Anh thương chị, nhưng là một tình yêu đơn phương

Bùi Mạnh Toàn

 Anh thương chị, nhưng là một tình yêu đơn phương vì chị đã có người khác. Người đó học trên chị 2 lớp và họ đã sống thử với nhau .

Chị biết anh thương chị nhưng chị không chọn anh vì anh hiền lành ít nói, gia cảnh lại khó khăn.Anh ngậm ngùi đứng từ xa nhìn chị hạnh phúc .Nhưng hạnh phúc chẳng được bao lâu thì chợt tắt .

Khi chị báo tin cho họ biết là chị đã có thai được 2 tháng , họ khuyên chị nên phá đi vì tương lai còn dài , còn phải học, phải thành tài. Sau này còn nhiều cơ hội …

Chị lặng người không nói gì nhưng nước mắt cứ tuôn rơi .Chị không thể làm được vì đây là cốt nhục của chị , là tình yêu là lẽ sống của chị . Nhưng thật sự là bế tắc , chị không biết phải giải quyết làm sao khi họ đã bỏ chị, vì ba má chị rất khó.

Anh đã đứng ra xin được làm ba đứa bé và xin cưới chị .Anh quả là người đàn ông tốt. Có lẽ vì một tình yêu cao cả mà anh đã dang tay che chở cho chị.

Anh dẫn chị về ra mắt bố mẹ và xin được cưới chị vì chúng con đã lỡ có con với nhau . Một đám cưới đươc diễn ra với bao lời chúc phúc .

Anh chăm sóc cho chị từ lý từ tí. Nay hầm gà , mai hầm yến. Bao nhiêu tiền làm được là lo bồi bổ cho vợ , chỉ mong cho mẹ con được khỏe mạnh .Ngày chị sanh, Anh đã thao thức chờ đợi để được bế em bé vào lòng, một bé trai kháu khỉnh. Anh đã đặt lên trán con môt nụ hôn bằng cả môt tấm lòng mà cha dành tặng cho con .

Bao nhiêu yêu thương dành hết cho con. Những tiếng ” ba, ba”đầu đời và những bước chân rụt rè sợ té, nó đã cho anh biết thế nào là hạnh phuc của một người cha. Khi bé Dũng được 5 tuổi thì chị mới sanh em bé ,một bé trai ra đời và 2 năm sau là một bé gái.

Bây giờ thì anh đã phải vất vả hơn nhiều vì phải lo cho các con, nhưng chưa bao giờ anh nhụt chí vì bé Dũng luôn là một học sinh giỏi . Anh tự hào về con và luôn lấy Dũng làm gương cho các em .

Không phụ lòng cha, Hai em của Dũng đã thành tài và lập nghiệp trên thành phố . Còn Dũng đã là một bác sĩ giỏi .

Tuần rồi, anh bị bệnh phải vào bệnh viện để chuyền máu .Vì anh thuộc nhóm máu hiếm. Dũng đã đi thử máu để chuyền cho ba nhưng không cùng nhóm máu . Hơi ngỡ ngàng Dũng đã lấy mẫu tóc của 2 nguòi đi thử và kết quả là không cùng huyết thống . Dũng hỏi mẹ và được mẹ giải thích .

Dũng thật sự xúc đông về tình yêu thương và sự hy sinh lo lắng của ba . Dũng đã đến bên giường bệnh và nắm lấy tay ba:

” Ba ơi ! Con thật biết ơn ba vì ba đã yêu thương con .Con nguyện sẽ là đứa con ngoan , hiếu thảo cho ba yên lòng  Môt người cha mà con hạnh phúc mới có được . Ba đã cho con cuộc sống ngày hôm nay .Ba thật là người cha vĩ đại”

Anh đã mỉm cười hạnh phúc vì sự hy sinh của anh đã được đền đáp .Con anh đã hiểu và yêu thương anh …

Bài và ảnh sưu tầm.


 

 TÌNH ĐẦU, TÌNH CUỐI – Truyện ngắn HAY

 TÌNH ĐẦU, TÌNH CUỐI 

Ông Hải, tay cầm ly cà phê, tay cầm cuốn sách, đang lúng túng định dùng vai đẩycánh cửa kính của cái cafeteria, nơi bán thức ăn làm sẵn của nhà dưỡng lão Yee Hong, thì ở đàng sau, đã có một bàn tay nhanh nhẹn mở dùm. Ông Hải bước vào và lúng búng nói với người đàn ông đi sau:

 -Thank you!

Rồi ông Hải tiến về cái bàn quen thuộc ở góc phòng. Ông đặt ly cà phê vừa mua ở tiệm Tim Horton xuống bàn, vươn vai nhìn đồng hồ:

 – Gần mười giờ!

Ông mở nắp ly cà phê, nhấp một ngụm rồi lật cuốn sách đọc sơ qua vài hàng.

 Vừa lúc đó, có tiếng bánh xe lăn trên sàn gạch , ông Hải ngửng lên cất tiếng chào:

-Chào bà Loan! Good morning Tina!

 Tina, là tên của cô y tá đang đẩy chiếc xe lăn đến bàn, để xe vào chỗ đối diện chỗ ngồi của ông Hải, cũng cất tiếng chào lại bằng tiếng Anh:

– Chào ông Hải! Hôm nay ông có khỏe không?

 – Tôi khỏe, cám ơn cô!

 -Tôi để bà Loan lại cho ông nhé!

 -Vâng, cô cứ yên tâm!

 Nói xong, cô y tá   khẽ vỗ vai người đàn bà đang ngồi trên xe lăn, rồi quay gót ra ngoài. Ông Hải vui vẻ bảo người ngồi trên xe lăn:

 -Trời hôm nay đẹp quá. Bà hãy nhìn ra ngoài sân kìa!

Người đàn bà đứng tuổi, hấp háy đôi mắt sau làn kính cận, đưa mắt nhìn ra ngoài. Thời tiết ở thành phố Mississauga vào những ngày cuối xuân thật đẹp. Nắng vàng trải dài trên những thảm cỏ xanh lì , nằm bên cạnh một khu vườn hoa đầy mầu sắc ở gần cổng ra vào. Ông Hải kéo chiếc khăn phủ đôi chân của bà Loan lại cho ngay ngắn rồi thân mật hỏi:

-Hôm qua bà có ngủ ngon giấc không?

 -Cám ơn ông, tôi ngủ say li bì, chẳng nhớ giờ giấc gì cả..

 Ngừng một chút, bà Loan hỏi:

 -Hôm nay ông đọc câu chuyện đến đoạn nào rồi nhỉ?

 -Phần hai người sắp gặp lại nhau, khi Loan ở dưới Saigon trở lại Đà Lạt để tìm lại Hải..

Bà Loan gật gù:

 -Mà câu chuyện cũng hay nhỉ? Nhân vật chính lại trùng với tên tôi và tên ông..

 -Đúng vậy và đây là một chuyện tình hết sức cảm động..

Vừa lúc đó, có tiếng trẻ con ở bên cạnh. Hai đứa trẻ một trai, một gái chạy đến ôm chầm lấy ông Hải và sau đó quay sang ôm bà Loan. Bà Loan vui vẻ nói:

 -Ồ các cháu của ông hôm nay lại đến thăm tôi..

 Bà Loan ngước nhìn người đàn ông vừa đến đứng cạnh ông Hải:

 -Anh Tùng cũng đến thăm tôi nữa này.

 Người đàn ông, tiến lại ôm lấy vai bà Loan:

 -Chào bác! Bác hôm nay có khỏe không?

 -À, hôm nay thì tôi khỏe lắm.

Tùng quay sang nói nhỏ vào tai ông Hải, trong khi hai đứa trẻ đang đưa cho bà Loan coi những vật dụng đủ mầu sắc trong một chiếc giỏ mà hai đứa đã mang đến:

-Má hôm nay có sao không hả ba?

 Ông Hải cũng nhỏ giọng:

 -Hôm nay má mầy có vẻ tươi tỉnh lắm. Hôm nay con không phải đi làm sao?

 -Dạ, hôm nay con nghỉ, đưa hai đứa nhỏ vào thăm bà nội và chút nữa thì phải đưa hai đứa nó đi nha sĩ..

                 *****

 Bà Loan chính thật là vợ ông Hải, mẹ của Tùng ,là bà nội của hai đứa bé Jason và Tracy, con của Tùng. Định cư ở Canada từ năm 1975, gia đình ông Hải đã có một thời gian sống thật hạnh phúc,rồi chẳng may bà Loan lại bị căn bệnh hiểm nghèo là bệnh Quên(Alzheimer’s). 

Sau vài năm được chữa trị ở nhà, bệnh Quên của bà ngày càng nặng dần đến nỗi bà chẳng còn nhận ra chồng con, chẳng nhận ra con cháu của mình nữa. Ngoài căn bệnh Quên, bà còn bị thêm bệnh tiểu đường. Bệnh tiểu đường cũng ngày một nặng dần. 

 Ông Hải cố gắng chăm sóc vợ ở nhà, nhưng khi bệnh của bà ngày càng trầm trọng thêm,và đến lúc phải ngồi xe lăn, , thì ông Hải phải xin cho vợ mình vào nhà dưỡng lão Yee Hong , một nhà dưỡng lão của người Trung Hoa ở thành phố Mississauga này. Ông Hải cũng bán căn nhà cũ đang ở, mướn một căn chung cư ở gần nhà dưỡng lão, để hàng ngày có thể đến thăm nom cho vợ.

 Hàng ngày ông Hải đến nhà dưỡng lão vào lúc 10 giờ sáng, để đọc sách cho vợ, để giúp vợ ăn trưa. Sau giờ ăn, khi y tá đưa bà Loan đi tham dự các lớp tập thể dục , các giờ trị liệu pháp, thì ông Hải đi về nhà hoặc đi bộ trong khu công viên River Grove gần đó, hoặc là đi bơi trong hồ bơi của trung tâm cộng đồng Mavis. 

Buổi chiều ông Hải trở lại nhà dưỡng lão cho vợ ăn chiều và ở chơi cho đến tối mới trở lại căn chung cư mà ông đã muớn ở gần đó. Tùng là đứa con độc nhất của hai người, cũng ở trong thành phố Mississauga này, nên cũng hay thường dẫn vợ con đến thăm mẹ mỗi tuần vài lần.

Khi biết vợ mình bị bênh Quên, ông Hải bỏ công nghiên cứu thêm về loại bệnh nan y này. Ông cũng được biết là nếu tìm cách khơi lại những kỷ niệm cũ cho người bệnh, thì có nhiều trường hợp, người bệnh dần dần nhớ lại và bệnh Quên có thể bớt dần đi. 

Vì thế hàng ngày ông đến để đọc lại cho vợ nghe cuốn nhật ký dầy cộm mà bà Loan đã dùng để ghi lại những diễn biến của cuộc tình giữa hai người.

Ông Hải đã đọc đi đọc lại hết cuốn nhật ký này nhiều lần, nhưng vẫn chưa thấy sự tiến triển nào về sức khỏe và trí nhớ của vợ. Tùng nhiều lúc thấy tội nghiệp cho cha đã bảo ông Hải:

-Thôi ba à,ba đọc như vậy đủ rồi, chắc không có “work” đâu?

 -Không sao, tao ở nhà cũng buồn, đâu có chuyện gì làm..

 Và trang nhật ký đã được mở ra , hồi ký của một chuyện tình lại bắt đầu..

 Chiếc xe lam chỉ chở có một người khách, đổ dốc chạy theo đường Phan Đình Phùng, rẽ ngược lên con đường Huyền Trân Công Chúa để chạy đến cỗng trại Du Sinh.. 

Nếu xe tiếp tục đi thẳng là đường dẫn đến thác Cam Ly. Loan ngồi trong lòng xe, tay giữ chiếc va li , mắt ngơ ngẩn nhìn ra ngoài. Trời đã vào hè nhưng khí lạnh của miền cao nguyên vẫn còn lảng vảng đâu đây. 

Chiếc xe lam chạy lên giữa con dốc thì ngừng trước cổng trại. Nàng móc bóp trả tiền cho người tài xế, xách va li, bước xuống xe. Ngôi biệt thự của ba má nàng nằm ngay góc đường vào cổng trại. 

Nằm xế về bên tay phải, góc của một con đường tắt dẫn vào trại Du Sinh, là khu tọa lạc của trường Couvent Des Oiseaux. Loan xách va li đi lại cổng biệt thự bấn chuông. Một lúc sau, có tiếng mở cửa sắt và tiếng chào:

-Cô lên có một mình thôi hay sao? Thế còn bác đâu?

 Loan cất tiếng trả lời bà quản gia:

 -Cháu lên trước. Tháng sau má cháu mới ghé lại..

 -Vậy hả, thôi cô đưa va li tôi mang lên cho..

 Buổi tối hôm đó, Loan ăn qua loa rồi đi ngủ, sau chuyến đi dài mệt nhọc .

                       ******

 Buổi sáng hôm sau, Loan thức dậy vì những tiếng chim hót vang trên cành lá, xuyên qua khung cửa sổ rộng, vào tận phòng. Nàng trở dậy, mặc thêm chiếc áo khoác ngoài, rồi đi ra mở tung cánh cửa sổ. Mặt trời còn ủ kín trong sương. 

Lớp sương mù dầy đặc phủ kín cả khu rừng thông xung quanh ngôi biệt thự. Những ánh nắng mặt trời buổi sáng len lỏi giữa đám sương mù làm thành những vệt sáng trên những cành thông. Đúng lúc đó có tiếng của bà Hậu, người quản gia ở cửa:

-Cô Loan dậy chưa thì xuống ăn sáng!

Sau bữa ăn sáng, Loan thay quần áo, mặc thêm chiếc áo len, rồi thả bộ đi vòng quanh sân của ngôi biệt thự. 

Khu đất xung quanh ngôi biệt thự này rất rộng, được rào bằng hàng rào sắt, và trồng rất nhiều thông. Những cây thông ba lá mọc cao lêu khêu trong khu đất, khiến người ta có cảm tưởng đây là một khu rừng thu nhỏ. Nàng chầm chậm thả bộ đi trong sân, gần vòng rào, vừa đi vừa hít thở khí trong lành. Mùi của những lá thông ẩm sương, mùi của những đám hoa Lan mọc trên những cành thông cao trước mặt, hòa lẫn với nhau, thành một thứ mùi kỳ diệu có thể làm mê mẩn lòng người. Loan chợt nghĩ đến câu văn của một nhà văn mà nàng chợt quên mất tên khi nói về Đà Lạt như sau “ Đi trong đêm ở Đà Lạt là đi trong hơi thở của núi rừng”. 

Đang thả hồn theo cơn mộng, thì Loan bỗng giật mình vì tiếng   động mạnh ở phía trước. Nàng đưa tay giữ ngực nhìn lên. Một quả bóng tròn đã được đá từ ngoài vào sân. 

Chỉ mất giây sau thì Loan thấy ngay một chàng thanh niên, mặc bồ quần áo thể thao, đi giầy dùng để đá banh, lò mò bước tới. Khi thấy nàng đứng ôm ngực ở đó, chàng thanh niên cũng giật mình, rồi trấn tĩnh lại nói:

-Xin lỗi cô, trái banh tụi này đang đá ở bên ngoài, vô tình lọt vào sân nhà, tôi đường đột xin vào để lấy ra..

Loan ấp úng không nói một lời. Từ nhỏ đến lớn nàng sống khép kín trong gia đình, không giao thiệp nhiều với bên ngoài.

 Rồi khi vào trung học, thì nàng lại được gửi vào nội trú trong một trường dòng, sự giao tiếp của nàng càng giới hạn thêm nữa. Vì thế khi đối diện với người thanh niên lạ mặt này, nàng cũng chẳng biết phải đối đáp như thế nào?.

Chàng thanh niên thấy nàng không nói, cúi xuống nhặt quả banh, vừa dợm đi ra thì bỗng quay lại nói:

-Nhà tôi ở bên ngoài kia, ngay đường vào cổng trại, chỉ biết có bác Hậu thôi và chưa gặp cô bao giờ.

Loan run giọng:

 -Tại học ở Saigon..

 Chàng thanh niên ngắm nàng rồi gật gù:

 -À, ra vậy. Chắc cô về đây nghỉ hè? Tôi tên là Hải.. thế còn cô?

 -Tên là Loan..

 -Hân hạnh được biết cô.. Nhà tôi ở ngay bên cạnh hàng rào đó..

Vừa nói Hải vừa chỉ tay ra bên ngoài hàng rào sắt. Loan nhìn theo hướng chỉ và nhìn thấy một căn nhà tôn vách ván như những căn nhà của những người sống trong trại Du Sinh này. 

Loan đã được bà Hậu cho biết trại Du Sinh là trại của những đồng bào di cư tỵ nạn cộng sản từ miền Bắc vào Nam Các người tỵ nạn này đã được cha Bửu Dưỡng, một cha dòng Chúa Cứu Thế , dẫn dắt lên sống trong trại định cư này.

Chàng thanh niên nói tiếp:

 -Mấy ngày ở đây, nếu cô Loan không bận thì qua bên nhà chơi với tụi này.Tôi có hai đứa em gái chắc cũng bằng tuổi cô, thích hát hỏng lắm..

À, hay chiều nay cỡ bốn giờ, tôi bảo Liên ,một nhỏ em của tôi đến cổng biệt thự, chờ để dẫn cô qua chơi. Chiều nay có thêm mấy cô bạn của các em tôi ở trên đầu trại xuống, hát hò vui lắm..

Thế rồi họ quen nhau và yêu nhau lúc nào chẳng hay. Những ngày nghỉ hè năm đó là những ngày nghỉ hè đẹp nhất của đời học trò của Loan. Nàng đã được tham dự những trò vui tập thể cùng với đám thanh niên thiếu nữ cùng tuổi. Nào là trò chơi bịt mắt bắt dê, trò chơi rồng rắn… Nàng được tập hát những bài du ca. Nàng cũng được tham dự những buổi cắm trại trong khu rừng thông ở trên đầu trại, nơi có dòng suối trong vắt chảy qua . Trong làn nước trong veo đó, nàng đã thấy những con tôm tích, là loại tôm   cũng bằng cỡ những con tôm thường nhưng chúng có hai cái càng thật to. 

Các con tôm tích búng mình bong bóc khi thấy có bóng dáng người. Nàng đã lần đầu tiên nhìn thấy những con khỉ rừng leo trèo trên những cành thông, cũng như thấy tận mắt những người Thượng vai mang rìu , lưng đeo gù đi thành từng đoàn trong rừng.

Một tháng sau, khi bà Huyền, mẹ của nàng lên chơi, thì bà khám phá ra sự quen thân của Loan với Hải. Hải lúc đó đang học lớp đệ nhất của trường Hưng Đạo.

 Gia cảnh của chàng , một gia đình người Bắc mới di cư vào Nam-bố làm phu lục lộ và mẹ thì đang làm nghề nuôi heo, thì chẳng có thể nào là người “môn đăng hộ đối” với gia đình bà. 

Ngày hôm sau, bà Huyền đã bắt con mình phải về ngay lại Saigon. Loan buồn bã vì quyết định cứng rắn của mẹ, nhưng nàng cũng kịp dúi   cho người tình, mảnh giấy ghi địa chỉ của nàng ở Saigon và bảo Hải phải viết thư cho nàng.

 Những ngày ở Saigon là những ngày của nhớ mong. Loan chờ đợi thư của Hải gửi về, nhưng những bức thư tình vẫn biền biệt nơi đâu?. Loan bắt đầu viết nhật ký, ghi lại những ký ức của những ngày thơ mộng của mối tình đầu. 

 Một năm, rồi hai năm, nàng vẫn không nhận được tin tức của người tình. Nàng vẫn không quên Hải, nhưng cũng chẳng biết làm sao liên lạc với người yêu?. Bà Huyền đã cho bán căn biệt thự ở Đà Lạt cho người chủ khác. 

Trong hai mùa hè sau đó, bà Huyền đã khôn khéo cho con qua Paris thăm bà dì ở bên Pháp. Những cảnh đẹp, thú vui ở thành phố hoa lệ vẫn chẳng làm cho Loan vui. Khi nàng vừa đậu xong bằng tú tài toàn phần Pháp, thì có một gia đình quen với ông bà Huyền, gửi người nhờ mai mối Loan cho đứa con trai của họ là một bác sĩ mới ra trường.

 Khi được hỏi ý kiến nàng nàng cũng chẳng biết trả lời ra sao? Nàng cũng muốn nhận lời cho cha mẹ vui lòng, nhưng trong thâm tâm vẫn chẳng bao giờ nàng quên được Hải..

Bà Huyền vẫn kiên nhẫn dịu dàng khuyến dụ con , nhưng lòng của Loan vẫn có những níu kéo chờ đợi, cho nên chẳng trả lời dứt khoát. 

Trong một lúc nóng giận,, bà Huyền đã nói huỵch toẹt ra là “Hai năm nay Hải vẫn gửi thư đều đặn, nhưng bà đã giữ lại, vứt đi, không cho Loan đọc”. Loan nghe đến đó, khóc òa lên, rồi bỏ chạy về phòng mình, đóng cửa, bỏ mặc bà Huyền đứng ngoài khuyên nhủ, dỗ dành..

Buổi sáng sớm hôm sau, khi cả nhà còn ngủ, Loan lẻn ra ngoài, với số quần áo đựng trong xắc tay,nàng thuê xe tắc xi, chở đến bến đò xe đi Đà Lạt. Buổi chiều hôm đó, Loan đã có mặt ở ngôi nhà của Hải. 

Chàng đã không còn ở đó! Theo lời của Liên, thì sau khi bị rớt tú tài hai, Hải đã xin vào trường võ khoa Thủ Đức, học xong ra trường và hiện đang đóng đồn ở Chương Thiện.

Liên cũng cho Loan địa chỉ của đơn vị của Hải. Tối hôm đó, Loan ngủ lại nhà Hải, nằm cùng giường với Liên trong căn nhà tôn, và được bố mẹ của Hải cho ăn những món ăn đặc sản của người Bắc như canh rau đay, cà muối. 

Khi trở lại Saigon, với địa chỉ của Hải, Loan lại tìm đường xuống Chương Thiện. Khi đến bến xe thì nàng mới biết nàng phải đi bộ thêm ba cây số nữa, mới vào đến chỗ   đóng quân của Hải.

 Nhìn đôi guốc cao trong chân, Loan ngán ngẩm, đi ra chợ Chương Thiện ở gần đó mua một đôi dép cao su cho cuộc hành trình.Sau cùng Loan cũng đã gặp được Hải sau nhiều ngày vất vả! Lúc gặp Hải, Loan nước mắt ràn rụa, không nói được một tiếng nào. 

Hải cũng ngạc nhiên và cảm động khi thấy người yêu cuối cùng đã lặn lội tới thăm. Chàng thủ thỉ bảo nàng là sẽ giữ Loan không dể mất nàng trong cuộc đời.

Bà Huyền thấy con quyết lòng thì cũng không dám ép thêm. Một đám cưới giản dị đã được tổ chức! Loan cứ như người trong mơ, không nghĩ là hạnh phúc cuối cùng lại đến với nàng như thế! 

Cuộc sống hai người tuy có vất vả về tiền bạc, nhưng thật hạnh phúc, cho đến ngay cả khi gia đình phải di tản sang Canada, sau ngày buồn chung của đất nước, ngày 30 tháng 4 năm đó.

 Khi sang đến Canada thì cuốn nhật ký của bà Loan đã ghi đến hết trang cuối cùng!

                               ********

  Sau khi   đẩy chiếc xe lăn của bà Loan đến cạnh chiếc bàn tròn ở giữa sân cỏ, cô y tá Tina khóa chốt an toàn của xe lăn lại, kiểm soát lại một lần nữa rồi hỏi bà Loan:

-Are you OK?

 Bà Loan vội vã trả lời:

 -Yes, yes..

Cô y tá   vẫy tay chào mọi người rồi quay quả bước trở lại nhà ăn. Tháng bẩy mùa hè và vì là ngày chúa nhật cho nên cả gia đình của ông Hải kể cả Ngọc, vợ Tùng cũng như hai đứa cháu đều đến để thăm bà nội của chúng. 

 Thay vì cứ ngồi trong phòng ăn chật hẹp, mọi người bàn nhau ra ngồi ở ngoài sân vừa thoáng lại vừa yên tĩnh, không bị những tiếng ồn ào của những khách hàng khác ở trong phòng ăn. 

Chiếc bàn tròn đặt giữa sân cỏ được che   bởi một chiếc dù che nắng-chiếc dù có thể thay đổi vị trí theo sự thay đổi vị trí của mặt trời trong ngày. 

Từ trên sân cỏ, người ta có thể nhìn thấy bãi đậu xe dành cho khách đến thăm ở ngay cửa chính ,cuối con đường dốc thoai thoải đi xuống đồi. Ông Hải theo lệ thường, kéo chiếc chăn phủ chân của bà Loan lên ngang đùi và nói:

-Này bà Loan, câu chuyện mình đọc tới đâu rồi?

 Đây chỉ là câu hỏi thường lệ, và ông Hải sẽ đợi chờ câu trả lời của bà Loan là “tôi không nhớ tới đâu nữa!” như hàng ngày. Trong khi Tùng và Ngọc ngồi ở hai chiếc ghế bên cạnh, lơ đãng nhìn ra xa. Còn hai đứa cháu thì đang mải mê chơi các trò chơi điện tử Gameboys.

Bà Loan ngẫm nghĩ rồi bảo ông Hải:

 -Tôi nhớ mình đã đọc đến đoạn bà mẹ nhận là dấu thư của Hải gửi về không cho Loan biết..

 Ông Hải mừng rỡ:

 -À, hôm nay bà lại nhớ! Có triển vọng tốt..

Nói rồi ông Hải, sửa lại gọng kính, mở trang sách đã đánh dấu trước ra đọc.. Ông Hải vừa đọc được một đoạn thì có tiếng bà Loan ngắt lời:

-Ông Hải ơi, chuyện này là hình như là chuyện của tôi và cuốn nhật ký mà ông đang cầm trên tay hình như là của tôi mà..

Ông Hải hồi hộp hỏi:

 -Bà có nhớ thật không hở bà Loan..?

 -Thật mà..

 Nói đến đây, bà Loan bỗng giơ hai tay bảo ông Hải:

 -Anh Hải đây mà.. Anh đọc nhật ký của em mà anh cứ bảo của người khác..

Rồi quay sang đám con cái đang ngồi xung quanh, bà Loan rấm rứt khóc:

 -Ồ kìa Tùng con tôi, rồi Ngọc rồi các cháu tôi Jason và Tracy đây mà, chứ có ai xa lạ đâu..

Tùng la lên:

 -Má ơi, má đã nhớ lại rồi!

 Ông Hải cũng mừng rỡ:

 -Cám ơn Trời Phật, em đã nhớ lại được rồi..

 Tùng đứng dậy hối hả bảo ông Hải:

-Thôi ba ngồi đây với má nghe.. tụi con chạy qua nói cho chú thím Hùng biết, chở hai người đến đây luôn..

 Nói rồi Tùng dắt tay vợ và bảo hai đứa con:

 -Tụi con chào bà nội rồi đi với ba. Chút nữa mình trở lại..

Vừa quay đi, Tùng còn nói với lại:

 -Con sẽ ghé chợ Tầu mua thịt quay bánh mì mang về ăn trưa với chú thím Hùng luôn..

 Ông Hải đứng dậy ôm lấy vợ, nước mắt dàn dụa không nói một lời. Bà Loan cũng thút thít khóc trên vai chồng. Một lúc sau, ông Hải khẽ bảo:

-Có gió nhiều rồi, thôi để anh đưa em vào nhà ăn..

 Ông Hải lụm khụm mở chốt an toàn của chiếc xe lăn, chậm chậm đẩy chiếc xe ra khỏi sân cỏ, theo con đường dốc trở lại nhà ăn. 

Đang đẩy chiếc xe, ông Hải bất ngờ bị hụt chân té xuống, chiếc xe lăn không người giữ, chạy theo con đường dốc, tông thẳng vào bức hàng rào sắt ở gần cửa ra vào. Ông Hải chạy theo la lớn:

-Loan ơi, em có sao không?

 Khi ông Hải chạy đến gần, thì chiếc xe lăn đã ngừng lại. Mặt của bà Loan đã nằm kẹt giữa những làn song sắt. Ông Hải nghe loáng thoáng tiếng chân người chạy đến, tiếng của cô y tá Tina đang gọi số điện thoại khẩn cấp 911.

                             *******

  Vẫn chỗ ngồi cũ, vẫn chiếc bàn tròn ở góc phòng và vẫn có ly cà phê Tim Horton còn bốc khói ở trên bàn, ông Hải ngồi tư lự một mình, tay cầm cuốn nhật ký, buồn bã nhìn ra ngoài. Mùa thu đã về với lá vàng phủ đầy trên thảm cỏ. 

Thỉnh thoảng những cơn gió mạnh thổi về, đã   cuộn đám lá lên không trung như những đợt sóng, rồi những chiếc lá lại rơi lả tả lại trên sân. Sau đám tang của người vợ, hàng ngày ông Hải vẫn đến ngồi ở góc phòng của quán ăn trong nhà dưỡng lão Yee Hong này. 

Những khách hàng thường xuyên của quán ăn này, mà ông Hải nhớ mặt, vẫn ngày ngày đến đây. Nhưng không còn có cô y tá Tina đẩy chiếc xe lăn ra, và chỗ ngồi đối diện với ông cũng chẳng còn có người ngồi. Ông Hải thở dài, nhìn chiếc ghế trống đối diện, mở cuốn sách cầm trên tay, rồi hỏi:

-Bà Loan à, bà có nhớ hôm qua mình đã đọc đến đâu không?

 Không có tiếng trả lời, nhưng ông Hải, với đôi mắt nhòa lệ, vẫn cắm cúi đọc những dòng trong trang sách đã mở sẵn..Trang sách của một cuộc tình đầu và cũng là một cuộc tình cuối!

  Nguyễn Tuấn Hoàng

From:: Bach -Yen Ly


 

Thiên thần bé nhỏ

Trong một ngày mưa, một cậu bé nói với cha là Mục sư:

– Cha ơi, đã đến lúc con phải ra ngoài để phân phối các tờ rơi.

– Con trai, ngoài trời lạnh lắm và có mưa phùn, thời tiết này cha sẽ không ra ngoài.

– Nhưng cha ơi, người ta cần biết về Chúa ngay cả vào những ngày mưa.

Mục sư suy nghĩ một chút rồi bảo:

– Con trai, con có thể đi. Đây là tờ rơi, con hãy cẩn thận.

Cậu bé 11 tuổi cảm ơn cha, rồi đi bộ khắp các con phố của làng, đưa tờ rơi cho những người mà cậu ta nhìn thấy.

Sau 2 giờ đi bộ dưới mưa và trong cái lạnh, với tờ rơi cuối cùng cầm trong tay, cậu dừng lại ở một góc ngã tư, xem liệu có ai để cậu đưa tờ rơi nữa không, nhưng lúc này đường phố đã hoàn toàn hoang vắng.

Cậu đến ngôi nhà đầu tiên phía bên kia đường, chạm vào chuông vài lần và chờ đợi, không có ai ra mở cửa.

Hồi lâu, cậu quay lưng bước đi, nhưng có điều gì đó đã ngăn cản cậu. Cậu trở lại, chạm vào chuông và gõ cửa mạnh mẽ với các ngón tay của mình, lần này không lâu cánh cửa được mở.

Một quý bà bước ra ngoài với khuôn mặt và ánh mắt u buồn, nhẹ nhàng hỏi:

– Ta có thể làm gì cho con, con trai?

Với đôi mắt rạng rỡ và nụ cười tươi sáng, cậu bé nói:

– Thưa bà, cháu xin lỗi vì đã làm phiền, cháu chỉ muốn nói với bà rằng Chúa thực sự yêu bà, và cháu mang đến cho bà tờ rơi cuối cùng của cháu, nói về Chúa và tình yêu tuyệt vời của ngài.

Và cậu bé đưa tờ rơi cho người phụ nữ.

Sáng chủ nhật tuần sau, Mục sư hỏi các tín đồ trong buổi giảng: “Ai có một lời khai hoặc điều gì đó muốn chia sẻ?”.

Ở hàng ghế phía sau, một người phụ nữ lớn tuổi đứng dậy. Khuôn mặt bà rạng rỡ và đôi mắt thật hiền từ, bà nói:

– Không ai trong nhà thờ này biết tôi cả. Tôi chưa bao giờ đến đây, thứ bảy tuần trước tôi cũng chưa phải là người Cơ đốc giáo.

Chồng tôi đã chết một thời gian trước, để lại tôi bơ vơ trên thế giới này…

Thứ bảy tuần trước là một ngày đặc biệt, lạnh và mưa, trái tim tan vỡ của tôi nói rằng hôm nay tôi đã đến cuối con đường, tôi không còn gì hy vọng và không nên sống nữa.

Tôi lấy một chiếc ghế và một sợi dây thừng lên gác mái nhà tôi. Tôi buộc một đầu dây thừng lên mái nhà, sau đó tôi trèo lên ghế và đặt vòng dây vào cổ.

Tôi đứng trên ghế, một mình đau lòng và tuyệt vọng, lúc tôi vừa định ném mình ra khỏi ghế, thì đột nhiên vang lên tiếng sầm sập của cánh cửa bị gõ.

Tôi tự hỏi đó có thể là ai? Đã lâu rồi không có ai đến thăm tôi, và tôi gần như đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài.

Tiếng gõ cửa càng lúc càng dồn dập hơn, nó lớn đến nỗi tôi không thể bỏ qua được nữa.

Tôi thả dây cổ, bước xuống ghế và đi ra phía trước.

Tôi không thể tin được những gì mắt tôi nhìn thấy, trước cửa nhà tôi là một đứa trẻ rạng rỡ và đẹp như một thiên thần. Cậu ấy mỉm cười với tôi, và nói thật hồn nhiên: “Cháu chỉ muốn nói với bà rằng Chúa thực sự yêu bà”. Trong giây phút đó, những lời nói ra từ cậu, đã làm trái tim tôi chết từ rất lâu rồi, nay lại quay về với cuộc sống.

Khi thiên thần bé nhỏ biến mất giữa cơn mưa lạnh, tôi đóng cửa lại và đọc từng câu từng chữ của tờ rơi.

Sau đó, tôi lên gác mái tháo dây thừng và mang ghế xuống. Tôi đã không cần nó nữa.

Rồi tôi đến đây, đến nhà thờ này để cảm ơn Chúa, ngài đã gửi một thiên thần bé nhỏ đến giải cứu tôi khỏi tận cùng địa ngục, nơi mà tôi tưởng như chắc chắn sẽ rơi vào.

Mục sư đến băng ghế đầu tiên nơi cậu bé đang ngồi, ông ôm con trai của mình vào lòng và đôi vai ông rung lên từng hồi nức nở.

Trong nhà thờ, mọi người đều khóc…

SƯU TẦM

My Lan Phạm

From: Anh Dang & KimBang Nguyen


 

ĐÁM CƯỚI KHÔNG CÔ DÂU…..! Truyen ngan cam dong

Xuyên Sơn

 ĐÁM CƯỚI KHÔNG CÔ DÂU…..!

Trong những thất bại của nghề áo trắng của tôi có lẽ thất bại sau đây là tôi ghi nhớ nặng nề nhất khi đã không cứu được người để xảy ra một thiên tình hận suốt đời.

Đó là một cô dâu của một đám cưới vẫn xảy ra khi cô còn đang nằm viện và sau đó không bao giờ trở về khoác lên chiếc áo cưới đó….!

Nhiều năm sau chiếc áo cưới đó vẫn còn nằm trên bàn thờ…!

Những thầy thuốc nhiều khi quá bận rộn, không còn thời gian để nhìn ngắm những khổ đau của kẻ khác trên con đường mình đi qua.

Chỉ có tôi, là kẻ lạc loài khi đi qua còn quay lại nhìn những con người và số phận của họ khi mà bất hạnh từ đâu rơi xuống.

Định mệnh tàn khốc trên số phận con người, có lẽ đó là điều khiến cho thế nhân luôn sống trong đau thương tiếp nối đau thương và những giây phút vui tươi của con người phải chăng chỉ là những phút giây ngắn ngủi vô cùng trong vòng quay của cuộc sống…?

Năm đó tôi được giao cho chức vụ Bác sĩ trưởng khoa cấp cứu hồi sức.

Khoa hồi sức cấp cứu luôn là tuyến lửa cho tất cả nhân viên bệnh viện.

Bệnh nặng, theo dõi liên tục, số lượng nhiều luôn luôn làm cho nhân viên bơ phờ mệt mỏi vì quá tải.

Các nhân viên trong khoa tôi phụ trách thường là những người trẻ, khỏe, nhiệt tình, kinh nghiệm và nhất là có lòng thương người.

Có điều khá kỳ lạ là quá hai phần ba  nhân viên lại…. ăn chay trường.

Có lẽ tiếp xúc gần kề giữa cái sống và chết, họ phần nào thiên về tâm linh.

Tôi cũng không hỏi vì tôn trọng quan niệm riêng của mỗi người….!

Hôm đó là một buổi sáng cuối trung tuần tháng chạp âm lịch.

Những ngày cuối năm mọi người hối hả dọn dẹp, sửa sang nhà cửa để đón năm mới, quên đi những vất vả lo toan của một năm sắp hết.

Bệnh nhân giảm đi thấy rõ ở các khoa nội trú, chỉ trừ phòng hồi sức cấp cứu.

Các nhân viên ngồi tán gẫu với nhau bàn chuyện mua sắm đồ tết.

Đột nhiên người ta đưa đến một cô gái rất trẻ, chỉ độ mười chín, hai mươi với gương mặt tái nhợt, nồng nặc mùi thuốc sâu, nghe qua là biết loại phospho hữu cơ.

Lập tức tôi cho rửa dạ dày ngay. Nhìn màu nước trắng như sữa bò trào ra khi cô gái nôn thốc, tôi lắc đầu.

Xin nói ngay là tôi đang đại diện Bệnh viện làm một đề tài nghiên cứu khoa học về ngộ độc thuốc sâu trong 5 năm  1976-1980 với trên 300 ca.

Do đó chỉ nhìn lượng nước rửa , màu sắc, mùi có thể ước đoán số lượng thuốc uống và qua đó dự hậu của bệnh nhân.

Kẻ nào uống hơn 100cc thì tỉ lệ tử vong có thể hơn 90%…!

Với khối lượng lớn, thuốc vượt qua hàng rào máu não gây tử vong dễ dàng vì ngày xưa ta chỉ dùng chống độc bằng Atropin, chất này chỉ hòa tan trong nước, không vào não được.

Thời này đã có Pralidoxim nhưng ở VN chưa bệnh viện nào đưa vào sử dụng.

Tôi cho rửa dạ dày thật sạch cho đến khi nước trong, hết mùi hôi đồng thời tiêm 2mg chống độc mỗi 5-10 phút cho đến khi không còn nghe khò khè do sự tăng tiết đàm dãi, và đồng tử phải dãn > 3mm.

Sau đó cứ mỗi 15-20 phút lại tiêm 2mg chống độc liên tục trong suốt ngày.

Đến chiều hôm đó cô gái khỏe khoắn trở lại, ngồi dậy được.

Đó là một cô gái trẻ, vóc dáng thon thả với khuôn mặt xinh xắn nhưng đượm nét buồn khôn tả.

Và lúc đó tôi mới biết nguyên nhân của việc làm dại dột kia.

Cô gái chuẩn bị lên xe hoa nhưng gia đình cô chê anh chồng sắp cưới không môn đăng hộ đối.

Hai người quen nhau trong những sinh hoạt văn nghệ xóm phường, nhưng gia đình anh thanh niên thì nghèo.

Lời ra tiếng vào, nhất là bà chị cô gái rất khinh bỉ gia đình em rễ tương lai.

Chịu không nỗi sự nhục mạ đó, một đêm về sáng cô uống cạn chai thuốc sâu có sẵn trong nhà…

Ngày hôm sau cô gái đã ngồi dậy đi từng bước khó khăn, nhưng có thể đi tiêu tiểu được với sự hỗ trợ của người nhà.

Gặp tôi cô cúi đầu, nói từng tiếng tuy yếu ớt nhưng rõ ràng:

-Em cảm ơn Bác sĩ đã cứu em.

Bây giờ em sợ chết lắm vì sẽ bỏ chồng em, bỏ mẹ cha.

Ngày mai là ngày đám cưới, hai bên họ đã mời rồi. Chắc phải tiến hành đám cưới không cô dâu thôi.

-Cô cứ nghĩ ngơi,.Tình trạng của cô vẫn chưa an toàn đâu. Chúng tôi còn phải theo dõi cho đến một tuần…

Theo đề tài nghiên cứu của tôi thì tình trạng ngộ độc tái diễn của thuốc sâu khi dùng atropin đối kháng có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong vòng 3-6 ngày sau khi uống.

Do đó tôi hết sức theo dõi cô gái ngộ độc trở lại. Tôi cứ cho tiêm atropin liên tục với liều cao mỗi 30 phút, duy trì một tình trạng ngộ độc nhẹ atropin cho cô gái.

Ngày thứ ba, đám cưới vẫn tiếp diễn, họ hàng ai cũng nghĩ rằng cô sẽ trở về, dù muộn và ai cũng cầu nguyện cho cô sớm hồi phục…

Một đám cưới không cô dâu có lẽ đó là đám cưới kỳ lạ nhất trên đời.

Ngày thứ tư sau khi nhập viện, vì dùng atropin liên tục, mặt cô lúc nào cũng đỏ hồng, tim nhanh, môi miệng khô khan, nứt nẻ, khát nước.

Cô vẫn còn yếu, phải ngồi tựa vào thành giường, tuy vậy khi gặp tôi đến cô nhoẻn miệng cười yếu ớt, nụ cười buồn rầu:

-Em không muốn chết… Em dại dột vì quá bức xúc. Bác sĩ làm ơn cứu em, mấy đêm nay em không ngủ được, dường như có ai đó muốn rủ em đi khỏi thế gian này…

Tôi rùng mình nhẹ. Phòng cấp cứu hồi sức này, gần như ngày nào cũng có người chết, có khi trong vòng một ngày đêm tới ba bốn người tử vong, khi giao ban sáng, mất cả giờ báo cáo với lãnh đạo.

Nếu ta có cặp mắt thần có thể thấy cả ngàn bóng ma lởn vởn khắp nơi….!

Ngày nào cũng vậy kể cả ngày ra trực, sáng, chiều tôi luôn đến thăm bệnh, khuyên nhủ, theo dõi ăn uống và nhất là tiếp tục tiêm atropine liều cao dù chưa thấy tình trạng ngộ độc tái phát.

Theo kinh nghiệm riêng của tôi và theo y văn, thà để bệnh nhân ở tình trạng ngộ độc nhẹ atropin còn hơn bị tái ngộ độc thuốc sâu.

Tôi dặn nhân viên cho cô gái nằm ở một góc riêng, theo dõi sát các diễn biến….

Ngày thứ năm, tình hình sức khỏe cô gái xấu đi dù không có triệu chứng tái ngộ độc thuốc sâu.

Hơi thở vẫn thông, không có dấu hiệu tăng tiết, ngạt. Tuy nhiên cô đi không nỗi phải dìu.

Huyết áp dao động nhẹ nhưng vẫn trong mức an toàn.

Ngày đó là ngày cuối tuần.

Hôm sau tôi phải về quê đi đám giỗ Cha mình vào đúng ngày chúa nhật.

Thứ Hai, khi đến Bệnh viện việc đầu tiên là tôi đến thăm ngay cô gái.

Chiếc giường trống trơn.

Tôi bàng hoàng khi nghe nhân viên báo cáo: cô đã mất vào trưa ngày chúa nhật.

Bao nhiêu cố gắng đã trôi theo dòng nước, tôi bàng hoàng một lúc lâu mới trấn tĩnh.

Cầm lấy bệnh án tôi xem lại thì thấy Bác sĩ trực ngày Chúa nhật đã cắt bỏ, không tiếp tục tiêm Atropine vì thấy sức khỏe cô kém quá và cũng do thấy đã khá lâu không còn dấu hiệu ngộ độc lại.

Cô chết đi trong tình trạng suy tim, suy kiệt.

Cô vẫn còn tỉnh táo cho đến phút giây cuối cùng khi thần chết đến đón mình đi….!

Một tuần sau, tôi đón tiếp hai con người buồn rầu đau thương đến nhà riêng của mình, trong lúc pháo nổ lác đác ngoài ngõ.

Đó là chú rể mồ côi vợ và mẹ cô gái.

Hai người đến cám ơn tôi và cho biết sau đám tang, đồ cưới cô gái đặt cả lên bàn thờ.

Ngày cô ra đi cô vẫn lúc nào cũng dõi mắt đau đáu nhìn ra cửa bệnh viện, có lẽ cô mong chờ tôi, vị cứu tinh mà cô tin tưởng sẽ đem lại cho cô một cuộc đời làm vợ, làm mẹ như bao cô gái khác.

Tôi đã không hoàn thành được kỳ vọng của cô…!

Ngay cả đến bây giờ sau ba mươi năm tôi vẫn còn hoài nghi, nếu mình không về quê thì có cứu được cô gái đáng thương đó hay không…?

Tôi đành thì thầm nhủ gửi không gian  cô tịch những lời khấn vái:

“Em ơi hãy tha lỗi cho tôi, tôi đã không làm tròn lời hứa với em, đã không giành giựt được em khỏi tay thần chết, đành để em ra đi với một tình yêu không trọn vẹn.

Kiếp sau nếu có, em hãy trở lại cuộc đời với một số kiếp tươi đẹp hơn….!”

Đối với những người tự tử, thái độ thông thường của nhân viên y tế là không thích, ghét bỏ ra mặt.

Trong khi mệt nhọc vì những bệnh nhân muốn sống khác thì những kẻ tìm cái chết này tạo một gánh nặng thêm cho những thày thuốc.

Nhưng trong câu chuyện trên chúng ta thấy thật đáng thương cho con bệnh, chỉ vì một phút kém suy nghĩ mà đánh mất tất cả.

Vì thế, đối với tất cả bệnh nhân dù là tự tử, ta phải có lòng bao dung như mẹ hiền…!

Có một câu danh ngôn: “Đối với thiên nhiên ta nên có trái tim của một đứa trẻ thơ, đối với nhân loại nên có trái tim của một người mẹ, đối với bản thân ta phải có trái tim của vị quan  tòa….!”.

(Bs Dung Le Ngoc)

Nguồn fb Đinh Trực


 

 Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi – Truyen ngan QUA’ HAY

Những Câu Chuyện Thú Vị – Kim Thoa

 Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.

Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói phải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.

Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.

Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả ruộng nương, bệnh không khỏi.

Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.

Vì thế bà mối đến, réo rắt: “Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà”.

Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: “Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!”.

Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!

Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mình , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.

Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.

Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.

Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.

Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.

Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v…

Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: “Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?”.

Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: “Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường…”

Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:

“Chị ơi, em yêu chị!”.

Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.

Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.

Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.

Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.

Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:

“Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành”.

Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.

Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?

Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.

Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.

Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.

Nhưng anh vẫn nói: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”.

Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.

Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.

Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.

Lúc đó chị đã 29 tuổi.

Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.

Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!

Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.

Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.

Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.

Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.

Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: “Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!”.

Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?

Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng cười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.

Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.

Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.

Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:

“Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?”.

Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:

“Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi”.

Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.

Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.

Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.

Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:

“Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy”.

Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.

Lê Xích Hải chuyển

(Tác giả :không rõ)


 

THA THỨ – ĐỂ TUỔI GIÀ ĐƯỢC THANH THẢN

Tu Le

Nhà ông Bảy nằm cuối con hẻm nhỏ, đi sâu thêm mấy chục bước là gặp một khoảng cây bàng già che bóng. Mùa này bàng rụng lá, lá vàng nằm rải trên nền xi măng, nhìn xa cứ như ai đó lén trải một tấm thảm cũ cho người già bước chậm.

Trong căn nhà ấy, ông Bảy và bà Mười sống cùng con trai cả là Hùng, con dâu là Linh, thêm hai đứa cháu nhỏ. Con gái út là Vy đi làm xa, thỉnh thoảng về, còn Lộc với Thủy thì mỗi người một ngả, bận bịu, đàng hoàng, đủ trách nhiệm.

Bề ngoài, nhà ấy không có chuyện gì lớn. Cơm ngày ba bữa, tiền điện nước đóng đúng. Con cháu vẫn chào hỏi, vẫn mua thuốc, vẫn gửi quà. Nhưng trong lòng bà Mười có một vết xước nhỏ, lâu ngày không chảy máu nữa, chỉ âm ỉ như đau khớp lúc trở trời.

Vết xước ấy đến từ một câu nói, một câu tưởng như rất bình thường.

Hôm đó, bà Mười đứng trong bếp, loay hoay nhặt rau. Đứa cháu nhỏ chạy vào đòi nước, bà rót vội nên làm rơi cái ly. Ly vỡ, tiếng “choang” vang lên giữa trưa. Linh từ phòng ngoài chạy vào, nhìn mảnh thủy tinh trên nền gạch rồi buột miệng:

“Trời ơi… má đừng đụng nữa, để con làm. Má vụng vậy nguy hiểm lắm.”

Lời nói không có ý xấu. Giọng cũng không gắt. Nhưng chữ “vụng” rơi xuống, nghe sao mà lạnh. Bà Mười đứng im, tay vẫn cầm cái ca nhựa, lòng tự dưng hụt một cái, như thể một phần giá trị vừa bị gạt qua một bên.

Từ hôm đó, bà ít làm việc hơn. Không phải vì lười, mà vì sợ. Sợ mình “vụng”, sợ mình “nguy hiểm”, sợ làm rơi thêm một thứ gì rồi lại nghe thêm một câu nữa.

Ông Bảy nhìn thấy hết. Ông không nói nhiều. Ông chỉ kéo ghế cho bà ngồi, rồi lẳng lặng quét mảnh ly, gói lại, đem bỏ. Xong việc, ông rửa tay rất lâu, như rửa cả cái buồn vừa dính vào lòng.

Tối ấy, khi con cháu đã vào phòng, ông Bảy đem ra hiên một ấm trà. Trà nóng, hơi bốc lên mỏng như sương. Ngoài sân, gió đi ngang qua giàn bông giấy, khẽ rung, làm rơi vài cánh hoa hồng tím xuống nền.

Bà Mười nhìn hoa rơi, bỗng thở rất khẽ:

“Già rồi… chắc vô dụng thiệt.”

Ông Bảy nhấp ngụm trà, giọng chậm rãi như đọc báo:

“Vô dụng sao nuôi được mấy đứa tới giờ? Vô dụng sao cái nhà này còn hơi ấm?”

Bà Mười không đáp. Người già nhiều khi không cần lời đúng. Người già cần một chỗ đặt nỗi tủi thân mà không bị cười.

Nhưng đời sống không cho phép nỗi tủi thân được ngồi yên lâu. Mấy hôm sau, cháu út sốt. Linh thức đêm, mắt thâm quầng. Hùng đi làm về muộn, mặt mệt. Cả nhà như một chiếc máy chạy nhanh, ai cũng quay cuồng trong phần việc của mình.

Trong lúc ấy, bà Mười lại bắt gặp thêm vài chuyện nhỏ.

Buổi sáng, bà nấu nồi cháo loãng cho cháu. Linh nhìn nồi cháo rồi nói, vẫn là giọng lo cho con:

“Má nêm nhạt quá… thôi để con làm lại.”

Lần khác, bà giặt áo cho cháu, phơi ra sân. Linh đi ngang, thu vội vào:

“Để con phơi, má phơi nắng gắt quá áo nó cứng.”

Những câu ấy đều đúng. Nhưng đúng quá, cũng làm người ta đau. Bà Mười nghe mà không cãi. Bà chỉ rút tay lại. Lâu dần, bà học cách “đứng yên cho khỏi sai”.

Và cũng từ đó, một khoảng cách lặng lẽ mọc lên trong nhà.

Không ai ghét ai. Không ai bỏ ai.

Chỉ là, bà Mười bắt đầu thu mình như một cái bóng.

Một chiều, Vy về. Vừa bước vào cửa đã thấy mẹ ngồi bên cửa sổ, mắt nhìn ra hẻm như nhìn qua một đời khác. Vy đặt túi xuống, ngồi xổm trước mặt mẹ:

“Mẹ sao vậy?”

Bà Mười cười cho qua:

“Có sao đâu.”

Vy nhìn đôi tay mẹ. Đôi tay xương xẩu, móng cắt gọn, nhưng run nhẹ. Vy nghe tim mình chùng xuống. Người già hay nói “không sao”, vì họ sợ làm phiền. Nhưng “không sao” của người già nhiều khi là một cái “sao lắm” họ không biết nói với ai.

Tối đó, Vy nói chuyện với cha trong bếp. Ông Bảy đang nhóm lại bếp gas, hâm nồi canh. Lửa xanh lên rồi xuống như hơi thở.

Vy hỏi nhỏ:

“Ba… mẹ buồn chuyện gì?”

Ông Bảy im một lát rồi nói:

“Không phải buồn chuyện lớn. Buồn mấy chuyện nhỏ. Mà chuyện nhỏ mới khó nói.”

Vy cúi đầu. Trong lòng Vy có một ý nghĩ chua chát: tuổi già giống như cái ly mỏng. Người ta không đập nó, chỉ cần đặt mạnh tay một chút là nó đã nứt.

Mấy ngày sau, xảy ra chuyện.

Sáng đó, Linh chạy vào bếp thấy bà Mười nằm dựa vào tủ gỗ, mặt tái. Bà bảo chóng mặt, tim đập nhanh. Linh hốt hoảng gọi Hùng, gọi xe. Ông Bảy luống cuống lục giấy tờ, tay run, miệng lẩm bẩm: “Bình tĩnh… bình tĩnh…”

Trên xe, bà Mười nắm tay ông Bảy. Ngón tay bà lạnh. Ông Bảy áp bàn tay mình lên tay bà, cố truyền một chút ấm. Ngoài cửa kính, nắng sáng rực, cây bàng ngoài hẻm trôi qua như một thước phim, lá vàng chao nhẹ.

Vào viện, bác sĩ bảo bà bị tụt huyết áp, thêm thiếu ngủ, thêm đau nhức kéo dài. Không nguy hiểm ngay, nhưng cần theo dõi. Linh đứng ở hành lang, mắt đỏ. Hùng gọi điện cho Vy, cho Lộc, cho Thủy.

Ai cũng về.

Trong phòng bệnh, bà Mười nằm im. Người già nằm bệnh viện không hay khóc, họ chỉ nhìn trần nhà và nghĩ nhiều điều. Nghĩ về những ngày mình trẻ, mình gồng lên lo cho con. Nghĩ về những câu nói vụn vặt, về những ánh mắt vội, về cái cảm giác “mình thừa”.

Ông Bảy ngồi cạnh, rót nước, mở nắp bình, đưa tận miệng. Bà Mười quay mặt, nói nhỏ:

“Ông về nghỉ đi. Ngồi đây làm gì, phiền con cái.”

Ông Bảy đáp:

“Không phiền. Ở cạnh bà là việc của tôi.”

Câu nói đơn giản, nhưng trong bệnh viện, nó giống như một miếng chăn mỏng đắp lên phần lạnh nhất của lòng người.

Chiều, Linh bế cháu vào thăm. Đứa nhỏ vừa thấy bà đã òa khóc, kêu “bà ngoại, bà ngoại”. Nó trèo lên giường, ôm cổ bà. Bà Mười đưa tay ôm cháu, nước mắt tự nhiên trào ra, không kìm được. Có lẽ trong đời người, có những lúc yếu nhất lại là lúc chạm được vào điều thật nhất.

Linh đứng cạnh giường, ngập ngừng. Lời xin lỗi nhiều khi mắc lại nơi cổ họng, vì sợ nói ra sẽ thành “mình sai”. Nhưng Linh nhìn mẹ chồng gầy đi, nhìn đôi mắt đỏ của Hùng, nhìn đứa trẻ đang ôm bà như ôm một cái neo, Linh bỗng thấy những điều hơn thua bỗng nhỏ xíu.

Linh cúi xuống, giọng khàn:

“Má… con xin lỗi. Con… nhiều khi con nói nhanh, con tưởng là con lo cho má… mà chắc làm má buồn.”

Bà Mười không đáp ngay. Bà chỉ nhìn Linh. Ánh mắt người già không sắc, chỉ sâu. Trong ánh mắt ấy có cả những năm tháng nuôi con, có cả những lần nuốt nước mắt, có cả cái mệt mỏi của người đã mang một vết xước quá lâu.

Ông Bảy nhìn sang vợ. Ông sợ bà nói một câu trách móc, rồi mọi thứ vỡ ra như cái ly bữa nọ. Nhưng bà Mười chỉ thở nhẹ, rồi đưa tay ra, chạm vào cổ tay Linh:

“Thôi… có gì đâu. Con mệt, con lo cho con nít… nói nhanh cũng phải.”

Linh bật khóc. Hùng quay mặt đi, mắt cũng ướt. Vy đứng cuối giường, bỗng thấy tim mình cay cay. Lộc thì lặng lẽ đặt túi trái cây lên bàn. Thủy gọi video, nghe tiếng mẹ, cũng khóc theo.

Người ta tưởng tha thứ là một lời lớn. Nhưng thật ra, tha thứ nhiều khi chỉ là một câu “thôi” nói ra đúng lúc, để người kia còn đường quay lại.

Đêm ấy, ông Bảy ngồi ngoài hành lang. Bệnh viện có mùi thuốc sát trùng, có tiếng dép kéo, có tiếng máy đo nhịp tim “tích… tích…”. Ông nhìn qua cửa kính thấy thành phố sáng đèn, bỗng nhớ lại hồi còn trẻ, ông từng chở bà Mười qua cầu, gió sông thổi lộng, bà ngồi sau lưng, tay bấu áo ông, cười giòn.

Nhớ vậy, lòng ông mềm đi.

Sáng hôm sau, bà Mười đỡ hơn. Bác sĩ cho về, dặn ăn uống điều độ, ngủ đủ. Cả nhà rước bà về. Lúc xe rẽ vào hẻm, cây bàng già vẫn đứng đó, lá vẫn rơi. Nhưng dường như ánh sáng hôm ấy dịu hơn.

Về nhà, Linh không còn “giật” việc khỏi tay mẹ chồng nữa. Linh chỉ nói chậm, hỏi trước:

“Má muốn làm món nào? Con phụ nhé.”

Bà Mười cũng không tự ái mà gạt đi. Bà gật đầu, chỉ cách rửa rau, chỉ cách nêm nếm. Bếp lại có tiếng nói chuyện, nhỏ thôi, nhưng đủ làm căn nhà bớt lạnh.

Có một buổi chiều, Vy rủ mẹ ra trước cửa ngồi. Gió thổi qua hẻm, mang theo mùi hoa sữa cuối mùa. Linh đem ra một đĩa ổi gọt sẵn, đặt xuống, rồi ngồi cạnh, không cầm điện thoại.

Bà Mười nhìn Linh, nói như nói chuyện thường:

“Con làm dâu cũng cực. Má hồi xưa… cũng từng là dâu.”

Linh khựng lại, rồi cười, mắt còn đỏ:

“Má… vậy mà con cứ tưởng má không hiểu.”

Bà Mười lắc đầu:

“Hiểu chứ. Chỉ là… già rồi, không muốn làm phiền.”

Câu “không muốn làm phiền” nói ra, không phải để trách, mà như mở cửa. Người trong nhà nghe được, thì căn nhà mới thật sự là nhà.

Từ hôm ấy, ông Bảy thấy bà Mười ngủ sớm hơn. Bà không còn ngồi một mình trước bếp tắt đèn. Những câu chuyện nhỏ bà bắt đầu kể lại: chuyện chậu hoa đổ, chuyện con mèo nhà hàng xóm, chuyện tiệm tạp hóa đổi chủ. Và kỳ lạ thay, Linh nghe đến hết.

Không phải lúc nào Linh cũng rảnh. Nhưng Linh học một điều: nghe hết một câu chuyện nhỏ là cách rẻ nhất để giữ người già ở lại trong cuộc đời mình.

Có lần, bà Mười làm rơi cái muỗng xuống nền. Linh quay lại, định nói như cũ, rồi kịp dừng. Linh chỉ nhặt muỗng lên, rửa lại, đưa cho bà:

“Không sao đâu má. Ai cũng rơi.”

Bà Mười nhìn Linh, mắt chợt ươn. Không phải vì cái muỗng. Vì câu “ai cũng rơi”. Câu đó trả lại cho người già một phần phẩm giá: già không phải là lỗi, chỉ là một nhịp khác.

Thời gian trôi. Vết xước trong lòng bà Mười không biến mất hẳn, nhưng bớt nhói. Bà hiểu rằng con cháu không cố làm bà buồn. Chúng chỉ vội quá. Và cũng như bà từng vội lúc trẻ mà không biết mình làm ai đó tổn thương, con cháu giờ cũng vậy.

Tha thứ, rốt cuộc, không phải vì người khác xứng đáng.

Mà vì người già không còn đủ sức mang gánh nặng đó tới cuối đời.

Một tối, trước khi ngủ, ông Bảy ngồi ở hiên, nhìn trăng mỏng. Trăng treo trên mái nhà, sáng vừa đủ. Bà Mười bước ra, đưa ông cái áo khoác:

“Trời lạnh.”

Ông Bảy cười:

“Bà cũng biết thương tôi hả?”

Bà Mười đáp, giọng nhẹ như gió:

“Già rồi… thương nhau đừng để muộn.”

Ngoài sân, giàn bông giấy rơi thêm một cánh. Cánh hoa nằm im, không làm phiền ai. Nhưng ai nhìn thấy, cũng biết: có những điều đẹp nhất là những điều rơi khẽ.

Và trong căn nhà nhỏ cuối hẻm, người già đã đi qua một ngã rẽ rất sâu: từ chỗ giữ trong lòng, sang chỗ đặt xuống. Từ chỗ mong được bù đắp, sang chỗ chọn bình an.

Tha thứ, đến sau cùng, không phải là câu chuyện của đúng sai.

Tha thứ là cách tuổi già tự cứu mình khỏi những ngày tháng còn lại bị nặng vì một câu nói lỡ.

Và khi lòng đã nhẹ, người già không cần phải cố “không làm phiền” nữa.

Bởi sự hiện diện của họ tự nhiên đã trở thành một điều êm.

– Tu Le – người viết giữa hai miền

#Gotacoffee#ngườiviếtgiữahaimiền


 

Chồng bà đã cho bà vào trại tâm thần suốt ba năm

Tội của bà không phải là bạo lực, không phải cuồng loạn, cũng không phải mê sảng.

Tội của bà là dám suy nghĩ bằng chính cái đầu của mình.

Năm 1860, Elizabeth Parsons Ware Packard 43 tuổi.

Bà đã kết hôn 21 năm, là mẹ của sáu người con, sống ở vùng nông thôn bang Illinois. Nhìn bề ngoài, bà là hình mẫu “đúng chuẩn” của một người vợ thời đó: đứng đắn, đạo mạo, biết chữ, có đức tin.

Nhưng Elizabeth còn hơn thế.

Bà đọc triết học, đọc thần học. Bà đặt câu hỏi. Bà tin rằng đức tin chân chính không thể tách rời lương tri và lý trí. Rằng tin Chúa không có nghĩa là phải ngừng suy nghĩ.

Chồng bà, Theophilus Packard, thì không nghĩ vậy.

Ông ta là một mục sư Tin Lành với niềm tin Calvin cứng nhắc, và tin rằng mình có quyền tuyệt đối trong gia đình. Với ông ta, việc Elizabeth chất vấn thuyết tiền định, từ chối vâng phục mù quáng và muốn tự đưa ra kết luận riêng không phải là tư duy — mà là nổi loạn.

Và một người phụ nữ nổi loạn, theo ông ta, là… bệnh hoạn.

Luật pháp bang Illinois lúc đó đứng hẳn về phía người chồng.

Chỉ cần lời khai của chồng, một người vợ có thể bị đưa vào trại tâm thần không cần xét xử, không cần bác sĩ, không cần bằng chứng, và cũng không có quyền tự bào chữa. Lời của người đàn ông là đủ.

Một ngày nọ, không báo trước, Elizabeth bị bắt đưa đi và nhốt vào trại tâm thần Jacksonville.

Bà không la hét. Không chống cự.

Bà bình tĩnh giải thích rằng mình hoàn toàn tỉnh táo và muốn được gặp một người có thẩm quyền.

Không ai nghe.

Cánh cửa đóng lại sau lưng bà.

Bên trong trại, Elizabeth sớm nhận ra một sự thật lạnh người:

Nơi này không đầy những phụ nữ điên loạn hay nguy hiểm.

Nó đầy những người vợ nói quá nhiều, những cô gái không chịu cúi đầu, những người phụ nữ có quan điểm, niềm tin hoặc sự độc lập khiến đàn ông xung quanh khó chịu.

Có người bị nhốt vì dám nghi ngờ giáo lý.

Có người vì từ chối hôn nhân sắp đặt.

Có người vì muốn tự quản lý tài sản của mình.

Có người… chỉ vì quá thẳng thắn.

Elizabeth hiểu ra:

“Điên” thường chỉ là cái nhãn để buộc phụ nữ phải im lặng.

Điều kiện trong trại vô cùng tàn nhẫn.

Bệnh nhân bị trói, bị cách ly, bị trừng phạt vì những lỗi nhỏ nhặt, bị đối xử tàn nhẫn dưới danh nghĩa “điều trị”. Ở đó, sức khỏe tâm thần không quan trọng.

Chỉ có sự phục tùng là quan trọng.

Elizabeth không khuất phục.

Bà quan sát. Ghi nhớ. Lắng nghe câu chuyện của những người xung quanh. Khi có thể, bà viết lén, ghi lại tên tuổi, bất công, cách thức lạm quyền. Bà hiểu rằng trí óc là thứ duy nhất họ không thể cướp đi — trừ khi bà tự giao nộp nó.

Suốt ba năm, bà bị giam giữ, trong khi các con lớn lên không có mẹ. Chồng bà kiểm soát thư từ, đi đâu cũng kể rằng vợ mình “không ổn định”. Còn xã hội bên ngoài thì mặc nhiên tin rằng trại tâm thần biết họ đang làm gì.

Năm 1863, Elizabeth được thả ra, nhưng lại bị trao về cho chồng — vẫn bị coi là điên, vẫn không có quyền công dân.

Bà không chấp nhận.

Elizabeth yêu cầu một phiên tòa công khai.

Năm 1864, trước bồi thẩm đoàn gồm 12 người đàn ông, Elizabeth làm điều mà không người phụ nữ nào trong hoàn cảnh của bà được mong đợi sẽ làm:

bà tự bào chữa cho chính mình.

Bà nói điềm tĩnh. Rõ ràng. Logic.

Bà trả lời từng câu hỏi. Trình bày niềm tin của mình. Và bóc trần luận điệu cho rằng bất đồng quan điểm đồng nghĩa với điên loạn.

Bồi thẩm đoàn chỉ mất bảy phút.

Phán quyết là nhất trí:

Elizabeth Packard hoàn toàn tỉnh táo. Và bà chưa từng điên.

Chồng bà nổi giận điên cuồng.

Nhưng Elizabeth đã tự do.

Bà hoàn toàn có thể dừng lại ở đó.

Nhưng bà không làm vậy.

Elizabeth hiểu rằng chiến thắng của riêng bà chẳng có ý nghĩa gì nếu cả hệ thống vẫn còn nguyên. Hàng nghìn phụ nữ khác vẫn có thể bị xóa sổ nhân phẩm chỉ bằng một chữ ký của chồng, cha hay người giám hộ nam.

Và bà biến sự sống sót của mình thành một sứ mệnh.

Bà viết sách vạch trần hệ thống trại tâm thần và các kẽ hở pháp luật cho phép lạm quyền. Bà công bố những câu chuyện chi tiết về sự tàn nhẫn và nỗi đau âm thầm của những phụ nữ tỉnh táo bị giam cầm vô cớ. Bà đi khắp nơi — thường là một mình — trực tiếp gặp các nhà lập pháp, đứng trước nghị viện và yêu cầu cải cách.

Bà bị khinh thường. Bị chế giễu. Bị tấn công.

Bà vẫn không dừng lại.

Từng bang, từng bang một, luật pháp bắt đầu thay đổi.

Nhờ Elizabeth Packard, phụ nữ có quyền được xét xử trước khi bị đưa vào trại tâm thần. Có quyền có luật sư, trình bày bằng chứng, bảo vệ sự tỉnh táo của mình trước tòa. Những người chồng mất đi quyền lực tuyệt đối để nhốt vợ chỉ vì bất tuân hay bất đồng quan điểm.

Quyền lực không kiểm soát đã trở thành quyền lực phải chịu trách nhiệm.

Elizabeth Packard sống đủ lâu để thấy những cải cách của mình lan rộng khắp nước Mỹ. Bà chưa bao giờ ngừng viết. Chưa bao giờ ngừng nói. Chưa bao giờ ngừng khẳng định rằng sức khỏe tâm thần không thể được định nghĩa bằng sự vâng lời.

Chồng bà từng cố xóa sổ bà bằng cách gọi bà là điên.

Ngược lại, bà trở thành một trong những nhà cải cách quan trọng nhất thế kỷ XIX về sức khỏe tâm thần và quyền phụ nữ.

Cuộc đời bà vừa là lời cảnh báo, vừa là minh chứng:

Quyền được suy nghĩ không tự nhiên mà có.

Nó từng bị tước đoạt, bị đánh cắp, bị biến thành vũ khí chống lại những ai dám nghĩ khác.

Và đôi khi, thứ duy nhất ngăn cách giữa im lặng và công lý là một con người từ chối chấp nhận một lời nói dối.

Elizabeth Packard đã từ chối.

Và pháp luật buộc phải lắng nghe.


 

NGƯỜI BẢO TRỢ CỦA TÔI- Tác Giả: Tam Nguyễn- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo cộng sản, gia đình tôi sang Mỹ theo diện HO 15 đầu trọc: không thân nhân bảo trợ.

Tôi đã trải qua.

Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt.

Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường.

Ngày đi không thể dời.

Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha.

Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không một người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa.

Rồi đoạn cuối của cuộc hành trình đã đến.

Theo chân các hành khách, tôi dắt dìu vợ con ra khỏi máy bay.

Ra đón gia đình chúng tôi có một số người Mỹ và Việt Nam, tôi còn đang ngỡ ngàng với người và cảnh quá lạ xa nầy thì một bà đầm Mỹ đến ôm tôi và trao bó hoa, chụp hình lưu niệm.

Sau vài sự giới thiệu (mà lúc đó đầu óc tôi trống rỗng) gia đình tôi được bà Mỹ bảo trợ tên là Helen dẫn ra xe và chở về một apartment mà bà đã thuê sẵn.

Vợ chồng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác khi thấy sự chuẩn bị quá ư đầy đủ của bà bảo trợ: từ cục xà bông, cái khăn tắm, cuộn giấy đi cầu đến cái móc áo… mọi vật dụng cần thiết đều có sẵn, tại phòng khách với chiếc TV hiệu SONY 20 inch mà cả cuộc đời tôi không bao giờ dám mơ ước tới thì nay đã hiện hữu và từ nay tôi không còn phải lội bộ thật xa đến xóm chợ đầu làng để xem những trận đá banh với cái TV cà rịch cà tang…

Còn 2 thằng con tôi thì hả hê với chiếc máy game.

Vợ tôi cứ xuýt xoa mãi sao mà họ tử tế quá… tôi còn được biết

(qua người Việt Nam dịch lại) là tiền nhà tháng đầu bà bảo trợ đã tặng cho tôi.

Sau khi đã chỉ dẫn những cách sử dụng vài vật dụng cần thiết trong nhà cũng như những điều không được làm như không mở cửa cho người lạ mặt v.v… mọi người từ giã ra về, riêng bà bảo trợ thì dặn tôi chuẩn bị các thứ giấy tờ cần thiết để sáng mai bà đến đón gia đình tôi lúc 9 giờ.

Bà còn nói đùa là nhớ mở cửa cho bà…

Cả đêm đó tôi trằn trọc không sao ngủ được dù người tôi mệt mỏi rã rời sau chuyến hành trình dài.

Sáng hôm sau và dài dài sau đó, bà bảo trợ đã đón đưa gia đình chúng tôi đi làm những thủ tục lúc đầu như làm thẻ An Sinh Xã Hội, khám sức khoẻ, nộp giấy tờ cho 2 con tôi đi học và hướng dẫn vợ con tôi, chỉ bảo tôi từ đường đi nước bước cho đến khi tôi bắt đầu thi đậu lái xe thì bà nghĩ rằng tôi có thể tạm quen dần với cuộc sống, nên thỉnh thoảng khi có việc cần bà mới đến, tuy nhiên những ngày Chúa Nhật bà thường đưa gia đình tôi đi, sau đó về chơi và ăn uống ở nhà bà rồi bà dạy Anh Văn cho vợ chồng tôi.

Căn nhà bà ở một nơi thật yên tĩnh và có vườn hoa xinh xắn, qua tâm tình với bà, tôi được hiểu rõ về lý do tôi được bà bão lãnh, bà kể lại rằng sỡ dĩ bà chọn bảo trợ tôi vì khi đọc hồ sơ ở Hội Từ Thiện USCC được biết đơn vị của tôi ngày xưa đóng ở PLEIKU mà nơi đây chồng bà đã công tác rồi mất tích.

Bởi địa danh Pleiku cứ ám ảnh tâm trí bà và trong những giấc mơ, Bà thấy chồng hiện về mặt mũi đầy máu và nói rằng ông đã được một người nông dân Việt Nam cứu nhưng vì vết thương quá nặng nên ông không sống được!

Bà cũng đã cho tôi xem những bức hình chồng bà chụp những cảnh Pleiku như Biển Hồ, núi Hàm Rồng, hình người Thượng mang gùi dẫn nhau từng đàn trên đường ra chợ… tất cả đối với bà là những kỷ niệm còn sót lại của chồng bà nhưng đối với tôi là cả một vùng trời kỷ niệm thân thương của cuộc đời quân ngũ.

Chồng bà đã mãn nhiệm kỳ ờ Việt Nam nhưng tình nguyện ở lại công tác tiếp và bị mất tích, bà tự hỏi không hiểu cái gì ở Việt Nam đã hấp dẫn chồng bà.

Bà còn kể cho tôi nghe vài món ăn Việt Nam mà chồng bà ưa thích và nay thì bà đang thực tế cùng ăn với gia đình tôi và tỏ ra thích thú lắm.

Tình thân giữa gia đình tôi và bà bảo trợ càng ngày càng thấm thiết.

Vì không có con cái nên mọi tình thương bà dồn cho 2 đứa con tôi.

Thời gian khi con tôi đau phải nằm bệnh viện, ngày nào bà cũng đến chăm nom săn sóc với nỗi lo hiện trên nét mặt như chính người thân yêu của bà. 

Tôi thỉnh thoảng vẫn đến dọn dẹp mảnh vườn nhỏ của bà, bà trả thù lao nhưng tôi từ chối thì bà tế nhị mua cho vợ hoặc con tôi những thứ khác.

Bà cho biết bà đang làm việc tình nguyện ở một bệnh viện và thỉnh thoảng bà có cộng tác với Hội Hồng Thập Tự.

Đôi khi tôi thấy bà đem quần áo về nhà giặt sạch sẽ, ủi cẩn thận và bỏ vào thùng mang đi.

Bà âm thầm làm việc liên tục, ít khi thấy bà nghỉ ngơi và lúc nào bà cũng vui vẻ biểu hiện qua khuôn mặt đầy lòng nhân ái.

Thỉnh thoảng bà cũng thường hay hỏi tôi về đời sống người dân ở Việt Nam.

Bà rất quan tâm và thông cảm với những khốn khổ mà người Việt Nam đang gánh chịu.

Khi biết có bão lụt ở Việt Nam, bà rất tích cực đóng góp vào công việc cứu trợ, nhất là bà thường gởi tiền giúp cho trẻ em Cô Nhi Viện Việt nam.

Một hôm thật tình cờ tôi gặp bà cũng đến hiến máu ở Trung tâm Hiến Máu thành phố, tôi càng thấy thương và kính phục bà nhiều hơn. 

Gặp nhau tại đây, bà nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hài lòng khi thấy tôi cũng hiện diện, nhìn tấm thẻ ghi ngày hiến máu của bà đã gần hết chỗ ghi ngày tháng tôi được biết thêm đây không phải là lần đầu tiên bà đến đây.

Tại nơi nầy tôi cũng được dịp quan sát và thấy người Mỹ họ đi hiến máu thật đông mà giới trẻ đi hiến máu cũng không phải là ít, tôi ao ước trong  cộng đồng Việt Nam chúng ta mọi người động viên nhau đến với Trung Tâm Hiến Máu thì thật là quý báu lắm thay.

Sau nầy có lần bà hỏi tôi bên Việt Nam có đi hiến máu đông không, tôi thật tình kể với bà rằng tôi chỉ thấy chỉ có những người dân nghèo ở Sài gòn phải đi bán máu để kiếm sống, bà tỏ ra xót xa!

Càng gần gũi biết về bà tôi càng thương bà hơn

Tôi kính trọng bà như chị ruột của tôi, gặp những gì khó khăn tôi thường đến nhờ bà hướng dẫn và ngược lại bà cũng không giấu tôi những nỗi niềm riêng tư của bà.

Bà đã bỏ đi cả quãng đời thanh xuân để sống âm thầm với kỷ niệm mặc dù có bao chàng trai đã đến cầu hôn bà khi bà là một thiếu nữ trẻ đẹp.

Sự thủy chung của bà như viên ngọc quý giữa cái xã hội thay chồng đổi vợ như thay áo ở xứ Mỹ văn minh nầy.

Theo bà công tác từ thiện đã giúp bà vượt qua mọi cám dỗ để đứng vững đến ngày hôm nay.

Có lần tôi hỏi bà sao không nuôi chó hoặc mèo cho vui.

Bà nói bà cũng thích và thương thú vật lắm nhưng bà phải dành thì giờ làm những công việc khác có ích hơn và tiền mua thức ăn cho súc vật để dành giúp cho người nghèo có được miếng sống thì quý hơn.

Từ những suy nghĩ đơn sơ đầy tình người, những giúp đỡ thiết thực của bà đối với người dân nghèo Việt Nam và cá nhân gia đình tôi, tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói lên lòng biết ơn Bà.

Tôi chỉ cầu xin ơn trên cho bà luôn được mạnh khoẻ để đem tình thương đến cho mọi người.

Một hôm bà nói với tôi rằng từ lâu bà ao ước được đi thăm Việt Nam

một chuyến, nhất là đi đến cái xứ Pleiku đó, bà muốn tôi cùng đi và nói khi nào tôi sẵn sàng đi được thì báo cho bà biết.

Qua Mỹ hơn 4 năm, tôi cũng nhớ Mẹ già và quê hương lắm, muốn về thăm nhưng ngặt nỗi nếu đi cả vợ chồng và 2 đứa con vào dịp Hè thì quá tốn kém.

Như hiểu được khó khăn của tôi, Bà nói sẽ tặng  vé máy bay cho cả gia đình tôi.

Nói vậy chứ tôi đâu dám nhận vì vợ chồng tôi đã mang ơn bà nhiều quá. Cuối cùng tôi đã báo cho bà là dịp Hè tới được nghỉ, tôi và thằng con trai lớn sẽ cùng bà đi Việt Nam, bà vui mừng ra mặt, tôi chưa thấy lần nào bà vui như lần nầy.

Bà nói được đi Việt Nam là bà mãn nguyện lắm.

Bà đưa ra những dự tính phải làm khi đến Việt Nam.

Thời gian như ngắn lại, bà đếm từng ngày, chỉ còn ba tuần nữa thôi.

Nhưng rồi tang thương lại một lần nữa ập xuống.

Một buổi chiều thứ sáu như thường lệ trên đường từ Hội Hồng Thập Tự về nhà, xe bà đã bị một xe truck do một tài xế Việt Nam đụng phải và bà đã trút hơi thở cuối cùng nơi bệnh viện không một người thân.

Nhận tin mà tôi tưởng chừng như xung quanh đất trời sụp đổ, tôi chết lặng hồi lâu.

Cuộc đời sao quá oan nghiệt, ước nguyện thật nhỏ nhoi của bà đã không thành.

Biết đâu Thượng Đế muốn dành cái chết như phần thưởng cho riêng bà.

Biết đâu giờ này bà đã gặp lại chồng bà và hai ông bà đang hạnh phúc bên nhau nơi miền miên viễn.

Có lẽ Thượng Đế không muốn bà phải lặn lội đường xa tìm tin tức chồng trong vô vọng và Ngài cũng không muốn bà phải tận mắt chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân Việt Nam đang sống dưới chế độ phi nhân của cộng sản.

Gia đình tôi hoà lẫn giữa đám đông người Mỹ trong đám tang thật cảm động để đưa tiễn bà lần cuối, viếng xác bà khi còn đặt ở nhà quàn, tôi thấy mặt bà đã được trang điểm thật đẹp, trông bà thật thanh thản và mặt bà như có vẻ mãn nguyện… tôi muốn được ôm từ biệt bà lần cuối

và thét lên rằng: “Chị ơi sao đành bỏ em”!

Vợ tôi đã ngất xỉu khi quan tài bà hạ huyệt.

Sau cái chết của bà, gia đình tôi thấy thật trống vắng, hai con tôi lúc nào cũng nhắc tới bà với nhiều nhớ thương.

Vợ chồng tôi cũng dự định chuyển đi tiểu bang khác ấm áp hơn để hy vọng tìm một chút an bình.

Nay ngồi ngẫm lại những sự việc xảy ra: ngày bà chết cũng đúng vào ngày cha tôi mất (mùa lễ Phục Sinh).

Rồi cả bà và chồng bà đều chết bởi người Việt Nam gây ra, tôi không hiểu tại sao có thể như vậy…

Lòng tôi quặn thắt khi nghĩ đến bà, gia đình tôi mang ơn bà mà không bao giờ trả được.

Nhớ thương bà tôi chỉ biết đặt ảnh bà cùng chung với bàn thờ cha tôi, cha mẹ tôi đã sinh ra tôi còn bà đã cho tôi lý tưởng sống.

Bây giờ trên bàn thờ cha tôi có thêm bức hình của bà Helen.

Chị ngồi đây với cha tôi và hàng năm ngày cúng giỗ cha tôi cũng là ngày tôi cúng giỗ chị.

Mộ chị sẽ không quạnh hiu vì có chúng tôi đến với chị như khi chị còn sống trên cõi đời nầy.

Sau đám tang bà Helen một thời gian, một hôm tôi sững sờ khi luật sư báo cho biết theo di chúc, bà Helen để lại tặng cho vợ chồng tôi căn nhà của bà và ngoài ra bà còn tặng 100 ngàn đô la cho Cô Nhi Viện ở Việt Nam.

Khi gia đình tôi dọn về căn nhà của bà, tôi tự hỏi mình đã làm gì để được hưởng phần thưởng nầy.

Suốt cuộc đời tôi phải sống trong ân tình ngút ngàn mà không bao giờ trả được.

Trước mộ bà, tôi thầm khấn vái “chị Helen sống linh chết thiêng xin phù hộ gia đình tôi, dẫn đường soi lối cho tôi đi theo lý tưởng của chị: sống vì mọi người”

Tác Giả: Tam Nguyễn


 

CÁNH CỬA KHÔNG BAO GIỜ KHOÁ – Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

Cô gái mới có 18 tuổi, cô – như hầu hết các thanh niên ngày nay – chán sống chung trong một gia đình nền nếp.

Cô chán lối sống khuôn phép của gia đình.

Cô muốn rời khỏi gia đình:

– Con không muốn tin ông trời của ba mẹ. Con mặc kệ, con đi đây!

Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà mình.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu, cô bị ruồng bỏ vì không tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ta làm thứ để mua bán, đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi và cô con gái đó ngày càng sa đọa trong lối sống của mình.

Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy.

Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp

thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:

– Làm ơn cho tôi chưng tấm hình ở đây!

Đó là tấm hình một bà mẹ tóc muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: 

“Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”.

Vài tháng lại trôi qua, vẫn không có gì xảy ra.

Rồi một ngày, cô gái đến toán cứu trợ nọ để nhận một bữa ăn cứu đói.

Cô chẳng buồn chú ý đến những lời giáo huấn, mắt lơ đễnh nhìn những tấm hình và tự hỏi: 

“Có phải mẹ mình không nhỉ?”.

Cô không còn lòng dạ nào chờ cho hết buổi lễ. Cô đứng lên, ra xem kỹ bức ảnh. Đúng rồi, đúng là mẹ cô và cả những điều bà viết nữa: 

“Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.

Lúc đó trời đã tối nhưng bức hình đã làm cô gái xúc động đến mức cô quyết định phải đi bộ về nhà.

Về đến nhà trời đã sáng tỏ.

Cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao.

Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá.

Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà.

Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội lên buồn ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên.

Cô đánh thức mẹ mình dậy:

– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Không tin vào đôi mắt mình,bà mẹ lau  nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau.

Cô gái nói với mẹ:

– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm!

Bà mẹ nhìn con âu yếm:

– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá.

Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!

Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!

Nguồn : sưu tầm 


 

Giữ lại phẩm giá cho người khác bằng cách nào?-TG Văn Chương – Truyen ngan HAY

TG Văn Chương

” Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ “

————————

Tôi nói dối ông chủ tôi mỗi ngày.

Tôi năm nay 72 tuổi. Tôi là một chức sắc trong nhà thờ, đóng thuế đàng hoàng, chưa bao giờ bị phạt nguội lần nào. Nhưng suốt chín năm nay, tôi đang thực hiện một kiểu “lừa đảo” ngay dưới mũi của ban quản lý tiệm đồ cũ “Cơ Hội Thứ Hai” này.

Nếu họ biết được, họ sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức, chẳng kịp cho tôi cởi cái tạp dề ra. Nhưng tôi kệ. Bởi vì trong một xã hội cứ thích tước đoạt đi lòng tự trọng của người khác, tôi đã tìm ra cách để trả lại nó cho họ.

Công việc của tôi đơn giản lắm: phân loại đồ quyên góp. Tôi dán nhãn giá cho quần jeans, mấy cái áo khoác mùa đông nặng trịch, mấy đôi giày bảo hộ còn dùng tốt. Hầu hết khách hàng chẳng thèm nhìn tôi. Đối với họ, tôi chỉ là một phần của cảnh vật: một ông già lụ khụ, mắt đeo kính, tay bị đau khớp, cứ cắm cúi định giá mấy món đồ có mùi băng phiến và mùi ký ức của người lạ.

Nhưng cái việc vô hình này lại có cái lợi của nó. Nó cho phép tôi nhìn thấy hết mọi thứ.

Tôi thấy mấy bà mẹ đơn thân cứ so đi so lại giá đôi giày đi học của con với tiền mua thức ăn. Tôi thấy mấy chú cựu chiến binh cứ nhìn chằm chằm vào bộ vest họ cần để đi phỏng vấn, nhìn vào cái ví tiền rồi lặng lẽ quay lưng đi.

Và tôi nhớ nhất là thằng bé đó.

Lúc đó là giữa tháng Mười Một, ở cái thị trấn rỉ sét, lạnh lẽo của chúng tôi. Gió lùa qua phố sắc như dao cắt. Thằng bé bước vào với cái áo nỉ mỏng dính, đến nỗi nhìn rõ cái áo thun bên trong. Nó chắc chưa tới mười bốn tuổi. Gầy gò, run cầm cập, với cái nhìn vô hồn mà những đứa trẻ hay mang khi chúng bị xã hội bỏ rơi quá nhiều lần.

Nó đi thẳng đến khu áo khoác. Nó tìm thấy một chiếc áo parka xanh hải quân, rất ấm, hàng hiệu, gần như mới. Giá là 25 đô la. Nghe thì bèo, nhưng đối với nó là cả một gia tài.

Tôi lén nhìn. Nó chạm vào ống tay áo, như muốn cảm nhận hơi ấm mà chiếc áo hứa hẹn. Nó nhìn cái nhãn giá. Vai nó xụ xuống khoảng chục phân. Nó không rên rỉ, không than thở. Nó chỉ cẩn thận treo chiếc áo lên lại và đi thẳng ra cửa.

Tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể đơn giản là cho không nó. Tôi học được rằng, việc bố thí có thể mang lại vị đắng cho những người đang cố gắng sống sót. Nếu bạn đưa tiền bố thí, họ cảm thấy mình nhỏ bé. Họ cảm thấy mình như một trường hợp cần giúp đỡ xã hội.

Thế là tôi cầm chiếc áo, đi ra quầy tính tiền để chặn nó lại.

“Ê, nhóc,” tôi gọi.

Nó đứng khựng lại, sẵn sàng chạy trốn. “Con không có ăn cắp gì hết!”

“Tao biết,” tôi càu nhàu, đóng vai ông già khó tính. “Nhưng tao đang có rắc rối. Cái áo này hả? Nó bị lỗi. Cái khóa kéo dưới cùng nó bị kẹt. Mà theo quy định của cửa hàng, đồ bị lỗi thì không thể bán quá ba đô la. Mày có ba đô la không?”

Nó nhìn tôi, bối rối. “Nhãn ghi hai mươi lăm mà.”

“Nhãn ghi sai đấy,” tôi nói dối, giật phắt cái nhãn đi. “Tao là người quản lý kho. Tao nói nó ba đô la. Mày lấy không hay để tao quăng nó đi?”

Nó do dự, dò xét gương mặt tôi xem có bẫy gì không. Rồi nó lục túi, lôi ra ba tờ tiền nhăn nhúm.

“Dạ, có,” nó thì thầm. “Con lấy.”

Nó mặc chiếc áo vào ngay lập tức. Kéo khóa lên tận cổ — khóa vẫn hoạt động trơn tru, dĩ nhiên rồi — và nó thẳng lưng lên. Nó không còn trông như một thằng bé co ro vì lạnh nữa. Nó trông như một thanh niên vừa mới làm một phi vụ hời. Nó trông có vẻ được che chở.

“Cảm ơn ông,” nó nói.

“Quy định cửa hàng thôi,” tôi lầm bầm, quay lưng đi để nó không thấy mắt tôi hơi ướt.

Mọi chuyện bắt đầu từ đó.

Nhiều năm qua, cái “quy định cửa hàng” đó đã trở thành vũ khí bí mật của tôi.

Khi bà Miller, một góa phụ sống bằng đồng lương hưu ít ỏi, cần một cái máy nướng bánh mì mới nhưng chỉ có 5 đô la trong túi, thì cái máy 20 đô la bỗng nhiên bị dán nhãn là “dây điện bị hở”.

Khi một ông bố trẻ cần đôi giày bảo hộ để bắt đầu công việc xây dựng đầu tiên, tôi tự động “giảm giá đặc biệt sáng thứ Ba”.

Tôi tự nhớ trong đầu. Tôi tự bỏ tiền túi bù vào nếu tiền mặt bị hụt, hoặc tôi khai báo những món đồ đó là “không bán được/đã tiêu hủy” trong hệ thống. Tôi sợ bị bắt lắm chứ.

Thế rồi một buổi chiều, một người phụ nữ đeo khăn choàng cashmere đã bắt quả tang tôi. Cô ta thấy tôi bán một chiếc xe đẩy em bé gần như mới cho một cô gái trẻ đang sợ hãi với giá 10 đô la.

Khi cô gái đi khỏi, người phụ nữ đó bước đến. Tôi chuẩn bị tinh thần bị mắng té tát hoặc bị dọa gọi quản lý.

Thế nhưng, cô ta lại đặt một tờ 100 đô la gấp gọn lên quầy

“Cho mấy cái… sai sót kiểm kê của ông,” cô ta nháy mắt.

Và chuyện này bắt đầu lan ra. Một cách kín đáo. Những khách quen bắt đầu hiểu. Họ không bao giờ nói một lời. Họ mua một món đồ lặt vặt giá 5 đô la, đưa tôi tờ hai mươi, rồi nói: “Giữ lại tiền thối cho lần sau… hệ thống gặp trục trặc nhé.”

Chúng tôi đã xây dựng nên một nền kinh tế bí mật chỉ dựa trên phẩm giá. Chúng tôi không bố thí; chúng tôi đang cân bằng lại cơ hội.

Thứ Ba tuần trước, tiếng chuông trên cửa kêu leng keng.

Một người đàn ông bước vào. Cao lớn, vai rộng, mặc bộ đồng phục nhân viên cấp cứu chỉnh tề. Anh ta đi đứng tự tin, nhưng không phải để mua sắm.

Anh đi thẳng đến quầy của tôi.

“Ông là Arthur,” anh ta khẳng định.

Tôi chỉnh lại kính. “Đúng là tôi.”

Anh ta cười, và đột nhiên, tôi thấy lại hình ảnh cậu bé mười bốn tuổi gầy gò trong chiếc áo nỉ xám mỏng manh ngày nào.

“Ông bán cho tôi cái áo parka xanh hải quân cách đây mười năm,” anh ta nói. “Ông bảo cái khóa kéo nó bị hỏng.”

Tôi cảm thấy má mình nóng ran. “Tôi xử lý nhiều áo khoác lắm, cậu bé.”

“Khóa kéo không hề hỏng đâu, Arthur.” Anh ta cúi xuống, giọng nghẹn lại vì xúc động. “Tôi biết ông nói dối. Ngay cả lúc đó tôi cũng biết. Nhưng ông đã không bắt tôi phải đi xin xỏ. Ông để tôi được mua nó. Ông để tôi là một khách hàng, chứ không phải một kẻ ăn xin. Tôi bước ra khỏi đây với cảm giác như một người đàn ông.”

Anh ta rút ra một phong bì từ túi áo.

“Giờ tôi là nhân viên cấp cứu. Tôi cứu người. Nhưng tôi không nghĩ tôi đã sống sót qua mùa đông năm đó nếu không có chiếc áo khoác đó. Hoặc nếu không biết rằng có người thực sự quan tâm đến mình.”

Anh ta đặt phong bì lên quầy.

“Trong đây có 500 đô la,” anh ta nói. “Ông dùng nó đi. Tôi biết cái ‘quy định cửa hàng’ của ông tốn kém lắm.”

Tôi run rẩy cố gắng trả lại. “Tôi không thể…”

“Cái này không phải cho ông,” anh ta nói dứt khoát. “Nó dành cho đứa trẻ run rẩy tiếp theo bước vào đây. Hãy đảm bảo rằng khóa kéo của nó cũng bị hỏng, nhé.”

Rồi anh ta quay lưng bước đi, đầu ngẩng cao, hòa vào ánh nắng mùa thu.

Tôi đã 72 tuổi. Lưng tôi đau, chân tôi sưng vù sau một ngày dài. Nhưng tôi có công việc tuyệt vời nhất trên đời.

Chúng ta đang sống trong một đất nước nói rằng giá trị của bạn phụ thuộc vào số tiền trong tài khoản. Người ta bảo nhau phải tự lực cánh sinh, ngay cả khi họ không có gì.

Nhưng tôi đã học được một điều trong cái cửa hàng bụi bặm cũ kỹ này: Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Đôi khi, giúp đỡ một người không chỉ là cho họ thứ họ cần. Mà là cách bạn trao nó cho họ.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ — nếu bạn có thể giúp họ mà không làm họ cảm thấy nhỏ bé — bạn không chỉ nuôi dưỡng thân thể họ, bạn còn đang cứu rỗi cả tâm hồn họ nữa.

Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục nói dối. Tôi sẽ tiếp tục lách luật. Tôi sẽ tiếp tục bịa ra những quy định không hề tồn tại.

Bởi vì cái mác giá chẳng có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là người mặc nó.

TG Văn Chương


 

Bánh Mì Nửa Ổ – Đoàn Xuân Thu – Truyen ngan HAY

LƯƠNG VĂN CAN K 76. – Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu

Tản văn của một người cha kể lại ký ức tuổi thơ đầy nước mắt và lòng biết ơn người bạn nhỏ.

Năm tôi 13 tuổi, tôi mang trong lòng một nỗi xấu hổ mà chẳng biết nói cùng ai. Gia đình tôi nghèo đến mức nhiều ngày tôi đến trường mà trong cặp không có lấy một mẩu thức ăn. Giờ ra chơi, trong khi bạn bè vui vẻ mở hộp cơm trưa – nào là táo đỏ, bánh quy, ổ bánh mì kẹp thịt – tôi chỉ biết ngồi lặng thinh. Tôi giấu ánh mắt mình sau trang sách, giả vờ như đang mê mải đọc, để không ai thấy chiếc bụng trống rỗng đang sôi lên vì đói. Nhưng cơn đói không chỉ ở dạ dày – nó lan ra cả trong tim, nơi nỗi xấu hổ âm ỉ từng ngày.

Thế rồi, một ngày nọ, có một cô bé cùng lớp đã để ý thấy. Không ồn ào, không làm ai chú ý, cô nhẹ nhàng chìa ra trước mặt tôi một nửa phần ăn trưa của mình. Một nửa ổ bánh mì. Tôi ngượng chín mặt, nhưng cũng chẳng thể từ chối. Tôi nhận lấy.

Ngày hôm sau, cô lại đưa. Rồi hôm sau nữa. Khi thì là một cuộn bánh ngọt, khi thì một quả táo đã được cắt sẵn, khi thì miếng bánh bông lan thơm mùi bơ mà mẹ cô đã làm.

Với tôi lúc ấy, mỗi phần ăn ấy giống như phép màu nhỏ bé. Lần đầu tiên sau nhiều tháng dài, tôi cảm thấy mình được nhìn thấy – được một ai đó để tâm tới.

Rồi đột ngột, cô bé ấy biến mất. Gia đình cô chuyển nhà, cô không trở lại trường nữa. Mỗi ngày giờ ra chơi, tôi lại len lén nhìn ra cửa lớp, mong thấy bóng dáng cô bước vào với nụ cười quen thuộc và nửa ổ bánh mì trong tay. Nhưng cô chẳng quay lại lần nào.

Tôi đã lớn lên cùng với ký ức ấy. Cùng với món quà nhỏ bé nhưng mang sức nặng của cả một tấm lòng. Cô bé ấy không còn bên tôi, nhưng lòng tốt của cô thì ở lại – như một hạt giống cắm rễ trong tim, âm thầm lớn lên cùng năm tháng.

Nhiều năm trôi qua. Tôi đã là một người cha. Công việc, gia đình, cuộc sống cứ cuốn đi như dòng sông không ngừng chảy. Nhưng trong những khoảnh khắc yên lặng, hình ảnh cô bé năm xưa vẫn trở về. Không rõ mặt, nhưng rõ lòng.

Cho đến hôm qua – một buổi chiều bình thường – tôi trở về nhà và thấy con gái nhỏ của tôi, với đôi mắt nghiêm túc như người lớn, bước lại và hỏi:

– “Ba ơi, ngày mai ba chuẩn bị cho con hai phần ăn đem theo được không?”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– “Hai phần? Bình thường một phần con còn không ăn hết mà?”

Con gái tôi nhìn tôi, ánh mắt trong veo, nhưng giọng nói lại đằm sâu như một cơn gió cũ:

“Tại có một bạn trai trong lớp con hôm nay không có gì để ăn. Con chia một nửa phần của con cho bạn ấy. Nhưng mai, con muốn có phần riêng để cho bạn.”

Tôi đứng lặng. Trong khoảnh khắc đó, tôi không còn thấy con gái nhỏ trước mặt mình nữa. Tôi thấy lại cô bé năm xưa – người đã chia cho tôi nửa ổ bánh mì trong lặng lẽ. Tôi thấy lại chính mình – thằng bé nghèo khổ ngồi bên góc lớp, giấu đi nỗi đói và sự xấu hổ. Và tôi thấy – một điều kỳ diệu đang xảy ra.

Tấm lòng của cô bé ấy – người mà có lẽ giờ đây đã quên mất tôi – đã không hề mất đi. Nó sống mãi, truyền từ tay này sang tay khác, như một đốm lửa nhỏ cháy mãi không tắt. Hôm ấy, cô đã trao lửa cho tôi. Giờ đây, tôi lại thấy ngọn lửa ấy trong tay con gái mình.

Tôi bước ra ban công. Trời chiều. Gió thổi nhẹ qua, mang theo hương cỏ non và tiếng trẻ con chơi đùa xa xa. Tôi ngước nhìn bầu trời, nước mắt rưng rưng. Trong khoảnh khắc ấy, tất cả mọi cảm xúc dồn về – đói khát, xấu hổ, biết ơn và hạnh phúc – như sóng cuộn vào nhau trong lòng tôi.

Cô bé ấy, có lẽ chẳng còn nhớ tôi. Có thể cô đang sống một cuộc đời khác, ở một nơi nào đó, làm vợ, làm mẹ, hoặc vẫn đang tiếp tục những điều tử tế mà cô từng làm. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên cô. Vì cô đã dạy tôi một bài học quan trọng nhất đời mình: rằng một hành động nhỏ thôi – một nửa ổ bánh mì – cũng có thể thay đổi cả một cuộc đời.

Và giờ đây, khi thấy con gái mình chia sẻ phần ăn với bạn, tôi hiểu: lòng tốt, nếu được trao đi bằng sự chân thành, sẽ không bao giờ mất. Nó sẽ sống tiếp – qua từng đứa trẻ, từng ánh mắt, từng miếng bánh được chia.

Lời kết: Giữa cuộc sống bộn bề, giữa những ngày tháng con người ngày càng quay cuồng với danh lợi, tiền bạc, đôi khi chúng ta quên mất rằng có những điều giản dị, nhỏ bé – nhưng lại là thứ làm nên chất người: lòng nhân ái, sự cảm thông, tấm lòng chia sẻ.

Chúng ta không cần làm điều gì vĩ đại. Chỉ cần một nửa ổ bánh mì, một cái nắm tay, một lời hỏi han đúng lúc… cũng đủ để sưởi ấm trái tim một con người đang lạnh giá.

Và rồi, như người cha trong câu chuyện, bạn sẽ thấy – một ngày nào đó, điều tử tế bạn từng làm, sẽ quay trở lại với bạn. Có thể trong ánh mắt của một đứa trẻ. Có thể trong lòng biết ơn của ai đó bạn chẳng còn nhớ. Nhưng chắc chắn, nó sẽ không bao giờ mất đi.

Đoàn Xuân Thu.


 

 ” THẾ MỚI ĐÁNG MẶT ĐÀN ÔNG “- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 ” THẾ MỚI ĐÁNG MẶT ĐÀN ÔNG “

Bình sinh, cho đến bây giờ đã sang bên kia dốc cuộc đời, tôi vẫn thường tự cho mình là kẻ không đến nỗi phải xấu hổ với danh phận của một thằng đàn ông, một thương gia.

Ấy vậy mà cuộc đời phiêu bạt để bỗng có một ngày đẹp trời, trên một phiên chợ vùng cao, tôi bị choáng váng vì tự thấy xấu hổ với mình khi ngồi nghe trộm câu chuyện của hai người đàn ông xa lạ.

Bên một chiếc bàn gỗ mốc thếch, tôi ngồi uống rượu với một người bạn. Anh này thạo nhiều thứ tiếng dân tộc vì đã một thời chuyên đi thu mua nấm rừng, thảo quả trong các bản làng xuất sang Trung Quốc.

Bàn bên cạnh có hai người đàn ông mặc quần áo chàm vừa nốc từng bát rượu đầy vừa chằm chằm nhìn vào mặt nhau.

Ngồi né ra xa một chút là một người phụ nữ váy áo thêu xanh đỏ, khắp người đeo không biết bao nhiêu vòng bạc lủng lẳng.

Suốt đến gần nửa tiếng đồng hồ chỉ thấy có một anh chàng nói, khi thì giận dữ khi thì nghẹn ngào, có lúc lại đắm chìm trong ưu tư như bị men rượu nhấn chìm.

Can rượu to trên bàn đã vơi quá nửa, bỗng hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau, nức lên rưng rức.

Cái bàn ọp ẹp chao ngiêng làm hai bát rượu đổ tóe ra sàn.

Lẳng lặng nhìn hai gã đàn ông quá say, người đàn bà cúi xuống nhặt những chiếc bát đặt lên bàn rồi lẳng lặng mở nút cái can nhựa cao đến hai gang tay, nghiêng can rót rượu đầy tràn hai miệng bát. Xong xuôi lại trở về chỗ, lẳng lặng nhìn bâng quơ ra rặng núi mây giăng ngang trước mặt.

Thấy cảnh lạ lùng, tôi thì thầm hỏi anh bạn xem chuyện gì đang xảy ra. Thì ra hai gã đàn ông này chính là “tình địch” của nhau, theo cái cách định nghĩa ngu ngốc của người dưới xuôi ta.

Một anh là chồng, còn một anh là người yêu cũ của người đàn bà đang ngồi đây.

Nhìn kỹ ra thì cô vẫn còn khá trẻ , xinh xắn nhưng vẻ tiều tụy và cam chịu làm cho ta nghĩ rằng đấy đã là một thiếu phụ nhan sắc đang phai tàn.

Chiều tối ngày hôm qua họ đã xuống đến chợ. Như nhiều đôi khác, hai vợ chồng này buộc ngựa vào một góc bên quán, ăn một bữa no nê rồi chia tay nhau.

Sáng hôm nay họ lại tìm về quán cũ theo lệ thường để rồi sẽ lại ăn một bữa trước khi túc tắc dắt ngựa đi về. Thế nhưng lần này, cô vợ không về quán một mình mà dẫn theo anh người yêu cũ. Thế là ba người ngồi cùng nhau. Hai người đàn ông và một người đàn bà.

Anh bạn tôi ngồi xây mặt ra cửa nhưng căng tai về phía bàn bên để nghe và cố hạ giọng dịch cho tôi nghe từng câu nhát gừng đứt quãng của người đàn ông đang vừa nói vừa uống một cách đầy bức xúc.

Anh bạn tôi còn phải tóm tắt cả câu chuyện đã xảy ra trước khi tôi hỏi, thế nhưng vẫn theo kịp được khúc sau vì anh kia cứ nói một câu lại uống một hớp, rồi lại gật gật cái đầu như đang cố vắt ra các ý nghĩ lộn xộn nằm đâu đó bên trong óc mình.

Tôi vừa nín thở để nghe và cố sắp xếp các lời dịch của anh bạn.

Cuối cùng thì tôi hiểu được đại khái câu chuyện giữa hai người đàn ông, một người chỉ nói, vừa nói vừa nghẹn ngào, một người cúi gằm mặt xuống vừa nghe vừa cắn chặt hàm răng.

Bỏ qua những câu vòng vo mà tôi không nhớ mà cũng không hiểu hết ý thì tóm tắt lại là như sau:

– Thằng Xín Thau kia, mày uống hết cái bát ấy đi rồi nghe tao nói.

Suốt đêm qua tao đau tức cái tim, đau quặn cái ruột. Tao đi theo vợ mày về đây tìm mày.

-…

– Cái ngày bố mày theo ông thầy cúng đưa mày đến đón vợ mày về, tao buồn muốn chết. Tao đã bắn hết cả một túi thuốc, nhồi hết đạn chì thì nhồi sỏi sạn vào mà bắn. Đáy nòng vỡ ra, sẹo trên má tao vẫn còn đây này.

-…

– Sau khi cưới, vợ mày nó bảo rằng tao đừng buồn, mày thương vợ lắm. Tao tin nó quá, thế là tao vui rồi

– ….

– Phiên chợ trước tao được tin nhắn là phiên này vợ chồng nhà mày sẽ đi. Tao đắp vội mấy khúc bờ ruộng cho xong, tao bỏ cái đám cưới trong bản để ra đây gặp vợ mày.

– …

– Mày phải biết, khi đi ra chợ tao vui quá, bỏ không bắn hai con chim to trên cành, bỏ không bắn một con nhím to trong bụi. Tao chỉ nghĩ đến cái lúc được gặp vợ mày. Thật đấy. Tao vẫn còn thương con vợ mày lắm mà.

– …

– Đến lúc tao tìm được con vợ mày, tao vui đến chảy cả nước mắt.

Tao lại hát lại cái bài mà ngày xưa lần đầu tao hát vào bên tai con vợ mày, cái đêm đầu tiên tao gặp được nó.

– …

– Thế mà, dắt nhau đi rồi, đèn tao chiếu vào tận mặt mà tao không còn nhận ra nó là cô con gái đẹp nhất bản ngày xưa. Giàng ơi. Ngày xưa cái mặt ấy tròn như trăng rằm, hai cái vú nó tròn to như hai quả dưa chín, cái tay nó đẹp như mình con trăn trên cây, tiếng nó cười hay như chim hót làm nắng cũng cười theo, cái váy nó thơm như hoa rừng làm bướm cũng bay theo.

– …

– Giàng ơi. Đêm qua tao chỉ thấy mặt nó cong méo như trăng hạ tuần, ngực nó nhăn như hai quả bí héo.

Nó không cười, nó chỉ muốn khóc. Tao đau cái tim tao quá. Giàng ơi.

– …

– Mày nói đi. Là thằng đàn ông, mắt mày có nhìn thấy vợ mày nó khổ hay không? Là thằng đàn ông, mày có thấy vợ mày nó buồn hay không?

– …

– Mày là thằng tốt số nhất đời.

Mày sinh vào lúc nào mà mày lấy được vợ mày? Mày thật là có cái tội to. Hôm nay tao định đánh mày, tao thương con vợ mày quá.

– …

– Lần này tao mang hai bao ngô giống. Tao không bán nữa. Mày mang về đi mà trồng. Phiên chợ sau tao gửi phân bón vào cho.

– …

– Đến kỳ ngô ra bắp tao bảo mày cách đặt bẫy. Tao có bài thuốc,  bẫy sập là lợn rừng ngấm thuốc không chạy được đâu. Tao sẽ cho mày. Nếu nhím sập bẫy, mày bắt nguyên cả con mang ra chợ.

Có người mua ngay. Ba cái dạ dày nhím sống là đổi được một con lợn giống to.

– …

– Mày không được lười. Mày đói thì tao kệ xác cha con mày, nhưng vợ mày thiếu thóc thiếu ngô là tao đánh mày đấy.

– …

– Thằng Xín Thau kia, mày có phải là thằng đàn ông hay không?

Nhìn hai gã đàn ông gục đầu vào nhau rưng rức khóc trên hai bát rượu đã cạn khô, tôi thấy thật là khó tả. Nhìn sang người đàn bà lẳng lặng ngồi bên, tôi không đọc được những ý nghĩ gì đang ẩn hiện trong đầu cô ta.

Phải chăng là vừa hạnh phúc vừa tủi thân, phải chăng là vừa ái ngại vừa thương xót cho cả hai gã đàn ông của cô.

Rất lâu về sau, một lần tôi đem câu chuyện này kể cho vợ tôi nghe.

Vợ tôi thở dài, cầm cái điều khiển tắt phụt màn hình vô tuyến đang lải nhải rất vô duyên về hạnh phúc gia đình rồi bâng quơ

” Đàn ông phải như thế mới đáng mặt thằng đàn ông chứ ! “

Nguyễn ( St )

Và , có một cô bé thiểu số có Nick ngồ ngộ trên FB

” Dân tộc thì sao, kệ tao ” nên mới có thơ:

” Dân tộc thì sao , kệ tao”

Chúng tao vẫn kệ có sao đâu mà

Dưng mà cái miệng như hoa

Mắt như đốm lửa, mượt mà tóc đen

Áo hoa ban váy hoa sim

Nước da trắng bóc, khó tìm nơi tao

Kệ tao, dân tộc thì sao.

Mày tao mà vẫn ngọt ngào, sướng thay.

Nhìn càng đắm ngắm càng ngây

Say lời hát lượn hay say rượu cần …

Nguyễn – dân tộc Kinh

(Sưu tầm)

Nguồn fb Xuan Cuong