ÔNG TƯ – Truyện ngắn

Tôi Là Tôi – TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM

ÔNG TƯ

Gia đình ông Tư hồi đó giàu lắm. Vợ chồng ông có cái xưởng rất lớn dưới khu bến Bình Đông với mấy trăm công nhân. Ông có hai căn nhà lớn kề nhau trên đường Công Lý, tiền bạc của cải ông gởi ngân hàng mà tiền lời mỗi tháng có thể mua được cả căn nhà nhỏ. Người thân ông Tư thì chẳng còn ai. Cha mẹ, anh em của ông Tư mất hết cùng mấy chục người hàng xóm nơi làng quê của ông sau một trận đánh lớn ở vùng đó. Hai vợ chồng ông Tư luôn giúp đở đóng góp các trại tế bần, các hội đoàn thiện nguyện. Cuộc sống gia đình ông Tư càng thêm hạnh phúc khi vợ ông sanh cho ông một cậu quý tử…

Rồi 30-4-1975 đến. Cái xưởng của ông được nhà nước tiếp quản, tiền bạc trong ngân hàng mất trắng. Ông loay hoay với hoàn cảnh mới, các đồ trang sức của hai vợ chồng và vật dụng có giá trị trong nhà được đắp đổi qua ngày. Mấy năm sau gia đình ông được liệt vào danh sách “tư sản mại bản”. Hai căn nhà và tài sản được sung vào công quỷ. Gia đình ông được đưa đi vùng kinh tế mới…

Một năm sau bổng nhiên mọi người thấy ông Tư quay về khu phố cũ với với bộ dạng tã tơi, ánh mắt vô hồn. Ông đứng nhìn hai căn nhà cũ rồi cười… có lúc ông cười sặc sụa, lúc cười vang thành tiếng, lúc thì cười khùng khục trong họng. Đêm xuống, mọi người thấy ông Tư ngồi bên mái hiên trước nhà cũ mà khóc. Ai thấy cũng đau lòng. Ông lang thang quanh khu phố nhưng ông không còn nhận ra ai là người quen nữa. Mọi người quý mến ông vì lúc đương thời ông hay giúp đỡ bà con lối xóm. Nay mọi người chung tay người cái áo cái quần, người bữa cơm, người tắm giặt… để đùm bọc ông. Có những lúc ông tĩnh táo, ông ngồi trầm ngâm và kể. Cả đời hai vợ chồng chưa làm việc gì nặng nhọc, bây giờ được đưa lên vùng kinh tế mới, phải tự khai hoang, dựng nhà. Vì thay đổi đột ngột nên không thích nghi kịp, sức khoẻ sa sút, vợ và con ông bị sốt rét mà qua đời…

Mấy ngày qua không thấy ông Tư quanh khu phố nữa. Sáng nay mọi người nhận được tin tìm thấy xác ông dưới kênh Nhiêu Lộc ngay cầu Công Lý…

H.D


 

CHUYỆN TÌNH MỘT GIÁM MỤC – “Áo cưới màu hồng”

Võ Ngọc Ánh

CHUYỆN TÌNH MỘT GIÁM MỤC

“Áo cưới màu hồng.

Hôm nay lướt FB, thấy tấm hình của một người đàn ông trung niên, mặc tu phục của một Giám Mục (vừa được tấn phong gần đây), chụp với một người phụ nữ cũng còn xuân, mặc áo màu hồng, làm cho Mười Lúa có một cái cảm xúc hết sức lạ kỳ, nên bật máy lên viết. Không viết liền, để nay mai sẽ quên mất, hay không còn hứng thú để viết nữa. Đây mới là lý do chính cho bài viết dài dòng chuyện tình LM này.

Ở VN, trước 75, nhà văn Lệ Hằng tung ra quyển “Tóc Mây”, kể chuyện tình của một LM với một cô sinh viên, làm cho xã hội miền Nam một thời rất ồn ào, và dĩ nhiên sách in không đủ bán, tác giả vừa nổi tiếng vừa phát tài! Người ta bàn tán, bình phẩm, khen, chống, ủng hộ, tẩy chay,… lung tung phèng lên! Nên nhớ, đây chỉ là một quyển tiểu thuyết chớ không phải chuyện có thiệt.

Ở Mỹ, bộ phim truyền hình “The thorn bird”, được chiếu 4 ngày từ 27 đến 30 tháng 3, năm 1983, cũng làm cho xã hội Mỹ ồn ào dữ lắm. Đây là bộ phim dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn người Úc, xuất bản năm 1977. Sách bán như tôm tươi, và phim cũng thành công ngoài sức tưởng tượng. Dĩ nhiên, cả hai đều là chuyện giả tưởng!

Chuyện tiểu thuyết, chuyện phim ai muốn nghĩ sao thì nghĩ và ai muốn tin hay hỏng tin cũng không sao cả. Nói tóm lại là nhà sản xuất kinh doanh kiếm tiền, còn người thưởng thức thuần tuý là bỏ tiền ra mua một sở thích – sở thích đọc sách hay sở thích xem phim. Đơn giản chỉ có vậy.

Tui không phải nhà văn, cũng không là đạo diễn, nên muốn cạnh tranh với họ là chuyện “đội đá vá trời”. Tui chỉ muốn viết, muốn kể lại những chuyện tình có thiệt, tui biết rõ, không thêm mắm muối, theo cách kể nhà quê của mình. Chuyện của tui có thật, và là những chuyện tình đẹp như chuyện thần tiên! Còn chuyện mấy cha “phá rào”, ăn vụng,… ai muốn viết thì viết, tui không thấy hứng thú.

Câu chuyện sau đây Mười Lúa lấy thông tin từ một sư huynh đồng môn, những thông tin rất đáng tin cậy, vì anh và nhân vật chính sống trong cùng một họ đạo. Những nhân vật chính trong chuyện, tui đều biết, có quen hết. Sư huynh tui vẫn còn sống và bài viết của anh về nhân vật chính vẫn còn trên FB. Ai muốn đọc IB tui gởi cho đọc chơi.

Có một chú bé nhà quê, quê dữ lắm, quê hơn Mười Lúa, con nhà nông dĩ nhiên, ở miệt Chương Thiện (gần U minh rồi), nhưng rất rất rất thông minh và hiếu học. Thời Tiểu học, vừa đi học vừa bán bánh lá dừa giúp mẹ. Một hôm ế hàng, ngồi buồn thiu trước cửa nhà Xứ, thì ông cha Sở ra hỏi thăm rồi mua hết thúng bánh, cho các Thày và các sơ trong nhà xứ. Thời đó VC tịch thu Đại Chủng Viện, nên các Thày phải “sơ tán”, phải “chạy giặc”, về các họ đạo để chờ thời, và học chui. Thúng bánh lá dừa chẳng là cao lương mỹ vị gì, nhưng cũng no bụng các thày trong những ngày ăn độn, và nhứt là cậu bé mừng vui như trở cờ trong bụng. Cậu rất có cảm tình với cha sở, bắt đầu quí mến ngài và các Thày kể từ hôm đó. Hình ảnh chiếc áo chùng đen đã ghi nhẹ vào lòng chú bé nhà quê kia rồi!

Chú bé đã học hết chữ nghĩa trường làng, phải “du học” sang họ đạo khác mới có lớp cao hơn, bằng cách ngày ngày chống xuồng qua cái lung mênh mông, làm Mười Lúa cũng nhớ cái thời mình phải đi “du học”, và học với Bà Út. Lớn lên trong chốn đồng ruộng, cậu bé cũng đã từng đi chăn trâu, như Mười Lúa, có điều coi bộ nhà ML còn khá hơn cậu bé này một bậc, vì cậu chăn trâu mướn, còn ML chăn trâu nhà.

Sau bao gian nan vất vả, bi giờ cậu đã là một thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai, và đậu đầu bảng vào trường ĐH Cần Thơ. Một tương lai tươi sáng đang hé mở, chờ đợi. Nhiều cô bắt đầu để ý chàng trai trẻ, trong đó có một cô thôn nữ xinh đẹp, đạo hạnh, nết na, lại là con của một “đại gia” miền sông nước. Cậu đáp lại tình yêu ấy, và họ yêu nhau tha thiết, hẹn thề khi công thành danh toại, vinh qui bái tổ, thì “kiệu anh đi trước, võng nàng theo sau” về dinh! Một mái ấm gia đình, một tương lai tươi đẹp đang chờ họ một cách hiển nhiên. Đó là một ước mơ, một viễn ảnh tươi đẹp mà bất cứ đôi trái gái nào cũng mong chờ. Cha mẹ hai bên cũng không có lý do gì mà không tác hợp cho đôi trai tài gái sắc. Đàng trai đã mang lễ vật xin cưới, trong đó có một xấp vải màu hồng dùng để may áo cưới cô dâu.

Tình cờ chàng biết được Giáo Phận đang tuyển sinh vào các lớp dự tu (Lúc này VC trả lại Đại Chủng Viện, cho nhận tu sinh, nhưng rất giới hạn, cho nên muốn được nhận, phải qua các lớp dự tu khá gắt gao). Bấy lâu nay chỉ lo học hành, lo hoạch định cho tương lai, quên bẵng hình bóng chiếc áo dòng của cha Sở ngày xưa, thì dường như ước muốn làm LM bỗng trổi dậy.

Chuyện lớn rồi! Bên tình cho em, bên tình cho Chúa, rồi phải ăn nói làm sao với người yêu, với gia đình mình, và gia đình nàng? Phụ bạc người yêu cho dù là vì lý tưởng cao cả, cũng là một hành động khó được chấp nhận! Đính hôn rồi huỷ hôn là làm “mất duyên” con gái ngườii ta, nếu không muốn nói là làm nhục “đàng gái”! Rối như tơ vò. Cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho mình biết lựa lời thuyết phục người yêu, thuyết phục gia đình hai bên để không ai bị tổn thương.

Biết được ý định của chàng, dĩ nhiên nàng bị sốc. Tình là cái chi chi mà nó mãnh liệt tới mức khi thất tình, bất kể đàn ông hay đàn bà, đều có thể “mua bao thuốc chuột uống cho rồi đời”! Cũng may, cô gái con nhà đạo hạnh, biết người yêu không phải phụ bạc, mà hy sinh tình riêng cho tình Chúa, cho lý tưởng phục vụ tha nhân, nên sau cùng nàng cũng chịu thua, “giành” không lại Chúa!

Rồi chàng được nhận vào Đại Chủng Viện và nàng cũng lên xe hoa theo chồng vài năm sau đó. Ngày cưới của nàng, chú bé chống xuồng ngày xưa được phép Bề Trên về tham dự đám cưới của người yêu, để chúc phúc cho họ.

Ngày trọng đại của chú bé chống xuồng cũng đến. Cha mẹ, anh em, bà con dòng họ của chú và cả gia đình “cha mẹ vợ hụt” cũng có mặt đông đủ đê tham dự lễ truyền chức LM cho chàng. Ít có người biết hay để ý đến chiếc áo màu hồng nàng đang mặc. Chỉ có chàng, nàng, và gia dình hai họ mới biết, đó là chiếc áo cưới chàng tặng nàng năm xưa! Một hội ngộ kỳ thú, cảm động vô cùng! Một tình yêu không giống một mối tình nào trên đời này cả!

Hôm nay tôi đăng tấm hình người phụ nữ trung niên, lặn lội ngàn dặm từ Mỹ về tham dự lễ tấn phong Giám Mục. Giám Mục là chàng. Người phụ nữ đứng kề bên là nàng. Cũng một chiếc áo màu hồng. Chỉ có người trong cuộc mới biết ý nghĩa của chiếc áo màu hồng. Chỉ có ai biết chuyện mới rơi lệ, mới cảm kích cho một cuộc tình có cái kết đẹp như chuyện thần thoại! Họ không tay trong tay như đôi tình nhân, như một cặp vợ chồng hạnh phúc, nhưng họ là biểu tượng của một tình yêu hoàn toàn vượt qua tình yêu trai gái.

Trái tim của họ là một cặp tim đẹp nhứt, là hy lễ cao quý nhứt đời, dâng lên Đấng Toàn Năng. Đây là bức hình đẹp nhứt, ý nghĩa nhứt mà nàng post lên FB với một ghi chú đơn giản: “Hôm any về quê hương về tham dự lễ truyền chức Đức Giám Mục….” Nàng trân trọng gọi chàng là “Đức Giám Mục” như bao nhiêu giáo dân xưng hô với một vị chủ chăn.

Ý Chúa nhiệm mầu! Không có ơn Chúa giúp, chắc gì có ai qua nổi cái ải tình tình yêu trai gái! Hãy dâng lời cảm tạ Chúa. Hãy cùng cầu nguyện cho Đức Tân Giám Mục, luôn là một chủ chăn như lòng Chúa mong muốn. Xin Chúa chúc lành cho người con gái mặc chiếc áo màu hồng, không phải trong ngày cưới, mà là ngày dâng hiến người yêu của mình cho Chúa. Amen.

Peter C. Tran”

Copy từ FB Duc Thang Nguyen

NỢ TÌNH!-Truyện ngắn

Chau Trieu is with Kim Dao Lam

 NỢ TÌNH!

Trong tất cả các món nợ, nợ tình là món nợ đau đớn và dai dẳng nhất, đôi khi mất cả cuộc đời, người ta trả mãi vẫn không xong!

Tôi có một người bạn, cô ấy xinh đẹp và tài giỏi, có một mái ấm gia đình, chồng yêu thương vợ nhưng… hạnh phúc cô đang có chưa bao giờ là trọn vẹn, bởi:

Không thể biện hộ với bất cứ lý do gì, cô ấy cũng xem bản thân là “liên đới” và phải chịu trách nhiệm trước cái chết của một người, là mối tình đầu của cô ấy!

Ngày ấy, họ yêu nhau tha thiết, là một mối tình thơ đúng nghĩa. Thuở ấy, nhà cô và anh đều nghèo, anh đành phải bỏ học sớm để đi làm phụ giúp cha mẹ. Còn cô, cô may mắn được tiếp tục chuyện học hành, anh dù không giúp gì được nhiều cho cô nhưng luôn bên cạnh động viên cô mỗi ngày. Mỗi khi cô thức đêm học bài là anh cũng thao thức theo, cô đứng trên căn gác ọp ẹp nhìn xuống phía trước nhà là thấy anh đang đứng đó, tay huơ huơ cái bánh bao còn nóng hổi hay bịch cà phê để giúp cô tỉnh táo. Họ đã yêu nhau say đắm, thuần khiết và dìu đỡ nhau từng bước qua khó khăn của cái thủa hàn vi thiếu thốn trăm bề. Rồi cô vào đại học, anh vẫn tận tụy như một con ong chăm chỉ chăm sóc cho cô mỗi ngày cho tới khi:

Cô ra trường với tấm bằng loại giỏi, biết bao cơ hội nghề nghiệp chào mời, bao chàng trai khá giả săn đón và gia đình cô đã cấm cản họ tiếp tục đến với nhau. Đau đớn thay, cô cũng thay lòng!

Họ nói lời chia tay nhau trong một chiều mưa tầm tã. Cô xin anh hãy tha thứ cho cô, cô cần tương lai, cần sự nghiệp, cần một người chồng có chức vị theo ý gia đình… Còn anh, anh vẫn cặm cụi đi làm trên chiếc xe đạp cũ, lương ba cọc ba đồng, rồi chui rúc trong một căn nhà nhỏ với 9 anh chị em, gia đình cô không cam tâm để cô làm dâu nhà ấy!…

Anh đã ngồi lặng yên, đôi mắt ráo hoảnh, đôi bàn tay xiết chặt và đôi môi mím lại. Không nói một lời, anh lấy xe phóng như tên bay dưới làn mưa nặng trĩu. Chỉ ít tiếng sau, tin sét đánh dội về:

Anh ra đi trong một tai nạn, người ta bảo miệng anh nồng nặc mùi rượu, là thứ nước đắng anh chưa từng uống một lần trong đời, anh chỉ nếm một lần duy nhất và là lần cuối cùng, mãi mãi!…

Cô tưởng chừng đã chết đi sống lại hàng trăm lần bên mộ anh. Nỗi đau và sự dày vò như giết cô lần mòn. Cô đã không thể tự tha thứ cho mình, là lỗi lầm của cô, vì sự bạc tình của cô mà người ấy ra đi không nhắm mắt!

#101 hình ảnh chia tay buồn lãng mạn tiễn đưa cuộc tình tan vỡ ...

Nhưng may mắn cô đã gặp được người chồng trong hiện tại, ông ấy hơn cô khá nhiều tuổi, ông thấu hiểu được nỗi giằng xé, sự ân hận cô phải mang vác trong trái tim và trong suốt cuộc đời còn lại… Thế nên, ông yêu cô bằng tất cả tình thương, lòng bao dung và từ ái. Ông giúp cô sống trở lại bình thường nhưng “Món nợ tình” cô đã trót vay thì mãi mãi không thể trả được!

Và kế tiếp là câu chuyện của chị tôi, chị cũng “Nợ tình” nhưng lại là trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác!

Chị chia tay mối tình đầu vì hiểu lầm và tự ái. Chính xác hơn, chị đã đánh mất tình yêu thật sự của đời mình để rồi…những gì xảy ra kế tiếp chỉ là: “Người xa xăm quá tôi buồn lắm, trong một ngày vui pháo nhuộm đường!…”

Chị đã gật đầu đại, lấy một người “Môn đăng hộ đối” theo sự thúc giục của gia đình, vì thời ấy, con gái 25 tuổi chưa chồng là đã “ế” lắm. Mấy chục năm bên cạnh chồng, chị chưa hề biết đến cảm giác bằng lòng, yêu đương và hạnh phúc bởi cái “tình yêu” trong chị đã “chết” theo mối tình đầu. Chị cứ sống vật vờ bên cạnh chồng, cảm nhận cái “ái ân” lạt lẽo của chính mình bố thí cho người ta. Và thật tội nghiệp chồng chị, dù ông có cố gắng thế nào thì chị cũng nhất quyết không mở lòng. Và thế là mấy chục năm làm vợ làm mẹ, chị chỉ đau đáu, khao khát một điều duy nhất, đó là “Tự do”!

Ly hôn là gì? Khái niệm Ly hôn?

Và chị đã quyết định ly hôn chồng khi 2 con đã lớn. Chị và chồng đã ôm nhau khóc trong ngày từ giã. Chị khóc xin lỗi anh, chị dù cảm động trước tấm lòng của người ấy bao năm qua đã kiên nhẫn, khổ nhục vì chị nhưng trái tim có lý lẽ riêng của nó, chị không yêu nên cuộc sống chung luôn là gượng gạo và đày ải bản thân mình. Còn anh, anh khóc vì bế tắc, anh thừa nhận mình đã thua cuộc, mấy chục năm qua anh đã cố níu giữ một trái tim chưa bao giờ là của mình. Anh đã hy vọng, hy vọng rồi tuyệt vọng, anh phải cay đắng thừa nhận: anh mãi mãi là người đến sau!

Và chị xem như đã “Nợ tình” anh! Mấy chục năm qua người chồng ấy đã sống bên cạnh chị như bên cạnh một cái xác không hồn. Anh không đáng để bị chị đối xử tàn nhẫn như thế, và chị khao khát phải bù đắp cho anh, phải trả món nợ tình đó bằng một thứ, là thứ chị đang có!

Và chị đã sang tên cho anh căn biệt thự bên bờ hồ, nó hoàn toàn là tài sản riêng của chị khó nhọc gầy dựng nên. Rồi có ai ở đời này giống như chị: chị gán gép, làm mai người bạn thân của mình cho anh, tổ chức đám cưới cho họ và xem như chị đã “hoàn tất” công việc trọng đại của đời mình: “gả vợ cho chồng”!

Vậy đấy, như tôi đã nói ở trên: nợ tiền nợ bạc thì có thể trả bất cứ lúc nào, thật dễ dàng và sòng phẳng để “xóa nợ” nhưng nợ tình thì chưa chắc. Nợ tình có thể khiến người ta đeo mang cả cuộc đời, làm khổ sầu lòng nhau và biết đâu món nợ đó sẽ đeo đuổi bạn không chỉ ở kiếp này mà còn mãi tận đến ngàn sau: vô lượng kiếp!

Và tôi, tôi cũng đang mắc nợ, là món “Nợ tình” hay nợ “Ân tình” mà sao lại làm nát tan tim người và cũng làm khổ lụy cả đời tôi!…

Bạch Cúc


 

Nụ Cười Đầu Tuần: CHUYỆN BẠN TÂY SANG VN

Thanh Lan-Những câu chuyện Nhân Văn

CHUYỆN BẠN TÂY SANG VN

Một sinh viên Việt Nam du học ở châu Âu dẫn bạn Tây về VN chơi. Đi bằng xe máy, đưa cho bạn Tây cái mũ bằng nhựa mỏng dính nói đội vào, bạn Tây nói :

– Tao có mũ vải rồi.

– Không được, cái này gọi là mũ bảo hiểm nghĩa là bảo vệ cái đầu , theo luật giao thông, nếu không đội mũ này mày sẽ bị phạt.

– Nhưng cái mũ này làm sao có tác dụng bảo vệ ?

– Mày đúng là Tây, tao có nói để bảo vệ đâu, chỉ để khỏi bị phạt thôi.

Đi một đoạn, thấy mấy tay công an đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, bạn Tây hỏi :

– Luật giao thông Việt Nam không áp dụng cho công an à ?

– Có áp dụng.

– Vậy sao họ không đội,họ không lo bị phạt sao ?

Cong an vi pham luat giao thong - YouTube

– Vì đó là công an, không đội cũng không bị phạt, vì công an không ai lại đi phạt công an.

Đi tiếp, thấy mấy thanh niên không đội mũ bảo hiểm đi ngang qua cảnh sát giao thông cũng không bị phạt, bạn Tây hỏi :

– Đó cũng là công an à ?

– Mày hỏi đểu à, đó là bọn trẻ trâu, nó không bị phạt vì nó nhuộm tóc vàng và khoe hình xăm ở cánh tay, nó sẵn sàng bỏ chạy khi bị thổi còi, lâu dần nó không cần bỏ chạy cũng không bị phạt.

Clip: "Quái xế” chở dàn "chân dài", lạng lách trên đường HN-Tin tức ...

– Tại sao tóc tao cũng vàng, tay tao cũng có hình xăm mà mày bắt tao đội mũ bảo hiểm ?

Bạn Việt Nam bí quá nói đại :

– Tại tóc mày chỉ có một màu vàng, bọn kia tóc nó nhuộm hai màu. Mắt mày lại xanh, mũi lõ nên không giống mấy đứa đó được.

Đến ngã tư, có đèn đỏ bạn Việt Nam vẫn đi tiếp, bạn Tây kinh ngạc hỏi :

– Mày không nhìn thấy đèn đỏ à ?

– Có.

– Vậy sao mày không dừng ?

– Mày không hiểu cái gì hết, cần phải xem xe container đằng sau nó có dừng không, nếu nó vẫn lao nhanh thì phải chạy tiếp không nó húc chết.

Kinh nghiệm lái xe gần xe công-ten-nơ, xe tải cỡ lớn

Bạn Tây ngoái lại thấy một xe container lù lù chạy đằng sau, mặt xanh lét, vừa sợ vừa khâm phục kiến thức giao thông của bạn Việt Nam. Đến ngã tư khác, gặp đèn xanh, bạn Việt Nam dừng lại không đi, bạn Tây hỏi:

– Sao đèn xanh mày lại dừng ?

– Tại phải chờ cho các nhân dân ở đường vuông góc với đường này nó vượt đèn đỏ xong đã rồi mới đi được, không nó húc chết.

Ô nhiễm không khí: Báo động nguồn phát thải từ xe máy - Xe điện Anbico

Vừa nói xong thì một nhân dân thiếu kinh nghiệm bị xe của làn vuông góc húc ngã vì liều lĩnh vượt đèn xanh. Bạn Tây lại càng khâm phục kiến thức giao thông của bạn Việt Nam.

Xe vượt đèn đỏ gây tai nạn bỏ chạy, bạn Tây gọi bạn Việt Nam đến hỗ trợ người bị nạn, đỡ người, vẫy xe ô tô để chở nạn nhân đi viện nhưng không ai hỗ trợ, cũng không ai cùng vào giúp, bạn Tây hỏi :

– Tại sao không ai cùng giúp nạn nhân như chúng ta ?

33 người chết vì tai nạn giao thông trong ngày mùng 1 tết 2014

– Tại người Việt Nam ai cũng bận.

– Người châu âu không bận sao ?

– Nhưng người Việt Nam bận hơn người châu âu, và cứu người cũng có thể gặp phiền phức, mà thôi không hỏi nữa, mày với tao chở nạn nhân vào viện bằng xe máy.

Đến quá nửa đêm mới về đến nhà. Sáu giờ sáng hôm sau, đang ngủ, bị đánh thức bởi tiếng loa phường, bạn Tây hỏi:

– Tại sao loa không thông báo muộn hơn ?

CÓ CÒN AI TIN VÀO CÁI LOA PHƯỜNG KHÔNG? (Ông Tư Sài Gòn / Saigon Nhỏ ...

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

– Vậy phát thanh sớm thì có người nghe không ?

– Cũng không có.

– Vậy tại sao phải phát thanh sớm ?

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

Sáng hôm sau , hai bạn tổ chức nấu ăn. bạn Việt Nam nấu, nhờ bạn Tây đi…đổ rác :

– Mày ra cổng, rẽ trái, đi 40 mét gặp một cái biển ghi chữ “Cấm đổ rác” thì đổ ở đó.

Đổ rác nơi bảng cấm - Báo Khánh Hòa điện tử

– Lạy Chúa, sao lại đổ rác ở chỗ cấm đổ rác ?

– Vì đó là chỗ duy nhất có thể đổ rác, cả tổ dân phố này đều ngầm quy ước đó là chỗ đổ rác.

Nấu ăn một lúc, bạn Việt Nam phát hiện ra thiếu thực phẩm, nói bạn Tây trông nhà để đi chợ, thằng Tây nói :

– Mày ở nhà, để tao thử đi chợ, tao thử đi một mình xem sao, tao muốn trải nghiệm. Mà chợ chỗ nào ?

Nơi cấm họp chợ lại đông vui nhất !!! - Baoxehoi

– Mày đi ra cổng, rẽ phải 300 mét, thấy một cái biển ghi…

– Ghi “Cấm họp chợ” phải không ?

– Đúng, mày thành người Việt Nam mất rồi. Đó, chợ ở ngay sau cái biển đó.

Ăn xong, bạn Tây muốn đi ra trạm ATM rút tiền. Bạn Việt Nam nói :

Nguyên Nhân & Cách lấy khi Bị nuốt thẻ ATM Nhanh Chóng chỉ 5 Giây!

– Chắc mày chuẩn bị muốn đi đến vùng không có máy rút tiền hả.

– Đúng, hôm trước tao rút mấy lần, có lần thì bị “nuốt thẻ”, có lần thì phải chờ gần nửa giờ chờ xong thì máy…hết tiền, nên tao muốn rút nhiều một chút đỡ phải đi rút.

– Để tao gọi taxi đi !

– Tao muốn đi xe máy, tao bắt đầu thích xe máy.

– Vậy mày cầm cái túi không quai này, ngồi sau tao chở đi rút tiền.

– Cái túi để làm gì vậy ? Đựng tiền hả ?

– Không, cái túi này không có gì, mày cứ cầm ngồi sau, cầm lỏng thôi để cho cướp giật nó giật.

Truy bắt nhóm cướp giật làm người mẹ tử vong, con gái mang thai nhập ...

– Không có quai để khi nó giật thì không bị ngã xe phải không ?

– Mày đoán như thần vậy.

– Còn tiền rút xong để đâu ?

– Mày để trong túi áo, túi quần chứ còn để đâu.

Trên đường về thì thấy một thằng ô tô biển xanh vượt qua các xe khác với tốc độ khoảng trên 100km/h ở làn đường chỉ cho ô tô chạy không quá 70km/h. Bạn Tây hỏi :

– Nó là xe ưu tiên à ?

Xe biển xanh 'vô tư' chạy ngược chiều trước cổng bệnh viện đa khoa Đông ...

– Không, như xe biển trắng thôi.

– Nhưng sao nó phóng vậy mà không bị “bắn” tốc độ, hay lái xe biển xanh nhuộm tóc vàng và xăm hình ở cánh tay ?

– Không phải, lái xe không nhuộm tóc xăm hình. Đó là xe của cơ quan nhà nước, tay sếp của cơ quan đó kiểu gì cũng quen biết bên cảnh sát giao thông, không quen trực tiếp thì quen gián tiếp. Cảnh sát giao thông có bắt thì lại phải nghe điện thoại “giải mã” rồi cũng phải thả nên thà không bắt nữa cho khỏi mất thời gian.

Trên đường đi, thấy nhiều nơi ghi “Tất cả vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Bạn Tây hỏi:

"Tat Ca Vi Su Nghiep Dan Giau, Nuoc Manh, Xa Hoi Cong Bang… | Flickr

– Ghi vậy làm gì mày?

– Khi mày đang rất đói thì mày muốn bàn chuyện đi đâu ?

– Tất nhiên là đi ăn.

– Đó … thiếu cái gì thì nói nhiều về cái đó.

S.T.


Giải trí cuối tuần: Câu chuyện ở một bệnh viện nọ…

Bùi Quang Hiếu

Quá tải bệnh viện: Vào phòng chờ...bao giờ đến lượt?

Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng:

– Ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “.

Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối:

– Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”.

Một cậu con trai khác cau cau lông m … ày:

-Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ?Cô con dâu trưởng phán một câu:

-Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ.

Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn.

Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người (ông cụ đã mất hết cảm giác vệ sinh), nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ.

Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời.

Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ.

Phong tục đam ma của người khơ mú yên bái - YouTube

Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang…

Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình.

Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời:

-Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền.

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau…đột nhiên im bặt.

Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

FB To Hanh

Nguyễn Phương Nhu

Tô cháo huyết -Tiểu Tử  

Tiểu Tử      

Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ. Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy nó ngay ở bên tay mặt.
Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền, chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon! Cháo nấu nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn trong lòng cái muỗng sành. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái “giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng của huyết. Ngon không chê được!

tochaohuyet4
Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với… tác phong cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô “thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng. Trong… “xã giao thường thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”, vừa ngắn gọn lại vừa… bình đẳng nữa! Thành ra thấy được xử dụng rất thoải mái và… xả láng! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu tôi đã gọi tôi bằng “anh”… ngon lành! Có lẽ trong lòng nó cũng khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm gì mình được” ! Đổi đời… sướng ở chỗ đó!).
Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”, thản nhiên không ngượng nghịu gì hết! Có lẽ tại thói quen. Cũng như tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là… “chị xẩm” với tiếng “chị” rất… thời trang từ ngữ!
Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:
– Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe cháo huyết này.
– Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à. Tiệm có bốn năm cái bàn lận.
– Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.
– Ủa! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy?
– Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.
– Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở sở cũ hả?
– Đâu có! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc ở nhà máy ve chai Khánh Hội.
– Cha… Xa quá há! Đạp xe chắc mệt hả thầy Hai? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.
– Rồi cũng quen hà. Ủa? Mà tại sao thím dẹp tiệm đi?
– Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.
– Rồi mấy đứa con thím đâu? Tôi nhớ hồi đó trong tiệm có mấy đứa…
– Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.
– Sao thím không đi?
– Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không biết tiếng, không biết chữ. Đi đâu? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông già bà già ở đây mà đi đâu? Còn thầy? Sao thầy không đi?
– Tôi kẹt!
Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi… trở tay không kịp. Vậy là kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo huyết?
Để tránh… thấy hàng cháo huyết, mới đầu tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngã cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa hơn, hôi hơn (vì đi ngang chợ) và mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến (Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát huy sáng kiến” à?). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn đèn ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi tuốt. Thật là… thích thú. Tôi phục… tôi quá chừng!
Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng, khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi… nhắm mắt chạy luôn, chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt trong tôi… bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay trước xe cháo huyết!
Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đâm đâm. Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ:
– Thầy Hai! Thầy Hai à! Trời ơi sao đâu mất vậy? Vô ăn cháo đi!
Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả, mỉm cười cho… lấy có:
– Thím mạnh hả?
Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:
– Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà…
– Tôi không có tiền! (Tôi đã nói như vậy – dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu!).
– Không có sao! Vô ăn đi! Chừng nào trả cũng được. Mình quen mà… Thầy Hai!
Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ! Như… cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian “đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.
Tiếng bà xẩm vang lên:
– Thầy Hai đừng ngại mà… Vô ăn đi rồi mai mốt trả. Không có sao!
Lần này, “cái đói” cộng thêm “cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng bước xuống xe đạp thì đèn bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết! Nó dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên, không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:
– Sao lâu quá không thấy thầy Hai vậy?
Nó trả lời… gọn ơ:
– Tôi mắc về dưới tỉnh.
– Bà con ở dưới cũng mạnh hết hả?
– Dạ, mạnh.
Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
– Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo!
Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mắt sáng rỡ, mũi hít từng hơi mùi thơm mời mọc.
Giọng bà xẩm ôn tồn:
– Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.
Ngừng một chút rồi tiếp:
– Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà… Phải thông cảm với nhau chớ! Thầy Hai hiểu tôi không?
Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ…”, rồi nín thinh. Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn… Bởi vì tôi thấy nó phải như vậy mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết!
Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:
– Không! Không! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím!
– Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà! Không tính tiền!


Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà! Ăn đi!”. Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt… Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao…

tieutu_sign

Nguồn: Tu-Phung

HAI XU MUỐI-Truyện ngắn

TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM

Lê Vũ  

HAI XU MUỐI

Xưa có một cô gái mồ côi cha mẹ, không ai nuôi. Cô phải đi ăn xin ngoài chợ. Tối lấy chiếu quấn nằm ngủ. Một hôm nghe nói Rằm Tháng Bảy cúng dường Tam Bảo có phước lắm, cô tự nghĩ làm sao mình tạo phước để khỏi nghèo khổ nữa.

Hôm đó xin được có hai xu, cô muốn cúng cái gì mà chư Tăng trong chùa đều hưởng được hết. Nghĩ vậy cô mua hai xu muối, đem vô chùa năn nỉ vị nấu cơm: “Con xin được có hai xu để mua muối, xin được cúng hết chư Tăng trong chùa, mong người giúp cho”.

Vị ấy liền bỏ nắm muối của cô vào nồi canh to, thế là chư Tăng đều được hưởng đầy đủ. Bẵng đi một thời gian dài, cô cũng không còn nhớ chuyện cúng muối nữa.

Lần lần lớn khôn, cô càng xinh đẹp lạ thường. Khi đó trong triều đình nhà Vua muốn chọn người làm vợ Thái Tử nhưng thấy mỹ nhân nào Thái Tử cũng từ chối. Vua ra lệnh cho các quan tìm người nào Thái Tử vừa ý sẽ được trọng thưởng.

Bấy giờ một ông quan đi ngang vùng đó, thấy trên trời có vầng mây đỏ, ông nghĩ nơi đây chắc có dị nhân phước lớn.

Giờ trưa, trên đường trở về, ông thấy cô bé khoảng 16 tuổi đang trùm chiếu ngủ. Ông đến gần nhìn, bất chợt cô bé thức dậy tốc chiếu ra. Thấy người con gái đẹp đẽ lạ thường lại sống đầu đường xó chợ như vậy, ông tội nghiệp đem về nuôi. Cô được cho ăn mặc dạy dỗ đàng hoàng, tới năm cô 18 tuổi ông dẫn đến trình nhà Vua.

Vua gọi Thái Tử lại, vừa thấy cô bé Thái Tử đẹp lòng ngay. Cô được Đông Cung Thái Tử cưới làm vợ.

Khi Vua băng hà, Thái Tử lên ngôi vua và cô bé trở thành Hoàng Hậu.

Khi làm Hoàng Hậu cô cứ nghĩ, không biết mình đã làm gì mà được phước thế này. Chừng ấy mới nhớ chắc do việc cúng muối năm xưa mà ra.

Một hôm, Hoàng Hậu sắm đủ thứ vật dụng sang trọng truyền chở vô ngôi chùa ngày xưa.

Nhưng lúc trước chỉ với hai xu muối của cô bé ăn xin, mà thầy trụ trì nói bữa nay có đại thí chủ đến cúng dường, bảo chư Tăng đánh chiêng trống đón.

Bây giờ Hoàng Hậu đem nhiều tài vật đến nhưng thầy trụ trì không đánh chuông trống đón.

Lấy làm lạ, Hoàng Hậu gặp thầy trụ trì hỏi

“Thưa Thầy, ngày xưa con là đứa ăn mày, chỉ cúng dường có hai xu muối mà nghe chuông trống đánh rình rang.

Ngày nay, con là Hoàng Hậu cúng cả xe trân bảo mà không nghe chuông trống gì hết?”.

Thầy đáp:

“Ngày xưa hai đồng xu rất quý vì đó là mạng sống của con. Muốn cúng chùa con phải nhịn đói, nên hai xu ấy lớn vô cùng.

Ngày nay con là Hoàng Hậu, của cải đầy xe nhưng đó là của dân chớ đâu phải của con. Lấy của người làm phước cho mình thì đâu có gì quan trọng.”

FB Võ Hữu Nhậm

VuLe Bt ( Bài & Ảnh)

CON RUỒI-Truyện ngắn

Con ruồi nhỏ, nhỏ xíu. Vậy mà cái nhỏ xíu đó đôi khi lại là nguyên nhân của những việc tày đình

Rất có thể hai vợ chồng đâm đơn ra tòa ly dị nhau chỉ bởi một con ruồi. Ai mà lường trước được những việc thần kỳ đó!

Tôi ốm.

Điều đó vẫn thỉnh thoảng xảy ra cho những người khỏe mạnh. Và vợ tôi pha cho tôi một ly sữa. Tôi nốc một hơi cạn đến nửa ly và phát hiện ra trong ly có một con ruồi. Con ruồi đen bập bềnh trong ly sữa trắng, “đẹp” kinh khủng!

Thế là mọi chuyện bắt đầu.

Tôi vốn rất kỵ ruồi, cũng như gián, chuột, nói chung là kỵ tất thảy các thứ dơ bẩn đó. Tối đang nằm mà nghe tiếng chuột bò sột soạt trong bếp là tôi không tài nào nhắm mắt được. Thế nào tôi cũng vùng dậy lùng sục, đuổi đánh cho kỳ được. Bằng không thì cứ gọi là thức trắng đêm.

Vậy mà bây giờ, một trong những thứ tôi sợ nhất lại nhảy tót vào ly sữa tôi đang uống, và đã uống, nói trắng ra là nhảy tót vào mồm tôi. Biết đâu ngoài con ruồi chết tiệt trong ly kia, tôi lại chẳng đã nuốt một con khác vào bụng. Mới nghĩ đến đó, tôi đã phát nôn.

Thấy tôi khạc nhổ luôn mồm, vợ tôi bước lại, lo lắng hỏi:

– Sao vậy anh?

Tôi hất đầu về phía ly sữa đặt trên bàn:

– Có người chết trôi kia kìa!

Vợ tôi cầm ly sữa lên:

– Chết rồi! Ở đâu vậy cà?

– Còn ở đâu ra nữa! – Tôi nhấm nhẳng – Chứ không phải em nhặt con ruồi bỏ vào ly cho anh à!

Vợ tôi nhăn mặt:

– Anh đừng có nói oan cho em! Chắc là nó mới sa vào!

– Hừ, mới sa hay sa từ hồi nào, có trời mà biết!

Vì tôi đang ốm nên vợ tôi không muốn cãi cọ, cô ta nhận lỗi:

– Chắc là do em bất cẩn. Thôi để em pha cho anh ly khác.

Tôi vẫn chưa nguôi giận:

– Em có pha ly khác thì anh cũng đã nuốt con ruồi vào bụng rồi!

Vợ tôi trố mắt:

– Nó còn trong ly kia mà!

– Nhưng mà có tới hai con lận. Anh uống một con rồi.

– Anh thấy sao anh còn uống?

– Ai mà thấy!

– Không thấy sao anh biết có hai con?

Tôi tặc lưỡi:

– Sao lại không biết? Uống vô khỏi cổ họng, nghe nó cộm cộm là biết liền.

Vợ tôi bán tính bán nghi. Nhưng vì tôi đang ốm, một lần nữa cô ta sẵn sàng nhận khuyết điểm:

– Thôi, lỗi là do em bất cẩn! Để em…

Tôi là tôi chúa ghét cái kiểu nhận lỗi dễ dàng như vậy. Do đó, tôi nóng nảy cắt ngang:

– Hừ, bất cẩn, bất cẩn! Sao mà em cứ bất cẩn cả đời vậy?

Vợ tôi giật mình:

– Anh bảo sao? Em làm gì mà anh gọi là bất cẩn cả đời?

– Chứ không phải sao?

– Không phải!

À, lại còn bướng bỉnh! Tôi nheo mắt:

– Chứ hôm trước ai ủi cháy cái quần của anh?

– Thì có làm phải có sai sót chứ? Anh giỏi sao anh chẳng ủi lấy mà cứ đùn cho em!

– Ái chà chà, cô nói với chồng cô bằng cái giọng như thế hả? Cô nói với người ốm như thế hả?

Cô bảo tôi lười chảy thây chứ gì? Cô so sánh tôi với khúc gỗ phải không? Ái chà chà…

Thấy tôi kết tội ghê quá, vợ tôi hoang mang:

– Em đâu có nói vậy!

– Không nói thì cũng như nói! Cô tưởng cô giỏi lắm phỏng? Thế tháng vừa rồi ai làm cháy một lúc hai cái bóng đèn, tháng trước nữa ai phơi quần áo bị đánh cắp mà không hay? Cô trả lời xem!

Vợ tôi nhún vai:

– Anh lôi những chuyện cổ tích ấy ra làm gì? Hừ, anh làm như anh không bất cẩn bao giờ vậy! Anh có muốn tôi kể ra không? Tháng trước ai mở vòi nước quên tắt để cho nước chảy ngập nhà? Anh hay tôi? Rồi trước đó nữa, ai làm mất chìa khóa tủ, phải cạy cửa ra mới lấy được đồ đạc?

Tôi khoát tay:

– Nhưng đó là những chuyện nhỏ nhặt! Còn cô, năm ngoái cô lấy mấy triệu cho bạn bè mượn bị nó gạt mất, sao cô không kể luôn ra?

– Chứ còn anh, sao anh không kể chuyện anh đi coi đá gà bị mất xe? Rồi năm ngoái, ai nhậu xỉn bị giật mất điện thoại?

Cứ như thế, như có ma xui quỉ khiến, hai vợ chồng thi nhau lôi tuột những chuyện đời xửa đời xưa của nhau ra và thay nhau lên án đối phương, không làm sao dừng lại được. Tôi quên phắt là tôi đang ốm. Vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi mải mê vận dụng trí nhớ vào việc lùng sục những khuyết điểm tầng tầng lớp lớp của nhau. Và thật lạ lùng, có những chuyện tưởng đã chìm lấp từ lâu dưới bụi thời gian, tưởng không tài nào nhớ nổi, thế mà bây giờ chúng lại hiện về rõ mồn một và chen nhau tuôn ra cửa miệng. Từ việc tôi ngủ quên tắt tv đến việc vợ tôi mua phải cá ươn, từ việc tôi bỏ đi chơi ba ngày liền không về nhà đến việc vợ tôi đi dự sinh nhật bạn đến mười hai giờ khuya v.v…, chúng tôi thẳng tay quậy đục ngầu quá khứ của nhau và vẽ lên trước mặt mình một bức tranh khủng khiếp về đối tượng.

Trời ơi! Thế mà trước nay tôi vẫn sống chung với con người tệ hại đó! Thật không thể tưởng tượng nổi! Tôi cay đắng nhủ thầm và bùng dậy quyết tâm phá vỡ cuộc sống đen tối đó. Tôi đập tay xuống bàn, kết thúc cuộc tranh cãi:

– Thôi, tra khảo hành hạ nhau thế đủ rồi! Tóm lại là tôi hiểu rằng tôi không thể sống chung với cô được nữa! Tôi ngán đến tận cổ rồi!

Vợ tôi lạnh lùng:

– Tùy anh!

Câu đáp cộc lốc của vợ không khác gì dầu đổ vào lửa. Tôi nghiến răng:

– Được rồi! Cô chờ đấy! Tôi làm đơn xin ly hôn ngay bây giờ!

Tôi lập tức ngồi vào bàn và bắt đầu viết đơn. Ngòi bút chạy nhoáng nhoàng trên giấy với tốc độ 100km/giờ.

Viết và ký tên mình xong, tôi đẩy tờ đơn đến trước mặt vợ. Cô ta cầm bút ký rẹt một cái, thậm chí không thèm liếc qua xem tờ đơn viết những gì.

Thế là xong! Tôi tặc lưỡi và thở ra, không hiểu là thở phào hay thở dài. Cuộc đời cứ như xi-nê-ma, nhưng biết làm thế nào được!

Ký tên xong, vợ tôi đứng lên và cầm lấy ly sữa.

– Cô định làm gì đấy?

– Đem đổ đi chứ làm gì!

– Không được! Để ly sữa đấy cho tôi! Tôi phải vớt con ruồi ra, gói lại, đem đến tòa án làm bằng cớ!

Đặt ly sữa xuống bàn, vợ tôi lẳng lặng đi vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại. Trong khi đó, tôi hì hục lấy muỗng vớt con ruồi ra.

Tôi ngắm con ruồi nằm bẹp dí trên đầu muỗng và có cảm giác là lạ. Tôi đưa con ruồi lên sát mắt, lấy tay khảy nhẹ và điếng hồn nhận ra đó là một mẩu lá trà.

From: TU-PHUNG

NHỮNG NGƯỜI LÍNH-Truyện ngắn

Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài làm tôi ước gì mình có một quyển sách hay để đọc trên phi trình. Có lẽ, tôi cũng cần chợp mắt một chút. Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm 10 người lính trẻ men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần nhất:

– Các cậu đi tới đâu vậy?
– Petawawa. Chúng tôi sẽ ở đó hai tuần để thụ huấn một chương trình huấn luyện đặc biệt rồi sau đó sẽ bổ sung tới A Phú Hản.

Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng thì tiếng loa thông báo là trên máy bay có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao giá 5 mỹ kim.
Cũng còn lâu lắm chuyến bay mới tới phía Đông nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn để vừa ăn vừa giết thì giờ.. Khi tôi móc bóp lấy tiền thì chợt nghe một người lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.
– Không! Có vẻ như mắc quá đó.. Bao lunch gì mà tới 5$. Thôi tao ráng đợi tới căn cứ hẳn hay.
Và anh lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.

Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người lính khác cũng không có ý định mua gì cả mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới đưa cho bà ta 50$ và nói:
– Xin bà vui lòng lấy thức ăn cho những người lính nầy.
Người tiếp viên ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lới cám ơn tôi và nghẹn ngào:
– Con trai tôi cũng là một quân nhân đang chiến đấu tại Iraq . Nghĩa cử nầy của ông như đang dành cho nó vậy. Rồi bà xăng xái đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người lính trên tàu.
Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:
– Thưa ông dùng gì ạ? Bò, gà rất hảo hạng.
– Xin cho tôi gà
Tôi trả lời bà ta trong một thoáng ngạc nhiên vì theo tôi biết hạng economy bây giờ chỉ có BOB thôi mà.
Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay độ một phút sau trở lại với nguyên khay thức ăn nóng hổi dành cho hành khách vé hạng nhất, bà trịnh trọng nói với tôi:
– Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ của những người trên chuyến bay nầy đối với ông .

Sau khi ăn xong với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình đứng lên chận tôi lại nói:
– Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.
Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 25 mỹ kim.
Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:
– Tôi muốn được bắt tay ông
Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.
Với giọng hân hoan, ông ta nói lớn như để mọi người cùng nghe:
– Tôi cũng đã từng là một quân nhân và cũng là phi công chiến đấu. Có một lần có người cũng mua cho tôi thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp mà tôi không bao giờ quên.
Cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.
Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi mà đánh động lương tâm con người đến thế sao?
Vì chuyến bay quá dài nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để rản gân cốt thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 25 mỹ kim.

Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà tình người cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra khi vừa tới cửa máy bay thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi tôi một thứ gì đó xong ông ta vội vả bước đi mà không nói một lời. Lại thêm 25$ nữa.

Nếu tính ra, tôi chỉ chi có 50$ mà bây giờ thu lại tới 75$. Kiếm được 25$ dễ dàng đến thế sao! À ! Quên! Còn bữa ăn thiệt ngon miệng nữa chứ.

Đúng là khi ta làm việc phải thì không bao giờ lỗ lã cả.
Tôi vui vẻ bước nhanh vào cửa phi trường thì thấy mấy người lính trẻ kiểm điểm nhân số để chuẩn bị về căn cứ. Tôi tiến tới trao cho họ 75 mỹ kim và nói:
– Từ phi trường về tới trại phải khá xa. Mà bây giờ cũng đã tới giờ để dằn bụng một cái sandwich chứ. Chúa sẽ ban ơn cho các cậu.

Mười người lính trẻ trong ngày hôm đó chắc đã rời chuyến bay trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành. Tôi hăng hái bước tới xe với lời thì thầm nguyện cầu cho tất cả sẽ được trở về trong an bình.

Những chàng trai nầy đã hy sinh tất cả cho quê hương mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. Thật là quá ít ỏi nếu không muốn nói là chỉ trong muôn một.

Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh đã từng đánh đổi cả cuộc đời khi viết lên chi phiếu trắng đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc” mà số tiền có thể lên đến chính sinh mạng của họ.
Đó là một vinh dự tối cao lẽ ra cả đất nước phải dành cho họ nhưng than ôi! Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ.

Xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho bạn chuyển tiếp câu chuyện nầy tới bạn bè quen biết.

Riêng tôi thì đã làm xong.

From: TU-PHUNG

Hai Bờ Đại Dương (truyện ngắn)

Hai Bờ Đại Dương (truyện ngắn)

Tuấn lái xe chạy dọc đường Bolsa, qua khỏi ngã tư đường Euclid, quẹo trái vô bãi đậu xe, ngừng lại trước tiệm hoa. Tuấn bước vô tiệm, chọn mua một bó hoa và một cái vòng đeo cổ kết bằng hoa lan. Vòng hoa này, người Mỹ gọi là lei, thường được dùng để tặng cho những sinh viên để mang trên cổ trong ngày ra trường. Mua hoa xong Tuấn lái xe lên đường cao tốc 57 đi về hướng Pomona, nơi có ngôi trường đại học bách khoa California State University Pomona. Hôm nay là ngày lễ tốt nghiệp của Vũ, con trai của Tuấn.

Trời California hôm nay nắng ấm, đã bước sang mùa hè, bầu trời trong xanh không một gợn mây. Đoạn đường cao tốc này, Tuấn đã đi nhiều lần, nhưng hôm nay cảnh vật có vẻ vui tươi, có lẽ vì trong lòng Tuấn đang vui. Mười lăm năm kể từ ngày đặt chân đến Mỹ, hôm nay có lẽ là ngày vui nhất của Tuấn, vì con trai tốt nghiệp đại học. Tuấn nghĩ thầm trong lòng: hôm nay chắc Ngọc sẽ rất vui khi thấy đứa con trai yêu dấu của mình đã thành đạt.

Tuấn và Ngọc gặp nhau trong khói lửa chiến tranh. Ngày ấy Tuấn là một sĩ quan thiếu úy vừa tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, được sung vào Sư đoàn 3 Bộ binh, đóng ở căn cứ Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị vào đầu năm 1972. Quảng Trị là tỉnh thuộc địa đầu giới tuyến của cuộc chiến hai miền Nam-Bắc. Phía bắc Quảng Trị là sông Bến Hải, nơi phân chia hai miền. Mặc dù ở địa đầu giới tuyến nhưng tình hình Quảng Trị lúc đó yên tĩnh. Theo tinh thần của Hiệp định Geneve được ký kết năm 1954 thì vùng giới tuyến là vùng phi quân sự, hai bên cam kết sẽ không có những hoạt động quân sự gần vùng này. Vì vậy mà các đơn vị đóng ở đây được coi là an nhàn.

Những lần rảnh rỗi, Tuấn thường qua khu vực gần thành cổ Quàng Trị (còn gọi là thành Đinh Công Tráng) bên kia sông Thạch Hãn, nơi có phố phường đông đúc, để ăn uống, dạo chơi, và nhất là ngắm các cô nữ sinh giờ tan trường. Một lần, đang ngồi uống cafe tại một quán nhỏ bên lề đường, Tuấn nhìn thấy một cô nữ sinh mặc áo dài trắng cắp cặp đi thong thả. Cô này có mái tóc đen nhánh chảy xuống bờ vai, cặp mắt long lanh, môi xinh như cánh hoa hống, dáng người thon thả, thướt tha trong tà áo dài trắng. Vừa nhìn thấy, Tuấn đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của cô gái. Từ hôm đó, mỗi khi có dịp, Tuấn lại ra quán ngồi đúng giờ tan trường để được ngắm người đẹp.

Tuấn cố suy nghĩ cách nào để làm quen với người đẹp, nhưng nghĩ hoài không ra. Mặc dù là quân nhân, nhưng đằng sau bộ quân phục Tuấn vẫn là một chàng thanh niên nhút nhát trước phụ nữ. Rồi một lần, một sự việc xảy ra như cơ duyên đưa đẩy.

Hôm đó ngồi ờ quán như thường lệ, Tuấn thấy bóng dáng cô nữ sinh từ xa, nhưng lần này lại có hai thanh niên lái xe gắn máy đi kè kè sát lề. Hai thanh niên này để tóc dài, mặc quần ống loe theo mốt hippy, có vẻ con nhà giàu, đang kè theo cô gái để tán tỉnh. Cô gái cỏ vẻ hơi khó chịu, nhưng vẫn cố giữ vẻ mặt bình thản, mắt nhìn thẳng và tiếp tục đi. Khi đi ngang chỗ Tuấn ngồi, chàng bất chợt đứng dậy, bước ra mé đường và nói với hai thanh niên kia: “Hai chú làm ơn để yên cho cô em của tôi được không?” Nhìn thấy Tuấn trong bộ quân phục sĩ quan, hai thanh niên kia hết hồn, rồ máy đi thẳng. Cô gái đứng lại, tần ngẩn nhìn Tuấn, cúi đầu nói lí nhí: “Dạ em cảm ơn anh.”

Tuấn gật đầu, rồi cũng không biết nói gì. Cô gái cúi đầu chào rồi đi tiếp. Tuấn đứng bâng khuâng nhìn theo cho đến khi cô gái đi khuất rồi cũng rời quán. Tự nhiên Tuấn thấy giận mình sao quá ngu ngơ, lẽ ra nên nhân cơ hội này hỏi thăm vài câu làm quen, hay ít nhất cũng hỏi tên cô gái.

Từ sau lần đó, mỗi lần đi ngang quán nhìn thấy Tuấn, cô gái hơi mĩm cười và khẽ cúi đầu chào. Tuấn cũng gật đầu đáp trả, cố làm ra vẻ bình thản, dù trong lồng ngực con tim đang đập rộn ràng reo vui. Nhưng sự việc có vẻ như chỉ giới hạn ở mức đó. Tuấn cố moi óc tìm cách nào để tiến xa hơn nữa. Cứ mỗi lần thấy cô gái từ xa, trong lòng Tuấn lại thôi thúc: “Đứng dậy đi. Đứng dậy bước ra hỏi thăm nàng vài câu đi!” Nhưng rồi cũng chỉ một nụ cười và một cái gật đầu, rồi bóng nàng lại xa khuất.

Một lần đi ngang, nàng chợt làm rớt cây viết máy mà không biết, cứ tiếp tục đi. Tuấn vội đứng dậy, lượm cây viết, rảo bước theo và nói: “Em ơi, em làm rớt cây viết.” Cô gái đứng lại, nhận cây viết từ Tuấn, mĩm miệng cười duyên dáng: “Dạ em cảm ơn anh.”

Một thoáng giây im lặng, cô gái dường như có ý chờ đợi. Tuấn thu hết can đảm, hỏi: “Em học trường nào?” Tuấn chợt thấy câu hỏi của mình hơi thừa vì trên ngực áo nàng có mang huy hiệu trường. Nhưng nàng dường như không quan tâm tới cái sự thừa thãi đó, vẫn trả lời: “Dạ em học trường Trung Học Nguyễn Hoàng.” Trường Trung Học Nguyễn Hoàng là một trong những ngôi trường khang trang nhất Quảng Trị lúc đó.

“Em học lớp mấy?” Tuấn hỏi tiếp.

“Dạ lớp mười hai.”

Cô gái nhìn cái lon thiếu úy có bông mai vàng trên cổ áo Tuấn, hỏi: “Anh ở đơn vị mô?”

“À anh thuộc Sư đoàn 3, đóng ở căn cứ Ái Tử.”

Đến đây thì Tuấn không biết hỏi gì hơn. Cái tính nhút nhát trước phụ nữ của Tuấn vẫn không thay đổi. Cô gái lại cúi chào rồi quay đi. Tuấn nhìn theo và sực nhớ là mình quên chưa hỏi tên cô gái. Còn cô thì không cần hỏi chắc cũng biết được tên Tuấn vì trên ngực áo quân nhân ai cũng có in tên.

Những lần sau đó, Tuấn đã bắt đầu dạn dĩ hơn. Mỗi khi nàng đi ngang, Tuấn đứng dậy đi theo nàng một quãng. Tuấn biết được tên nàng là Ngọc. Ngọc có ba đứa em. Ba mẹ Ngọc không giàu nhưng đủ sức nuôi các con ăn học. Ngoài giờ học Ngọc còn phụ giúp mẹ buôn bán. Biết được địa chỉ nhà Ngọc, Tuấn định bụng hôm nào sẽ đến thăm. Nhưng Tuấn chưa thực hiện được ý định đó thì một biến cố xảy ra, như một trận cuồng phong nổi lên làm đảo lộn mọi thứ.

Tuấn bật đèn báo hiệu, đổi qua làn đường bên phải, rồi thoát khỏi cao tốc. Đến đường Temple, Tuấn quẹo trái, đi một quãng nữa là tới trường. Trường nằm cạnh một trang trại nuôi ngựa của dòng họ Kellogg. Dòng họ này nổi tiếng với công ty Kellogg’s chuyên sản xuất các thức ăn chế biến từ ngũ cốc. Con đường dẫn vô trường đi ngang qua một cánh đồng rộng có những con ngựa được thả chạy rông, giống ngựa cao lớn, chân thon dài dùng để chạy đua. Ngoài ngựa, trang trại còn nuôi một số gia súc, trồng hoa và một số cây ăn trái. Sinh viên học ngành nông nghiệp của trường dùng trang trại này làm nơi thực tập.

Đến bãi đậu xe của trường, Tuấn theo bảng chỉ dẫn tìm chỗ đậu gần lối đi vào nơi cử hành lễ rồi xuống xe đi bộ. Trường rất rộng, diện tích hơn 5 cây số vuông, nếu không có bảng chỉ dẫn thỉ có thể đi lạc, mất nhiều thì giờ tìm nơi mình muốn tới. Trong trường rộn rịp sinh viên mặc áo choàng thụng, đầu đội mũ chóp vuông có gắn tua. Thân nhân, bạn bè của sinh viên cũng tới dự lễ rất đông, trên tay nhiều người cầm hoa và bong bóng. Đi qua khỏi thư viện trường là tới một cái sân cỏ rộng, có dựng khán đài. Tuấn đưa mắt tìm kiếm. Vũ đã tới trường từ sớm. Thật khó mà tìm được người thân trong cái sân rộng mênh mông có hàng ngàn người đi lại. Tuấn đành nghĩ thầm, thôi để tới lúc các sinh viên xếp hàng tiến vào nơi hành lễ thì mình sẽ đứng một chỗ canh tìm.

Trưa ngày 30-3-1972, đạn pháo kích của quân Cộng Sản dội như mưa vào Quảng Trị, mở màn cho một chiến dịch quân sự đẫm máu kéo dài sáu tháng mà Cộng Sản gọi là “Chiến dịch Xuân-Hè 1972”, quân sử Việt Nam Cộng Hòa sau này gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Căn cứ Ái Tử là một trong những nơi đầu tiên hứng đạn pháo kích nặng nề. Các đơn vị đóng khắp Quảng Trị cũng lần lượt hứng đạn pháo kích và sau đó là những đợt tấn công liên tiếp bằng biển người. Dân chúng khắp nơi chạy loạn, gồng gánh kéo nhau vào thị xã Quảng Trị, nương nhờ sự che chở của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi khi có chiến sự xảy ra thì dân chúng luôn chạy tìm nơi có quân Cộng Hòa đóng để được che chở hoặc giúp phương tiện di tản.

Cuộc tấn công ở Quảng Trị là một đòn bất ngờ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hiệp định Geneve quy định rằng khu vực hai bên sông Bến Hải, lằn ranh phân chia hai miền Nam-Bắc, là vùng phi quân sự. Hai bên cam kết không tiến hành bất cứ hoạt động quân sự nào trong vòng 5 km ở mỗi bên. Phía Việt Nam Cộng Hòa luôn giữ cam kết này, vì vậy mà Sư đoàn 3 bộ binh đóng ở đây đa số là các binh sĩ ít có kinh nghiệm chiến đấu. Phía Cộng Sản thì ký kết là một chuyện, giữ lời là một chuyện hoàn toàn khác. Hơn 40 ngàn quân Cộng Sản đã vượt sông Bến Hải tấn công Quảng Trị trong những ngày đầu tiên của chiến dịch. Ngoài ra, quân Cộng Sản còn tấn công ở Kontum và Bình Long, cũng ác liệt không kém.

Tuấn cùng đồng đội của mình chiến đấu cố thủ tại căn cứ Ái Tử gần một tháng, sau đó đơn vị của Tuấn rút vào Thành cổ Ðinh Công Tráng bên kia sông Thạch Hãn. Nhân dịp này Tuấn vội vã tìm tới nhà Ngọc. Đây là lần đầu tiên Tuấn gặp ba mẹ và các em của Ngọc. Trong cơn dầu sôi lửa bỏng, sự xuất hiện của Tuấn như một ngọn nến thắp lên trong đêm đen, đem lại niềm hy vọng cho gia đình Ngọc. Trong con mắt Ngọc, Tuấn giờ là một người hùng. Còn Tuấn, suốt gần một tháng đứng dưới chiến hào chịu trận mưa bom đạn, đầu óc quay cuồng giữa sự sống và sự chết, nay nhìn thấy bóng dáng yêu kiều của Ngọc, chàng bỗng nhận ra rằng cuộc chiến đấu của mình không vô nghĩa. Chàng đang liều chết để bảo vệ cho tình yêu của mình.

Gia đình Ngọc muốn di tản về Huế nhưng chưa có phương tiện. Ngay hôm đó Tuấn liền liên lạc với các đồng đội, nhờ họ thu xếp cho gia đình Ngọc được đi chung xe với các gia đình khác. Hôm sau, gia đình Ngọc rời Quảng Trị. Trước khi đi Ngọc trao cho Tuấn một mảnh giấy ghi địa chỉ người thân ở Huế.

Ngày 1 tháng 5, chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3, tuyên bố rút quân khỏi Quảng Trị. Khi nghe tin này, dân chúng đã ùn ùn chạy theo đoàn quân rút lui trên quốc lộ 1 về hướng Mỹ Chánh, tạo ra cảnh hỗn loạn, dân chúng đi lẫn với quân đội, gây khó khăn trong việc rút quân. Trong cơn hoảng loạn, một tai ương khác lại ập đến: pháo kích của Cộng quân đổ chụp lên đoàn người đang rút chạy. Cả lính và dân đều hứng đạn, chết la liệt. Những chiếc xe quân xa và xe chở thường dân bị trúng đạn bốc cháy, xác người chết và bị thương nằm rên la suốt một đoạn đường dài 10 cây số từ phía nam Quàng trị đến cầu Mỹ Chánh. Cộng Sản biết thừa có nhiều dân chúng đi lẫn với binh lính, nhưng họ không quan tâm. Đối với Cộng Sản, mạng người dân không đáng kể, chỉ có chiến thắng mới quan trọng. Trong số những cảnh thương tâm, hình ảnh gây xúc động nhất cho Tuấn là cảnh một em bé nằm trên xác người mẹ đã chết cố nút vú mẹ. Một người lính đã bế em bé lên và tiếp tục đi về phía Nam. Đoạn đường này về sau phóng viên Ngy Thanh của báo Sóng Thần khi làm phóng sự đã gọi là “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Thành ngữ này đã ghi đậm vào ký ức của người dân miền Nam lúc đó.

Qua khỏi cầu Mỹ Chánh, tình hình an toàn hơn vì có một lữ đoàn Thủy quân Lục chiến trấn giữ nơi đây. Tuấn đi thẳng về Huế, tìm tới địa chỉ mà Ngọc đã đưa. Người nhà cho biết không có tin tức gì của gia đình Ngọc, không biết họ đang ở đâu. Trong lòng Tuấn dấy nên một nỗi lo sợ, không biết gia đình Ngọc có bị trúng đạn pháo kích trên đường chạy loạn không. Biết đâu trong số xác những người nằm trên Quốc lộ 1 có gia đình của Ngọc? Lòng Tuấn rối bời, không biết phải làm sao.

“Ba tới lâu chưa?” Tiếng của Lan làm Tuấn giật mình. Quay lại nhìn Lan, tuấn đáp: “Ba mới vừa tới, anh Vũ đâu con?” Lan đáp: “Dạ ảnh đang đứng ở gần chỗ Student Union, để con dẫn ba tới.” Tuấn đưa bó hoa cho Lan cầm, “Con giữ đi, chút nữa cuối lễ đưa cho anh.” Sáng này Lan đã đi cùng anh tới trường trước. Lan vừa học hết năm thứ hai tại trường đại học UC Irvine. Lan học ngành Biology (Sinh học). Ước muốn của Lan là sau khi tốt nghiệp cử nhân sẽ nộp đơn vào ngành y. Còn Vũ thì tốt nghiệp ngành Computer Science (Khoa Học Vi Tính).

Tuấn đi theo Lan về phía tòa nhà có hàng chữ “Student Union”. Tòa nhà này dành cho các sinh hoạt của sinh viên ngoài giờ học. Trong đó có  cafeteria bán thức ăn (giống như căn-tin ở Việt Nam), có phòng hội họp, hội trường, phòng chơi game. Hôm nay không phải ngày học nên tòa nhà đóng cửa. Vũ và một số bạn bè mặc áo thụng, đội nón chóp vuông đang đứng trên bậc tam cấp chụp hình. Tuấn bước tới, choàng vòng hoa vào cổ Vũ. Vũ ôm Tuấn, nói: “Cám ơn ba.” Tuấn vỗ vai Vũ: “Bữa nay chắc mẹ vui lắm.” Vũ nhìn Tuấn, chưa kịp nói gì thì tiếng loa vang lên, yêu cầu các sinh viên đến địa điểm tập trung để chuẩn bị tiến về khán đài. Vũ vội chào ba rồi đi theo đám bạn.

Tuấn và Lan đi tìm chỗ ngồi. Trên sân cỏ đã sắp sẵn hàng ngàn chiếc ghế, chia ra thành nhiều khu vực. Khu vực gần khán đài dành riêng cho các khách mời, giáo sư và sinh viên. Thân nhân và bạn hữu thì ngồi xa hơn phía sau. Tuấn và Lan may mắn tìm được chỗ ngồi gần lối sinh viên sẽ đi qua. Tuấn định bụng sẽ chụp mấy tấm hình lúc Vũ đi ngang. Số người đi dự quá đông nên nhiều người không có chỗ ngồi, phải đứng đàng sau. Tiếng loa vang vang, tuyên bố buổi lễ bắt đầu, một điệu nhạc vui tươi nổi lên. Đoàn người bắt đầu tiến về phía khán đài. Đi đầu là ban giám hiệu, đến các giáo sư, rồi đến các sinh viên. Đoàn người đông đến gần cả ngàn. Trường có vài chục ngàn học sinh theo học. Mỗi năm số sinh viên ra trường đến vài ngàn, vì vậy mà lễ tốt nghiệp của mỗi ngành phải chia ra nhiều giờ và ngày khác nhau.

Tuấn ở Huế được mấy ngày thì nghe tin trung tướng Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân Đoàn I thay thế tướng Hoàng Xuân Lãm. Quân Đoàn I có nhiệm vụ trấn giữ Vùng 1 chiến thuật, bao gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và Quãng Ngãi. Điều đó có nghĩa là tướng Trưởng sẽ là người có trách nhiệm điều quân đánh chiếm lại Quảng Trị.

Lệnh ban ra: tất cả binh sĩ đang ở Huế phải lập tức trình diện để được tái phối trí. Sư đoàn 3 của Tuấn là đơn vị trực thuộc Quân đoàn I, nhưng vì binh sĩ đã bị phân tán nên phải rút về Đà Nẵng để tổ chức lại. Tuấn không đi theo sư đoàn mà ở lại Huế trình diện và được bổ sung vào một đơn vị tại chỗ, chuẩn bị tham gia vào cuộc chiến tái chiếm lại Quảng Trị.

Ngày 28 tháng 6, 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt đầu cuộc Hành Quân Lam Sơn 72 tái chiếm lại Quảng Trị với các đơn vị chủ lực của Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Kích Dù. Quân Cộng Sản cũng quyết tâm giữ Quảng Trị nên đã điều động nhiều sư đoàn bộ đội vượt sông Bến Hải sang tăng viện. Cuộc chiến ác liệt kéo dài 81 ngày đêm. Đến ngày 16 tháng 9, quân Cộng Hòa chiếm lại được cổ thành Quảng Trị. Kể từ trận chiến Tết Mậu Thân 1968 đến nay, đây là trận chiến ác liệt nhất, với con số thương vong mỗi bên hàng chục ngàn binh sĩ, chưa tính tới thường dân. Tuy chiếm lại được cổ thành Quảng Trị, nhưng vùng đất bên kia sông Thạch Hãn trở ra sông Bến Hải vẫn do phe Cộng Sản chiếm giữ.

Còn về phần tướng Vũ Văn Giai, ông ta bị cách chức Tư lệnh Sư đoàn 3 và bị đưa ra tòa án binh vì tội để mất Quảng Trị. Lẽ ra nếu tướng Giai cố gắng tổ chức phòng thủ cổ thành Quảng Trị thì có thể giữ được, nhưng ông ta đã vội vàng cho lệnh rút quân, dù có lệnh của Quân Đoàn I là phải cố thủ Quảng Trị. Khi tuyên bố rút khỏi Quảng Trị, ông ta đã hứa với thuộc cấp là sẽ cùng anh em binh sĩ đi đường bộ, nhưng rốt cuộc ông ta cùng bộ tư lệnh sư đoàn lên trực thăng bay thẳng về Đà Nẵng, khiến đoàn quân rút lui như rắn mắt đầu, hứng chịu thảm cảnh trên Quốc Lộ 1. Tướng Giai bị lãnh án 5 năm tù.

Giữa lúc này, có tin đồn Hoa Kỳ sắp rút hết quân khỏi Việt Nam. Người Mỹ đã mệt mỏi vì cuộc chiến. Dân Mỹ đã chán ngán chiến tranh và không muốn con em của mình phải chết trên một đất nước xa lạ. Kể từ năm 1970, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu rút bớt quân khỏi Việt Nam. Cho đến cuối năm 1972, số lính Mỹ chỉ còn lại khoảng gần 30 ngàn người. Trong cuộc Hành Quân Lam Sơn, Hoa Kỳ chỉ yểm trợ pháo binh và không quân, các cuộc chiến trực tiếp trên bộ đều do các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đảm trách. Lý do người Mỹ chưa thể rút hết quân khỏi Việt Nam là vì còn mấy trăm tù binh Mỹ đang bị giam giữ ở miền Bắc. Những người này là các phi công lái máy bay ném bom bị bắn rơi. Người Mỹ muốn ký một thỏa hiệp với Cộng Sản miền Bắc để họ trao trả tù binh, đổi lại Mỹ sẽ rút hết quân khỏi miền Nam.

Chiến dịch chấm dứt, Tuấn trở lại Huế thì được người nhà của Ngọc cho hay gia đình Ngọc đã đi thắng đến Đà Nẵng trong cuộc di tản. Tuấn vội vàng xin cấp trên cho trở về Sư đoàn 3 đang đóng ở Đà Nẵng. Cấp trên đồng ý, vậy là Tuấn đi ngay tới Đà Nẵng. Tuy biết là gia đình Ngọc về được Đà Nẵng, nhưng Tuấn không biết có ai nằm lại trên đường không, vì vậy mà trên đường đi Tuấn luôn thấy bồn chồn lo lắng.

Lần theo địa chỉ, Tuấn tới trước một căn nhà trong hẻm, bấm chuông. Trong nhà thấp thoáng một người con gái đi ra, dáng dấp quen thuộc. Trong lòng Tuấn hồi hộp. Cửa mở, Ngọc xuất hiện, nhìn Tuấn ngỡ ngàng. Vẫn dáng dấp yêu kiều ấy, vẫn mái tóc dài tha thướt, nhưng Ngọc gầy và trông mệt mỏi. Nàng như cánh hoa đang bị cơn gió lốc chiến tranh cuốn đi. Tuấn thấy lòng dâng lên một niềm thương yêu không bờ bến. Chàng muốn ôm ghì nàng vào lòng, nhưng không dám. Tuấn thu hết can đảm, nắm lấy tay Ngọc. Bàn tay thon nhỏ, ấm mềm của Ngọc nằm gọn trong lòng bàn tay sắt thép của người lính trận vừa trở về từ vùng máu lửa. Bốn mắt nhìn nhau, chan chứa ân tình. Khóe mắt của Ngọc long lanh giọt lệ.

Trước khi chiến sự xảy ra, Ngọc chỉ còn mấy tháng nữa là hoàn tất trung học, nhưng đành phải bỏ dở. Thời chiến tranh, học đến lớp 12 đã là một cố gắng vượt bực rồi, nay còn phải phụ giúp gia đình ổn định lại cuộc sống và giúp các em đi học trở lại, Ngọc đành thôi học. Mấy tháng sau, vào đầu năm 1973, Tuấn và Ngọc thành hôn. Ba má Tuấn từ Sài Gòn đáp máy bay của hãng hàng không Air Vietnam ra Đà Nẵng dự đám cưới.

Lúc này một sự kiện chính trị quan trọng xảy ra: Hiệp Định Hòa Bình Paris (Paris Peace Accords). Theo hiệp định này thì Hoa Kỳ đồng ý rút hết quân khỏi Việt Nam, đổi lại, phía Cộng Sản trao trả hết tù binh Hoa Kỳ và cam kết không dùng vũ lực để tấn công miền Nam. Tháng Ba năm đó, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Tuy gọi là hiệp định hòa bình, nhưng nó không đem lại hòa bình như tên gọi. Phía Cộng Sản không bao giờ ngừng tấn công, cuộc chiến vẫn tiếp diễn. Với việc rút quân của người Mỹ, cuộc chiến giờ đây chính thức là cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc.

Hè năm 1974, con trai đầu lòng là Vũ ra đời. Thời gian này cuộc sống của hai vợ chồng Tuấn tạm thời bình yên. Ngoài những chuyến công vụ, Tuấn không phải rời xa Ngọc.

Cho tới đầu năm 1975, một cơn bão thời cuộc lại nổi lên, và lẩn này nó đảo lộn tất cả.

Tuấn và Lan dõi mắt nhìn đoàn người đi qua, cố tìm Vũ. Khi thấy Vũ trong đoàn người, Tuấn đưa máy ảnh lên, bấm liên tiếp mấy cái. Vũ nhìn thấy ba và em, tươi cười vẫy tay. Đoàn người lần lượt đến các dãy ghế, ngồi theo thứ tự được sắp đặt trước. Sau khi tất cả đã ngồi vào ghế, các nghi thức bắt đầu. Đầu tiên là một nhóm các em Boy Scouts (Hướng Đạo Sinh) rước lá cờ Hoa Kỳ lên khán đài. Sau khi cắm cây cờ vào giá, lễ chào quốc kỳ và hát quốc ca bắt đầu. Không giống như nhiều nước khác, quốc ca Hoa Kỳ chỉ do một người hát. Ai muốn thì cứ hát theo, nhưng chỉ có một người cầm microphone hát đơn ca là chính.

Sau nghi thức chào cờ là phần phát biểu của thầy hiệu trưởng, một vài giáo chức và khách mời danh dự. Các bài diễn văn thường rất ngắn, chỉ chừng 3-5 phút. Người Mỹ rất thực tế, họ biết thừa rằng ít ai muốn nghe những bài diễn văn dài lê thê. Diễn văn càng dài thì khán giả càng ít muốn nghe, vì vậy ai cũng phát biểu ngắn gọn. Tiếp đó là phần phát biểu của sinh viên thủ khoa và một vài sinh viên có thành tích hoạt động nổi bật. Rồi đến phần phát bằng ban khen cho một số giáo sư và sinh viên. Cuối cùng là phần xướng danh các sinh viên và từng người sẽ lần được bước lên khán đài để được bắt tay, chụp hình và trao một tấm giấy tượng trưng cho bằng tốt nghiệp. Đây là phần chính của buổi lễ, là giây phút mong đợi của tất cả các sinh viên.

Đầu tháng 3, 1975, quân Cộng Sản mở chiến dịch tấn công Tây Nguyên và Huế-Đà Nẵng. Chiến cuộc lần này cũng quy mô và ác liệt không kém cuộc chiến năm 1972. Ngọc và gia đình lại một lần nữa phải chạy trốn chiến tranh. Gia đình di tản về Sài Gòn. Tuấn ở lại cùng đơn vị chiến đấu. Đến ngày 29 tháng 3 thì Đà Nẵng rơi vào tay quân Cộng Sản. Tuấn cùng đơn vị rút về Sài Gòn.

Người dân Sài Gòn lúc này sống trong hoảng loạn, lo sợ. Những ai có phương tiện rời Việt Nam được thì họ bắt đầu nhốn nháo thu xếp để ra đi. Người Mỹ bắt đầu di tản những ai trước kia đã từng làm việc với quân đội Mỹ, họ sợ những người này ở lại sẽ gặp nguy hiểm nếu quân Cộng Sản chiếm được Sài Gòn. Chính cuộc di tản này đã gây thêm tâm trạng hoang mang trong dân chúng. Tình hình biến chuyển xấu đi rất nhanh. Ngày 21 tháng 4, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Bảy ngày sau, Trần Văn Hương từ chức, trao quyền lại cho đại tướng Dương Văn Minh. Những ngày này, dân chúng tìm mọt cách để rời khỏi Việt Nam. Trước cổng tòa đại sứ Mỹ tràn ngập người muốn vào để được trực thăng di chuyển ra Đệ thất Hạm đội ngoài khơi Thái Bình Dương. Nhiều người không thuộc diện được Hoa Kỳ chọn lựa nhưng họ vẫn chen lấn, cố vào cho được tòa đại sứ, vì họ biết rằng một khi vào được bên trong thì sẽ được bốc đi. Người Mỹ không bỏ rơi bất cứ ai đang ở trong tầm tay của họ. Bến Bạch Đằng cũng tràn ngập người chen nhau lên các con tàu. Nhiều người chạy xuống tận Vũng Tàu tìm ghe đi.

Hai ngày sau, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, yêu cầu quân lực Việt Nam Cộng Hòa buông vũ khí. Đó là ngày định mệnh 30 tháng 4, 1975.

Lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh làm Tuấn và các đồng đội bàng hoàng. Nhiều người gục đầu xuống khóc. Chỉ mới hai tháng trước đây, không ai nghĩ rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Quân đội còn đó, vũ khí còn đó, lòng dân còn đang mong mỏi quân đội lật ngược tình thế, nhưng giới lãnh đạo lại hèn nhát, người thì từ chức, bỏ chạy, kẻ thì vội vàng tuyên bố đầu hàng. Cho tới giờ phút đó, chưa một đơn vị nào của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phất cở trắng, kể cả những đơn vị bị vây khốn nguy cấp, mà kẻ lãnh đạo cao nhất đã tuyên bố đầu hàng! Một vài đồng đội của Tuấn đã tự sát vì không muốn sống trong sự nhục nhã. Tuấn không đủ can đảm tự sát vì chàng không muốn Ngọc và đứa con trai của mình phải sống bơ vơ. Chàng cởi bỏ quân phục, trở về cùng Ngọc.

Những ngày sau đó, Tuấn hỏi dò tin tức của các bạn đồng đội, có người bỏ về quê, có người đã di tản ra Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở ngoài khơi Thái Bình Dương. Đau xót nhất là tin tức về những sĩ quan, binh lính đã tự sát, trong đó có năm vị tướng: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai va Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ. Ngoài ra còn nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy, hạ sĩ quan và binh lính, không thể kể hết.

Các sinh viên lần lượt xếp hàng hai bên hông khán đài. Khi được xướng danh, từng người bước lên sân khấu, bắt tay hiệu trường, giáo sư trưởng khoa, và một vài giáo chức khác, rồi nhận tấm giấy cuốn tròn, tượng trưng cho bằng tốt nghiệp (bằng tốt nghiệp chính thức sẽ được gởi về nhà sau). Tuấn mở tập sách nhỏ được phát cho mọi người dự lễ, trong sách này có in chương trình lễ và danh sách các sinh viên được xướng danh theo thứ tự. Vừa nghe xướng danh, vừa rà danh sách để xem khi nào đến lượt Vũ.

Khi đến lượt Vũ bước lên khán đài, Tuấn giơ máy ảnh lên chụp. Chụp cho có lệ, chứ ở khoảng cách xa như vậy, khi lên hình khó nhận ra mặt mũi ai. Nhà trường có thuê một công ty chụp hình, có các thợ đứng gần sân khấu chụp từng người. Mỗi sinh viên khi nhận bằng chính thức sẽ được nhận kèm một tấm hình lúc đứng trên khán đài.

Sau khi tất cả các sinh viên đã được xướng danh, một giáo chức lên đọc bài diễn văn bế mạc. Sau bài diễn văn, vị hiệu trưởng long trọng tuyên bố: các sinh viên giờ có thể gạt cái tua trên mũ từ bên phải qua bên trái. Đây là nghi thức đánh dấu giây phút các sinh viên đã chính thức tốt nghiệp.

Màn cuối cùng, cũng là màn vui nhất, là các sinh viên cởi mũ tung lên trời. Tiếng reo hò, vỗ tay vang dậy. Tung mũ xong, mạnh ai nấy chạy đi tìm nhặt lại, nhiều người lẫn lộn mũ của nhau, không khí vui nhộn. Rồi nhạc nổi lên, đoàn sinh viên lần lượt rời ghế, xếp hàng đi ngược hướng lúc nãy. Khi các sinh viên đã rời khu vực hành lễ, mọi người đứng dậy, đi tìm con em của mình.

Sau ngày 30 tháng 4, Tuấn hạn chế ra đường, chỉ ở nhà với Ngọc. Mở TV lên coi thấy cảnh bộ đội được dân chúng Sài Gòn chào đón với những bó hoa và khuôn mặt hớn hở, Tuấn biết đó là những cảnh được dàn dựng. Nhưng Tuấn không quan tâm mấy đến điều này, điều Tuấn quan tâm là: chính quyền mới sẽ đối xử ra sao với những quân nhân như Tuấn?

Mấy tuần sau, có thông báo của chính quyền mới tuyên bố khoan hồng cho những quân nhân của chế độ “ngụy quyền”—danh từ họ dùng để gọi chế độ cũ. Họ kêu gọi những binh lính và sĩ quan cấp thấp ra trình diện để được “học tập cải tạo tư tưởng”. Một số người ra trình diện, nhiều người lo sợ vẫn trốn tránh. Những người này được tập trung học tập trong vài ngày rồi ra về. Sau đó, chính quyền lại kêu gọi những người chưa được học tập phải ra trình diện. Lần này số người ra trình diện đông hơn, cũng được học tập rồi về. Đến giữa tháng Sáu, có lệnh tất cả các sĩ quan từ cấp úy trở lên đều phải trình diện và đem theo vật dụng “đủ dùng trong 10 ngày”. Tuấn ra trình diện. Đúng lúc đó, Ngọc có dấu hiệu mang thai.

Lần này, số người ra trình diện rất đông, vì ai cũng nghĩ, đi học tập 10 ngày thì không có gì phải trốn tránh. Nhưng có ai ngờ đâu, đó là một cái bẫy. Chính quyền chỉ dặn đem đồ đủ dùng 10 ngày, chứ không hề nói là đi học tập 10 ngày. Hàng trăm ngàn người bị lùa vào các trại tập trung, vài tháng sau chuyển ra Bắc trong nhiều đợt. Những người tù cải tạo bị lùa xuống tàu, nhốt dưới hầm như nhốt súc vật, một số người chết ngộp trong hầm. Đến Hải Phòng, họ bị nhét vào các toa xe lửa, loại toa không có ghế ngồi thường dùng để chở hàng hóa hay súc vật, tiếp tục di chuyển. Đích đến là vùng đồi núi Hoàng Liên Sơn lạnh lẽo heo hút.

Ấn tượng đầu tiên của Tuấn khi đặt chân lên miền Bắc là quang cảnh khốn khó, nghèo nàn, không như miền Nam trù phú, sung túc. Tuấn chợt thấy một cảm giác chua xót. Xưa nay trong lịch sử, người giàu có sung túc mới đi giải phóng kẻ nghèo khổ, chứ có bao giờ kẻ nghèo khổ lại đi “giải phóng” người giàu có bao giờ. Càng nghĩ, Tuấn càng cảm thấy buồn, điều đó có nghĩa là miền Nam rồi đây cũng sẽ rơi vào cảnh nghèo khổ như miền Bắc.

Khi tới phà Ô Lâu để qua Yên Bái thì mọi người xuống tàu để qua phà. Một đám đông dân chúng đứng chờ sẵn. Họ ném đá vào đoàn người tù và chửi bới: “Quân Mỹ-Ngụy ăn thịt người.” Tuy không ai bị thương nhưng sự việc này gây tác động tâm lý rất nặng cho đoàn tù. Về sau khi vào các trại cải tạo, nói chuyện với nhiều người, Tuấn mới biết hầu như ai cũng trải qua cảnh đó. Trong những lần hiếm hoi tiếp xúc với người dân miền Bắc, Tuấn được biết rằng người miền Bắc luôn được tuyên truyền rằng người miền Nam sống khổ cực dưới sự kềm kẹp của Mỹ-Ngụy, rằng quân Mỹ-Ngụy tàn ác lắm, ăn cả thịt người. Tuấn đoán rằng đó nguyên nhân của các cuộc ném đá. Tuy nhiên, sự việc này xảy ra cho hầu hết những chuyến xe chở tù cải tạo khiến Tuấn không thể cho đó là sự ngẫu nhiên, mà chắc nó phải có sự sắp đặt của chính quyền. Đây có lẽ là một cách để phủ đầu bọn tù cải tạo, cho họ biết rằng từ đây họ chỉ là những tên tội phạm, và đã là tội phạm thì không được đối xử như con người.

Những năm tháng tù đày trong các trại cải tạo trên vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, ăn uống thiếu thốn, lao động cực nhọc. Hàng ngày bọn Tuấn phải đi làm các công việc đồng áng hoặc lên rừng chặt cây, tối về bị nhốt vào các căn nhà trại chật chội, hôi thối. Mặc dù làm việc đồng áng quanh năm, nhưng hoa màu thu hoạch được phần lớn chở đi đâu hết, người tù chỉ ăn toàn khoai sắn, chỉ những ngày lễ, tết mới được ăn cơm, cái đói luôn dày vò. Nhiều người tự “cải thiện” bẳng cách dấu diếm những củ khoai, củ sắn hoặc ếch, nhái, rắn bắt được trong lúc đi lao động để đem vể trại lén nấu ăn. Nhưng khi về trại bị khám xét, nếu bị bắt được thì họ sẽ bị cán bộ đánh bằng báng súng. Trong trại hầu như không có thuốc men gì. Ai bị bệnh chỉ được phát cho một loại thuốc duy nhất: xuyên tâm liên. Ngoại trừ những người bị bệnh nằm liệt không đi được, ai bệnh mà còn đi được thì vẫn phải đi lao động. Nhiều người tù đã gục ngã, bỏ xác nơi vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn. Thỉnh thoảng có người trốn trại, nếu bị bắt lại thì hoặc là bị xử tử, hoặc là bị đánh bằng báng súng đến ngất xỉu rồi bị giam vào hầm đá.

Trong những năm tháng đen tối đó, tình yêu của của Ngọc là nguồn động lực giúp Tuấn vượt qua tất cả. Những lá thư, những gói quà của Ngọc chắt chiu gởi từ miền Nam ra, là minh chứng cho lòng chung thủy và tình yêu của nàng. Ngọc đã hạ sinh Lan, đứa con gái mà Tuấn chưa hề được gặp mặt. Sau bốn năm ở trong trại, một ngày nọ Tuấn được thông báo: có người ra thăm nuôi. Tuấn đoán ngay đó là Ngọc.

Tuấn và Lan rời ghế, đi tìm Vũ. Đang loanh quanh giữa đám đông thì có người vỗ vai, Tuấn quay lại nhìn thì thấy Hiệp, một người bạn lớn tuổi hơn Tuấn. Anh ta hỏi: “Con mày học ở đây à?” Tuấn gật đầu: “Ừ, hôm nay cháu nó tốt nghiệp. Còn anh, cũng có con học ở đây à?” Hiệp lắc đầu: “Không, hôm tay tao đi vì đứa cháu.”

Hiệp và Tuấn quen nhau trong trại cải tạo. Câu chuyện của Hiệp cũng khá ly kỳ. Hiệp là sĩ quan hải quân. Vào những ngày Sài Gòn đang hấp hối, Hiệp đang ở trên chiến hạm gần đảo Phú Quốc. Khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, người hạm trưởng ra lệnh cho tàu chạy thẳng ra phía Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Hải quân Hoa Kỳ đã hướng dẫn tàu đi đến đảo Guam, nơi có căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. Trên đảo lúc này có hàng trăm ngàn người Việt đã được di tản đến đây. Trong những tháng kế tiếp, phần lớn những người này đã được đưa vào Hoa Kỳ định cư, duy còn lại hơn một ngàn người không chịu đi mà muốn quay lại Việt Nam, trong số đó có Hiệp. Mặc cho các đồng hương và các sĩ quan Hoa Kỳ cố gắng thuyết phục, những người này nhất quyết quay về. Nhiều người trong số họ đã ra đi bất đắc dĩ, như trường hợp của Hiệp, vợ con của họ còn bị kẹt lại ở Việt Nam nên họ muốn quay về, bất kể số phận sẽ ra sao.

Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã phải đứng ra dàn xếp cho chuyến hồi hương này. Họ liên lạc với chính quyền Cộng Sản Việt Nam nhưng không nhận được câu trả lời dứt khoát, trong khi đó những người muốn hồi hương thì biểu tình, tuyệt thực, đòi về gấp. Cuối cùng hải quân Hoa Kỳ phải sắp xếp cho họ quay về trên chiếc tàu Việt Nam Thương Tín. Đây là chiếc tàu sắt vận tải lớn đã chở hơn 600 người Việt di tản vào ngày 30 tháng Tư từ Sài Gòn đến đảo Guam. Tàu được sữa chữa và trang bị các tiện nghi đầy đủ cho đoàn người hồi hương. Tàu cũng được cung cấp lương thực và nhiên liệu dư thừa, để trong trường hợp những người hồi hương đổi ý thì họ có thể quay trở lại Guam. Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ được chỉ định làm thuyền trưởng. Tàu rời Guam ngày 16 tháng 10, 1975, đem theo hơn 1600 người, trong đó có nhiều sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa.

Lần đầu tiên gặp lại Ngọc sau 4 năm xa cách, Tuấn cố giữ vẻ mặt bình tĩnh. Chàng không muốn Ngọc lo nghĩ nhiều về mình. Khi đối diện với Ngọc, Tuấn không kềm được nỗi niềm thương xót. Ngọc vẫn đẹp như xưa, nhưng nhan sắc giờ phảng phất một màn sương u tối. Mái tóc dài giờ đã cắt ngắn, môi như cánh hồng phai, mắt đượm vẻ buồn. Phần Tuấn, chàng trai trẻ lính chiến dạn dày sương gió xưa kia giờ là một tên tù gầy gò, má hóp, mắt trũng sâu, da thâm đen. Cũng như lần gặp gỡ trước ở Đà Nẵng, tay trong tay, bốn mắt nhìn nhau, nhưng lần này trong lòng hai người là những cơn bão, nước mắt muốn tràn mi nhưng bị kềm giữ. Trước những đôi mắt dò xét của các cán bộ trại, Tuấn không muốn bộc lộ cảm xúc của mình.

Cuộc gặp gỡ diễn ra vài giờ trong phòng thăm nuôi, có sự hiện diện của cán bộ. Hai người chỉ thầm thì trao đổi, không dám nói những điều nhạy cảm, cấm kỵ. Ngọc chỉ đi một mình vì hai con còn nhỏ. Khi chia tay, Tuấn nói với Ngọc: “Em ra thăm anh lần này là đủ rồi, không cần đi thăm nữa đâu. Em cứ ở nhà lo cho con là anh vui rồi.”

Năm 1981, Tuấn được thả về sau 6 năm bị giam giữ.

Ngày đoàn tụ gia đình, lòng Tuấn vui buồn lẫn lộn. Vui vì được về với gia đình, buồn vì thời thế đổi thay. Tuấn giờ đây thành một tên “ngụy” bị chính quyền mới coi như một công dân hạng bét. Không những vậy, các con của Tuấn, cũng như con cái của hàng triệu quân nhân của chế độ cũ, bị đối xử phân biệt. Cái lý lịch “gia đình ngụy” không bao giờ gột rửa được.

Tuấn đã từng đọc lịch sử Hoa Kỳ, biết rằng sau năm 1865, khi cuộc nội chiến Nam-Bắc chấm dứt, chính quyền Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách hòa giải dân tộc. Không có những trại tù cải tạo, không phân biệt đối xử với gia đình, con cái những người trong quân đội miền Nam, không có những từ ngữ khinh miệt, gọi chế độ cũ là “ngụy”. Chỉ trong vòng một thập niên, nước Mỹ gần như xóa bỏ mọi vết tích chiến tranh, dân tộc đoàn kết, đất nước phát triển.

Điều làm Tuấn lo sợ hơn hết là các thế hệ thanh thiếu niên bị nhồi nhét vào đầu những điều dối trá, sai lệch về chế độ cũ, về những gì cha anh họ đã chiến đấu để bảo vệ. Tuấn đã được xem phim “Mùa Gió Chướng”, một cuốn phim được sản xuất sau năm 1975. Cuốn phim này hoàn toàn xuyên tạc hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa và chế độ miền Nam cũ. Trong phim còn có cảnh một cán bộ nằm vùng Cộng Sản bị chính quyền miền Nam bắt và chôn sống, một điều không hề xảy ra trong chế độ cũ. Đối với Tuấn, con đường duy nhất mà Tuấn phải chọn lựa cho cá nhân và gia đình là vượt biên, thoát khỏi chế độ này.

Khi chiếc tàu Việt Nam Thương Tín về đến Vũng Tàu thì nó không được cập bến mà phải neo đậu ngoài khơi. Hôm sau, chính quyền ra lệnh cho tàu hướng về phía Nha Trang. Khi cập bến ở Nha Trang, tất cả mọi người sau khi bị khám xét và tịch thu gần hết đồ đạt, bị đưa thẳng vào nơi giam giữ. Sau đó họ bị thẩm vấn liên tục trong nhiều tháng. Nhiều người đã hối hận vì quyết định sai lầm của mình. Vài tháng sau họ được phân chia ra từng nhóm. Một số phụ nữ và trẻ em được thả về, một số bị đưa vào các trại giam. Khoảng một phần ba trong số họ là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, số này đã bị đưa vào các trại cải tạo. Đa số bị giam từ 5 đến 10 năm. Trung Tá Trần Đình Trụ bị giam 13 năm. Hiệp bị giam cùng trại với Tuấn.

Có lần Tuấn hỏi Hiệp: “Anh đã tới đảo Guam rồi, sao không đi Mỹ phứt đi, nghĩ sao mà lại đòi quay về?” Hiệp trầm ngâm nói: “Lúc đó vợ con tao còn ở Việt Nam, không biết sống chết ra sao, tao không nỡ bỏ đi. Vả lại tao nghĩ, cùng là người Việt với nhau, hết chiến tranh rồi, còn gì nữa mà thù hận nhau. Tao có ngờ đâu là có những trại cải tạo như vầy.” Tuấn vỗ vai Hiệp, nói: “Không phải chỉ có mình anh, mà có cả triệu người đã lầm.”

Phong trào vượt biên lúc đó đang rầm rộ ở miền Nam. Ai có tiền bạc, phương tiện đều tìm cách ra đi. Tuấn không có tiền để đi, chàng đang cố nghĩ cách thì nhận được tin Hiệp được ra trại. Là cựu sĩ quan hải quân, những người như Hiệp thường được các nhóm tổ chức vượt biên cho đi miễn phí vì họ cần người có kinh nghiệm đi biển để hướng dẫn tàu. Tuấn rủ Hiệp, cùng liên lạc với một nhóm tổ chức. Tuấn phải liên lạc, móc nối với những người muốn đi, chịu đóng góp vàng cho đủ số lượng yêu cầu. Hè năm 1982, Tuấn và Ngọc dắt hai con xuống tàu vượt biên cùng với gia đình Hiệp. Hiệp được chỉ định làm thuyền trưởng.

Tàu chở gẩn trăm người, đi từ Bến Tre, xuôi dòng ra cửa biển, chạy thẳng ra hài phận quốc tế rồi nhắm hướng Nam. Mục tiêu của tàu là đến Indonesia hay Malaysia. Nếu không có gì trở ngại thì khoảng 2-3 ngày sẽ đến nơi. Nhưng chạy được hơn một ngày đêm thì tàu chết máy, lênh đênh giữa đại dương.

Trong mấy ngày lênh đênh đó, thỉnh thoảng có những chiếc tàu hàng khổng lồ chạy xa xa. Bọn Tuấn ra sức vẫy, đốt lửa báo hiệu, nhưng họ vẫn chạy thẳng. Có thể họ không thấy, hoặc cũng có thể họ biết là tàu vượt biên nên lờ đi vì không muốn cưu mang. Sang đến ngày thứ ba, một chiếc tàu đánh cá giương cờ Thái Lan chạy tới. Mọi người trên tàu hồi hộp, không biết lành dữ ra sao. Ai cũng đã từng nghe kể những câu chuyện người vượt biên bị tàu đánh cá Thái Lan cướp, hãm hiếp và giết chết. Ngược lại, cũng có những người may mắn được tàu Thái Lan giúp đỡ.

Chiếc tàu Thái lượn một vòng như dò xét. Trên tàu lô nhô những thanh niên cởi trần, da ngăm đen, đầu quấn khăn rẳn, miệng cười nham nhở. Một số tên cầm mã tấu, một tên cầm súng trường. Mọi người bắt đầu lo sợ. Phụ nữ vội vã trốn xuống hầm tàu, họ lấy dầu máy bôi vào mặt cho dơ dáy, xấu xí đi. Chiếc tàu Thái cặp sát, một nhóm người nhày sang, lăm lăm mã tấu và súng. Chúng ra hiệu cho đàn ông đứng sang một phía, trẻ em và phụ nữ một phía, rồi bắt đầu lục soát tìm vàng bạc. Sau khi thu gom được một số vàng, chúng lôi gần chục người phu nữ sang tàu chúng, trong số đó có Ngọc.

Trò chuyện với Hiệp vài câu, rồi Tuấn và Lan lại đi tìm Vũ. Thấy Vũ đứng túm tụm với đám bạn để chụp hình, Lan bước tới, trao bó hoa cho Vũ, rồi mấy cha con cùng chụp hình. Nhìn Vũ hân hoan vui sướng, Tuấn thấy lòng mình cũng vui lây. Mười lăm năm từ ngày đặt chân tới Mỹ, Tuấn đã trông đợi giây phút này. Bao nhiêu tháng năm vất vả làm lụng nuôi con, hôm nay là ngày Tuấn mãn nguyện nhất.

Đám bạn của Tuấn rủ nhau ra bars liên hoan. Thấy Vũ ngần ngừ, Tuấn hiểu ý, nói: “Con cứ đi chơi với bạn. Tối nay gia đình mình sẽ cùng chung vui với nhau sau.” Vũ cúi đầu nói: “Dạ con cám ơn ba.”

Tuấn nhìn bó hoa Vũ đang ôm trên tay, rồi chợt nói: “Cho ba rút một cành nhe!” Vũ chưa kịp trả lời thì Tuấn nói luôn: “Mẹ rất thích hoa Thạch Thảo, ba muốn dành một cành cho mẹ.” Vũ nhìn Tuấn, im lặng không nói gì. Tuấn nhẹ rút một cành hoa, rồi vỗ vai Vũ: “Thôi con đi chơi với bạn đi, chiều gặp lại.” Tuấn quay qua bảo Lan: “Con đi với anh cho vui đi. Ba về trước.” Lan dạ.

Tuấn đứng nhìn Ngọc bị lôi kéo kêu khóc mà đành bất lực. Mấy ngày lênh đênh trên biển, đói khát, say sóng, bao nhiêu sức lực tiêu hao hết. Trong tay lại không một tấc sắt, không thể chống lại bọn cầm mã tấu, súng trường. Một người đàn ông nóng lòng vì vợ mình bị lôi đi, xông lại giằng co, bị chúng chém một mã tấu gục tại chỗ.

Lôi các phụ nữ sang tàu mình xong, chúng rời xa một khoàng, neo lại, rồi bắt đầu giở trò thú tính. Tiếng kêu khóc, gào thét của những người phụ nữ làm mọi người trên tàu xé lòng. Độ vài giờ sau, lại có thêm mấy chiếc tàu Thái kéo đến nữa. Chúng dùng máy vô tuyến liên lạc để thông báo cho nhau. Những tên mới đến lại tiếp tục giở trò đồi bại. Tuấn ngồi gục đầu, ôm hai con, cố tìm cách bưng tai để không nghe những tiếng kêu khóc rền rĩ, nhưng không tài nào thoát được. Lòng Tuấn tan nát như mảnh giấy bị dao đâm rách toang.

Sau một ngày đêm, chúng ném trả những người phụ nữ sang tàu lại rồi bỏ đi. Trước khi đi chúng còn dùng tàu húc vào chiếc tàu vượt biên khốn khổ mấy lần, ý như muốn đánh chìm, nhưng may mắn tàu chỉ bị sứt mẻ một bên.

Ngọc nằm mê man trong tay Tuấn, thân xác rã rời, tan nát.

Chia tay hai con xong, Tuấn lững thững đi về hướng bãi đậu xe. Chợt Tuấn đổi ý, thay vì đi thẳng ra xe, lại đi lòng vòng, thơ thẩn dạo trong khuôn viên trường. Nhìn những tòa nhà đẹp đẽ uy nghi, Tuấn chạnh nhớ lại ước mơ thởi trẻ của mình. Hồi còn đi học, Tuấn ước ao sẽ được bước chân vào trường đại học, được ngồi trong giảng đường nghe các giáo sư giảng những kiến thức cao xa. Nhưng giấc mơ đó không bao giờ thành. Chiến tranh đã làm tan biến bao nhiêu ước vọng của cả một thế hệ thanh niên thời đó. Tuấn cũng như bao nhiêu người lúc đó, đã mong ước một ngày hòa bình, một ngày quê hương không còn tiếng súng. Rồi ngày hòa bình đó cũng tới. Nó tới một cách bất ngờ, hụt hẫng, không như cách người ta mong đợi. Thay vì hạnh phúc, hòa hợp,  nó đem lại bao điều cay đắng, chia rẽ.

Tuấn lái xe theo đường cũ quay về. Thoát khỏi cao tốc, Tuấn không về nhà mà chạy thẳng ra hướng biển. Tuấn theo đường Magnolia về hướng nam, chạy chửng 15 phút là tới biển. Tìm chỗ đậu xe xong, Tuấn cầm cành hoa, băng qua bãi cát trắng, rồi thong thả đi bộ dọc bờ biển.

Biển hôm nay trong xanh hiền hòa, sóng rì rầm. Tuấn tìm một đụn cát, ngồi xuống, nhìn ra xa xăm. Bên kia bờ đại dương là quê hương, nơi Tuấn và Ngọc đã rời bỏ để đi tìm tự do. Ngọc đã không đến được bờ bến nơi nàng mong muốn. Nàng đã nằm lại dưới lòng đại dương. Khi chiếc tàu hàng của Hoa Kỳ phát hiện ra tàu của Tuấn và ra tay cứu vớt thì Ngọc đã tắt thở. Nàng không chịu đựng được nỗi đau thân xác và sự ô nhục. Nàng và người đàn ông bị chém chết đã được thủy táng.

Đôi khi Tuấn tự hỏi lòng, nếu ngày đó Tuấn không dẫn gia đình đi vượt biên, chấp nhận ở lại sống với chế độ mới, thì sẽ ra sao? Ngọc sẽ sống, sẽ vẫn còn bên Tuấn. Nhưng đổi lại, các con Tuấn sẽ bị nhổi nhét những điều dối trá, sẽ học những bài học lịch sử bị bóp méo, xuyên tạc. Chúng sẽ hiểu sai lạc về chế độ miền Nam cũ, chế độ mà cha anh của chúng đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ, nhưng thất bại. Chúng sẽ luôn bị đối xử như những công dân hạng bét. Cái lý lịch con cái “ngụy” sẽ không bao giờ được bỏ qua. Thời phong kiến có luật tru di tam tộc, một người phạm tội cả ba họ bị hành hình. Dưới chế độ mới, dù không bị hành hình nhưng cái lý lịch ba đời nó đeo bám người ta suốt đời. Cái chết của Ngọc là cái giá phải trả để đánh đổi cho tương lai các con. Nếu không ra đi, các con Tuấn đã không có ngày hôm nay.

Tuấn đến sát mé nước, ngắt từng cánh hoa ném xuống biển. Hoa bập bềnh theo sóng trôi đi. Không biết những cánh hoa này có trôi được ra đại dương, về phía bờ bên kia, đến nơi Ngọc đang nằm lại không. Ngọc rất yêu hoa Thạch Thảo, những cánh hoa màu tím, giống như màu trời lúc hoàng hôn. Tuấn chợt nhớ bài hát “Mùa Thu Chết” của Phạm Duy, bài hát có nhắc đến hoa Thạch Thảo:

Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch Thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!

Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau

Em nhớ cho, rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em…

Tuấn cởi giày, lội xuống nước, vung tay ném cành hoa ra xa. Cành hoa dập dềnh một lát rồi trôi đi. Sóng biển mơn man dưới chân. Tuấn hơi cúi người, thì thầm với sóng: “Anh và em không còn thấy nhau trên cõi đời này nữa, nhưng anh vẫn chờ em. Anh chờ gặp lại em ở thế giới bên kia.”

(Hết)

***

Viết tặng những ai đã từng trải qua hành trình tìm tự do.
Xin thắp nén hương lòng cho những người đã nằm lại dưới lòng đại dương.
(Bản thân người viết cũng có người thân nằm lại.)

Tháng Tư, 2023
Vương Hoàng Minh

(blogger Người Vá Trời)

 

Thưa bà Marie Curie, bà ở đâu?

Tạp bút

Pierre & Marie Curie trong phòng thí nghiệm.

Bà luôn ở cùng chúng ta, vì trong đời sống này có ai mà không một lần đi chụp quang tuyến X? Đi chữa một cái răng đau, nhổ răng khôn. Đi chụp phổi, đi soi bao tử fribroscopie, hay đơn giản nhất là té ngã, cũng phải đi cà nhắc tới imagerie médicale rọi tia X-quang xem xương bị tổn thương ra làm sao. Đơn giản mà là vậy, bác sĩ đâu có chữa bệnh lơ mơ, phải thấy rõ, thì đó là chúng ta sống và nhiều lúc phải nương tựa vào những tìm kiếm và phát minh của bà, không có bài bản chụp quang tuyến cuộc đời gắn liền với bệnh e gặp nhiều khó khăn.

Ở nước Ba Lan, quê hương hào hiệp, nơi sinh ra nhà bác học vĩ đại Marie Curie, người đã mang, đã tìm thấy và ứng dụng Uranium vào kỹ nghệ khoa học, để tìm bệnh và chữa bệnh cho nhân loại. Radium hôm nay rất thịnh hành ở khắp mọi nơi. Suốt cuộc đời bà, bà đã bỏ ra nhiều năm ròng rã nung quặng. Bà đi tiếp theo công trình nghiên cứu của hai nhà vật lý học, một người Pháp là giáo sư Henri Becquerel, một người Đức là giáo sư Rontgen, hai vị đưa ra đề tài về « tia phóng xạ và năng lượng của phóng xạ. » Bà giầu nghị lực bắt tay vào việc tìm kiếm, nhìn thấy và sử dụng Uranium.

Suốt 4 năm ròng rã nung chẩy các quặng hóa học nghi là có chất phóng xạ, bà có lần khoe với chồng: Em đang tìm nó, chưa tìm ra nó, và em đã đặt cho nó, và em đã đặt cho các chất có thể tự phát ra tia phóng xạ có cường độ như nhau là năng lượng phóng xạ.

Đúng vậy sau mấy năm ròng rã nung nấu quặng Uranium để tìm ra phóng xạ mạnh hơn là Uranium thuần chất. Tháng 7 năm 1898, bà tìm ra nguyên tố mới Uranium, với lòng gắn bó yêu quê hương, bà gọi nó là Polorium, mạnh hơn Uranium. Tháng 12 năm 1898, bà tìm thấy Radium mạnh gấp 100 lần Polraium.

Tháng 6 năm 1903 bà trình luận án đặc biệt tiến sĩ xuất sắc về tính năng của phóng xạ. Bà Marie Curie cần cù suốt đời, vừa tìm kiếm khoa học, vừa lo cho gia đình con cái, vừa dậy học… Bà làm rất nhiều việc lợi ích cho đời. Bà có một hình ảnh đẹp, đẹp rực rỡ của tuổi thơ là cái nổi trội gắn bó với quê hương chôn nhau cắt rốn Ba Lan, vừa cũng cho chúng ta hiểu tại sao.

Tại sao ngày nay người xứ sở Ba Lan tích cực giúp đỡ, đóng góp ân tình với đồng minh Ukraine chống lại bạo lực của Nga. Vì cả hai nước đó có chung một kẻ thù Moscou từ rất xa xưa. Thù lắm! Trở lại, lại nói về Marie Curie, bà ra đời tháng 11 năm 1867, ở thủ đô Varsava trong một gia đình trung lưu, hơi hạn hẹp vì cha mẹ đều đi dậy học. Quê hương Ba Lan của bà lúc ấy đang bị nước Nga đô hộ, các trường học Ba Lan bị Nga kiềm tỏa, đồng hóa, bị bắt buộc họ phải học và dậy học bằng tiếng Nga. Sau đệ I thế chiến, tới năm 1918, đất đai lãnh thổ Âu Châu được chia lại, Ba Lan mới thoát khỏi sự cai trị của Nga hoàng. Ngày đó, các nhân vật Nga sang cai trị thuộc địa, hay các nhân vật Ba Lan làm tay sai cho chính phủ Nga đều phải gọi kính cẩn như thế đó: Bệ Hạ!

Các em học sinh tiểu học và các cấp khác, đặc biệt trường tiểu học của các em vào lớp tuổi Manie (tên thời thơ ấu của bà Marie Curie) đều phải học thuộc lòng lịch sử của Moscou. Các em phải trả lời lưu loát khi có thanh tra người Nga tới thăm và tra vấn về sử học, như phải kể đủ tên thứ tự các vị vua.

Mania nhanh nhẹn kể: “Catherine II, Paul I, Alexander I, Nicolas I, Alexander II”. Cô giáo và cô hiệu trưởng đổ mồ hôi hột khi Manie bị tra vấn. Nghe xong học sinh bé bỏng của mình trả lời lưu loát, cả hai cô đều thở phào nhẹ nhõm, họ vừa thương hại vừa cám ơn Manie. Tất cả họ vừa thoát một lần bị kỷ luật.

Nhưng cô giáo, cô hiệu trưởng, ngay cả viên thanh tra, họ nào biết một câu chuyện riêng tư của Mania và một cô bạn rất thân, ngồi cạnh và cùng lớp với Mania, tên gọi Kachia, Kachia và Mania học cùng lớp tiểu học, mỗi ngày hai cô bé ríu rít rủ nhau cùng đi học và cùng về học. Trên đường đến trường, cả hai luôn phải băng ngang một công viên rộng mát thoáng đẹp, trong lối vào cổng công viên, phía trong là một đài tưởng niệm, xây cất công phu, trên đó, người Nga ghi khắc các viên chức Nga đến đây đầu tiên, có công đặt nền tảng đô hộ, và cả tên vài ba người bản xứ phục vụ hợp tác với phía Nga, đó là những kẻ xâm chiếm và những kẻ phản quốc, Mania giải nghĩa như vậy, rõ ràng như vậy cho Kachia hiểu. Rồi mỗi buổi đi học về ngay ngang tấm bia đá kỷ niệm đó, hai cô học trò bé bỏng, lượm đầy một túi áo sỏi, dừng chân trước bức tường kỷ niệm, hai đứa lần lượt lấy sỏi trong túi chọi vào tên từng người, từng đứa, và quy định mỗi người bao năm tù. Hết túi sỏi, kết án đầy đủ mọi cái tên, hai đứa rủ nhau vui vẻ về nhà. Hôm đấy, Mania bảo Kachia là xử án tụi nó xong, mình khỏe ru hả. Chiều nay ăn xúp ngon hơn nhe!

Có lần trời mưa sỏi ướt nhép không lượm được, thì hai đứa thi nhau nhổ bọt lên đài kỷ niệm. Một lần mưa lớn quá, vội, quên, về tới nhà Mania, thì Kachia quay đầu chạy ngược trở lại, sau đó, Mania hỏi bạn làm rơi rớt gì ư? — Không, không rơi gì cả, mà tại hồi nãy vội quá và khô cổ quên nhổ lên tụi nó, giờ làm bù! Mania chạy đi kiếm rồi đưa nguyên một chai nước cho bạn. Hai đứa cười, nhìn nhau đồng ý, hẹn ngày mai nhé.

Trong máu thịt, ngay thuở ấu thơ, Kachia và Mania đã hiểu sâu sắc tình yêu quê hương, yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Với những khái niệm từ ấu thơ là thế, người dân Ba Lan mặc nhiên như có một bản năng bẩm sinh ghét, thù ghét kẻ ngoại xâm Nga Hoàng ngày xưa và bây giờ là Putin.

Mania, lúc nhỏ được gọi ở nhà như thế vì gia đình muốn nhắc nhở khi ấu thơ, bà rất giống Đức Mẹ Maria. Gặp hoàn cảnh sa sút của gia đình, từ lúc cộng quân Nga tràn tới, cha bà bị đuổi trường đuổi dậy. Mẹ bà mất luôn chức hiệu trưởng trường nữ, gia đình họ sống rất cơ cực, mẹ sau đó bị bệnh nặng và qua đời. Bà mồ côi mẹ từ lúc mới 10 tuổi. Cảnh nghèo túng và nỗi buồn tuổi thơ hun đúc cho Mania tính chuyên cần, bền bỉ vươn lên trong việc học hành và nghiên cứu khoa học về sau. Trước mắt Mania chỉ có con đường đó thôi. Cộng với lòng ham học hỏi là lòng nhân ái và tính yêu thích tìm tòi những khám phá mới lạ. Học xong bậc trung học, thấy chị gái Blonia muốn đi học y khoa, bà đi làm gia sư kèm trẻ em ở tư gia nuôi chị học trước, bốn năm năm sau chị thành tài, bà ra khỏi quê, hướng về Paris, chủ tâm vào đại học Sorbonne học Toán và Vật lý rồi tiến vào công trình khảo sát khoa học. Bắt đầu về Sorbonne, lịch học tập của Mania dầy đặc, vừa phải học thêm Pháp văn để vượt qua ải ngoại ngữ, vừa đọc sách bù đắp lỗ hổng về tri thức, vừa phải cố gắng chuyên chú theo kịp các bài ở giảng đường.

Mania phải vượt qua mọi khó khăn đó cho đến lúc bà cần một phòng thí nghiệm đầy đủ hơn cho riêng mình, anh chị và bạn đã giới thiệu cho bà gặp ông Pierre Curie. Họ yêu nhau trong tình yêu khám phá khoa học, và bà thành thân với ông. Bà mang tên Marie Curie từ đó. Ông Pierre đã đứng ngoài phòng thí nghiệm, theo dõi cô sinh viên Ba Lan rất khả ái, thành thạo trong mọi thao tác kỹ thuật, nàng chịu khó miệt mài, giầu sức sáng tạo. Bà kém ông 8 tuổi, bà sống chung với ông được 11 năm, thì sinh được hai cô con gái. Mặc dù sau khi sinh nở, bận nuôi con, nhưng bà vẫn chuyên cần đến phòng thí nghiệm ngồi khoắng quặng tổng hợp, dù gió rét hay tuyết rơi, bà vẫn đốt củi, hong nóng nồi gang, đổ chất hắc ín là tổng hợp kim loại có chất Uranium vào chảo. Bà nắm thanh sắt dài, cố sức khuấy đều chất tạp trong chảo, củi cháy đỏ, phải thỉnh thoảng đưa thêm than vào lò để tăng đủ độ nóng. Tạp chất từ từ chẩy nhão, rồi sôi, nổi bong bóng, bà vẫn luôn tay khuấy đều chất hồ nhão màu đen ấy lâu và lâu cho đậm đặc, dù tay bị phỏng nhiều lần, dù thay khăn lót tay nhiều lần. Đợi khi tạp chất đen đậm đặc, khói bay mù mịt làm cay mắt, bà dùng vá sắt múc chất lỏng nóng bỏng đó đổ vào từng lọ lớn, nhiều lọ, rồi bê lọ lên để trên từng cao trong phòng cho chúng lắng xuống. Tiếp đó, lại đổ lượt tạp chất, lại nấu, khuấy sôi đều cho đậm đặc, lại múc ra và bê cất lên cao. Cứ thế bà đã nấu trong 4 năm 8 tấm quặng, sau cùng tinh luyện ra được 1 décigramme Radium.

Làm việc nặng nhọc, cơ thể đau nhức, tay bị phỏng nhiều chỗ, chân sưng phồng. Nhưng bên cạnh công việc, tối về, vẫn chăm sóc chồng, con, và may vá áo quần cho con. Phòng khách nhà bà chỉ có hai ghế ngồi. Hỏi tại sao ít ghế thế, bà bảo để cho khách đến rồi khách đi mau lẹ vì bà còn bận nung quặng. Trong khi đó, ông Pierre vẫn đi dậy học, khi có đôi chút thì giờ rảnh, ông ghé xuống giúp bà cho bà nghỉ mệt. Ông hơi buồn vì thấy bà cực nhọc, mệt mỏi, sa sút. Ông đề nghị bà nghỉ ngơi một vài ngày, hay tốt hơn là một vài tuần lễ. Bà khoát tay từ chối, có một lần, một lần duy nhất trong đời, bà gắt gỏng với ông: « Em chẳng thấy mệt mỏi gì đâu. Em không thích bỏ cuộc giữa đường. Chỉ những người chí bạc tài hèn mới làm như vậy…»

Rồi một lần vào buổi tối, lo cho con cái ăn uống xong, sắp đi ngủ, thì bà nắm chặt tay ông nói rằng: « Anh ơi, em có cảm giác có tiếng đang gọi em ». « Cái phòng thí nghiệm nó gọi em chứ gì. » « Đúng thế, hay chúng ta trở lại đó xem sao ». « Chúng ta mới rời nơi đó khoảng 2 giờ đồng hồ, chớ có lâu lắc gì, nhưng thôi, em muốn thì chúng ta đến xem, mới đó, chắc có đứa con cưng đang ra đời ». Và họ cùng đến nơi. « Pierre, coi kìa, coi kìa!» Cả hai sung sướng nhìn thấy những tia sáng huỳnh quang hơi màu xanh lục đang lấp lánh trong các lọ thủy tinh để trên các kệ bàn cũ kỹ, ánh sáng huyền bí ấy quét lên các máy móc cửa phòng thí nghiệm và cả 4 bức tường xung quanh. Căn phòng bình dị của bà sáng lên như một cung điện pha lê trong truyện cổ tích huyền diệu. Cả hai người, đắm chìm trong hạnh phúc thành công, họ không nói lên lời mà cùng đẫm nước mắt, cùng với chất Radium đang tỏa sáng lấp lánh, lấp lánh.

***

Việc phát hiện ra Radium mở ra thời đại nguyên tử, có năng lượng nguyên tử, loài người mới đi vào vũ trụ. Chất Radium áp dụng trong kỹ nghệ không ngừng, ngoài ra nó còn mang hạnh phúc đến cho con người, dùng trong y khoa, chống lại bệnh ung thư. Sau hai lần nhận giải Nobel, bà mang số tiền gửi cho các quỹ mở nhà thương, tu bổ bệnh viện cũ và trang trải học phí cho các sinh viên nghèo.

Sau 11 năm chung sống với ông, ngày 19 thang 4 năm 1906, Pierre mất bất ngờ vì tai nạn xe, bà đã gục xuống vì đau buồn, nhưng rồi bà lại can đảm đứng lên, bà đi lấy một tấm hình của bà ngày còn trẻ mà ông thích nhất, đặt tấm hình ây lên ngực thi thể chồng và nói: « Đây cô sinh viên thông minh, anh đã đến và yêu cô ấy, nay hãy để cô ấy theo anh về nơi lạnh giá, anh sẽ cảm thấy hạnh phúc… »

Tai nạn khủng khiếp của Pierre Curie làm chấn động mọi người. Chính phủ Pháp và trường đại học đến chia buồn và kính tặng gia đình bà một số tiền lớn, nhưng bà từ chối, xin để cho các sinh viên nghèo. Trường đề nghị bà làm giáo sư vật lý kiêm giám đốc phòng thí nghiệm lý hóa Paris. Hai tuần lễ sau, bà ổn định tư tưởng, bình thản bước lên bục giảng của giảng đường, giảng tiếp những bài học mà Pierre Curie đang dậy nửa chừng. Các phóng viên và học giả đến nghe xem bà bắt đầu như thế nào, họ ngạc hiên thấy bà điềm nhiên mở lời: « Chúng ta học tiếp bài về điện và vật chất… » Buổi giảng đầu tiên thành công mỹ mãn, có sinh viên rơi nước mắt xuống bài vở.

Nhưng bà không ngủ say trước những lời khen ngợi, bà vẫn say mê với công việc, với bổn phận và dù có lúc thương nhớ Pierre vô cùng, bà lại tự nhủ: Gánh có nặng thêm, đường dù có gian truân hơn, mình vẫn tiếp tục đi, đi cho các con, đi cho tương lai hậu thế, đi cho cuộc đời.

Khi đã vào tuổi 50, bà qua vương quốc Anh, Thụy Điển, trở về quê hương Varsava, đi nhiều nơi và viện nghiên cứu Radium được thành lập làm trung tâm nghiên cứu khoa học, chữa trị ung bướu. Bà từng phát biểu ở mỗi quốc gia bà đặt chân đến: “Bất cứ ai cũng không nên làm giầu từ chất Radium. Nó là một nguyên tố thuộc về tất cả mọi người trên thế giới. Chinh vì thế đó mà Pierre và tôi từ bỏ ý nghĩ về độc quyền chất Radium”.

Năm 54 tuổi, bà được tổng thống Winson chào đón thân tình, tổng thống gọi Marie Curie là hóa thân của trí tuệ. Thành phố New York vào tháng 5 năm 1921 hoa nở rực rỡ, người dân ở đây ăn mặc đẹp đẽ, hát, múa chào đón “bà mẹ, vị ân nhân của loài người”. Người ta bảo là lòng quý mến nhiệt tình của người dân Mỹ dành cho bà nhiều hơn hẳn nhiều nguyên thủ quốc gia đã đến đó trước bà.

Einstein cũng vậy, ông từng nói là “Trong những người nổi tiếng, chỉ có Marie Curie là người duy nhất không thay đổi trước danh lợi”.

Mười năm sau ngày Pierre Curie mất, tháng 2 năm 1916, trận chiến khốc liệt diễn ra ở Pháp quê hương chồng cũng là quê hương thứ hai của bà. Cũng tháng 2  đó Marie Curie từ bỏ tạm thời phòng thí nghiệm và giảng đường. Bà đến miền Verdun, nơi 270000 binh sĩ Đức đang mở cuộc tấn công vào nước Pháp. Bà đã ngày đêm hiện diện ở chiến trường, di chuyển theo xe cứu thương, bà luôn tay luôn mắt điều chỉnh dòng điện, tự chụp hình các vết thương trong bóng tối, cứu sống từng thương bệnh binh đang cận kề sống chết. 20 chiếc xe cấp cứu và 200 trạm chiếu X-quang được dựng lên, được di chuyển làm việc không ngừng của bà Marie Curie đã mang lại sự sống cho hàng triệu chiến sĩ.

Ngày hôm nay, trong thế kỷ này, năm 2023, chiến cuộc do Nga áp đặt đang bùng lên dữ dội tàn phá Ukraine, chiến cuộc Đông Âu vẫn đang là dầu sôi lửa bỏng. Kẻ bắn giết cứ bắn giết, người đi cứu thương vẫn tiếp tục đi cứu thương, mỗi người đều chăm chú vào nhiệm vụ của mình. Những dòng xe, những bệnh viện dã chiến di chuyển ở Bakhmut, Kherson, Zaporizhia hay Mariopul… nối đuôi nhau như hoảng hốt, vội vã và kiên trì chạy đua với tử thần, với bom đạn hỏa tiển để cứu các thương binh cả bên này lẫn bên kia.

Người ta có lúc tự hỏi có bà Marie Curie trong đoàn y tế cứu thương đó không? Có, hẳn là có, bà ở đó, hiện diện làm việc và chỉ đạo sáng suốt vì X-quang là con đẻ của bà mà!

Bà là ai? Nhà bác học vĩ đại! Có thể là hiện thân của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Maria! Có thể là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn!

Đoàn xe cứu thương của bà Marie Curie đã nối đuôi nhau vùn vụt đi xa, xa rồi, chẳng đặng đừng, họ bỏ lại đó, bỏ lại chiến trường những xác thây binh sĩ nằm la liệt. Ai lượm? Ai thu dọn ? Ai cho họ những nấm mồ? Chẳng chóng thì chầy, sẽ có đoàn người đi lượm, đi liệm và đi chôn xác người chết trận. Họ chết không toàn thây, văng vãi, tung tóe, ngổn ngang… vì vũ khí ngày nay văn minh quá độ.

Là như thế, là những tấm lòng vị tha, nhân ái luôn ở cạnh chúng ta, ở trong cuộc đời này!

Chúc Thanh

(Paris, 10-04-2023)

From:  Long Nguyen

Tôi từng có một thời niên thiếu như thế

(Giai Đoạn 1959-1975).

Tôi sinh ra và lớn lên tại Biên Hòa, một thành phố hiền hòa nằm bên cạnh dòng sông Đồng Nai thơ mộng.

Nhà tôi ở gần bệnh viện Phạm Hữu Chí (nay là bệnh viện Đồng Nai) – một nhà thương thí nơi chuyên chữa bệnh miễn phí cho mọi người, nơi đây không hề phân biệt người có tiền hoặc không, không hề từ chốι chữa bệnh cho người dân dù phí tổn cao như thế nào. Mọi người bệnh đều được đối xử bình đẳng như nhau.Tôi nhớ có một lần bị đạp phải gai nhọn trong lòng bàn chân, bị mưng mủ, đau nhức kinh кhủnɢ, mẹ tôi đưa tôi vào bệnh viện này, các y tá & bác sĩ, tiếp chúng tôi một cách ân cần tử tế, với thái độ tôn trọng người bệnh mà không hề hách dịch hay gợi ý vòi tiền hoặc quà cáp từ người nhà của tôi. Trên tường bệnh viện, tôi không hề thấy có khẩu hiệu “Lương y như từ mẫu” nào cả, nhưng thái độ cư xử hòa nhã của nhân viên y tế ở đây không khác chi là mẹ hiền. Ngoài  cổng bệnh viện có một bảng hiệu cấm bóp kèn cho các loại  xe cộ để không ảnhhưởng đến người bệnh.

Ngày xưa, thời niên thiếu của tôi đã từng có một hệ thống y tế do dân vì dân như vậy.

Phía đối diện bệnh viện là hội đồng xã Bình Trước, có lần tôi theo mẹ vào văn phòng xã để nhờ xác nhận giấy tờ, văn phòng lúc ấy đông người nhưng trật tự, người trước người sau không hề ồn ào. Trên tường có bảng hiệu nhắc nhở “Xin giữ yên lặng” hoặc “Xin vui lòng vắn tắt & rõ ràng”.

Cô chú công chức tiếp người dân một cách niềm nở tôn trọng, biết lắng nghe, giải quyết công việc nhanh chóng, không hề to tiếng, hạch sách hay vòi vĩnh phong bì từ người dân.

Khi đến tuổi làm thẻ căn cước, tôi vào ty cảnh sát Biên Hòa để chụp hình, lăn tay. Mọi người trật tự. Các anh cảnh sát ở đây rất hiền hòa, lịch sự và ân cần hướng dẫn mọi người, không hề hạch sách quấy nhiễu, quát nạt hay vòi vĩnh gây phiền hà cho người dân.

Ty cảnh sát Biên Hòa

Ngày xưa, thời niên thiếu của tôi đã từng có một hệ thống hành chính gọn nhẹ, phục vụ người dân hữu hiệu và lịch sự như vậy, chứ không phải “hành” dân là chính.

Ngày xưa, tôi đã từng biết về một xã hội mang đầy tình nhân văn qua cách cư xử của mọi người:

Tôi còn nhớ khi cha tôi mất vào năm 1973, khi  xe tang đưa linh cửu ông đến nơi an nghỉ sau cùng, ngồi trên  xe tang tôi quan sát thấy các anh cảnh sát, quân cảnh đang làm nhiệm vụ trên các giao lộ, khi gặp  xe tang đi ngang qua, các anh đứng nghiêm chào theo nghi thức quân cách. Và một điều ngạc nhiên lý thú khác là tôi thấy những người dân mà gia đình tôi không quen biết, khi họ đi  xe gắn máy hoặc  xe đạp vượt qua  xe tang, không ai bảo ai, họ đều giở nón cúi đầu chào tiễn biệt cha tôi. Hình ảnh này đã cho tôi một dấu ấn và cảm xúc thật mạnh mẽ. Sau này tìm hiểu, tôi mới biết đó là lề thói ứng xử thông thường của mọi người để tỏ lòng tôn trọng đối với người đã khuất.

Vào thời ấy, mỗi khi ngồi học bài khuya, đến 10 giờ, tôi thường nghe từ radio hoặc TV nhắc nhở mọi người nên điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe để không phiền lòng hàng xóm.

Tôi còn nhớ mỗi sáng thứ hai chúng tôi làm lễ chào cờ ở trường tiểu học Nguyễn Du, khi quốc kỳ được kéo lên trong tiếng quốc ca vang lên của toàn thể học sinh, tôi thấy phía bên ngoài  cổng trường: chú xích lô dừng  xe lại, những người bộ hành đi ngang dừng lại và bà bán hàng rong cũng bỏ quang gánh, tất cả tự giác đứng nghiêm chỉnh hướng về quốc kỳ cùng hát quốc ca cho đến khi lễ chào cờ kết thúc. Ý thức công dân của người dân miền nam Việt Nam thời ấy là như thế.

Khi có dịp đi Saigon,tôi để ý thấy tại các giao  lộ, các loại  xe  lộ đều tự giác dừng lại khi đèn đỏ cho dù không có cảnh sát. Lúc ấy, không hề có chuyện vượt đèn đỏ chạy bạt mạng khi không có người kiểm soát. Trong giao tế, cảm ơn và xin lỗi là câu nói thường xuyên của người dân thời ấy.

Ngày xưa thời niên thiếu của tôi đã từng có một xã hội tuy còn nhiều bất cập nhưng rất là văn minh và có được một nền dân trí cao như vậy.

Ngày xưa, tôi đã từng thụ hưởng một nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng. Nền giáo dục này đã dạy tôi làm người trước khi dạy tôi học thức

Năm 1966, tôi vào học lớp năm (nay là lớp một) tại trường tiểu học Nguyễn Du, trên tường của lớp học vỡ lòng này có một câu cách ngôn “Tiên học lễ hậu học văn” treo cố định suốt cả một năm học. Sau này lớn lên, tôi mới hiểu đó là tiêu chuẩn căn bản của nền giáo dục VNCH.

Tôi đã từng có những thầy cô ở bậc tiểu học tận tâm giảng dạy cho tôi những bài học rèn luyện nhân cách qua sách giáo khoa như: Em tập tính tốt, Các bài tập đọc, sử ký, địa lý, khoa học thường thức, những bài học thuộc lòng từ quốc văn giáo khoa thư, Gia huấn ca, Nhị thập tứ hiếu, Tâm hồn cao thượng … Các giáo trình này đề cao các giá trị lịch sử, dân tộc, tự chủ, nghệ thuật,văn hóa … để rèn luyện cho học sinh giỏi về kiến thức tổng quát và có tấm lòng nhân hậu yêu nước thương nòi, có lòng biết ơn mọi người trong xã hội.

Bậc tiểu học, hàng tuần thầy cô giáo đều viết lên bảng câu cách ngôn của tuần từ các ca dao tục ngữ ẩn chứa triết lý tình thương để in sâu vào tâm khảm của học sinh. Hàng tháng thầy cô thiết lập bảng danh dự để xếp hạng học sinh theo điểm số. Ngày ấy phẩm chất học sinh được phân loại rõ ràng chính xác chứ không hề có tình trạng nhà trường chạy theo thành tích với tỷ lệ 100% học sinh giỏi không có yếu kém!

Năm 1970, tôi vào trường Trung học công lập Ngô Quyền sau một kỳ thi tuyển sinh đệ thất (nay là lớp 6) đầy gay go nhưng cũng rất công bằng. Ở bậc trung học, tôi đã có những vị giáo sư tận tâm truyền đạt cho tôi kiến thức tổng quát, ý thức công dân và dạy cho chúng tôi về Công pháp quốc tế, Tam quyền phân lập, về giá trị của một xã hội tự do, dân chủ. Khi học lớp 9, chúng tôi đã được thầy luyện cho kỹ năng thuyết trình trước đám đông, tập tính phản biện và biết phân tích, so sánh đối chiếu, biết tranh luận trước những vấn đề mà chúng tôi không đồng ý, chứ không phải răm rắp cúi đầu nghe theo một chiều từ người khác như bầy cừu mà không dám phản kháng.

Ngày xưa Biên Hòa quê tôi có nhà sách Huỳnh Hiệp bán đủ mọi thể loại sách rất đa dạng phong phú từ nhiều tác giả khác nhau, từ nhiều quan điểm khác nhau, không có vùng cấm. Ở nơi ấy, không cần mua sách, nhưng tôi có thể tự do thoải mái đọc “cọp” tất cả các loại sách mình ưa thích mà không bị trở ngại nào. Chúng tôi thường gọi nhà sách này là thư viện tri thức cho học sinh nghèo.

Thời niên thiếu đã đem lại cho tôi nhiều kỷ niệm tuyệt vời và tự hào về một xã hội tươi đẹp mà tôi đã từng sống. Nhưng một thời hoa mộng ấy đã thật sự kết thúc một cách oan nghiệt vào cuối tháng 4 năm 1975 khi tôi 16 tuổi.

Giờ đây, khi thời gian qua nhanh tuổi đờι đã xế, trí nhớ đôi lúc cũng còn lẫn  lộn, nhưng quên gì thì quên, tôi không thể nào quên được những năm tháng được sống trong một xã hội hiền lương tốt đẹp, dù ở trong thời kỳ chιến tranh khốc liệt nhất. Tôi không thể nào quên được ngày xưa tôi đã từng có một thời niên thiếu như thế. Tôi cũng sẽ kể lại cho con tôi là tôi đã từng sống trong một nước Việt Nam Cộng Hòa văn minh và nhân bản như thế trong quá khứ, mà thế hệ con cháu tôi ngày nay không thể nào tìm lại được các giá trị ấy ngay trên chính quê hương của tôi.

Hiep Phan

From: Truong Le

HOA XƯƠNG RỒNG TRÊN CÁT-Truyện ngắn

Long Tran-Những câu chuyện thú vị-Ncctv.net

Cuộc đời là con đường hai chiều! Nếu ở chiều này: có rất nhiều người rời bỏ nước Mỹ (không thích, ghét bỏ, theo gia đình, công việc , về hưu…) thì ở chiều ngược lại cũng có rất nhiều người mong muốn được đến Mỹ sống!

Dù bị chê bai này nọ…. thực tế cho thấy số người muốn vào Mỹ sống vẫn nhiều hơn số người muốn bỏ đi! Tại sao??? Giấc mơ Mỹ là gì? Kính mời quí vị đọc bài:

HOA XƯƠNG RỒNG TRÊN CÁT !!!!

Năm 2000, đến Mỹ, định cư ở thành phố Sioux City, bang IOWA, hai lúa nhận ra nhiều người thích đến Mỹ vì đơn giản là ở đây có rất nhiều việc làm….

Các lò mỗ heo, bò gà… thiếu lao động trầm trọng vì người Mỹ chính gốc họ không thích làm công việc đơn điệu và tẻ nhạt lập đi lập lại… trên dây chuyền nhà máy giết mổ!!!

Vì vậy, người Việt mới qua không biết tiếng Anh, ngay các cụ ông cụ bà U 70 muốn đi làm thì chỉ cần ghi tên đăng ký! Họ khuyến khích thưởng cho công nhân đang làm giới thiệu người mới vô, nếu người đó chịu làm việc quá 3 tháng (thời gian thử thách) thì người đem vô được thưởng 1000 đô Mỹ tiền cò!!!

Mèn đét ơi! Lúc ở VN mới qua năm 2000 , một ngàn đồng là số tiền rất lớn, nhất là gởi về VN giúp gia đình thì… nó mát cái bụng lắm!

Sau khi phỏng vấn (có phiên dịch viên người Việt, họ sẽ bố trí công việc tuỳ theo sức khỏe và khả năng! Có người lùn 1.4 m họ đặt cái ghế thấp đứng! Mạnh khỏe trẻ thì làm việc nặng (kéo thịt, cắt thịt) … lương cao hơn người già yếu: bỏ thịt vào túi ni lông hay dán nhãn….

Lương tối thiểu khi đó khoảng 6 đô một giờ nhưng thực tế người làm được trả cao hơn!

Thích làm thêm tăng ca trả gấp 1.5 hay 2 lần tuỳ theo ngày cuối tuần hay làm thêm do luật qui định!!

Vì thành phố Sioux City nhỏ nên hầu như ai cũng biết ai! Không có xe, không biết lái xe thì có người cho đi nhờ!!!!

Vì vậy dù không biết tiếng, không bằng cấp , già cả ốm yếu…. mà cứ thích làm thì sẽ có tiền!!!! Muốn làm sức nào có việc sức đó! Có người ngày làm 16 tiếng cũng OK salem!!!! Mấy người này dư tiền nhiều vì giá nhà cửa ở IOWA khá thấp… nhất là se phòng thì càng rẻ hơn… Tuần có khi làm 6 đến 7 ngày, mỗi ngày 16 tiếng… thì cuối tuần được nghỉ là rất thèm ngủ nên không hề tiêu xài…. Làm bao nhiêu dư bấy nhiêu!!! Niềm vui sống và hạnh phúc duy nhất là gọi điện thoại về VN ngày cuối tuần, được nghe người thân nói, thấy người thân mua nhà sắm xe hay điện thoại mới…!!!

– Ba ơi, bác ơi, cô ơi, chú ơi anh ơi… Sao không mua cái máy tính hay iPad để nghe tiếng…. và liên lạc

– Dạ ! Em bên này đâu có thì giờ đâu! Rảnh là ngủ bù!!!

Nghiên cứu của Mỹ cho thấy 80 phần trăm con cái của những người nghèo khổ không biết tiếng Anh không bằng cấp đến Mỹ (thế hệ I) sau 10 đến 20 năm sẽ có cuộc sống trung lưu! Tại sao???

Thế hệ 1.5 (con cái họ thấy cha mẹ khổ cực nên cố gắng vừa làm vừa học). Giáo dục công lập từ lớp 1 đến 12 là bắt buộc và miễn phí. Vào đại học thì có thể vay tiền đi học rồi ra trường làm trả dần… Có sức nào học sức đó… Phần lớn sau một thời gian con cái những người di dân nghèo khổ đó sẽ trở thành kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ hay những công nhân có tay nghề cao, hoặc có cơ sở buôn bán kinh doanh… như nhà hàng, tiệm nail…và họ không làm các công việc nặng nhọc như cha mẹ họ nữa!!! Khi người di dân thế hệ I về hưu, không ít gia đình có nhiều con cái rất thành đạt… Và họ ngắm nhìn cháu của họ , thế hệ di dân thứ hai, hội nhập hoàn toàn nói tiếng Anh, lái xe, ăn uống sinh hoạt giống như người Mỹ!!! Họ an nhiên hưởng thụ tuổi già, du lịch và vui vầy với con cháu mà không phải lo ai lên ai xuống ai sẽ là củi bị ném vô lò!!!

Túm lại: Nếu ai đó ở VN có mức sống trên trung bình, có nhà cửa xe cộ, có tài xế, có ô sin … mà muốn qua Mỹ sống để hưởng thụ thì… sẽ te tua và thất vọng!!

Tại sao? Vì ở Mỹ cỡ Bill Gates còn phải tự lái xe!

Nói một cách khác, nước Mỹ sẽ là thiên đường, là miền đất hứa cho những ai có khát vọng, muốn dấn thân và sống cho một mục đích cao hơn xa hơn , cho tương lai con cháu , cho người thân, cho khoa học, cho nhân loại…) và sẽ là địa ngục cho những ai đang có cuộc sống sung sướng người hầu kẻ hạ ở quê nhà mà muốn đến Mỹ hưởng thụ và làm le…

Vì sao! Ở Mỹ tổng thống cũng như dân thường, bình đẳng trước pháp luật!! Chạy xe sang, đeo vàng hay hột xoàn to, đồng hồ đắt tiền… ở Mỹ chẳng ai thèm dòm! Có khi làm mồi cho trộm cướp!

I can you, I van you! Nếu you có tiền, có địa vị và muốn hưởng thụ cho bản thân thì ở VN sướng hơn!!! Đừng qua Mỹ ở mà hối hận!!! Xạo chết liền!

PS: Không phải ai đến Mỹ cũng thành công!

Sòng bài khắp nơi, cần sa, súng ống được phép mua bán tự do…. Có người sa vào cờ bạc hút xách làm gia đình tan nát… Con cái chán đời… bỏ học ra đường theo băng đảng… bắn giết nhau tù tội… cũng không ít! Đó là mặt trái của một xã hội quá tự do!!! Phần lớn là do duyên nghiệp của mỗi người!!!

Chẳng ai bắt buộc mình vào sòng bài hay hút cần sa hết! Hai lúa yếu nên không dám ra gió! Tránh thiệt xa, không chơi không thử cho nó lành!!!

Tôi viết đến đây mắt tôi rơi lệ vì em, bông hoa xương rồng trên cát của tôi ơi!!

Bị cha bỏ rơi từ nhỏ, mẹ nghiện cờ bạc làm chuyện phi pháp vào tù ra khám như cơm bữa!!!

Cuộc đời em là một chuỗi ngày theo mẹ ở ít bữa sau đó vào trại mồ côi khi mẹ vào tù!!’

Mẹ đi đâu đem em theo đó!!!

Chao ôi!!

Còn cha

Chân con gót đỏ như son!

Một mai cha chết gót con đen sì! (Ca dao)

Còn mẹ, mẹ thương tiếc mẹ bù chì!

Mẹ mê cờ bạc… còn gì cho con??!!

Kỳ lạ thay, bạn đọc quí mến của tôi ơi, cậu bé như cây xương rồng trên cát…trong sa mạc, có một sức sống và lòng hướng thiện mãnh liệt!Khi lớn lên cậu viết thư cho mẹ trong tù:

“ Mẹ vô vàn yêu thương của con!

Xin mẹ hãy tha thứ cho con khi con từ chối đi theo mẹ hết nhà tù này đến nhà tù khác để được gần mẹ! Mặc dù con rất thèm một mái ấm, khao khát được mẹ ôm hôn nhưng con sẽ không theo mẹ nữa !!!

Con sẽ ở một trại tế bần cố định để tập trung vừa làm vừa học!!! Con sẽ không đi vào vết xe đổ của mẹ! Khi nào mẹ thay đổi hay có dịp thì đến thăm con”!

Như một phép màu của Thượng Đế, từ nhà tế bần ra em cố gắng vừa làm vừa học!!! Tinh thần vượt khó của em làm các giáo sư của Đại Học Harvard xúc động, họ cấp cho em học bổng!!!!

Hôm tốt nghiệp thì người mẹ cũng được ra tù và đến tham dự! Hai mẹ con ôm nhau khóc làm nhiều người khác cũng rơi lệ!!!!

Người mẹ được đứa con cảm hoá hoàn lương và ôm cháu nội, đưa cháu nội đi học…

Em ơi, Đời hai lúa cũng trải qua bao cay đắng nhọc nhằn nhưng chưa đến nỗi như em! Cho tôi được cúi đầu bái phục em vì em là tấm gương sáng cho bao người khác và tôi học hỏi !!!

Giấc mơ Mỹ là gì? Là nơi mà tất cả mọi người, bất kể nguồn gốc màu da (như hoa xương rồng trên cát là một ví dụ) có quyền, có rất nhiều cơ hội và có sự bình đẳng về cơ hội để tiền thân! Và quan trọng nhất là được tự do theo đuổi những khát vọng đời mình để biến nó thành sự thật!

60 NĂM VỤ ĐÁNH GHEN TÀN BẠO TẠI SÀI GÒN

Trúc Giang

Khoảng 8g tối ngày 17-7-1963, một phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà, tiến về chiếc taxi chờ sẵn, thì bỗng nhiên một người đàn ông xuất hiện, tay bưng một ca axit tạt vào mặt người phụ nữ. Cô thét lên trong đau đớn: “Chết tôi rồi!. Cứu tôi với”, rồi ôm mặt ngã quỵ. Một người đàn ông chạy đến bế cô lên chiếc taxi, chạy vào Bệnh viện Sài Gòn cấp cứu, sau đó được chuyển đến Bệnh viện Đồn Đất (Grall) vào lúc 2g sáng hôm sau.

Cái tin vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt axit gây xôn xao trong giới thượng lưu thường lui tới các vũ trường. Báo chí đăng tấm hình rất xinh đẹp của Cẩm Nhung, đã gây xúc động và thương tiếc của người Sài Gòn.

Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi theo gia đình di cư vào Nam. Vào Sài Gòn ít năm, khi cuộc sống vừa ổn định, thì người cha mất vì bệnh. Gia đình còn lại ba người phụ nữ: bà mẹ, bà vú và Cẩm Nhung. Không đủ điều kiện tiếp tục học, Cẩm Nhung bỏ học, đi học khiêu vũ. Cô gái 17 tuổi có cái nhan sắc trời cho, nói chung là rất đẹp và hấp dẫn. Cô theo học khiêu vũ ở một lớp dạy tư, do hai nhạc sĩ-vũ sư Nguyễn Tình và Nguyễn Thống phụ trách. Hai nhạc sĩ nổi tiếng về ngón đàn Hạ uy cầm (Hawaiian guitar), đã từng đào tạo hàng chục vũ nữ cho các vũ trường thời đó.

Nhờ có sắc đẹp hấp dẫn, với năng khiếu xuất sắc, Cẩm Nhung nổi bật trong nghệ thuật khiêu vũ. Vũ sư Nguyễn Tình nói với người “tài pán” Marie Sang: “Đôi chân của nó, thân hình gợi cảm của nó, rồi đây sẽ có cả khối đàn ông ngã rạp dưới chân nó mà chết cho coi”. “Tài pán” là người quản lý vũ nữ ở vũ trường, còn gọi là “cai gà”. Khách đi solo muốn nhảy với vũ nữ đều phải do người cai gà đó sắp xếp. Phải mua ticket thời đó là 20$. Mỗi ticket chỉ nhảy được một vài bản mà thôi. Muốn bao thầu cả đêm thì phải mua trọn gói chừng 15 ticket. Năm 19 tuổi, Cẩm Nhung trở thành vũ nữ chuyên nghiệp, được mệnh danh là “Nữ hoàng vũ trường”. Khách sành điệu cùng vũ nữ rời vũ trường này đến một vũ trường khác, vừa khiêu vũ thoải mái vừa giữ được tiếng tăm về đức hạnh của vũ nữ, vừa giữ được địa vị trung lập để câu những khách nhảy khác.

Tại vũ trường Kim Sơn, đường Tự Do, Cẩm Nhung phải lòng một khách nhảy hào hoa, dân chơi có tiếng tại các vũ trường, đó là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức. Việc ông Thức cặp kè với Cẩm Nhung đến tai bà vợ là Lâm Thị Nguyệt, biệt danh là Bà Năm Rado, vì bà chuyên bán đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Rado, rất giàu có. Máu Hoạn Thư nổi lên. Bà Nguyệt thuê hai người tạt axit vào mặt Cẩm Nhung với giá hai lượng vàng.

Bà Ngô Đình Nhu vào cuộc

Vụ đánh ghen diễn ra trong khi bà Ngô Đình Nhu – Trần Lệ Xuân, đang ở nước ngoài. Nghe được tin, bà vô cùng tức giận. Ngay sau khi về nước, bà đến Bệnh viện Đồn Đất thăm Cẩm Nhung. Ban đầu cô được cho nằm ở khu dành cho thường dân, ai vào thăm cũng được. Bạn bè Cẩm Nhung vận động, gom góp tiền, thuê luật sư kiện thủ phạm.

Một hôm, có một khách thăm, kề vào tai Cẩm Nhung nói nhỏ: “Muốn yên thân thì hãy câm miệng, nếu làm lớn chuyện thì “bà” sẽ giết chết cô”. Sau đó bà vú báo cáo với ban giám đốc bệnh viện. Nghe được tin đó, bà Nhu đề nghị cho Cẩm Nhung vào nằm ở khu chăm sóc đặc biệt, ai vào thăm phải có sự chấp thuận của bệnh viện.

Với tư cách là người lãnh đạo Phong trào Liên đới Phụ nữ Việt Nam, bênh vực quyền lợi và sự bình đẳng của phụ nữ, bà Trần Lệ Xuân thúc đẩy điều tra và lập hồ sơ đưa ra tòa. Sau đó, bà đề nghị đóng cửa các vũ trường, vì cho đó là nơi ăn chơi sa đọa, làm tan nát nhiều gia đình.

Phiên tòa xét xử

Vào tháng 10-1963, tòa kết án Lâm Thị Nguyệt, vợ của Trung tá Trần Ngọc Thức, và người đàn ông tạt axit, mỗi người 20 năm tù. Một người đàn ông liên hệ 15 năm. Ông trung tá bị cho giải ngũ, sau 1975, bị đi tù cải tạo ở Trại Z.30C, Hàm Tân.

Sau khi bị tạt axit, dung nhan kiều diễm của Cẩm Nhung bị hủy hoại hoàn toàn. Do sự vận động của bà Nhu, cô được đưa qua Nhật chữa trị, hy vọng phục hồi gương mặt như trước kia song bác sĩ bó tay. Hơn hai tháng sau, khi Cẩm Nhung về nước thì nền Đệ nhất Cộng hòa đã sụp đổ. Bà Nhu sống lưu vong ở nước ngoài. Người vũ nữ nổi tiếng một thời đã biến mất trong các sinh hoạt ở Sài Gòn. Những biến cố chính trị dồn dập, khiến cho việc đánh ghen rơi vào quên lãng và chìm vào quá khứ.

Đi ăn mày khắp nơi

Từ địa vị của một “nữ hoàng” sống trên đỉnh cao danh vọng, rực rỡ dưới ánh đèn màu và điệu nhạc, các công tử phong lưu bay bướm đa tình và các thương gia giàu sụ săn đón, thì bỗng nhiên trở thành thân tàn ma dại, ngậm đắng nuốt cay cho số phận hẩm hiu, Cẩm Nhung lao vào con đường đập phá, rượu chè, nghiện ngập, sa đọa… Năm 1964 người mẹ qua đời. Cẩm Nhung sống với bà vú. Tiền bạc, nữ trang lần lượt từng bước ra đi. Cô bán căn nhà 200 lượng vàng và cùng với bà vú ra ở thuê nhà trọ. Bà vú qua đời, Cẩm Nhung tật nguyền, không nghề nghiệp, không nơi nương tựa, nên chỉ có con đường là đi ăn xin.

Trước Tết năm 1969, người ăn mày xuất hiện ở chợ Bến Thành. Mặt mày dị dạng, đeo trên ngực tấm hình chụp chung với người tình là ông trung tá, cô lê bước trên các con đường Sài Gòn, trên hành lang của thương xá Tax rồi đến chợ Bà Chiểu, Bình Tây…và sau cùng về miền Tây, ở bến phà Mỹ Thuận, Vĩnh Long.

Thời gian này ở Sài Gòn xuất hiện bản nhạc “Bài Ca Cho Người Kỹ Nữ” của hai nhạc sĩ Nhật Ngân và Duy Trung. Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung. Bài hát có đoạn:

“Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người

Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi

Loài người vô tình giẫm nát thân em

Loài người vô tình giày xéo thân em

Loài người vô tình giết chết đời em…”

Nhà thơ Nguyên Sa nói về Cẩm Nhung

Trong hồi ký “Đời 1998”, Nguyên Sa thuật lại nhiều lần ông và nhà văn Mai Thảo đến nhà chở Cẩm Nhung đi vũ trường Arc en Ciel, ăn kem và hóng mát ở Bến Bạch Đằng. Lần sau cùng ông gặp Cẩm Nhung như sau:

“Lần chót tôi gặp lại người phụ nữ ấy, Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng lại, tấp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích. Tôi không hỏi, xuống theo ngay, linh cảm có chuyện gì khác lạ. Chúng tôi băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút. Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển sang tay kia, để tìm kiếm thêm. Tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên, những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm, dị dạng, hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn.

Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất, dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế. Nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”, Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng, có tiếng nói an ủi bằng xúc giác, không có âm thanh nào được phát lên.

Tôi muốn nói lên tên người đàn bà hành khất. Tôi chưa kịp nói thì Mai Thảo kéo tôi băng qua đường. Tôi ngồi vào trong xe, nói lên ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung. Tên người vũ nữ thường thay quần áo sau tấm bình phong, mỗi lần Mai Thảo và tôi đến đón nàng đi làm, hay đi ăn, đi ra Pointe des Blagueurs (Bến Bạch Đằng) hóng mát. Cẩm Nhung bị tạt axit trong một trận đòn ghen có sức mạnh của tiền hô hậu ủng, có sự tàn bạo mới của thế kỷ khoa học.Tôi nhìn bạn tôi ngậm ngùi:

– Cẩm Nhung!

Mai Thảo nhìn về phía trước mặt, như nói một mình, rất khẽ:

– Nhung đấy!” (Nguyên Sa)

Cẩm Nhung qua đời

Sau nhiều năm bôn ba khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bà ẩn mình sống trong cô đơn, những năm cuối đời ở vùng đất thuộc chùa Tam Bảo, Hà Tiên. Một “đồng nghiệp” bán vé số thuật lại như sau: “Bà dáng người cao ráo, gương mặt đầy những vết sẹo lồi lõm. Đôi mắt mù, có một bên lồi ra. Lúc mới đến, bà dắt theo một bé trai, nhưng vài năm sau thì không thấy nó nữa. Bà sống khép kín. Đơn độc. Có một lần nói chuyện với bà, nghe giọng nói lơ lớ, tôi biết bà ở miền Bắc.

Sống một mình. Ban ngày đến trước cổng chùa bán vé số. Ở đó, nhiều người đi lễ Phật, động lòng trắc ẩn, giàu lòng nhân ái, mua nhiều vé số để giúp những người già mù lòa, bạc phận.

Một hôm, vào đầu năm 2013, nhiều ngày không thấy bà ra bán vé số, mọi người vào phòng thì thấy bà đã chết tự bao giờ. Những người đồng cảnh ngộ, quyên góp mua một chiếc áo quan rẻ tiền để tẩn liệm. Trong mớ hành lý của bà, có một tấm hình khổ lớn đã cũ, có nhiều chỗ bong tróc. Trong hình, một thiếu nữ đôi mươi, rất đẹp, bên cạnh người đàn ông đẹp trai, dáng người lịch lãm. Đã hơn 50 năm qua, không ngờ người thiếu nữ tuyệt đẹp trong hình, bây giờ lại ở bên cạnh những người nghèo khổ như chúng tôi. Và khi từ giã cõi đời cũng chính chúng tôi tiễn bà đi. Bà ra đi, tài sản không có gì. Không một người thân tiễn bà, chỉ có những mảnh đời bất hạnh, vất vưởng như chúng tôi, đưa bà về chín suối”. Bà 73 tuổi.

T.G

Fb Le Van Quy

Chị tôi bên bến sông – Diệu Phúc-Truyện ngắn

Diệu Phúc

Năm tôi lên bốn, chị đã lên mười. Người ta nói chị mãi là đứa trẻ bốn tuổi. Tôi không hiểu vì sao lại thế. Có lẽ vì chị chẳng khôn hơn tôi được bao nhiêu và mẹ lúc nào cũng phải săn sóc chị giống hệt tôi. Lên bảy tuổi, tôi bắt đầu thấy chán ghét chị. Sao chị lại khù khờ như thế, để bạn bè trong lớp trêu chọc rằng tôi có người chị điên, chị tàn. Mỗi lần đi học về ngang nhà tôi, bọn thằng Ân, thằng Tuấn lại hát to:

Bống tàn ăn quả dưa gang

Ăn nhầm lựu đạn nổ toang cả nhà.

Tôi nghe mà tức lộn ruột, chỉ muốn lấy đá ném cho chúng một trận.

Bống là tên chị tôi. Mẹ tôi kể, năm chị bốn tuổi thì bị chó dại cắn, sau bao nhiêu thuốc thang cứu chữa chị vẫn mê man. Hơn nửa tháng sau, chị tỉnh dậy, khỏe mạnh. Nhưng mẹ chưa kịp vui thì nhận ra chị không còn bình thường như trước nữa. Bác sĩ bảo thần kinh của chị bị ảnh hưởng, chậm phát triển trí tuệ nhưng mẹ không tin, nói đúng hơn là mẹ chưa thể chấp nhận được chuyện đó. Tháng tháng đôi lần, mẹ dẫn chị lên chùa khấn vái, cầu trời khấn Phật để chị được bình an vô sự. Chẳng biết trời có thấu, Phật có hay, nhưng chị tôi không biết thêm được gì nữa. Chị tôi mãi bốn tuổi là như thế. Khi tôi bắt đầu hiểu chuyện, tôi thương chị nhiều hơn. Những lời trêu chọc của đám bạn, tôi nghe dần rồi cũng thành quen.

Nhà văn trẻ Diệu Phúc ở Đà Nẵng

Năm tôi mười một tuổi, một hôm chị hái trộm xoài nhà người ta, bị đuổi đánh, rách cả vạt áo. Họ chửi: “Điên! Điên cái ngữ gì mà khôn thế!” Tôi nghe thấy liền vội chạy nhanh về nhà. Chị bị mẹ mắng, ngồi thu mình sau hè, thấy tôi, chị xòe tay đưa ra quả xoài xanh. Tôi nghẹn ngào ôm lấy chị, hai hàng nước mắt trào ra.

Tôi vào trường cấp hai, đi học cách nhà bốn cây số. Tôi học giỏi, có nhiều bạn, nhưng thân với Hưng và Ngọc hơn cả. Một lần, đám bạn cùng lớp kéo nhau về nhà tôi. Mẹ tôi bẻ ngô nấu một nồi to tướng. Nhà tôi lụp xụp, nền đất, nuôi nhiều gà vịt, chúng ị ra khắp sân. Mấy đứa bạn đi cùng khó chịu ra mặt, chúng tụ tập ở gốc cây mít ngoài ngõ, không chịu vào nhà vì nhìn thấy chị tôi thẫn thờ đi trong sân. Đến lúc ngô chín, chúng bỏ về gần hết vì thấy nhà tôi bẩn, chị tôi điên, chúng không dám ăn ngô vì sợ lây bệnh. Thằng Hưng, bạn thân nhất của tôi, bàn tay siết chặt giận dữ: “Một lũ khốn nạn”. Ngọc thì không nói gì, lẳng lặng lấy một bắp ngô đưa cho chị tôi. Chiều hôm đó, nhà tôi ăn ngô thay cơm. Thằng Hưng và cái Ngọc mang về một ít. Số còn lại, mẹ tôi mang biếu hàng xóm. Từ đó, ngoài Hưng và Ngọc ra, tôi không bao giờ dẫn thêm đứa bạn nào về nhà nữa.

Lên cấp ba, tôi, Hưng và Ngọc mỗi đứa mỗi lớp. Cả ba đứa đều nguyện vọng thi vào trường Sư phạm nhưng Hưng theo khối A, Ngọc khối D, còn tôi khối B. Ngoài giờ học thêm toán cùng nhau vào buổi tối, chúng tôi ít có thời gian gặp nhau. Dẫu vậy, tình bạn của chúng tôi vẫn bền chặt, keo sơn.

Mùa hè, trời nắng như đổ lửa, chị tôi có lẽ vì thế mà bệnh nặng thêm. Chị hay ôm đầu, tự đập vào tường rồi lại rì rầm những tiếng nghe không rõ. Chị nói suốt ngày đêm. Tôi thương chị nhưng cũng có chút bực dọc vì không thể tập trung học được. Lắm khi, tôi lại ngửa mặt lên trời, muốn hỏi trời cao, chúng tôi, những kẻ sống một đời thiện lương, đến con kiến cũng không nỡ giết, sao ông trời lại nhẫn tâm với chị như vậy.

Cả nhà bị chó dại cắn, 2 cha con tử vong

Vào đại học, Hưng ngỏ lời yêu tôi. Tôi bối rối tìm cách hoãn binh. Tình cảm của Hưng bao năm qua không phải tôi không biết. Tôi cũng không phải sắt đá đến nỗi không biết rung động. Nhìn mẹ tôi ngày một già đi, tôi ao ước gặp được một người chân thành và chấp nhận được chị tôi để tôi có thể đưa mẹ và chị về sống cùng. Hưng yêu tôi nhưng cậu có đồng cảm với những trăn trở của tôi hay không, tôi không chắc.

Một hôm, Ngọc bảo tôi đến trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dạy trẻ mồ côi, người khuyết tật của thành phố cùng cô ấy. Ngọc chỉ một cậu bé, nói với tôi:

– Đó là Khang. Nó bị thiểu năng trí tuệ. Lúc mười tuổi được đưa vào đây, hiểu biết của nó như một đứa trẻ sáu tuổi. Được các thầy cô ở đây dạy bảo, mỗi năm, nó lại thêm một tuổi, nó sống ở đây bốn năm rồi. Giờ thì đã khá hơn.

Ngọc lại chỉ tay về phía một cô gái khác:

– Chị ấy là Bảo Trâm. Chị ấy bị tai nạn, bố mẹ mất cả, đi lại khó khăn nhưng học rất giỏi, đang học năm thứ ba trường Cao đẳng đấy.

Ngọc bảo rằng cô ấy đã tìm hiểu rất kĩ nơi này. Có rất nhiều người khuyết tật đã trưởng thành từ nơi này và khuyên tôi nên đưa chị vào đây. Tôi hiểu sự chân thành của Ngọc và đằng sau ấy có thể là sự quan tâm tế nhị của Hưng dành cho tôi vì cả ba chúng tôi vẫn thân thiết với nhau.

Nhưng suy đi tính lại, khi bàn bạc, mẹ tôi cương quyết không cho chị vào trung tâm bảo trợ xã hội. Mẹ bảo, chị được mẹ sinh ra thế nào thì sẽ ở với mẹ thế ấy. Nhìn chị sống như một đứa con mồ côi mẹ không đành lòng. Tôi cũng không đành lòng. Chị chỉ như một đứa trẻ, nếu không có mẹ và tôi ở cạnh, không biết chị sẽ thế nào, liệu có được ăn no, có được tắm rửa sạch sẽ, hay lại bị người khác bắt nạt, thậm chí đánh đập vì sự khù khờ của mình.

Rồi chị vẫn ở với chúng tôi như ngày nào và mẹ nhận thêm việc nấu ăn cho đoàn công nhân ở công trường. Buổi sáng, mẹ nấu luôn cả phần cơm trưa cho chị rồi đi làm, chiều muộn mẹ mới về. Còn tôi, sau khi nhận làm gia sư cho một cậu học trò lớp chín và một cô bé lớp bảy, tôi có thể tự trang trải chi phí sinh hoạt của mình. Cuộc sống của ba mẹ con tôi khá hơn. Tối tối, bên chiếc ti vi, chị ngồi trong lòng mẹ xem phim. Tôi mải mê với sách vở. Cuộc sống thanh đạm nhưng thật bình yên.

Một dạo, chị tôi bỗng lười ăn, mỗi bữa chỉ lưng bát cơm. Được mấy hôm, chị bảo không muốn ăn nữa. Mẹ tôi mua cho chị lọ nước yến hay hộp sữa nhưng uống vào chị nôn ra hết. Mẹ tôi mặt tái xanh đưa chị đến bệnh viện. Người ta khám cho chị rồi bác sĩ bảo, chị đang mang thai. Cái thai đã được mười một tuần tuổi. Cái tin như một cú sét đánh ngang tai. Mẹ tôi sững sờ, run rẩy, chân như muốn khuỵu xuống. Mẹ trừng mắt nhìn chị, cố kìm giận dữ nhưng vẫn gằn lên từng tiếng: “Là ai? Từ khi nào?”. Chị run sợ, nép mình vào chân tường, ngồi co ro như chú cún con bị ướt mưa. Mẹ hết dỗ ngọt lại đến dọa nạt, nhưng tra hỏi kiểu gì chị cũng không nói. Rồi mẹ bắt đầu khóc. Mẹ gào lên như một đứa trẻ. Mẹ trách ông trời, mẹ trách cuộc đời, rồi lại tự trách mình. Lòng tôi đau như cắt. Tôi hận ông trời, hận cuộc đời này và hận cả bản thân mình. Giá mà tôi ở bên chị nhiều hơn, quan tâm đến chị nhiều hơn thì đâu đến nông nỗi.

Sau một đêm thức trắng, mẹ ngậm ngùi nói những lời dứt khoát: “Bỏ cái thai đi. Đã không biết bố đứa bé là ai, nó lại điên điên khùng khùng như vậy, làm sao nuôi được con. Đẻ ra chỉ tổ làm tội con mà thôi. Đời nó khổ quá rồi, đừng để phải khổ thêm nữa”. Tôi chưa hết bàng hoàng thì chị tôi đã lao đến ôm chân mẹ, nấc lên từng tiếng một: “Không! Không! Con của Bống. Không được bỏ. Bống nuôi con”. Mẹ dỗ dành chị, rồi lại chuyển sang la mắng nhưng không lay chuyển được ý muốn của chị. Chị muốn có con. Lúc này, chị không còn là một đứa trẻ nữa.

Mẹ tôi tâm hướng Phật, đâu muốn tạo nghiệp nhưng đời chị khổ quá, mẹ tôi xót xa. Hai ngày chị bỏ ăn, chống đối. Nhìn thấy sự thay đổi của chị, mẹ cũng phải suy nghĩ lại. Ừ thì đầu óc nó như một đứa trẻ nhưng nó cũng đã gần ba mươi. Cái đầu nó không theo kịp tuổi, nhưng trái tim nó, biết đâu, lại theo kịp. Thôi đành, con dại cái mang. Ngày qua ngày, mẹ chăm chút chị nhiều hơn. Hàng xóm tiếng xì xào bán tán nhưng mẹ và chị mặc kệ. Chị hay nhìn xuống cái bụng bầu của mình, áp tay vào đó, đôi mắt lim dim như thể cảm nhận được nó – đứa bé ấy. Những lúc thế này, nhìn chị chẳng có vẻ gì là điên cả.

Rồi cũng đến ngày mãn nguyệt khai hoa, chị tôi sinh một bé trai kháu khỉnh. Mẹ tôi ẵm đứa bé, đặt vào lòng chị, bày chị cách cho con bú. Ngày đêm mẹ không rời chị nửa bước, sợ chị ngủ quên lúc cho bú, sẽ đè ngộp con. Căn phòng nhỏ tôi hay ngồi học, mẹ kê thêm chiếc giường cho mẹ con chị một chốn riêng tư trong thời gian ở cữ. Xóm giềng, cô bác, người ta cũng dần cảm thông, vừa mừng, vừa thương cho chị. Họ hay biếu chị khi chục trứng gà, khi đôi lốc sữa để chị bồi dưỡng. Không giống như cách chị chơi với con búp bê ngày trước, với đứa bé, chị nâng niu nó một cách kì lạ. Mỗi lúc nó cười, trên gương mặt chị toát lên vẻ rạng rỡ, dịu dàng. Đứa bé dường như biết thương mẹ, nó ít quấy khóc và bú nhiều, ngày càng phổng phao trông thấy. Mẹ tôi đặt tên nó là Minh, mong sao nó có một tương lai tươi sáng.

Thấy cảnh nhà cửa chật hẹp, lại thêm một đứa trẻ, mẹ tôi dành dụm xây thêm một gian nhà ngang dành riêng cho mẹ con chị. Tuy gọi là nhà riêng nhưng chị vẫn ăn cùng cả nhà, chỉ có buổi tối mẹ con chị mới về phòng để ngủ.

Rồi một thời gian, tôi thấy chị rạng rỡ hơn, chị chăm lo cho đứa bé tốt hơn và trên khuôn mặt người đàn bà nửa điên dại dường như có một niềm vui giấu kín. Tôi thấy chị dần trở nên sạch sẽ, gọn gàng. Một linh cảm trong tôi lớn dần.

Một buổi tối, tôi thức dậy giữa đêm. Mẹ tôi khó ngủ nên gần sáng bà mới ngon giấc. Cảm giác một điều gì đó rất lạ, tôi nhè nhẹ mở cửa, bước sang bên nhà ngang. Dưới ánh trăng mờ sáng, qua cánh cửa sổ khép hờ tôi nhìn thấy chị tôi và một người đàn ông đang quấn chặt vào nhau. Những âm thanh rên rỉ và tiếng da thịt chạm vào nhau khiến tôi đỏ mặt. Nhưng chị không giống bị người ta cưỡng bức, chị cũng hòa quyện, đung đưa theo hắn. Không lẽ đó là bố đứa trẻ? Tôi đứng chôn chân, nhìn hai bóng đen hòa quyện dưới ánh trăng.

Cả đêm hôm ấy, tôi không sao ngủ được. Mỗi lần nhắm mắt lại, hình ảnh hai cái bóng mờ ảo quấn quýt vào nhau lại hiện ra. Tôi không biết có nên nói với mẹ chuyện này hay không. Nhìn những thay đổi gần đây của chị, tôi biết, chị đang yêu. Chị sạch sẽ, ít nói những câu vô nghĩa hơn. Người điên, họ vẫn có thể yêu chứ, bởi vì họ cũng có trái tim. Nhưng tôi lo lắng, không biết chị có bị người ta lợi dụng hay không. Dù sao, về bản chất chị vẫn là một kẻ điên. Trên đời này, có người đàn ông nào lại ngu ngốc đi yêu một kẻ điên dại chứ? Tôi quyết định im lặng, tự đi tìm cho mình một câu trả lời.

Đúng như tôi linh tính, hôm sau, hắn lại đến. Hắn cúi xuống thơm nhẹ má đứa bé đang say giấc. Rồi hắn mò sang nằm bên cạnh chị, ôm ấp, vuốt ve. Nhìn cách hắn mơn trớn chị, tôi tựa hồ như đang có kiến bò khắp người. Một cảm giác rất lạ dâng lên khiến tôi hoang hoải, mất phương hướng. Tôi dám khẳng định hắn chính là cha của bé Minh. Nhưng vì sao hắn không đến nhận? Hắn có thật sự yêu chị tôi? Hắn xấu hổ khi yêu một kẻ điên hay hắn tìm đến chị chỉ để thỏa mãn dục vọng? Lòng tôi giằng xé giữa bao ngổn ngang. Tôi quyết định nếu có lần nữa sẽ ra mặt, gặp hắn để làm rõ mọi chuyện.

Khi ánh trăng lên đến đầu ngọn tre, một bóng đàn ông lẻn vào. Tôi toan gõ cửa thì linh cảm có người đang đứng ngay sau lưng. Bất giác, tôi quay lại. “Mẹ!” Tôi kêu lên, bàng hoàng. Nghe có tiếng người, hắn lao vọt ra khỏi cửa, bỏ chạy. Nhờ ánh trăng chiếu rọi, tôi nhận ra bóng hắn xiêu vẹo, khập khiễng. Một bên chân hình như bị thọt. Chị đứng ngây dại giữa màn đêm tối đen. Mẹ tôi tra hỏi dữ dội: “Là ai, đấy là thằng nào?” Cuối cùng, chị cũng nhận, hắn chính là cha của bé Minh. Ngày đó, chị đang tắm ở sau chòi, hắn vô tình đi ngang qua khi cả nhà đều đi vắng. Hắn chiếm đoạt chị. Một lần đó rồi thôi và chị có bầu. Nhưng sau khi chị sinh bé Minh, hắn đã quay trở lại, mang trứng, mang sữa, mang bánh trái cho chị. Và rồi, đêm đêm, hắn lại đến, để sống giây phút được làm chồng, làm cha lén lút.

Mẹ tôi chửi chị ghê lắm:

– Mày làm thế mà không biết tởm à, mày có biết nó là ai không, là gã thọt chuyên mò hến ven sông. Thằng ấy cũng dở người nên không ai lấy.

Chị khóc, tóc chị rũ rượi:

– Nhưng anh ấy là bố đứa bé. Anh ấy thương con. Cả xóm này không ai yêu con cả, chỉ có anh ấy thôi.

Còn những cảnh nghèo - YouTube

Mẹ tôi dẫn chị ra bờ sông, bế theo đứa bé, dẫn đến cái nhà tạm bợ của người đàn ông kia. Khi nhìn thấy mẹ tôi và đứa bé, anh ta bỗng trèo tót lên ngọn một cây. Hành động ấy càng làm mẹ tôi điên tiết.

– Này, cái thẳng dở người kia, mày có chịu xuống đây nói chuyện cho tử tế không hả?

Nghe mẹ tôi mắng, hắn biết mẹ tôi đã biết mọi chuyện, sợ bị bắt đền, càng ở tít trên cây không chịu xuống. Mẹ tôi giận lắm, nổi đóa lên:

– Mày mà không chịu xuống đây, tao lấy dao chặt gốc cho mày chết luôn.

Chị tôi tưởng mẹ làm thật, ngăn mẹ lại:

– Mẹ để con khuyên anh ấy.

Chị bế con, đứng dưới gốc cây, nước mắt lã chã:

– Anh xuống đi. Anh mà không chịu xuống, em bế con nhảy xuống sông luôn.

Rồi chị dịu dàng đưa tay vẫy vẫy. Thằng bé con cũng làm theo mẹ, cái tay bé xíu đung đưa. Người đàn ông ngượng ngùng, tụt xuống, rồi chạy lại bên chị, ôm đứa bé, hôn hít rối rít.

Mẹ tôi bảo:

– Chúng mày đã nhận nhau, dù điên dại thì cũng phải ở nơi tử tế. Cái lều ven sông này không hợp. Đứa trẻ cần có bố.

Rồi mẹ nhìn người đàn ông kia, quyết liệt:

– Còn mày, mày đã là cha đứa bé, phải có trách nhiệm với mẹ con nó. Mau sửa soạn, gói ghém đồ đạc về đó ở cùng mẹ con nó. Có mắm ăn mắm, có muối ăn muối. Một ngày vợ chồng, nghìn năm ân nghĩa, huống chi chúng mày…

Mẹ tôi bỏ dở câu nói. Chẳng biết hắn có hiểu được không, nhưng hắn chạy nhanh vào nhà, lấy mấy bộ quần áo cho vào cái túi, hớn hở đứng nép bên chị tôi, rồi lủi thủi theo mẹ về nhà.

Từ ngày có hắn về, chị tôi vui vẻ, nói cười nhiều hơn. Những lúc ở cạnh bé Minh và người đàn ông kia, trông chị chẳng điên, hắn cũng chẳng dở. Chiều chiều, chị tôi lại bế con ra ngõ, đợi hắn đi cào hến dưới sông về. Từ phía xa, người đàn ông mồ hôi nhễ nhại nhưng gương mặt tươi tỉnh chạy vội về phía hai mẹ con. Thấy cảnh ấy, tôi lại nhớ đến Hưng, thầm nghĩ, có lẽ đã đến lúc tôi phải chuẩn bị cho hạnh phúc của riêng mình rồi. Và mỗi khi ráng chiều tắt hẳn, cả nhà tôi lại quây quần bên mâm cơm. Ngôi nhà như sáng hơn bởi có bóng dáng đàn ông và tiếng bi bô con trẻ./.

DIỆU PHÚC

https://vanhocsaigon.com/truyen-ngan-cua-dieu-phuc-chi-toi-ben-ben-song/

BÀI VIẾT RẤT HAY VỀ NƯỚC MỸ CỦA TÁC GIẢ NGÔ ĐÌNH CHÂU (Việt Báo)

Một ghi nhận hay về nước Mỹ của 1 người chân chất làm nghề móng tay:

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông sinh năm 1952, dân Sài gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam, một trung đội trưởng tác chiến. Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương binh và buổi sáng ngày 1 tháng Năm 1975, bị đuổi ra khỏi quân y viện… Bài viết mới của tác giả không kể chuyện xảy ra trên đất Mỹ, nhưng là một hồi ức sống thực về cuộc chiến còn trong tâm tưởng biết bao người ở Mỹ.

Gia đình tôi sinh sống trên đất Mỹ được 23 năm

Gia đình tôi đến Mỹ năm 1993 đến nay 2016 đã được 23 năm, vì hoàn cảnh sinh sống chúng tôi phải di chuyển qua nhiều nơi chốn, thế nên biết thêm được nhiều điều về nước Mỹ.

Thoạt đầu đến Mỹ chúng tôi cư ngụ tại thành phố Hawthorne – nam Cali vì do bà chị giúp đở sponsor cho. Ở đây chúng tôi share phòng với nhà chị, vợ chồng con cái dồn vào một phòng nhỏ tí thật bất tiện rồi dần dà cũng quen. Ở Hawthorne, vợ chồng tôi đi đến trường chuyên dạy nghề nail để học lấy cái bằng. Rồi kể từ năm 1995 chúng tôi sinh sống bằng nghề này, một nghề duy nhất cho đến bây giờ.

Cali là nơi sinh sống lý tưởng cho người Việt Nam khí hậu mát mẻ quanh năm như Đà Lạt. Ở VN có món ngon gì thì Cali cũng có đủ, có khi còn ngon tuyệt hơn nữa vả lại thực phẩm được kiểm tra rất nghiêm ngặt nên không sợ độc hại như bên nhà. Ra đường gặp toàn người Việt đi đâu cũng nói tiếng Việt thoải mái, sống trên đất Mỹ mà hoàn cảnh sống gần như VN.

Chỉ kẹt một điều nghề Nail ở Cali bị cạnh tranh rất dữ, nên giá “bèo” hơn các Tiểu bang khác nhiều lắm nhất là so với các Tiểu bang miền Bắc. Thứ hai nhà cửa Cali lại rất mắc mỏ, có người ví von bán một căn nhà ở Cali đem tiền qua Tiểu bang khác mua được hai căn nhà. Vợ chồng tôi lúc đó đã trung niên e rằng khó lòng mua nổi một căn nhà cho dù trả góp.

Sau 4 năm ở Cali vợ chồng con cái lại đùm túm qua Tiểu bang khác, về thành phồ Joliet thuộc TB Illinois, một thành phố nhỏ gần Chicago cách đó khoảng 1 giờ lái xe. Chúng tôi đến Joliet vào mùa đông thấy tuyết bay đầy trời mà lòng kinh hãi. Tất cả cảnh vật đều phủ một màu trắng toát và lạnh kinh hồn. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi về Joliet đây là nơi chốn không thể sống lâu dài được, chỉ sống tạm bợ để kiếm tiền rồi chuồn thẳng.

Có lẽ hầu hết người VN đều rất sợ lạnh đồng thời lại rất sợ cái khung cảnh u buồn của mùa đông, cảnh buồn người có vui đâu bao giờ, bầu trời âm u màu chì kéo dài suốt 6 tháng khiến người ta cảm thấy chán chường, không còn cảm thấy muốn sống háo hức nữa cho dù nơi đây chúng tôi kiếm rất nhiều tiền. Sau 5 năm, chờ cho con gái học xong lớp 12 chúng tôi quyết định đi về miền nắng ấm tiểu bang Florida. Ngày đi, bao nhiều đồ đạc sắm sửa tạm bợ vất đi hết chỉ mang theo quần áo và đồ dùng cần thiết.

Xong xuôi, chúng tôi lên xe bấm 3 hồi còi dài để giã từ Joliet, giã từ vùng tuyết trắng lạnh lùng. Sau đó giong ruổi qua một quãng đường dài 1200 miles để đến Jacksonville – Florida.

Tôi chọn Jacksonville vì muốn trốn cái lạnh cái buồn nơi miền Bắc và xuôi nam để hưởng nắng ấm mặt trời quanh năm. Ngoài ra, ở đây tôi còn có một người bạn rất thân từ hồi Trung học, muốn gần gủi bạn bè cho vui. Té ra không phải vậy chúng tội bận rộn tíu tít với công việc, đâu có thời gian mà gặp gỡ nhau nhiều. Lâu lâu tiệc tùng họp mặt uống vài chai bia và tán gẫu dăm ba câu chuyện, rồi chia tay ai về nhà nấy.

Chúng tôi ở Jacksonville thấm thoát được 13 năm một thời gian khá dài cho một nơi chốn. Trước nay chưa khi nào chúng tôi ở một chổ lâu đến như vậy. Hàng năm vào ngày Labor Day chúng tôi thường hay kéo xuống Tampa, thăm gia đình người em trai của tôi cách đó 4 giờ lái xe.

Có một lần không biết nghĩ sao, em tôi nói:” Khi nào anh chị về hưu, xuống đây mua một ngôi nhà, có mảnh vườn bao quanh, tha hồ mà trồng trọt vui với tuổi già. Tampa khí hậu nóng ẩm quanh năm, trồng cây gì cũng được.” Nghe nói như thế, giống như mọt tia chớp lóe lên trong đầu tôi:” nếu có thú vui này, sao không về Tampa sinh sống, càng sớm càng tốt !” Ở Jacksonville, mùa đông đôi khi lạnh dưới không độ C, trồng cây gì cũng chết, ngoại trừ cam bưởi.

Thế rồi một lần nữa và có lẽ lần cuối cùng, chúng tôi quyết định dời về Tampa. Sau đó, chúng tôi tiến hành hai công việc, mua ngay một căn nhà tại Tampa và sau đó bán căn nhà tại Jacksonville. Công việc mua bán không đơn giản, cũng may em dâu tôi làm nghề địa ốc, nên mọi chuyện rồi cũng suôn sẻ. Đồng thời đóng cửa tiệm Nail gọi người đến cho hết đồ đạc.

Rồi ngày dọn nhà cũng đã đến, công việc dọn nhà lần này nhọc nhằn hơn hai lần trước. Bởi lẽ các lần trước, chúng tôi chủ trương sống tạm bợ nên không sắm sửa gì nhiều bây giờ ngổn ngang trăm thứ. Suốt một tuần lễ, cả nhà tập trung cao độ đóng gói đồ đạc vào các thùng giấy, rồi bưng bê ra gara chất đống chờ người đến bốc dỡ. Có chuyện khôi hài khi dọn nhà, ngày nào vợ chồng cũng cãi nhau, ông muốn vất hết những đồ không dùng đến, còn bà thì cứ ôm theo hết, nhất quyết không buông bỏ. Có người ví von rằng, một lần cháy nhà bằng hai lần dọn nhà, để nhằm nói lên nỗi nhọc nhằn khiếp đảm của việc dọn nhà. Cho đến nỗi, có người dọn nhà chỉ một vài lần là đủ tởn, thề không bao giờ dọn nữa, trong đó có tôi.

Tampa nằm ở khoảng giữa và thuộc bên bờ Tây của Florida, nó nằm trên một vịnh nhỏ có tên là Tampa Bay, vịnh này thông ra vịnh Mexico khổng lồ. Tampa có dân số trên 1 triệu người, đứng hàng thứ 3 tại Florida, sau Miami và Orlando. Tuy có dân số cao nhưng diện tích lại nhỏ hơn các thành phố khác cho nên dân cư cảm thấy đông đúc hơn, luôn luôn lúc nào cũng thấy xe cộ chạy dày đặc trên đường. Thời tiết Tampa có bốn mùa rõ rệt, mùa Thu cũng quét lá mệt nghỉ, mùa Đông cũng hơi hơi lạnh khoảng 50 độ F (khoảng 10 độ C) mùa Hè nóng hừng hực trên 90 độ F (32 độC).

Căn nhà ở Tampa của chúng tôi đã trên 30 tuổi, nhà nhỏ chỉ có 1,100 sqf (khoảng 100 mét vuông), cũng có 3 phòng ngủ và 2 phòng tắm, giá mua là 129K. Căn nhà sơn 2 màu xanh trắng, mặt ngó thẳng ra hướng Đông, đúng cái hướng mà các Thầy Tử vi khuyên tôi nên chọn cho hạp tuổi, không biết có đúng như vậy không, thôi thì có kiêng thì có lành. Trước và sau nhà có 2 cây sồi (oak) cổ thụ tỏa bóng mát trông thật đẹp, nhưng ngặt một điều là không trồng trọt gì được dưới tàn cây của chúng. Cây sồi được coi là tài sản cảu Florida, tỉa nhánh mé cành thì không sao, còn muốn đốn bỏ phải xin phép.

Khi dọn nhà đi thì chứa đồ đạc ở trong thùng, khi đến chổ mới thì dỡ đồ đạc ra để xếp vào các nơi, cả nhà xúm lại làm suốt ngày, khoảng 2 tuần sau thì tạm ổn. Đến cuối tháng, có bửa nghe điện thoại reo, tôi nhấc lên thì được biết có người chủ tiệm Nail được bạn bè giới thiệu bèn gọi đến mời vợ chồng tôi đi làm. Thế là yên phận sống trong căn nhà mới.

Bước ra mảnh vườn, chủ trước họ trồng cây kiểng um tùm trông phát ớn. Tôi kêu một anh Mể tới dọn dẹp, anh chàng này ngơ ngác không biết nói tiếng Anh, muốn bàn công việc phải nói qua điện thoại với vợ hắn. Anh Mể ra giá tiền công là 500 đô, tôi chẳng biết gì nên cứ gật đầu bừa cho xong. Trước nay tôi có nghe nói đàn ông Mể có sức khỏe kinh người, bây giờ khi tận mắt chứng kiến cái cảnh anh Mể này làm việc mà kinh sợ, sợ anh ta ngã lăn ra chết bất tử. Anh ta làm việc dưới trời nắng như đổ lửa và ghê gớm ở chổ, suốt từ sáng tới chiều anh ta chớ hề nghỉ tay. Tới trưa tôi chạy đi mua cho anh một cái bánh hamburger, anh ta nhai nhồm nhàm xong nốc cạn lon Coca, rồi hì hục làm tiếp. Anh ta cứ làm như thế suốt 3 ngày trời, khuôn mặt bình thản, không than vắn thở dài gì hết, mọi chuyện đều bình thường đối với anh ta. Thiệt đáng nể.

Dọn dẹp mảnh vườn xong, tôi chưa biết chỗ nào bán cây ăn trái để mua về nhà trồng. Thời may con gái có người bạn giới thiệu cho Khu Chợ Trời bên thành phố St Petersburg. Nằm kề cận Tampa có 2 thành phố vệ tinh là St. Petersburg và Clearwater. Cả ba tạo thành một hình tam giác, từ nhà đi qua hai nơi này khoảng nửa tiếng.

Theo sự hiểu biết của tôi, thành phố St. Petersburg gọi tắt là St. Pete. (phe ta kêu là Săn Pí) tuy nhỏ hơn Tampa, nhưng không hiểu sao người Việt lại quần tụ đông hơn, chợ búa và nhà hàng Việt Nam đông hơn bên Tampa. Chợ tuy nhỏ cũng có bán đủ thứ hàng, cũng có quày thịt cá tươi sống, cũng có đủ các loại to go như bún mì phở… còn các loại ăn chơi thì ê hề. Nhà hàng VN cũng nho nhỏ, có nhiều nơi cũng có thức ăn ngon nổi tiếng. Tóm lại sinh hoạt của người Việt nơi St. Pete khá nhộn nhịp.

Từ Tampa qua St. Pete phải chạy qua cây cầu Howard dài 6 dặm, cây cầu rất đẹp, đẹp ở chỗ cầu chạy sát mặt biển, khiến ta có cảm giác sóng biển đang vờn bên má mình, đến giữa thì cầu nhô lên cao cho tàu thuyền qua lại. Sáng sớm chúng tôi chạy qua cây cầu này, rồi nhìn qua hai bên, mặt biển lặng im xanh ngắt và trải rộng mênh mông tới chân trời, có những chiếc thuyền rẽ sóng ở xa xa, đã tạo nên một khung cảnh kỳ thú tuyệt đẹp. Từ đó mỗi sáng sớm Chủ nhật, chúng tôi đi qua cây cầu để đến Chợ Trời, chưa bỏ qua một lần nào hết.

Khu Chợ Trời (Flea Market) St. Pete, nằm trên một khu đất rộng, khung cảnh nhộn nhịp bát nháo như bất cứ Khu Chợ Trời nào khác, tuy nhiên mọi nơi đều sạch sẽ, không hề thấy ai xả rác. Những người bán hàng, họ dựng lều hoặc che dù san sát nhau, người người đi lại tấp nập. Vợ chồng tôi khi lần đầu tiên đến đây, chỉ đi dạo một vòng là trong lòng bỗng nhiên cảm thấy vui thích lắm.

Theo tôi, Chợ Trời St. Pete là một nét văn hóa đặc sắc của vùng vịnh Tampa. Sau này khi có bạn bè đến thăm viếng, chúng tôi đều đưa đi thăm Chợ Trời và mọi người đều rất thích thú, kể cả người từ VN qua. Tôi thấy người mua kẻ bán ở đây rất đông người Việt và kỳ lạ một điều, những người Việt hiện diện tại đây đều có gốc gác từ miệt Đồng bằng sông Cửu Long, không hề thấy ai nói giọng Bắc giọng Trung ( hay là có nói mà tôi chưa gặp) Phần lớn những người này lại xuất thân từ vùng đồng quê chứ không ai xuất thân từ thành phố, cho nên giọng nói của họ nghe quê rặc và rất thiệt thà chơn chất, nói sao bán vậy, chứ không hề nói thách một tiếng nào.

Tôi hỏi cô bán hàng trái cây: “Nhãn này giá bao nhiêu tiền một pound vậy cô?” Cô cười đáp: “Dạ, 3 đồng “gửi” một pound”. Tôi nói giỡn: “Sao mắc vậy?” Cô ta cười lỏn lẻn: “Em bán “ghẻ ghề” mà anh chê mắc !” Tôi cười lớn: “Cha! cái giọng này sao nghe giống dân Rạch giá quá vậy ta?” Cô ta cũng cười theo: ” Dạ đúng vậy, em quê Giồng Riềng- Rạch Giá đây anh”.

Có một số người Việt lớn tuổi ở St. Pete không xin đi làm hãng được, bèn ở nhà trồng rau, nuôi gà vịt rồi mang ra chợ trời bán. Nhà cửa ở vùng này rất cũ kĩ và nhỏ xíu, nhưng được cái là có đất khá rộng chung quanh nhà, cho nên thoải mái trồng trọt. Ngoài những thứ thường thấy như rau cải, bầu bí, khổ qua… người ta còn thấy bày bán ở đây những thứ khó tìm như: rau càng cua, bông so đủa, bông điên điển, cọng bồn bồn, rau nhút, rau muống nước (loại rau này tôi chưa từng thấy ở những nơi khác)… Có nhà nuôi gà vịt “đi bộ”, hay ấp trứng vịt lộn cũng mang ra chợ bán. Trái cây thì tràn ngập các loại trái cây VN, vùng đất này trồng mãng cầu, nhãn, thanh long rất tốt, ngoài ra còn có ổi xá lị, trái li ki ma, mít, xoài…

Xoài ở St. Pete có loại trái mập ú, trông ô dề xấu xí, nhưng khi ăn thì có mùi vị thơm ngon, hột lại nhỏ xíu, rất đặc sắc. Vú sữa cũng có, nhưng trái nhỏ tí như trái chanh, ai cũng chê chẳng thấy ai mua. Hầu hết các loại cây trái VN đều trồng được ở vùng này, ngoại trừ sầu riêng, chôm chôm và măng cụt.

Chúng tôi đi dạo qua khu bán cây ăn trái. Anh chủ khu này tên Sang, khoảng 40 tuổi người quê Bạc Liêu, hiện làm chủ một nông trại khoảng 20 acres (acre – mẫu Anh, cở 4000 mét vuông). Anh Sang chuyên nghề ghép cây ăn trái. Mấy cây nhãn, bưởi, cam, quít… cây thấp lè tè mà trái treo lúc lỉu trông thật “đã” mắt. Anh chàng này bán cây nổi tiếng khắp vùng Tampa. Những cây ăn trái của Sang thuộc loại hàng “độc”. Anh ta có những loại xoài mà không chỗ nào có được, như một loại xoài lạ, khi trái còn xanh thì chua tê lưỡi, nhưng khi chín thì thơm ngon không thể tả, và lạ lùng không biết làm sao anh ta cũng có xoài cát Hòa Lộc của Mỹ Tho. Có loài mận VN, khi còn non trái có màu xanh, khi chín tới có màu hồng đào, cắn vào miệng nghe dòn tan ngọt lịm. Anh ta có đủ thứ cây ăn trái khác như hồng dòn, hồng mềm, cây bơ quả nhỏ mà béo ngậy, quít đường Cần thơ, bưởi Biên Hòa… tất cả đã được anh ta tuyển chọn công phu nên mua cây của anh ta chúng tôi đều rất yên tâm về chất lượng.

Đi dọc dài, người đi lại nhộn nhịp vui chưa từng thấy. Ngoài người Việt, còn có một sắc dân đặc biệt khác cũng chiếm số đông ở đây, đó là người H’mong, xuất phát từ vùng núi non của nước Lào ( lạ nhỉ ! không hiểu sao họ lại ở đây) Trong khi người Việt nói chuyện với nhau huyên thuyên bằng tiếng Việt, thì người H’mong cũng không kém ồn ào bằng tiếng nước họ.

Chỗ kia, có một anh người Việt chở nguyên một xe truck dừa xiêm đổ xuống một đống lớn, ai thích trái nào anh ta sẽ chặt dừa, xong cắm ống hút vào đưa cho khách, khách vừa đi vừa uống trông rất vui. Nơi khác người ta xúm xít quanh một cái bàn, chờ mua gỏi Thái Lan của hai vợ chồng người Thái, gỏi làm bằng đu đủ bào, cà pháo tươi, đậu phọng rang, trộn với nước chanh và mắm ba khía, mùi vị ngon khá lạ. Có người Việt kia đi chày tôm ngoài sông rồi đem ra chợ bán, tôm chứa trong thùng cooler, nghe anh ta rao hàng, tôm nhỏ giá 2 đô rưởi, tôm lớn 7 đô một pound. Có chỗ bán cá, bán hoa lan, bán nước mía tươi ép tại chỗ… Tất cả đã tạo nên một bức tranh hết sức sinh động và hấp dẫn của Chợ Trời St. Pete.

Lần hồi, tôi khuân về nhà lũ khủ các loại cây ăn trái, mỗi thứ một cây: xoài, nhãn, bơ, trái vải, quít đường, bưởi… rồi chạy ra chợ mua mấy bao phân bón vào gốc. Hàng ngày tôi ra vườn tưới tắm cho cây, cây lớn lên như thổi, đâm chồi ra lá xum xuê, một thời gian ngắn sau cây ra hoa kết trái, trái nhỏ tí trông dễ thương làm sao.

Trồng cây là một thú vui thanh tao, bởi vì không phải là mong tới ngày ăn quả, mà vì một niềm vui khác, khi trong lòng cảm thấy có một sợi dây tương thông thân ái với cây trái trong vườn nhà. “Cám ơn hoa đã vì ta nở. Thế giới vui từ mỗi lẻ loi”. (Tô Thùy Yên)

Thành phố vệ tinh thứ hai của Tampa là Clearwater, một thành phố du lịch, nhà cửa mắc mỏ nên dân Việt ít người dám sống ở đây. Con đường dẫn vào thành phố tuyệt đẹp cũng có một cây cầu dài khác chạy sát mặt biển băng qua vịnh Tampa, trên đường có những lối rẽ cho ai muốn câu cá thì ghé vào. Hai bên đường có trồng hai hàng cây cọ trông rất thơ mộng, con đường chạy thẳng ra vịnh Mexico. Ngày cuối tuần, người ta ở các nơi kéo đến tắm biển đông nghịt như ở Nha trang bên quê nhà. Lúc đầu chúng tôi cũng ngại ngần chuyện tắm biển, nhưng sau đó thấy người người thản nhiên xuống tắm, đủ sắc dân, đủ dạng người, đủ lứa tuổi… nên chúng tôi cũng kéo xuống tắm cho vui. Té ra biển ở đây rất tuyệt, nước biển trong xanh và phẳng lì chứ không hề có sóng dữ, nước biển lại ấm áp, chứ không lạnh cóng như biển Cali. Khi đã tắm được một lần là coi như vượt qua rào cản ngại ngùng, từ đó cứ dăm ba tuần chúng tôi lại kéo đi tắm biển, rất khoan khoái và thư giản.

Tôi về Tampa đến nay đã được gần hai năm. Không biết có phải vì đất trời phong thủy vận hợp với mình hay sao, mà từ khi về đây tôi thấy trong người sảng khoái lắm.

Đêm về, lên giường là ngủ một mạch đến sáng, điều này trước kia chưa hề có nơi tôi. Trong thời gian ở Jacksonville vì nặng nợ cơm áo gạo tiền, đêm đến tôi trằn trọc mãi thuốc ngủ lúc nào cũng thủ trên đầu giường, cho nên có thời gian dài tôi mang bệnh anxiety (bịnh lo sợ). Tôi cũng có đọc nhiều bài viết khuyên người ta nên biết buông sả khi lớn tuổi, phải tu đạo này hay theo đạo nọ, theo vị Thầy này hay theo vị thiền sư kia. Nhưng theo tôi tất cả chỉ là vô ích, khi người ta chưa tìm được một hoàn cảnh sống thích hợp thì khó mà tìm được sự an lạc trong đời thường. Đêm về tôi lắng nghe toàn thân, nghe nỗi sung sướng khoan khoái lan tỏa khắp người mình, hình như Thiên đường ở ngay trong lòng mình chứ không phải đâu xa xôi. Cám ơn Nước Mỹ, đã tạo cho tôi điều kiện tìm thấy hạnh phúc đích thực ngay trong đời thường.

Tôi lại nghĩ lan man sang chuyện khác. Trên cõi đời này có hàng triệu triệu người mong ước được đến sinh sống trên đất Mỹ. Đồng thời cũng có triệu triệu người căm ghét nước Mỹ. Tôi còn nhớ biến cố 911 khủng bố tấn công nước Mỹ, phần lớn loài người đều sững sờ kinh ngạc và biểu lộ lòng thương xót đến nước Mỹ. Nhưng không phải là tất cả, trong những giờ phút đầu tiên của biến cố, người Palestine đã đổ ra đường hò reo mừng rỡ cho thắng lợi của những người tử vì đạo. Có một phái đoàn báo chí một nước Á Châu lúc đó được mời đến thăm viếng Mỹ. Khi biến cố xảy ra họ đang đứng trong Trung tâm Báo chí, và đã có thái độ hân hoan vui mừng trong khi đất nước này đang chìm trong đau khổ. Ngay lập tức họ đã bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ và vĩnh viễn những con người này không bao giờ được phép đặt chân đến Mỹ. Vui mừng trước nỗi đau của đồng loại là hành vi man rợ, cho nên họ rất xứng đáng nhận lãnh hình phạt này. Nước Mỹ không hề đụng chạm đến đất nước họ, chỉ vì nước Mỹ giàu mạnh hơn, và dân Mỹ sống sung sướng hơn dân nước họ, chỉ đơn giản vậy thôi. Nhà văn NNN đã viết một câu rất hay:”… Có những người không chịu nỗi sự thành công của người khác. Bởi vì họ cứ coi sự thành công của người khác là sự thất bại của chính mình.”

Người Việt cũng vậy, có rất nhiều người mê Mỹ và cũng có rất nhiều người ghét Mỹ. Từ sau biến cố 1975 người Việt đã tìm mọi cách để đến Mỹ. Sau khi phong trào vượt biên chấm dứt người ta tiếp tuc ra đi bằng nhiều cách, hợp pháp hay bất hợp pháp. Hợp pháp là đi theo con đường bảo lãnh thân nhân, cha mẹ, vợ con, hôn thê, hôn phu và sau này thêm diện đầu tư. Bất hợp pháp bằng cách du học du lịch rồi ở lại luôn, hay tìm cách kết hôn giả với người có quốc tịch. Giả thử có người mất vài chục ngàn đô cho công việc bất hợp pháp này, thì suy cho cùng họ còn quá lời. Cái lời trước mắt là con cái được hấp thụ một nền giáo dục ưu tú nhất thế giới, nếu còn ở trong nước mà muốn cho con đến Mỹ du học hàng năm phải tốn khoảng 20 ngàn đô.

Còn nữa, món lời lớn nhất không thể tính bằng tiền bởi vì nó vô giá, đó là được sống trong môi trường xã hội quá lý tưởng, mà người Mỹ đã cố công gầy dựng từ hồi mới lập quốc cho đến bây giờ.

Một xã hội nề nếp, tất cả mọi đường lối chính sách đều rất minh bạch. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không có giai cấp nào, một thế lực hay đảng phái nào được đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Mọi người sinh ra đời đều được tôn trọng như nhau, đều có cùng một cơ hội tiến thân như nhau. Cho nên nếu anh nghèo, anh thất bại, anh học hành ngu dốt, là do anh chứ không phải do lỗi của xã hội, không hề có cảnh con quan thì được làm quan, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Một xã hội có tính ưu việt vượt trội quá xa những xã hội khác, tôi không dám kể ra đây nhiều nữa sợ nhiều người chạnh lòng.

Có người Việt chưa hề đặt chân đến nước Mỹ ngày nào, nhưng cũng ghét nước Mỹ thậm tệ. Hàng ngày họ xem phim ảnh, thời sự tin tức, họ thấy những cảnh bạo lực ghê rợn cướp của giết người hay sexy khêu gợi, hay mấy vụ cảnh sát bắn chết người da đen… xem riết rồi họ đâm ra ghê tởm nước Mỹ, và còn cho rằng những người Việt qua tới Mỹ rồi đi làm những chuyện xấu xa, là do:” Quít trồng ở Giang Nam thì ngọt, mang trồng ở Giang Bắc thì chua…” đúng là dạng người ếch ngồi đáy giếng.

Có người cứ mở miệng ra là chửi Mỹ như tạo ra cho mình một style lạ, hay chứng tỏ ta đây cũng có một thời “chống Mỹ cứu nước” nhưng thật ra không phải vậy, họ nói một đằng làm một nẻo. Đây là một trường hợp điển hình, hãy nghe nghệ sĩ Kim Tuyến nhận xét về nghệ sĩ Bạch Tuyết: “BT thù ghét nước Mỹ nhưng tại sao lại thích đi Mỹ. Cho con học ở Mỹ rồi lại lấy vợ Mỹ. Phải chăng BT muốn tìm một bãi đáp an toàn sau này ở Mỹ…”

Trong cộng đồng người Việt tại Mỹ có một hạng người không giống ai. Nếu họ là người homeless, hay cuộc đời gặp toàn thất bại thì không có gì đáng nói. Đàng này họ sống trên đất Mỹ đã vài chục năm, làm ăn sinh sống khá thành đạt cũng có của ăn của để, con cái học hành thành tài. Vậy mà hễ cứ có dịp là họ chửi Mỹ, nào là làm ra bao nhiêu tiền, bảo hiểm và sở thuế ăn hết, chủ tư bản bóc lột đến tận xương tủy (câu này sao nghe quen quen!) Có người thấy vậy chướng mắt bèn nói móc họng: “Nếu ông thấy sống ở Mỹ có quá nhiều điều không ưng ý, thì ông nên về Việt Nam sinh sống để khỏi vướng mắt đến những điều này.” Lặng thinh! không nghe câu trả lời, những người này rất xứng đáng mang cái tên là “ăn cháo đá bát”.

Suy cho cùng, để cảm nhận thật sự nước Mỹ phải có thời gian để cho cái “chất Mỹ” nó ngấm vào người. Chứ còn chỉ đi du lịch hay thăm thân nhân vài ba tháng, hay được bảo lãnh qua Mỹ sống vài năm, thì thật tình chưa biết gì nhiều về nước Mỹ. Những người đó cảm thấy nước Mỹ sao chán ngắt, vừa buồn hiu vừa lạnh lùng. Đi đâu cảnh vật cũng từa tựa như nhau, giống y như câu thơ của Nguyên Sa:” Trời trên đất khách buồn vô hạn. Trăng rất quen mà vẫn chẳng quen.”. Thời giờ lúc nào cũng eo hẹp, cặp mắt cứ láo liên ngó đồng hồ. Không hề có cảnh sáng cà phê cà pháo cả tiếng đồng hồ, chiều lai rai bia bọt, kiếm người tán gẫu không phải dễ. Cái xứ gì mà người ta phải ôm đồm đủ thứ nợ: nợ nhà, nợ xe, nợ thuế, nợ bảo hiểm, nợ thẻ tín dụng… Cho nên có rất nhiều người Việt qua Mỹ một thời gian rồi lại quay về cố quốc.

Muốn cái “chất Mỹ” nó ngấm vào người theo tôi nghĩ cũng phải mất cỡ 5 năm. Khi nào người ta thấy nỗi nhớ nhà nó dịu lại, nhìn cảnh vật chung quanh không còn thấy buồn như trước. Vào mùa Đông trời chớm lạnh ra đường thản nhiên vận áo T shirt, điều đó có nghĩa là không còn sợ lạnh như những năm tháng đầu đến Mỹ. Ra đường gặp ai bất kể lạ hay quen đều gật đầu chào:” Hello! How are you doing”. Nói chuyện với người Mỹ không còn dùng body language nữa. Ăn uống không còn thuần túy: bún bò Huế, hủ tíu, mì phở… mà còn thích hamburger, hog dog, pizza, sushi, pasta… Khi nào cảm thấy vui với cái vui của nước Mỹ và buồn với cái buồn của người Mỹ, là coi như không còn có thái độ bàng quang như trước kia, là biết con người mình đã đổi khác.

Cuối cùng một điều quan trọng nhất, là khi ta quay về cố quốc, lòng chợt bàng hoàng thảng thốt, đất nước không còn giống như trong tâm tưởng nữa rồi, mọi chuyện đời đều đã thay đổi… và một ý nghĩa buồn rầu nẩy ra là mong sao sớm trở về nước Mỹ. Như ai đó đã nói một câu như là chân lý: “Nước Mỹ không phải là Thiên đường, nhưng là một nơi đáng sống nhất trên cõi đời này”.

Ngô Đình Châu

Chuyện đáng suy gẫm

CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT

Bố đang sửa xe, con trai cầm mảng đá vẽ lên vỏ xe. Bố nhìn thấy, giận quá, văng cái kìm sắt đánh vào tay con. Con phải nhập viện, gãy xương ngón tay. Con nhẹ nhàng nói với bố:
– Bố ơi, sẽ nhanh khỏi thôi, bố đừng lo nhé.
Bố cảm thấy vô cùng ân hận, đùng đùng chạy về nhà định đập nát xe ô tô của mình. Đập vào mắt bố là dòng chữ mà lúc nãy con đang viết dở: “Bố ơi, con yêu bố!”

Lời bàn:

Có rất nhiều việc nếu ta nghĩ kỹ hơn một chút rồi mới quyết định thì sẽ tốt hơn nhiều.

CÂU CHUYỆN THỨ HAI

Trên thảo nguyên có hai mẹ con nhà sư tử. Sư tử con hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ bảo:
– Hạnh phúc ở đuôi con đấy.
Sư tử con ngây ngô cứ gắng sức đuổi theo đuôi mình, mà mãi không thể bắt được.
Sư tử mẹ nhìn con cười hiền hậu nói:
– Ngốc ạ, không cần phải đuổi theo hạnh phúc. Chỉ cần con ngẩng cao đầu hướng về phía trước, thì hạnh phúc sẽ mãi mãi đuổi theo con.

Lời bàn:

Nhiều khi ta không phải cố gắng đuổi theo thứ gì đó, cứ ngẩng cao đầu mà bước tiếp, thành công và hạnh phúc sẽ đuổi theo.

CHUYỆN THỨ BA

Con không nuôi được mẹ già, định cõng mẹ lên núi để mẹ lại đó. Buổi chiều tối, con nói với mẹ sẽ đưa mẹ lên núi dạo chơi. Mẹ phấn khởi trèo lên lưng con. Cả đường con chỉ nghĩ đến việc sẽ trèo lên thật cao rồi bỏ mẹ ở đó. Đến khi phát hiện ra mẹ đang âm thầm rắc hạt đậu xuống đường, con đã rất tức giận quát:
– Mẹ rắc hạt đậu làm gì hả?
Cuối cùng, mẹ đã trả lời một câu khiến đứa con khóc đẫm nước mắt:
– Con ngốc của mẹ, mẹ sợ tý nữa con đi về một mình sẽ bị lạc đường.

Lời bàn:

Mẹ hiền không bao giờ từ bỏ ta mà luôn tha thứ cho ta

Phan Sinh Trần

Đường Đời – Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

Tôi sống trong cuộc đời nhưng tôi có riêng đường đời của tôi.  Mới hôm nào bố mẹ nhìn bầy con chung quanh mâm cơm chiều.  Chỗ nào cũng là gần gũi yêu thương, từ nhà ra sân, từ ngõ đi vào.

Dòng sông lớn lên âm thầm rẽ nhánh.  Tôi đi theo tiếng gọi của đời tôi.  Lũ em lần lượt bước vào ngõ quanh của mỗi đứa.  Bây giờ đã là xa cách.  Trong cuộc đời, nhưng mỗi đứa có riêng đường đời của mình.

Kinh Thánh kể, sau khi dâng lễ ở Jerusalem về, Mẹ Maria lạc mất Chúa.  Mẹ hối hả đi tìm: “Cha con và mẹ phải đau khổ đi tìm con.”  Chúa thưa lại: “Mẹ tìm con làm chi, vì con phải ở nơi nhà Cha con” (Lc 2, 48-49).  Trong cuộc đời, Chúa có đường Chúa phải đi.  Mẹ Maria có lối của Mẹ.

Mỗi người có một cuộc sống riêng nên không đường của ai giống đường của ai.  Tuy vậy, chỉ có một người gọi, đó là Chúa.  Và cũng chỉ có một tiếng gọi, đó là tiếng gọi về Nhà Cha.  Chỉ có một thứ tiếng gọi và do một người gọi, thì đường đi có khác, vẫn ở trong toàn thể.  Ở trong toàn thể thì có liên hệ và ảnh hưởng.  Với ý nghĩa đó, cuộc sống đức tin của người này liên quan đến cuộc sống của người kia.  Lối về Nhà Cha phải đi riêng đường của mình.  Ðiều ấy có nghĩa là đi một mình.  Ði một mình trong hàm ý là tự mình đi chứ không phải là đi lẻ loi.

Chúa Giêsu lên đường về Jerusalem để chịu tử nạn.  Theo tiếng gọi, Phêrô cũng lên đường với Ngài.  Nhưng trên đường đi, Phêrô gợi ý cho Chúa bỏ cuộc (Mc 8,31-33).  Làm gì có Phục Sinh nếu Chúa Giêsu nghe lời Phêrô chối từ Thập Giá.  Từ bỏ con đường của mình phải đi là đánh mất bản tính của mình.  Nếu Chúa cũng chỉ là Chúa khi Chúa đi con đường của Chúa thì đấy phải là định luật không thể thay thế cho tôi.  Tôi sẽ chẳng còn là tôi nếu chối từ con đường của mình.

*****

Mỗi người có một con đường, vì sao họ lại không đi được đường của họ?

Trên đường đời, cả hai: đau khổ và hạnh phúc, đều là những tiếng gọi dỗ dành làm tôi lạc lối.  Ðau khổ dẫn tới lẩn tránh đường đi.

Phêrô đã âm thầm cảm nghiệm được một khúc đời khốn khó nếu để Chúa về Jerusalem tử nạn.  Ðau đớn thường dẫn đến chạy trốn.  Trên đường đi, có những quãng đời rộn rã tiếng cười như ngày Chúa long trọng vào thánh thánh: “Dân chúng rất đông đảo, trải áo choàng trên đường, nhóm khác chặt cây mà lót lối đi.  Kẻ trước, người theo sau tung hô rằng: Hosanna, con vua David.  Vạn tuế Ðấng nhân danh Chúa mà đến.  Hosanna trên chốn trời cao” (Mt 21,8-9).  Tưng bừng là thế đó, nhưng lại không hiểu những ngày hắt hiu: “Hồn Ta buồn quá đỗi, muốn chết được.  Các ngươi hãy ở lại mà thức với Ta.”   Ðã chẳng ai thức với Chúa trong giờ phút lẻ loi nhất ấy: “Simon, ngươi ngủ sao? Ngươi không thể thức với Ta được một giờ ư?” (Mc 14,34-37).  Có những ngã tư đông đúc, cũng có những ngõ vắng dẫn vào cô tịch đìu hiu.  Ngõ vắng ấy là ngại ngùng.  Cô tịch đìu hiu kia là đau khổ.  “Ai bỏ tất cả mà theo Ta sẽ được gấp trăm” (Mc 10,28-30).  “Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8,34).  Lời ban đầu là quãng đường đẹp hứa hẹn đầy mộng ước.  Lời kế tiếp là khúc vắng dẫn vào đìu hiu, cô tịch.

Chúa không về Jerusalem để chết vĩnh viễn trên thập giá, mà là để đón nhận phục sinh vì hoàn tất thánh ý của Chúa Cha.  Bởi đó, đường về Nhà Cha thì Nhà Cha mới là cùng đích.  Nhưng cô tịch đìu hiu, những ngõ vắng nếu có trên đường đi, tôi phải chấp nhận.  Chối từ phương tiện là chối từ cùng đích.  Ðường của Gioan Tẩy Giả là “mọi thác ghềnh sẽ được lấp đầy, đồi cao sẽ hạ thấp, nơi cong queo nên ngay thẳng” (Lc 3,4-6), để dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến.  Chấp nhận đường của mình.  Gioan đã phải đi những quãng đường rất vắng vẻ, rất đìu hiu trong ngục tối vì dám làm chứng cho sự thật.  (Mc 6,17-28).

Trời sa mạc rộng quá.  Gioan cất tiếng kêu.  Tiếng kêu trong sa mạc thì thấm vào đâu.  Nhưng lối đi của Gioan là thế.  Sứ mạng của sứ ngôn là lên tiếng.  Không thể để cái hoang vu của sa mạc làm nản lòng.  Dù không có ai nghe, người sứ ngôn vẫn phải cất tiếng.  Chối từ lên tiếng là đánh mất bản tính làm sứ ngôn của mình.  Bản tính đó hệ tại là người sứ ngôn có lên tiếng hay không chứ không hệ tại người nghe chối từ hay chấp nhận.

Gian nan làm người ta muốn chối từ con đường của mình thế nào thì hạnh phúc giả cũng làm người ta lạc lối như thế.

Ảo ảnh hạnh phúc dễ đưa lầm đường.

Vì đường đời đi trong cuộc đời, nên có lúc người khác đi cùng với tôi.  Ði cùng không có nghĩa là đi con đường của nhau.  Ðường tôi đi vẫn là của riêng tôi, nên dù không ai đi cùng, tôi vẫn phải đi.  Những lúc trên đường vắng ấy, một quán hạnh phúc bên ngã rẽ dễ mời tôi tắt lối quẹo ngang.  Sau những ngày ăn chay trong sa mạc, Chúa đói.  Ma quỷ đã đến cám dỗ Ngài: “Nếu ngươi là con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho viên đá này thành bánh” (Mc 4,3).  Luôn luôn có lời ngọt ngào bảo tôi chối bỏ con đường của tôi.

Trong hôn nhân, biết bao đổ vỡ đã đến từ những bóng mát hạnh phúc ở bên cạnh.  Trong đời tu, biết bao trống trải đã ủ xuống hồn vì những lời gọi không chính đáng.  Mỗi người có một lối đi.  Vì cùng đi trong cuộc đời, nên sẽ thấy có người bước tới, có người quay về, có người tắt ngang.  Ðiều ấy dễ gây xôn xao.  Có người lấy bóng hạnh phúc của kẻ khác làm của mình, vì thế họ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc thật.  Có người lại lôi kéo kẻ khác vào con đường của họ.  Làm như thế, ngỡ là yêu thương, nhưng thật ra, họ đã tàn tật hóa con đường của nhau phải đi.  Nâng đỡ nhau trên đường đi không bao giờ có nghĩa là đi con đường của kẻ khác.  Yêu thương là để kẻ khác đi trên con đường của họ.

Nguy hiểm trên đường đi là sự lừa dối lương tâm của chính mình. Khi người ta gian lận nhiều lần, thì dần dà sẽ thành thói quen, nhưng thành thói quen không có nghĩa là được phép.

Cứ đi lại nhiều lần trên bãi hoang, thì tự nhiên sẽ thành đường đi, nhưng thành đường đi không có nghĩa đấy là chính lộ.

*****

Lạy Chúa, hôm nay con muốn nói với Chúa về nỗi lòng của con đã thấy gì trên đường con đi.  Trên đường đi, con thấy có nhiều quán trọ.  Có quán cho con bóng mát.  Có quán bảo con đừng đi.  Mệt nhọc làm con muốn dừng nghỉ.  Chống đối, hiểu lầm, ghen tỵ, kết án làm con muốn bỏ cuộc.  Và dường như, nếu con càng dừng nghỉ thì con càng ngại đi.  Nếu con càng làm quen với lười biếng thì con càng ngại ngùng trở về con đường Chúa muốn con sống.  Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm.  Và, cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng đường thật xấu, gồ ghề như quãng đường Chúa đi xưa.
Hình ảnh đồi sọ làm con tính toán lưỡng lự.  Có những quãng đường sao mà tối tăm làm con hồ nghi không biết có phải là đường thật không.  Ðây là lúc con phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu.  Và cũng là những lúc con bị cám dỗ nghi ngờ ơn gọi Chúa đã ban.  Ði trọn tiếng gọi của mình theo Phúc Âm không dễ vì có nhiều hình ảnh đánh lừa con.  Có phải vì thế mà Chúa đã dặn: “Ðường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi” (Mt 7,13-14).

Hôm nay, có điều con cũng muốn thưa với Chúa là dù được an ủi hay chịu đựng âm u của những ngày nặng nề, con vẫn nghe thấy tiếng Chúa khuyến khích con đi con đường của riêng con.  Tuy có khó khăn nhưng con vẫn tin ở trước mặt là một bình minh rất đẹp.  Ðiều ấy làm con vững tâm.

*****

Trong lịch sử lầm đường, chối bỏ lối đi của mình bao giờ cũng có mặt của Satan.  Khi Phêrô ngăn cản Chúa đừng chịu chết.  Chúa mắng: “Satan hãy cút khỏi sau Ta vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa” (Mt 8,31-33).

Phúc Âm thánh Luca nói về Giuđa như sau: “Satan nhập vào hắn, và y đi thương lượng với các thượng tế để làm sao nộp Ngài cho họ” (Lc 22,3-4).

Trong sa mạc, kẻ cám dỗ Chúa đừng đi con đường của Chúa cũng là Satan (Mt 4,1-11).

Ngày xưa trong vườn địa đàng, Adong, Evà đã không đi được con đường của mình cũng vì lời ma quỷ lừa gạt.  Lịch sử lầm đường là lịch sử có mặt của Satan.  Ðiều ấy cho tôi tin chắc rằng khi tôi không muốn đi con đường của mình, tôi phải cẩn thận vì tiếng nói của thần dữ rất tinh vi.

Nói về hành động Giuđa đi lạc lối, Phúc Âm thánh Gioan kết luận: “Lập tức hắn đi ra và trời đã tối” (Gn 13, 30).  Khi nói trời đã tối, Gioan không có ý viết một bài văn chương tả cảnh hoàng hôn.  Bằng ngôn ngữ thần học, rất sâu sắc, Gioan muốn nói khi con người chối bỏ ơn gọi của mình để Satan đổi hướng đời mình phải đi, đấy là lúc “người ta yêu mến bóng tối hơn sự sáng” (Ga 3,19).

Không đi đường mình phải đi, chìm vào bóng tối thì tôi tìm thấy gì trong vùng đất ấy?

Trời đã tối, tiếng than ngắn ngủi mà thăm thẳm như nỗi tuyệt vọng mịt mù, buông xuống che kín một đời người.  Lời thánh Gioan nhắn nhủ nghe buồn như tiếng thở dài, nhẹ mà rất sâu: “Ai đi trong tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu” (Ga 12,35).

*****

Lạy Chúa, con đường đời của riêng con.  Chối bỏ con đường của mình là lừa dối chính mình và tránh mặt Chúa, kẻ đang đợi chờ con ở đầu đường bên kia.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen

Chuyện sủ nhi-Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Tiếu-Lâm  XHCN

Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn trẻ (SN 1976 tại Cà Mau) hiện sống và làm việc ở Cà Mau. Tập truyện ngắn “Cánh Đồng Bất Tận” của cô đã gây ấn tượng đến người đọc! “Sủ Nhi” hay “Sửu Nhi”? Hiện nay trong nước có từ “sửu nhi” được những người có máu tiếu lâm dịch từ chữ “trẻ trâu” (bọn trẻ chăn trâu) để gọi lớp thanh niên mới lớn ít học, hoang đàng, lỳ lợm, và hay quậy phá              

TTO – Sủ Nhi đi làm ở Viện chữ Nhà nước chưa được nửa năm đã nhận 69 bằng khen, nghe nói còn sắp được cất nhắc lên làm viện phó trong vòng 3 tháng tới, nhằm vào kỷ lục viện phó trẻ tuổi nhứt châu Á – Thái Bình Dương.

Chuyện thăng tiến nhanh tuyệt đối chẳng phải vì Sủ Nhi là cháu ruột của viện trưởng, con trai của tỉnh trưởng, em vợ của phó bộ trưởng, mà hoàn toàn bởi tài năng xuất chúng của nó. Má nó, quá tự hào về thằng con đã phải đi thẩm mỹ viện nhiều lần, để thu gom cánh mũi lại, vì mũi phồng quá mức, bởi sự nở không ngừng.

Cả nhà Sủ Nhi hạnh phúc thì đương nhiên rồi, nhưng nhiều khi tự vả vô mặt mình, bởi tưởng đang mơ.

Ai mà dè được thằng nhỏ đã từng nhấn nước chết mèo, vặt trụi lông đuôi chó, cho gà nuốt dây thun, nhái tướng đi của bà Bốn Cụt bán vé số, chạy xe tạt nước cống vào người đi đường, cái thằng mà thiên hạ xúm nói “Cái đồ vô cảm đó chừng lớn lên chỉ có nước đi phá làng phá xóm…”, giờ lên tivi nhận giải công chức ưu tú trong lãnh vực cứu thua.

Chính Sủ Nhi cũng không thể tin được, bởi lưu ban suốt hồi phổ thông, và mảnh bằng đại học cũng do mua chợ đen mà có. Ngay hồi đầu năm thôi, nó mần thử phó giám đốc một bệnh viện, đã bị người ta vây đánh khi ưu tiên xếp lịch mổ bướu thịt cho một yếu nhơn, trong khi chục ca bịnh nặng ngàn cân treo chỉ đang chờ, với lý do “làm đúng qui trình”.

Vụ đó báo chí làm rùm beng teng xeng lên, khui luôn chuyện có lần nó bút phê vô bệnh án “Chết vì tắt thở”. May nhờ ba má nó dàn xếp kịp, nhưng nhờ vậy mà ông bác ở Viện chữ Nhà nước phát hiện ra nhân tài ngay trong nhà mình.

Sủ Nhi chính thức bước vô tòa lầu bự chà bá lửa, gia nhập vào đội quân gần một trăm viện sĩ, những người gần như cả đời gom não để sáng tạo ra những cụm từ, những câu chữ mang tính Nhà nước cao.

Thằng Sủ Nhi từng thắc mắc tính Nhà nước là tính gì, thì ông bác nói khó mà định nghĩa được. Sủ Nhi càng thấy khoái tỉ, bởi những thứ không có định nghĩa thì mông lung, nó làm sai bét cũng chẳng ai bắt bẻ. Nó linh cảm mình mà mần viện sĩ viện đó thì như xe cọp xoáy nòng, Ferrari đổ đầy xăng.

Vào buổi sáng đầu tiên nhận việc, Sủ Nhi nhận được đơn đặt hàng bên Sở Bảo Vệ, nhân viên của họ tung cước một tiếp viên trên máy bay, gái đó nằm vạ đòi xin lỗi. Và Sủ Nhi phán luôn khỏi cần nghĩ chi lâu: “Cứ nói mình duỗi cẳng cho máu chảy đều, là êm ru bà rù hết!”.

Nhưng Sủ Nhi khẳng định tên tuổi phải từ vụ gỡ bàn thua trông thấy cho Sở Cầu đường bởi cây cầu mới xây đã sập, nó phán:“Do biến động bất ngờ của dòng chảy cùng với độ lún khó lường của lòng sông”. Không học một ngày nào, nhưng thằng nhỏ nắm bắt nghề rất nhanh, bí quyết ở chỗ chữ phải có độ mông lung cao, và phải vô cùng linh hoạt.

Như khẩu quyết thần thánh của ông bác viện trưởng truyền lại, chữ của viện này phải như nước chảy không ai bẻ được, chữ phải như bóng không ai bắt được.

Một viện sĩ giỏi thì biết thay chữ “tụt hậu” bằng phát triển chậm nhưng mà chắc, cái đó Sủ Nhi phần năng khiếu từ trong máu, phần được ông bác viện trưởng truyền chiêu, nên nó cũng sáng tạo hơn người.

Sở Đi Lại để xảy ra bộn tai nạn xe cộ, Sủ Nhi cho mấy chữ:“Số lượng tai nạn trong khuôn khổ cho phép”. Chỉ nhiêu đó thôi mà phần thưởng của Sở không bị cắt xíu nào. Cũng vậy, Sở Sức Khỏe tai qua nạn khỏi sau 1 năm bệnh dịch tràn lan, chỉ bởi một câu của Sủ Nhi tháo cũi sổ lồng: “Tuy dịch bệnh xảy ra nhưng vẫn trong tầm kiểm soát”.

Tiếng tăm Sủ Nhi lên cao, Viện chữ Nhà nước càng được trọng vọng. Hôm kỷ niệm 80 năm lập viện, người ta khẳng định lần nữa sự đóng góp vô cùng bự của từng viện sĩ, giúp cho thiên hạ tránh được đại loạn, bởi mỗi tế bào não ưu việt của họ đã sản sinh ra bao cụm chữ lay động lòng người, xoa dịu vết thương, hàn gắn nỗi đau, như: “Lỗi do cơ chế”, “Sai sót trong thiện chí”, “Khuyết điểm mang tính khách quan cao”.

Viện trưởng, người góp phần sáng tạo ra những cụm từ mang tính mỹ cảm ngút trời ấy, vốn đau đáu lo lớp hậu sinh chưa có ai xứng đáng để giao viện lại, may phát hiện ra thằng cháu mình, cảm thấy ưng bụng vô cùng. Nhưng không phải là không chạnh lòng, khi mỗi lễ Tết về, khách nườm nượp đổ về phòng thằng cháu, nhằm bày tỏ lòng biết ơn, nhờ nó mà ghế ai cũng vững như bàn.

Ngoi lên cao, kẻ ghen ăn tức ở cũng nhiều. Có lần thằng Sủ Nhi bị họ bắt quả tang đang chơi xếp hình với chục ngoài mỹ nữ, ai cũng nghĩ phen này nó chết chắc, nhưng thế nào mà lỗi cuối cùng là do “Chưa được chừng mực trong công tác gần gũi quần chúng”.

Cũng năm đó, Sủ Nhi say rượu lái xe vô đường ngược chiều bị chụp hình đăng báo, trong bản kiểm điểm đầy nước mắt, nó kêu mình “Xác định phương hướng chưa được sâu sắc”.

Chỉ duy nhất một lần Sủ Nhi phải chịu thua, khi có một em ngắn ngủn tới nhà mang theo một que hai vạch bắt đền nó. Dù chữ nó có ảo diệu cỡ nào, kiểu như “Rút chậm một nhịp so với thời đại”, thì cuối cùng nó cũng bị em Ngắn nhốt vô tờ hôn thú, chỉ bằng một câu trần trụi hơn: “Tía tui là vụ trưởng, cưng tính sao thì tính!”. Sủ Nhi còn biết tính gì, đầu hàng vô điều kiện.

Ông Trời như thấu hiểu nỗi đau của nó khi có cô vợ ngắn quá cỡ, nên đền bù xứng đáng. Năm sau, Sủ Nhi một bước lên viện trưởng, bởi ai cũng thấy không cất nhắc nó sớm, là có tội với non sông!

 NGUYỄN NGỌC TƯ

From: Phan Sinh Trần

Một thời chinh chiến – Quan Dương-Truyện hay cuối tuần

 Nguồn từ Bùi bảo Sơn

Tháng 10/70 tôi theo đại đội di chuyển về chi khu Buôn Hô. Khi làn bụi đỏ mịt mù vừa lắng xuống, thị trấn Buôn Hô hiện ra trước mắt làm tôi chới với . Thị trấn gì đâu mà chỉ có một nhúm nhà tole thấp lè tè nằm phơi mình dưới nắng, xa hơn tí nữa là những dãy nhà sàn của người thiểu số . Còn đang ngơ ngác thì bị pháo kích. Nghe tiếng đạn bay sèn xẹt trên đầu tôi hoảng hồn nhảy đại xuống một chiếc hố cá nhân ngồi núp. Mấy người lính thuộc quyền đứng phía trên cười ngất, tôi ngạc nhiên hỏi lý do cười, họ bảo :

– Tiếng đạn đi như thế nó không rớt trúng mình đâu, chuẩn úy đừng sợ

Quả như thế thật. Trái đạn rơi cách xa chi khu hơn nửa cây số. Nhưng tiếng sợ làm tôi bị chạm tự ái. Dù gì tôi cũng là cấp chỉ huy. Thế là tôi bèn nhảy phóc lên đứng hiên ngang tỏ vẻ mình ngon lành . Một tiếng khác bay vèo tới , nghe tiếng riu ríu trên đầu tôi ngước cổ lên nhìn . Nhưng đám lính lần này nhanh hơn con sóc . Thoáng một cái họ đã ở dưới hầm chiến đấu gọn gàng . Một bàn tay kéo tôi té nhào theo .

– Chuẩn úy ơi khi nào tiếng đạn bay nghe kin kít như đàn bà nghiến răng đánh ghen thì lo mà chui vào hầm ngay vì nó sẽ rớt rất gần mình đó .

Chưa kịp quay qua cự nự nghe nói thế tôi bèn im . Quả đạn rớt ngay vòng rào . Bụi đất cát đá bay phủ đầy trên miệng hầm . Tôi nghe rõ tiếng loảng xoảng của mảnh đạn chém vào mái tole của chi khu . Một mảnh đạn nhỏ bay sượt ngang gò má, tôi nghe ran rát như bị móng tay ai cào. Thế là còn đang chân ướt chân ráo mùi mực thư sinh chưa kịp phai, tôi đã lãnh thẹo . Đúng là lãng xẹt. Bài học đầu tiên của chiến trường đã dạy cho tôi nhiều kinh nghiệm đáng giá sau này. Hôm nhận trung đội, đứng trước 23 người lính thuộc quyền xì xào mặt ông chuẩn úy này còn búng chảy ra sữa chắc mới rời vú mẹ quả chẳng sai . Nhưng thực sự vết thương trên mặt tôi không chảy ra sữa mà chảy ra máu . Đó là những giọt máu đầu tiên tôi đã đổ ra trong đời quân ngũ . Khi bị chảy máu người đầu tiên tôi nghĩ đến là má tôi . Má giờ này ở Ninh Hòa chắc không biết thằng con đang trở thành người lớn. Bây giờ mỗi khi soi gương nhìn vết sẹo theo thời gian cộng thêm da mặt xếp ly nên chỉ còn thấy lờ mờ , lòng tôi sống lại cảm giác nao nao. Vết sẹo vẫn còn đây nhưng người cũ đâu hết rồi? Nhớ những đồng đội thuở nào mà sau này đã gắn bó cùng tôi suốt mấy năm trời ròng rã .

Tôi ra đơn vị nửa năm sau là đến tết . Để mong muốn có một cái tết yên lành, thiếu tá chi khu trưởng quyết định đưa hai khẩu pháo 105 ly trú đóng trên một ngọn đồi cách quận lỵ 14 cây số . Tôi có nhiệm vụ phải dẫn trung đội theo làm vòng đai. Lần này thì thực sự chơi với khỉ vì chung quanh là rừng núi bạt ngàn không có một bóng dáng người dân. Lúc mới đến Buôn Hô chê lên chê xuống, giờ lên nằm cố thủ đỉnh đèo Kati mới thấy hết dám chê ỏng chê eo. Buôn Hô coi vậy mà dù sao cũng còn có vài ba cô gái Thượng đen đúa chọc đỡ ghiền. Những sợi lông tơ trên mép giờ đã biến thành râu mọc khiêm nhường hai chùm ở hai bên . Dưới chóp mũi là những sợi lông lờ mờ lưa thưa giống như quẹt lọ nghẹ. Nhưng không để râu thì không thể được vì đám lính thuộc quyền chê là con nít. Rừng rú có ma nào thèm nhìn thành ra tôi quyết định không cạo. Chính quyết định này mà về sau hàm râu đúng là hại bạn khi tôi gặp Luận .

Nằm trên đỉnh Kati thét rồi rồi cũng có ngày tôi theo chiếc xe dodge đại đội về thị trấn để nhận tiếp tế. Việc đầu tiên khi về đến Buôn Hô lủi vô chợ để kiếm một ly cà phê vớ uống cho ấm lòng chiến sĩ (cà phê vớ là cà phê được người Thượng đựng trong chiếc vớ bỏ vào ấm nước nấu sôi lên xong chế ra ly chứ không dùng phin vì có phin đâu mà dùng). Đang nhấp nháp thì chợt tôi trông thấy một cô gái người kinh. Giữa một rừng người Thượng đen đủi, bóng dáng cô gái nổi lên như một vì sao giữa đêm tối trời. Cô gái bán mấy món hàng tạp hóa lặt vặt được bày trải trên một tấm ni lông. Chẳng có món nào để tôi có thể tìm cớ mua được. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở dễ gì tôi bỏ qua . Thế là tôi bèn mò tới ngồi chồm hổm trước mặt cô chủ. Dọ hỏi tên họ thì được biết tên Linh 18 tuổi . Thấy tướng tá của tôi râu ria không cạo, câu chào đầu tiên là : chào chú . Tôi thì bước vào tuổi 21 . Cách biệt nhau chỉ khoảng ba tuổi bị gọi bằng chú hơi ức . Tôi bèn mua một hộp dao lam. Linh hỏi chi vậy. Tôi đáp phen này thề quyết xuống tóc cạo râu để không bị gọi bằng chú. Đêm đó về đồn tôi cạo râu nhẵn thín . Mặt mũi lâu ngày được “ giải phóng “ nhẹ nhõm hẳn ra. Đám lính thấy thế tủm tỉm cười . Sau khi cạo râu xuống trình diện Linh, tưởng được xuống cấp anh ai dè Linh vẫn gọi bằng chú. Lần này lại kèm theo tiếng cháu khi xưng hô cho chắc ăn để phân định rõ ràng vai vế .

Mùa mưa bụi đất đỏ biến thành bùn nhão nhẹt theo bám gót giày nặng trịch. Lớp bùn thật lì lợm bám chặt đến nỗi phải dùng lưỡi lê nạy mới ra. Tôi cũng lì không kém. Dựa vào vai vế người lớn, tôi hiên ngang xuống chợ la cà. Bao nhiêu tiền lương mua hết cái này cái nọ đến độ Linh không còn hàng để bán :

– Mua hàng chỉ là cái cớ, tiền lính đâu có bao nhiêu chú nên để dành uống cà phê. Có rãnh thì xuống ngồi chơi với cháu cũng được không có sao đâu

Linh gọi tôi bằng chú, tôi không có lý do để xưng anh . Nhưng chú đứng cạnh cháu trông thiệt xứng đôi vừa cặp . Tuy thế tôi vẫn không thể xác định được rõ ràng tình cảm của tôi dành cho Linh là thứ tình cảm gì? Hình như tôi thương mến Linh bằng một thứ tình thân thiết ruột rà như anh với em. Chắc có lẽ hai đứa tôi cùng là người kinh, cùng xa quê, vì thời thế phải lưu dạt lên tận miền cao heo hút nên cần thiết nương tựa vào nhau .

Hè đến, tôi gặp Luận. Luận là cháu ruột Linh, gọi Linh bằng cô và chỉ thua Linh có một tuổi ( nghĩa là thua tôi 4 tuổi). Luận học ở Ban Mê Thuột nghỉ hè lên Buôn Hô thăm cô . Lần này thì tôi thực sự bị tiếng sét ái tình đánh trúng . Khi thấy Luận ngồi với Linh tôi mơ hồ dường như cô bé này tôi đã gặp ở đâu đây . Hồn tôi xính quýnh . Luận gọi Linh bằng cô nên suy ra gọi tôi bằng ông cho lễ phép ( vì tôi tụ trì ở vai vế chú của cô) . Xưng hô tréo cẳng ngỗng như vầy thì làm sao mà cua ? Rõ ràng bước đầu không thuận lợi. Nhưng sét đã đánh trúng rồi cho dẫu chết cháy, ông cháu gì tôi cũng phải liều mạng nhào vô .

Luận có một cái nốt ruồi duyên trên gò má phải. Tất cả nét đẹp dịu dàng tự nó toát ra không hề có một tí make up nào dính vào . Giọng nói của Luận nhẹ nhàng như chim hót . Nhất là khi Luận nói tiếng Thượng với những người dân tộc thiểu số, nghe líu lo ríu rít . Tôi không biết tiếng Thượng, tôi không hiểu được tiếng chim, nhưng âm thanh phát ra từ hai bờ môi xinh xắn kia bảo đảm nghe du dương hơn tiếng nhạc .

(Sau này ở Mỹ mỗi sáng trước khi đi làm có con chim đứng trên ngọn cây trước nhà thức dậy líu lo thay cho lời chào ” good morning” thế nào tôi cũng đứng lại chậm năm ba phút để mà thưởng thức . Tôi đem điều này kể cho bà xã tôi nghe . Vợ tôi hỏi:

– Anh có biết tại sao con chim nó hót nghe ngọt ngào trong trẻo hay không?

– Tại sao ?

– Là vì nó không phải nấu ăn, không phải giặt đồ, không phải rửa chén, không phải clean up nhà cửa , không phải đau đầu vì cái tật làm biếng , bày đâu xả rác đó , nhất là không phải nghe những câu hỏi vớ vẩn giống như anh

(Xét ra, lý lẽ của bà xã đúng vô cùng , hèn chi được tôi tin tưởng bâu vào chức vụ thủ lãnh của mình và dám con )

Sống trên rừng núi âm u, khí hậu ẩm thấp quanh năm lính tráng đứa nào cũng phì phèo điếu thuốc. Có chuyện gì vui : chia nhau điếu thuốc . Có chuyện gì buồn : chia nhau điếu thuốc . Tiễn đồng đội ra đi : cũng là điếu thuốc thay nhang . Điếu thuốc vì thế trở nên gắn bó . Khi sống ở Mỹ hành vi duy trì hút thuốc là một hành vi bị bà xã và đám con tôi biểu tình phản đối vì nó lạc hậu có hại cho sức khỏe . Tôi ghi nhận ý kiến phản đối hợp lẽ với nếp sống văn hóa cao đó , nhưng vẫn cứng đầu làm người lạc hậu . Nghĩa là hút thuốc dài dài . Hút trường giang không được thì hút lén , bị cấm giữa đám đông thì tìm nơi nào vắng vẻ mà hút. Nghĩ cho cùng đời tôi gắn bó với điếu thuốc chừng ấy năm , chừng ấy kỷ niệm dễ gì một sớm một chiều là có thể dứt bỏ được? Quãng thời gian còn lại là bao ngày , hơi đâu lo . Số mạng đâu có phải mình muốn sao là được vậy . Có ai biết được ngày mai ?

Hồi đó đám lính tráng cùng đại đội đa số hút Ruby quân tiếp vụ hoặc Basto xanh. Chỉ riêng mình tôi là hút Pall Mall. Không phải tôi xài sang mà vì điếu thuốc Pall Mall nó dài hơn các loại thuốc thường lại thẳng thớm quấn bằng loại giấy trắng trẻo có độ dai, mỗi khi viết chữ lên đó dễ đọc, ngòi bút bi cũng khó làm rách giấy. Tiện lợi nhất là vì nó dài nên số chữ viết lên đó được nhiều hơn là viết trên điếu ngắn. Quen với Luận một thời gian, chứng tỏ lòng thành cách mấy cũng không được gọi bằng anh, tôi tức lắm . Dưới sự nhận định đầy kinh nghiệm tình trường tôi cảm nhận được rõ ràng Luận đang kín đáo lo lắng cho tôi. Những tuần bận hành quân không xuống chợ Luận nhấp nha nhấp nhổm hỏi thăm . Tình cảm của tôi dành cho Luận đâu khác gì? Không máu mủ, không bà con , mắc chi lên chức ông với cháu cho khó ăn khó nói ? Khó nói bằng lời thì phải nói bằng cách viết thư , tôi là đàn ông con trai đương nhiên phải ra tay trước . Trâu tìm cọc chứ ai đời cọc lại đi tìm trâu ? Sẵn gói Pall Mall trong túi áo tôi đánh số từ 1 đến 20 , thế là cứ trên mỗi điếu tôi nắn nót một câu thơ tống tình thiệt là lâm ly bi đát. Thực hiện xong ý định tôi cho ngay ngắn vào gói . Xét theo chiến lược, viết thư trên tờ giấy trắng gấp lại khi gửi, sợ e lộ liễu quá Luận sợ không dám cầm, không gây được yếu tố bất ngờ về phía đối phương. Trong chiến thuật yếu tố bất ngờ là yếu tố then chốt quyết định mỗi trận đánh. Dùng điếu thuốc là yếu tố bất ngờ. Tôi là dân nhà binh, nên phải áp dụng yếu tố bất ngờ đó vào trận này. Mục tiêu là Luận .

Khi tôi móc từ trong túi ra gói thuốc, Luận hỏi:

– Cái gì đây ?

– Gói thuốc

– Cháu đâu có hút thuốc , ông đưa cháu làm gì?

– Chú muốn cai thuốc nhưng vất đi thấy uổng gửi Luận cất giùm

– Ông mà cai thuốc có mà trời sập

– Trời cũng sắp sập rồi đó cô bé . Cất cho kỹ đừng cho ai thấy nhen .

Luận ngây thơ nghe tôi nói sao tin vậy đem gói thuốc cất kỹ. Còn tôi thì hồi hộp chờ kết quả . Hai ngày sau , tôi mò xuống chợ. Thấy trên môi tôi vẫn còn điếu thuốc đang phì phèo , Luận nói:

– Ông đã bảo cai thuốc sao còn ngậm cái gì thế kia ? Hay là cháu trả lại cho ông gói thuốc ông đã gửi nhé .

Tôi vội vàng xua tay. Thì ra cô bé không tò mò mở gói thuốc ra xem. Ăn gian không được thì bỏ. Tôi hì hục viết thêm lá thư thứ hai. Khi đưa cho Luận kỳ này tôi đóng khuôn mặt thểu não hơn trước (cũng không quên ma giáo hơn trước)

– Chú lục trong ba lô thấy còn sót lại một gói . Luận trót giữ gói kia thì giữ luôn gói này luôn một thể cho có đôi có cặp

– Cháu đã nói rồi. Ông mà bỏ được cháu cạo đầu đi tu liền

– Luận có biết tại sao chú ghiền thuốc lá không?

– Không

– Ý nghĩa của điếu thuốc rất đặc biệt . Nó mang một sứ mệnh . Chỉ những ai có duyên phận thì ý nghĩa đó mới hiện ra .

– Gì mà ghê gớm vậy ?

– Không tin tối nay về nhà Luận thử mở ra sẽ thấy .

– Đâu cần tối nay . Cháu mở ra liền bây giờ . Ông coi nè .

Luận rút ra một điếu , hết hồn khi thấy trên đó có những chữ viết li ti . Khẻ bật lên tiếng kêu ngạc nhiên Luận chợt hiểu ý đồ của tôi, hai gò má nàng ửng đỏ :

– Cháu sợ

Gươm đã rút ra khỏi vỏ đâu dễ gì tra vô. Tôi hỏi:

– Luận sợ gì ?

– Luận không biết .

Đang từ cách xưng hô bằng cháu, Luận hạ giọng xuống xưng tên , tôi nắm phần chắc ăn được khoảng 70%. Phần 30% còn lại chỉ cần điều động hai con mắt biểu diễn làm sao đó thật “thê thảm” khi nhìn vào đối phương, bảo đảm đối phương chạy trời không khỏi nắng. Trong khoảng thời gian vài ba cái tích tắc của đồng hồ , khi tôi chưa kịp thực hiện trò ma mảnh đó thì cảm xúc không biết xuất phát từ đâu dâng lên trong lòng tôi ào ạt. Hai con mắt rơm rớm, tôi nhìn thẳng vào Luận một cách thiết tha, cái nhìn chân thật của một người yêu một người, cái nhìn sẵn sàng xả thân. Tóm lại những gì tôi biểu hiện ra ngoài nét mặt đều phát tiết từ con tim chân thành chứ không nằm trong kế hoạch dự trù. ( lại nghiệm ra thêm một chân lý : không thể dùng lý trí để mà cãi lý lẽ với con tim ). Tôi run giọng nói với Luận :

– Những gì anh muốn nói với Luận anh đều viết trong hai gói thuốc. Anh hy vọng sau khi đọc xong Luận sẽ hiểu

Tự nhiên tôi xưng anh ngon lành. Nhưng mặc kệ bất kỳ Luận nghĩ gì, tôi quyết định sẵn dịp này xuống chức làm “anh ” chứ không thèm làm “ông ” nữa .

– Luận không biết

Lại không biết. Những tiếng “không biết” nghe sao mà dễ thương . Dễ thương ở chổ không phản đối tiếng anh khi tôi chuyển hệ và không gọi tôi bằng ông xưng cháu nghe chói tai như trước. Đảo hai con mắt một vòng chung quanh chợ thấy không có ai , tôi làm bạo nắm tay Luận , Luận sợ hãi rụt lại , nhưng sau đó để yên run rẩy. Tôi 21 Luận 17 hơn nhau có bốn tuổi , nhưng khi tỏ tình với Luận giống y như ông già đi dụ dỗ con nít . Chắc có lẽ tại vì tôi sớm lăn vào vùng sương gió nên kinh nghiệm già trước tuổi , còn Luận dù sao cũng chỉ là một bông hoa đồng nội mộc mạc đơm lên từ chốn thâm u cùng cốc. Nhưng tình cảm tôi dành cho Luận không hề giả trá, đó là tình yêu chân thật phát xuất từ trái tim.

Hôm sau tôi lại xuống núi ( tôi đóng quân trên ngọn đồi , nên khi xuống chợ gọi là xuống núi). Luận trong chiếc áo bà ba màu trắng, thấy tôi từ xa khuôn mặt Luận rạng rỡ hẳn lên

– Đọc thư anh viết chưa

– Không biết

– Nghĩ sao

– Không biết

Thuở đó chưa có câu hát ” con gái nói không là có “, nhưng tôi biết những tiếng trả lời không biết của Luận có nghĩa là có biết

– Nhưng em sợ cô Linh buồn

Tự giác xưng em ngọt xớt . Chợ miền núi tuy nhỏ bé tí tẹo nhưng vẫn có lác đác vài ba chục người dòm ngó chứ nếu không thì tiếng em ngọt ngào kia thế nào cũng bị tôi thưởng cho một chục cái hôn là ít . Sau này có một lần tôi canh vào lúc trời chạng vạng tối vắng người , tôi ôm Luận và hôn trên đôi môi đó . Khi ” bị” tôi hôn hai con mắt Luận nhắm nghiền lại . Luận chưa biết cách hôn đáp trả . Đã thế khi tôi hôn xong Luận lại còn đưa tay lên chùi hai bên mép một cách vụng về lúng túng . Cử động phũ phàng đó không làm tôi phiền lòng mà ngược lại tôi rất vui vì nó chứng tỏ lần đầu tiên đôi môi Luận được áp vào bởi đôi môi của người khác phái .

– Em là cháu của cô Linh , ở cùng chung nhà , chắc em cũng hiểu rõ tình cảm của anh dành cho Linh không giống như tình cảm của anh dành cho em phải không? Anh sẽ giải thích với Linh sau

Sau này Linh nói với tôi như một lời gửi gắm :

– Luận tuy 17 nhưng hãy còn con nít lắm, mong chú thật tình, đừng làm nó khổ

– Chú hứa

( xưng chú với người cô , xưng anh với người cháu mất cả tôn ti trật tự , nhưng ai bảo Linh gọi tôi bằng chú ráng chịu)

Luận tặng tôi một chiếc còng nhỏ đeo vào cườm tay làm bùa may mắn . Chiếc còng chỉ là một thanh đồng được uốn tròn lại . Người Rhadé dùng để tặng cho nhau biểu hiện ký thác niềm tin . Tài sản của người Thượng được định giá bởi những cái ché , những con trâu những con bò, họ dùng dao nhọn khắc lên chiếc cong một vạch mỗi khi mua được thêm một cái ché hoặc một con trâu hay bò đó. Nhìn những vạch được khắc trên chiếc cong thì biết người chủ chiếc cong giàu hay nghèo. Chiếc cong Luận tặng, tôi khắc lên đó một vạch mỗi khi tôi nhớ. Những khi nào mắc bận hành quân không xuống chợ được nghĩ đến Luận, tôi dùng lưỡi lê dồn lên nhiều vạch. Sau khi đi hành quân về tôi đem chiếc cong xuống khoe. Luận cảm động nhưng thường chống chế :

– Anh xạo ghê

– Anh xạo nhưng xạo đầy chân thành

– Xạo cũng có chân thành nữa sao

– Có chứ

– Làm sao để phân biệt ?

– Nhìn vào mắt

-Nhìn vào mắt ?

– Phải. Người xạo chân thành ánh mắt họ thẩn thờ, hai tròng đen đứng yên một chỗ

– Còn giả dối ?

– Xạo giả dối thì hai tròng đen chạy qua chạy lại không hề đứng yên .

– Xạo . Xạo Xạo

Luận cười sung sướng . Nhìn Luận cười rạng rỡ , bước phong sương của tôi tưởng chừng như muốn mỏi . Tôi muốn dừng chân . Tôi muốn có một mái ấm gia đình trong đó chỉ có tôi và Luận .

Nhưng Luận thì còn quá nhỏ . Còn tôi đang là một chiến binh , tương lai mù mịt không biết chết sống giờ nào .

Trong ba lô mỗi khi đi hành quân tôi thường bỏ vào đó một cây thuốc Pall Mall ( một cây 10 gói , một gói 20 điếu) , Mỗi lúc dừng quân tôi làm thơ trên mỗi điếu thuốc . Điếu nào câu thơ ưng ý thì tôi đánh số thứ tự để Luận còn biết đường mà đọc . Điếu nào viết dỡ thay vì vứt đi thì tôi hút .Vừa tiện vừa lợi . Vừa lãng mạn, vừa thực dụng .

Đêm 27 rạng sáng ngày 28/01/73 lợi dụng hiệp định ngừng bắn Paris vừa hiệu lực việt cộng mở một cuộc tấn công chiếm Hà Lan đánh thẳng vào Buôn Hô . Đại đội tôi tham chiến. Đại úy đại đội trưởng tử trận. Đại đội phó bị thương . Tôi tạm thời nắm quyền đại đội . Giằng co mãi đến cả tháng sau Hà Lan mới được giải tỏa. Buôn Hô đã vốn tiêu điều, khói lửa chiến tranh càng làm thêm xơ xác . Tôi trở lại tìm Luận và Linh. Dân chúng đã chạy sơ tán hầu hết . Chỉ còn sót lại một số ít người dân tộc thiểu số. Tôi không biết Luận và Linh đang ở đâu? Pleiku ? Thuần Mẫn? Ban Mê Thuột? Địa thế Buôn Hô tọa lạc trong cái lòng chảo, ngửa mình nằm trên một con đường duy nhất nối liền Ban Mê Thuột – Pleiku , còn chung quanh là rừng và núi . Đầu con đường về hướng đông là Hà Lan đang xảy ra chiến trận, chỉ còn một lối cho dân chúng chạy giặc ngược lên đó là Thuần Mẫn hoặc Pleiku . Đơn vị tôi sau khi lâm trận đang bận chỉnh đốn, tôi không thể bỏ đi . Còn Luận thì chắc chắn không biết đơn vị tôi đang di chuyển về hướng nào để liên lạc vì nguyên tắc nhà binh luôn luôn bảo mật lệnh di quân. Kế tiếp tôi được thuyên chuyển về phòng 1 tiểu khu Darlac. Lúc quen với Luận tôi nghe phong phanh nhà Luận ở đường Hai Bà Trưng . Suốt một tháng trời tôi quầng nát cả một khúc đường , nhưng bóng chim tăm cá. Rồi thì lệnh của quân đoàn 2 chỉ định tôi biệt phái qua CSQG . Tôi nhận sự vụ lệnh giã từ Ban Mê Thuột để về trình diện Bộ chỉ huy CSQG Khu 2 (Nha Trang) . Tôi được gửi đi học một khóa nghiệp vụ tại Cam Ranh. Khi mãn khoá tôi được đổi ra Bình Định.Tất cả mọi sự việc xảy ra quá nhanh với một tốc độ dồn dập làm tôi trở tay không kịp .

Trong khi tôi chưa có được nghỉ phép để trở lại Buôn Hô tìm Luận thì biến cố 30/04/75 ập đến . Thế là tôi bặt tin Luận . Xem như tôi là một kẻ phụ tình . Trước đây tôi cũng đã từng yêu và từng bị phụ tình , Khi bị bồ đá lòng tôi vô cùng đau đớn , cứ tưởng không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau bị đá . Nhưng khi tôi phụ tình Luận trong lòng tôi còn đau hơn thế nữa . Phụ người cả là một ray rứt vô bờ. Tôi đâm ra thông cảm được nỗi khó khăn của những người phụ tôi . Chắc họ không vui sướng gì khi quyết định chia tay.

Chiều nay xứ người nơi cách chiến trường xưa nửa vòng trái đất, những cơn mưa đầu hạ rơi hoài không tạnh . Hai bàn tay xoáy chặt lại với nhau, tôi nhìn những mảnh vụn của gỗ cây mục từ cánh rừng trước nhà bị mưa cuốn đi trong dòng nước, rồi lẩn thẩn nghi vấn : những mảnh gỗ vụn kia sẽ trôi qua bao nhiêu ải trạm của mệnh số để ra sông trước khi tuôn về biển? Hay chỉ trôi tạm trên cõi đời này trong một cơn mưa để rồi bị vùi dập vào một ống cống hay một đường mương cống rãnh nào đó? Và nỗi nhớ có như những mảnh vụn kia trôi qua bao nhiêu phiền muộn, trôi qua bao nhiêu sóng gió của tai ương? Trong đầu óc trống trơn khô héo này bừng bừng lên cái không có. Cái không còn gì cả .

Hay chỉ là những cảm xúc thoáng ẩn hiện qua cuộc sống quá khô khốc này? Tôi chẳng tìm được ra câu giải đáp, chỉ biết rằng bỗng chiều nay chiến trường xưa mưa bay chập chùng. Bỗng chiều nay rưng rưng trong tôi nỗi nhớ .

Quan Dương

Hình chụp năm 1974

From: Phan Sinh Trần

Có Một Người – Truyện ngắn

Câu chuyện tưởng chừng như một đoạn phim hay, hoặc một đoạn văn hư cấu hấp dẫn của một nhà viết tiểu thuyết. Nhưng không. Đây là một chuyện thật I00%. Cả nước Pháp, từ trí thức đến bình dân, đều biết. Trong nước, ngoài nước – đều biết.

Có Một Người

Bị tình phụ, vợ bỏ theo trai – theo một thằng nhóc tì 15 tuổi, học trò của mình và tuổi đáng con mình – bỏ lại mái ấm gia đình hạnh phúc với ba con và một ông chồng có địa vị, hiền lành đứng đắn, rất mực yêu vợ, thương con. Trước cảnh ngộ đau lòng vợ bỏ ông ra đi theo tình nhân mới mà ông không một lời oán trách, cũng không lên tiếng phàn nàn ồn ào, nói xấu vợ minh như thường tình thiên hạ mà âm thầm, lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nhục hy sinh cho vợ được hạnh phúc trọn vẹn trong tình yêu mới. Sự nhẫn nhục phi thường nầy đã làm nên tên tuổi ông. Thói thường, người ta hay có cái nhìn hướng ngoại, nhìn người khác mà phê phán, nhưng ít ai quay lại nhìn chính mình để tìm hiểu khuyết điểm của minh. “Người nầy” khác hẳn người khác, quay lại nhìn mình trước tiên, tìm xem minh có những khuyết điểm gì? Có phải vì mãi lo sự nghiệp mà lơ là, thiếu sự âu yếm thương yêu, thiếu sự chăm sóc chiều chuộng vợ để vợ mình phải đi tìm tình yêu mới. Nghĩ là lỗi tại minh nên ông tự sửa làm một người chồng thật tốt, khắc phục mọi khuyết điểm, để mong vợ trở về sống hạnh phúc với ba con. Nhưng vô vọng.

Alfred de Musset & George Sand

Những cuộc tình éo le, ngang trái nầy không phải chỉ “CÓ MỘT NGƯỜI” mà dẫy đầy trong văn học Pháp cũng như Việt Nam. Lấy một thí dụ điển hình: * Alfred de Musset: Đêm tháng năm (Nuit de Mai) – đêm đau đớn nhứt đời ông vì nữ sĩ Amantine Aurore Lucile Dupin (tức George Sand) đã từ giả ông sau những ngày tận hưởng hạnh phúc lãng mạn, yêu đương nồng cháy, tắm nắng thi ca, lặn hụp trong biển tình ân ái. Trên đời có gì đau khổ hơn bị người yêu cắm sừng trên đầu, rồi ôm cầm sang thuyền khác. Nhà thơ Alfred de Musset thể chất vốn yếu đuối,“tiên thiên bất túc”, đau khổ rên rỉ khóc than như điên dại, loạng choạng bước đi trong bóng đêm tháng năm (Nuit de Mai) – đêm của sự đau khổ chia ly pha lẫn với nỗi buồn cô độc, của nước mắt khổ đau rơi xuống cõi lòng tan nát và những ngày hạnh phúc yêu đương đã xa rồi và bị thay thế bằng sự trống vắng cô đơn đang dày xéo tâm hồn.

Đang đau khổ cùng tột, bỗng có tiếng gọi từ cõi xa xăm vọng lại như tiếng gọi thiêng liêng của người chị an ủi vỗ về, tiếng thì thầm tình tự của người yêu chia sẻ: Hãy đứng dậy, gào thét lên tiếng kêu tuyệt vọng! Đừng làm con đà điểu gục đầu rên rỉ khóc than. Không gì làm chúng ta vĩ đại bằng sự đau khổ. “Rien ne nous si grands qu’une douleur” Đó là tiếng gọi của nàng Muse (Nàng thơ) đã giúp chàng thi sĩ đang ở trạng thái cùng cực của sự đau khổ mà đứng dậy dựa vào đau khổ để biến nó thành những câu thơ bất hủ:
Les plus désespérés sont les chants les plus beaux
J’en sais d’immortels qui sont de purs sanglots
(Alfred de Musset)

Và ngày nay thơ không chỉ giúp cho nhà thơ vượt qua nỗi khổ đau khi bị tình phụ như Alfred de Musset hay dằng dặc buồn thương tiếc nuối như T.T Kh, yêu thầm trộm nhớ như Félix Arvers – mà thơ ngày nay từ 45-54 trở về sau): “Thơ là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho người thất thế, từ đó đứng lên làm lại cuộc đời” (Nguyễn mộng Giác giới thiệu Tạp chí Khoa Hữu). Phùng Quán cũng lên tiếng “Có những phút ngã lòng, ta hãy vịn câu thơ mà đứng dậy”. Và từ đó, những nhà thi sĩ, trong những giây phút ngã lòng, hoặc khi bị thất thế, bị tù ngục, đều lấy câu thơ làm chiếc nạng hay dựa vào câu thơ mà đứng dậy như Trần Dần, Hoàng Cầm, Nguyễn chí Thiện, Phùng Cung, Phùng Quán v.v…

Hãy trở về “Có một Người” – dù trên đầu đã mọc lên cái sừng to tướng, dù trái tim còn ri rỉ máu nhưng vẫn âm thầm. im lặng chịu đựng với sự nhẫn nhục phi thường. Vết thương lòng hằn sâu tận xương tủy nhưng ông lấy sự nhẫn nhục làm phương châm, nên sau khi ly dị bà Brigitte, ông rời Amiens và chọn cách sống ẩn dật tại một vùng ngoại ô Paris và ít xuất hiện dù là những buổi tiệc gia đình với các con (Web Hoa xương rồng).

(Tổng Thống Emmanuel Macron và vợ: Bà Brigitte Trogneux)

Ngày lễ đăng quang vị Tổng Thống đẹp trai, tài năng, trẻ tuổi nhất nước Pháp với 21 phát súng thần công, với trên 500 quan khách tham dự gồm những nhân vật tâm tiếng như cựu Tổng Thống Francois Hollande, Tổng Thống Nicolas Sarkozy và các nhà tai mắt đại diện cho tầng lớp dân chúng Pháp. Tổng Thống E. Macron không muốn làm ồn ào tốn hao công quỷ mà chỉ thực hiện các thủ tục thật giản dị tại điện Élysée. Dù vậy, cũng không thể thiếu những cuộc duyệt binh trong khuôn viên điện Elysée, đội quân nhạc cử hành bản “La Marseillaise” hùng hồn vang dội một góc trời. Đây là ngày toàn dân Pháp reo hò ăn mừng có vị Tổng Thống mới tài năng trẻ tuổi nhứt nước Pháp. Tổng Thống E. Macron đọc một bài diễn văn ngắn gọn, đầy ấn tượng, chào mừng các quan khách và dân chúng với chương trình ông sẽ làm cho dân nước Pháp.

Trong khi nhiều thành phố dân chúng tổ chức reo mừng, lễ đăng quang rộn ràng lời chúc tụng, nhạc quốc ca hùng hồn vang dội một góc trời thì “CÓ MỘT NGƯỜI” buồn ủ rũ, viết một lá thơ “Thơ cuối ngày gửi em Brigitte”. Bài thơ hay, lời lẽ cảm động, gây một ấn tượng sâu sắc, một rung động cảm thương cho số phần người chồng cũ của bà Brigitte:

(Ông André-Louis-Auzière – một banquier tại Amiens Pháp
chồng cũ của bà Brigitte Trogneux)

Đây là lá thơ cuối ngày gửi em Brigitte:

“Cả thế giới hồi hộp theo dõi những gì đang diễn ra tại điện Elysée. Anh phải đóng cửa ngồi một mình trong ngôi nhà ngoại vi thành phố. Vậy mà tiếng tivi vẫn cứ vang lên trong từng căn phòng nhỏ. Người Pháp đang đón chào Macron – vị Tổng Thống trẻ trung nhất lịch sử nước mình.

Chắc là em không còn tâm trí nào để nghĩ đến anh
Cái tên André – Louis đã bị xóa rất lâu rồi trong bộ nhớ
Nhưng anh không thể quên Trogneux tóc vàng một thuở
Những thanh chocolate vùng «Rua » đâu dịu ngọt bằng nàng
Anh nhớ lại những buổi chiều anh phải lang thang
Chạy khắp mọi nẻo đường Paris để tìm cho con hộp thuốc
Chỉ mười năm với ba đứa con có được
Ba đứa con – minh chứng cho tình yêu chúng ta – đẹp hơn cả thiên thần
Anh không ngờ chuyện bắt đầu từ một ngày em đòi ly thân
Rồi em nhất quyết kêu anh ra tòa bằng cái đơn ly dị
“Không thực sự hạnh phúc”- em tự nhiên nói thế
Cuối cùng anh phải chiều em thôi
Vì anh biết em đã tìm thấy một phương trời
Cứ như Newton bất ngờ tìm ra định luật quả táo rơi
Em ngỡ ngàng tìm ra một chàng trai kém minh hai con giáp
Cũng chẳng có gì bất thường (nhất là nước Pháp )

Song gia đình của chúng ta thì lại giống bao gia đình kia tất thảy ở trên đời
Em đã có một mái nhà, một mái ấm đó thôi
Dù ai đó cao siêu Là hoàng tử, là nhà vua, hay Chúa Trời đi nữa
Em nên nhớ chữ Thủy Chung là muôn đời muôn thuở
“Công chúa lấy thằng bán than”, cũng theo nó lên rừng
Có thể em đang mơ một sự nghiệp lẫy lừng
Tổng Thống với Đệ Nhất Phu Nhân tâm đầu ý hợp

Hai mốt phát đại bác vang trời, em choáng ngợp
Tiếng khóc trẻ thơ năm xưa mới đúng nghĩa gia đình
Thật buồn trong giây phút nầy chỉ anh nghĩ đến anh
Nhưng bỗng thấy ấm lòng
Khi Sébastien, Laurence, Tiphani vừa nhắn tin cho bố
“ Chúng con yêu bố ngàn lần,
Bố hãy tin điều này bố nhớ
Lát nữa, tan cuộc tại điện Elysée, chúng con sẽ về nhà
Cuộc sống sẽ thực sự bắt đầu với bốn bố con ta”
(André- Louis- Auzière)

Nhân vật chính trong khúc phim nầy là cặp Emmanuel Macron và Brigitte Trogneux. Họ đã sánh bước vinh quang vào điện Elysée, trước sự reo hò nồng nhiệt của dân chúng ủng hộ vị tân Tổng Thống trẻ tuổi, tài năng của nền Cộng Hòa nước Pháp. Có một người đứng sau cuộc tình nầy đang đau khổ cực kỳ nhưng lặng lẽ âm thầm chịu đựng, hy sinh với một sự nhẫn nhục phi thường. “Có Một Người”, Người ấy là ai?

Một gia đình hạnh phúc:

Tại Amiens – một thị trấn ở phía Bắc nước Pháp – có một gia đình trí thức: Cha trước làm nghề kiểm toán nhà nước, người con theo học ngành Ngân Hàng. Sau khi tốt nghiệp Đại Học, người con làm việc rất giỏi trong ngành Ngân Hàng .Về sau trở thành một banquier: Chủ nhà băng tại Amiens. Có địa vị xã hội, có tiền bạc, đời sống sung túc. Tháng sáu 1974 (Juin 1074) Người nầy thành hôn với Brigitte – một cô giáo dạy văn và Latinh tại một trường Trung học cơ sở. Brigitte con nhà khá giả, sản xuất bánh kẹo và chocolate nổi tiếng. “Người ấy” hết sức thương yêu chiều chuộng vợ khiến cho người xung quanh ngưỡng mộ. Brigitte rất hạnh phúc dưới một mái ấm gia đình, với chồng có địa vị, giàu có, hiền lành, thương yêu vợ rất mực và ba đứa con ra đời là một mối dây ràng buộc cặp vợ chồng thêm gắn bó. Lúc đó, Brigitte chỉ biết có mái ấm gia đình sung túc, chồng thương yêu, con ngoan ngoãn . Niềm hạnh phúc mà biết bao người khát khao thèm muốn.`

Người ấy là ai ? Xin xem tấm hình đám cưới dưới đây:

Hình đám cưới “NGƯỜI ẤY” với cô giáo Brigitte Trogneux. (Người có mang vòng tròn đỏ trên đầu)

Nhưng,
Đời có lắm sự bất ngờ…

Brigitte là người thích văn chương và kịch nghệ. Kéo dài lê thê nhịp sống đơn điệu, buồn chán, Brigitte bèn gợi ý với chồng lập một câu lạc bộ nghiên cứu văn chương và kịch nghệ. Người chồng bao giờ cũng tôn trọng ý của vợ và ủng hộ việc làm nầy. Bây giờ Brigitte thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn, việc làm đáp lại sở thích của mình.

Bất ngờ xuất hiện một chàng trai 15 tuổi tại lớp học của cô giáo Brigitte. Chàng trai mà Laurence, con gái của Brigitte, khen là một chàng trai tuyệt vời am hiểu tường tận mọi việc. Còn cô giáo Brigitte choáng ngợp trước sự thông minh của Macron. Bà nói: Macron có lối tư duy mà tôi chưa từng thấy trước đây. Mọi ngày thứ sáu, chúng tôi dành nhiều thì giờ để xây dựng các vở kịch. Nhưng chỉ là cái cớ để chúng tôi gần gũi nhau. Một người bạn của Macron tiết lộ: “Cô giáo bị quyến rũ bởi tài viết lách của cậu ấy”.

Con người kỳ lạ hành xử cũng rất lạ kỳ. Con gái tuổi xuân hơ hớ không lấy mà lại lấy bà già đáng tuổi mẹ minh, lại là người có chồng ba con. Cuộc tình đôi đũa lệch, được đánh giá là “vượt mọi định kiến của gia đình và xã hội”. Cuộc tình trái cựa gà, tréo cẳng ngổng nầy lại là cuộc tình của một con người phi thường, xuất chúng, thông minh tuyệt đỉnh. Cặp Emmanuel Macron và Brigitte Trogneux sánh vai cùng nhau vinh quang bước vào điện Elysée trước sự reo hò nồng nhiệt của dân chúng chào mừng vị tân Tổng Thống tài năng, trẻ tuổi nhứt của nền Cọng Hòa Pháp.

Trong khi 21 phát súng thần công nổ rền trời, tiếng hoan hô dậy đất, đội quân nhạc cử hành bản quốc ca “ La Marseillaise” hùng hồn, cuộc diễn hành trong khuôn viên điện Élyseé, đoàn vệ binh hiên ngang rầm rập nhịp bước theo điệu kèn trống quân hành uy nghi hùng dũng, thì “CÓ MỘT NGƯỜI” đứng đàng sau cuộc hôn nhân Emmanuell-Brigitte, ôm một nỗi đau khổ nhìn cảnh vợ phản bộ, bỏ minh theo tình nhân mà nước mắt tuông rơi, trái tim tan nát…Nhưng “Người ấy” không bao giờ tức tối, mắng chửi, làm ồn ào mất mặt hay nói xấu vợ minh trước mặt người khác. Ông tập trung vào sự nuôi dưỡng và giáo dục ba con. Sau đó, “Người ấy” là một người đàn ông đích thực. Ông không bao giờ làm phiền cuộc sống của Brigitte. Sau khi ly hôn, ông lo cho con cái ăn học và chuyển hết tài sản cho con, ông đến vùng ngoại ô Paris sống ẩn dật và tránh gặp Brigitte, kể cả những buổi tiệc gia đình với các con.

Cuộc tình huyền thoại Macron-Brigitte được loan truyền khắp thế giới nhưng không nghe ai nhắc đến “MỘT NGƯỜI” – mặc dầu người ấy về tư cách, sự hy sinh, đức nhẫn nhục ít người sánh được, Thói đời là thế. Phù thịnh chớ ai phù suy! Thiên hạ Đông Tây, Tư bản, Cộng Sản đều thế cả.

Con người đáng kính ấy qua đời tháng 12 năm 2019. Tang lễ ông được tổ chức trong vòng bí mật. Mãi đến ngày 7 tháng 10 2020, con gái ông Tipun Ozier mới thông báo tin cha minh đã qua đời. Trong một tweet, cô viết: “Cha tôi đã qua đời. vào ngày 24/12/2019. Ông ấy đã được chôn cất trong sự bảo vệ quyền riêng tư nghiêm ngặt nhất. Tôi rất ngưỡng mộ cha tôi. Ông nói rằng ông không muốn làm phiền quá nhiều sau khi mình qua đời. Vì vậy, chúng tôi phải tôn trọng ý muốn của ông.Theo tạp chí Tatler của Anh Quốc, trò chuyện với Paris Match, một những đứa con gái của “Người ấy” và Brigitte nói: “Tôi rất ngưỡng mộ cha tôi là người không thích lề thói, luôn coi trọng sự ẩn danh hơn bất cứ thứ gì. Ông phải được tôn trọng”. Ý tưởng nầy rất phù hợp với sự xa rời mọi người và chuyển sang Paris vùng ngoại ô sống ẩn dật cho đến khi qua đời.

Người nầy không bao giờ khuấy động chuyên phản bội của vợ. Ông chọn cách xa rời thế giới theo cách riêng tư của minh là sống ẩn dật với lòng vị tha và sự nhẫn nhục phi thường.

Đánh giá một con người, không phải chỉ sự thành công nổi tiếng mà còn tư cách, sự nhẫn nhục, lòng hy sinh cao cả, âm thầm chịu đựng, lấy sự nhẫn nhục làm phương châm, lòng vị tha làm tình thương, suốt đời không thay đổi. Con người đó không đáng cho đời ngưỡng mộ hay sao? Cũng như người chiến sĩ cả hai miền Nam Bắc ngoài mặt trận bắn giết nhau thành công thì ai hưởng? Người lính được hưởng gi? Người lính chỉ biết hy sinh ngoài mặt trận, ở hậu phương vợ con đói rách, cơm chan nước mắt hay bị bắt làm con tin, để chồng minh đi xẻ dọc Trường Sơn, đánh cho đến người Việt Nam cuối cùng.

Tuy nhiên còn có một người đời sau nhắc đến và vinh danh họ là thi sĩ Đằng Phương (tức Giáo sư Nguyễn ngọc Huy): Họ là những chiến sĩ xông pha dưới làn tên mũi đạn: Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên Không ai đến khấn nguyền dân lễ vật Nhưng máu của họ đã len vào mạch đất Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông Và anh hồn chung với tấm tinh trung Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt. Đằng Phương

“NGƯỜI ẤY” suy nghĩ cho sâu xa, quả là con người đáng cho đời tôn vinh và ngưỡng mộ như một người chiến sĩ ngoài mặt trận, như cái Dũng của một người anh hùng trước nghịch cảnh.

“NGƯỜI ẤY” là người có vòng tròn đỏ trên đầu ngày cưới vợ là cô giáo Brigitte Trogneux. Và người ấy chính là André- Louis- Auzière.

“NGƯỜI ẤY” chính là người bị vợ phản bội mà không một lời oán trách, không làm phiền vợ, luôn luôn một lòng vị tha, bao dung để vợ được sống trọn với tình yêu mới. Trên đời rất ít người vượt qua cảnh ngộ đau lòng nầy, để hành xử được như ông André.

Câu chuyện tình ly kỳ nầy được kết thúc nơi đây. Cặp Macron-Brigitte vinh quang sánh bước vào điện E1ysée – còn ông André chôn chặt nỗi hận lòng dưới ba tấc đất và hành xử với lòng vi tha hiếm có, chọn cách sống ẩn dật ở ngoại thành Paris cho đến khi qua đời. Còn Brigitte khi trở thành Đệ Nhất Phu Nhân thì không còn nhớ gì đến chuyện quá khứ.

Người đời mặc tình phê phán và chọn lựa. Nhưng đừng quên, khi đứng bên ngoài để phê phán thì dễ dàng hơn khi chính bản thân mình đối diện với nghịch cảnh./.

Những ngày bệnh tật cuối thu năm 2022.
Lê Quốc

Ghi chú: 

Tạm thời xin hiểu bức thơ cuối ngày gửi em Brigitte là của ông André -Louis- Auzière trước khi có nhận xét của nhà biên khảo nổi tiếng và uy tín là Ông Trần Việt Long (Cao học 8, Học Viện QGHC). Sự nhận xét của nhà biên khảo xuất sắc nầy, người viết rất đồng ý nhứt là không có bản tiếng Pháp mà chính người viết đã khổ công đi tìm bản tiếng Pháp nhưng không hề có trên các diễn đàn tiếng Pháp và Việt. Như vậy, ông André không viết được tiếng Việt và cũng không thể nhờ người dịch ra tiếng Việt nếu không có bảng tiếng Pháp.

“NẾU CÓ KIẾP SAU…! ANH SẼ KHÔNG BAO GIỜ YÊU EM…!”

(Đinh Trực sưu tầm)

Anh là một chàng sinh viên nghèo…!

Làm thêm vất vả để kiếm thêm tiền trang trải học phí. Em là tiểu thư cành vàng lá ngọc con nhà giàu có khá giả, gia đình có tới mấy osin.

Lần đầu tiên về quê đến cây quế, rau lang…., và cả ngò gai, em cũng không phân biệt được.

Anh gặp em lần đầu tiên trong ngày khai giảng. Em đứng đó vui cười với đám bạn, mải mê làm đổ ly sữa lên váy trắng… Ngượng ngùng, anh đưa em áo khoác che vết loang. Giây phút ấy em mãi không quên anh…!

Bốn năm học đại học, em muốn giúp anh nhiều lắm, muốn cuộc sống anh đỡ vất vả vì phải vừa học vừa làm. Đưa tiền cho anh. Anh đâu có nhận, anh nói anh không làm được cho em thì thôi…

Tốt nghiệp, đáng lẽ chia tay, chỉ là tình yêu thời đại học thôi mà…!

Nhưng em đã quyết định theo anh…!

Gia đình em phản đối quyết liệt, nhưng em vẫn chọn cho mình người đàn ông của cả cuộc đời…!

Nên vợ nên chồng, về quê sống trong căn nhà lụp xụp của mẹ anh. Rồi em mang thai, nhiều khi trái gió trở trời người đau ê ẩm, đau bắp chân…!

Anh thương em, mùa đông cũng như hè đi làm kiếm thêm tiền nuôi vợ…!

Thế rồi trong một tai nạn xe, anh liệt đôi chân. Nằm một chỗ ở nhà, tất cả mọi việc đều trông cậy vào em. Ba mẹ em nghe tin… xót dạ, thương yêu đến đón em về nhưng em từ chối…!

Chữa bệnh cho anh, em bán hết mọi thứ trong nhà, cuối cùng chiếc nhẫn cưới ba phân vàng 18 kara cũng hết…

Ba mẹ em thấy con gái khổ nhiều, lại cho tiền.

Cứ thế cuộc sống nghèo ở một vùng quê cứ lặng lẽ đau buồn trôi qua…!

Em làm giáo viên, anh nằm nhà viết sách. Em đã trút bỏ hình ảnh lá ngọc cành vàng năm nào để trở thành người vợ đảm đang. Đi chợ đã biết trả giá từng ngàn, quần áo bình thường, cân đo đong đếm còn tốt hơn những người phụ nữ khác vì em có học hành…

Bác sĩ bảo chồng em không còn đi được nữa, nhưng em không tin, hàng ngày vẫn bóp chân cho anh, hi vọng một phép màu, kì tích sẽ đến…!

Ngày ấy, em nghe có một bác sĩ châm cứu rất giỏi. Em chở anh lên xe, đường dài hơn 20 cây số, đưa anh đi châm cứu hai ngày một lần không kể ngày nắng ngày mưa, ngày lạnh ngày nóng

Anh nhìn em khóc: “Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em nữa, em quá khổ vì anh..!”

Một năm sau phép màu đến thật sự, chân anh hồi phục cũng là lúc anh nhận được giải thưởng Quốc tế từ những cuốn sách anh viết. Không ai nghĩ sẽ có ngày hôm nay…!

Rồi họ mời sang Pháp thuyết trình ba năm, anh do dự, em nói: “Anh phải đi, cơ hội không đến hai lần đâu anh…!”.

Nhìn lại quãng đời, em đâu còn trẻ đẹp như xưa… Chồng, con, vất vả, thân hình gầy gò ốm yếu…!

Pháp là đất nước của tình yêu, nhiều người nói anh đi sẽ không trở lại. Em chỉ mỉm cười đáp lại: “Em và anh đã trải qua bao nhiêu sóng gió, nếu vì một việc thế này em không sợ mất anh…!”.

Ba năm sau anh về, không báo trước, muốn dành cho em một sự bất ngờ. Nhưng vừa xuống xe anh đến nhà…, đã thấy em đứng đó. Anh hỏi sao biết anh về mà ra đón, em trả lời:

-“Em chờ ở đây mỗi ngày, chỉ cần là xe lạ chạy ngang, em hi vọng nó dừng lại, em không bỏ qua chuyến nào…!”.

Anh nhìn vợ rồi khóc mà nói: “Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em, tình yêu của em làm anh đau lắm, đau lắm, tình yêu của em đã khiến em chịu quá nhiều khổ đau…!”

Em đáp trả lời anh: “Tình yêu luôn luôn là khổ đau cay đắng. Tình yêu như một bông hoa sen, hoa sen đẹp nhưng nó có cái nhụy sen, hạt sen rất đắng. Nếu còn có kiếp sau, em sẽ vẫn muốn được yêu anh…!”.

From: TU-PHUNG

Lối đi — truyện ngắn của Nguyễn Tầm Thường

Nguyễn Tầm Thường

Lá thu về nhuộm đỏ ối cánh rừng nhỏ. Mây trắng lãng đãng bay về cuối nẻo trời xa. Người thanh niên ngồi ở ven đồi, trầm tư. Chàng đến đây khi sương thu chớm về. Những ngày đầu tiên trên đất lạ là những ngày lênh đênh nhất đối với chàng. Lo âu cho tương lai. nhớ thương quá khứ. Hiện tại thì vất vả. Gia đình chàng ở lại bên kia. Ra đi một mình. Chỉ riêng có giấc mơ mà chàng đang ấp ủ là người bạn song hành. Nhưng giấc mơ chẳng nuôi được chàng, mà chàng lại phải âu lo vì giấc mơ.

Mùa thu đó chàng vào chủng viện, tiếp tục con đường lý tưởng. Nhưng dòng thời gian không êm đềm như chàng mộng tưởng. Những weekend lặng lẽ, nhìn hành lang dài trống vắng mà chàng thấy như nỗi vắng trong tâm tư chàng. Sương sa, gió lạnh dần dần thấm vào hồn. Những cánh mây tím cũng theo mùa thu về bắt đầu mang nỗi hắt hiu trên từng lời kinh. Những giờ nguyện của chàng bắt đầu mệt mỏi, có nghĩ ngợi mông lung.

Cuối năm học đó, Đức Giám mục địa phận sai chàng về một xứ đạo nhỏ để tập làm quen với đời sống mục vụ. Chính trong mùa hè này, câu chuyện đã xẩy ra.

Nhận được thư Đức Giám mục báo tin đi giúp xứ mùa hè là một ngày u ám trong đời. Chàng không muốn đi thực tập mục vụ, nhưng muốn đi làm. Chàng cần tiền. Tiền đã dầy vò chàng không biết bao nhiêu đêm trằn trọc. Chàng luôn nghĩ đến tiền. Nhưng là sinh viên thần học, nên đức cha muốn chàng đi thực tập mục vụ để chuẩn bị cho cuộc sống linh mục. Khi nhận được thư đức cha là giấc mộng đi làm sụp đổ, kéo theo giấc mơ về tiền. Khi người ta không thực hiện được giấc mơ thì người ta lại càng nghĩ về nó. Nghĩ về nó mà không thực hiện được thì người ta sống trong một thứ ngục tù tâm hồn. Ðó là vây khổn của oán trách, của tiếc xót, của bất bình.

Ở nhà trường, mỗi tháng chàng nhận được hai mươi dollars của địa phận gởi, gọi là tiền túi. Thủa ban đầu, chàng cho là đủ, không thắc mắc, băn khoăn. Nhiều tháng hãy còn dư. Nhưng dần dà, có những cơn gió so sánh bay về. Chàng so sánh chàng với người khác. Tôi cũng có bàn tay, cũng có khối óc, sao cam nhận mỗi tháng hai chục… và chàng thấy mình nghèo! nhận mỗi tháng hai mươi đồng đó là dấu hiệu của sự khiêm nhường, dâng hiến, và sống đơn giản vì lý tưởng hay là cam chịu đời sống tầm thường? Chàng tự hỏi, rồi, những làn sóng tự ái bắt đầu gieo trên biển lặng. Người thanh niên trở nên trầm mặc, băn khoăn.

Xã hội nói về tiền. Giá trị con người cũng được đánh giá bằng tiền. Những kẽ nứt của tâm hồn bắt đầu mở rộng. Chàng thấy mình xót xa, và thực sự thấy mình nghèo. Nghèo vì tiền và nghèo cả tâm hồn. Khuôn mặt chàng không còn bình an, tâm hồn chàng không còn muốn bay bổng cho một lý tưởng. Buổi chiều cầu kinh nào cũng phủ đọng sương mù ẩm mốc. Lý tưởng là gì? Có ai cần lý tưởng nữa đâu? Chàng tự hỏi, rồi thấy con đường của chàng bước vào là cô đơn đằng trước mặt. Là mất mát, thua thiệt.

Chàng nói với lòng mình, là thanh niên như bao người khác tại sao tôi không làm ra tiền? Chàng sống giữa hai thách đố mà thách đố nào cũng lớn lao: tiền và không có tiền. Không tiền có phải là kém hơn người khác? Có phải vì tôi thiếu khả năng? Không tiền có phải là điều dại? Tự ái, như những cơn mưa nặng hạt mưa xuống đời người thanh niên. Tiền làm chàng nhớ về những người thân ở bên kia bờ biển mặn. Tiền làm chàng mơ ước một đời sống tiện nghi. Tôi có nên tiếp tục con đường tôi đang đi? Tôi có nên đem khả năng của mình vào cuộc thử sức của xã hội hôm nay? Mệt mỏi. Sóng gió đi về. Chàng muốn đặt lại lý tưởng cho cuộc sống.

Chính vì thế mà những ngày đầu mùa hè ở nhà xứ năm ấy là những ngày u ám và lặng lẽ nhất đối với chàng, chàng quay quắt suy tư. Cõi lòng hoang vắng, đìu hiu. Cũng có đôi lúc thầm lặng, chàng hỏi lại lòng mình, ngày xưa tôi đâu quá bận tâm về tiền, sao bây giờ tôi phải thao thức quá như vậy? Trong những lúc thinh lặng ấy, những lúc tỉ tê hỏi lại cõi lòng, những lúc tìm đường về thâm sâu của trái tim, chàng dần dà nhìn ra cái nghèo chua xót: Nghèo của một tâm hồn. Chàng băn khoăn tự hỏi: Khi tâm hồn nghèo thì kéo theo bao nhiêu cái nghèo khác?

Cái cao cả mà Thiên-Chúa đã làm, không phải là sống tước vị Thiên Chúa trong Thiên Chúa, nhưng là sống tước vị Thiên Chúa nơi con người. Chúa đã đem cái nghèo trở thành mùa xuân bất tận. Chàng biết vậy, nhưng đường đi của niềm tin thì siêu bạo quá. Niềm tin là giã từ tất cả. Là buông tay ra cho mình chìm xuống, lặng lẽ. Trong những tháng ngày giằng co muộn phiền thì câu chuyện xẩy đến:

Cũng như những thứ sáu khác trong tuần, hôm đó chàng mang Mình Thánh cho một bà già trong xứ đạo. Trời đã về tối. Chàng thích đi bộ để nhìn cỏ cây, để nghĩ về mình, về người. Trời chưa tối lắm nhưng phố xá đã lên đèn.

Từ nhà xứ đến nhà bà, chàng phải đi ngang qua phố, đây là một con phố nhỏ ở miệt quê rồi vào đường Broadway, Broadway là con đường lý tưởng nhất của thành phố. Ðường rộng và đẹp, có chiều đi, chiều về. Giữa hai chiều là hàng cây anh đào rợp mầu hồng khi mùa hoa nở. Chàng đi chậm rãi trên con đường ấy, nguyện mong cho đời nhẹ bớt ưu tư. Trên đường đi, có kẻ đi ngược, có người về xuôi, nhưng có ai đâu biết rằng trong túi áo chàng có Mình Thánh Chúa. Trời tối hơn. Ðèn của phố xá cũng sáng hơn. Mây tím về cuối cánh đồng, cũng là màu u uẩn của cõi lòng người thanh niên. Ðèn đường chẳng thắp sáng được linh hồn. Tâm tư chàng giăng mắc với những lựa chọn mà bên nào cũng có xót xa. Ở hay đi? Giã từ lý tưởng hay tiếp tục? Ðời linh mục là gì? Niềm vui, đau khổ? Làm sao tôi biết chắc được đây là lý tưởng mà Chúa muốn tôi đi vào? Trung thành, gian nan? Mệt mỏi. Mong thêm một chút ánh sáng cho bớt suy tư. Chàng nhìn trời cao. Chúa xa quá. Im lặng qúa. Im lặng quá. Chỉ mình chàng trên đường. Chàng mong một chút sương mai cho mảnh đất khô đỡ cằn cỗi. Chàng ước ao một lời nói rõ hơn, mạnh hơn để chàng bớt gian nan với những nghĩ ngợi. Nhưng trời cao vẫn cao. Ðêm về nhiều hơn.

* * *

Bên bụi hồng, đứa bé gái đang chạy tung tăng, cô bé đứng lại, giơ tay vẫy chàng. Bàn tay thiên thần. Nụ cười bình an. Ðôi mắt hồn nhiên như vì sao trời. Cô bé giơ tay vẫy vẫy. Những ngón tay mũm mĩm, đơn sơ. Nụ cười tươi như một búp phong lan đang hé mở. Cô bé lại tiếp tục chạy, những bước chân sáo vui tung tăng trên thảm cỏ xanh mịn. Hạnh phúc nở hoa theo từng bước chân vô tư. Cô bé đang vui. Và chắc hẳn thiên đàng cũng đang vui lắm. Người vỗ về trong tim. Cô bé vấp ngã. Bàn tay non vụng về để hạnh phúc vượt theo chiếc bong bóng đỏ bay cao. Chiếc bong bóng từ từ xa dần, lên cao, lên cao. Cô bé đứng nhìn ngẩn ngơ, tiếc nuối. Nghe như mùa xuân lắng đọng. Những viên ngọc nhỏ lăn dần trên má. Bé khóc.

Cô bé là cánh hoa bạch huệ tỏa hương hạnh phúc. Khi tung tăng với chiếc bong bóng, mỗi ngón tay nhỏ là một chiếc đũa tiên có phép mầu rải niềm vui trên từng cọng cỏ ngoan hiền. Bước chân bé đã làm cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc ca yêu thương của khu vườn. Bé đã cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc bong bóng bay cao. Xa tít. Xa tít. Buồn như chú mèo nhỏ, bé lững thững vào nhà. Qua vuông cửa sổ, chàng thấy ánh đèn. Nơi ấy, có tình yêu, có hơi thở.

Mầu vàng của khóm tulips với mầu trắng ngà của con đường trải đá cuội, hòa vào mầu cỏ non xanh, làm cho căn nhà thêm êm đềm, như một lời cầu chúc hạnh phúc cho những bước chân nào đặt tới. Giàn hoa hồng nở đỏ thẵm trên vuông cửa sổ. cạnh bụi hồng là những giây hoa tím nhỏ đang leo trên tường đá. Tất cả nhắc nhở đến sự săn sóc của một bàn tay biết nghệ thuật. Mầu đỏ thẫm của bụi hồng làm cho căn nhà có vẻ đài các, nhưng lại hoà chung một thứ buồn dịu dàng, mồ hôi của sắc hoa mầu tím thầm lặng. Lối kiến trúc của căn nhà nói lên sự giầu có của người làm chủ.

Cách nhau một hàng rào gỗ thấp mà bên kia là giầu sang, và ở đây, chàng đứng một mình như thân phận Lazaro nghèo khổ. Chàng thấy nghèo là một chua xót. Cái nghèo làm người ta mất giá. Không ai muốn làm bạn với người nghèo. Có tiền thì có quyền thế. Có quyền thế thì có điạ vị. Nghèo là một cõi vắng lặng lẽ. Nghèo thì bị coi thường, có khi còn bị khinh rẻ. Tiền như một thứ đánh giá thành công của một người. Chàng tiếp tục nghĩ: Nếu Chúa Kitô là một Ceasar giầu có thì đâu có bị xua đuổi, có khi còn có lắm người theo. Có tiền thì được kính nể. Tiền là tiêu chuẩn xác định tài năng. Chàng thấy không tiền là một nỗi chua xót.

Cô bé chẳng ra sân chơi nữa. Chắc bé đang phụng phịu kể cho má nghe về chiếc bong bóng đã bay xa. Người thanh niên để tình cảm của mình nhẹ nhàng đi về một miền cô đơn. Trong căn nhà đó, có hơi thở, có tình yêu, có tiếng khóc, có tiếng cười, có những gì là căn bản nhất mà Chúa đã dựng nên trong thân xác, linh hồn chàng. Chàng lại tự hỏi, đời sống linh mục là gì? Tôi cũng như bao nhiêu người khác sao tôi lại không thể có một tình yêu riêng tư? Người thiếu nữ nào mà đáng lẽ cùng tôi chia sẽ yêu thương? “Nàng là xương là thịt ngươi, bởi đó, ngươi sẽ bỏ cha mẹ mình mà khăng khít với nàng.” (Gen. 2:23-24) Lời Kinh-Thánh thủa xưa vẫn vang lên như một lệnh truyền thôi thúc trong chàng, chảy theo từng dòng thời gian trong cuộc sống, nhắc nhở về “một phần đời” của chàng. Nàng là ai, ở đâu? Tên nàng là gì? Ðó chỉ là huyền thoại hay là thực thể? Vì sao tôi không thể có nàng? Trong căn nhà ấy, có nụ cười trẻ thơ, có tiếng gọi ba, có tiếng gọi má, sao không thể là tôi? Máu tôi vẫn đỏ theo từng nhịp tim đập, vì sao tôi chẳng thể bao giờ được nghe tiếng ba, được gọi tiếng con. Chàng ngước nhìn trời cao. Trời vẫn lặng lẽ, vô tư. Chàng muốn vẫy gọi niềm tin. Chàng muốn nghe niềm tin đáp trả.

Không biết người thanh niên đã để hồn mình xuôi về nẻo đơn độc ấy, để lòng mình chìm vào những dòng tư tưởng ấy bao lâu, nhưng chắc hẳn là lâu lắm. Khi chàng vô tình đưa tay lên ngực thì chợt nhớ ra chiếc hộp đựng Mình Thánh còn đó. Lãng quên đưa chàng về một chút hối hận, ngỡ ngàng. Chàng úp tay trên chiếc hộp, tự hỏi. Cả bầu trời cao ở nơi đây. Cả niềm tin mà tôi đang đi tìm ở nơi đây. Có thật là niềm tin? Có thật là trời cao? Chàng mở chiếc hộp nhỏ. Những tấm bánh trắng vẫn im lặng, âm thầm.

Ngày xưa tà thần đã nói với Đức Kitô: Nếu ngươi bái thờ ta, ta sẽ cho ngươi tất cả vinh quang của trần gian (Luca 4:6-8). Người thanh niên nhìn tấm bánh thầm nghĩ, nếu hôm nay, cũng lời ấy nói với tôi: “Nếu ngươi đổi tấm bánh này cho ta, ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi đang mơ ước.” Vùng trán mang vết nhăn. Người thanh niên bối rối. Chàng không trả lời được. Có được một số tiền đã là thành công. Dệt được ước mơ là một niềm vui lớn. Giờ đây, chàng phải đối diện với câu hỏi mà chàng không bao giờ ngờ. Nếu có ai cho chàng những ước mơ chàng đang mơ ước, chàng có bằng lòng đổi tấm bánh này không. Tấm bánh nhỏ bé quá, yếu đuối quá. Dáng chàng ưu tư, chàng hỏi lại lòng: Ðây có là cả bầu trời cao? Ðây có là Thiên Chúa của vũ trụ? Người thanh niên xót xa cho mình vì chàng không đủ niềm tin để xác nhận. Chàng tin rằng Ngài là Thiên Chúa đó. Nhưng tình yêu của chàng quá nghèo nàn nên không nuôi nổi niềm tin. Chàng lặng nhìn tấm bánh trên tay mà như chàng ứa lệ. Nỗi cô đơn về mênh mông. Chàng thấy lạc lõng. Suối nguồn đã đang cạn khô. Chàng lại nhìn trời cao. Trời cao vẫn im lặng. Chàng cúi đầu xót thương mình. Vì sao trời cao không đáp trả? Trong sự im lặng ấy, dường như có tiếng nói với người thanh niên: “Nếu ngươi mất Ta trong cõi lòng ngươi thì ngươi phải trở về trái tim của mình, Vì chỉ nơi ấy ngươi mới tìm lại được Ta, mới có tiếng đáp trả mà thôi.”

* * *

Có nỗi cay ở mắt. Chàng thấy hồn mình chứa chan. Hình ảnh ông già làm chàng bối rối. Trong tim chàng, có an ủi đi trên xót xa, có ngọt ngào chen lẫn đớn đau. Nuối tiếc. Ngại ngùng. Mênh mông. Sám hối. Một thứ tình cảm bâng khuâng giữa tình trời và tình đất. Ông già đã theo chàng ra tới tận cổng. Ðôi tay gầy, lạnh lẽo, nắm chặt lấy tay chàng biết ơn. Ðã bao lần trong đời, chàng bắt tay người này, kẻ kia. Cái bắt tay nào ấm tình, cái nào xã giao. Ánh mắt nào chân thành, lời nói nào đãi khách, điều đó, ai mà chả nhận thấy. Hai tay run run cầm chặt lấy tay chàng. Người thanh niên biết ở trong bàn tay ấy gởi chàng lời cám ơn thành thật. Lời nói không thể che kín được nỗi lòng và nỗi lòng không cần ngôn ngữ để diễn tả. Ông run run xúc động: “We need you.” Ông chỉ nói với người thanh niên vỏn vẹn như thế thôi, trước khi chia tay.

Khi chàng tới nơi thì bà đã ngồi trên xe lăn, đợi sẵn ở phòng khách. Nghe bấm chuông, ông ra mở cửa. Chào chàng kính cẩn, thái độ của những người già miền quê đối với một linh mục. Căn nhà vắng lặng, chỉ có hai ông bà. Bà đã bị tê liệt từ mười bẩy năm nay. Xe lăn là quê hương duy nhất. Những mạch máu mầu xanh nổi gầy guộc trên đôi tay cố gắng giơ lên làm dấu thánh giá. Giây phút thiêng liêng nhất. Bà kính cẩn cúi đầu chịu Mình Thánh Chúa. Ông đứng bên cạnh, chắp tay. Ðôi mắt chẳng còn nhìn rõ được, không nuốt được, phải ăn bằng đồ lỏng, khó khăn. Người con gái lớn đã ly dị, đấy là niềm đau đớn vô cùng đối với bà. Hai người con trai khác ở rất xa. Ông tâm sự với chàng là tâm trí bà chỉ nhớ tới các con. Bà nguyện cầu và lo âu cho phần rỗi của chúng. Ðời sống hôn nhân ngoài Giáo-Hội của người con gái đã ly dị làm bà khổ sở, buồn phiền.

Ðã hơn mười năm nay bà chẳng có thể tới nhà thờ được. Ðó là một quê hương mà bà cứ nhắc tới hoài. Ông nói với chàng rằng chỉ còn Chúa là nguồn vui và an ủi nhất của cả hai người. Mỗi Chúa Nhật đầu tháng, nỗi háo hức của bà là được chịu Mình Thánh. Có một mình cha sở, lại phải lo cho nhà thương, thêm viện dưỡng lão, nên ngài chỉ đến thăm bà một tháng một lần. Khi biết được mùa hè này có một chủng sinh về giúp xứ, và bà có thể nhận Mình Thánh hàng tuần, ông nói, đấy là niềm ước ao của ông . Trên khuôn mặt già nua mừng rỡ, ông không hỏi tên chàng. Ông không cần biết chàng từ đâu đến, dù chàng khác màu da, không cùng ngôn ngữ. Ông chỉ ôm lấy tay chàng mà nói: We are happy to have you here. We need more priests. Ông không cần biết chàng thánh thiện hay tội lỗi. Ông không cần biết chàng tài năng hay vụng về. Trong niềm tin ấy, ông chỉ biết chàng là người mang Chúa cho ông. Ðiều ấy càng làm người thanh niên nghĩ ngợi hơn về lý tưởng của chàng.

Chàng ra về với tâm hồn bùi ngùi. Tôi là ai? Vì sao họ cần tôi? Ðời sống linh mục là gì? Vì sao bàn tay linh mục có thể chúc phúc bình an? Những câu hỏi ấy lại đưa chàng về một thế giới thần thánh, mà câu trả lời không hoàn toàn đến từ trời cao. Ði tìm câu trả lời là cuộc hội ngộ giữa đất và trời. Giữa yếu đuối và cao thượng. Giữa mênh mông và mảnh đất chật hẹp. Giữa từ bỏ và lên đường. Ðối diện câu hỏi là một khắc khoải, không thể giải quyết được tự lòng người. Nhưng con người có tự do và lựa chọn. Chàng không nói, nhưng dường như trong thâm sâu của trái tim, có lời kinh như một ánh sáng nhỏ đang cố ngoi lên:

Lạy Chúa nếu chẳng có con cộng tác thì công trình cứu chuộc của Chúa có bị thiệt thòi không? Con nghĩ là có. Chẳng phải vì công lệnh của con, nhưng vì nhiệm vụ mà Cha trao phó cho con, con đã không thi hành. “Làm sao họ tin nếu họ không biết về Ngài, Làm sao họ biết nếu không có ai rao giảng cho họ.” (Rom.10:14)

Nếu con không đến đây thì ai là người đem niềm vui cho hai ông bà? Cha có gởi gắm sứ mạng ấy ở nơi con không? Cũng trong chiều nay, còn biết bao tâm hồn khác cô đơn, đang đợi một bàn tay chúc bình an, đang chờ bước chân đem Tin Mừng đi tới. Họ sẽ chờ đến bao giờ nếu người mà Cha sai tới đã không muốn đi? Những giây đàng bằng vàng ròng của Salomon đã chẳng ru khúc yêu thương được cho dân của người. Những ly rượu nồng của David cũng chẳng cho dân ngài một giấc ngủ yên. Chính là những ngày rong ruổi trên con đường Galilee của đám mười hai tông đồ. Trong huyền nhiệm thân thể của Cha, thì khi con đem niềm vui cho tha nhân là con đem cho chính con. Nếu chiều nay mà con không bước tới thì căn nhà sẽ vắng lặng làm sao. Vì sao Cha đã gọi con? Ðôi tay con vụng về chẳng xây nổi giấc mơ của mình mà sao Cha lại cho con ôm cả vũ trụ? Trên bàn tay yếu đuối ấy, sao Cha lại cho con quyền năng trọng đại? Làm sao con hiểu thấu. Đấy chỉ là ân sủng mà thôi, Cha ơi. Chàng giã từ hai ông bà với tâm trạng vấn vương. Có đau thương của một tâm hồn yếu đuối. Nhưng cũng có ơn tha thứ của trời cao. Có nỗi chua cay của một niềm tin mong manh. Nhưng cũng có lời an ủi của một kẻ hiểu đam mê của xác thân chàng. Chàng thấy cõi lòng chứa chan. Chàng muốn dâng một lời cầu mà chẳng biết cầu cho ai, cầu như thế nào. Trời vẫn cao mênh mông, dường như mênh mông hơn nữa. Những vì sao vẫn lấp lánh. Chiếc hộp đựng Mình Thánh đang ở trong túi áo. Ðây có là cả bầu trời? Ðây có là cả biển rộng thứ tha và yêu thương? Tôi là ai mà dám đi song hành với Thượng đế của nhân loại? Chàng hỏi nhỏ cõi lòng, và trong lặng lẽ, chàng nghe từ con tim, có tiếng người đáp trả.

Chàng muốn đi thật xa với Người, muốn về một cõi đời bát ngát bình yên với Người. Muốn xóa đi những giấc mơ chỉ làm chàng thêm khổ đau. Nhưng chàng nghe thấy tiếng nói: Không, con không thuộc về trần gian nhưng Cha không đem con ra khỏi thế gian. Và người thanh niên hiểu là Ngài ban cho chàng đủ ánh sáng để đi, nhưng Ngài cũng để chàng đủ tối tăm cho niềm tin của chàng phải đặt trọn vào Ngài. Chàng bỗng lo âu về những ngày sắp tới, về những tiếng gọi của giầu sang và địa vị. Chàng muốn ngài đem chàng ra khỏi những yếu đuối của chàng để đi với Ngài về một cõi xa. Nhưng ngài lại nói: Ơn thánh của Cha thì đủ cho con.

Những gì người thanh niên hỏi thì Ngài trả lời. Những gì chàng thắc mắc, băn khoăn thì Ngài đáp trả. Không phải ở bầu trời cao mà là âm thầm trong chính hồn chàng. Như xương thịt chàng là Ngài lo âu cho chàng trước khi chàng biết lo âu cho mình. Ngài bảo chàng cứ đi, và chàng thấy mùa xuân về, bát ngát, mênh mang. Chàng thấy như một bông hoa Quỳnh, trắng nõn, đang nhè nhẹ nở nụ trong sương đêm. Chàng nghe như hoa cỏ đang hồi sinh, và trong tim chàng, có dòng suối mát vỗ về. Chàng cảm thấy trên đường chàng đi, có vắng vẻ nhưng không đơn côi. Chàng cũng cảm nghiệm người chàng yêu ở trong tim chàng chứ chàng khôg phải kiếm tìm. Chàng nhủ thầm, tôi nghèo khổ khi tôi tìm kiếm, nhưng khi tôi ở trong vũ trụ và vũ trụ ở trong tôi thì tôi còn gì nữa mà để tìm kiếm đâu. Rồi chàng đã đi lang thang hết con đường này sang đường khác. Ngài cũng đi với chàng.

Chàng cứ hỏi, và ngài cứ trả lời. Ngài bảo rằng linh mục nghĩa là Kitô, đấng được xức dầu và đóng đinh. Ý nghĩa của linh mục càng thâm sâu khi càng vất vả, gian nan. Ánh nến Phục Sinh càng sáng khi máu tử nạn càng hồng.

Ngài không bảo chàng rằng đường chàng đi sẽ phủ đầy hoa hồng, nhưng chàng có thể làm cho hoa hồng nở trên đường chàng đi.

* * *

Ðêm ấy, người thanh niên cứ lang thang khắp đường. Khi về đến phố thì xuất ciné cũng vừa tan. Chàng nhìn đám người, nguyện cầu và mong ước cho từng người được bình an. Giã từ rạp cinée, chàng đi về phía những quán bar đang sực khói thuốc và men bia, chàng nguyện cầu cho mọi người tìm được niềm vui chân thật. Những cô gái đang bước lẻ loi trên đường. Biết đâu, đêm nay có những tiếng khóc thầm lặng, có những nỗi cô đơn dầy đặc. Chàng nguyện cầu cho tình yêu đi về trên những mảnh hồn đơn côi ấy. Ðêm nay, trong một góc tối nào đó, đang có những toan tính âm mưu. Chàng xin Chúa ban ánh sáng phục sinh. Cũng có lẽ đêm nay, trong căn nhà nào đó, có tiếng khóc than, có những quầng mắt thâm sâu. Có những tâm hồn lạc lõng đang tìm lãng quên bằng men đời say đổ. Có những quãng đời đang không biết đi về đâu. Có những tan nát, chia ly. Có những đổ vỡ lặng lẽ mà vô cùng xót thương. Có những dòng nước mắt tuyệt vọng. Cứ thế, chàng bước đi trên phố và xin Ngài chúc lành cho thành phố đã về đêm.

 
“Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới.”

Chàng đã kiệu Mình Thánh Chúa đi trên biết bao con đường. Chẳng ai biết cả. Chỉ riêng chàng. Ðã nhiều lần trong đời, chàng đi rước, nhưng chỉ đêm đó, một đêm kiệu Mình Thánh mà chàng gần Ngài nhất. Ở một góc công viên, người thanh niên vuốt mặt, nhìn trời cao, chàng thấy hồn chàng nhẹ nhàng như đang đi trong cõi mùa xuân. Trong cõi lòng, chàng thấy một bầu trời rộng và có một cánh chim đang bay lên cao, tự do, bát ngát. Chàng thấy những giải nắng hồng rực rỡ. Nghe như vũ trụ có gió xuân nhè nhẹ đi về. Êm đềm. Những cơn mưa buồn đã theo mây đen trôi dần về biển xa. Chàng muốn giơ tay bắt giữ những giây phút thiêng liêng. Một cành lá dường như đang nẩy màu xanh hy vọng. Nhưng chợt nhớ về quá khứ, trong quá khứ đã nhiều lúc chàng xa Ngài. Bởi đó, chàng băn khoăn về tương lai. Nào chàng có biết chắc được những ngày sắp tới. Nào chàng có biết chắc cánh chim kia sẽ tiếp tục bay cao, hay lại quay về, bỏ khoảng trời mênh mông. Nào chàng có biết chắc những cành cây hy vọng kia sẽ thêm xanh hay sẽ khô dần. Người thanh niên cúi mặt sợ hãi những đám mây đen. Vì bao lần trong quá khứ, mây bay đi nhưng mây lại bay về. Trời hồng sáng rồi mưa tuôn lại làm dập dềnh khóm hạnh phúc chưa kịp trổ bông. Chàng nhìn tương lai mà không trọn vui được hiện tại. Nhưng chàng nghe dường như có tiếng Ngài nói:

– Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới.

Chàng cũng nghe như Ngài nói nữa:

– Cha không chờ con thánh thiện rồi Cha mới thương con, nhưng chính vì tình thương của Cha mà Cha dìu con đi lên từ tội lỗi.

Khi về đến nhà xứ thì đã quá nửa đêm. Và hình như chàng vẫn nghe thấy âm vang từ rất xa, âm thầm mà mãnh liệt:

– Ðường con đi sẽ không phủ đầy hoa hồng. Nhưng con có thể làm cho hoa hồng nở trên đường con đi.

Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ,
Trích “Tiếng gọi phía bên trong”
From: Le Ngoc Bich& KimBang Nguyen

Ngày mở tay-Cao Gia An, SJ

(Trích nhật ký của một linh mục trẻ)
Cao Gia An, SJ
(Roma)

Con ngoảnh đầu nhìn lại. Sau lưng mình chẳng có ai…

Sân nhà thờ ngập nắng. Gió lùa lồng lộng. Những dây cờ đủ màu sắc rung lên phần phật trong gió. Bên ngoài cổng nhà thờ là con đường chính của xứ đạo. Bên kia con đường là màu xanh ngút ngàn của vườn cây đang vào mùa đơm hoa kết trái.

Tiếng chiêng tiếng trống được gióng lên. Những hồi kèn ngân vang giục giã. Đoàn đồng tế bắt đầu di chuyển về phía trước. Vậy là con bước theo…

Lòng con vừa rộn ràng vừa xao xuyến. Cảm giác bồi hồi thật khó tả.Trong những ngày tháng tuổi thơ, đã rất nhiều lần con được tham dự Thánh lễ có đoàn đồng tế. Bầu khí trang trọng của những Thánh lễ ấy đã lưu lại trong lòng con nhiều dấu ấn sâu đậm. Con còn nhớ rất rõ, lần đầu tiên mình được tham dự Thánh lễ có thật nhiều Cha là vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Năm đó con vừa tròn 6 tuổi. Ba dẫn con đi tham dự Thánh lễ Truyền Dầu ở nhà thờ Chánh Tòa của Giáo phận.

Bầu khí hôm ấy thật linh thiêng và long trọng. Một đoàn linh mục đồng tế với phẩm phục áo lụa màu vàng, như một dòng chảy liên tục kéo dài từ cổng vào đến tận bậc thềm của nhà thờ. Con với ba đứng lẫn trong đoàn người dự lễ. Ba chỉ cho con các Cha mà ba quen biết. Có một số Cha đã từng ghé thăm nhà mình.

Khi đến với gia đình mình, các Cha bình dân dung dị và khác lắm. Giờ mặc phẩm phục linh mục, đứng trong hàng đồng tế, nhìn ai cũng nghiêm trang và thánh thiện vô cùng. Khi chỉ cho con các Cha ngày xưa học cùng lớp với mình, giọng ba tự nhiên như chùng xuống. Con biết, ước mơ về đời tu là một ước mơ dang dở nhưng chưa bao giờ lịm tắt trong lòng ba. Chỉ vì những đổi thay của thời cuộc. Chỉ vì sinh ra vào thời buổi khó khăn…

Ba về làm nông dân cuốc đất. Để đêm đêm, ba gởi gắm ước mơ dang dở ấy vào những câu chuyện kể ru con vào giấc ngủ. Những câu chuyện luôn bắt đầu như thế này: “Hồi xưa, lúc ba còn ở Chủng viện…”. Những câu chuyện kể của ba đã gieo vào lòng con những hạt giống đầu tiên của ước mơ sống ơn gọi dâng hiến.

Trong Thánh lễ Truyền Dầu năm ấy, con có cảm giác như những hạt mầm ơn gọi đã bắt đầu cựa mình vươn dậy trong con. Con nghe lòng mình cháy bỏng ước mơ sẽ là người viết tiếp những trang còn dang dở trong ước mơ của ba. Con ước lớn lên mình sẽ được đứng trong hàng đồng tế, sẽ được mặc phẩm phục linh mục, sẽ không phải chỉ là người đứng xem lễ từ bên ngoài, nhưng là người cử hành Thánh lễ.

Ước mơ ấy thầm kín nhưng mãnh liệt, cứ âm thầm mà lớn lên trong lòng con.

Hôm nay ước mơ ấy thành sự thật. Con bước đi trong đoàn đồng tế. Nhưng con lại không nghĩ rằng lần đầu tiên mình xuất hiện thì sau lưng mình chẳng có ai. Chưa bao giờ con phải sống cái cảm giác sau lưng mình không còn ai, nhất là trong bầu khí thiêng liêng này. Một đoàn rước kéo dài, nhưng mọi người đều đứng ở phía trước. Con là người đứng ở cuối cùng.

Hôm nay con là nhân vật chính.  Con thấy như toàn bộ sức nặng của cả hai hàng người đều được đặt trên đôi vai mình. Mọi người bước đi như một dòng chảy, cứ tự nhiên tiến về bàn thờ. Con thấy mình bị hút vào dòng chảy ấy. Bỏ lại khoảng trời sau lưng. Bỏ lại con đường đầy nắng và gió. Vậy là con bước về phía trước, theo đoàn rước tiến vào nhà thờ.

* * *

Trong đoàn rước có rất nhiều người con quen biết. Đúng hơn, đó là những người thân thiết nhất của con. Đi ngay phía trước con là cha Bề Trên, người đã nhận con vào làm ứng sinh trong nhà Dòng từ mười lăm năm về trước. Kế bên ngài là người mà con trân trọng gọi là Cha Bố, người đã hết lòng nâng đỡ con trong quãng đời sinh viên, và trong suốt khoảng thời gian đầu tiên khi con mới chập chững tìm hiểu ơn gọi. Phía trước nữa là các Cha trong đoàn đồng tế, đa số là những người thân thiết với con và gia đình, những người bạn, người anh, người cha của con.

Ngay trước đoàn đồng tế là ba má. Má hôm nay mặc một chiếc áo dài màu sậm, rất ra dáng của một bà cố. Ba thì diện một bộ đồ vest, nhìn sang và đẹp quá chừng! Con biết, cả ba và má đều rất hạnh phúc trong giây phút này. Cả hai đang sống rất sốt sắng tâm tình của người dâng con trong Đền Thánh. Vậy là cuối cùng, những hy sinh và những giọt mồ hôi của má cũng được Chúa đền đáp xứng đáng. Vậy là cuối cùng, ba cũng được đứng trong hàng đồng tế, cách mấy Cha mang phẩm phục linh mục chỉ một chút chứ có bao nhiêu!

Khi con bước theo đoàn người tiến vào lòng nhà thờ, đi vào giữa hai hàng người, tự nhiên lòng con trào dâng một niềm an ủi thật khó diễn tả. Ấm áp và hạnh phúc vô cùng. Con không còn cảm thấy lạ lẫm và e sợ nữa. Con cũng không còn thấy cô đơn vì sau lưng mình chẳng còn ai nữa. Lòng con như tan ra và bay vút lên hòa theo tiếng hát của cả cộng đoàn. Hóa ra đây đâu phải là Thánh lễ của riêng con. Hóa ra ơn gọi này đâu phải là chuyện của cá nhân con. Hóa ra con có được ngày hôm nay đâu phải chỉ nhờ công sức cố gắng và khả năng của chính mình. Đúng hơn, hôm nay con dâng Thánh lễ của mọi người. Hôm nay mọi người dâng con lên Chúa như hoa quả kết tinh từ biết bao hy sinh, bao mồ hôi nước mắt, bao ý nguyện âm thầm, bao lời kinh tha thiết. Hóa ra trong thiên chức linh mục của con mọi người đều có phần cả.

Vậy là con mạnh dạn bước lên cung thánh. Cúi mình thật sâu hôn bàn thờ, con mỉm cười hạnh phúc và thầm thỉ đọc lời tâm nguyện là châm ngôn đời linh mục của con: Hinneni. Lạy Chúa, con đây! Hinneni là một từ Do Thái. Từ ấy đã đánh động con ngay từ buổi đầu tiên khi con bắt đầu làm quen với ngôn ngữ này.

Cái tiếng Do Thái lạ lắm, cho phép ghép nhiều thành tố vào với nhau để lập nên một từ có nghĩa. Hinne là một từ phổ thông, được dùng chỉ như một từ đệm để thêm một chút sắc thái nào đó cho câu, chứ thật ra tự từ ấy chẳng có ý nghĩa gì.

Trong những bài học đầu tiên của con ở bộ môn chú giải Kinh Thánh, có Cha giáo sư còn khuyên: Mỗi khi gặp từ này thì nên làm lơ nó đi, khỏi mất công đọc và dịch. Nói chung, tự bản chất, hinne là một từ không mang nhiều sắc thái văn chương và rất ít giá trị diễn nghĩa. Chẳng hạn, sau khi ông A-đam và ba E-va ăn trái cấm, khi Chúa gọi ông: “A-đam, ngươi ở đâu?”, A-đam chỉ có thể đáp bâng quơ theo kiểu hinne, hinne…

Thế nhưng khi được gắn thêm tiếp vĩ ngữ -ni để thành hinneni, từ này có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Hinneni là lời đáp trả tích cực của những người được Thiên Chúa gọi. Như lời của Áp-ra-ham thưa với Đức Chúa khi Chúa gọi ông và mời ông dâng hiến con mình là I-sa-ac (St 22,1).

Như lời của Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,4). Như lời đáp nhanh nhảu của cậu bé Sa-mu-en giữa đêm trường trong Đền Thánh của Thiên Chúa (1Sam 3,4). Như lời đáp của I-sa-ia ở khởi đầu ơn gọi ngôn sứ của mình (Is 6,8). Lời thưa “Xin Vâng” của Đức Maria khi được dịch sang tiếng Do Thái cũngsẽ là Hinneni.

Ngày hôm nay con liều lắm nên mới dám cất lời, hòa vào vô số những cung giọng đã vang lên dọc suốt dòng lịch sử cứu độ, để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Tiếng Do Thái còn dạy con rằng, âm nhấn của toàn chữ này nằm ở cuối cùng.-ni có nghĩa là “tôi”, là “con”, ở ngôi thứ nhất số ít. Chính “cái đuôi” này mang lại ý nghĩa và sức nặng cho toàn chữ. Chính việc đặt trọn vẹn con người của mình vào lời đáp trả mới làm nên ý nghĩa trọn vẹn của một ơn gọi. Bằng không, tất cả chỉ là một lời đáp hinne bâng quơ…

* * *

“Thánh lễ mở tay” của con diễn ra trong một ngôi nhà thờ ọp ẹp, bốn bề trống trơn. Thật ra, đó chỉ là một căn nhà tạm được dựng lên trong thời gian chờ đợi xây nhà thờ. Từ trên cung thánh nhìn xuống, con nhìn thấy những cây cột gỗ được chắp vá tạm bợ. Mái tôn thấp và cũ. Trần nhà thờ không che đậy và không trang trí. Bốn bên nhà thờ không hề có vách. Sân nhà thờ là nền đất. Mọi thứ hãy còn ngổn ngang và bề bộn…

Nhưng con dám chắc, nếu dâng lễ mở tay trong một ngôi nhà thờ khang trang và hoành tráng, có lẽ tâm tình của con sẽ không được sốt mến và đẹp như ở đây, vào lúc này. Con là đứa con đầu tiên của giáo xứ này được làm linh mục. Mọi người mừng với con, như mừng một mầm xanh sớm mọc lên trên vùng đất nghèo và cỗi cằn của sa mạc. Mầm xanh là dấu hiệu hữu hình của ân sủng, là dấu chỉ của việc được Thiên Chúa ghé mắt đoái thương. Mầm xanh báo hiệu một mùa sống mới.

Vậy là mọi sự chỉ mới khởi đầu.

From: Le Ngoc Bich & KimBằngNguyễn 

Dành riêng – Cao Gia An, SJ

 Cao Gia An, SJ

Đã có lúc hắn nghĩ rằng bi kịch cuộc đời nằm ở chỗ hắn thích đi tu từ nhỏ. Cả nhà ai cũng biết và thích cái ý thích của hắn. Thế là tự nhiên hắn trở thành kẻ được dành riêng. Đi đâu, làm gì, ở đâu, với ai, hắn đều được chăm sóc đặc biệt. Ai cũng ra sức vun đắp, để xây dựng hắn thành một ông Cha tương lai.

Muốn làm ông Cha thì không được ngủ nướng. Sáng sớm, vừa nghe tiếng chuông đồng hồ là hắn phải lồm cồm bò dậy, dù trong lòng còn vô cùng tiếc nuối cái giường êm và cái mền ấm.

Muốn làm ông Cha thì phải tập đĩnh đạc và đạo mạo chứ không có cái kiểu chạy nhảy ồn ào lung tung. Vậy nên hắn thường chỉ có thể thèm thuồng đứng từ xa nhìn đám bạn tung tăng hò hét.

Muốn làm ông Cha thì phải để ý lời ăn tiếng nói. Chỉ cần lỡ lời dùng một vài câu tiếng lóng học được đâu đó từ đám bạn bè, là hắn bị cả nhà bủa vây chỉnh đốn cho tới nơi tới chốn.

Muốn làm ông Cha thì phải siêng năng đi lễ đọc kinh và cầu nguyện. Ông Cha đâu chỉ có làm lễ mỗi tuần một lần vào ngày Chúa nhật. Ngày nào ông Cha cũng phải làm lễ. Vậy nên hắn phải tập thói quen ngày nào cũng đến nhà thờ. Chỉ cần hắn nhơm nhớm lân la với mấy cái lý do đại loại như: hôm nay trời mưa quá! Hay, hôm nay con mệt quá!… là ngay lập tức hàng trăm cái lý do khác dồn dập đổ vào hắn: ông Cha thì không làm biếng, ông Cha thì không được đổ thừa lý do này lý do kia, ông Cha thì phải đạo đức thánh thiện…

Từ ngày công khai bày tỏ ý định thích đi tu, hai cái lỗ tai của hắn cứ đầy lên với bao nhiêu là điều mà “ông Cha thì phải” và “ông Cha thì không được”. Đã có lúc mệt quá, hắn giơ hai tay lên, kêu: Trời ơi, chỉ là muốn đi tu thôi mà, phải khổ vậy sao!

Kêu thì kêu vậy thôi, chứ thực lòng hắn vẫn thích đi tu lắm, thích làm ông Cha lắm. Chỉ cần nghĩ tới chuyện lớn lên được mang trên mình cái áo dòng đen, một tay ôm quyển Sách Thánh, một tay cầm xâu chuỗi Mân Côi, đi qua đi lại ngoài hiên nhà thờ… là tâm hồn hắn đã mê mẩn.

Con nít thì luôn có khả năng hy sinh nhiều thứ để đạt được điều làm mình mê mẩn. Chẳng hạn, để mua được một quyển truyện tranh mà mình thích, con nít có thể hy sinh làm nhiều chuyện lắm, như là sẵn sàng hy sinh nhịn ănn sáng hàng tuần để tiết kiệm tiền, hoặc sẵn sàng hy sinh đội mưa đội nắng đi mò cua bắt ốc ngoài đồng.

Vì mê mẩn với ước mơ được làm ông Cha, hắn sẵn sàng hy sinh nhiều niềm vui bình thường của một đứa con nít để bắt đầu tập sống cuộc đời được dành riêng của một người đi tu. Hắn tập sống như một ông Cha, trước khi tự đặt cho mình những câu hỏi khó trả lời, đại loại như: liệu Chúa có chọn mình không? Hay, liệu Chúa có muốn dành riêng mình không? Những câu hỏi đó, sau này, lớn lên, khi được học đôi chút về điều gọi là phân định ơn gọi, mới làm cho hắn đau đầu và trằn trọc mất ngủ.

Nhưng càng lớn hắn càng khám phá ra rằng muốn sống như một người được dành riêng thật chẳng dễ tí nào.

Người được dành riêng là người mất rất nhiều những cái chung.

Bước vào thời sinh viên, hắn bắt đầu nộp đơn vào nhà Dòng để xin tìm hiểu ơn gọi. Hắn được gởi ở trong một nhà xứ gần trường, thay vì được ở chung trong ký túc xá với bạn bè. Bạn bè ai cũng khen hắn điềm đạm và có cốt cách. Chỉ có hắn mới biết cái giá của việc gọi là điềm đạm và cốt cách ấy là hắn chẳng thể nào tham gia vào mấy cái trò quậy phá nhố nhăng mà vui rầm trời của bọn bạn bè cùng lớp. Chỉ có hắn hiểu cái cảm giác tiếc ngẩn ngơ khi không được vui tới bến với bạn bè trong những đêm hội hè lửa trại. Chỉ có hắn mới là người phải sống những nghịch lý của kẻ được dành riêng giữa một đám đông bạn bè. Chỉ có hắn mới phải cảm nếm tính tạm bợ và vay mượn của những niềm vui rất đỗi bình dị đời thường…

Những ngày cuối tuần, bạn bè được nghỉ ngơi, mọi người rủ nhau đi vui vẻ tiệc tùng và hát Karaoke. Hắn thì một mình đạp xe đạp về nhà Dòng để tiếp tục chiến đấu với bao nhiêu là những môn học khác, như nhân bản, tâm lý đời tu, trưởng thành tâm cảm, vân vân và vân vân. Con đường hắn đi về nhà Dòng mỗi cuối tuần bao giờ cũng là con đường ngược gió. Gió từ bên ngoài và gió nổi lên cả từ bên trong lòng hắn. Hắn vui và vẫn nuôi rất nhiều thao thức với hành trình dành riêng mà hắn đang đi. Nhưng thỉnh thoảng hắn cũng dừng lại, tự làm cho mình đau đầu với rất nhiều câu hỏi, kiểu như: Ủa, mình đang đi đâu, đang làm gì vậy ta? Ủa, sao mình phải khác người vậy ta? Ủa, con đường phía trước sẽ dẫn mình tới đâu đây ta? Liệu mình còn đi tiếp trên con đường này được bao lâu nữa vậy ta?…

Sống như người được dành riêng, hắn phải kỹ lắm. Không chỉ trong cách sống hay trong lời ăn tiếng nói, hắn phải kỹ ngay cả trong ánh nhìn và trong tư tưởng của mình nữa. Có nhiều ánh mắt đọng lại nơi hắn hơi lâu. Hắn biết chứ, vì hắn không phải là người gỗ. Chuyện đó cũng bình thường đối với những người ở tuổi của hắn thôi. Những ánh mắt sâu thăm thẳm và buồn vời vợi cứ lần lượt đặt vào hắn, rồi trượt đi. Hắn để cho trượt đi. Vì hắn biết, chỉ cần để cho hai ánh mắt gặp nhau, dừng lại với nhau hơi lâu một chút thôi, chắn hắn sẽ chìm mất trong cái thăm thẳm và buồn vời vợi ấy… Trong giờ hồi tâm mỗi tối, hắn cứ tự dặn mình phải tập nghiêm túc và trong sáng hơn trong ánh nhìn, trong những tư tưởng vơ vẩn mà mình cưu mang. Tại hắn được dành riêng.

Ngày đầu tiên chính thức được đặt chân vào nhà Dòng, hắn đã đứng tần ngần trước tấm biển thông báo: “Khu vực dành riêng, xin miễn vào”. Chỉ là tần ngần một chút vậy thôi, rồi hắn hùng dũng đẩy cửa bước vào. Bởi hắn biết, đó là khu vực dành cho hắn, cho những cuộc đời được dành riêng. Hắn thấy lòng mình hạnh phúc gì đâu!

Có một lần hắn có bạn đến thăm. Hắn gặp lại ánh mắt thăm thẳm và buồn vời vợi đã trượt qua đời hắn ngày xưa. Ánh mắt ấy giờ đã đặt vào một người khác, người được bạn giới thiệu là bạn của bạn. Hắn và họ nói chuyện với nhau, vẫn gần gũi và thân thương như ngày nào. Kết thúc cuộc viếng thăm, người ta chở nhau hòa mình vào phố thị. Hắn một mình quay bước vào lại nhà Dòng, về lại với căn phòng riêng của hắn, về lại với nhịp sống đều đặn của đời tu, về lại với cuộc đời của người đã được dành riêng…

Nhà Dòng của hắn nằm gần bên rìa của phố thị. Âm thanh của thành phố không quá gần cũng không quá xa so với nhịp sống tĩnh lặng của hắn. Mỗi lần đêm xuống, đèn lên, hắn rút lui đời mình vào một khoảng tĩnh lặng và thanh vắng. Tối, sau khi với tay tắt ngọn đèn đọc sách, căn phòng nhỏ của hắn trở nên rộng thênh thang, tan vào màn đêm không biên giới. Đó là lúc hắn cảm nghiệm rất rõ cuộc đời được dành riêng của mình. Ngoài kia, rất nhiều những âm thanh vọng vang từ đường phố: tiếng cười nói, tiếng xe cộ, tiếng nhạc xập xình… Trong này, chỉ một mình hắn lặng lẽ. Giữa những phồn hoa đô hội của cuộc sống, một ranh giới rất rõ ràng được dựng lên cho hắn, trong đêm.

Sáng sớm, hắn thức dậy khi cả thành phố hãy còn ngủ vùi, khi đất trời còn mờ tối và sương đêm còn bãng lãng. Khi những ánh nắng đầu tiên vừa ló rạng, hắn ngẩng đầu nhìn lên, hướng lòng mình lên, để cho cả cuộc đời mình được dọi sáng và sưởi ấm trong ánh nắng ban mai tinh khiết.

Tự nhiên hắn thấy cuộc đời mình đẹp.

Hắn thấy diễm phúc vì mình sống hạnh phúc cuộc đời của người được dành riêng.

Hắn thấy mình may mắn lắm, vì thích đi tu từ hồi còn nhỏ…

【Cao Gia An, S.J, Tập Truyện Ngắn “Bên Ngoài Cổng Nhà Thờ” – 2019

From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen