tôi, ông chú lớn, và ông chú út vào một căn phòng để kể những chuyện vừa xẩy ra cho ông. Người chú lớn, em kế bố tôi, là một thiếu tá đang phục vụ tại Phòng 2, tức phòng có trách nhiệm tình báo, của Bộ Tổng Tham Mưu. Gia đình ông sống ở căn hộ số 3 dẫy L trong cư xá, đấu lưng với căn hộ của chúng tôi, số 3 dẫy K. Vì vậy hai gia đình có chung khoảng sân sau khá rộng. Như gia đình những sĩ quan phục vụ tại Phòng 2, vợ con ông đã được người Mỹ cho di tản bằng máy bay từ hai tuần trước.

Bố tôi kể, bố tôi vừa vào được tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, nơi có hàng hàng lớp lớp người vây quanh cố gắng vượt qua cánh cổng sắt để có chỗ ngồi trên những chuyến trực thăng bay ra Hạm Đội số 7 đang đợi ở hải phận quốc tế gần Vũng Tầu. Bố tôi gặp ông đại tá quân đội Hoa Kỳ đã hứa giúp gia đình chúng tôi di tản từ nhiều ngày trước. Ông này xin lỗi chưa giúp được và khuyên bố tôi nên ở lại tòa đại sứ để di tản bằng trực thăng ra hạm đội cùng ông. Bố tôi bảo ông rằng bố không thể đi một mình khi gia đình kẹt lại. Thuyết phục bố tôi không được, ông viết một tờ thư, ghi rõ tên và cấp bậc ông để yêu cầu những quân nhân Mỹ tại phi trường Tân Sơn Nhất có trách nhiệm giúp người Việt rời Sài Gòn chấp thuận cho gia đình tôi lên một chuyến bay vào sáng sớm ngày 30. Sau đó, ông cùng một người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đưa bố tôi ra cửa sau của tòa đại sứ để ra ngoài. “Mình sẽ ra phi trường trước 7 giờ sáng mai,” bố tôi bảo chúng tôi. “Sống thì sống hết! Chết thì chết hết!”, ông nói thêm, một cách dứt khoát.

Vấn đề đặt ra là Sài Gòn đang trong tình trạng thiết quân luật và cư xá đang bị phong tỏa. Với chiếc lon trung tá trên cổ áo, bố tôi có thể ra khỏi cổng cư xá dễ dàng nhưng vợ con sẽ bị chận lại. May mắn thay, khoảng nửa tiếng sau, đài phát thanh Sài Gòn phát ra bản tin tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh các quân nhân, công chức phải trình diện nhiệm sở vào 8 giờ sáng hôm sau. Chúng tôi bàn nhau sẽ khởi hành sáng sớm với xe hơi bố tôi lái, trên xe có các em tôi, cô em kế tôi chở ông chú thiếu tá trên chiếc PC, ông chú đại úy chở mẹ tôi trên chiếc Vespa của ông, và tôi chở một cô em trên chiếc Lambretta. Chúng tôi sẽ bảo lính canh và các Nhân Dân Tự Vệ là đi trình diện nhiệm sở và không yên tâm khi để phụ nữ và trẻ em ở nhà trong tình trạng bất an. Bàn bạc xong xuôi, mọi người uể oải ăn cơm tối rồi đi nghỉ, lấy sức cho một ngày đầy cam go sắp đến.

Tôi vào giường, nằm thao thức trong mớ hỗn độn của những âm thanh xa gần vọng đến. Tiếng động cơ máy bay vần vũ trên trời, tiếng đại bác nổ vang xen kẽ với tiếng súng lớn, súng nhỏ từng phát, từng tràng liên tục, và tiếng kinh cầu của mẹ tôi vọng đến từ bàn thờ. Mãi đến hơn một giờ sáng, tôi vẫn trằn trọc trong khi các em ở những giường bên đã yên giấc. Tôi bước xuống giường, soi đèn pin vào tủ sách rút đại ra một quyển, vặn ngọn đèn nhỏ đầu giường nằm đọc để quên đi thực tại. Đó là quyển Vợ Chồng Son, truyện phóng tác của Hoàng Hải Thủy mà tôi đã đọc từ năm, bẩy năm trước. Đến hôm nay nghĩ lại, tôi không thể tưởng tượng được trong lúc cả thành phố đang rung chuyển dưới cơn lửa đạn, bao nhiêu người đang thấp thỏm trước một tương lai tăm tối đầy tai ương mà tôi có thể nằm suốt đêm để ngốn xong một quyển tiểu thuyết với nội dung hài hước. Tôi vẫn biết ngày trước, ông Đỗ Mục chê các cô gái nước Thương qua hai câu thơ “Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu đình hoa” (cô gái nước Thương không biết đến nỗi hận mất nước, ở bên kia sông còn hát khúc Hậu Đình Hoa là khúc hát tình tứ, du dương). Thôi thì xem như mình không thể làm gì để thay đổi vận mệnh nước thì sách vở là sự khuây khoả tốt nhất dành cho người đang tuyệt vọng. 

Tìm Đường Di Tản

Khoảng 6 giờ sáng hôm sau, tức sáng sớm ngày 30 tháng Tư, khi mẹ tôi đánh thức cả nhà thì tôi vừa đọc xong quyển truyện. Nửa tiếng sau, mọi người lên đường. Trước khi rời nhà, tôi định mang bốn quyển album đầy hình ảnh gia đình trong hơn 20 năm kể từ những ngày bố mẹ tôi sống ở Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Tuy nhiên, lúc bấy giở, tôi thật sự nghĩ gia đình không đi thoát và sẽ trở về trong ngày nên thôi. Quyết định này khiến tôi ân hận cả đời. Chiều hôm ấy, khi những người lính Cộng sản đầu tiên tiến vào cư xá, hai người cô tôi, tức em ruột của bố tôi, đến nhà tôi mang tất cả quân phục của bố tôi, bốn quyển album, các giấy tờ chúng tôi để lại mang ra sân sau đốt sạch. Đúng mười lăm năm sau, khi mẹ tôi về Việt Nam lần đầu để thăm thân nhân, bà xin được vài tấm ảnh đã tặng cho họ ngày trước, trong đó có tấm tôi vừa đúng ba tháng tuổi đang nằm lẫy trong hiệu ảnh Tân Việt ở Hà Nội.

Sáng hôm ấy, khi bước ra sân trước, chúng tôi trông thấy cô em gái thứ hai tôi đã lập gia đình cùng chồng, đứa con trai một tuổi và cả bà mẹ chồng. Hôm trước, bố tôi dặn con gái và con rể đến đúng 6 giờ rưỡi sáng để cùng đi. Sự hiện diện của mẹ chồng cô với chiếc va ly khá to trong khi gia đình tôi, mỗi người chỉ một túi xách nhỏ bằng vải với hai bộ quần áo là điều không định trước. Tuy nhiên, đã như thế thì cứ như thế. Bà có mang theo con mèo của bà chắc chúng tôi cũng đành chịu. Chúng tôi chia nhau lên các xe như đã bàn với nhau. Cậu em rể và bà mẹ ngồi trên xe hơi với các em tôi.

Khi chúng tôi chuẩn bị rời nhà, một người bạn bố tôi gọi điện thoại cho biết Việt Cộng đã về đến Ngã Ba Ông Tạ, nơi nằm trên quãng đường ngắn nhất từ nhà tôi đến phi trường, lộ trình chúng tôi chọn từ tối hôm trước. Vì vậy, bố tôi quyết định sẽ đi qua cổng sau cư xá thay vì cổng trước, rẽ trái đường Tô Hiến Thành, gửi xe gắn máy tại nhà một người bạn của bố tôi ở ngã ba Tô Hiến Thành và Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), rồi tất cả lên xe hơi, đi đọc theo đường Lê Văn Duyệt về hướng trung tâm thủ đô, rẽ trái đường Yên Đổ (nay là Lý Chính Thắng), rẽ trái đường Trương Minh Giảng (sau 1975 thành Trần Quốc Thảo), vài cây số nữa Trương Minh Giảng đổi thành Trương Minh Ký (tức Lê Văn Sĩ bây giờ) dẫn đến phi trường.

Ra đến xe, bố tôi đưa cho tôi khẩu súng lục Colt 45 còn ông giữ khẩu Smith Wesson 38 mà chúng ta vẫn gọi là “súng sáu” để phòng thân. Ông biết tôi bắn Colt 45 rất khá. 

Đến cổng sau cư xá, nghe chúng tôi nói phải đi trình diện nhiệm sở theo lệnh của tổng thống, những người lính gác và Nhân Dân Tự Vệ mở cổng cho chúng tôi ra.

Sau khi chúng tôi gửi các xe gắn máy ở nhà người bạn bố tôi, mọi người cùng lên xe hơi. Riêng chú út chúng tôi quay về để đợi đoàn tụ với vợ và con còn ở Ban Mê Thuột. Chiếc xe Opel nhỏ của bố tôi phải chở 15 người kể cả hành lý gồm bố mẹ tôi, ông chú thiếu tá ngành tình báo, 9 anh chị em chúng tôi, chồng và đứa con một tuổi của em tôi, cùng bà mẹ chồng cô. Người này ngồi trên đùi người kia sát chặt vào nhau như những khoanh cá trong một hộp cá mòi.

Khi xe chạy trên đường Lê Văn Duyệt, tôi chứng kiến một khung cảnh vừa hỗn loạn, vừa thê thảm. Đường phố đầy người ngược xuôi như đàn kiến nhớn nhác túa ra khi tổ bị một đứa trẻ cầm que chọc vào. Dọc hai bên lề đường, ngổn ngang những bộ quân phục, giầy bốt, mũ sắt, và cả súng đạn của những người lính tan hàng vứt lại. Đâu đó có những xác người được phủ một chiếc chăn hay chiếu trên vỉa hè. Thỉnh thoảng, chúng tôi chứng kiến cảnh những người khuân bao gạo, bàn, ghế, tủ, và cả nồi niêu nửa đi nửa chạy trên đường. Có lẽ họ vừa đột nhập vào những căn nhà không còn người ở để hôi của. Khi xe đi qua Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trên đường Lê Văn Duyệt, tôi trông thấy một xe tăng M-48, loại tăng lớn nhất và tối tân nhất mà Hoa Kỳ viện trợ cho quân lực VNCH trong cuộc chiến, nằm giữa lòng đường với nòng đại bác chúc thẳng lên trời. Người lính trưởng xa chiếc xe tăng này quả là người có cái tâm tốt lành. Trước khi rời xe, anh cẩn thận ngước nòng súng lên cao để địch quân từ xa nhận biết chiếc tăng đã bỏ cuộc chơi nên không nã đạn vào, gây thương vong cho dân chúng gần đó.

Đến cầu Trương Minh Giảng gần Đại Học Vạn Hạnh, xe chúng tôi bị chận lại bởi một toán Biệt Cách Dù đang bố trí dọc cầu. Người trung uý, có vẻ là trưởng toán, tiến đến xe. Trông thấy bố tôi đang trong bộ quân phục với lon trung tá, anh đưa tay lên chào. Đó là lần cuối bố tôi nhận được kiểu chào đúng quân kỷ của một người dưới cấp trong 24 năm quân ngũ của ông. Sau khi nghe bố tôi nói rõ mục đích, anh cho biết phi trường đã bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng và khuyên bố tôi đưa gia đình về nhà cho an toàn vì Việt Cộng đã trà trộn với dân trong thành phố. Anh cũng để nghị bố tôi thay bộ quân phục bằng thường phục dù đang ngồi trong xe.

Thất vọng, bố tôi quay xe lại, rồi ngừng xe bên đường để cởi chiếc áo quân nhân ra thay bằng áo polo tôi mang theo. Ông bảo “thua keo này, ta bầy keo khác,” và lái xe đến bộ tư lệnh Hải quân gần đường Cường Để (nay là đường Tôn Đức Thắng) hy vọng gặp vài sĩ quan cao cấp ông quen biết để nhờ giúp gia đình lên một chiến hạm di tản. Đến nơi, chúng tôi thấy đường dẫn vào bộ tư lệnh đã bị chắn ngang bởi những hàng rào sắt với kẽm gai. Toán lính gác cho bố tôi biết tất cả những tầu Hải quân còn sử dụng được đã ra đi trong đêm. Nhớ lại mà tôi cảm thấy ngưỡng mộ các anh, dù biết rõ cấp chỉ huy đã ra đi, họ vẫn ở lại thi hành trách nhiệm cho đến giây phút cuối cùng của chế độ họ đang phục vụ.

Nước đã tràn vào thuyền, chẳng lẽ buông xuôi để chìm trong biển đỏ, thôi thì “còn nước, còn tát,” bố tôi quay đầu xe hướng đến bến Bạch Đằng với hy vọng mong manh gặp một chiếc tầu đang đậu ở đó. Khi bố tôi lái xe dọc theo bến, chúng tôi trông thấy xa xa có một tầu buôn lớn lố nhố đầu người trên boong. Ông đậu xe dưới một tàng cây ven bến, cách tầu khoảng 200 mét, tức gần gấp đôi chiều dài sân bóng, và bảo tôi lên tầu hỏi những người trên đó xem tầu có rời bến không. Tất cả mọi người ngồi đợi trong xe, tôi chạy nhanh đến tầu. Đây là một chiếc tầu chở hàng vượt đại dương, trên mạn có sơn tên Đông Hải, và đang cập sát một chiếc tầu lớn khác có vẻ như đang hỏng vì sàn tầu đầy rác rưởi và không có ai ngồi trên boong. Tôi trèo thang lên chiếc tầu hỏng, bước đến thành tầu đối diện sát thành tầu Đông Hải để trèo qua con tầu đầy người này. 

– Tầu này có đi không? Tôi hỏi người đàn ông gần tôi đang ngồi bệt trên sàn tầu cùng những người có lẽ trong gia đình ông.

– Tôi cũng không biết! Ông ta trả lời.

– Không biết sao ngồi đây?

– Thì thấy người ta ngồi nên mình cũng ngồi.

Hỏi vài ba ngồi gần đó, cũng không ai biết tầu có đi hay không.

Tôi trở lại xe, trình bầy những điều tai nghe mắt thấy cho mọi người. Sau ít phút bàn thảo, tất cả rời xe đi đến tầu, ngoại trừ tôi. Trong vài ngày qua, tại bến Bạch Đằng, có một đoàn quân hôi của, lùng sục khắp nơi để lấy những xe gắn máy, xe hơi do những người đi tản để lại trên bến. Với những xe hơi họ không nổ máy được hoặc không biết lái thì họ tháo bánh xe, gỡ bình điện, và lấy đi những phụ tùng khác có thể bán được. Với khẩu súng giắt trong lưng quần, tôi phải ở lại giữ xe để có phương tiện trở về nếu không tìm được tầu di tản.

Bước ra khỏi xe, tôi bật que diêm đốt điếu thuốc đầu ngày. Bỗng có gã thanh niên gầy gò, áo quần luộm thuộm bước đến.

– Lương xe hả? Cho em ké cái bánh nhé! Gã nhăn nhở cười hì hì nói (“lương” là tiếng lóng của giới giang hồ lúc bấy giờ, có nghĩa là lấy trộm).

– Lương mẹ gì? Xe tui đó cha!

Mặt tiu nghỉu, gã biến đi thật nhanh.

Hút xong điếu thuốc, tôi vào xe ngồi ở ghế tài xế để những tên đang lùng sục các xe bỏ lại trên bến biết xe có chủ nên không đến làm phiền. Tôi nhớ đến những bài báo thuật cảnh hàng ngàn người chen chúc nhau trên những chuyến tầu xuôi Nam sau khi miền Trung thất thủ trong tháng trước. Trên những chuyến tầu đó, biết bao trẻ em đã chết vì đói khát, và bị hải táng vào lòng biển. Gia đình tôi, vì tưởng có thể đi tản bằng phi cơ nên không mang theo chút thực phẩm và nước uống nào. Các đứa em nhỏ của tôi, đứa lên 9, đứa lên 7, đứa lên 5, đứa 21 tháng và đứa cháu đang chập chững tập đi chắc khó thế vượt qua cuộc hải trình cam go này mà không có cái để ăn, để uống.

Hơn nửa tiếng sau, có lẽ khoảng 9 giờ, mặt trời lên cao, nắng gắt chan hòa, trời trở nên nóng nực, tôi quyết định lên tầu gọi cả nhà ra về. Tuy nhiên, tôi e khi mình bước đi, chỉ trong dăm bẩy phút, sẽ có kẻ bất lương đến tháo bánh xe, lấy bình điện, hoặc tệ hơn, câu giây điện để nổ máy rồi lái xe đi. Đang ngập ngừng tiến thoái lưỡng nan, chợt có một trung đội Nhẩy Dù kéo đến bố trí cạnh gốc cây nơi xe chúng tôi đang đậu. Tôi bước đến hỏi han anh chuẩn uý trung đội trưởng, một sĩ quan Thủ Đức sau tôi vài khoá. Anh cho biết trung đội của anh vừa trải qua một đêm quần thảo với Cộng quân ở Hàng Xanh, gần xa lộ Biên Hoà để ngăn địch tiến vào Sài Gòn. Và rồi, vì thiếu đạn dược nên phải rút về đây. Anh cho trung đội đóng tạm nơi này để chờ lệnh. Chỉ tay về chiếc tầu Đông Hải, tôi bảo anh rằng gia đình tôi đang ở trên tầu. Tôi cần lên đó để gọi mọi người về và nhờ anh trông hộ chiếc xe cho tôi, không để kẻ bất lương lấy trộm. Tôi sẽ trở lại trong khoảng 10 phút. Anh gật đầu đồng ý và nói dứt khoát: “Anh yên tâm! Tôi giữ xe cho anh!”

Trở lại lên tầu Đông Hải, tôi nhanh chóng tìm được gia đình trong đám đông hỗn tạp. Tôi trình bầy với mọi người nỗi lo âu của tôi. Tất cả đồng ý trở về. Chúng tôi lần lượt, người lớn bế trẻ em, trèo qua thành tầu Đông Hải, bước vào con tầu hỏng bên cạnh để xuống bến. 

Khi mọi người qua hết con tầu hỏng, nhìn sang tầu Đông Hải không thấy chú tôi. Chúng tôi biết ông chắc chắn không về theo vì vợ con ông đã được người Mỹ cho di tản bằng đường hàng không như đã kể. Ông phải tìm mọi cách để đi. Tôi bước dọc theo thành con tầu hỏng tìm ông đứng lẫn lộn trong đám đông trên tầu Đông Hải, vừa đi vừa lớn tiếng gọi tên ông để báo ông biết chúng tôi quyết định trở về. Đúng lúc ấy có tiếng đạn pháo kích nối tiếp nhau nổ long trời lở đất. Bụi bốc lên mờ mịt ngay chỗ trung đội Nhẩy Dù đang bố trí dưới gốc cây bên cạnh xe hơi của chúng tôi. Rõ ràng là tiền sát viên Việt Cộng trà trộn trong dân đã chỉ điểm cho một đơn vị pháo binh của họ đội pháo vào vị trí toán quân Nhẩy Dù. Chợt có tiếng kêu to từ tầu Đông Hải: “Việt Cộng pháo kích! Nổ máy! Chặt neo!” Tiếng máy tầu rung lên rồi tôi trông thấy một người cầm chiếc rìu lớn chặt dây neo. Giây đứt, con tầu tự động chậm rãi tách ra khỏi chiếc tầu hỏng. Mọi người trong gia đình hối hả trèo lại sang tầu Đông Hải. Bố tôi sang trước, tôi đủn những người khác qua thành tầu, bố cầm tay đỡ xuống. Những đứa trẻ thì tôi bế lên chuyền cho bố tôi. Đến khi tôi ném những túi quần áo cho bố tôi thì tầu Đông Hải đã tách ra hơn một thước nên tôi phải lấy sức nhẩy sang. Có lẽ tôi là người cuối cùng từ con tầu hỏng sang được tầu Đông Hài.

Khi tầu tách xa khoảng ba hay bốn thước, tôi trông thấy một đứa bé trai khoảng năm tuổi đứng trên boong con tầu hỏng, hai tay khoắng loạn lên trời vừa nhẩy tưng tưng vừa khóc gào “Ba ơi! Ba ơi!” Trên tầu Đông Hải, có cặp vợ chồng đứng sát thành tầu nức nở thét to “Con ơi! Con ơi!” Những tiếng gào tiếng thét chìm vào tiếng đạn pháo nổ dập dồn trên bến. 

Tầu dời xa dần bến.

Hỏi chuyện những người đứng gần, tôi được biết cặp vợ chồng đang vật vã khóc đã đưa được hai con lên tầu Đông Hải, đứa lớn là gái, khoảng 7, 8 tuổi, đứa bé là trai, lên 5 hay 6. Ngồi trên tầu khá lâu mà không thấy động tĩnh nên cũng như gia đình tôi, họ quyết định về. Khi sang con tầu hỏng thì đạn pháo rơi trên bến và tầu Đông Hải mở máy chạy, họ vội vã trở sang tầu Đông Hải mà quên mang theo đứa con trai. Tôi chạnh lòng thương đứa trẻ, đời sẽ dẫn nó đến đâu? Tôi chạnh lòng thương cặp vợ chồng lạc con, ắt họ sẽ mãi mãi phải sống với nỗi buồn xé nát tâm can và cảm giác tội lỗi trong những ngày còn sống. Người xưa có câu thành ngữ “can trường thốn đoạn” có nghĩa ruột gan đứt ra từng đoạn để chỉ người cha, người mẹ mất con. Đứa con chết đi, bậc cha mẹ đau đớn có thể ngước lên trông Trời mà trách móc “lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống Trời hay không Trời” nhưng rồi sẽ nguôi ngoai theo thời gian. Đằng này, đứa con nhỏ bị dứt ra khỏi đời mình vì một sơ suất của chính mình. Mỗi lần nhớ đến đứa con, chắc chắn họ lại đau đớn tự hỏi thằng bé giờ ra sao, sống chết thế nào, đói hay no, khổ nhiều hay khổ ít. Cầu xin Thượng Đế giữ gìn, che chở họ cho đến ngày cha, mẹ, chị, em, được đoàn tụ.

Đường Ra Vũng Tầu 

Tầu đi được khoảng gần hai tiếng, khi đến chỗ sông Sài Gòn đổi tên thành sông Lòng Tảo, trời bỗng đổ cơn mưa rào, tuy không kéo dài nhưng cũng khiến mọi người ướt sũng. Có lẽ vì cả đêm trước không ngủ, đang bần thần, bải hoải nên tôi rét run cả người. Đứng gần tôi là một cô bé trạc 16, 17. Trông thấy tôi đang co ro, run lên từng chập nên cô mở va ly mang theo, lấy chiếc áo len cho tôi mượn. Dáng cô nhỏ hơn tôi khá nhiều nhưng áo đan bằng sợi len có thể dãn ra nên tôi cài nút được. Tôi đã mặc chiếc áo này cho đến lúc cơn mưa dứt và đợi cho áo khô mới trả lại cô. Lúc tàu khởi hành, tôi trông thấy cô ngồi dựa vào thành tầu, tay ôm hai đứa trẻ, gái độ 10 tuổi, trai chắc lên 5, và sùi sụt khóc. Hỏi thăm cô, tôi được biết ba chị em được mẹ dẫn lên tầu. Ngồi trên tầu một chốc, cậu em kêu đói nên bà mẹ xuống bến tìm mua bánh mì cho con và cho cả gia đình để dành ăn trong những ngày sắp tới. Bà vừa xuống bến độ dăm phút thì tầu chạy. Chuyện gia đình cô và chuyện đứa trẻ bị lạc cha mẹ ở bến tầu chỉ là hai trong hàng vạn câu chuyện “đau lòng kẻ ở người đi; lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm?” (Truyện Kiều) trên quê hương ta trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. 

Khoảng hai giờ chiều, có lẽ tầu Đông Hải đã đi được quá nửa đoạn sông Sài Gòn – Vũng Tầu, qua chiếc máy phát thanh nhỏ của người đứng gần, chúng tôi nghe tiếng ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Có những tiếng bật khóc nức nở chung quanh tôi. Thế là hết! 

Tin tức ông Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng đầu hàng vô điều kiện khiến những người trên tầu vừa bàng hoàng vừa lo lắng cho sự an toàn của con tầu. Khoảng một tiếng sau, đài Sài Gòn phát lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đang ngồi trong phòng vi âm của đài ca ngợi thành quả thống nhất đất nước của Cộng sản và lên án những người bỏ nước tìm tự do là những kẻ phản bội. Sau đó, ông hát vang ca khúc Nối Vòng Tay Lớn với tiếng vỗ tay theo nhịp của những người trong cái gọi là “Uỷ Ban Cách Mạng Lâm Thời” đang hiện diện tại đài phát thanh.

Tôi không hiểu ông Trịnh Công Sơn có bao giờ nhận thức được chính mảnh đất miền Nam tự do đã nuôi dưỡng, cưu mang ông và cung cấp cho ông môi trường thuận lợi để ông sáng tác? Thử tưởng tượng nếu sống ở miền Bắc, dù có thể tự học nhạc, chắc chắn ông chỉ được phép viết lên những ca khúc tầm thường xưng tụng bác và đảng, như bao văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ nô bộc của chế độ. Xét ở khía cạnh này thì chính ông mới là kẻ phản bội miền Nam tự do, phản bội những người thiết tha yêu mến nhạc của ông, đã xúm lại công kênh ông lên đỉnh cao ngất ngưởng của âm nhạc Việt.

Về sau, tôi được biết kể từ khi miền Nam đổi chủ, ông Trịnh Công Sơn đã viết cả trăm ca khúc thuộc loại nhạc “giác ngộ cách mạng,” nhưng những sáng tác này của ông nhanh chóng bị rơi vào quên lãng. 

Tầu tiếp tục chạy, khi đến cửa Cần Giờ, cách Vũng Tầu chỉ khoảng 20 cây số đường sông, bỗng có những tiếng nổ vang và những cột nước bắn lên tung toé gần tầu. “Nằm xuống! Việt Công bắn!” Tiếng người hét lên và mọi người nằm rạp xuống sàn tầu.” Sau này tôi biết nơi đây chính là khúc sông Việt Cộng từ bờ bắn vào tầu Việt Nam Thương Tín, con tầu khởi hành tuy sau nhưng khi đến sông Lòng Tảo đã vượt qua tầu Đông Hải, khiến nhà văn Chu Tử bị thiệt mạng. Có lẽ họ vừa bắn bằng súng cối vừa bằng B40 vì khúc sông khá hẹp. 

Khi tầu vượt qua tầm súng Việt Cộng, mọi người lồm cồm trổi dậy. Đứng bên thành tầu, vài phút sau, chúng tôi trông thấy ba, bốn chiếc thuyền máy trông giống như giang tốc đỉnh của Hải quân đuổi theo. Vài người trên thuyền cầm súng trường hướng lên trời bắn chỉ thiên như ra lệnh tầu ngừng lại. Lại có tiếng la to “Việt Cộng đuổi! Chạy nhanh lên! Nhanh lên!” Chẳng hiểu tiếng la hét dục tầu đi nhanh có vọng đến phòng lái hay không nhưng tôi có cảm tưởng như tầu đang dần tăng tốc độ. Tuy nhiên, khoảng cách giữa những chiếc thuyền máy và tầu dần dần thu hẹp theo từng phát đạn vang đến từ thuyền. Mọi người trên tầu hoảng loạn, kẻ nằm sóng soài trên boong, người đứng sát mạn tầu nhô đầu lên lo âu nhìn về hướng những chiếc thuyền đang xả hết tốc lực đuổi theo.

Trong thoáng chốc, tôi tưởng tượng ra cảnh đám lính Việt Cộng chặn tầu lại, bắt tầu tấp vào gần bờ, lùa dân trên tầu lội nước vào khu rừng bên cạnh. Họ chia người di tản ra làm hai, đàn ông trong tuổi lính đứng một bên, người già, phụ nữ, và trẻ con một bên, rồi nổ súng từng loạt vào những người đàn ông. Đúng thế, họ sẽ làm như đã làm đối với những đoàn người di tản mà họ chận lại trên Liên Tỉnh Lộ 7B và những nạn nhân của họ trong dịp Tết Mậu Thân ở Huế như tôi được biết qua các bài báo. Ồ không đúng, ở Huế thì họ không mất công chia ra làm hai mà lính tráng hay thường dân, đàn ông hay đàn bà, người già hay con trẻ cùng chung số phận như nhau, tức cùng bị giết. Các hố chôn tập thể được khai quật cho thấy rõ ràng sự công bằng, không phân biệt nam phụ lão ấu đối với các nạn nhân của họ. Tôi chuẩn bị cách đối phó, lòng tự nhủ “chết là cùng!”

Tuy nhiên, bố tôi bảo tôi đưa ông khẩu Colt 45. Ông lấy khẩu súng sáu ông đang giữ thả xuống biển rồi nhét khẩu Colt 45 vào bụng. Kế đó, ông nói tôi đưa ví cho ông. Mở ví tôi ra, ông lấy thẻ căn cước quân nhân và thẻ sinh viên trường QGHC có in cờ vàng ba sọc đỏ của tôi ném xuống biển như đã ném súng, rồi trao ví lại cho tôi. Ông bảo nhà còn mẹ, còn em, Việt Cộng bắt thì đừng chống cự, cứ nói là dân thường. Lúc bấy giờ người trên tầu nghĩ những người đang ngồi thuyền máy, bắn súng đuổi theo là Việt Cộng. Bố tôi giữ súng và giữ cả thẻ quân nhân ghi cấp bậc trung tá là quyết chống cự địch, nhưng buộc tôi không được liều mạng như ông.

Cuộc rượt đuổi kéo dài cũng cả mươi phút. Tuy nhiên, mọi người thở phào khi những thuyền máy đến gần. Đó không phải Việt Cộng mà là những người lính Việt Nam Cộng Hoà muốn được lên tầu Đông Hải vì biết những thuyền nhỏ của họ không thể ra biển. Tầu Đông Hải đi chậm lại để những người lính này trèo thang ở mạn tầu lên boong.

Ra Khơi: Những Ngày Đói Khát 

Khoảng 5 giờ chiều hôm ấy, tầu Đông Hải vượt qua Vũng Tầu và hướng đến hải phận quốc tế. Mọi người cùng bùi ngùi nhìn về thành phố Vũng Tầu xa dần, xa dần trong tầm mắt, “đoái trông muôn dặm tử phần, hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” (Truyện Kiều). Lúc đó, cũng như tôi, những người trên tầu nghĩ không bao giờ có thể trở về thăm quê hương, gặp lại người thân yêu, và tương lai thì đầy bất trắc.

Ra đến hải phận quốc tế, chúng tôi trông thấy rất nhiều thuyền nhỏ chung quanh. Mặt trời xuống dần rồi chìm vào lòng biển. Tầu Đông Hải ngưng chạy và bồng bềnh trên sóng nước suốt đêm. Thủy thủ đoàn đã neo tầu lại bằng neo khác vì một giây neo đã bị chặt đứt khi tầu khởi hành. Trong thời gian tầu được neo, nhiều thuyền nhỏ, trong đó có những thuyền đánh cá, cập vào để xin phép lên tầu và họ đều được chấp thuận.

Đêm xuống, tôi đứng tựa người vào thành tầu nhìn ra ngoài. Biển đêm thật đẹp. Ảnh trăng hạ huyền vẽ một đường lấp lánh trên mặt sóng lăn tăn, từ hướng mặt trăng ở chốn xa xăm chạy dài đến con tầu như chia đôi mặt biển. Tôi đã mang ơn đất và hôm nay tôi mang ơn biển. Trong một trận chiến năm xưa, khi đang nằm bẹp dí trên mặt đất thì một quả đạn pháo rơi cách tôi chỉ dăm thước. Tôi không hề hấn gì vì đất che chở tôi. Hôm nay biển cưu mang chúng tôi, đưa chúng tôi thoát khỏi địa ngục của trần thế.

Biển cả bao la trước mặt tôi, bầu trời sao khuya lấp lánh trên đầu tôi, không khí chúng ta đang thở, sinh vật dưới biển, chim chóc trên trời, các động vật trên mặt đất, núi, rừng, ngày, đêm, cỏ, cây, hoa, lá, và loài người là những tác phẩm tuyệt diệu chỉ có thể hoàn thành bởi bàn tay Thượng Đế. Tôi tự hỏi tại sao với quyền uy và phép mầu như vậy, sau khi dựng nên con người, Ngài lại để cho bao cảnh bi thảm, bao mối thương tâm xẩy ra trong lịch sử nhân loại. Loạn lạc, thiên tai, chiến tranh, kế cả những cuộc thánh chiến mà cả hai phe cùng nhân danh Ngài, thời nào cũng có. Có chiến tranh thì có hằng hà sa số cảnh người giết hại người, cha mất con, vợ mất chồng, những kiếp người lầm than, những mảnh đời khốn khổ. Phải chăng vì vậy mà Friedrich Nietzsche, triết gia nổi tiếng người Đức trong thế kỷ 19, từng tuyên bố “Thượng Đế đã chết” để ám chỉ (vì một lý do nào đó) Thượng Đế đã quay mặt không đếm xỉa đến loài người sau khi tạo ra sinh vật có thể gọi là tác phẩm vĩ đại nhất của Ngài? Có lẽ vì chịu ảnh hưởng của Nietzsche, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã mở đầu ca khúc Này Em Có Nhớ của ông với câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này em xin cứ phụ người.”

Sau khi đứng ngắm biển đêm một lúc, tôi tìm một chỗ trên sàn tầu lúc nhúc những người là người để nằm dỗ giấc ngủ. Nằm ngửa mặt nhìn bầu trời khuya chi chít những vì sao lấp lánh, tôi nhớ đến những khuôn mặt thân quen, họ hàng có, bạn hữu có, mà lúc ấy mình nghĩ đã vĩnh viễn rời xa. Nổi bật trong số này là hai đứa bạn gắn bó với tôi từ những ngày thơ ấu và có với nhau rất nhiều kỷ niệm, cùng một cô bạn khả ái người Huế có thể gọi là tâm giao nhưng chúng tôi chưa bao giờ vượt quá ranh giới của tình bạn. Tưởng tượng nét mặt bần thần của họ khi đến nhà tôi hôm nay hay ngày mai, bấm chuông không ai mở cửa mà thấy xót lòng. Tôi vui mừng vì đã thoát được Cộng sản nhưng buồn rầu, đau đớn vì những ly tan, cùng những mơ ước, những kế hoạch cho đời đã tan thành mây khói. Bao nỗi vui buồn va vào nhau, xô đẩy nhau trong tôi khiến tôi không ngủ được mặc dầu vừa trải qua đêm thức trắng. Lúc ấy, tôi chưa biết được thời gian rồi sẽ là liều thuốc chữa lành vết thương dù để lại trong ta những đường, ngấn sẹo suốt đời.

Một gia đình Công Giáo gần chỗ tôi nằm cất tiếng đọc kinh. Vài người chung quanh phụ họa. Khi hoang mang, lo lắng, trẻ con cậy đến cha mẹ còn cha mẹ cậy đến Chúa, Phật. Con người, khi đã trưởng thành, thường gần Phật hay Chúa nhất trong lúc nguy nan, gần đến nỗi có cảm tưởng mình cố vươn tay cao thêm một chút là có thể chạm đến trái tim từ ái của các ngài. Kể từ khi con người tin vào Thượng Đế hay Đấng Chí Tôn theo cách riêng của từng tôn giáo, họ đã cậy đến Ngài trong cơn nguy khốn. Ngài có lắng nghe những lời cầu xin của đàn con không, tôi không biết. Tuy nhiên tôi biết chắc một điều rằng Ngài không bị thiệt thòi. Nếu kẻ cầu xin rốt cục được tai qua nạn khỏi, họ tin đã được Ngài phù hộ. Trong trường hợp ngược lại, họ chép miệng thở dài “cái số mình như vậy” và vẫn một mực yêu mến, thờ kính, tin tưởng nơi Ngài. Thôi thì cứ mơ mộng, cứ cầu xin, đáp ứng hay không là việc riêng của Ngài. Dù sao, sự tin tưởng là điều cứu rỗi trong lúc ấy và chẳng thiệt thòi gì khi mình có một niềm tin. Ít ra nó cũng mang đến cho mình hy vọng.

Nhưng rồi, quá mệt mỏi, cuối cùng tôi cũng chợp mắt được khi giấc mơ về một ngày mai tươi sáng vẫn còn dang dở.

Tờ mờ sớm hôm sau, tiếng léo nhéo của những người chung quanh đánh thức tôi. Vừa ngồi dậy, tôi cảm thấy lưng áo mình ướt đẫm. Sờ tay vào sàn tầu, tôi thấy râm rấp nước. Chẳng lẽ mình ngủ say đến độ mưa xuống mà không biết. Sinh nghi, tôi đưa tay lên mũi ngửi thì rõ ràng là nước tiểu. Hàng ngàn người chen chúc trên sàn tầu mà không có một nhà vệ sinh nào trong tầm mắt thì tiểu tại chỗ, nhất là các em nhỏ, là chuyện thường. Đành tự an ủi trong cái rủi có cái may, người ta không đại tiện ra sàn tầu gần chỗ mình nằm là tốt rồi. 

Tôi nhặt chiếc túi đặt dưới sàn tầu đựng hai bộ quần áo mang theo định lấy một chiếc áo ra thay thì mới hay lớp vải chiếc túi cũng đẫm nước. Thôi thì cứ như vậy mà lạy trời mưa xuống.

Tầu Đông Hải nổ máy, chuyển minh rồi lầm lũi trôi đi trên mặt nước biếc xanh như ngọc. Nếu gạt bỏ được những xao động trong tâm tư, chắc những người trên tầu sẽ chứng kiến được vẻ đẹp tuyệt vời của biển Đông trong buổi bình minh sóng lặng như sáng hôm ấy, ngày 1 tháng 5 năm 1975. Chẳng ai ngờ, chỉ vài năm sau cũng chính biến Đông này đã nổi cơn thịnh nộ nuốt chìm hàng chục ngàn, có lẽ đúng hơn là hàng trăm ngàn thuyền nhân phải bỏ nước ra đi như chúng tôi ngày hôm ấy.

Xa xa, trong màn sương sớm, thấp thoáng một chiếc tầu trông giống chiến hạm. Tiến đến gần, chúng tôi thấy đó là một chiến hạm Hoa Kỳ với những người Việt tỵ nạn lố nhố đứng trên boong nhìn về tầu chúng tôi. Thủy thủ đoàn trên tầu Đông Hải quyết định cập vào chiến hạm Mỹ để xin họ cho những người trên tầu sang vì Đông Hải không có đủ thực phẩm cho số người trên tầu. Một trực thăng từ chiến hạm bay lên để quan sát số người đứng chật kín trên boong tầu. Loa phóng thanh trên chiến hạm phát ra những lời bằng Anh ngữ rồi ngay sau đó một người trên chiến hạm dịch sang Việt ngữ là trên tầu họ đã đầy người, không còn chỗ để chứa thêm; tầu chúng tôi phải tránh xa để giữ an toàn. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn Đông Hải vẫn lái tầu cập vào chiến hạm. Ngay lập tức một tràng đạn đại liên từ chiến hạm nổ chát chúa và chúng tôi nghe tiếng đạn bay cao veo véo trên tầu. Rõ ràng họ không muốn cho chúng tôi đến gần và bắn chỉ thiên cảnh cáo chúng tôi. 

Tôi không biết ai là trưởng tầu trên tầu Đông Hải, nhưng những người đang nắm vận mạng con tầu quyết định đưa tầu đi Tân Gia Ba. Với sự trợ giúp của một số thanh niên, các thủy thủ dựng được hai chòi vệ sinh bằng các thanh gỗ có bạt che gắn vào mạn trước của tầu, bên trái dành cho nam, bên phải dành cho nữ. Thế là giải quyết được nhu cầu cho những người di tản mà đến lúc ấy tôi mới biết có cả 2.000 người. Tôi cũng nghe một người trong thủy thủ đoàn kể rằng không có gia đình chủ tầu trong số người tỵ nạn. Sáng hôm trước, khi tầu neo trên bến Bạch Đằng, ông chủ tầu về nhà để đón vợ con. Lúc Việt Cộng pháo kích vào bến, một số quân nhân đã lên sẵn tầu, trong đó có nhiều người lính Hải quân, chặt giây neo và lái tầu đi. Cuộc đời có lắm oái oăm, chủ tầu bị bỏ lại, những người ông không hề quen biết dùng tầu ông tự do ra đi. Xin tạ ơn ông và mong ơn Trên bù lại cho ông công lao đã làm chủ một chiếc tầu đưa 2.000 người đến miền đất hứa.

Cũng đến lúc ấy, tôi mới biết gần giữa tầu có một chiếc thang đứng dẫn xuống khoang dùng để chứa hàng hoá nơi đang có chắc cũng phải bẩy hay tám trăm người la liệt đứng, ngồi, nằm. Để tránh nắng, mẹ tôi đưa các em nhỏ vào khoang. Và rồi, chúng tôi bắt đầu những ngày đói khát. Số bếp trên tầu chắc được thiết kế để đủ dùng cho một thủy thủ đoàn khoảng 30 người nên dĩ nhiên quá thiếu để phục vụ cho 2.000 người. Vì vậy, mỗi người chỉ được chia khoảng 5 thìa cơm trắng và 5 thìa nước hằng ngày. Xin nói cho rõ là thìa ở đây là cái muỗng cà phê. Điều may mắn là trên tầu có sẵn vài bao sữa bột nên các em nhỏ còn uống sữa hay bú chai được phát vài thìa sữa bột và khoảng nửa cốc nước; dĩ nhiên là nước lạnh chứ không phải nước nóng. 

Hai ngày sau, tầu Đông Hải vào hải phận Tân Gia Ba. Một chiến hạm hải quân của đảo quốc này hướng dẫn tầu đến bỏ neo trong vùng vịnh, xa xa là thành phố với những tòa building chọc trời. Mọi người phải chịu đựng cơn đói khát trong nhiều ngày nữa. Có lần trông thấy một gia đình bên cạnh lấy gói mì mang theo ra ăn sống vì không có nước và bỏ lại những túi bột gia vị mặn chát, cô em 12 tuổi của tôi xin họ rồi bóc những túi này ra chia cho ba em 9, 7, và 5 tuổi liếm cho đỡ thèm. Trên tầu, tôi gặp người bạn cùng khóa Đốc sự trường QGHC là anh Nguyễn Tử Nha, một sinh viên gốc quân nhân như tôi. Anh vốn là đại úy phục vụ tại Nha Kỹ Thuật trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, đơn vị hoạt động biệt kích thu thập tin tức tình báo để nhận biết hoạt động của địch. Anh có biệt tài châm cứu và tôi đã nhiều lần chứng kiến anh châm cứu bệnh nhân ngay trong khuôn viên Học Viện QGHC khi họ đến trường nhờ anh chữa bệnh. Khi di tản, anh xách theo túi kim và dụng cụ châm cứu. Anh đề nghị tôi để anh châm cứu cho cảm thấy đỡ đói. Tôi không tin tưởng lắm ở châm cứu nhưng đói quá hóa liều, đành nằm dài trên sàn tầu để anh cắm kim vào người. Thế mà sau đó tôi cảm thấy đỡ đói thật.

Mọi người trên tầu tiếp tục chịu đói thêm vài ngày, cho đến khi chúng tôi được nhà cầm quyền Tân Gia Ba tiếp tế lương thực bằng cách cho một tầu nhỏ đến sát tầu Đông Hải, ném những ổ bánh mì lên cho đám đông trên tầu giành giật. Những ổ bánh này có kích thước tương đương những ổ bán trong các siêu thị ở Mỹ nhưng không xẻ sẵn ra từng lát mỏng. Tham gia vào cuộc giành giật này cùng với các trai tráng trên tầu, tôi chụp được hai ổ. Khi bước về chỗ gia đình đang trú ngụ, trông thấy cô gái cho mượn áo len, tôi bẻ nửa ổ tặng ba chị em cô.

Hôm ấy, lúc chia phần bánh mì cho các em, tôi hả hê với cảm tưởng mình như một anh hùng khi trông thấy ánh mắt mừng vui của chúng. Tuy nhiên về sau, trưởng thành hơn, tôi thấy hỗ thẹn khi nhớ đến hành vi của mình tả xung hữu đột, chen lấn trong đám đông, xô nhau, đẩy nhau để chộp bắt những ổ bánh mì đang rơi xuống. Mình phải nhẩy cao hơn họ, phải vươn tay cao hơn họ. Trong nỗi hỗ thẹn, tôi lòng trấn an lòng rằng mình hành động như vậy để mang lợi ích cho thân nhân. Nhưng rồi tôi tự hỏi nếu chỉ có mình tôi trên chuyến tầu ấy, sau vài ngày nhịn đói, tôi có đủ dũng khí để làm kẻ bàng quan trong khi mình đủ sức tham gia cuộc giành giật ấy không? Rồi tôi buồn rầu vì tự hiểu chắc mình cũng không làm khác được. Thôi thì phải cậy đến câu nói của nhà hiền triết Plato để lòng còn thanh thản: “Trong mỗi chúng ta, ngay cả những người ôn hòa, chừng mực nhất, đều có một thứ ham muốn tồi tệ, hoang dã, và vô luật pháp.”

Khoảng 10 ngày sau khi tầu đến Tân Gia Ba, hải quân của đảo quốc này mang sà lan đến để chuyển hơn một nửa số người trên tầu Đông Hải sang những tầu buôn Việt Nam khác còn trống chỗ cũng đang neo trong vịnh và chỉ đường đến Subic Bay, một vịnh trên biển Đông thuộc lãnh thổ Phi Luật Tân và là căn cứ của Hải Quân Hoa Kỳ, nơi đang đón tiếp người tỵ nạn Việt Nam. Gia đình chúng tôi được chuyển lên tầu Long Hồ với số người trên tầu khoảng 700. Chính quyền Tân Gia Ba tiếp tế gạo, bánh mì, và thực phẩm đóng hộp cho chúng tôi đủ dùng trong hành trình. Thế là chấm dứt chuỗi ngày đói khát.

Từ lúc gia đình chúng tôi được chuyển sang tầu Long Hồ, tôi không gặp lại cô gái cho mượn áo len. Cô và hai em còn ở tầu Đông Hải. Về sau, tôi được biết tầu này đã từ Tân Gia Ba đến thẳng Guam, một hòn đảo thuộc Hoa Kỳ, ở phía tây của Thái Bình Dương, nơi từng đón tiếp cả trăm ngàn người Việt tỵ nạn trước khi họ được chuyển đến các trại tạm trú trên lục địa Hoa Kỳ.

Khi đến trại tạm cư trên đất Mỹ, một cô em tôi nhắc lại chuyện cô gái cho tôi mượn áo và bảo tôi đừng tưởng bở mà mộng mơ, có khi chiếc áo cô cho tôi mượn là của mẹ cô. Cô em khác hỏi đùa tôi sao anh hùng không bắt chước Từ Hải xưa mà cưu mang giai nhân. Tôi chưa kịp trả lời thì mẹ tôi đã phang cho câu thành ngữ “Ốc không mang nổi mình ốc, lại còn đòi mang cọc cho rêu.” Tôi vẫn tiếc đã quên hỏi tên cô hay đã hỏi mà giờ không nhớ. Thậm chí, bây giờ tôi không thể hình dung ra gương mặt cô mà chỉ nhớ cô có dung nhan phảng phất câu thơ của Trần Dạ Từ: “em mười sáu tuổi, trăng mười sáu.” Trong nỗi hoang mang, lo âu cho sự sống còn, không những cho mình mà còn cho cả gia đình, sự quên lãng này là điều đáng được tha thứ. Cầu mong cho cô và các em hạnh phúc, thành công trên xứ người trong nửa thế kỷ qua, và đã được đoàn tụ với bà mẹ.

Các Trại Tạm Trú Dành Cho Người Di Tản

Ba tuần sau khi rời Sài Gòn, chúng tôi đến Subic Bay vào một buổi tối. Hải quân Hoa Kỳ đưa sà lan ra đón nửa số người trên tầu Long Hồ vào tạm trú tại căn cứ này, trong đó có gia đình tôi. Đứng trên sà lan, bố tôi thả khẩu Colt 45 xuống biển. Tôi được biết người Mỹ cung cấp thêm lương thực cho những người còn lại trên tầu Long Hồ và chỉ đường cho thủy thủ đoàn lái tầu đến Guam.

Chúng tôi ở Subic Bay dễ chừng cả tháng, ngày ba buổi xếp hàng ở nhà ăn nhận phần ăn sáng, trưa, chiều. Gia đình tôi đông người và có nhiều trẻ em nên được tạm trú tại một phòng của khách sạn hai tầng độc nhất trên đảo, nơi trước đây dành cho các các quân nhân Hoa Kỳ nghỉ phép ngắn hạn, trong khi đa số người tỵ nạn ở các lều vải với ghế bố. Chỉ vài ngày sau, tôi được những người tạm trú trong khách sạn bầu làm trưởng khu vì người tiền nhiệm lên chuyến bay sang Guam, Nhiệm vụ chính của trưởng khu là cắt cử những người dọn dẹp vệ sinh tại khách sạn và đặc biệt là cùng với những nhóm khác, luân phiên làm công tác đổ thùng trong những nhà vệ sinh dã chiến do các quân nhân Hoa Kỳ dựng tạm cho người tỵ nạn trên đảo, một công tác khá nặng nhọc chỉ dành cho những thanh niên và trung niên phái nam. Dĩ nhiên, tôi phải có mặt cùng với những người trong nhóm mình. Đến cuối tháng Năm, tôi lại được chỉ định làm trưởng ban văn nghệ cho buổi tiệc cảm ơn những quân nhân Hoa Kỳ phục vụ giúp người tỵ nạn. Thật ra, người giữ trách nhiệm trưởng ban là nghệ sĩ La Thoại Tân. Tuy nhiên, khoảng hai tuần trước buổi tiệc, ông cùng gia đình có tên trong danh sách những người sang Guam nên tôi được chỉ định thay thế. Buổi tiệc được tổ chức tại nhà ăn trong một chiếc lều thật lớn có bàn ghế đủ cho khoảng 500 người với sự hiện diện của hầu hết những người lính Hải quân Mỹ trên đảo. Điều lý thú là buổi tiệc dành để cảm ơn họ nhưng âm thanh, ánh sáng, nhạc cụ, và cả thức ăn đều do họ cung cấp.

Vào đầu hạ tuần tháng Sáu, chúng tôi được chuyển sang căn cứ không quân Clark của Hoa Kỳ cách Subic Bay khoảng 80 cây số để lên một vận tải cơ bay đến Guam. Gia đình tôi chỉ ở Guam gần ba tuần trước khi đáp chuyến bay của hãng hàng không Pan Am do chính quyền thuê để đến thành phố Fort Smith thuộc tiểu bang Arkansas. Từ phi trường Fort Smith, chúng tôi lên chuyến xe bus đến Fort Chaffee, một trong năm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ được dùng làm nơi tạm trú cho người Việt tỵ nạn sau biến cố tháng Tư năm 1975. Fort Chaffee là một trại huấn luyện khá lớn của Lục Quân Hoa Kỳ với vài trăm dẫy nhà gỗ (barracks) đã đón tiếp khoảng 50.000 người Việt tỵ nạn trong năm 1975. 

Gia đình chúng tôi đến Fort Chaffee ngày 12 tháng 7, khi trại đang có rất đông người tỵ nạn đến trước. Tại đây, ông chú thiếu tá tình báo của chúng tôi đoàn tụ với vợ con đã được Hoa Kỳ cho di tản khỏi Việt Nam từ trung tuần tháng Tư như đã kề. Cuối tháng 8, tôi và cô em kế được học bổng của một trường đại học ở tiểu bang Oklahoma và rời trại đến trường để học nội trú. Khoảng 3 tuần sau, bố mẹ tôi và 6 người em được Northwoods Presbyterian Church, thuộc Giáo Hội Trưởng Lão có nguồn gốc từ Tô Cách Lan, ở Houston bảo lãnh. Cô em đã lập gia đình sang định cư ở Hoa Thịnh Đốn, tức Washington D.C. Mùa hè năm 1976, sau một năm học ở Oklahoma, tôi và cô em kế chuyển trường về Houston, tiểu bang Texas để sống chung với gia đình.

Hình gia đình tác giả với bố mẹ và 8 người con tại trại Fort Chaffee trong hồ sơ xin bảo lãnh.

Định cư tại xứ người, chúng tôi có cuộc sống gọi là tốt đẹp trong nửa thế kỷ qua. Tôi và các em lần lượt tốt nghiệp đại học, rồi đi làm, lập gia đình, sinh con đẻ cái. Chín anh chị em chúng tôi trên tầu Đông Hải ngày nào bây giờ trở thành một đại gia đình với hơn 60 người kể cả dâu rể. 

Chuyến di tản của gia đình tôi tuy gọi là cam go nhưng khi ra đến hải phận quốc tế, dù phải chịu đựng vài ngày đói khát, mọi người vẫn quá may mắn so với những đồng hương vượt biển tìm tự do vài năm sau đó. Chúng tôi ở trên một con tầu lớn trong những tuần lễ biển lặng, sóng êm chứ không phải ngồi chen chúc trên những tầu thuyền nhỏ bé mong manh giữa sóng to gió lớn, và không phải lo lắng về tệ trạng hải tặc. Chuyến đi của chúng tôi cam go ở nghĩa mình không làm chủ được vận mạng mình, những tính toán trước khi ra đi đã không thành sự thật. Thoát đi được là cả một đất trời may mắn.

Nửa thế kỷ trước, chúng tôi chỉ mong thoát khỏi Việt Nam mà không thể biết mình sẽ đến đâu, ở đâu, mưu sinh như thế nào. Những người tỵ nạn Việt Nam đầu tiên vào Hoa Kỳ được phân phối rải rác đến 50 tiểu bang, sống gần hoặc sống chung với người bảo trợ. Chúng tôi phải tìm hiểu, tự mầy mò để bắt đầu cuộc đời mới trên xứ người. Kinh nghiệm để sống còn, để tiến thân là kinh nghiệm từ chính những thất bại của mình chứ không thể học hỏi từ người đi trước, vì làm gì có người đi trước.

Quê Hương Ở Đâu?

Tháng 11 năm 2013, sau hơn 38 năm định cư tại Hoa Kỳ, tôi và nhà tôi về Việt Nam lần đầu để thăm người chị ruột nhà tôi đang bị ốm nặng. Khi máy bay chuẩn bị đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, lòng tôi vừa bồi hồi, vừa bùi ngùi, vừa xao xuyến, lại vừa cảm động. Nước mắt tôi ứa ra, quả tim tôi đập mạnh. Hình như có giai điệu của ca khúc Chiều do Dương Thiệu Tước phổ từ một bài thơ của Hồ Dzếnh đang réo rắt trong tôi: “trên đường về nhớ đầy, chiều chậm rơi chân ngày, tiếng buồn vang trong mây…”

Ấy vậy mà hơn hai tuần thăm viếng vài nơi từ Sài Gòn ra Hà Nội, tôi không có cái cảm xúc “về với quê hương” như mình hằng tưởng tượng, ngay cả khi đứng trước căn nhà cũ ở cư xá Bắc Hải, nơi tôi lớn lên với rất nhiều kỷ niệm, và một chung cư nhếch nhác ở Hà Nội mà trước năm 1954 là nhà bảo sanh Hồ Thị Mão, nơi tôi được sinh ra đời. Những người chiếm nhà chúng tôi đã chia nhà thành hai căn và xây thêm phòng ở nơi vốn là vườn trước. Tôi không thể nhận ra dấu tích quen thuộc nào của căn nhà yêu dấu cũ và những con đường cư xá năm xưa.

Rốt cục, trong chuyến đi hơn 11 năm trước, tôi đã đến thăm vài thành phố ở Việt Nam với con mắt của một khách du lịch. Lúc bấy giờ, tôi ước ao phải chi mình mang tâm trạng của một kẻ xa quê bao năm trời vừa trở về, như người về lại nhà sau chuyến du sơn du thủy nhiều nơi trong bài đọc “Chốn quê hương đẹp hơn cả” của Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà tôi đã học từ tấm bé. Tôi chợt thấy buồn rầu trong ý nghĩ hay là tôi đã mất quê hương?

Ngày hôm ấy, tôi bần thần suy nghĩ quê hương tôi ở đâu? Ở vùng Bắc Ninh, nơi mồ mả tổ tiên tôi đang yên nghỉ; ở Hà Nội, nơi tôi cất tiếng khóc chào đời và là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi; ở Sài Gòn, mảnh đất tôi khôn lớn, lưu giữ biết bao kỷ niệm cho tôi suốt 20 năm trời; hay là ở thành phố Houston trên xứ người, nơi bố, mẹ, vợ, và các em tôi sinh sống suốt nửa thế kỷ qua, nơi chúng tôi đang có bốn con trai và sẽ có những đứa cháu được sinh ra đời? Vâng, có người quả quyết rằng quê hương đích thực chính là nơi có sự hiện diện của người thân yêu, nơi ta nhung nhớ mỗi khi đi xa, và rộn rã niềm vui trên đường trở lại.

Dĩ nhiên, tổ quốc cùa tôi thì muôn đời vẫn là Việt Nam; nhưng câu hỏi về “quê hương” khiến tôi không khỏi quặn lòng. Trong lần thăm Việt Nam năm ấy, ngoài những đổi thay về khung cảnh mà ở bất cứ xã hội nào cũng có sau chiều dài gần bốn thập niên, tôi nhận rõ rằng ở những nơi mà trước chuyến đi tôi vẫn nghĩ là quê hương mình đã không còn những phong tục, tập quán, nếp sống, và cả thứ ngôn ngữ tôi từng quen thuộc. Lúc ấy, tôi nghĩ tôi đã có cùng tâm trạng với Bà Huyện Thanh Quan thuở trước, khi bà từ kinh đô nhà Nguyễn trở về thăm lại cố đô của nhà Lê và viết nên bài thơ bất hủ “Thăng Long Thành Hoài Cổ” với hai câu kết “nghìn năm gương cũ soi kim cổ, cảnh đấy người đây luống đoạn trường.” Thật buồn thay!

Ngẫu Nhiên Hay Số Mệnh?

Ngày còn trong lứa tuổi thanh niên “mộng vói tay cao hơn trời,” tôi nghĩ mình làm chủ vận mệnh của chính mình. Trước khi biến cố 30 tháng Tư ập đến, tôi đã từng nhiều lần phát ngôn với lòng tự tin của tuổi trẻ rằng nếu số mệnh cho mình một quả chanh chua, hãy vắt nó thành ly nước chanh ngon ngọt, cho mình và cho người chung quanh. Câu này dựa trên một giả thuyết chủ quan lắm khi không tồn tại là mình được số mệnh trao quả chanh kèm theo gói đường. Lỡ số mệnh cho thêm gói muối chứ không phải gói đường thì làm gì có nước chanh ngon ngọt mà thưởng thức? 

Hôm nay, chân đã bước qua cột mốc “thất thập nhi tòng tâm sở dục” như lời cụ Khổng dậy khi cụ khoảng tuổi tôi bây giờ, tôi tin rằng cuộc đời mỗi người sinh ra đã được dành sẵn một số phận mà mình không cưỡng lại được. Nhìn lại chuyến vượt thoát khỏi bàn tay Cộng sản vào ngày 30 tháng Tư năm ấy, với những biến chuyển nối tiếp nhau như đã được một bàn tay vô hình sắp xếp, tôi tin rằng định mệnh đã an bài sẵn cho chúng tôi thoát khỏi bàn tay bạo tàn của Cộng sản, trước khi chúng tôi bàn đến chuyện ra đi.

Nghĩ lại, tôi thấy nếu thiếu một chữ “nếu” trong những trường hợp dưới đây, gia đình chúng tôi đã không đi thoát trong ngày lịch sử 30 tháng Tư năm ấy.

– Nếu tôi không thi đậu vào Học Viện QGHC thì vào sáng 30 tháng Tư, giả thử còn sống sót trong trận chiến cuối, có lẽ tôi cũng bị bắt làm tù binh như những đồng đội ở sư đoàn 25. Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, vị tư lệnh sư đoàn, cũng bị Cộng quân bắt tại Củ Chi hôm ấy. Bố mẹ tôi sẽ không ra đi nếu thiếu một người con.

– Mẹ tôi có một xưởng cưa ở Ban Mê Thuột từ năm 1971 và cho một người thuê để khai thác. Ông này không trả tiền thuê trong suốt 6 tháng liên tục nên đầu tháng Ba năm 1975, mẹ tôi quyết định đến thành phố này nhờ thừa phát lại lập vi bằng tại xưởng và đóng xưởng cho đến khi họ thanh toán số tiền đang thiếu. Bà đã mua vé máy bay từ Sài Gòn đến Ban Mê Thuột ngày 9 tháng Ba. Tuy nhiên, sau khi bà mua vé, người Tầu đang thuê phòng nhà tôi để làm nhà in như đã trình bầy ở trên muốn thay thế các máy đang có bằng những máy tốt hơn, in đẹp hơn và nhanh hơn. Ông đề nghị mẹ tôi góp vốn để làm chủ một nửa nhà in. Mẹ tôi đồng ý nên hoãn chuyến đi Ban Mê Thuột một tuần để lo liệu giấy tờ liên quan đến nhà in. Nếu bà không mua một nửa nhà in thì sẽ đến Ban Mê Thuột ngày 9 và bị kẹt lại thành phố này vì hôm sau Cộng quân tấn công và rồi chiếm thành phố. Bà bị kẹt ở Ban Mê Thuột thì gia đình tôi, không ai nghĩ đến chuyện tìm đường ra khỏi nước.

– Sáng 30 tháng Tư, bố tôi đã chọn lộ trình đến phi trường qua Ngã Ba Ông Tạ. Nếu trước khi rời nhà, ông không nhận được điện thoại từ người bạn cho biết ngã ba này đã bị Việt Cộng chiếm mà vẫn theo lộ trình đã sắp xếp thì nếu vẫn an toàn, chúng tôi khó thể thoát ra khỏi khu vực này.

– Tương tự, nếu không có những người lính Biệt Cách Dù gác cầu Trương Minh Giảng cho chúng tôi biết phi trường đã rơi vào tay Cộng Quân thì gia đình không còn cơ hội đến bến Bạch Đằng để lên tầu Đông Hải.

– Nếu không có trung đội Nhẩy Dù đến bố trí ở chỗ chiếc xe gia đình tôi đang đậu thì chắc tôi phải tìm người nào đó nhờ trông xe để lên tầu gọi gia đình về. Việt Cộng không pháo kích vào bến, tầu Đông Hải chưa khởi hành còn chúng tôi đã lên xe về nhà.

– Nếu Việt Cộng pháo kích sớm hơn dăm bẩy phút lúc tôi còn trông xe, tầu Đông Hải sẽ khởi hành với gia đình tôi đang ở trên boong. Một mình tôi bị bỏ lại trên bến.

– Nếu họ pháo kích chậm hơn đôi ba phút, hoặc nếu ông chú tôi đứng gần chúng tôi lúc trên tầu để tôi không phải tốn vài phút tìm ông chào giã biệt, thì cả gia đình tôi đã rời tầu xuống bến, và tầu khởi hành không có chúng tôi. Trường hợp tệ hơn là vừa đi bộ đến xe hoặc vừa vào trong xe thì Việt Cộng pháo kích. Có thể vài người trong gia đình bị thương hoặc thiệt mạng vì mảnh đạn.

Vâng, quả thế, nhớ đến cuộc di tản cam go cuối tháng Tư năm ấy, thiếu một trong những chữ “nếu” nêu trên thì gia đình chúng tôi không đi thoát. Bố tôi, chú tôi, và tôi đã bị hành hạ trong cái gọi là trại cải tạo suốt nhiều năm ròng rã. Riêng bố tôi, với bản tính ương ngạnh “uy vũ bất năng khuất” và lòng căm thù Cộng sản, chắc khó có thể sống sót trong hoàn cảnh bị tù đầy. Mẹ tôi trở thành nạn nhân trong chiến dịch đánh tư sản. Gia đình tôi trắng tay sau hai đợt đổi tiền. Các em tôi rồi lêu bêu, phải bỏ học vì lý lịch để bươn chải kiếm miếng ăn tại những chốn rừng thiêng nước độc có tên mỹ miều là Vùng Kinh Tế Mới. Những cái người khác gọi là “ngẫu nhiên” xẩy ra cho gia đình tôi trong buổi sáng 30 tháng Tư như sự sắp xếp của bàn tay định mệnh để thành những mảnh ghép của con đường dẫn gia đình tôi đến bến bờ tự do. Ắt hẳn mỗi người đã mang sẵn một số mệnh khi vừa được sinh ra đời theo kiểu “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” (một hớp uống một miếng ăn cũng là việc được định trước) như lời cụ Mạnh Tử quả quyết?

Thời mới lớn, tôi được dậy cha đẻ của trách nhiệm là đức hạnh và lòng tự trọng. Trách nhiệm được ca tụng và được trao phần thưởng trong các sách giáo khoa và tiểu thuyết nhưng trên thực tế, trong nhiều hoàn cảnh, người chu toàn trách nhiệm là những người chịu thiệt thòi. Điển hình là những chiến sĩ VNCH tôi gặp sáng ngày 30 tháng Tư năm ấy: những người lính Hải quân đứng gác bộ chỉ huy dù họ biết rõ rằng cấp chỉ huy và những chiến hạm đã ra đi trong đêm, toán Biệt Cách Dù gác cầu Trương Minh Giảng để ngăn Cộng quân tiến vào trung tâm thủ đô, và trung đội Nhẩy Dù ở bến Bạch Đằng đã thức suốt đêm chong mắt quần thảo với địch dù đang trong hoàn cảnh thiếu thốn đạn dược. Họ và những người lính VNCH khác đã can trường bảo vệ thành phố trong những ngày cuối của cuộc chiến. Nhờ vậy mà hàng chục ngàn đồng bào có đủ thời giờ để vượt thoát được cái nhà tù vĩ đại đang mở rộng cửa để nuốt trọn khối người dân miền Nam, trong đó có gia đình tôi. Tôi suốt đời mang ơn các anh!

Khi ở trại tạm trú Fort Chaffee, tôi quen một thiếu tá binh chủng Nhẩy Dù, chỉ hơn tôi khoảng mươi tuổi. Anh là một người lính tác chiến, đã bao phen vào sinh ra tử trong chiến trận. Đêm 29 tháng Tư, anh đưa được gia đình nhỏ bé của anh gồm vợ và ba con nhỏ lên một chiến hạm Hải quân rời bến Bạch Đằng. Một buổi tối, anh rủ tôi đi uống bia ở Hitching Post, quán bia vốn dành cho quân nhân Mỹ trong trại nay được trưng dụng làm nơi tiếp đón người tỵ nạn. Anh bảo uống một bữa để mừng ngày sắp được hôn lên bàn chân tuyệt trần của Nữ thần Tự Do. Đó là lần đầu trong hơn hai tháng tôi lại được thưởng thức chất men của thứ nước mà lắm người quả quyết là phát minh vĩ đại nhất của loài người sau lửa. Chất men, dù nhẹ như men bia, làm người ta cởi mở với nhau hơn. Trong câu chuyện trao đổi, tôi kể anh nghe chuyện những người lính can trường đã chu toàn trách nhiệm mà tôi gặp trong những giờ phút cuối của cuộc chiến.

– Cậu phải hiểu có nhiều thứ trách nhiệm. Anh trầm ngâm một chốc rồi thở dài nói tiếp. “Trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình, với tập thể, với xã hội, và với đất nước. Ngày 29, khi biết tình hình không thể cứu vãn, tôi phải có trách nhiệm đối với bản thân để không bị bỏ mạng hay sa vào tay địch. Tôi phải có trách nhiệm đối với gia đình để đưa vợ con đến bến bờ tự do. Ông cụ của cậu cũng thế thôi. Tôi có ba đứa nhỏ còn ông cụ cậu có 9 người con. Trách nhiệm của ông còn to lớn hơn nhiều so với tôi.”

Lời anh nói khiến tôi suy nghĩ. Quả vậy, khi trưởng thành, mỗi người lắm phen phải phân vân, phải lưỡng lự cân nhắc khi đứng ở ngã ba hay ngã tư đối diện với những con đường trách nhiệm. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng người dám chọn bước vào con đường đầy chông gai và có thể mất mạng như chơi mà tuổi tên không ai biết đến là những người cao cả và đáng trọng, như những người lính tôi đã gặp trên bước đường di tản. Mỗi lần nghĩ đến họ, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của Đằng Phương, tức giáo sư Nguyễn Ngọc Huy: “Họ là những anh hùng không tên tuổi, sống âm thầm trong bóng tối mông mênh, không bao giờ được hưởng ánh quang vinh, nhưng can đảm và tận tình giúp nước.” Cầu mong họ vẫn lành lặn qua ngày định mệnh năm ấy. Cầu mong họ có một cuộc sống không gọi là bi thảm suốt nửa thế kỷ qua.

Vâng, nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hôm nay, cũng như bố tôi, có lẽ hầu hết những người chủ gia đình đưa được người thân yêu rời khỏi quê hương trong tháng Tư tang thương ngày ấy đã không còn trong cuộc đời này. Nghĩ mà thương bố tôi. Khi khởi đầu cuộc đời tỵ nạn, tôi là một thanh niên độc thân chưa đầy 23 tuổi và với tuổi này, không khó khăn lắm để thích nghi với xã hội mới và xây dựng tương lai. Ngày ấy, bố tôi đã 45 và từ lúc trưởng thành, ông là một người lính chuyên nghiệp, chỉ biết đánh giặc, biết làm tham mưu, dĩ nhiên là tham mưu trong cuộc chiến. Sang định cư tại xứ người, ông phải học một nghề lao động, quần quật nuôi đàn con ăn học nên người. Ông đã từ giã chúng tôi về “ngôi nhà lớn” gần ba năm trước. Những người chủ gia đình người Việt tỵ nạn năm 1975, trong đó có bố tôi, chính là những kẻ đã khai sinh ra cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ và cả tại những quốc gia Âu Mỹ khác. Cộng đồng ấy lớn mạnh đều đặn theo thời gian và đã cống hiến cho xã hội nơi họ định cư những đóng góp quan trọng trong mọi lãnh vực. Xin thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ và biết ơn những chủ gia đình thuở ấy nay đã về thế giới bên kia.

Trong cuộc đời, có lúc chúng ta phải đương đầu với những thách đố ảnh hưởng đến vận mạng. Những thách đố chúng ta chịu khuất phục để lại bóng tối trong hồi tưởng, nhưng những thách đố chúng ta vượt qua trở thành thứ ánh sáng ấm áp của ký ức, có thể soi rọi vào tâm hồn khiến bản thân thay đổi theo hướng tích cực. Hồi ức với những ngày tháng Tư năm ấy cho tôi sức mạnh để vượt qua những chướng ngại trong nửa thế kỷ qua. Nhờ mớ ký ức của tháng Tư thuở ấy, tôi đã có cái nhìn khoan dung hơn với người, với đời. Tôi nỗ lực hơn để cuộc sống mình ý nghĩa hơn.

Bài viết này được mở đầu bằng hai câu trong Truyện Kiều: “Bắt phong trần, phải phong trần; cho thanh cao mới được phần thanh cao;” Viết đến đây, tôi nhớ đến hai chữ “túc nhân” của nhà Phật, tức nhân duyên từ kiếp trước, nên xin mượn bốn câu khác cũng của Truyện Kiều để kết thúc:

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Cỗi nguồn cũng ở lòng người, 

Túc nhân âu cũng có Trời ở trong.

Nguyễn Ngọc Bảo 


 

Tác giả “Thề không phản bội quê hương” qua đời

Saigon Nhỏ 

 Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân (Hình:TK)

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân, tác giả ca khúc lừng danh “Thề không phản bội quê hương” đã bất ngờ qua đời vào ngày 3 Tháng Năm 2025, không biết được giờ chính xác, do ông ngã quỵ trong nhà, và qua đời không ai hay biết. Theo vài người trong xóm ước tính, giờ mất của ông có lẽ vào khoảng 13g30 trưa.

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân sinh năm 1939, mất ở tuổi 86, thuộc lứa thứ hai của những nhạc sĩ thành danh trong dòng bolero của miền Nam như Mặc Thế Nhân, Hà Phương, Giao Tiên…

Ngôi nhà của ông ở trong con hẻm nhỏ, đường Trương Tấn Bửu, Quận Ba (nay là đường Trần Huy Liệu, Quận Phú Nhuận) ít người qua lại. Chỉ đến khi hàng xóm nhìn qua song sắt nhà, thấy ông nằm trên đất, gọi không dậy, nên đã hô hoán. Vì ông sống một mình nên sau đó công an khu vực đến phá cửa và đưa ông vào phòng lạnh ở Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, chờ cho thân nhân bên Pháp về chôn cất.

Hiện ngôi nhà nhỏ mà ông vẫn ngày ngày mở cửa nhìn ra ngoài, đón đôi ba đứa học trò đến học nhạc hay thăm viếng, đã niêm phong.

(Hình: AB)

Nhiều năm nay nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân sống cô độc một mình. Sau khi ly hôn, vợ và các con định cư ở nước ngoài, nhạc sĩ chọn ở lại cùng kỷ niệm trong căn nhà nhỏ chỉ khoảng 20m2. Dưới nhà là chỗ ông dạy học, tiếp khách, kể cả nấu bếp. Tối đến ông lên lầu và nghỉ cùng các kỷ vật của vợ con, sách vở của ông.

Sau năm 1975, nhạc sĩ Trường Hoàng Xuân chọn sống đời khép kín. Ông không bè bạn với ai. Những ngày sau này khi sống một mình, lúc buồn, ông lái chiếc honda cũ của mình đi loanh quanh thành phố, ghé nơi nào đó, làm ly café, một mình nhìn phố phường rồi về. Hàng xóm biết ông là nhạc sĩ nổi tiếng một thời nhưng chưa bao giờ nghe ông nói về mình, ông chỉ chào hỏi rồi lại lui vào nhà.

Nhạc sĩ Trường Hoàng Xuân mắc một số bệnh gan, viêm phế quản, viêm mũi dị ứng kinh niên. Ông không khỏe nhưng tự trọng, tránh nhờ cậy ai giúp mình, và cũng không than vãn.

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân nổi tiếng với nhiều bài hát như Hái Hoa Rừng Cho Em, Xé Thư Tình, Bạc Trắng Lửa Hồng… nhưng ca khúc nổi tiếng và được nhắc nhiều vào thời trước 1975 là Thề Không Phản Bội Quê Hương, viết cho Cục Chỉnh Huấn vào năm 1971. Bài hùng ca này được trình bày ở nhiều nơi và tới nay vẫn còn được yêu thích.

(Hình: PB)

Trương Hoàng Xuân học nhạc trong nhà thờ và chơi đàn kiếm sống tại các nhà hàng khi 16 tuổi.

Năm 1960, ông tốt nghiệp Sư phạm, về dạy tại Long Khánh, tỉnh Bình Tuy. Đến năm 1968 thì ông đi lính và được điều về Đài phát thanh Quân đội làm việc chung với Tô Kiều Ngân, Đỗ Kim Bảng, Trầm Tử Thiêng.

Năm 1972, ông được Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa bổ nhiệm về dạy nhạc tại trường Trung học tổng hợp Nguyễn An Ninh, Quận 10.

Năm 1978, Sở giáo dục chính quyền mới phát hiện ông là tác giả của Thề Không Phản Bội Quê Hương, cũng như quá trình làm việc cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa nên đã cho thôi việc, ông xin qua Ngành Bưu điện làm hoạt động văn nghệ quần chúng cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2000.


 

 TÁC GIẢ BỨC TƯỢNG THƯƠNG TIẾC: NGUYỄN THANH THU ĐANG PHẢI THỞ DƯỠNG KHÍ…

 NHỮNG BÀI POST HAY – Vũ Phan Anh

   ☆ Tin từ quê nhà ngày 19.4.2025 cho biết:

 Đại úy điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tác giả bức tượng Thương Tiếc, hiện đang phải nằm trong phòng cách ly của nhà thương Hoàn Mỹ, để được chăm sóc đặc biệt, khi ông bị bịnh loét bao tử, suy thận và viêm phổi.

Được biết ông Nguyễn Thanh Thu sanh năm 1934, đến Mỹ theo diện H.O, nhưng sau 10 năm đã từ California trở về Việt Nam, sống với con cái tại Gò Vấp cho tới nay.

Giấc mơ lớn nhứt mà điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu hằng mong ước, là phục dựng lại được bức tượng Thương Tiếc (theo đúng bản cũ) tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Nhưng nay có lẽ ông sẽ phải ngậm ngùi đưa nỗi niềm mơ ước ấy theo mình xuống huyệt mộ!

Yến Ngọc Hải Âu


 

Hơn 3.000 thuyền nhân bị giết ở đảo Kokra Thailand – -Lapson Luu

 Việt Nam xưa và nay – Khoa Phan

-Lapson Luu

Nỗi ám ảnh kinh hoàng mà nhiều người không biết là đã có ít nhất 3.000 Thuyền Nhân bị Hải Tặc Thái thảm sát ở đảo KoKra.

Trong giai điểm từ 1977-1982 Hải Tặc bắt nhiều thuyền nhân đưa vào hoang đảo KoKra. Chỉ nội trong năm 1981 thống kê cho thấy có 452 chiếc thuyền tị nạn bị tấn công và con số thuyền nhân bị hải tặc thái thảm sát gần 900 người trong cùng năm 1981 – Số thuyền nhân đến được đất Thái mỗi năm khoảng hơn 15.000 người và tổng số thuyền nhân chết ngoài biển do sóng gió, thiếu thức ăn, hải tặc với thống kê cao nhất là 400.000 người bỏ xác ngoài biển khơi.

Liên tục vào những năm 1977-1982 là thời gian cao điểm Thuyền Nhân tị nạn từ Việt Nam đi qua vịnh Thailand để đến Thái, Indonesia và Malaysia – Hải Tặc Thái bắt nhiều thuyền đưa vào KoKra để cướp, hảm hiếp phụ nữ và giết chết ngay sau đó.

Tờ báo Hồn Việt của ký giả Nguyễn Hoàng Ðoan trong năm 1978 đã ghi lại câu chuyện của những người tị nạn bị bắt lên đảo KoKra vượt thoát ra và kể lại nhiều câu chuyện rùng rợn xảy ra tại nơi đây. KoKra có một bia đá nằm ở hướng Bắc của hòn đảo là nơi có diện tích rộng nhất. Đây là nơi bọn Hải Tặc Thái thường đưa phụ nữ VN bắt được ra hảm hiếp tập thể cho tới khi họ ngất đi thì sẽ bị đẩy xuống biển.

Một chiếc thuyền tị nạn trôi dạt vào KoKra cuối năm 1977 kể lại thuyền của họ có 8 người – 3 phụ nữ, một đứa bé và 4 đàn ông khi bị sóng đánh trôi dạt vào đảo , mọi người mừng rỡ vì nghĩ rằng đã có nơi trú ẩn khi gió lớn – Vào được khu vực bia đá thì họ nhìn thấy hàng chữ bằng tiếng Việt được viết nguệch ngoạc – “Đảo này là đảo Hải Tặc hãy rời đi vì họ sẽ giết đàn ông và hảm hiếp phụ nữ!”

Nhanh như chớp, 8 người trở lại chiếc thuyền tìm cách chèo chậm chậm ra khỏi khu vực – vừa rời khỏi đảo KoKra chừng hơn 200 mét thì họ gặp phải một chiếc thuyền lớn hơn của Hải Tặc Thailand từ xa tiến lại gần.

Các thuyền nhân trên tàu 8 người kể lại họ nhìn thấy trên chiếc thuyền Thái có một tay cầm súng carbin và 7 tên khác cầm dao rựa với ánh mắt đẫm máu dữ tợn đang đưa thuyền tiến gần hơn chiếc 8 người.

Trên chiếc thuyền 8 người có 4 thuyền nhân đàn ông, họ là người cùng gia đình – một lính Biệt Cách Dù VNCH, một Biệt Đông Quân VNCH và 2 thanh niên trẻ hơn là Bộ Đội vừa trốn khỏi chiến trường Tây Nam.

Thuyền 8 người Tị Nạn trang bị một súng AK47 còn 4 viên đạn, một khẩu B40 còn một quả và một súng máy không có đạn.

Khi chiếc thuyền hải tặc tới gần thì cây súng máy (không đạn) được người lính Bộ Đội đưa lên để hù và anh Biệt Cách Dù đưa Ak lên bắn một viên bắn sượt ngang mông tên hải tặc đang cầm súng carbin và quả B40 cũng chuẩn bị khai hỏa … Tiếng súng AK đơn độc nổ dòn trong buổi chiều trời gần sẩm tối kéo theo tiếng la hét trên con tàu Hải Tặc nhanh chóng rời bỏ vị trí.

Bỗng chợt từ trên đảo KoKra vọng lên nhiều tiếng phụ nữ khóc thét nghe rợn người. Anh Bộ Đội trẻ bơi rất giỏi vác trên lưng cây AK47 còn 3 viên đạn bơi nhanh về hướng tiếng phụ nữ khóc.

Hai người lính VNCH tìm cách chèo thuyền gần đảo hơn để hỗ trợ cho người em trai Bộ Đội – Họ đã đuổi 5 tên Hải Tặc trên đảo và cứu được 2 phụ nữ còn sống cùng một em bé 4 tuổi – Tất cả 42 người khác trên chiếc thuyền trước đó của nạn nhân đã bị Hải Tặc Thái giết chết sạch…

Lapson Luu

(Đảo KoKra là một hoang đảo, nơi trú ẩn của ngư dân Thailand – Đảo có chiều dài hơn 250 mét và chiều ngang chỗ rộng nhất khoảng 100 mét.


 

“‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’.

Le Thanh Hoang Dan

Copy FB Nguyễn Tuấn

“‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’.

Hôm qua là một ngày lịch sử, vì Amanda Ngọc Nguyễn trở thành nữ phi hành gia gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ.

Amanda (tên tiếng Việt là Ngọc) sanh năm 1991 tại California. Ba của cô là Nguyễn Minh Tú và má là Tăng Ngọc Lan, là ‘thuyền nhân’ tị nạn, gốc Bạc Liêu.

Amanda là một học sinh xuất sắc và có khả năng lãnh đạo. Tốt nghiệp trung học hạng thủ khoa (Valedictorian) và được các đại học lừng danh (như UCLA, Stanford, Barkeley, Harvard, v.v.) sẵn sàng cấp học bổng. Amanda quyết định chọn Harvard, vì đó là mục tiêu cô đặt ra và phấn đấu lúc còn ở bậc trung học. Chuyện kể rằng, trong phòng riêng, cô viết trên bảng trắng những lời tự rèn luyện và tự giữ kỉ luật để sao cho vào được Đại học Harvard.

Ở Harvard, Amanda theo đuổi chương trình cử nhân [tạm dịch] Văn chương và Khoa học (Bachelor of Arts and Science) và tốt nghiệp năm 2013. Trong thời gian theo học ở Harvard, Amanda cũng tiếp tục là một ‘hiện tượng’. Học giỏi, viết văn hay, hoạt động xã hội tích cực là những đặc tính của cô gái trẻ.

Ở tuổi 19, Amanda đi du lịch ở Bangladesh. Ở đó, gặp chuyện bất bình, Amanda giúp truy tố một người đàn ông đã giết cháu gái mình vì đứa cháu bị hiếp. Cô sáng lập ra nhà để nuôi 500 trẻ mồ côi ở Kenya. Điều phi thường là tất cả những việc đó cô làm được trong lúc ở tuổi sinh viên!

Ngay sau khi tốt nghiệp năm 2013, Amanda được nhận vào làm ‘intern’ (thực tập sinh) tại trung tâm không gian NASA và đồng thời làm việc cho trung tâm vật lí thiên văn Harvard–Smithsonian Center for Astrophysics. Amanda có thời gian làm người liên lạc viên tại Toà Bạch Ốc cho Bộ Ngoại giao Mĩ. Thật ra, ngay từ lúc ở Harvard cô đã có ý tưởng nghiên cứu về vũ trụ và làm phi hành gia.

Nhưng giấc mơ phi hành gia bị gián đoạn sau một biến cố quan trọng trong đời xảy ra vào năm 2013. Năm đó, cô bị một tên sinh viên con nhà rất rất giàu hiếp trong kí túc xá ở Massachusetts. Lúc đó Amanda chưa truy tố kẻ tội phạm ra toà vì nghĩ rằng mình chưa đủ tài chánh và tài nguyên để ra toà mà có thể kéo dài nhiều năm.

Cảnh sát cho biết rằng luật pháp Massachusetts cho phép cô có thời gian 15 năm để truy tố kẻ tội phạm. Nhưng trong thời gian đó, nạn nhân phải cứ 6 tháng làm thủ tục để gia hạn bộ ‘rape kit’ (pháp y chứng). Sau 6 tháng mà không có gia hạn thì pháp y chứng sẽ bị huỷ bỏ (và nạn nhân khó truy tố kẻ tội phạm)!

Sau khi nói chuyện với nhiều nạn nhân khác, Amanda nhận ra sự vô lí của luật pháp và quyết định phải thay đổi bộ luật bất công đó.

Năm 2014, Amanda quyết định sáng lập hiệp hội RISE (Đứng Lên) để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của nạn nhân bị hiếp. Năm 2016, qua sự bảo trợ của Thượng nghị sĩ Jeanne Shaheen, Amanda đưa dự luật vào Quốc Hội Mĩ và được Hạ Viện cũng như Thượng Viện thông qua.

Tháng 10/2016 Tổng Thống Barack Obama chánh thức kí đạo luật Sexual Assault Survivors’ Rights Act, và đến nay, đạo luật này đã được thông qua ở 25 tiểu bang, yêu cầu chánh phủ phải minh bạch trong quá trình xét nghiệm nạn nhân bị hiếp.

Năm 2016 Amanda nghỉ việc ở Bộ Ngoại giao để dành toàn thời gian cho việc điều hành tổ chức RISE.

Amanda được trao rất nhiều giải thưởng danh giá ở Mĩ và trên thế giới. Trong danh sách giải thưởng có giải Heinz Award về chánh sách công, “Time 100 Next”, “Forbes 30 under 30”, và Nelson Mandela Changemarker Award. Năm 2019, cô được đề cử giải Nobel Hoà Bình.

Khi nghe tin được tuyển chọn làm phi hành gia bay vào vũ trụ, Amanda viết trên trang truyền thông xã hội rằng ‘Là những thuyền nhân tị nạn, gia đình tôi nhìn lên những vì sao để tìm đường đến tự do’ (‘As boat refugees, my family looked to the stars to guide their way to freedom’) và nói với má cô rằng ‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’ (‘You crossed the ocean so I can touch the sky.’)”

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo


 

TỐI NAY: NGƯỜI PHỤ NỮ MỸ GỐC VIỆT ĐẦU TIÊN BAY VÀO VŨ TRỤ

BBC News Tiếng Việt 

Amanda Nguyễn, người phụ nữ Mỹ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ, sẽ chính thức bắt đầu hành trình vào lúc 8 giờ 30 tối nay 14/4 theo giờ Việt Nam gian trên tên lửa du lịch vũ trụ của tỷ phú Jeff Bezos.

Bà Amanda Nguyễn, 33 tuổi, là con của hai người tị nạn Chiến tranh Việt Nam.

Bà là một nhà khoa học nghiên cứu về du hành vũ trụ sinh học, từng tốt nghiệp Đại học Harvard và từng nghiên cứu tại Trung tâm Vật lý thiên văn Harvard, Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), NASA và Viện Khoa học Du hành Vũ trụ Quốc tế (IIAS).

Ngoài bà Amanda Nguyễn, phi hành đoàn có thêm 5 người phụ nữ khác tham gia sứ mệnh NS-31 – dự án bay lên rìa vũ trụ thứ 11 của đơn vị bằng tên lửa New Shepard.

Họ là cựu nhà khoa học tên lửa NASA – Aisha Bowe, nhà sản xuất phim Kerianne Flynn, nhà báo nổi tiếng Gayle King, ca sĩ Katy Perry và Lauren Sánchez – vị hôn thê của tỷ phú Jeff Bezos.

NEW YORK, NEW YORK – SEPTEMBER 11: Amanda Nguyen speaks at Forbes Power Women’s Summit 2024 on September 11, 2024 in New York City. (Photo by Steven Ferdman/Getty Images)

Getty Images/BBC

#BBCNewsTiengViet #AmandaNguyen #hangkhongvutru #nguoiMygocViet


 

Vào Viện Dưỡng Lão – (6 Điều Hối Tiếc)- Trần Văn Giang

Lời giới thiệu

Đây là một câu chuyện dài, thật buồn rất đáng đọc; nhưng cũng là một bài học lớn về việc yêu thương và tôn trọng người cao niên; đồng thời tìm cách giúp họ duy trì tự do và phẩm giá trong cuộc sống còn lại.

Có người nói “Viện dưỡng lão là phòng khách của địa ngục!?” Hay là “Thôi già rồi thì đành phải chịu thôi… Than vãn làm gì nữa hè!” 

Đúng hay sai cũng còn tùy mỗi hoàn cảnh…

Trần Văn Giang

 Nếu chỉ có một điều trong đời mà tôi thực sự hối tiếc thì đó chính là bước chân vào Viện dưỡng lão.

Năm nay tôi 82 tuổi.  Tóc tôi đã bạc trắng, chân cũng không còn nhanh nhẹn như xưa, nhưng tâm trí vẫn còn minh mẫn lắm. Tôi từng nghĩ rằng tuổi giả chỉ đơn giản là một hành trình nhẹ nhàng khi con người ta được tận hưởng quãng thời gian cuối đời trong sự thanh thản.  Nhưng mà không.  Tôi đã sai và sai lầm lớn nhất đời tôi chính là rời bỏ căn nhà mà tôi đã gắn bó suốt hơn nửa cuộc đời để bước vào nơi mà người ta vẫn hay gọi là chốn “An dưỡng tuổi già.

Ban đầu tôi không có ý định vào Viện dưỡng lão vì tôi còn đủ sức chăm sóc bản thân, mặc dù hơi chậm chạp hơn trước một chút.  Nhưng rồi con cái tôi, những đứa con mà tôi đã nuôi nấng bằng tất cả yêu thương, lại bảo rằng đưa tôi vào đó là cách tốt nhất để tôi có một cuộc sống thoải mái, được chăm sóc đầy đủ không phải lo nghĩ gì nữa.  Con gái tôi nắm lấy tay tôi với ánh mắt đầy lo lắng, nhưng cũng có chút thúc giục, nói:

–  “Mẹ vào đó đi. Ở đó có người chăm sóc; Có bác sĩ; Có bạn bè trò chuyện; Ở nhà một mình lỡ có chuyện gì không ai biết được?”

Tôi đã do dự rất lâu.  Căn nhà nhỏ của tôi tuy cũ nhưng đó là nơi lưu giữ bao nhiêu kỷ niệm.  Chiếc tủ gỗ do chồng tôi tự tay đóng từ thời trẻ. Góc bếp nơi tôi vẫn nấu những bữa ăn ấm cúng cho gia đình. Chiếc ghế dựa cũ kỹ cạnh cửa sổ nơi tôi hay ngồi đọc báo vào mỗi buổi sáng…  Làm sao tôi có thể rời bỏ những kỷ niệm đó.  Nhưng rồi tôi cũng xuôi lòng. Tôi tin vào lời con cái.  Tôi tin rằng vào Viện dưỡng lão tôi sẽ có một cuộc sống tốt hơn. Tôi tin rằng mình sẽ được chăm sóc chu đáo, được trò chuyện, được an yên…

Vậy mà ngay khi cánh cửa Viện dưỡng lão khép lại sau lưng, tôi đã nhận ra một sự thật cay đắng. Nơi đây không phải là nhà và có lẽ tôi đã không còn đường quay lại. Bạn có bao giờ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi một người giả đánh mất tất cả những gì quen thuộc, những thứ làm nên cuộc sống của mình. Tôi cũng từng là người không nghĩ đến điều này cho đến khi chính mình rơi vào hoàn cảnh hiện tại.

Tôi ước chi có ai đó đã nói cho tôi biết trước khi tôi bước vào Viện dưỡng lão.  Nếu bạn hiện ,đang cân nhắc về việc sẽ “Vào Viện dưỡng lão,” dù cho chính mình hay cho người thân, hãy nghe câu chuyện của tôi trước khi quyết định. Vì một khi bạn bước vào Viện dưỡng lão thì cuộc sống của bạn sẽ không bao giờ còn như trước nữa.  Tôi muốn kể cho bạn nghe “Sáu (6) điều mà tôi hối tiếc” như sau.

Hối tiếc 1: Đã mất đi sự tự do.

Sáng hôm đó tôi thức dậy trên một chiếc giường lạ.  Tôi vươn vai theo thói quen định bước ra bên hiên nhả để hít thở chút không khí buổi sáng.  Nhưng rồi tôi chùng lại vì không có hiên nhà nào cả.  Không có ánh nắng nhẹ nhàng len qua khung cửa sổ quen thuộc.  Không có tiếng chim ríu rít trên mái hiên.  Chỉ có bốn bức tường trống trơn và mùi Thuốc khử trùng thoang thoảng trong không khí.

Phải mất một lúc để tôi nhớ ra là tôi không còn ở nhà mình nữa.  Tôi đã ở Viện dưỡng lão. Cảm giác xa lạ ấy không biến mất sau một ngày, một tuần, hay thậm chí một tháng.  Mọi thứ trong Viện dưỡng lão đều vận hành theo một lịch trình cứng ngắc mà tôi không có quyền thay đổi: 7:00 sáng nhân viên y tế mở cửa bước vào đánh thức tôi dù tôi chưa muốn dậy; 7:30 bữa sáng được mang đến dù tôi không hề đói; 9:00 có một buổi sinh hoạt chung nơi mọi người ngồi nghe nhạc hoặc tập thể dục nhẹ; 1:00 ăn trưa dù tôi thích món khác hơn tôi vẫn phải ăn thứ được mang ra.  Mọi thứ đều có sẵn nhưng tôi chẳng được lựa chọn gì cả. Tôi không còn có thể nấu món canh khổ qua nhồi thịt mà tôi vẫn thích; Không thể uống trà vào buổi chiều như tôi vẫn hay làm; Không thể đơn giản đi bộ ra đầu ngõ mua một túi bánh khi thèm một chút đồ ngọt; Ngay cả việc muốn ra đi ngoài cũng phải xin phép và chờ có người hỗ trợ (?).

Tôi nhớ ngày đầu tiên ở đây tôi đã định ra ngoài đi dạo một chút nhưng cửa đã khóa.  Một nhân viên nói tôi:

– “Bác cần ra ngoài ạ?  Để con gọi người dẫn bác đi.”

Tôi sững sờ. Tôi cần ai đó dẫn đi để bước ra ngoài sao?  Dù chỉ là một đoạn đường ngắn thôi.  Dần dần tôi hiểu ra ở đây tôi không còn được quyết định cho chính mình nữa.  Từ một người có thể tự do làm mọi thứ, tôi trở thành một người phải chờ đợi người khác quyết định giúp mình.  Cảm giác mất đi sự tự do không ập đến ngay lập tức.  Nó len lỏi vào từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống nó khiến tôi nhận ra những thứ đơn giản nhất như tự chọn giờ ăn; Tự quyết định hôm nay sẽ làm gì là những điều tôi từng xem là hiển nhiên, nhưng giờ lại là một thứ xa xỉ.

Rồi tôi bắt đầu quen dần với việc không thể tự do ra ngoài; Quen với việc phải ăn thứ được đưa ra dù tôi không thích; Quen với việc ngồi chờ đến giờ ngủ dù tôi chưa muốn ngủ.  Nhưng bạn cũng biết:  Không quen, không có nghĩa là chấp nhận. Có những đêm tôi nằm trên giường mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà.  Tôi nhớ lại những ngày còn ở nhà khi tôi có thể tự tay mở cánh cửa nhà mình bất cứ lúc nào.  Khi tôi có thể tự quyết định hôm nay sẽ làm gì khi tôi vẫn còn là người làm chủ cuộc đời mình.  Giờ đây tôi chỉ là một cái tên trên một danh sách, một phần trong hệ thống người già phụ thuộc vào lịch trình của người khác.

Nếu bạn đang cân nhắc đưa cha mẹ mình vào Viện dưỡng lão hoặc chính bạn đang nghĩ đến điều đó.  Hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự tự do của mình để lấy sự tiện lợi không? Bạn có thể chịu đựng được cảm giác mỗi ngày trôi qua mà không thực sự được quyết định điều gì trong cuộc sống của mình không? Vì một khi bạn đã đánh mất sự tự do thì việc lấy lại nó gần như là không thể được.

Hối tiếc 2: Cảm giác bị lãng quên.

Những ngày đầu tiên ở Viện dưỡng lão tôi vẫn còn niềm tin.  Tôi tin rằng dù có xa nhà tôi vẫn sẽ được con cháu quan tâm. Tôi tin rằng dù ở một nơi khác, tình cảm gia đình vẫn không thay đổi.  Ban đầu thì đúng như vậy.

Tuần đầu tiên con gái tôi đến thăm nó mang theo ít bánh ngọt, một hộp sữa và ngồi trò chuyện với tôi suốt cả buổi chiều.  Nó hỏi tôi ánh mắt đầy quan tâm:

– “Mẹ có quen không?  Mọi thứ ổn chứ?”

Tôi mỉm cười gật đầu vì tôi không muốn nó lo lắng. Cuối tuần đó, các cháu tôi cũng đến.  Chúng ríu rít kể chuyện trường lớp.  Chúng ôm tôi rồi chụp vài tấm ảnh.  Tôi cảm thấy lòng mình ấm áp.  Tôi tự nhủ mình không cô đơn đâu. Mọi người vẫn sẽ nhớ đến mình… Nhưng rồi những lần thăm hỏi cứ thưa dần đi.  Tuần thứ hai con gái tôi bận công việc.  Nó chỉ gọi điện thoại dặn dò vài câu rồi gác máy.  Tuần thứ ba cháu tôi nói nó có bài thi ở trường không thể đến thăm Ngoại.  Đến tuần thứ tư thì chẳng còn ai ghé nữa.  Tôi bắt đầu đếm từng ngày mong chờ có ai đó mở cánh cửa phòng nói với tôi rằng “Mẹ ơi con đến rồi.”  Hoặc “Ngoại ơi.  Con nhớ Ngoại lắm…” Nhưng cửa vẫn đóng, điện thoại vẫn im lặng.

Rồi tôi nhận ra tôi không phải là người duy nhất rơi vào tình cảnh này.  Tôi thấy những cụ già khác cũng ngồi lặng lẽ bên cửa sổ; Đôi mắt nhìn ra xa chờ đợi một bóng dáng quen thuộc. Tôi nghe những câu chuyện thì thầm” “Thằng con tôi nói cuối tuần này nó tới; nhưng rồi lại báo là bận”;  “Hôm nay là sinh nhật tôi mà chắc chẳng có ai nhớ đâu?”…  Và tôi hiểu rằng một khi đã vào Viện dưỡng lão rất dễ để người ta lãng quên mình.  Không phải vì con cháu không yêu thương tôi nữa. Tôi biết chúng vẫn yêu tôi, nhưng cuộc sống bận rộn khiến chúng dần dần xem sự vắng mặt của tôi là chuyện hiển nhiên.

Lần đầu tiên tôi thực sự cảm nhận được điều này là vào dịp Tết.  Những năm trước, vào ngày 30 Tết, tôi sẽ cùng con gái gói bánh, quét dọn bàn thờ tổ tiên, chuẩn bị mâm cơm cúng mọi thứ luôn rộn ràng ấm áp.  Nhưng năm nay tôi ngồi một mình trong căn phòng nhỏ của Viện dưỡng lão lắng nghe tiếng pháo vọng từ xa.  Không ai đến đón tôi về nhà.  Không ai nhớ rằng Tết của tôi không phải là ăn một phần cơm cứng ngắc trong bữa ăn tập thể mà là những khoảnh khắc bên con cháu; Là mùi hương trầm nghi ngút trong nhà.

Lúc đó tôi mới thực sự hiểu một khi bạn rời khỏi cuộc sống thường ngày của con cái, bạn cũng rời khỏi những thói quen của họ. Họ sẽ tiếp tục với công việc với gia đình nhỏ của họ họ sẽ nhớ đến bạn nhưng không còn là mỗi ngày.  Họ sẽ vẫn yêu thương bạn, nhưng không còn dành thời gian cho bạn như trước và rồi dần dần bạn trở thành một cái tên trong ký ức của họ – Một điều gì đó quan trọng nhưng không còn là ưu tiên.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão hoặc định gửi cha mẹ mình vào đó, hãy tự hỏi là bạn có sẵn sàng sống những năm tháng cuối đời trong sự mong chờ mà không biết khi nào người thân sẽ đến thăm bạn.  Có chắc rằng dù bạn không còn ở nhà con cháu vẫn sẽ đến gặp bạn thường xuyên như họ hứa bởi vì một khi bạn bước vào nơi này, cuộc sống ngoài kia sẽ tiếp tục nhưng không còn có bạn trong đó.

Hối tiếc 3: Mất đi ý nghĩa cuộc sống.

Tôi từng nghĩ rằng khi về già, con người ta chỉ cần một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi.  Tôi từng tin rằng không phải làm gì cả là một điều tốt… Nhưng không phải vậy.  Ngày còn ở nhà tôi luôn có việc để làm.  Sáng thức dậy tôi pha một ấm trà; Tưới mấy chậu cây ngoài hiên; Rồi tự nấu một bữa ăn đơn giản; Tôi có thể ra chợ đi dạo trò chuyện với hàng xóm; Tôi có thể tự tay thu dọn nhà cửa giặt rũ quần áo sắp xếp lại những kỳ vật cũ… Những điều nhỏ nhặt ấy khiến tôi cảm thấy mình vẫn còn giá trị, vẫn có một mục đích sống.  Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão mọi thứ đột nhiên dừng lại.

Tôi không cần phải nấu ăn nữa vì bữa ăn được đưa đến tận nơi dù tôi có thích hay không; Tôi không cần phải quét dọn nữa; Nhân viên vệ sinh làm tất cả rồi; Tôi không cần lo lắng gì cả nhưng tôi cũng chẳng còn gì để làm.  Ban đầu tôi nghĩ đây là một điều tốt (!);  Cuối cùng thì mình cũng được nghỉ ngơi.  Nhưng chỉ sau vài tuần, tôi bắt đầu cảm thấy trống rỗng.  Buổi sáng thức dậy, tôi chẳng biết hôm nay mình sẽ làm gì?  Tôi ngồi trên giường nhìn quanh căn phòng nhỏ tự hỏi mình có thực sự còn ý nghĩa gì không?

Tôi không phải người duy nhất cảm thấy như vậy. Tôi nhớ có một bác tên Minh trước đây là một thầy giáo.  Lúc còn ở nhà bác vẫn dạy kèm mấy đứa trẻ trong xóm vẫn đọc sách mỗi ngày.  Nhưng khi vào đây, bác chẳng còn học trò cũng chẳng còn sách vở mỗi ngày.  Bác chỉ ngồi yên trên chiếc ghế cũ, lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ.  Một lần tôi hỏi bác không định làm gì sao?  Đọc sách viết gì đó chẳng hạn?  Bác thở dài:

–  “Tôi cũng muốn lắm nhưng chẳng ai cần tôi nữa. Không có ai để dạy. Không có ai để chia sẻ. Tôi dần dần quên mất mình là ai.”

Câu nói ấy ám ảnh tôi.  Một người từng là thầy giáo; Một người đầy tri thức từng cống hiến cả đời cho học trò giờ đây ngồi lặng lẽ trong căn phòng nhỏ tự hỏi mình còn ý nghĩa gì nữa không?  Tôi chợt nhớ lại những người bạn đồng niên ngày xưa.  Một bác từng là thợ mộc ngày nào cũng sửa chữa đóng bàn ghế; Một cô từng là thợ may lúc nào cũng bận rộn với kim chỉ.  Nhưng khi vào đây tất cả đều trở thành những con người ngồi chờ thời gian trôi qua.  Không phải vì họ không muốn làm gì mà vì ở đây chẳng có gì để làm cả.

Dần dần tôi hiểu ra một điều con người không chỉ cần ăn uống và ngủ để tồn tại.  Chúng ta cần có một mục đích một lý do để thức dậy mỗi sang; Một điều gì đó để mong chờ nhưng ở Viện dưỡng lão những thứ ấy dần dần bị lấy đi.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão thì hãy tự hỏi điều gì khiến cuộc sống của bạn có ý nghĩa?  Bạn có thể sống mà không có trách nhiệm; Không có công việc gì để làm; Không có ai cần đến bạn không?  Vì khi đã mất đi ý nghĩa cuộc sống bạn không còn thực sự sống nữa.  Bạn chỉ đang tồn tại.

Hối tiếc 4:  Sức khỏe suy giảm nhanh hơn mong đợi.

Trước khi vào Viện dưỡng lão tôi vẫn còn khá khỏe so với tuổi của mình.  Tôi không thể chạy nhanh như thời trẻ, nhưng tôi vẫn có thể tự đi chợ tự nấu ăn tự làm những công việc nhỏ trong nhà mỗi sáng.  Tôi vẫn có thói quen đi bộ quanh khu phố để giữ cho chân cứng cáp.  Nhưng mọi thứ thay đổi nhanh hơn tôi tưởng.

Ngày đầu tiên vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra mình không cần phải làm gì nữa: Bữa ăn đã có người mang đến tận phòng không cần phải đi chợ, không cần đứng bếp, có nhân viên chăm sóc.  Nếu tôi cần gì chỉ cần bấm nút sẽ có người giúp ngay không cần phải đi bộ xa vì mọi thứ đều ở ngay trong khuôn viên chỉ vài bước chân.  Nghe qua thì có vẻ như một cuộc sống lý tưởng;  Nhưng chính sự thoải mái đó đã làm cho cơ thể tôi yếu đi nhanh chóng.  Ban đầu, tôi chỉ nghĩ rằng mình được nghỉ ngơi; Nhưng rồi chỉ sau vài tháng tôi bắt đầu cảm thấy hai chân mình yếu hơn, đi lại chậm hơn, thậm chí đứng lên cũng thấy khó khăn hơn.

Rồi tôi bắt đầu để ý đến những người xung quanh.  Có một bà tên Lành ngày đầu vào đây bà vẫn còn nhanh nhẹn tự đi lại bình thường nhưng chỉ sau vài tháng bà bắt đầu dựa vào gậy để đi rồi dùng xe lăn và cuối cùng thì bà không còn đủ sức đứng lên một mình nữa.  Một ngày nọ, bà nhìn tôi cười buồn.  Tôi không biết nó xảy ra từ khi nào, nhưng tôi có cảm giác như mình già đi cả chục năm chỉ sau vài tháng.

Lúc còn ở nhà, dù tôi không tập thể dục nhiều nhưng ít nhất tôi vẫn di chuyển vẫn phải tự làm mọi thứ.  Điều đó giúp cơ thể tôi duy trì được sự linh hoạt.  Nhưng khi vào đây, tôi ít vận động hẳn.  Tôi bắt đầu ngồi nhiều hơn, và cũng nằm nhiều hơn.  Rồi tôi nhận ra cơ bắp của mình dần yếu đi.  Có một bác sĩ từng nói với tôi:

– “Cụ biết không, khi một người già ngừng vận động họ sẽ mất khả năng vận động nhanh hơn gấp nhiều lần so với người trẻ.  Cơ thể con người vốn dĩ cần được hoạt động.  Khi cụ ngừng đi lại ngừng làm việc cơ thể cụ sẽ bắt đầu suy yếu.”

Đúng vậy.  Nếu tôi biết trước điều này tôi sẽ cố gắng vận động nhiều hơn ngay cả khi đã vào đây.  Nhưng vấn đề là môi trường này không khuyến khích điều đó.  Khi mọi thứ đều được làm sẵn người ta sẽ dần quên mất cách tự chăm sóc chính mình.

Nếu bạn đang cân nhắc Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có còn động lực để duy trì sức khỏe khi mọi thứ đã được làm thay cho bạn không?  Bạn có đủ mạnh mẽ để tự thúc ép mình vận động ngay cả khi không còn ai nhắc nhở?  Vì một khi bạn ngừng sử dụng cơ thể mình bạn sẽ bắt đầu mất đi; và đến khi nhận ra điều đó có thể đã quá muộn để lấy lại.

Hối tiếc 5:  Mất đi sự riêng tư.

Còn nhớ ngày còn ở nhà, tôi có một căn phòng riêng, một không gian của riêng tôi. Tôi có thể đóng cửa bất cứ khi nào tôi muốn nếu tôi thấy mệt.  Tôi có thể nằm dài cả buổi mà không ai làm phiền.  Nếu tôi muốn tắm tôi chỉ cần bước vào phòng tắm mà không cần xin phép ai. Tôi tự quyết định mình làm gì khi nào và như thế nào.  Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra rằng sự riêng tư là một thứ xa xỉ.  Tại đây cánh cửa phòng không bao giờ thực sự thuộc về tôi nữa.  Nhân viên y tế có thể vào bất cứ lúc nào để khám tình trạng sức khỏe của tôi; Người dọn vệ sinh gõ cử cửa rồi bước vào ngay cả khi tôi chưa kịp trả lời; Những cuộc kiểm tra định kỳ được thực hiện mà tôi không có quyền từ chối. Tôi không trách họ vì họ chỉ làm đúng như được chỉ định; Nhưng cái cảm giác bị theo dõi mọi lúc mọi nơi; Cái cảm giác không còn một góc riêng để thực sự gọi là của chính mình nó không dễ chịu chút nào.

Nhưng điều khiến tôi đau lòng nhất không phải là mất đi sự riêng tư mà là mất đi phẩm giá của một con người. Ở nhà, tôi tự tắm rửa tự mặc quần áo tự chăm sóc bản thân, nhưng ở đây khi tôi bắt đầu yếu đi tôi buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác. Tôi muốn đi tắm tôi phải chờ nhân viên hỗ trợ. Tôi cần đi vệ sinh, nếu tôi không tự đi được tôi phải nhấn chuông gọi.  Tôi muốn mặc bộ quần áo mình thích; nhưng nếu không phù hợp với quy định tôi cũng không được mặc.

Bạn có biết cảm giác đứng trước một người xa lạ để họ giúp bạn làm những việc rất cá nhân, trong khi cả đời bạn đã tự làm những việc ấy là như thế nào không? Nó không chỉ là sự bất tiện mà nó là sự tổn thương.  Tôi nhớ có lần tôi bị sốt.  Người hơi yếu nên y tá giúp tôi thay đồ dù cô ấy rất nhẹ nhàng, rất chuyên nghiệp, nhưng tôi cảm thấy mình không còn là chính mình nữa.  Tôi không còn là một người phụ nữ từng sống độc lập, từng tự chăm sóc bản thân.  Tôi chỉ còn là một người già, một bệnh nhân, một con số trong danh sách và điều đó thực sự rất đau lòng.

Không phải ai cũng cảm thấy như tôi.  Một số người ở đây có thể quen với điều đó; Thậm chí chấp nhận nó, nhưng với tôi một người đã từng tự do, từng tự quyết định cuộc sống của mình thì việc mất đi quyền kiểm soát ngay cả những điều nhỏ nhất là điều khiến tôi thấy mình không còn là mình nữa.

Nếu bạn đang nghĩ đến Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự riêng tư để đổi lấy sự chăm sóc.  Bạn có chấp nhận việc mỗi ngày có thể bạn sẽ cần nhờ ai đó giúp làm những điều mà bạn từng làm một cách tự nhiên, bởi vì một khi bạn mất đi sự riêng tư bạn cũng mất đi một phần phẩm giá của chính mình và điều đó khó lấy lại hơn bất cứ thứ gì khác.

Hối tiếc 6:  Khó khăn khi muốn rời đi.

Lúc mới bước vào Viện dưỡng lão, tôi đã tự nhủ rằng đây chỉ là một thử nghiệm.  Tôi nghĩ nếu không hợp mình có thể rời đi bất cứ lúc nào; nhưng tôi đã quá ngây thơ.  Tôi còn nhớ ngày đầu tiên con gái tôi đưa tôi đến đây nó siết chặt tay tôi và nói:

–  “Mẹ cứ thử một thời gian xem sao.  Nếu không thích mẹ có thể về nhà.”

Câu nói đó khiến tôi an tâm phần nào. Tôi nghĩ rằng mình vẫn có sự lựa chọn.  Thế nhưng chỉ sau vài tháng tôi nhận ra rằng việc rời đi không đơn giản như tôi nghĩ.   Một ngôi nhà cũ không còn là của tôi nữa.  Lúc tôi vào Viện dưỡng lão, căn nhà của tôi vẫn còn đó nhưng tôi không còn ở đó để giữ gìn nó.  Con cái tôi bắt đầu sắp xếp lại mọi thứ.  Chúng bớt đi những đồ đạc không cần thiết.  Thậm chí có ý định bán một số món đồ cũ.  Hàng xóm cũng dần dần quên đi sự có mặt của tôi.  Những người từng ghé qua trò chuyện mỗi sáng giờ đây không còn nhớ tôi đã từng sống ở đó?

Một ngày nọ, tôi nói với con gái rằng tôi muốn trở về nhà. Tôi tưởng rằng nó sẽ vui mừng, nhưng thay vào đó tôi thấy sự do dự trong mắt nó:

– “Mẹ có chắc không?  Mẹ về nhà rồi ai chăm sóc mẹ?  Mẹ có tự lo được cho mình không?”

Tôi cứng họng.  Tôi biết rằng mình đã yếu hơn trước.  Tôi biết rằng sự tự tin mà tôi từng có giờ đã lung lay và tôi sợ.  Tôi sợ rằng nếu tôi rời khỏi Viện dưỡng lão tôi sẽ không biết cách thích nghi với cuộc sống bên ngoài nữa.  Y như con chim đã được nhốt nuôi trong chuồng quá lâu. Tôi đã quá quen với việc có người mang cơm đến tận nơi; Có người nhắc nhở uống thuốc; Có người hỗ trợ khi cần.  Giờ đây nếu tôi trở về tôi phải tự lo mọi thứ tôi thì liệu có làm được không?  Sức khỏe của tôi đã thay đổi từ khi mới vào đây.  Tôi vẫn còn khỏe mạnh, nhưng như tôi đã nói ở phần trước, việc ít vận động đã khiến tôi yếu đi nhanh hơn.  Tôi không còn đi bộ nhanh như trước.  Tôi không còn đủ sức nấu ăn một cách linh hoạt.  Y như tâm trạng con chim nuôi trong chuồng lâu ngày nay được thả, tôi không còn cảm giác tự tin khi sống một mình.

Tôi nhận ra một sự thật cay đắng:  Chính thời gian sống ở đây đã khiến tôi trở thành một người không còn đủ sức để trở về.  Trước đây tôi từng nghĩ rằng Viện dưỡng lão chỉ là một điểm dừng chân tạm thời nhưng thực tế càng ở lâu tôi càng mất đi khả năng tự lập và dần dần Viện dưỡng lão trở thành nơi duy nhất mà tôi có thể tồn tại.  Tôi nhìn quanh và thấy nhiều người khác cũng rơi vào tình trạng giống mình.  Có cụ bà từng nghĩ rằng bà chỉ vào đây một thời gian để hồi phục sức khỏe nhưng rồi bà không bao giờ rời đi nữa vì bà đã quen với sự phụ thuộc.  Có cụ ông từng nói rằng sẽ về nhà khi thấy ổn định hơn nhưng sau một năm ngôi nhà của ông bị bán đi và ông không còn nơi nào để về nữa.

Tôi chợt nhận ra một sự thật mà không ai nói với tôi trước đây:  Việc vào Viện dưỡng lão là một quyết định dễ dàng nhưng một khi đã vào thì việc rời đi lại là điều gần như không thể làm được – A Mission Impossible!

Nếu tôi có thể quay ngược thời gian tôi sẽ tìm cách ở lại nhà lâu hơn. Tìm kiếm những giải pháp khác thay vì từ bỏ mái ấm, bước vào đây quá vội vàng.  Tôi sẽ nhờ con cái thuê một người giúp việc bán thời gian.  Tôi sẽ thử sống với một người bạn già để cùng nhau hỗ trợ.  Tôi sẽ tìm đến những trung tâm hỗ trợ người cao niên mà không nhất thiết phải vào một nơi như thế này… Nhưng tôi đã không làm như vậy; và bây giờ tôi không biết mình có thể quay lại cuộc sống cũ hay không?

Nếu bạn đang suy nghĩ về Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có chắc mình sẽ dễ dàng rời đi (trở lại nhà cũ) nếu không thích?  Việc trở lại không dễ như bạn tưởng và nếu bạn không chuẩn bị trước có thể bạn sẽ không bao giờ có cơ hội để làm điều đó.

Tôi hy vọng rằng câu chuyện của tôi sẽ giúp bạn có một quyết định sáng suốt hơn cho chính mình hoặc cho người thân của mình.  Hãy suy nghĩ thật kỹ vì tuổi giả có thể là quãng thời gian hạnh phúc nếu bạn biết cách lựa chọn đúng để chúng ta có thể đồng hành, cùng nhau trưởng thành, cùng nhau sống bình yên và cùng nhau già đi một cách hạnh phúc, êm thắm!

Trần Văn Giang , Orange County. 

Tháng 3/2025


 

NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI CỦA ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN – Giao Chỉ – San Jose

Giao Chỉ – San Jose,

Jan 25, 2008

Cali Today News – Bài viết của chúng tôi về đại tướng Cao văn Viên gồm có ba phần, ghi nhận vào ba thời gian khác nhau. Năm 2003, năm 2005 và năm 2008.

Mon General: (Tháng 10-2003)

Mùa Ðông năm nay, niên trưởng Cao Văn Viên sẽ trải qua những ngày băng giá khó khăn. Năm nay 82 tuổi, ông mới bị té ngã. Tưởng đã quỵ luôn, nhưng một lần nữa y khoa Hoa Kỳ đã đỡ vị Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của QLVNCH đứng lên để tập cho ông đi lại từng bước ngắn.

Chắc chắn là các bác sĩ và chuyên viên Mỹ đều không biết vị cao niên Á Châu này là người đã từng làm chức vụ gì ở Việt Nam. Bởi vì hàng ngày cũng không có nhiều người đến thăm ông. Sau trận té gẫy xương chậu, chưn ông đã sưng thật to, nhưng mãi cả mấy tuần lễ sau ông mới có cơ hội chiếu điện và chữa trị chánh thức. Trước đó ông tự soa lấy bằng dầu nóng và mùi Nhị Thiên Ðường thơm ngát cả căn phòng tại khu chung cư cao niên lầu hai của quận Fairfax miền Virginia. Ông đang cố gắng đứng lên tập đi trở lại trong một chương trình hồi phục để tránh phải ngồi xe lăn là điều mà tuổi già rất quản ngại.

30 năm trong quân ngũ, ông Cao Văn Viên chỉ sống với cấp trên và cấp dưới. Riêng cá nhân ông, gần như không có nhiều bằng hữu tương giao để chén tạc, chén thù. Gần 30 năm sống cuộc đời di tản, vị Ðại Tướng đứng đầu Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bây giờ cũng vẫn tiếp tục độc hành. Ông luôn luôn cố tránh liên hệ vào các tranh chấp chánh trị ngay từ lúc còn trong quân đội cũng như trong hoàn cảnh di dân tỵ nạn hiện nay.Từ khi người vợ quán xuyến của ông qua đời, rồi đến người con trai duy nhứt của ông cũng vắn số, ông Cao văn Viên đã trải qua những mùa đông cô độc ở Nữu Ước, hoàn toàn xa cách mọi người. Ông đi chợ nấu ăn lấy, đóng vai ông già Á Châu vô danh giữa chốn đô thị phồn hoa đông đảo nhứt thế giới. Những năm gần đây ông dọn về ở luôn trong một căn hộ của khu chung cư ở miền Ðông Huê Kỳ, bên cạnh Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn.

Nơi đây đa số là người già Ðại Hàn. Ông tiếp tục đi chợ và nấu ăn lấy. Cô con gái lớn trưởng thành của ông đã tốt nghiệp luật, đi dạy học, lập gia đình và làm việc ở nơi xa. Ðời sống đã không cho phép cha con được gần nhau và vị tướng già cũng đã quen sống như thế. Bây giờ thực ra ông cũng không có nhiều nhu cầu. Người già ở Huê Kỳ lợi tức thấp hoặc không có lợi tức được lãnh bao nhiêu thì niên trưởng Viên của tôi cũng lãnh được bằng đó. Số tiền này đã dành trả hết cho gian phòng ông đang cư ngụ. Trung tá Tâm là một sĩ quan hiếm hoi trong số các thân hữu quân ngũ còn lại quanh ông. Vâng, chính cái anh Tâm đó đang tìm cách xin cho niên trưởng của anh vào một Nursing Home có người săn sóc ngày đêm. Ðó là nhu cầu thực tế và là một ước mơ nhỏ bé của một con người đã một thời mang hình ảnh lớn lao của quân đội chúng ta. Vào đầu thập niên 50’s, gặp nhau tại tiểu khu Hưng Yên, bên bờ sông Hồng Hà có 3 sĩ quan Việt Nam còn trẻ. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, quê Phan Rang miền Trung, lém lỉnh tinh ranh. Ðại úy Trần Thiện Khiêm quê miền Nam, ít nói, thâm trầm. Trung úy Cao Văn Viên, quê miền Bắc, cao lớn, trắng trẻo và đẹp trai nhứt. Nếu coi đây là nhóm bạn đầu đời quân ngũ thì quả thực họ đã từng là chiến hữu. Và Trung úy Cao văn Viên lại là niên trưởng.

Ông Viên tuy người Bắc nhưng thực ra vì cha mẹ làm ăn bên Lào nên ông ra đời tại Vạn Tượng và Thủ Ðô Vientian là dấu ấn của thân phụ đặt tên cho con trai. Vào thời còn trẻ trung, các sĩ quan quốc gia bắt đầu trưởng thành trong vòng tay của quân đội Liên Hiệp Pháp. Các ông quan một, quan hai còn đeo trên vai những gạch kim tuyến vàng chóe với tương lai mở rộng một đời binh nghiệp. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng Trung úy Thiệu sẽ trở thành Tổng Thống. Ðại úy Khiêm trở thành Thủ Tướng và Trung úy Viên trở thành Ðại Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng. Ðó là chuyện sau này. Ðịnh mệnh quả nhiên đã có những ước hẹn với lịch sử. Cả ba người chiến binh Bắc Trung Nam, cùng thăng trầm với chiến tranh, với đất nước để cùng thăng tiến. Họ làm việc với nhau, họ chia nhau những chức vụ tối cao của quân đội và chánh quyền. Cùng yểm trợ nhau, nhưng đồng thời cũng rất xa cách dù ở bên trong hay bên ngoài công vụ. Họ không còn ngồi với nhau những giây phút tửu hậu trà dư. Ông Viên đã nói rằng mối liên hệ của ông với Tổng Thống Thiệu hoàn toàn là công vụ. Các niên trưởng của tôi khi nói chuyện đều thưa gửi với nhau bằng chức vụ. Thưa Tổng Thống, Thủ Tướng, Ðại Tướng vân vân. Khách sáo vô cùng. Cái thời “toa moa” ngày xưa ở Secteur Hưng Yên bây giờ đã xa lắm rồi, chẳng ai còn nhớ nữa.

Với sĩ quan Cao Văn Viên, từ cấp Úy lên cấp Tá, ông luôn luôn là người cần mẫn và hòa nhã. Bước ngoặt của đời ông là cánh chim bằng nhảy dù trên ngực áo. Khi ông còn là Trung Tá tại Tham Mưu Biệt Bộ lúc đó ông Nguyễn Chánh Thi đang coi Liên đoàn Nhảy dù. Cả hai cùng là bạn cũ. Thi rủ Viên học nhảy dù để gột rửa bớt cái vẻ sĩ quan văn phòng. Nhảy thì nhảy. Trung tá Viên lấy bằng Dù và tiếp tục ngồi bên Tham Mưu Biệt Bộ thời kỳ ông Diệm còn đang tại chức. Ðảo chính xẩy ra, Ðại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Dù chạy qua Cam Bốt. Tổng thống Diệm vừa thoát nạn, ngó tới ngó lui thấy ông sĩ quan thân cận gần gũi có bằng cấp nhẩy dù bèn đưa qua nắm liên đoàn Mũ Ðỏ. Từ đó ông Cao Văn Viên bắt đầu làm tư lệnh và cuộc đời đi vào khúc quanh mới. Nhảy dù vốn là đơn vị ưu tú của quân đội, nhưng mũ đỏ đang bị thất sủng vì cú đảo chánh hụt. Giai đoạn này là lúc thử thách của cả vị tư lệnh lẫn các tiểu đoàn nhảy dù. Hai bên thăm dò lẫn nhau. Ông Viên trở thành một vị Ðại Tá tư lịnh hăng hái xông xáo từ kỹ thuật nhảy dù đến các chiến trường trên khắp bốn quân khu. Ông lấy bằng huấn luyện viên Dù và nhảy biểu diễn tự điều khiển cùng với các cố vấn Huê Kỳ. Cuộc đảo chánh ông Diệm lần thứ hai mới là giai đoạn đặc biệt của Ðại tá Cao Văn Viên. Trong khi hầu hết các tư lệnh quân đội đều ngả theo cách mạng thì riêng mình ông từ chối. Ðó là hành động mà sau này ông cũng không chắc là một thái độ khôn ngoan.

Ông Viên thực sự cũng không muốn đóng vai anh hùng, nhưng chỉ muốn giữ tấm lòng chung thủy. Ðã có những người chống đảo chánh bị giết chết như vị Tư lịnh Hải quân, Tiểu đoàn trưởng Nhảy dù và sau này chính anh em Tổng thống Diệm cũng bị giết chết. Nếu viên Tư lịnh Nhảy dù không chịu theo cách mạng mà bị thanh toán thì cũng là chuyện có thể xảy ra. Nhưng chính bà vợ quán xuyến và can đảm đã lên tiếng khi ông chồng bị giam riêng một chỗ. Bà Viên đã quyết liệt can thiệp trực tiếp với tất cả các tướng lãnh đảo chánh mà ngày hôm trước vẫn còn là anh em thân hữu với gia đình ông. Cho đến sau này ông Viên vẫn còn ghi nhớ thái độ mạnh mẽ của người vợ đã cứu sống ông trong năm đảo chánh. Ông cũng không ngần ngại mà nói thẳng ra như thế. Sau khi cách mạng thành công, ngôi sao bản mệnh của ông lại trở nên rực rỡ. Phe thân hữu của Ðệ Nhứt Cộng Hòa tuy đang bị thất thế nhưng vẫn kín đáo ca ngợi thái độ của vị Tư lệnh Nhảy dù. Ngay cả các tướng lãnh và sĩ quan phe cách mạng cũng đều vì nể thái độ của ông. Ông Cao Văn Viên gần như là người duy nhất không theo cách mạng nhưng vẫn được tiếp tục về chỉ huy nhảy dù.

Ðịnh mệnh vẫn tiếp tục chiều đãi. Ông tham dự hành quân Cao Lãnh miền Tây đạt chiến thắng và bị thương. Thêm vào chiến thương bội tinh với ngôi sao đỏ, ông lên Thiếu Tướng với hai sao lấp lánh trên cổ áo và nón đỏ vẫn đội trên đầu.Trong thời gian đảo chánh ông Diệm xảy ra, ông Cao Văn Viên đã không có những kỷ niệm tốt đẹp với tướng Dương Văn Minh. Mấy năm sau, vào giai đoạn chỉnh lý bắt các tướng cách mạng giam lỏng trên Ðà Lạt và cô lập Big Minh thì cũng toàn là lính Nhảy dù của ông Cao Văn Viên. Vì vậy lại thêm một kỷ niệm không đẹp giữa hai người.

Ðó cũng là lý do mà sau này ông nghĩ rằng không thể ngồi lại trong chính phủ Dương Văn Minh. Phải chăng đây cũng là một cái cớ chính thức để có thể ra đi vào đúng thời điểm cần thiết. Tuy nhiên, đó là câu chuyện 75. Trở lại với giai đoạn giữa thập niên 60’s, từ giã nhảy dù, tướng Viên về làm Tư lịnh Quân đoàn III và sau cùng lên chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Với chức vụ quan trọng nhứt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tướng Viên là người có vóc dáng đường bệ nên trong các cuộc thăm viếng đơn vị, hình ảnh của ông cạnh các tướng lãnh Huê Kỳ đem lại niềm hãnh diện cho các binh đoàn. Lớn tuổi hơn các tướng lãnh cùng thời, nhưng ông có khuôn mặt trẻ trung và giữ được thân thể gọn gàng của một cựu huấn luyện viên thể dục lúc còn niên thiếu. Và mặc dù có dư luận chê trách, nhưng tướng Viên vẫn thực sự là người hiếu học ngay từ lúc còn làm Tư lịnh Quân đoàn III. Ông rất chịu những bài giảng về triết học bay bướm của thầy Trần Bích Lan tức thi sĩ Nguyên Sa đã một thời là Trung úy Quân nhu. Phần lớn các tư lịnh quân chủng và các quân đoàn đều kính nể vị Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng vốn từ bên Nhảy Dù đi lên. Ngay cả sau này khi các Tư lịnh Quân đoàn liên lạc thẳng với Tổng thống Thiệu những vẫn giữ lễ độ lịch sự với Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Viên có biệt nhãn với ngành Tiếp Vận vì ngày xưa ông đã từng là trưởng phòng 4 đầu tiên dưới thời quân đội quốc gia phôi thai năm 1954. Mặt khác, ông cũng giữ mối thiện cảm và theo dõi các hoạt động của binh chủng mũ đỏ mà ông luôn luôn hãnh diện đã góp phần trong binh nghiệp. Tướng Viên cũng được sự tin cậy và vị nể của các giới chức Huê Kỳ. Tuy nhiên, chính ông cũng tự nhận thấy chưa bao giờ nghĩ đến ngày có thể lên đến chức tước lớn lao như vậy. Ông luôn luôn mong được làm tròn nhiệm vụ, nhưng ông không phải là hàng tướng lãnh nóng nẩy ồn ào, lấy gậy chỉ huy đập vào đầu sĩ quan, hay la hét thuộc cấp tối ngày. Tướng Viên cảm nhận vai trò phối hợp của một vị Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân như bên Ngũ Giác Ðài Hoa Kỳ chứ không phải là Tổng Tư Lịnh ban hành các lịnh trực tiếp. Như ông đã giãi bày trong tác phẩm mới xuất bản, khi nhận thấy bị Tổng thống Thiệu qua mặt dành trực tiếp quyền điều hành bộ máy chiến tranh thì ông lặng lẽ lui vào vai trò tư vấn cho đến khi xin từ nhiệm.

Tháng 10-2003 khi dịch giả Nguyễn kỳ Phong cho phát hành bản Việt ngữ tác phẩm của Ðại tướng Cao Văn Viên, phóng viên BBC Luân Ðôn có hỏi đi hỏi lại Kỳ Phong nhiều lần một câu hỏi. Ðó cũng là thắc mắc của rất nhiều thính giả và độc giả. Tại sao Ðại Tướng bị thất sủng, xin từ nhiệm lại không được chấp thuận. Dịch giả Kỳ Phong không thể thay mặt tác giả mà trả lời cho suôi câu hỏi phức tạp này. Quả thực đã có lúc ông Thiệu muốn tìm người thay ông Viên nhưng không phải là dễ dàng. Chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng phải lựa chọn trong các Tư lệnh Quân đoàn xuất sắc. Tướng Ngô Quang Trưởng với sự yểm trợ của phía Hoa Kỳ cũng không phải là người làm ông Thiệu an tâm. Tướng Ðỗ Cao Trí cũng đã được phía Hoa kỳ tiến cử trong danh sách nhưng ông Trí vừa nghe tin đã tuyên bố lăng nhăng nên đã làm ông Thiệu quản ngại và gạch tên ngay cả trước khi trực thăng của ông Trí lâm nạn.

Ðối với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, việc thay thế tướng Cao Văn Viên chưa phải là nhu cầu cấp thiết. Ông Thiệu hoàn toàn yên tâm với một vị Tổng Tham Mưu Trưởng dứt khoát không chịu tham dự vào các cuộc đảo chánh chính trị. Ông không sợ ông Viên làm phản. Trước sau như một tướng Viên đã kiên định như thế. Thông thường ông Viên thân với tướng Kỳ hơn là gần gũi ông Thiệu. Nhưng không bao giờ ông Kỳ rủ được ông Viên tham gia đảo chánh ông Thiệu, ngay như vào giờ thứ 25 của thời điểm năm 75.Ông Thiệu và ông Viên, như trên đã viết ra, các niên trưởng của tôi sinh hoạt xa cách và khách sáo. Không có cái kiểu như thời kỳ còn ở Hưng Yên: “Này, Moi làm ở État Major lâu quá, thôi Toi kiếm thằng khác để Moi nghỉ một thời gian. Việc gì Toi cũng chơi thẳng với các Quân đoàn như thế thì còn cần Moi ở đây làm gì?” Không, các Xếp của tôi không ăn nói lăng nhăng như vậy. Ðại Tướng thưa rằng xin Tổng Thống cho tôi tạm nghỉ vì sức khỏe. Tổng Thống nói là xin Ðại Tướng vui lòng tiếp tục ở lại một thời gian. Bây giờ là lúc khó khăn, quân đội cần ổn định v.v… Và Ðại tướng Viên có lúc đã nhờ quân nhu tìm cho một số dụng cụ làm vườn để thực sự chuẩn bị vui thú điền viên, nhưng khi ông Thiệu nói như vậy đành chần chờ ở lại Bộ Tổng Tham Mưu cho qua ngày.

Cũng phải ghi lại là trong chức vụ cao cấp nhất của quân đội, tướng Viên đã có lần phác thảo kế hoạch tấn công ra Bắc và đó là một trong các phương cách tự vệ mãnh liệt nhất. Tuy nhiên chắc chắn rằng phía Huê Kỳ hoàn toàn không yểm trợ và ông Thiệu không thể nào đơn phương quyết định được. Thêm vào đó, một trong các quyết định quan trọng nhất của tướng Cao Văn Viên là xử dụng tướng Ðồng Văn Khuyên từ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận lên Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Tiếp Vận rồi là Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Ông Khuyên đã không phụ lòng tin cậy của tướng Viên trong các chức vụ này và đặc biệt ông cũng được Huê Kỳ hoàn toàn yểm trợ. Và chính guồng máy Tiếp Vận với viện trợ Mỹ là con bài tẩy của chiến tranh Việt Nam.

Trong phần ghi chú của tác giả Cao Văn Viên viết trong tác phẩm Việt ngữ mới phát hành, một đề nghị chiến lược tối mật quan trọng nhứt cho chiến tranh Việt Nam là việc bỏ đất, triệt thoái do Tổng Cục Tiếp Vận, Tổng Tham Mưu soạn thảo. Hoàn toàn dựa vào bài toán quân viện, nghiên cứu khả năng thực sự giữ đất, giữ dân, Việt Nam Cộng Hòa muốn tồn tại thì phải thu về các vùng đồng bằng và duyên hải. Kế hoạch phải áp dụng ngay từ sau Hiệp Ðịnh Paris chứ không thể căng mỏng quân lực ra khắp nơi theo kiểu dành dân lấn đất và chôn chân các đơn vị Tổng Trừ Bị tại các tiền đồn. Ðại tướng Viên đã chỉ thị tướng Ðồng Văn Khuyên lên trình riêng Tổng Thống để rồi không hề nghe được bất cứ một chỉ dấu gì của ông Thiệu cho đến những ngày đau thương 30 tháng 4-1975.

Chuyến đi thăm: (Tháng 4-2005)

Ba mươi năm trôi qua như một giấc mộng dài. Tháng tư năm 2005 từ San Jose CA, chúng tôi lên thủ đô tổ chức họp mặt anh em chiến hữu trại Trần Hưng Ðạo. Ðây chính là tổng hành dinh của bộ Tổng tham Mưu ngày xưa. Ba mươi năm hội ngộ, gặp lại lần đầu nhưng ai cũng biết đây là lần cuối. Ðại tướng lấy lý do già yếu nên không đến được. Hội họp xong, tôi nhờ trung tá Tâm đưa đến thăm ông. Tháng tư là tháng không vui mà cảnh trí nơi ông ở trông thật là buồn. Tâm nói rằng, đại tướng rất đúng hẹn và rất nguyên tắc. Khi chúng tôi bước vào phòng khách của khu cao niên Á châu, “Mon General” đã đứng chờ sẵn, quần áo chỉnh tề. Hình ảnh của vị tướng lãnh cao lớn mang 4 sao, áo hoa dù, mũ đỏ không còn nữa.

Ðại tướng của tôi bây giờ là một cụ già tóc bạc lưng còng, vóc dáng nhỏ bé, chỉ còn lại cặp mắt long lanh, và tiếng nói dịu dàng. Chúng tôi ngồi xuống bên nhau nói chuyện không có chủ đề. Trung tá Tâm ngồi một bên luôn luôn để ý săn sóc cho ông cụ.

Bao nhiêu câu hỏi cần tìm hiểu vị niên trưởng mà tôi đã chuẩn bị bây giờ buông suôi hết. Nào là rút quân, nào là tử thủ, từ chuyện ông Thiệu đến chuyện ông Kỳ, chuyện Mỹ, chuyện Tàu. Trong cái buổi chiều buồn và ảm đạm đó, tôi chợt thấy tất cả đều trở nên vô nghĩa. Toàn quân, toàn dân, cấp trên cấp dưới, bây giờ không quá khứ, chẳng vị lai.

Lời người xưa còn vẳng bên tai. Bại binh chi tướng, bất khả ngôn dũng. Tướng lãnh thua trận, không thể nói mạnh. Bây giờ là tháng tư, 30 năm sau ngồi đây mà đổ tội cho ai. Nhứt tướng công thành, vạn cốt khô. Mà công thành, có thành công cho cam. Tôi không hỏi và ông cũng chẳng nói. Tôi đưa cả hai tay cho ông nắm thật chặt. Hình như có một lời ca từ 50 năm trước trong bài Tình Lính: Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay; Ông nắm thật chặt và Ông bắt đầu giảng cho tôi về Thiền Tông và Phật Pháp. Chẳng có thu thanh, thu hình phỏng vấn gì cả.

DT Cao Van Viên đi giữa hai thân hữu.

Hai mươi năm chinh chiến điêu linh và ba mươi năm lưu lạc tù đầy của cả đạo quân nay bỏ qua một bên để ngồi bàn về đường đi của Phật. Trước khi chia tay, tôi ngỏ lời xin đại tướng một di vật cho viện Bảo tàng. Ông nói: Tôi có còn gì đâu. Bèn hỏi rằng hôm niên trưởng ra đi đem theo cái gì. Ông cho biết có cầm cái cặp. Bên trong có cuốn sách viết về đạo Phật. Tôi xin ông cuốn sách đó, có bút tự ghi dấu của đại tướng. Quay sang anh Tâm, tôi xin xác nhận, khi nào… Chúng tôi ra xe, ông cụ đứng ngó theo… Giữa những người lính trẻ ngày xưa, cuộc ra đi nào cũng có thể là lần cuối.

Bây giờ chúng tôi là những người lính già, chắc chắn phải hẹn nhau gặp lại ở nơi khác.

Lần cuối. (Tháng Giêng 2008)

Giây phút .. khi nào.. đã đến. Ðại tướng Cao văn Viên ra đi ngày 22 tháng 1 năm 2008 tại Fairfax, VA. cũng không xa nơi ông cư ngụ những ngày sau cùng. Gia đình tuy đơn chiếc nhưng chiến hữu rất đông đảo.

Những vị niên trưởng lừng lẫy của tôi, quý vị do thời thế tạo nên. Lúc còn trẻ tôi có thể đã kỳ vọng và trách cứ quý vị rất nhiều, nhưng bây giờ cấp dưới chúng tôi cũng già rồi, tôi đã suy nghĩ khác đi nhiều. Quả thực chúng ta không thay đổi được định mệnh và không vượt qua được thời thế. Tôi cũng đã từng là anh Thiếu Úy trẻ Bắc kỳ của mùa thu 54, bây giờ cũng đã cao niên như mọi người. Tôi bao dung với chính tấm thân già của mình.

Nhìn cuộc đời nhẹ nhàng hơn và tôi thông cảm với niên trưởng Cao Văn Viên. Tôi vẫn hình dung những buổi chào cờ đầu năm ở Bộ Tổng Tham Mưu. Lá cờ sao của Ðại Tướng Tổng Tư Lịnh bay trên nhà lầu chính. Tướng Cao Văn Viên đội mũ đỏ, áo hoa dù đứng giữa hàng quân để đọc nhật lệnh tại Vũ Ðình Trường Tổng Tham Mưu mênh mông. Hàng chục ông tướng xếp hàng ngang. Trên 50 cấp Ðại Tá xếp hàng dọc. Các sĩ quan, HSQ và binh sĩ của các phòng sở với đủ mọi loại quân phục Liên Quân. Bên trái là đoàn xe với quân cảnh hộ tống thật uy nghi lẫm liệt. Phía xa là trực thăng riêng đậu chờ sẵn.

Cách đó thật xa hơn nữa về cả không gian lẫn thời gian là hình ảnh Trung úy Cao Văn Viên trẻ trung của Secteur Hưng Yên trên chiến trường Bắc Việt. Rồi đến những ngày qua khi niên trưởng Cao Văn Viên sống một mình từ Nữu Ước đến DC. Ông chậm chạp đi bộ từ chợ về nhà, leo lên lầu hai của căn phòng nhỏ, tự mình chuẩn bị bữa ăn. Sáng nay ông ăn món gì? Bánh mì trứng hay trứng bánh mì? Ông có uống sữa hay không? Ông còn nhớ gì đến chuyện di tản ở miền Bắc 54.

Chuyện di tản ở miền Nam 75. Trung úy Thiệu ngày xưa nay đã đi xa rồi, Ðại úy Khiêm ngày xưa vẫn im lìm như thuở nào. Và Trung úy Viên ngày xưa mãi mãi vẫn cô đơn. Tuổi trẻ và danh vọng rồi cũng qua đi. Ai rồi cũng chỉ còn lại một mình. Khi ra đi lần cuối cũng chỉ có một mình. Tất cả quý niên trưởng và chúng tôi ai cũng muốn sống lại cái thời đeo lon cấp Úy của tuổi hoa niên. Phải mà được làm lại từ đầu thì chúng ta sẽ làm biết bao nhiêu điều tử tế hơn, đẹp đẽ hơn, cho bản thân, cho chiến hữu và cho đất nước.“ Tuổi hoa niên cùng mặc áo chinh y. Lòng mở rộng giữa dòng đời ấm áp. Tám mươi năm, kiếp người như gió thoảng. Chiều cô đơn về chậm hồn cao niên.”

Giao Chỉ – San Jose 


 

Phụ nữ Philippines có thẻ xanh ở Mỹ 50 năm, vẫn bị ICE bắt

Ba’o Nguoi-Viet

March 27, 2025 ebo

SEATTLE, Washington (NV) – Gia đình một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm tại đại học University of Washington lên tiếng sau khi bị Cơ Quan Thực Thi Di Trú và Quan Thuế ICE bắt giữ gần đây dù có thẻ xanh.

Lewelyn Dixon, 64 tuổi, thường trú nhân hợp pháp tại Hoa Kỳ trong 50 năm, bị bắt giữ tại phi trường ở Seattle và bị ICE tống giam sau khi viếng thăm quê hương Philippines vào cuối Tháng Hai. Phiên điều trần liên quan tới vụ bắt giữ được ấn định vào Tháng Bảy, nhưng thân nhân đang kêu gọi trả tự do cho Dixon và nói với NBC News rằng bà luôn luôn gắn kết những người trong gia đình lại với nhau.

ICE chưa lập tức trả lời yêu cầu bình luận từ NBC News.

Lewelyn Dixon. (Hình do Melania Madriaga cung cấp)

Lani Madriaga, cháu gái của Dixon cho biết bà đang bị giam tại Trung Tâm Di Trú ICE Khu Vực Tây Bắc ở Tacoma, Washington, tại đó bà kết giao với những người cũng đang bị giam giữ, đồng thời phiên dịch và giúp đỡ họ nói chuyện với luật sư trước khi diễn ra phiên điều trần.

Luật sư đại diện Dixon, Benjamin Osorio, cho biết dường như Cơ Quan Biên Phòng Hoa Kỳ USBP phát giác ra một bản án kết tội bà biển thủ công quỹ từ nhiều thập niên trước trong hồ sơ khi bà quay về Hoa Kỳ, dẫn tới hành động bắt giữ. Dixon từng nhận tội thực hiện hành vi phi bạo lực năm 2000, nhận lệnh bồi thường và phải bị tạm giam 30 ngày, hồ sơ tòa án cho thấy. Dixon hoàn tất bồi thường năm 2019.

Dixon từng làm việc với tư cách thủ quỹ kiêm giám sát hoạt động tại nhà băng Washington Mutual Bank, lúc đó bà “rút tiền mặt từ ngân khố trong tám lần riêng biệt” mà không được nhà băng cho phép, theo thỏa thuận nhận tội của Dixon. Bà rút tổng cộng $6,460.

Dixon chưa từng kể với gia đình về bản án, Madriaga cho biết, và nói rằng đó là “góc khuất u ám nhất” của Dixon.

Và dầu cho Dixon có đủ điều kiện nhập quốc tịch Hoa Kỳ từ lâu, Osorio cho biết, nhưng bà đã hứa với cha mình rằng bà sẽ giữ nguyên quốc tịch Philippines để có thể giữ gìn tài sản và đất đai ở Philippines.

Dixon tới Hoa Kỳ năm bà 14 tuổi, lập tức giúp Madriaga và anh chị em ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người sau khi di cư.

Nhưng khi một người chị em của Madriaga ly hôn và thành một người mẹ đơn thân, Dixon dời qua Washington để phụ giúp săn sóc các cháu và phụ trả tiền mướn nhà. Nhiều năm sau đó, Madriaga cũng ly hôn và cho biết Dixon cũng tiếp tục chung sống để giúp đỡ các cháu.

Trong công việc, Dixon là một nhân viên tận tụy trong phòng thí nghiệm, Madriaga cho biết. Thậm chí ngay trong đêm xuống phi trường, Dixon cũng có lịch làm việc, Madriaga nói thêm. Dixon ngấp nghé dịp kỷ niệm 10 năm phục vụ phòng thí nghiệm, trong thời gian đó bà sẽ được hưởng lương hưu. Thân nhân gia đình đang lo lắng rằng Dixon sẽ mất cả công việc lẫn lương hưu sau khi vắng mặt quá lâu.

Susan Gregg, phát ngôn viên Bệnh Viện University of Washington, không giải thích thêm về trường hợp của Dixon, nhưng cho biết bà làm việc với tư cách kỹ thuật viên xét nghiệm tại bệnh viện này từ 2015.

Madriaga cho biết gia đình bà đang lên tiếng thay cho Dixon và cũng mong mỏi giúp đỡ những người khác tự bảo vệ khỏi tình cảnh tương tự. (TTHN)


 

Dịu dàng đến kì lạ

 Thao Teres

Thật đúng những con người thuộc trọn về Chúa, không ngại hôi, không ngại bẩn, không sợ lây nhiễm, chăm sóc người bệnh với cả trí óc và con tim. Cũng chỉ vì một điều: họ thấy Chúa nơi những con người đó.

(Mái ấm Thiên Ân (Hoàng Mai, Nghệ An) nơi cưu mang gần 30 em bại não, tâm thần, tự kỷ, thiểu năng trí tuệ. Các em không tự chủ được hoạt động nên các sơ hầu như phải lo mọi thứ: thay quần áo, vệ sinh, cho ăn. Các sơ cũng làm nhiều công việc để có kinh phí trang trải hàng tháng. Nhiều khi các em lên cơn đập phá đồ đạc, ném chất bẩn khắp nhà, nhưng các sơ vẫn âm thầm dọn dẹp không một lời trách móc.)

Make Christianity Great As Always

VHM gây quỹ tổ chức các hoạt động tưởng niệm Tháng Tư Đen – Lâm Hoài Thạch/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

March 24, 2025 

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

ANAHEIM, California (NV) – Đông đảo đồng hương đến dự tiệc gây quỹ tổ chức Tưởng Niệm 50 Năm Ngày Mất Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và 50 Năm Chiến Dịch Gió Lốc USS Midway Museum, do Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt (Vietnamese Heritage Museum – VHM) mở chiều Thứ Sáu, 21 Tháng Ba, tại Golden Sea Restaurant, Anaheim.

Ban hợp xướng Lê Hồng Quang hát tại buổi gây quỹ do VHM để có kinh phí tổ chức các hoạt động tưởng niệm Tháng Tư Đen. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Theo ban tổ chức, đúng vào thời điểm này cách đây 50 năm, miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối, chính thể VNCH bị bức tử, và cả dân tộc rơi vào bóng tối của chế độ Cộng Sản. Hàng trăm nghìn người đã phải rời bỏ quê hương, dấn thân vào những chuyến đi đầy nguy hiểm tìm tự do, để bảo vệ những giá trị mà họ trân quý và để xây dựng một tương lai cho thế hệ mai sau.

Nửa thế kỷ trôi qua, những gian truân thử thách đã rèn luyện nên một cộng đồng người Việt tị nạn kiên cường, và gặt hái nhiều thành tựu đáng tự hào.

Đông đảo đồng hương tham dự tiệc gây quỹ của VHM. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

“Chúng ta đã vươn lên và có thể hãnh diện khi điểm lại những thành quả đáng trân trọng này, từ từng cá nhân, từng gia đình. Chúng ta cùng hàng trăm nghìn người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới không chỉ vươn lên, mà còn giữ vững bản sắc bảo tồn văn hóa Việt, và tiếp tục đấu tranh cho tự do, nhân quyền,” họa sĩ Châu Thụy, sáng lập viên kiêm giám đốc điều hành VHM, tuyên bố.

Ông thêm: “Với sứ mệnh gìn giữ ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử của dân tộc, VHM ra đời vào năm 2016, với mục tiêu bảo tồn lịch sử và di sản của người Việt tị nạn Cộng Sản. VHM không chỉ lưu giữ hiện vật, tư liệu mà còn là một trung tâm giáo dục, để thế hệ con cháu hiểu được quá khứ đau thương, biết trân trọng tự do mà họ đang có, và không bao giờ quên những hy sinh của thế hệ cha ông.”

Phần trình diễn của ca sĩ Thiên Tôn tại tiệc gây quỹ của VHM. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Bác Sĩ Lê Trung Pha, thành viên ban tổ chức, nói: “Lễ Tưởng Niệm Tháng Tư Đen đánh dấu 50 năm ngày mất chính thể VNCH và 50 Năm Chiến Dịch Gió Lốc của Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ. Buổi lễ sẽ diễn ra vào ngày 27 Tháng Tư, trên Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway, San Diego, con tàu từng cứu vớt hàng nghìn đồng bào tị nạn Cộng Sản trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam Việt Nam. Buổi lễ này cũng có những lời phát của của các cựu chiến binh trong QLVNCH.”

Ông Đặng Thanh Long, một thành viên khác trong ban tổ chức, cho hay: “Đây không chỉ là một buổi lễ mang tính lịch sử, mà còn là dịp để chúng ta truyền lại câu chuyện này cho các thế hệ trẻ Việt Nam tại hải ngoại, để họ hiểu được tinh thần bất khuất và những giá trị mà cộng đồng người Việt của chúng ta đã hy sinh để bảo vệ truyền thống bất khuất này.”

Ca sĩ Diễm Liên hát tại tiệc gây quỹ của VHM. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Trong số đồng hương đến dự có Giáo Sư Trần Huy Bích. Ông nói: “Trong tinh thần gìn giữ truyền thống văn hóa của người Việt tại hải ngoại, theo tôi, họa sĩ Châu Thụy và những thiện nguyện viên của VHM đã có công gây dựng rất công phu. Vì thế, tôi cũng có đóng góp một số tài liệu để tiếp phần duy trì viện bảo tàng này tại hải ngoại.”

Cựu Nghị Viên Diedre Thu Hà Nguyễn của Garden Grove, một thành viên ban tổ chức, nói: “VHM quyết tâm gìn giữ sự trung thực lịch sử, bảo tồn bản sắc văn hóa và phát huy sự trong sáng của ngôn ngữ Việt, mà ông cha đã truyền lại cho chúng ta. Hôm nay, chúng ta có bổn phận phải tiếp tục hun đúc tinh thần tự lực, tự cường, và lòng yêu quê hương, yêu tự do của các thế hệ đi trước. Trong sứ mệnh đó, sự thành công của VHM cũng là nhờ sự trợ giúp của các nhà hảo tâm và đồng hương tại hải ngoại.”

Xướng ngôn viên Leyna Nguyễn (bìa trái) nhận đóng góp tài chính của một người Dự tiệc. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Buổi tiệp bao gồm một chương trình văn nghệ rất sống động, với sự góp mặt của các ca sĩ có tiếng tăm như Diễm Liên, Thiên Tôn, Nam Trân, Tú Trinh, Leyna Nguyễn, Long Hồ, Lệ Hằng và ban hợp xướng Lê Hồng Quang cùng ban nhạc OG. Các MC bao gồm Diệu Quyên, Nguyễn Minh, Oscar Nguyễn, và Thu Hà.

Ngoài ra, còn có chương trình bán đấu giá những phẩm vật giá trị và phần xổ số gây quỹ.
VHM là tổ chức bất vụ lợi 501c (3), với mục đích bảo tồn và giới thiệu di sản của Người Việt tị nạn.

Họa sĩ Châu Thụy (bìa trái) chụp hình lưu niệm với gia đình họ Vương thắng đấu giá tượng “American Eagle” với giá $3,000. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Theo ban tổ chức, trong năm vừa qua, Giám Sát Viên Janet Nguyễn, khi còn là thượng nghị sĩ California, đã nói lên tầm quan trọng của sứ mạng gìn giữ di sản của người Việt tị nạn chúng ta. Bà là thượng nghị sĩ người Mỹ gốc Việt đầu tiên tại California, và đã tích cực góp phần vào việc gìn giữ di sản của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ, qua việc khởi xướng và giúp thông qua Dự Luật SB 895 vào năm 2018, nhằm đưa lịch sử người Việt tị nạn vào chương trình giáo dục tại các trường học của tiểu bang California.

Đồng thời, bà Janet Nguyễn đã tạo cơ hội cho VHM được phối hợp cùng Sở Giáo Dục Orange County (OCDE) trong ba năm qua, để tổ chức các buổi hội thảo nhằm góp phần hoàn thiện giáo trình mẫu (Vietnamese American Experiences Model Curriculum), và giúp quảng bá giáo trình này trong cộng đồng. [đ.d.]


 

Michigan: Anh em gốc Việt ẩu đả trong tiệm nail, 1 người bị đâm chết

Michigan: Anh em gốc Việt ẩu đả trong tiệm nail, 1 người bị đâm chết

Ba’o Nguoi – Viet

March 24, 2025

ITHACA, Michigan (NV) – Hai anh em họ trong một tiệm làm móng ở Michigan cãi nhau, sau đó chủ tiệm bị đâm chết còn người em họ trẻ tuổi thì bị buộc tội sát nhân.

Lực lượng cảnh sát thuộc Văn Phòng Cảnh Sát Quận Gratiot, Sở Cảnh Sát Alma và nhân viên y tế có mặt tại LA Nails ở số 7431 đường N. Alger Road thuộc thị trấn Pine River lúc khoảng 1 giờ trưa Thứ Tư, 19 Tháng Ba. Có người trong tiệm gọi cho 911 để báo rằng chủ tiệm, Travis V. “Steve” Nguyễn, 48 tuổi, bị đâm vào lưng, theo trang tin tức MLive.com.

Gia đình Travis Nguyễn. (Hình: GoFundMe)

Đường dây ứng trực khẩn cấp cho biết Travis Nguyễn bất tỉnh, mạch cũng không đập. Vào thời điểm đó có nhiều khách hàng trong tiệm.

Nghi can bước ra ngoài rồi bình thản ngồi trên một cái ghế dài gần đó, các tổng đài viên cho biết trong các bản ghi âm đăng trên Broadcastify.com.

Cảnh sát bước vào bên trong tiệm và thấy Travis Nguyễn thiệt mạng sau khi bị đâm nhiều nhát. Lúc đó Jack C. Nguyễn, người em họ 30 tuổi và là kẻ bị cáo buộc sát nhân, vẫn còn ở tiệm và bị cảnh sát bắt giữ mà không xảy ra cớ sự nào khác.

Jack C. Nguyễn vào tù một đêm trước khi hầu tòa tại Tòa Án Quận Gratiot hôm Thứ Năm vì tội danh sát nhân. Tội danh này gồm có sát nhân cấp độ một và cấp độ hai, cả hai đều là tội có án chung thân mặc dù tội danh cấp độ một không thể được ân xá.

Cảnh sát chưa bình luận về nguyên nhân dẫn tới án mạng.

Travis Nguyễn là trụ cột trong gia đình, gồm vợ và năm con gái, lần lượt 6, 11, 13, 19 và 24 tuổi. Ông phải làm việc bảy ngày một tuần suốt 20 năm.

“Ông ấy là một người đàn ông, người cha, người anh em và là người chồng tử tế nhất,” trang Facebook LA Nails viết hôm 21 Tháng Ba. “Ông ấy là một gương mặt đặc biệt tại Alma và từng giúp đỡ tất cả những người ông ấy từng gặp gỡ. Chúng tôi không biết nói gì hơn và đang gắng gượng vượt qua thời điểm đau khổ này cùng gia đình.”

Travis Nguyễn di cư từ Việt Nam qua Hoa Kỳ năm 1993 khi mới 17 tuổi và học xong trung học tại Texas. Ông kết hôn với người vợ đầu tiên vào Tháng Chín 2000 và hai người có bốn con gái. Bà qua đời trước ông vào dịp Giáng Sinh 2013.

Ông kết hôn với người vợ thứ hai năm 2014 và có với nhau người con gái thứ năm, cáo phó của ông cho biết.

Travis Nguyễn đang nuôi con gái lớn học trường y và con gái thứ hai học đại học, ngoài ra còn dành dụm lo cho các con gái nhỏ hơn ăn học. Không những thế ông còn gửi tiền về cho gia đình ở Việt Nam.

Các cháu gái của Travis Nguyễn khởi sự một chiến dịch GoFundMe để giúp gia đình vượt qua khó khăn bất chợt về tài chánh. Thân nhân ngoại quốc trong gia đình đang nỗ lực tới Hoa Kỳ giúp các con gái nạn nhân vượt qua nỗi mất mát.

Chương trình gây quỹ huy động được hơn $59,000 từ 783 nhà tài trợ tính tới sáng Thứ Hai.

Jack C. Nguyễn bị quản chế tại Quận Isabella sau khi nhận tội lái xe khi say rượu vào Tháng Hai. Trong thời gian quản chế, bị cáo phải nộp $1,060 tiền phạt, trong đó vẫn còn nợ $960.

Bị cáo đang bị tống giam nhưng không được tại ngoại và phải trình diện trong phiên tòa sơ bộ vào ngày 10 Tháng Tư. (TTHN)