Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi – Truyen ngan QUA’ HAY

Những Câu Chuyện Thú Vị – Kim Thoa

 Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.

Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói phải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.

Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.

Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả ruộng nương, bệnh không khỏi.

Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.

Vì thế bà mối đến, réo rắt: “Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà”.

Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: “Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!”.

Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!

Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mình , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.

Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.

Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.

Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.

Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.

Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v…

Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: “Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?”.

Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: “Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường…”

Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:

“Chị ơi, em yêu chị!”.

Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.

Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.

Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.

Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.

Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:

“Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành”.

Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.

Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?

Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.

Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.

Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.

Nhưng anh vẫn nói: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”.

Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.

Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.

Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.

Lúc đó chị đã 29 tuổi.

Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.

Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!

Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.

Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.

Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.

Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.

Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: “Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!”.

Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?

Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng cười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.

Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.

Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.

Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:

“Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?”.

Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:

“Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi”.

Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.

Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.

Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.

Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:

“Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy”.

Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.

Lê Xích Hải chuyển

(Tác giả :không rõ)


 

THA THỨ – ĐỂ TUỔI GIÀ ĐƯỢC THANH THẢN

Tu Le

Nhà ông Bảy nằm cuối con hẻm nhỏ, đi sâu thêm mấy chục bước là gặp một khoảng cây bàng già che bóng. Mùa này bàng rụng lá, lá vàng nằm rải trên nền xi măng, nhìn xa cứ như ai đó lén trải một tấm thảm cũ cho người già bước chậm.

Trong căn nhà ấy, ông Bảy và bà Mười sống cùng con trai cả là Hùng, con dâu là Linh, thêm hai đứa cháu nhỏ. Con gái út là Vy đi làm xa, thỉnh thoảng về, còn Lộc với Thủy thì mỗi người một ngả, bận bịu, đàng hoàng, đủ trách nhiệm.

Bề ngoài, nhà ấy không có chuyện gì lớn. Cơm ngày ba bữa, tiền điện nước đóng đúng. Con cháu vẫn chào hỏi, vẫn mua thuốc, vẫn gửi quà. Nhưng trong lòng bà Mười có một vết xước nhỏ, lâu ngày không chảy máu nữa, chỉ âm ỉ như đau khớp lúc trở trời.

Vết xước ấy đến từ một câu nói, một câu tưởng như rất bình thường.

Hôm đó, bà Mười đứng trong bếp, loay hoay nhặt rau. Đứa cháu nhỏ chạy vào đòi nước, bà rót vội nên làm rơi cái ly. Ly vỡ, tiếng “choang” vang lên giữa trưa. Linh từ phòng ngoài chạy vào, nhìn mảnh thủy tinh trên nền gạch rồi buột miệng:

“Trời ơi… má đừng đụng nữa, để con làm. Má vụng vậy nguy hiểm lắm.”

Lời nói không có ý xấu. Giọng cũng không gắt. Nhưng chữ “vụng” rơi xuống, nghe sao mà lạnh. Bà Mười đứng im, tay vẫn cầm cái ca nhựa, lòng tự dưng hụt một cái, như thể một phần giá trị vừa bị gạt qua một bên.

Từ hôm đó, bà ít làm việc hơn. Không phải vì lười, mà vì sợ. Sợ mình “vụng”, sợ mình “nguy hiểm”, sợ làm rơi thêm một thứ gì rồi lại nghe thêm một câu nữa.

Ông Bảy nhìn thấy hết. Ông không nói nhiều. Ông chỉ kéo ghế cho bà ngồi, rồi lẳng lặng quét mảnh ly, gói lại, đem bỏ. Xong việc, ông rửa tay rất lâu, như rửa cả cái buồn vừa dính vào lòng.

Tối ấy, khi con cháu đã vào phòng, ông Bảy đem ra hiên một ấm trà. Trà nóng, hơi bốc lên mỏng như sương. Ngoài sân, gió đi ngang qua giàn bông giấy, khẽ rung, làm rơi vài cánh hoa hồng tím xuống nền.

Bà Mười nhìn hoa rơi, bỗng thở rất khẽ:

“Già rồi… chắc vô dụng thiệt.”

Ông Bảy nhấp ngụm trà, giọng chậm rãi như đọc báo:

“Vô dụng sao nuôi được mấy đứa tới giờ? Vô dụng sao cái nhà này còn hơi ấm?”

Bà Mười không đáp. Người già nhiều khi không cần lời đúng. Người già cần một chỗ đặt nỗi tủi thân mà không bị cười.

Nhưng đời sống không cho phép nỗi tủi thân được ngồi yên lâu. Mấy hôm sau, cháu út sốt. Linh thức đêm, mắt thâm quầng. Hùng đi làm về muộn, mặt mệt. Cả nhà như một chiếc máy chạy nhanh, ai cũng quay cuồng trong phần việc của mình.

Trong lúc ấy, bà Mười lại bắt gặp thêm vài chuyện nhỏ.

Buổi sáng, bà nấu nồi cháo loãng cho cháu. Linh nhìn nồi cháo rồi nói, vẫn là giọng lo cho con:

“Má nêm nhạt quá… thôi để con làm lại.”

Lần khác, bà giặt áo cho cháu, phơi ra sân. Linh đi ngang, thu vội vào:

“Để con phơi, má phơi nắng gắt quá áo nó cứng.”

Những câu ấy đều đúng. Nhưng đúng quá, cũng làm người ta đau. Bà Mười nghe mà không cãi. Bà chỉ rút tay lại. Lâu dần, bà học cách “đứng yên cho khỏi sai”.

Và cũng từ đó, một khoảng cách lặng lẽ mọc lên trong nhà.

Không ai ghét ai. Không ai bỏ ai.

Chỉ là, bà Mười bắt đầu thu mình như một cái bóng.

Một chiều, Vy về. Vừa bước vào cửa đã thấy mẹ ngồi bên cửa sổ, mắt nhìn ra hẻm như nhìn qua một đời khác. Vy đặt túi xuống, ngồi xổm trước mặt mẹ:

“Mẹ sao vậy?”

Bà Mười cười cho qua:

“Có sao đâu.”

Vy nhìn đôi tay mẹ. Đôi tay xương xẩu, móng cắt gọn, nhưng run nhẹ. Vy nghe tim mình chùng xuống. Người già hay nói “không sao”, vì họ sợ làm phiền. Nhưng “không sao” của người già nhiều khi là một cái “sao lắm” họ không biết nói với ai.

Tối đó, Vy nói chuyện với cha trong bếp. Ông Bảy đang nhóm lại bếp gas, hâm nồi canh. Lửa xanh lên rồi xuống như hơi thở.

Vy hỏi nhỏ:

“Ba… mẹ buồn chuyện gì?”

Ông Bảy im một lát rồi nói:

“Không phải buồn chuyện lớn. Buồn mấy chuyện nhỏ. Mà chuyện nhỏ mới khó nói.”

Vy cúi đầu. Trong lòng Vy có một ý nghĩ chua chát: tuổi già giống như cái ly mỏng. Người ta không đập nó, chỉ cần đặt mạnh tay một chút là nó đã nứt.

Mấy ngày sau, xảy ra chuyện.

Sáng đó, Linh chạy vào bếp thấy bà Mười nằm dựa vào tủ gỗ, mặt tái. Bà bảo chóng mặt, tim đập nhanh. Linh hốt hoảng gọi Hùng, gọi xe. Ông Bảy luống cuống lục giấy tờ, tay run, miệng lẩm bẩm: “Bình tĩnh… bình tĩnh…”

Trên xe, bà Mười nắm tay ông Bảy. Ngón tay bà lạnh. Ông Bảy áp bàn tay mình lên tay bà, cố truyền một chút ấm. Ngoài cửa kính, nắng sáng rực, cây bàng ngoài hẻm trôi qua như một thước phim, lá vàng chao nhẹ.

Vào viện, bác sĩ bảo bà bị tụt huyết áp, thêm thiếu ngủ, thêm đau nhức kéo dài. Không nguy hiểm ngay, nhưng cần theo dõi. Linh đứng ở hành lang, mắt đỏ. Hùng gọi điện cho Vy, cho Lộc, cho Thủy.

Ai cũng về.

Trong phòng bệnh, bà Mười nằm im. Người già nằm bệnh viện không hay khóc, họ chỉ nhìn trần nhà và nghĩ nhiều điều. Nghĩ về những ngày mình trẻ, mình gồng lên lo cho con. Nghĩ về những câu nói vụn vặt, về những ánh mắt vội, về cái cảm giác “mình thừa”.

Ông Bảy ngồi cạnh, rót nước, mở nắp bình, đưa tận miệng. Bà Mười quay mặt, nói nhỏ:

“Ông về nghỉ đi. Ngồi đây làm gì, phiền con cái.”

Ông Bảy đáp:

“Không phiền. Ở cạnh bà là việc của tôi.”

Câu nói đơn giản, nhưng trong bệnh viện, nó giống như một miếng chăn mỏng đắp lên phần lạnh nhất của lòng người.

Chiều, Linh bế cháu vào thăm. Đứa nhỏ vừa thấy bà đã òa khóc, kêu “bà ngoại, bà ngoại”. Nó trèo lên giường, ôm cổ bà. Bà Mười đưa tay ôm cháu, nước mắt tự nhiên trào ra, không kìm được. Có lẽ trong đời người, có những lúc yếu nhất lại là lúc chạm được vào điều thật nhất.

Linh đứng cạnh giường, ngập ngừng. Lời xin lỗi nhiều khi mắc lại nơi cổ họng, vì sợ nói ra sẽ thành “mình sai”. Nhưng Linh nhìn mẹ chồng gầy đi, nhìn đôi mắt đỏ của Hùng, nhìn đứa trẻ đang ôm bà như ôm một cái neo, Linh bỗng thấy những điều hơn thua bỗng nhỏ xíu.

Linh cúi xuống, giọng khàn:

“Má… con xin lỗi. Con… nhiều khi con nói nhanh, con tưởng là con lo cho má… mà chắc làm má buồn.”

Bà Mười không đáp ngay. Bà chỉ nhìn Linh. Ánh mắt người già không sắc, chỉ sâu. Trong ánh mắt ấy có cả những năm tháng nuôi con, có cả những lần nuốt nước mắt, có cả cái mệt mỏi của người đã mang một vết xước quá lâu.

Ông Bảy nhìn sang vợ. Ông sợ bà nói một câu trách móc, rồi mọi thứ vỡ ra như cái ly bữa nọ. Nhưng bà Mười chỉ thở nhẹ, rồi đưa tay ra, chạm vào cổ tay Linh:

“Thôi… có gì đâu. Con mệt, con lo cho con nít… nói nhanh cũng phải.”

Linh bật khóc. Hùng quay mặt đi, mắt cũng ướt. Vy đứng cuối giường, bỗng thấy tim mình cay cay. Lộc thì lặng lẽ đặt túi trái cây lên bàn. Thủy gọi video, nghe tiếng mẹ, cũng khóc theo.

Người ta tưởng tha thứ là một lời lớn. Nhưng thật ra, tha thứ nhiều khi chỉ là một câu “thôi” nói ra đúng lúc, để người kia còn đường quay lại.

Đêm ấy, ông Bảy ngồi ngoài hành lang. Bệnh viện có mùi thuốc sát trùng, có tiếng dép kéo, có tiếng máy đo nhịp tim “tích… tích…”. Ông nhìn qua cửa kính thấy thành phố sáng đèn, bỗng nhớ lại hồi còn trẻ, ông từng chở bà Mười qua cầu, gió sông thổi lộng, bà ngồi sau lưng, tay bấu áo ông, cười giòn.

Nhớ vậy, lòng ông mềm đi.

Sáng hôm sau, bà Mười đỡ hơn. Bác sĩ cho về, dặn ăn uống điều độ, ngủ đủ. Cả nhà rước bà về. Lúc xe rẽ vào hẻm, cây bàng già vẫn đứng đó, lá vẫn rơi. Nhưng dường như ánh sáng hôm ấy dịu hơn.

Về nhà, Linh không còn “giật” việc khỏi tay mẹ chồng nữa. Linh chỉ nói chậm, hỏi trước:

“Má muốn làm món nào? Con phụ nhé.”

Bà Mười cũng không tự ái mà gạt đi. Bà gật đầu, chỉ cách rửa rau, chỉ cách nêm nếm. Bếp lại có tiếng nói chuyện, nhỏ thôi, nhưng đủ làm căn nhà bớt lạnh.

Có một buổi chiều, Vy rủ mẹ ra trước cửa ngồi. Gió thổi qua hẻm, mang theo mùi hoa sữa cuối mùa. Linh đem ra một đĩa ổi gọt sẵn, đặt xuống, rồi ngồi cạnh, không cầm điện thoại.

Bà Mười nhìn Linh, nói như nói chuyện thường:

“Con làm dâu cũng cực. Má hồi xưa… cũng từng là dâu.”

Linh khựng lại, rồi cười, mắt còn đỏ:

“Má… vậy mà con cứ tưởng má không hiểu.”

Bà Mười lắc đầu:

“Hiểu chứ. Chỉ là… già rồi, không muốn làm phiền.”

Câu “không muốn làm phiền” nói ra, không phải để trách, mà như mở cửa. Người trong nhà nghe được, thì căn nhà mới thật sự là nhà.

Từ hôm ấy, ông Bảy thấy bà Mười ngủ sớm hơn. Bà không còn ngồi một mình trước bếp tắt đèn. Những câu chuyện nhỏ bà bắt đầu kể lại: chuyện chậu hoa đổ, chuyện con mèo nhà hàng xóm, chuyện tiệm tạp hóa đổi chủ. Và kỳ lạ thay, Linh nghe đến hết.

Không phải lúc nào Linh cũng rảnh. Nhưng Linh học một điều: nghe hết một câu chuyện nhỏ là cách rẻ nhất để giữ người già ở lại trong cuộc đời mình.

Có lần, bà Mười làm rơi cái muỗng xuống nền. Linh quay lại, định nói như cũ, rồi kịp dừng. Linh chỉ nhặt muỗng lên, rửa lại, đưa cho bà:

“Không sao đâu má. Ai cũng rơi.”

Bà Mười nhìn Linh, mắt chợt ươn. Không phải vì cái muỗng. Vì câu “ai cũng rơi”. Câu đó trả lại cho người già một phần phẩm giá: già không phải là lỗi, chỉ là một nhịp khác.

Thời gian trôi. Vết xước trong lòng bà Mười không biến mất hẳn, nhưng bớt nhói. Bà hiểu rằng con cháu không cố làm bà buồn. Chúng chỉ vội quá. Và cũng như bà từng vội lúc trẻ mà không biết mình làm ai đó tổn thương, con cháu giờ cũng vậy.

Tha thứ, rốt cuộc, không phải vì người khác xứng đáng.

Mà vì người già không còn đủ sức mang gánh nặng đó tới cuối đời.

Một tối, trước khi ngủ, ông Bảy ngồi ở hiên, nhìn trăng mỏng. Trăng treo trên mái nhà, sáng vừa đủ. Bà Mười bước ra, đưa ông cái áo khoác:

“Trời lạnh.”

Ông Bảy cười:

“Bà cũng biết thương tôi hả?”

Bà Mười đáp, giọng nhẹ như gió:

“Già rồi… thương nhau đừng để muộn.”

Ngoài sân, giàn bông giấy rơi thêm một cánh. Cánh hoa nằm im, không làm phiền ai. Nhưng ai nhìn thấy, cũng biết: có những điều đẹp nhất là những điều rơi khẽ.

Và trong căn nhà nhỏ cuối hẻm, người già đã đi qua một ngã rẽ rất sâu: từ chỗ giữ trong lòng, sang chỗ đặt xuống. Từ chỗ mong được bù đắp, sang chỗ chọn bình an.

Tha thứ, đến sau cùng, không phải là câu chuyện của đúng sai.

Tha thứ là cách tuổi già tự cứu mình khỏi những ngày tháng còn lại bị nặng vì một câu nói lỡ.

Và khi lòng đã nhẹ, người già không cần phải cố “không làm phiền” nữa.

Bởi sự hiện diện của họ tự nhiên đã trở thành một điều êm.

– Tu Le – người viết giữa hai miền

#Gotacoffee#ngườiviếtgiữahaimiền


 

Chồng bà đã cho bà vào trại tâm thần suốt ba năm

Tội của bà không phải là bạo lực, không phải cuồng loạn, cũng không phải mê sảng.

Tội của bà là dám suy nghĩ bằng chính cái đầu của mình.

Năm 1860, Elizabeth Parsons Ware Packard 43 tuổi.

Bà đã kết hôn 21 năm, là mẹ của sáu người con, sống ở vùng nông thôn bang Illinois. Nhìn bề ngoài, bà là hình mẫu “đúng chuẩn” của một người vợ thời đó: đứng đắn, đạo mạo, biết chữ, có đức tin.

Nhưng Elizabeth còn hơn thế.

Bà đọc triết học, đọc thần học. Bà đặt câu hỏi. Bà tin rằng đức tin chân chính không thể tách rời lương tri và lý trí. Rằng tin Chúa không có nghĩa là phải ngừng suy nghĩ.

Chồng bà, Theophilus Packard, thì không nghĩ vậy.

Ông ta là một mục sư Tin Lành với niềm tin Calvin cứng nhắc, và tin rằng mình có quyền tuyệt đối trong gia đình. Với ông ta, việc Elizabeth chất vấn thuyết tiền định, từ chối vâng phục mù quáng và muốn tự đưa ra kết luận riêng không phải là tư duy — mà là nổi loạn.

Và một người phụ nữ nổi loạn, theo ông ta, là… bệnh hoạn.

Luật pháp bang Illinois lúc đó đứng hẳn về phía người chồng.

Chỉ cần lời khai của chồng, một người vợ có thể bị đưa vào trại tâm thần không cần xét xử, không cần bác sĩ, không cần bằng chứng, và cũng không có quyền tự bào chữa. Lời của người đàn ông là đủ.

Một ngày nọ, không báo trước, Elizabeth bị bắt đưa đi và nhốt vào trại tâm thần Jacksonville.

Bà không la hét. Không chống cự.

Bà bình tĩnh giải thích rằng mình hoàn toàn tỉnh táo và muốn được gặp một người có thẩm quyền.

Không ai nghe.

Cánh cửa đóng lại sau lưng bà.

Bên trong trại, Elizabeth sớm nhận ra một sự thật lạnh người:

Nơi này không đầy những phụ nữ điên loạn hay nguy hiểm.

Nó đầy những người vợ nói quá nhiều, những cô gái không chịu cúi đầu, những người phụ nữ có quan điểm, niềm tin hoặc sự độc lập khiến đàn ông xung quanh khó chịu.

Có người bị nhốt vì dám nghi ngờ giáo lý.

Có người vì từ chối hôn nhân sắp đặt.

Có người vì muốn tự quản lý tài sản của mình.

Có người… chỉ vì quá thẳng thắn.

Elizabeth hiểu ra:

“Điên” thường chỉ là cái nhãn để buộc phụ nữ phải im lặng.

Điều kiện trong trại vô cùng tàn nhẫn.

Bệnh nhân bị trói, bị cách ly, bị trừng phạt vì những lỗi nhỏ nhặt, bị đối xử tàn nhẫn dưới danh nghĩa “điều trị”. Ở đó, sức khỏe tâm thần không quan trọng.

Chỉ có sự phục tùng là quan trọng.

Elizabeth không khuất phục.

Bà quan sát. Ghi nhớ. Lắng nghe câu chuyện của những người xung quanh. Khi có thể, bà viết lén, ghi lại tên tuổi, bất công, cách thức lạm quyền. Bà hiểu rằng trí óc là thứ duy nhất họ không thể cướp đi — trừ khi bà tự giao nộp nó.

Suốt ba năm, bà bị giam giữ, trong khi các con lớn lên không có mẹ. Chồng bà kiểm soát thư từ, đi đâu cũng kể rằng vợ mình “không ổn định”. Còn xã hội bên ngoài thì mặc nhiên tin rằng trại tâm thần biết họ đang làm gì.

Năm 1863, Elizabeth được thả ra, nhưng lại bị trao về cho chồng — vẫn bị coi là điên, vẫn không có quyền công dân.

Bà không chấp nhận.

Elizabeth yêu cầu một phiên tòa công khai.

Năm 1864, trước bồi thẩm đoàn gồm 12 người đàn ông, Elizabeth làm điều mà không người phụ nữ nào trong hoàn cảnh của bà được mong đợi sẽ làm:

bà tự bào chữa cho chính mình.

Bà nói điềm tĩnh. Rõ ràng. Logic.

Bà trả lời từng câu hỏi. Trình bày niềm tin của mình. Và bóc trần luận điệu cho rằng bất đồng quan điểm đồng nghĩa với điên loạn.

Bồi thẩm đoàn chỉ mất bảy phút.

Phán quyết là nhất trí:

Elizabeth Packard hoàn toàn tỉnh táo. Và bà chưa từng điên.

Chồng bà nổi giận điên cuồng.

Nhưng Elizabeth đã tự do.

Bà hoàn toàn có thể dừng lại ở đó.

Nhưng bà không làm vậy.

Elizabeth hiểu rằng chiến thắng của riêng bà chẳng có ý nghĩa gì nếu cả hệ thống vẫn còn nguyên. Hàng nghìn phụ nữ khác vẫn có thể bị xóa sổ nhân phẩm chỉ bằng một chữ ký của chồng, cha hay người giám hộ nam.

Và bà biến sự sống sót của mình thành một sứ mệnh.

Bà viết sách vạch trần hệ thống trại tâm thần và các kẽ hở pháp luật cho phép lạm quyền. Bà công bố những câu chuyện chi tiết về sự tàn nhẫn và nỗi đau âm thầm của những phụ nữ tỉnh táo bị giam cầm vô cớ. Bà đi khắp nơi — thường là một mình — trực tiếp gặp các nhà lập pháp, đứng trước nghị viện và yêu cầu cải cách.

Bà bị khinh thường. Bị chế giễu. Bị tấn công.

Bà vẫn không dừng lại.

Từng bang, từng bang một, luật pháp bắt đầu thay đổi.

Nhờ Elizabeth Packard, phụ nữ có quyền được xét xử trước khi bị đưa vào trại tâm thần. Có quyền có luật sư, trình bày bằng chứng, bảo vệ sự tỉnh táo của mình trước tòa. Những người chồng mất đi quyền lực tuyệt đối để nhốt vợ chỉ vì bất tuân hay bất đồng quan điểm.

Quyền lực không kiểm soát đã trở thành quyền lực phải chịu trách nhiệm.

Elizabeth Packard sống đủ lâu để thấy những cải cách của mình lan rộng khắp nước Mỹ. Bà chưa bao giờ ngừng viết. Chưa bao giờ ngừng nói. Chưa bao giờ ngừng khẳng định rằng sức khỏe tâm thần không thể được định nghĩa bằng sự vâng lời.

Chồng bà từng cố xóa sổ bà bằng cách gọi bà là điên.

Ngược lại, bà trở thành một trong những nhà cải cách quan trọng nhất thế kỷ XIX về sức khỏe tâm thần và quyền phụ nữ.

Cuộc đời bà vừa là lời cảnh báo, vừa là minh chứng:

Quyền được suy nghĩ không tự nhiên mà có.

Nó từng bị tước đoạt, bị đánh cắp, bị biến thành vũ khí chống lại những ai dám nghĩ khác.

Và đôi khi, thứ duy nhất ngăn cách giữa im lặng và công lý là một con người từ chối chấp nhận một lời nói dối.

Elizabeth Packard đã từ chối.

Và pháp luật buộc phải lắng nghe.


 

NGƯỜI BẢO TRỢ CỦA TÔI- Tác Giả: Tam Nguyễn- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo cộng sản, gia đình tôi sang Mỹ theo diện HO 15 đầu trọc: không thân nhân bảo trợ.

Tôi đã trải qua.

Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt.

Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường.

Ngày đi không thể dời.

Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha.

Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không một người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa.

Rồi đoạn cuối của cuộc hành trình đã đến.

Theo chân các hành khách, tôi dắt dìu vợ con ra khỏi máy bay.

Ra đón gia đình chúng tôi có một số người Mỹ và Việt Nam, tôi còn đang ngỡ ngàng với người và cảnh quá lạ xa nầy thì một bà đầm Mỹ đến ôm tôi và trao bó hoa, chụp hình lưu niệm.

Sau vài sự giới thiệu (mà lúc đó đầu óc tôi trống rỗng) gia đình tôi được bà Mỹ bảo trợ tên là Helen dẫn ra xe và chở về một apartment mà bà đã thuê sẵn.

Vợ chồng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác khi thấy sự chuẩn bị quá ư đầy đủ của bà bảo trợ: từ cục xà bông, cái khăn tắm, cuộn giấy đi cầu đến cái móc áo… mọi vật dụng cần thiết đều có sẵn, tại phòng khách với chiếc TV hiệu SONY 20 inch mà cả cuộc đời tôi không bao giờ dám mơ ước tới thì nay đã hiện hữu và từ nay tôi không còn phải lội bộ thật xa đến xóm chợ đầu làng để xem những trận đá banh với cái TV cà rịch cà tang…

Còn 2 thằng con tôi thì hả hê với chiếc máy game.

Vợ tôi cứ xuýt xoa mãi sao mà họ tử tế quá… tôi còn được biết

(qua người Việt Nam dịch lại) là tiền nhà tháng đầu bà bảo trợ đã tặng cho tôi.

Sau khi đã chỉ dẫn những cách sử dụng vài vật dụng cần thiết trong nhà cũng như những điều không được làm như không mở cửa cho người lạ mặt v.v… mọi người từ giã ra về, riêng bà bảo trợ thì dặn tôi chuẩn bị các thứ giấy tờ cần thiết để sáng mai bà đến đón gia đình tôi lúc 9 giờ.

Bà còn nói đùa là nhớ mở cửa cho bà…

Cả đêm đó tôi trằn trọc không sao ngủ được dù người tôi mệt mỏi rã rời sau chuyến hành trình dài.

Sáng hôm sau và dài dài sau đó, bà bảo trợ đã đón đưa gia đình chúng tôi đi làm những thủ tục lúc đầu như làm thẻ An Sinh Xã Hội, khám sức khoẻ, nộp giấy tờ cho 2 con tôi đi học và hướng dẫn vợ con tôi, chỉ bảo tôi từ đường đi nước bước cho đến khi tôi bắt đầu thi đậu lái xe thì bà nghĩ rằng tôi có thể tạm quen dần với cuộc sống, nên thỉnh thoảng khi có việc cần bà mới đến, tuy nhiên những ngày Chúa Nhật bà thường đưa gia đình tôi đi, sau đó về chơi và ăn uống ở nhà bà rồi bà dạy Anh Văn cho vợ chồng tôi.

Căn nhà bà ở một nơi thật yên tĩnh và có vườn hoa xinh xắn, qua tâm tình với bà, tôi được hiểu rõ về lý do tôi được bà bão lãnh, bà kể lại rằng sỡ dĩ bà chọn bảo trợ tôi vì khi đọc hồ sơ ở Hội Từ Thiện USCC được biết đơn vị của tôi ngày xưa đóng ở PLEIKU mà nơi đây chồng bà đã công tác rồi mất tích.

Bởi địa danh Pleiku cứ ám ảnh tâm trí bà và trong những giấc mơ, Bà thấy chồng hiện về mặt mũi đầy máu và nói rằng ông đã được một người nông dân Việt Nam cứu nhưng vì vết thương quá nặng nên ông không sống được!

Bà cũng đã cho tôi xem những bức hình chồng bà chụp những cảnh Pleiku như Biển Hồ, núi Hàm Rồng, hình người Thượng mang gùi dẫn nhau từng đàn trên đường ra chợ… tất cả đối với bà là những kỷ niệm còn sót lại của chồng bà nhưng đối với tôi là cả một vùng trời kỷ niệm thân thương của cuộc đời quân ngũ.

Chồng bà đã mãn nhiệm kỳ ờ Việt Nam nhưng tình nguyện ở lại công tác tiếp và bị mất tích, bà tự hỏi không hiểu cái gì ở Việt Nam đã hấp dẫn chồng bà.

Bà còn kể cho tôi nghe vài món ăn Việt Nam mà chồng bà ưa thích và nay thì bà đang thực tế cùng ăn với gia đình tôi và tỏ ra thích thú lắm.

Tình thân giữa gia đình tôi và bà bảo trợ càng ngày càng thấm thiết.

Vì không có con cái nên mọi tình thương bà dồn cho 2 đứa con tôi.

Thời gian khi con tôi đau phải nằm bệnh viện, ngày nào bà cũng đến chăm nom săn sóc với nỗi lo hiện trên nét mặt như chính người thân yêu của bà. 

Tôi thỉnh thoảng vẫn đến dọn dẹp mảnh vườn nhỏ của bà, bà trả thù lao nhưng tôi từ chối thì bà tế nhị mua cho vợ hoặc con tôi những thứ khác.

Bà cho biết bà đang làm việc tình nguyện ở một bệnh viện và thỉnh thoảng bà có cộng tác với Hội Hồng Thập Tự.

Đôi khi tôi thấy bà đem quần áo về nhà giặt sạch sẽ, ủi cẩn thận và bỏ vào thùng mang đi.

Bà âm thầm làm việc liên tục, ít khi thấy bà nghỉ ngơi và lúc nào bà cũng vui vẻ biểu hiện qua khuôn mặt đầy lòng nhân ái.

Thỉnh thoảng bà cũng thường hay hỏi tôi về đời sống người dân ở Việt Nam.

Bà rất quan tâm và thông cảm với những khốn khổ mà người Việt Nam đang gánh chịu.

Khi biết có bão lụt ở Việt Nam, bà rất tích cực đóng góp vào công việc cứu trợ, nhất là bà thường gởi tiền giúp cho trẻ em Cô Nhi Viện Việt nam.

Một hôm thật tình cờ tôi gặp bà cũng đến hiến máu ở Trung tâm Hiến Máu thành phố, tôi càng thấy thương và kính phục bà nhiều hơn. 

Gặp nhau tại đây, bà nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hài lòng khi thấy tôi cũng hiện diện, nhìn tấm thẻ ghi ngày hiến máu của bà đã gần hết chỗ ghi ngày tháng tôi được biết thêm đây không phải là lần đầu tiên bà đến đây.

Tại nơi nầy tôi cũng được dịp quan sát và thấy người Mỹ họ đi hiến máu thật đông mà giới trẻ đi hiến máu cũng không phải là ít, tôi ao ước trong  cộng đồng Việt Nam chúng ta mọi người động viên nhau đến với Trung Tâm Hiến Máu thì thật là quý báu lắm thay.

Sau nầy có lần bà hỏi tôi bên Việt Nam có đi hiến máu đông không, tôi thật tình kể với bà rằng tôi chỉ thấy chỉ có những người dân nghèo ở Sài gòn phải đi bán máu để kiếm sống, bà tỏ ra xót xa!

Càng gần gũi biết về bà tôi càng thương bà hơn

Tôi kính trọng bà như chị ruột của tôi, gặp những gì khó khăn tôi thường đến nhờ bà hướng dẫn và ngược lại bà cũng không giấu tôi những nỗi niềm riêng tư của bà.

Bà đã bỏ đi cả quãng đời thanh xuân để sống âm thầm với kỷ niệm mặc dù có bao chàng trai đã đến cầu hôn bà khi bà là một thiếu nữ trẻ đẹp.

Sự thủy chung của bà như viên ngọc quý giữa cái xã hội thay chồng đổi vợ như thay áo ở xứ Mỹ văn minh nầy.

Theo bà công tác từ thiện đã giúp bà vượt qua mọi cám dỗ để đứng vững đến ngày hôm nay.

Có lần tôi hỏi bà sao không nuôi chó hoặc mèo cho vui.

Bà nói bà cũng thích và thương thú vật lắm nhưng bà phải dành thì giờ làm những công việc khác có ích hơn và tiền mua thức ăn cho súc vật để dành giúp cho người nghèo có được miếng sống thì quý hơn.

Từ những suy nghĩ đơn sơ đầy tình người, những giúp đỡ thiết thực của bà đối với người dân nghèo Việt Nam và cá nhân gia đình tôi, tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói lên lòng biết ơn Bà.

Tôi chỉ cầu xin ơn trên cho bà luôn được mạnh khoẻ để đem tình thương đến cho mọi người.

Một hôm bà nói với tôi rằng từ lâu bà ao ước được đi thăm Việt Nam

một chuyến, nhất là đi đến cái xứ Pleiku đó, bà muốn tôi cùng đi và nói khi nào tôi sẵn sàng đi được thì báo cho bà biết.

Qua Mỹ hơn 4 năm, tôi cũng nhớ Mẹ già và quê hương lắm, muốn về thăm nhưng ngặt nỗi nếu đi cả vợ chồng và 2 đứa con vào dịp Hè thì quá tốn kém.

Như hiểu được khó khăn của tôi, Bà nói sẽ tặng  vé máy bay cho cả gia đình tôi.

Nói vậy chứ tôi đâu dám nhận vì vợ chồng tôi đã mang ơn bà nhiều quá. Cuối cùng tôi đã báo cho bà là dịp Hè tới được nghỉ, tôi và thằng con trai lớn sẽ cùng bà đi Việt Nam, bà vui mừng ra mặt, tôi chưa thấy lần nào bà vui như lần nầy.

Bà nói được đi Việt Nam là bà mãn nguyện lắm.

Bà đưa ra những dự tính phải làm khi đến Việt Nam.

Thời gian như ngắn lại, bà đếm từng ngày, chỉ còn ba tuần nữa thôi.

Nhưng rồi tang thương lại một lần nữa ập xuống.

Một buổi chiều thứ sáu như thường lệ trên đường từ Hội Hồng Thập Tự về nhà, xe bà đã bị một xe truck do một tài xế Việt Nam đụng phải và bà đã trút hơi thở cuối cùng nơi bệnh viện không một người thân.

Nhận tin mà tôi tưởng chừng như xung quanh đất trời sụp đổ, tôi chết lặng hồi lâu.

Cuộc đời sao quá oan nghiệt, ước nguyện thật nhỏ nhoi của bà đã không thành.

Biết đâu Thượng Đế muốn dành cái chết như phần thưởng cho riêng bà.

Biết đâu giờ này bà đã gặp lại chồng bà và hai ông bà đang hạnh phúc bên nhau nơi miền miên viễn.

Có lẽ Thượng Đế không muốn bà phải lặn lội đường xa tìm tin tức chồng trong vô vọng và Ngài cũng không muốn bà phải tận mắt chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân Việt Nam đang sống dưới chế độ phi nhân của cộng sản.

Gia đình tôi hoà lẫn giữa đám đông người Mỹ trong đám tang thật cảm động để đưa tiễn bà lần cuối, viếng xác bà khi còn đặt ở nhà quàn, tôi thấy mặt bà đã được trang điểm thật đẹp, trông bà thật thanh thản và mặt bà như có vẻ mãn nguyện… tôi muốn được ôm từ biệt bà lần cuối

và thét lên rằng: “Chị ơi sao đành bỏ em”!

Vợ tôi đã ngất xỉu khi quan tài bà hạ huyệt.

Sau cái chết của bà, gia đình tôi thấy thật trống vắng, hai con tôi lúc nào cũng nhắc tới bà với nhiều nhớ thương.

Vợ chồng tôi cũng dự định chuyển đi tiểu bang khác ấm áp hơn để hy vọng tìm một chút an bình.

Nay ngồi ngẫm lại những sự việc xảy ra: ngày bà chết cũng đúng vào ngày cha tôi mất (mùa lễ Phục Sinh).

Rồi cả bà và chồng bà đều chết bởi người Việt Nam gây ra, tôi không hiểu tại sao có thể như vậy…

Lòng tôi quặn thắt khi nghĩ đến bà, gia đình tôi mang ơn bà mà không bao giờ trả được.

Nhớ thương bà tôi chỉ biết đặt ảnh bà cùng chung với bàn thờ cha tôi, cha mẹ tôi đã sinh ra tôi còn bà đã cho tôi lý tưởng sống.

Bây giờ trên bàn thờ cha tôi có thêm bức hình của bà Helen.

Chị ngồi đây với cha tôi và hàng năm ngày cúng giỗ cha tôi cũng là ngày tôi cúng giỗ chị.

Mộ chị sẽ không quạnh hiu vì có chúng tôi đến với chị như khi chị còn sống trên cõi đời nầy.

Sau đám tang bà Helen một thời gian, một hôm tôi sững sờ khi luật sư báo cho biết theo di chúc, bà Helen để lại tặng cho vợ chồng tôi căn nhà của bà và ngoài ra bà còn tặng 100 ngàn đô la cho Cô Nhi Viện ở Việt Nam.

Khi gia đình tôi dọn về căn nhà của bà, tôi tự hỏi mình đã làm gì để được hưởng phần thưởng nầy.

Suốt cuộc đời tôi phải sống trong ân tình ngút ngàn mà không bao giờ trả được.

Trước mộ bà, tôi thầm khấn vái “chị Helen sống linh chết thiêng xin phù hộ gia đình tôi, dẫn đường soi lối cho tôi đi theo lý tưởng của chị: sống vì mọi người”

Tác Giả: Tam Nguyễn


 

CÁNH CỬA KHÔNG BAO GIỜ KHOÁ – Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

Cô gái mới có 18 tuổi, cô – như hầu hết các thanh niên ngày nay – chán sống chung trong một gia đình nền nếp.

Cô chán lối sống khuôn phép của gia đình.

Cô muốn rời khỏi gia đình:

– Con không muốn tin ông trời của ba mẹ. Con mặc kệ, con đi đây!

Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà mình.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu, cô bị ruồng bỏ vì không tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ta làm thứ để mua bán, đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi và cô con gái đó ngày càng sa đọa trong lối sống của mình.

Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy.

Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp

thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:

– Làm ơn cho tôi chưng tấm hình ở đây!

Đó là tấm hình một bà mẹ tóc muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: 

“Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”.

Vài tháng lại trôi qua, vẫn không có gì xảy ra.

Rồi một ngày, cô gái đến toán cứu trợ nọ để nhận một bữa ăn cứu đói.

Cô chẳng buồn chú ý đến những lời giáo huấn, mắt lơ đễnh nhìn những tấm hình và tự hỏi: 

“Có phải mẹ mình không nhỉ?”.

Cô không còn lòng dạ nào chờ cho hết buổi lễ. Cô đứng lên, ra xem kỹ bức ảnh. Đúng rồi, đúng là mẹ cô và cả những điều bà viết nữa: 

“Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.

Lúc đó trời đã tối nhưng bức hình đã làm cô gái xúc động đến mức cô quyết định phải đi bộ về nhà.

Về đến nhà trời đã sáng tỏ.

Cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao.

Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá.

Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà.

Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội lên buồn ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên.

Cô đánh thức mẹ mình dậy:

– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Không tin vào đôi mắt mình,bà mẹ lau  nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau.

Cô gái nói với mẹ:

– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm!

Bà mẹ nhìn con âu yếm:

– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá.

Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!

Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!

Nguồn : sưu tầm 


 

Giữ lại phẩm giá cho người khác bằng cách nào?-TG Văn Chương – Truyen ngan HAY

TG Văn Chương

” Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ “

————————

Tôi nói dối ông chủ tôi mỗi ngày.

Tôi năm nay 72 tuổi. Tôi là một chức sắc trong nhà thờ, đóng thuế đàng hoàng, chưa bao giờ bị phạt nguội lần nào. Nhưng suốt chín năm nay, tôi đang thực hiện một kiểu “lừa đảo” ngay dưới mũi của ban quản lý tiệm đồ cũ “Cơ Hội Thứ Hai” này.

Nếu họ biết được, họ sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức, chẳng kịp cho tôi cởi cái tạp dề ra. Nhưng tôi kệ. Bởi vì trong một xã hội cứ thích tước đoạt đi lòng tự trọng của người khác, tôi đã tìm ra cách để trả lại nó cho họ.

Công việc của tôi đơn giản lắm: phân loại đồ quyên góp. Tôi dán nhãn giá cho quần jeans, mấy cái áo khoác mùa đông nặng trịch, mấy đôi giày bảo hộ còn dùng tốt. Hầu hết khách hàng chẳng thèm nhìn tôi. Đối với họ, tôi chỉ là một phần của cảnh vật: một ông già lụ khụ, mắt đeo kính, tay bị đau khớp, cứ cắm cúi định giá mấy món đồ có mùi băng phiến và mùi ký ức của người lạ.

Nhưng cái việc vô hình này lại có cái lợi của nó. Nó cho phép tôi nhìn thấy hết mọi thứ.

Tôi thấy mấy bà mẹ đơn thân cứ so đi so lại giá đôi giày đi học của con với tiền mua thức ăn. Tôi thấy mấy chú cựu chiến binh cứ nhìn chằm chằm vào bộ vest họ cần để đi phỏng vấn, nhìn vào cái ví tiền rồi lặng lẽ quay lưng đi.

Và tôi nhớ nhất là thằng bé đó.

Lúc đó là giữa tháng Mười Một, ở cái thị trấn rỉ sét, lạnh lẽo của chúng tôi. Gió lùa qua phố sắc như dao cắt. Thằng bé bước vào với cái áo nỉ mỏng dính, đến nỗi nhìn rõ cái áo thun bên trong. Nó chắc chưa tới mười bốn tuổi. Gầy gò, run cầm cập, với cái nhìn vô hồn mà những đứa trẻ hay mang khi chúng bị xã hội bỏ rơi quá nhiều lần.

Nó đi thẳng đến khu áo khoác. Nó tìm thấy một chiếc áo parka xanh hải quân, rất ấm, hàng hiệu, gần như mới. Giá là 25 đô la. Nghe thì bèo, nhưng đối với nó là cả một gia tài.

Tôi lén nhìn. Nó chạm vào ống tay áo, như muốn cảm nhận hơi ấm mà chiếc áo hứa hẹn. Nó nhìn cái nhãn giá. Vai nó xụ xuống khoảng chục phân. Nó không rên rỉ, không than thở. Nó chỉ cẩn thận treo chiếc áo lên lại và đi thẳng ra cửa.

Tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể đơn giản là cho không nó. Tôi học được rằng, việc bố thí có thể mang lại vị đắng cho những người đang cố gắng sống sót. Nếu bạn đưa tiền bố thí, họ cảm thấy mình nhỏ bé. Họ cảm thấy mình như một trường hợp cần giúp đỡ xã hội.

Thế là tôi cầm chiếc áo, đi ra quầy tính tiền để chặn nó lại.

“Ê, nhóc,” tôi gọi.

Nó đứng khựng lại, sẵn sàng chạy trốn. “Con không có ăn cắp gì hết!”

“Tao biết,” tôi càu nhàu, đóng vai ông già khó tính. “Nhưng tao đang có rắc rối. Cái áo này hả? Nó bị lỗi. Cái khóa kéo dưới cùng nó bị kẹt. Mà theo quy định của cửa hàng, đồ bị lỗi thì không thể bán quá ba đô la. Mày có ba đô la không?”

Nó nhìn tôi, bối rối. “Nhãn ghi hai mươi lăm mà.”

“Nhãn ghi sai đấy,” tôi nói dối, giật phắt cái nhãn đi. “Tao là người quản lý kho. Tao nói nó ba đô la. Mày lấy không hay để tao quăng nó đi?”

Nó do dự, dò xét gương mặt tôi xem có bẫy gì không. Rồi nó lục túi, lôi ra ba tờ tiền nhăn nhúm.

“Dạ, có,” nó thì thầm. “Con lấy.”

Nó mặc chiếc áo vào ngay lập tức. Kéo khóa lên tận cổ — khóa vẫn hoạt động trơn tru, dĩ nhiên rồi — và nó thẳng lưng lên. Nó không còn trông như một thằng bé co ro vì lạnh nữa. Nó trông như một thanh niên vừa mới làm một phi vụ hời. Nó trông có vẻ được che chở.

“Cảm ơn ông,” nó nói.

“Quy định cửa hàng thôi,” tôi lầm bầm, quay lưng đi để nó không thấy mắt tôi hơi ướt.

Mọi chuyện bắt đầu từ đó.

Nhiều năm qua, cái “quy định cửa hàng” đó đã trở thành vũ khí bí mật của tôi.

Khi bà Miller, một góa phụ sống bằng đồng lương hưu ít ỏi, cần một cái máy nướng bánh mì mới nhưng chỉ có 5 đô la trong túi, thì cái máy 20 đô la bỗng nhiên bị dán nhãn là “dây điện bị hở”.

Khi một ông bố trẻ cần đôi giày bảo hộ để bắt đầu công việc xây dựng đầu tiên, tôi tự động “giảm giá đặc biệt sáng thứ Ba”.

Tôi tự nhớ trong đầu. Tôi tự bỏ tiền túi bù vào nếu tiền mặt bị hụt, hoặc tôi khai báo những món đồ đó là “không bán được/đã tiêu hủy” trong hệ thống. Tôi sợ bị bắt lắm chứ.

Thế rồi một buổi chiều, một người phụ nữ đeo khăn choàng cashmere đã bắt quả tang tôi. Cô ta thấy tôi bán một chiếc xe đẩy em bé gần như mới cho một cô gái trẻ đang sợ hãi với giá 10 đô la.

Khi cô gái đi khỏi, người phụ nữ đó bước đến. Tôi chuẩn bị tinh thần bị mắng té tát hoặc bị dọa gọi quản lý.

Thế nhưng, cô ta lại đặt một tờ 100 đô la gấp gọn lên quầy

“Cho mấy cái… sai sót kiểm kê của ông,” cô ta nháy mắt.

Và chuyện này bắt đầu lan ra. Một cách kín đáo. Những khách quen bắt đầu hiểu. Họ không bao giờ nói một lời. Họ mua một món đồ lặt vặt giá 5 đô la, đưa tôi tờ hai mươi, rồi nói: “Giữ lại tiền thối cho lần sau… hệ thống gặp trục trặc nhé.”

Chúng tôi đã xây dựng nên một nền kinh tế bí mật chỉ dựa trên phẩm giá. Chúng tôi không bố thí; chúng tôi đang cân bằng lại cơ hội.

Thứ Ba tuần trước, tiếng chuông trên cửa kêu leng keng.

Một người đàn ông bước vào. Cao lớn, vai rộng, mặc bộ đồng phục nhân viên cấp cứu chỉnh tề. Anh ta đi đứng tự tin, nhưng không phải để mua sắm.

Anh đi thẳng đến quầy của tôi.

“Ông là Arthur,” anh ta khẳng định.

Tôi chỉnh lại kính. “Đúng là tôi.”

Anh ta cười, và đột nhiên, tôi thấy lại hình ảnh cậu bé mười bốn tuổi gầy gò trong chiếc áo nỉ xám mỏng manh ngày nào.

“Ông bán cho tôi cái áo parka xanh hải quân cách đây mười năm,” anh ta nói. “Ông bảo cái khóa kéo nó bị hỏng.”

Tôi cảm thấy má mình nóng ran. “Tôi xử lý nhiều áo khoác lắm, cậu bé.”

“Khóa kéo không hề hỏng đâu, Arthur.” Anh ta cúi xuống, giọng nghẹn lại vì xúc động. “Tôi biết ông nói dối. Ngay cả lúc đó tôi cũng biết. Nhưng ông đã không bắt tôi phải đi xin xỏ. Ông để tôi được mua nó. Ông để tôi là một khách hàng, chứ không phải một kẻ ăn xin. Tôi bước ra khỏi đây với cảm giác như một người đàn ông.”

Anh ta rút ra một phong bì từ túi áo.

“Giờ tôi là nhân viên cấp cứu. Tôi cứu người. Nhưng tôi không nghĩ tôi đã sống sót qua mùa đông năm đó nếu không có chiếc áo khoác đó. Hoặc nếu không biết rằng có người thực sự quan tâm đến mình.”

Anh ta đặt phong bì lên quầy.

“Trong đây có 500 đô la,” anh ta nói. “Ông dùng nó đi. Tôi biết cái ‘quy định cửa hàng’ của ông tốn kém lắm.”

Tôi run rẩy cố gắng trả lại. “Tôi không thể…”

“Cái này không phải cho ông,” anh ta nói dứt khoát. “Nó dành cho đứa trẻ run rẩy tiếp theo bước vào đây. Hãy đảm bảo rằng khóa kéo của nó cũng bị hỏng, nhé.”

Rồi anh ta quay lưng bước đi, đầu ngẩng cao, hòa vào ánh nắng mùa thu.

Tôi đã 72 tuổi. Lưng tôi đau, chân tôi sưng vù sau một ngày dài. Nhưng tôi có công việc tuyệt vời nhất trên đời.

Chúng ta đang sống trong một đất nước nói rằng giá trị của bạn phụ thuộc vào số tiền trong tài khoản. Người ta bảo nhau phải tự lực cánh sinh, ngay cả khi họ không có gì.

Nhưng tôi đã học được một điều trong cái cửa hàng bụi bặm cũ kỹ này: Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Đôi khi, giúp đỡ một người không chỉ là cho họ thứ họ cần. Mà là cách bạn trao nó cho họ.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ — nếu bạn có thể giúp họ mà không làm họ cảm thấy nhỏ bé — bạn không chỉ nuôi dưỡng thân thể họ, bạn còn đang cứu rỗi cả tâm hồn họ nữa.

Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục nói dối. Tôi sẽ tiếp tục lách luật. Tôi sẽ tiếp tục bịa ra những quy định không hề tồn tại.

Bởi vì cái mác giá chẳng có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là người mặc nó.

TG Văn Chương


 

Bánh Mì Nửa Ổ – Đoàn Xuân Thu – Truyen ngan HAY

LƯƠNG VĂN CAN K 76. – Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu

Tản văn của một người cha kể lại ký ức tuổi thơ đầy nước mắt và lòng biết ơn người bạn nhỏ.

Năm tôi 13 tuổi, tôi mang trong lòng một nỗi xấu hổ mà chẳng biết nói cùng ai. Gia đình tôi nghèo đến mức nhiều ngày tôi đến trường mà trong cặp không có lấy một mẩu thức ăn. Giờ ra chơi, trong khi bạn bè vui vẻ mở hộp cơm trưa – nào là táo đỏ, bánh quy, ổ bánh mì kẹp thịt – tôi chỉ biết ngồi lặng thinh. Tôi giấu ánh mắt mình sau trang sách, giả vờ như đang mê mải đọc, để không ai thấy chiếc bụng trống rỗng đang sôi lên vì đói. Nhưng cơn đói không chỉ ở dạ dày – nó lan ra cả trong tim, nơi nỗi xấu hổ âm ỉ từng ngày.

Thế rồi, một ngày nọ, có một cô bé cùng lớp đã để ý thấy. Không ồn ào, không làm ai chú ý, cô nhẹ nhàng chìa ra trước mặt tôi một nửa phần ăn trưa của mình. Một nửa ổ bánh mì. Tôi ngượng chín mặt, nhưng cũng chẳng thể từ chối. Tôi nhận lấy.

Ngày hôm sau, cô lại đưa. Rồi hôm sau nữa. Khi thì là một cuộn bánh ngọt, khi thì một quả táo đã được cắt sẵn, khi thì miếng bánh bông lan thơm mùi bơ mà mẹ cô đã làm.

Với tôi lúc ấy, mỗi phần ăn ấy giống như phép màu nhỏ bé. Lần đầu tiên sau nhiều tháng dài, tôi cảm thấy mình được nhìn thấy – được một ai đó để tâm tới.

Rồi đột ngột, cô bé ấy biến mất. Gia đình cô chuyển nhà, cô không trở lại trường nữa. Mỗi ngày giờ ra chơi, tôi lại len lén nhìn ra cửa lớp, mong thấy bóng dáng cô bước vào với nụ cười quen thuộc và nửa ổ bánh mì trong tay. Nhưng cô chẳng quay lại lần nào.

Tôi đã lớn lên cùng với ký ức ấy. Cùng với món quà nhỏ bé nhưng mang sức nặng của cả một tấm lòng. Cô bé ấy không còn bên tôi, nhưng lòng tốt của cô thì ở lại – như một hạt giống cắm rễ trong tim, âm thầm lớn lên cùng năm tháng.

Nhiều năm trôi qua. Tôi đã là một người cha. Công việc, gia đình, cuộc sống cứ cuốn đi như dòng sông không ngừng chảy. Nhưng trong những khoảnh khắc yên lặng, hình ảnh cô bé năm xưa vẫn trở về. Không rõ mặt, nhưng rõ lòng.

Cho đến hôm qua – một buổi chiều bình thường – tôi trở về nhà và thấy con gái nhỏ của tôi, với đôi mắt nghiêm túc như người lớn, bước lại và hỏi:

– “Ba ơi, ngày mai ba chuẩn bị cho con hai phần ăn đem theo được không?”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– “Hai phần? Bình thường một phần con còn không ăn hết mà?”

Con gái tôi nhìn tôi, ánh mắt trong veo, nhưng giọng nói lại đằm sâu như một cơn gió cũ:

“Tại có một bạn trai trong lớp con hôm nay không có gì để ăn. Con chia một nửa phần của con cho bạn ấy. Nhưng mai, con muốn có phần riêng để cho bạn.”

Tôi đứng lặng. Trong khoảnh khắc đó, tôi không còn thấy con gái nhỏ trước mặt mình nữa. Tôi thấy lại cô bé năm xưa – người đã chia cho tôi nửa ổ bánh mì trong lặng lẽ. Tôi thấy lại chính mình – thằng bé nghèo khổ ngồi bên góc lớp, giấu đi nỗi đói và sự xấu hổ. Và tôi thấy – một điều kỳ diệu đang xảy ra.

Tấm lòng của cô bé ấy – người mà có lẽ giờ đây đã quên mất tôi – đã không hề mất đi. Nó sống mãi, truyền từ tay này sang tay khác, như một đốm lửa nhỏ cháy mãi không tắt. Hôm ấy, cô đã trao lửa cho tôi. Giờ đây, tôi lại thấy ngọn lửa ấy trong tay con gái mình.

Tôi bước ra ban công. Trời chiều. Gió thổi nhẹ qua, mang theo hương cỏ non và tiếng trẻ con chơi đùa xa xa. Tôi ngước nhìn bầu trời, nước mắt rưng rưng. Trong khoảnh khắc ấy, tất cả mọi cảm xúc dồn về – đói khát, xấu hổ, biết ơn và hạnh phúc – như sóng cuộn vào nhau trong lòng tôi.

Cô bé ấy, có lẽ chẳng còn nhớ tôi. Có thể cô đang sống một cuộc đời khác, ở một nơi nào đó, làm vợ, làm mẹ, hoặc vẫn đang tiếp tục những điều tử tế mà cô từng làm. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên cô. Vì cô đã dạy tôi một bài học quan trọng nhất đời mình: rằng một hành động nhỏ thôi – một nửa ổ bánh mì – cũng có thể thay đổi cả một cuộc đời.

Và giờ đây, khi thấy con gái mình chia sẻ phần ăn với bạn, tôi hiểu: lòng tốt, nếu được trao đi bằng sự chân thành, sẽ không bao giờ mất. Nó sẽ sống tiếp – qua từng đứa trẻ, từng ánh mắt, từng miếng bánh được chia.

Lời kết: Giữa cuộc sống bộn bề, giữa những ngày tháng con người ngày càng quay cuồng với danh lợi, tiền bạc, đôi khi chúng ta quên mất rằng có những điều giản dị, nhỏ bé – nhưng lại là thứ làm nên chất người: lòng nhân ái, sự cảm thông, tấm lòng chia sẻ.

Chúng ta không cần làm điều gì vĩ đại. Chỉ cần một nửa ổ bánh mì, một cái nắm tay, một lời hỏi han đúng lúc… cũng đủ để sưởi ấm trái tim một con người đang lạnh giá.

Và rồi, như người cha trong câu chuyện, bạn sẽ thấy – một ngày nào đó, điều tử tế bạn từng làm, sẽ quay trở lại với bạn. Có thể trong ánh mắt của một đứa trẻ. Có thể trong lòng biết ơn của ai đó bạn chẳng còn nhớ. Nhưng chắc chắn, nó sẽ không bao giờ mất đi.

Đoàn Xuân Thu.


 

 ” THẾ MỚI ĐÁNG MẶT ĐÀN ÔNG “- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 ” THẾ MỚI ĐÁNG MẶT ĐÀN ÔNG “

Bình sinh, cho đến bây giờ đã sang bên kia dốc cuộc đời, tôi vẫn thường tự cho mình là kẻ không đến nỗi phải xấu hổ với danh phận của một thằng đàn ông, một thương gia.

Ấy vậy mà cuộc đời phiêu bạt để bỗng có một ngày đẹp trời, trên một phiên chợ vùng cao, tôi bị choáng váng vì tự thấy xấu hổ với mình khi ngồi nghe trộm câu chuyện của hai người đàn ông xa lạ.

Bên một chiếc bàn gỗ mốc thếch, tôi ngồi uống rượu với một người bạn. Anh này thạo nhiều thứ tiếng dân tộc vì đã một thời chuyên đi thu mua nấm rừng, thảo quả trong các bản làng xuất sang Trung Quốc.

Bàn bên cạnh có hai người đàn ông mặc quần áo chàm vừa nốc từng bát rượu đầy vừa chằm chằm nhìn vào mặt nhau.

Ngồi né ra xa một chút là một người phụ nữ váy áo thêu xanh đỏ, khắp người đeo không biết bao nhiêu vòng bạc lủng lẳng.

Suốt đến gần nửa tiếng đồng hồ chỉ thấy có một anh chàng nói, khi thì giận dữ khi thì nghẹn ngào, có lúc lại đắm chìm trong ưu tư như bị men rượu nhấn chìm.

Can rượu to trên bàn đã vơi quá nửa, bỗng hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau, nức lên rưng rức.

Cái bàn ọp ẹp chao ngiêng làm hai bát rượu đổ tóe ra sàn.

Lẳng lặng nhìn hai gã đàn ông quá say, người đàn bà cúi xuống nhặt những chiếc bát đặt lên bàn rồi lẳng lặng mở nút cái can nhựa cao đến hai gang tay, nghiêng can rót rượu đầy tràn hai miệng bát. Xong xuôi lại trở về chỗ, lẳng lặng nhìn bâng quơ ra rặng núi mây giăng ngang trước mặt.

Thấy cảnh lạ lùng, tôi thì thầm hỏi anh bạn xem chuyện gì đang xảy ra. Thì ra hai gã đàn ông này chính là “tình địch” của nhau, theo cái cách định nghĩa ngu ngốc của người dưới xuôi ta.

Một anh là chồng, còn một anh là người yêu cũ của người đàn bà đang ngồi đây.

Nhìn kỹ ra thì cô vẫn còn khá trẻ , xinh xắn nhưng vẻ tiều tụy và cam chịu làm cho ta nghĩ rằng đấy đã là một thiếu phụ nhan sắc đang phai tàn.

Chiều tối ngày hôm qua họ đã xuống đến chợ. Như nhiều đôi khác, hai vợ chồng này buộc ngựa vào một góc bên quán, ăn một bữa no nê rồi chia tay nhau.

Sáng hôm nay họ lại tìm về quán cũ theo lệ thường để rồi sẽ lại ăn một bữa trước khi túc tắc dắt ngựa đi về. Thế nhưng lần này, cô vợ không về quán một mình mà dẫn theo anh người yêu cũ. Thế là ba người ngồi cùng nhau. Hai người đàn ông và một người đàn bà.

Anh bạn tôi ngồi xây mặt ra cửa nhưng căng tai về phía bàn bên để nghe và cố hạ giọng dịch cho tôi nghe từng câu nhát gừng đứt quãng của người đàn ông đang vừa nói vừa uống một cách đầy bức xúc.

Anh bạn tôi còn phải tóm tắt cả câu chuyện đã xảy ra trước khi tôi hỏi, thế nhưng vẫn theo kịp được khúc sau vì anh kia cứ nói một câu lại uống một hớp, rồi lại gật gật cái đầu như đang cố vắt ra các ý nghĩ lộn xộn nằm đâu đó bên trong óc mình.

Tôi vừa nín thở để nghe và cố sắp xếp các lời dịch của anh bạn.

Cuối cùng thì tôi hiểu được đại khái câu chuyện giữa hai người đàn ông, một người chỉ nói, vừa nói vừa nghẹn ngào, một người cúi gằm mặt xuống vừa nghe vừa cắn chặt hàm răng.

Bỏ qua những câu vòng vo mà tôi không nhớ mà cũng không hiểu hết ý thì tóm tắt lại là như sau:

– Thằng Xín Thau kia, mày uống hết cái bát ấy đi rồi nghe tao nói.

Suốt đêm qua tao đau tức cái tim, đau quặn cái ruột. Tao đi theo vợ mày về đây tìm mày.

-…

– Cái ngày bố mày theo ông thầy cúng đưa mày đến đón vợ mày về, tao buồn muốn chết. Tao đã bắn hết cả một túi thuốc, nhồi hết đạn chì thì nhồi sỏi sạn vào mà bắn. Đáy nòng vỡ ra, sẹo trên má tao vẫn còn đây này.

-…

– Sau khi cưới, vợ mày nó bảo rằng tao đừng buồn, mày thương vợ lắm. Tao tin nó quá, thế là tao vui rồi

– ….

– Phiên chợ trước tao được tin nhắn là phiên này vợ chồng nhà mày sẽ đi. Tao đắp vội mấy khúc bờ ruộng cho xong, tao bỏ cái đám cưới trong bản để ra đây gặp vợ mày.

– …

– Mày phải biết, khi đi ra chợ tao vui quá, bỏ không bắn hai con chim to trên cành, bỏ không bắn một con nhím to trong bụi. Tao chỉ nghĩ đến cái lúc được gặp vợ mày. Thật đấy. Tao vẫn còn thương con vợ mày lắm mà.

– …

– Đến lúc tao tìm được con vợ mày, tao vui đến chảy cả nước mắt.

Tao lại hát lại cái bài mà ngày xưa lần đầu tao hát vào bên tai con vợ mày, cái đêm đầu tiên tao gặp được nó.

– …

– Thế mà, dắt nhau đi rồi, đèn tao chiếu vào tận mặt mà tao không còn nhận ra nó là cô con gái đẹp nhất bản ngày xưa. Giàng ơi. Ngày xưa cái mặt ấy tròn như trăng rằm, hai cái vú nó tròn to như hai quả dưa chín, cái tay nó đẹp như mình con trăn trên cây, tiếng nó cười hay như chim hót làm nắng cũng cười theo, cái váy nó thơm như hoa rừng làm bướm cũng bay theo.

– …

– Giàng ơi. Đêm qua tao chỉ thấy mặt nó cong méo như trăng hạ tuần, ngực nó nhăn như hai quả bí héo.

Nó không cười, nó chỉ muốn khóc. Tao đau cái tim tao quá. Giàng ơi.

– …

– Mày nói đi. Là thằng đàn ông, mắt mày có nhìn thấy vợ mày nó khổ hay không? Là thằng đàn ông, mày có thấy vợ mày nó buồn hay không?

– …

– Mày là thằng tốt số nhất đời.

Mày sinh vào lúc nào mà mày lấy được vợ mày? Mày thật là có cái tội to. Hôm nay tao định đánh mày, tao thương con vợ mày quá.

– …

– Lần này tao mang hai bao ngô giống. Tao không bán nữa. Mày mang về đi mà trồng. Phiên chợ sau tao gửi phân bón vào cho.

– …

– Đến kỳ ngô ra bắp tao bảo mày cách đặt bẫy. Tao có bài thuốc,  bẫy sập là lợn rừng ngấm thuốc không chạy được đâu. Tao sẽ cho mày. Nếu nhím sập bẫy, mày bắt nguyên cả con mang ra chợ.

Có người mua ngay. Ba cái dạ dày nhím sống là đổi được một con lợn giống to.

– …

– Mày không được lười. Mày đói thì tao kệ xác cha con mày, nhưng vợ mày thiếu thóc thiếu ngô là tao đánh mày đấy.

– …

– Thằng Xín Thau kia, mày có phải là thằng đàn ông hay không?

Nhìn hai gã đàn ông gục đầu vào nhau rưng rức khóc trên hai bát rượu đã cạn khô, tôi thấy thật là khó tả. Nhìn sang người đàn bà lẳng lặng ngồi bên, tôi không đọc được những ý nghĩ gì đang ẩn hiện trong đầu cô ta.

Phải chăng là vừa hạnh phúc vừa tủi thân, phải chăng là vừa ái ngại vừa thương xót cho cả hai gã đàn ông của cô.

Rất lâu về sau, một lần tôi đem câu chuyện này kể cho vợ tôi nghe.

Vợ tôi thở dài, cầm cái điều khiển tắt phụt màn hình vô tuyến đang lải nhải rất vô duyên về hạnh phúc gia đình rồi bâng quơ

” Đàn ông phải như thế mới đáng mặt thằng đàn ông chứ ! “

Nguyễn ( St )

Và , có một cô bé thiểu số có Nick ngồ ngộ trên FB

” Dân tộc thì sao, kệ tao ” nên mới có thơ:

” Dân tộc thì sao , kệ tao”

Chúng tao vẫn kệ có sao đâu mà

Dưng mà cái miệng như hoa

Mắt như đốm lửa, mượt mà tóc đen

Áo hoa ban váy hoa sim

Nước da trắng bóc, khó tìm nơi tao

Kệ tao, dân tộc thì sao.

Mày tao mà vẫn ngọt ngào, sướng thay.

Nhìn càng đắm ngắm càng ngây

Say lời hát lượn hay say rượu cần …

Nguyễn – dân tộc Kinh

(Sưu tầm)

Nguồn fb Xuan Cuong


 

Ai cũng có thể cứu một mạng người…Truyen ngan HAY

My Lan Pham

Không ai ở New York từng quên buổi chiều hôm đó, năm 1869. Một người phụ nữ chạy băng qua Đại lộ số Năm, váy được vén cao, một chiếc túi da ôm sát vào ngực. Tên bà là Marie Zakrzewska, 43 tuổi, và khi đám đông né sang hai bên để nhường đường, ai cũng nghĩ chung một điều: “Một người phụ nữ thì có thể làm gì ở đây?”

Dưới đất, một người đàn ông nằm bất động. Một chiếc xe ngựa vừa cán qua người ông. Mọi người nhìn. Bình luận. Chỉ trỏ. Nhưng chẳng ai biết phải làm gì. Cho đến khi Marie quỳ xuống.

“Tránh ra,” bà nói, không cần cao giọng.

“Bà điên à?” một viên cảnh sát quát lên. “Bà không có lý do gì để can thiệp.”

“Nếu tôi không can thiệp, ông ấy sẽ chết,” Marie đáp lại, ánh mắt không hề chớp.

Trong khi những người khác còn chần chừ, bà hành động. Bà bắt mạch. Mở áo ông ta. Kiểm tra hơi thở. Đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng: “Tôi cần một chiếc xe ngựa trống. Và một tấm chăn.”

Vài người lập tức chạy đi lấy những thứ bà yêu cầu. Marie đặt người đàn ông lên với sự cẩn trọng tuyệt đối. “Đừng di chuyển ông ấy như thế,” bà nói, giữ lấy cổ nạn nhân. “Có thể làm tổn thương cột sống.”

Viên cảnh sát nhìn bà, bối rối.

“Bà là ai vậy?”

Marie ngẩng lên.

“Là người đang làm điều lẽ ra ông phải làm.”

Sự việc đó khiến bà không yên. Tối hôm ấy, khi viết trong phòng làm việc nhỏ, bà không thể xóa khỏi tâm trí hình ảnh người đàn ông nằm gục giữa phố. “Thật man rợ,” bà nghĩ. “Một thành phố hàng nghìn dân… mà không ai biết cách giúp.”

Marie không phải người phụ nữ bình thường. Bà là bác sĩ. Một người Đức. Và là một nữ tiên phong đã chiến đấu không biết bao nhiêu trận để được coi trọng. Bà biết rằng ở New York, hầu hết tai nạn đều trở thành bi kịch vì chẳng ai đến kịp… hoặc có tới, nhưng không biết cứu giúp. “Phải làm gì đó.”

Ý nghĩ đó không buông tha bà.

Hai tuần sau, bà tập hợp hai bác sĩ và một y tá trong một căn phòng nhỏ ở East Side.

“Chúng ta cần một đội phản ứng nhanh,” bà nói. “Những người được đào tạo. Phương tiện phù hợp. Đồ dùng cơ bản. Một thứ có thể đến bất kỳ điểm nào trong thành phố trong vài phút.”

Các bác sĩ nhìn nhau.

“Một kiểu… đội y tế lưu động?”

“Đúng vậy.”

Có hoài nghi, chê bai, tiếng cười.

“Marie, làm gì có tiền mà duy trì chuyện đó.”

“Marie, thành phố sẽ chẳng bao giờ cho phép đâu.”

“Marie, ai sẽ tin vào một hệ thống do phụ nữ nghĩ ra chứ.”

Bà đặt cả hai tay lên bàn:

“Vậy nếu thành phố không cho phép, chúng ta sẽ tự bắt đầu. Ai tham gia sẽ làm miễn phí cho đến khi chúng ta chứng minh được nó hiệu quả.”

Im lặng. Và rồi từng người một… cả ba đều nói: “Tôi tham gia.”

Chiếc “xe cấp cứu” đầu tiên thực chất chỉ là một cỗ xe ngựa được gia cố, có một cáng thô sơ và một hộp gỗ chứa băng gạc, cồn, cùng vài kẹp phẫu thuật.

Marie và đội của bà tập luyện ngày này qua ngày khác: cách khiêng người bị thương, cách cầm máu, cách cố định gãy xương, cách xử lý trong hoảng loạn.

Nhưng phần khó nhất không phải việc tập luyện. Mà là phản ứng của người dân.

“Này, lũ điên của bà bác sĩ kìa!” có người la lên.

“Cái gì đấy? Một gánh xiếc à?” người khác chế giễu.

Marie không đáp lại. Bà chờ sự thật lên tiếng.

Và sự thật đã đến.

Cuộc gọi đầu tiên đến vào một ngày thứ Bảy. Một đứa trẻ rơi từ tầng hai xuống. Mọi người la hét ngoài đường.

Chiếc xe của Marie tới trong vài phút. “Tránh ra!” bà hét khi lao xuống xe. “Để tôi xem nó nào!”

Trong khi người mẹ khóc nức nở, Marie kiểm tra cậu bé.

“Nó vẫn thở. Vẫn có mạch. Chúng ta có thể cứu nó.”

Bà cố định cơ thể cậu bé bằng các tấm ván, đưa ra những chỉ dẫn nhanh chóng, rồi chở cậu đến bệnh viện. Cậu bé sống.

Ngày hôm đó, cả thành phố đổi thay.

Điều bắt đầu như “ý tưởng điên rồ không tương lai” trở thành dịch vụ xe cấp cứu đô thị hiện đại đầu tiên trên thế giới. New York áp dụng hệ thống ấy. Rồi Boston. Rồi khắp nước Mỹ.

Marie chưa từng muốn được ghi công. Bà chỉ muốn không ai chết trong sự bất lực của người xung quanh.

Sau này, khi được hỏi vì sao bà kiên trì đến vậy, bà trả lời:

“Vì tôi không chịu nổi cảnh người ta chết giữa vòng vây những kẻ chỉ biết đứng nhìn. Ai cũng có thể cứu một mạng người… nếu có người dám bắt đầu.”


 

TÌNH VỌNG – Tác giả: Phát Dương- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 TÌNH VỌNG

Bữa nay thấy cổ xanh xao quá, chắc đang muốn bệnh…

– ông ngó lom lom người đàn bà đang sắp trái cây chuẩn bị mở bán buổi sáng, cách quán ông ngồi cái ngã tư.

Túy cười, nhìn ông già lóng ngóng bưng ly cà phê đen lên, hớp mấy lần không vô miếng nào.

Vô gì nổi mà vô, bận ngắm “người đẹp có tuổi” bên kia.

Chưa từng thấy ai thương thầm bền bỉ như ông già này.

– Vậy sao tía không dặn “bồ câu” của tía qua “hỏi thăm” người ta luôn? – Túy nói, lôi tờ báo ra tính đọc.

Thiệt ra hai người không có quan hệ máu mủ gì hết.

Túy chạy xe ôm công nghệ, hay ghé đây làm ly cà phê với ổ bánh mì hai trứng cho tỉnh trước khi bật app kiếm khách.

Lần nào tới cũng thấy ông Ba ngồi trước, mặt luôn hất qua bên kia đường, chỗ sạp trái cây.

Tới lúc nghe cô chủ quán nói ổng ngồi vậy mấy năm rồi đó, anh chỉ biết kêu trời.

Thương gì mà im ru ngồi một chỗ ngó mấy năm, trần gian này chắc có mình ông.

Ngồi gần riết quen, từ từ thân, anh kêu ông bằng tía nuôi.

Anh mồ côi cha, trong thâm tâm cũng ngưỡng mộ mối tình câm của ông, tính ra gọi vậy hợp.

– Dặn rồi, dặn rồi! – ông Ba cười khà khà, lại cầm ly cà phê lên ực một ngụm… không khí, mắt chưa thôi dán vô sạp trái cây.

Ông Ba dứt lời đã thấy thằng nhỏ lon ton đi tới sạp trái cây.

Đó, “bồ câu” của ông Ba đó.

Ông mướn nó, bởi vía tốt mạng hợp, ngày nào cũng biểu nó qua mua trái cây ủng hộ người đàn bà cho cả ngày buôn bán đắt khách.

Ông Ba hồi hộp coi thằng nhỏ nói cười với bà chủ sạp, lo không biết nó có nhớ lời ông dặn hỏi thăm hổm rày bà có bị làm sao không.

Lá me trên cao rắc xuống bám đầy trên tóc mà ông không hay, mặc kệ chúng điểm lấm chấm vàng.

Ông bận nín thở quan sát người thương.

Thằng Túy thấy cảnh đó ồ lên trong bụng, nhìn tía nuôi nó lúc này đẹp hết sẩy. In hệt bức tượng đá đen, cẩn vàng lấp lánh bằng mớ lá me, thần thái toát ra nửa hạnh phúc nửa ngóng trông coi buồn đứt ruột.

Ăn hết ổ bánh mì, uống cạn ly cà phê, Túy mắc nói quá.

– Rồi tía định chừng nào nói cho “người ta” hay có người để ý

“người ta” mấy năm ròng? 

Ông Ba như bị câu hỏi đập mạnh vào đầu, cả người rung một cái chao đảo. Lấy lại bình tĩnh, tằng hắng nạt:

– Mày lo coi kiếm khách đi chứ trưa trờ trưa trật kìa, ở đó nhiều chuyện.

Thằng Túy đứng lên trả tiền, bị nạt mà vui, chưa kịp trả luôn phần ông Ba thì đã nghe tiếng ông:

– Phần tao lát tao tự trả, mày mà trả là mai mốt hổng có tía con gì hết nghe.

***

– Sao con, sao con… – ông Ba chồm khỏi ghế, sốt sắng hỏi thằng nhỏ “bồ câu”.

Nó vuốt mồ hôi lấy lại nhịp thở mới trả lời được:

– Con nghe cô bán báo kế bên… nói… bà Chín bữa nay… bệnh… nên hổng có… có bán…

– Bệnh nặng hông con, nặng hông?

Bị sao? Có ai chăm hông? ông Ba hỏi liên hoàn.

Túy phải ra hiệu cho ông Ba chầm chậm lại để thằng nhỏ còn kịp nhớ mấy tin tức nó dò được.

Bà Chín, chủ sạp trái cây ông thương thầm, bị cảm lạnh do hứng mấy trận mưa đầu mùa.

Không sao hết, đau đầu nên nằm nhà cho con gái chăm, mai mốt là khỏe re chứ gì, đó là cô bán xôi đậu trước sạp báo nói vậy.

– Chắc bả tiếc tiền chưa chịu làm lại mái che, để mưa tạt vô hoài.

Thiệt tình, có bao nhiêu đâu… ông Ba buồn so, lặng lẽ đặt người xuống ghế trong tư thế của chiếc lá vàng đáp đất lúc không có gió.

– Thì tía qua làm cho “người ta” đi! thằng Túy bỏ nửa ổ bánh mì đang gặm xuống bàn.

Ông Ba nhìn Túy, mặt mếu như sắp khóc. Đâu phải ông không muốn.

Ông tha thiết được qua đó a-lô người tới làm liền nhưng sợ sau đó ông không còn được ngồi đây mà nhìn lén “người ta” nữa.

Nhìn mặt ông, Túy không dám chọc nữa, cắm cúi ăn cho xong phần bánh mì. Thiệt tình thương kiểu gì cực thân hổng hiểu nổi!

*****

– Cho con hai chục ngàn đó luôn, khỏi thối! ông Ba chơi lớn với thằng nhỏ bán vé số làm nó mừng húm.

Túy thấy bữa nay tía nuôi anh trông tươi quá xá.

Bà Chín đã dọn hàng ra bán lại.

Vui hơn nữa khi “bồ câu” được ông Ba phái qua đưa mấy bịch chè thưng với lý do “má con nấu nhiều quá ăn hổng hết” và bà chịu nhận.

Thương kiểu ông là kiểu thầm lặng không cần đáp lại, hễ làm gì được cho người thương vui là lòng như trổ cả một hàng rào bông tươi thắm.

Ông Ba nhìn hoài nhìn hủy sạp trái cây tuốt đằng xa.

Không, ông không nhìn bằng đôi mắt nheo nheo đã ngả màu đục và đầy nếp nhăn kia mà nhìn bằng trái tim, bằng cả ký ức.

Túy nhớ có lần hỏi cắc cớ ông Ba, sao tía nhìn qua mị mị ngã tư thì thấy tỏ mặt người mà dò vé số phải kê sát mặt mới thấy.

Lúc đó mặt ông Ba đỏ rần, mắng anh là thằng quỷ.

Ông nói cũng không biết tại sao.

Mắt ông già khụ chứ có trẻ trung gì, nhìn xa chút đã mờ mịt.

Chỉ không hiểu sao nhìn sang “bên đó” lại rõ, như được lắp ống nhòm, thấy tận tường từng cái nhíu mày mệt mỏi của bà Chín.

Chắc có lẽ ông nhìn bằng quá khứ, bằng mấy chục năm thương nhớ.

Nỗi nhớ giày vò là nắm hạt rải xuống đất lành mọc lên rừng nhớ,

có chặt bao nhiêu lần cũng chỉ khiến chúng trổ bấy nhiêu lần tược mới.

Một chỗ cắt ra năm, sáu chồi, xanh um.

– Tía đừng nói với con mấy chục năm rồi tía mới gặp lại “người ta” nha?

Túy bóp bóp vai cho ông Ba, khi ông vặn vặn người than nhức mình nhức mẩy.

Ông Ba không nói, chỉ gật đầu.

Giọt nước mắt như con kiến bò khỏi ổ, chầm chậm đổ dọc xuống mặt.

***

Hai chục năm có khi hơn, ông Ba mới gặp lại bà Chín.

Đừng hỏi tại sao ông không chớp thời cơ tới giáp mặt người thương.

Ông thèm lắm, quay quắt như kẻ ly hương biết mình không còn nhiều

thời gian chỉ ray rứt muốn hồi hương. Nhưng làm sao làm sao làm sao đây?

Khi ông Ba không quên được hồi mười năm trước.

Nỗi đau cũ chưa hề liền sẹo. Ông gặp con gái bà Chín.

Cô nhận ra ông, liền sau đó giận dữ. Cô nói chính ông hại chết ba cô, đừng bao giờ tới kiếm má cô.

Ông không phải kẻ giết người.

Nhưng trời ơi ông vẫn là kẻ gián tiếp giết người.

Nếu hồi đó ông không tới, nếu ông không điên dại kéo bà Chín đi với mơ mộng chạy trốn, có lẽ chồng bà đã không chết.

Cặp mắt trân trân của chồng bà Chín còn hằn dấu trong đầu ông.

Giữa cơn mưa nhuộm xám xịt đất trời, cặp mắt bốc cháy như hai cục than gặp củi.

Ánh mắt nóng phừng xuyên qua ông, đang níu tay vợ người ta.

Bà Chín nhìn ông, cái nhìn đau đớn của thân cây bị phạt đứt đôi, rứt tay ông khỏi mình, chầm chậm rẽ mưa đi về phía chồng.

Ông chồng không nói không rằng, quay lưng bước.

Bất kỳ gã đàn ông yêu điên cuồng nào cũng là kẻ điên.

Ông Ba điên vì thương quá. Chồng bà Chín điên vì ghen quá.

Ông Ba xấn tới nhà cầu xin bà Chín bỏ tất cả theo ông, khi chính ông đã không còn màng gì.

Thì chồng bà giữa trận mưa xối chống xuồng vô giữa dòng sông cuộn đục, quyết chối bỏ sự thật hóa ra người mình ôm ngủ mỗi đêm chưa bao giờ yêu mình.

Cuộc hôn nhân ràng buộc chỉ là sự sắp đặt của người già.

Người ta chỉ thấy ông ấy đi chứ không thấy ông trở lại.

Người ta cũng thấy bà Chín khuỵu bên bến, gào khóc.

Người ta không tìm được xác chồng bà, chỉ tìm thấy những mảnh ván xuồng bể nát. Dám ông đã trôi tuốt đâu xuống hạ nguồn.

Có người nói biết đâu trước lúc chết ông ấy thề không nhìn mặt vợ,

nên thôi có kiếm cũng chẳng gặp đâu.

Lúc đó, con bà mới mười lăm tuổi đã phải hứng chịu nỗi đau mất cha, cùng những lời xì xầm người ta áp lên má mình, rằng đó không phải hạng đàn bà đứng đắn.

Làm sao mà nó không hận ông Ba cho được!

Ký ức đó như khối ung thư trong người ông Ba, mỗi năm mỗi di căn.

Bà Chín là thuốc chữa, thứ thuốc chữa xa vời ông vĩnh viễn không có được.

Ông cầm cự căn bệnh kỳ quặc đó bằng cách âm thầm theo dõi bà.

Biết bà vẫn ổn, vẫn sống khỏe, ông cũng an lòng.

Còn đòi hỏi gì nữa đâu.

Khi người ta soi gương nhận ra mình chẳng còn sợi tóc nào xanh trọn vẹn, thứ người ta muốn chỉ đơn giản còn vỏn vẹn chữ thương.

Dẫu vụng trộm thương, dầu hóa thành đứa nhỏ mỗi ngày đi ngang tiệm đồ chơi thèm thuồng nhìn chứ không có tiền mua, thì món đồ chơi còn nằm nguyên đó được ngắm thôi đã là thỏa dạ.

Còn mong gì nữa. Mà mong cũng có được đâu!

***

– Nếu trúng số tía định làm gì?

Túy mót mớ cà phê đắng trong lúc nhìn ông già cẩn trọng dò vé số.

– Tao sẽ gửi tiền cho “người ta” đi mổ tim.

– Làm gì nữa tía? Đi du lịch hả?

Túy nhìn ông tía nuôi, cười cười.

– Tao cho mày tiền sửa nhà với sắm xe mới, coi cái xe mày cũ xì hư lên hư xuống hoài – ông Ba rạng rỡ – chứ mang tiếng tía nuôi mà có làm gì được cho mày đâu!

– Tía hông để tiền dưỡng già hả?

Túy nghe sống mũi mình cay xè.

Anh không ngờ trong những dự định giàu sang của ông già chẳng máu mủ ruột rà lại có tên mình.

– Thôi mày ơi, tao không con cái lo chi nhiều.

ông lắc lắc đầu, bẻ trái chuối trong nải chuối thằng nhóc “bồ câu” mới từ chỗ bà Chín đem về, đưa cho Túy.

– Dễ gì trúng mày ơi! ông Ba thở dài.

***

Sáo nhìn má chìm vào giấc ngủ sâu, yên tâm ra khỏi phòng bệnh.

Má cô đã mổ tim xong, với số tiền một người bạn lâu năm của má gửi tặng.

Lẽ ra cô không nhận nhưng không làm khác được. Má lên cơn đau tim,

cần mổ gấp. Sáo đã thử gọi cho ba, ba chỉ giúp được một phần.

May có người bạn giấu mặt của má.

Chính Sáo cũng không ngờ ba còn sống.

Lúc biết tin, cô mừng lắm.

Dù sắp muộn nhưng chưa bao giờ cô thôi nhớ về ký ức ngày gia đình còn đủ ba người.

Cô tưởng ba sẽ trở về, nối lại dở dang ngày trước.

Nhưng không thể nữa rồi.

Ba đã có gia đình khác.

Từ từ, cô cũng thông cảm cho ba.

Thời gian dạy con người lớn lên, bằng cách chấp nhận những điều mà trước đây người ta nghĩ là không thể nào chấp nhận.

Không có lựa chọn khác ngoài chuyện đó, bởi điều đã xảy ra thì đã xảy ra, điều có thể thay đổi nằm ở hiện tại và tương lai mà.

Thời gian cũng làm Sáo nhận ra mình chẳng còn hận một người đến mức thề hủy hoại tất cả.

Cô biết rõ người gửi tiền cho má là ai, chỉ là chưa dám đối diện sự thật đó.

Cô chọn cách tiếp cận từng chút hai từ “tha thứ”.

Chẳng có mối thù nào lớn bằng tình yêu cô dành cho má. Nhìn má nằm trên băng ca chạy đua với thời gian,  cô da diết muốn làm má vui dẫu có mài mình ra để đổi.

Thì dẫu niềm vui của má là người đó, cô cũng bằng lòng.

Không phải Sáo không hay ông ta luôn dõi theo má.

Cả cô và má đều biết thằng nhóc mỗi ngày qua mở hàng sạp trái cây của má là do ông ta mướn.

Nhìn má tủm tỉm cười mỗi lần thằng nhỏ đem qua món gì đó; nhìn má trông ngóng khi chưa thấy nó tới; nhìn má buồn rầu lúc bệnh không ra bán được, cô làm như không biết những sắp đặt cố tình.

Từng ngày một, cỏ lên xanh vườn lòng hoang cũ.

Ngẫm nghĩ thật lâu, Sáo bấm số gọi cho thằng nhóc. Nhờ nó nhắn ông Ba tới thăm má cô.

***

– Con trả chiếc xe cho tía!

Túy bước tới nắm tay ông Ba giữ lại,  khi ông dợm bước đi.

– Cho rồi trả gì mà trả!

ông Ba vùng vằng.

– Nhưng tía nói xạo con! Tía đâu có trúng số!

Túy gào lên.

– Tía bán nhà rồi tía ở đâu?

Túy khóc, ôm chầm lấy ông Ba khi thấy ông định bỏ chạy.

Túy làm sao nghĩ nổi tiền ông Ba cho anh mua xe mới, tiền mổ tim cho bà Chín, là tiền ông bán nhà.

Một thân một mình, chỗ ở cũng không còn, thiệt tình anh không ngờ nổi trò liều mạng này của ông.

Anh tới kiếm ông, thừa biết có chết ông cũng không chịu nhận lại chiếc xe.

Thì anh sẽ ép ông về nhà anh ở, chứ đâu để tía nuôi chịu khổ được.

Đúng lúc đó, thằng “bồ câu” hồng hộc lao tới. Nó vồ lấy ông Ba, thì thầm gì đó.

Mặt ông như đóa bông héo gặp nước, bừng lên tươi.

Ông vỗ lưng Túy đau điếng, nhảy phốc lên xe réo như con nít sắp nhận quà:

– Lẹ, lẹ! Chở tao đi thăm bà Chín!

Túy cười, xốc ông ngồi lại cho ngay ngắn mà nghe mằn mặn trên môi.

Tác giả: Phát Dương

Nguồn fb Trung Kien Doan


 

 MỘT CHUYỆN TÌNH NHƯ CỔ TÍCH-tác giả Lệ Hoa Wilson

Xuyên Sơn

 MỘT CHUYỆN TÌNH NHƯ CỔ TÍCH

Em sanh năm 1974 tại Cam Ranh dưới cái tên trữ tình và có một chút hơi cung đình là Chiêu Nguyễn Phương Lan.

Nhưng cái tên đẹp đẽ kia không cải tạo được số mạng nghiệt ngã của em.

Hai tháng sau mẹ em cảm thấy có gì là lạ nơi mắt em. Bà đem em đi khám bác sĩ và kết quả đã làm cho tim bà tan nát. Mắt em bị một chứng bịnh lạ lùng và đang từ từ mất đi hoàn toàn thị giác.

Đau khổ hơn nữa là đám virus ác nghiệt từ tròng mắt tấn công lên não. Để bảo tồn mạng sống cho em, bác sĩ phải mổ lấy ra một con mắt và hai năm sau con mắt thứ hai.

Hai lỗ mắt trống hoắc và mí mắt sụp xuống che lại bầu trời có thiên địa huy hoàng, có bông hoa rực rỡ, có sông dài xanh ngát, có núi xám trời cao. Tất cả chỉ còn là bóng tối…

Một người mù hỏi thánh Anthony:

“Còn có điều gì khổ hơn là bị mù không?”

Thánh Anthony trả lời:

“Có đấy! Ấy là khi con người ta bị mất phương hướng!”.

May mắn thay, em không mất phương hướng.

Tụi nhỏ nhảy dây, em cũng nhảy dây dù vấp té không biết bao lần.

Tụi nhỏ hát, em cũng hát.

Tụi nhỏ vỗ tay cười giỡn, em cũng vỗ tay cười giỡn.

Tụi nhỏ học đờn tranh, em cũng học đờn tranh.

Và vì không bận nhìn ngang ngó dọc, em tập trung tất cả thời gian vào thực hành nên em đờn hay hơn tất cả bạn bè, em học giỏi hơn tất cả bạn bè.

Năm em lên 7 tuổi, mẹ dẫn em xin vào học trường Nguyễn Đình Chiểu ở đường Nguyễn Chí Thanh nhưng bị từ chối vì cha em là ngụy!

Mẹ em đã lạy lục đầu trên xóm dưới, năn nỉ cùng trời cuối đất và sau cùng em được nhận vào học ăn ở nội trú một tuần năm ngày, tự giặt quần áo, tự tắm rửa v.v.

khi lớn lên một chút thì em học thêm nghề bó chổi, đan chiếu.

Ba năm cuối của trung học em được nhận vào trường phổ thông cơ sở quận Bình Thạnh.

Khi chấm dứt trung học, em thi vào trường Văn Hóa Nghệ Thuật chuyên ngành âm nhạc.

Ba năm sau em thi vào trường Cao Đẳng Sư Phạm và năm 1998 em ra trường với danh dự thủ khoa ban Anh Văn, môn phụ Nhật Văn chỉ với một cái máy thu băng cũ kỷ để thâu lời giảng dạy và một cái máy đọc chữ Braill để làm bài tập.

Khi ra trường, em tuy hiểu Anh văn nhưng không nói được.

Để tập nói, hai mẹ con dẫn nhau ra hồ Con Rùa hoặc bến Bạch Đằng, mẹ em đưa tay ra khều những người ngoại quốc.

Có người xoay lại và vội vàng xua tay đuổi bà mẹ đi vì tưởng là bà xin tiền. Sau cùng bà phải nắm tay em để sát cạnh bà, khi người ngoại quốc xoay lại, em vội vàng trình bày ngọng nghịu là “tôi là người khiếm thị, tôi học Anh văn nhưng không nói được, tôi muốn nói chuyện với ông, bà để thực tập. Tôi không phải là người ăn xin”.

Em lần lượt dạy nhạc ở câu lạc bộ lao động quận 1, nhân viên của thư viện sách nói quận 3, và cuối cùng dạy cấp 1 cho hội Người Khiếm Thị thành phố.

Năm 1999 một phái đoàn Nhật tới Việt Nam tìm kiếm những người có khả năng nói được tiếng Nhật để đưa qua Nhật học ngành châm cứu và massage. Sau khi thành công sẽ để họ trở về VN dạy lại các người khiếm thị khác để những người nầy có được một nghề nuôi thân.

Em là người được chọn và sau một khóa học ba tháng tiếng Nhật, em thi đậu và được theo học trường Đông Du tại thành phố để hoàn chỉnh khả năng Nhật-Anh, Anh-Nhật.

Năm 2000 em xuất ngoại du học Nhật.

Sau bốn năm tận tụy học hỏi môn châm cứu và massage trị bệnh của người Nhật, một lần nữa em ra trường với danh dự thủ khoa!

Trở về VN, từ năm 2004 tới 2009, em dạy cho thanh thiếu niên khiếm thị tại Sài Gòn một nghề mưu sinh. Trong thời gian du học, người Nhật nhân đạo đã bỏ tiền ra cho em đi bác sĩ gắn cho em đôi mắt nhân tạo để gương mặt em trông được như bình thường và thêm phần xinh xắn.

George Kasperitis sanh năm 1964 tại Pennsylvania, Mỹ. Có dòng máu Đông Âu, anh cao lớn, khỏe mạnh, đẹp trai, chơi đàn piano, guitar, trống và là hình ảnh trong mơ của các nữ sinh trung học.

Ra trường Pennsbury High School năm 1983, anh chọn học cao đẳng về Natural Medicine, chuyên ngành massage và phòng bệnh theo cách tự nhiên.

Tuy được cấp bằng tốt nghiệp, anh lại không theo nghề mà trở về trang trại của ông nội để giúp ông trồng trọt và chăn nuôi vì ông nội đã già và cần có người thân giúp một tay.

Ai nói người Mỹ không có tình cảm gia đình và không biết hiếu thảo?

Sau khi ông nội mất năm 1988, anh mở cơ sở chuyên trị cho các lực sĩ thể thao bằng trị liệu đá nóng và đặc biệt là bằng trị liệu khúc tre nóng.

Anh giải thích là độ nửa tiếng trước khi khách đến, anh bỏ vào một nồi lớn 4 ống tre, mỗi ống có độ 3 đến 4 mắt tre. Anh thêm vào mấy thứ lá thơm và dầu quế và dầu hạnh nhân. Anh đã chà xát cho các mắt tre bớt nhọn nhưng vẫn còn chỗ lồi lõm.

Anh lăn ống tre nóng tẩm các khoáng chất tiết ra từ lá và dầu lên lưng, cổ, khuỷu tay chân làm trị liệu để kích thích làm các huyệt đạo nở ra làm huyết mạch lưu thông, để cơ thể sẽ tiếp nhận nhiều linh khí trong trời đất hơn và làm cho con người ta được khỏe mạnh hơn.

Chắc là lăn ống tre nhiều quá mỏi tay nên sau vài năm nổi máu giang hồ anh gia nhập Peace Corp

– Đội Hoà Bình – đi Ghana, là quốc gia ở Phi châu. Nơi đây các thiện nguyện viên xây cất bồn nước, lắp đặt các hệ thống lọc nước cho người dân địa phương được dùng nước sạch.

Trong những buổi tối nhàn rỗi giữa núi rừng hiu quạnh, anh lên mạng và tìm kiếm người nói chuyện trên mục Pen Pal.

Nơi đó anh đọc thấy hàng chữ: “thiếu nữ Việt Nam, 30 tuổi, độc thân, thích âm nhạc, hiện đang học ngành massage và bấm huyệt trị bệnh tại Nhật”.

-Ôi em ơi, hợp quá, anh cũng thích âm nhạc, anh cũng thích nghề massage trị liệu. À mà em chơi nhạc cụ gì? Anh thì đàn piano, guitar và đánh trống.

-Em đàn tranh anh à.

-Đàn tranh là đàn gì vậy em?

-Là một loại đàn đặc biệt cho âm nhạc Việt Nam. Nó không cao sang, rầm rộ, cao vút như dương cầm mà nó thắm thiết, đậm đà, từng âm thanh sẽ đi vào lòng người, từng nốt nhạc sẽ làm người ngẩn ngơ thương nhớ…

-Ôi, ước gì anh có thể nghe em đàn… Que sera, sera… Sẽ có một ngày nếu chúng mình gặp nhau.

Và những dòng tâm sự đổi trao, những sẻ chia, những cởi mở cho tới một ngày anh đọc những dòng chữ: “Em là một cô gái khiếm thị, em rất buồn là sẽ không bao giờ “thấy” anh dù cho chúng ta có khi nào gặp nhau”.

-Em ơi không phải em đang nói giỡn đó chớ?

Khiếm thị?

khiếm thị từ lúc nào?

Từ lúc mới sanh ra?

Ông trời ơi, em chưa bao giờ biết được màu sắc của hoa hồng à?

chưa bao giờ thấy được ánh mặt trời chói chang trên đỉnh núi à?

Chưa bao giờ thấy được hoàng hôn mênh mông trên biển cả à?

Ác nghiệt, định mệnh ác nghiệt!

Em hỏi anh có thay đổi cảm nghĩ của anh về em không khi anh biết em, người con gái mà anh nâng niu tâm sự bấy lâu nay, lại là một kẻ mù lòa?

Câu trả lời là có, có rất nhiều.

Làm sao anh không thay đổi tình cảm trước một sự thật phũ phàng như vậy! Trước hết là anh giận ông trời tàn nhẫn đã buộc cái chứng bịnh độc ác kia vào đôi mắt em.

Anh sẽ không ngần ngại đối diện với ngài để hỏi cho ra lý do ngài chọn em làm nạn nhân, anh sẽ không sợ sệt mà sẽ cương quyết chất vấn ngài tới cùng.

Nhưng trời ở đâu không thấy vậy thì anh chỉ có thể quay về thế gian nầy để đối mặt với em. Phương Lan, sau nữa là anh sẽ không quay lưng lại với em. Anh sẽ cùng em tiến bước dù cho bây giờ ngoài cái bổn phận làm người bạn đời của em, anh lại có thêm một bổn phận nữa là làm đôi mắt của em. Anh sẽ làm cho em cảm nhận được màu vàng óng ánh của cành mai trong dịp Tết, sẽ thấy vô vàn hoa dại trên cánh đồng cỏ xanh tươi, sẽ vẽ ra được những chiếc lá thu vàng úa hắt hiu, sẽ nắm bắt được những tảng băng tuyết chói lọi dưới ánh mặt trời.

Ở mấy ngàn dặm xa xôi kia, người bạn vừa đọc email cho Phương Lan vừa khóc.

Phương Lan vừa nghe email vừa khóc.

-Cám ơn anh, George. Cám ơn tình yêu của anh dành cho em. Nhưng em không tin rằng trên đời lại có người đàn ông nào có thể yêu thương một cô gái mù lòa thắm thiết như vậy. Kiếp sau anh nhé.

Ở một kiếp mà em có thể thấy nắng vàng tỏa sáng trên tóc anh, biển xanh gợn sóng trong mắt anh, nụ cười rạng rỡ trên môi anh.

Ở một kiếp mà chúng ta có thể tay cầm tay, mắt nhìn mắt, đối diện nhau nói lời thề nguyện thủy chung.

Còn kiếp nầy, em xin lỗi, em vô cùng xin lỗi.

Ra trường, Phương Lan trở về Việt Nam, nhận làm việc từ 2004 tới 2009, trở thành giảng viên massage cho các em khiếm thị.

George ngẩn ngơ vì mất liên lạc nhưng anh không bỏ cuộc.

Anh lần mò lên Facebook, internet v.v.. bất cứ cái gì có thể để tìm kiếm Phương Lan.

Sau sáu tháng dài, anh kiếm ra người con gái khiếm thị đó.

Phương Lan đã bỏ địa chỉ email bên Nhật và đổi lại địa chỉ Việt Nam. Cuộc tình Việt Mỹ được nối lại.

Năm 2005, lần đầu tiên anh về Việt Nam để mặt đối mặt với người yêu. Em đứng đó tay cầm chùm bong bóng, khắc khoải nhìn về phía trước nhưng không biết lúc nào thì người đó sẽ tới, sẽ cầm tay mình, sẽ kêu lên hai tiếng Phương Lan.

Trái tim em run rẩy, chân tay em run rẩy và ngay cả linh hồn em cũng run rẩy.

Mẹ em đứng cạnh bên.

-Mẹ ơi, mẹ sẽ thành thật cho con biết là anh ấy như thế nào nghe mẹ.

-Phương Lan ơi, anh đến với em đây. Em đứng đó bồn chồn lo sợ.

Sự sợ hãi tỏa ra chung quanh em làm tim anh tê tái. Em không tin rằng anh sẽ đến phải không?

Em nghĩ rằng anh sẽ chạy theo những cô gái quần là áo lụa, những cô gái mắt nâu tóc vàng…chớ làm sao anh lại lặn lội mười ngàn dặm xa xôi để đến gặp một cô gái Việt Nam giản dị, bình thường lại mất đi ánh sáng…

Nếu anh đã từng giận hờn ông trời cay nghiệt đã sắp đặt cho cuộc đời em gặp quá nhiều cảnh trái ngang thì ngày hôm nay, nhìn em đứng bơ vơ cách biệt giữa dòng đời rộn rã, anh lại cám ơn ngài đã sắp đặt cho cuộc đời hai đứa mình trộn lẫn vào nhau, để anh có thể đem đến cho em tình yêu, tin cậy và nương tựa.

Anh đưa thẳng cánh tay mặt ra phía trước cho Phương Lan vịn vào và cứ như vậy họ ra xe, về nhà, dạo phố, du lịch và có thể là đi trọn đường đời. Giờ đây nghĩ lại, anh cười hắc hắc thú nhận cùng tôi:

“Lúc đó cháu không dám nắm tay Lan để cùng đi vì cháu biết phong tục Việt Nam rất bảo thủ. Cháu thấy trong các phim ảnh, người dẫn đường cho người khiếm thị luôn luôn đưa thẳng cánh tay ra phía trước nên cháu cũng làm y như vậy, đi đến đâu ai thấy cũng cười, vậy mà cháu hãnh diện quá vì đã là cây gậy và đôi mắt cho Lan!”

Anh trở lại VN lần thứ hai năm 2006 để làm đám cưới.

Gần như tất cả khu phố nơi gia đình Phương Lan ở đều tham dự đám cưới, hoặc là khách mời, hoặc là nhập vào đám đông tò mò coi ông Mỹ cưới bà mù!.

Phương Lan mời tất cả các bạn khiếm thị. Họ sờ mặt chú rể và hít hà khen đẹp trai quá? chắc là rờ thấy cái mũi cao, nhưng khi sờ tới cánh tay có lông hơi nhiều và hơi dài, dài hơn người VN, thì cả đám liền hét lên trời ơi giống con khỉ quá!.

Cả bọn phá ra cười, chú rể cũng hiểu sơ sơ chữ con khỉ nghĩa là ‘monkey’ nên cũng chỉ biết méo mặt cười theo.

Ai nói cưới hỏi phải môn đăng hộ đối?

Ai nói chọn vợ lựa chồng phải thấy mặt nhau?

Ngày hôm nay hai đứa chúng con quì trước bàn thờ tổ tiên, tuy không nhìn thấy nhau, nhưng nguyện cùng nhìn về một hướng.

Chúng con không có tiền tài để cho nhau, nhưng nguyện cho nhau cả cuộc đời dù ấm no dù đói lạnh. Chúng con không có nhà cao cửa rộng để cho nhau, nhưng chúng con nguyện cho nhau hai tấm chân tình mênh mang như biển rộng trời cao.

Sau ngày cưới, George trở về Mỹ lo giấy tờ bảo lãnh nhưng Phương Lan không chịu đi sớm vì em nghĩ là nước Nhật đã tốn tiền để đào tạo em với mục đích là em sẽ truyền dạy lại cho những người khiếm thị khác một nghề nghiệp để nuôi thân.

Nếu em bỏ đi thì phụ công ơn nước Nhật và bạc nghĩa với những người đồng cảnh ngộ.

Giọt nước dòng sông. Nhận ơn nghĩa bằng một giọt nước, nguyện trả lại bằng một dòng sông. Chúng mình xa nhau thêm mấy năm nhưng lại có hàng trăm người có nghề nghiệp nuôi thân suốt cả đời, việc ấy quả rất đáng phải không anh?

Vì thế em cương quyết ở lại VN tới năm 2009 để hoàn thành cam kết của mình, bên kia anh vẫn chờ và càng trân trọng nhân cách của em hơn. 

Ba năm sau ngày cưới, em mới đi Mỹ đoàn tụ cùng George.

Bức ảnh họ trong ngày cưới ở VN thật là duyên dáng và tươi đẹp.

Tình yêu vẫn đậm đà, ảnh kia chụp tại California

– anh vẫn là đôi mắt cho em! 

Bài của tác giả Lệ Hoa Wilson được đăng trên báo dành cho cộng đồng người Việt ở Mỹ, được báo tiếng Việt ở Úc đăng lại.

KC có hiệu đính cho vừa với status.

#NCCTV


 

NHÂN QUẢ -Truyen ngan HAY

Những câu chuyện Nhân Văn – Chi Nguyen

Đây là một câu chuyện có thật

Vào một đêm mưa bão cách đây đã nhiều năm, có một cặp vợ chồng già bước vào gian tiền sảnh của một khách sạn nhỏ ở thành phố Philadelphia của Mỹ và hỏi thuê phòng. Họ ghé vào tránh bão và hy vọng có thể mướn được căn phòng trọ qua đêm.

Tiếp đón họ là một chàng trai có nụ cười dễ mến.

Chàng trai giải thích rằng trong thành phố của họ đang có ba hội nghị lớn nên tất cả các phòng đều đã có người thuê.

“Tôi rất lấy làm tiếc vì tất cả các phòng trong khách sạn đều đã có người thuê”.

Chàng trai ngập ngừng một lát rồi nói tiếp

“Nếu thời tiết tốt, tôi sẽ gửi hai vị đến một khách sạn khác, nhưng làm sao tôi có thể để một đôi vợ chồng đáng mến như hai vị ra ngoài trong trời mưa gió như thế này vào lúc một giờ khuya được?

Hai vị có thể ở tạm trong phòng của tôi được không?

Nó không phải là phòng sang trọng gì cho lắm, nhưng nó cũng gọn gàng và sạch sẽ. Vì tôi phải trực vào khoảng thời gian này nên tôi có thể nghỉ ngơi ở đây cũng được. Xin ông bà đừng ngại.

Cặp vợ chồng rất biết ơn chàng trai trẻ và nhận lời qua đêm trong căn phòng đó. Chàng nhân viên nhìn cặp vợ chồng già mỉm cười và họ cũng mỉm cười lại với anh.

Nhiều năm sau đó, khi chàng trai trẻ dường như đã quên mất câu chuyện này, thì bất ngờ, anh nhận được một lá thư kèm cặp vé máy bay khứ hồi. Lá thư là từ cặp vợ chồng già. Họ nhắc lại đêm mưa bão hôm đó với lòng biết ơn sâu sắc cùng lời mời cậu đến thăm New York.

Chàng trai trẻ có đôi chút ngạc nhiên. Cả đêm đó, cậu không ngủ được và nằm suy nghĩ ngẩn ngơ: có lẽ ngày mai họ sẽ dẫn mình đi thăm thành phố một vòng và dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng nào đó chăng? Nhưng nghĩ lại, cậu thấy mọi thứ có vẻ hơi quá, chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ thôi mà, liệu có cần phải tới mức như vậy không?…

Sáng hôm sau, cậu đáp máy bay xuống New York.

Cặp vợ chồng già có vẻ như đã đứng đợi cậu ở đó từ lâu. Họ mỉm cười, vẫy tay chào từ xa và đón cậu bằng một chiếc xe sang trọng. Cậu mỉm cười chào họ và cảm thấy có chút hồi hộp.

Sau khi đi vòng vèo qua vài con phố, cặp vợ chồng già đưa cậu tới góc ngã tư đại lộ Fifth Avenue và đường số 33. Bước xuống xe, người chồng đưa tay chỉ tòa nhà tráng lệ mới xây ở đó – một cung điện toàn bằng đá đỏ với những ngọn tháp vươn thẳng trên nền trời xanh thẳm, rồi nói với chàng trai trẻ:

“Đây là tòa khách sạn mà tôi xây cho cậu. Tôi hy vọng cậu có thể quản lý nó”.

“Ông không đùa đấy chứ?” – Cậu ngỡ ngàng.

“Không. Đây là một đề nghị hoàn toàn nghiêm túc“, người chồng già trả lời bằng một giọng chắc nịch cùng nụ cười thấp thoáng trên môi.

Công trình tráng lệ kia chính là khách sạn nổi tiếng Waldorf Astoria – nơi tụ họp của tầng lớp quý tộc lớn của New York vào thời điểm đó. Đây cũng là nơi mà các nhân vật cao cấp toàn thế giới thường xuyên lui tới nghỉ ngơi, đặc biệt là các Tổng thống Mỹ khi đang còn tại chức.

Người đàn ông già trong câu chuyện này chính là William Waldorf Astor của dòng họ Astor, một trong những gia đình giàu có nhất ở New York vào thế kỉ đó.

Còn chàng trai tốt bụng kia chính là George Charles Boldt – vị giám đốc đầu tiên của khách sạn này!

Trái tim của những người có tấm lòng trắc ẩn giống ngọn đèn chiếu rọi tứ phương, không chỉ sưởi ấm cho người khác mà còn sưởi ấm cho chính tâm hồn họ.

Bài sưu tầm – Ảnh minh họa

NgocTram Hoang

Chat Meta AI trả lời:

*Câu chuyện “Nhân quả” bạn vừa kể – Không phải là sự thật lịch sử.*

*Giải thích*

– *Nội dung:* Câu chuyện về chàng nhân viên khách sạn tốt bụng George Boldt được ông William Waldorf Astor (của dòng họ Astor giàu có) đền đáp bằng việc xây khách sạn Waldorf Astoria cho ông quản lý.

– *Tính xác thực:* Đây là một *truyện ngụ ngôn hiện đại*, được lan truyền qua mạng và sách sưu tầm, *không có căn cứ lịch sử rõ ràng*.

– *George C. Boldt* thật sự là giám đốc đầu tiên của Waldorf Astoria (khách sạn mở cửa 1893), nhưng không có tài liệu nào ghi nhận ông được ông Astor “tặng” khách sạn vì một đêm giúp đỡ.

– *William Waldorf Astor* là người tài trợ xây dựng Waldorf Astoria, nhưng mối quan hệ giữa ông và Boldt chỉ là chủ–nhân viên, không phải kiểu “trả ơn cá nhân” như câu chuyện.

*Vì sao nó lan truyền?*

– *Cấu trúc “nhân quả, thiện có báo”* rất thu hút, dễ lan truyền trên mạng xã hội.

– *Chi tiết cụ thể (địa điểm, thời gian, tên người)* tạo cảm giác thật, dù thực tế chỉ là hư cấu.

*Kết luận*

– *Câu chuyện không có bằng chứng lịch sử, được xếp vào loại truyền thuyết đô thị hoặc truyện ngụ ngôn.*

– Nó vẫn có giá trị truyền cảm hứng về lòng tốt, nhưng đừng coi là sự kiện thực tế.

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về lịch sử thật của *Waldorf Astoria* hay *George Boldt*, có thể xem các nguồn từ *Wikipedia*, *New York Historical Society*, hoặc sách về lịch sử khách sạn.