Phùng Thắng- Phùng Thăng. Từ khởi đầu hấp thụ với nền tảng triết lý Tây Phương thời thịnh đạt

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

28/12/2025

Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải

Phùng Thắng- Phùng Thăng. Từ khởi đầu hấp thụ với nền tảng triết lý Tây Phương thời thịnh đạt, Phùng Thăng, Phùng Thắng đã đưa ra những góc nhìn văn hóa mới.

Hai chị em Phùng Thắng, sau này là ni sư Trí Hải-  và em là Phùng Thăng là những nhà văn hóa phụ nữ thế hệ tuổi trẻ chúng tôi. Thế hệ 1960- 1970.

Có nghĩa là khởi đầu cùng được đào tạo dưới mái trường của truyền thống triết lý Hy Lạp từ thời Platon-Aristote.

Nếu ví dòng triết lý ấy như một cái “Cây triết lý”, thì sau này, nó mọc ra rất nhiều nhánh rẽ. Có một J.P Sartre, nhưng cũng có nhiều nhánh như một Merleau Ponty, một Heidegger, một K. Jasper, một A. Malraux.

Nhưng trên hết như một biểu tượng là J.P. Sartre với rất nhiều tác phẩm: La nausée( 1938), Le Mur ( 1939), rồi Sartre cho ra đời nhiều tác phẩm đồ sộ như: Les chemins de la liberté, Les Mouches.

Phùng Thăng là người đầu tiên dịch tác phẩm Les Mouches ra tiếng Việt: Những ruồi.

Điều đó chứng tỏ rằng sau này một thiên tài cứ thế mà PT tỏa sáng.

Tác phẩm lớn tiếp theo của J.P. Sartre  là L’Etre et le néant. Huis clos (1944) Les mains sales (1948), Le Diable et le bon Dieu(1951).

 Với sự nghiệp như thế, Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức và của cả nước Pháp.

Bên cạnh đó, rất nhiều danh từ của Sartre trở thành thời thượng như vấn đề dấn thân, vấn đề trách nhiệm. Rồi hiện hữu và hư vô, vấn đề hoài nghi, phủ nhận, vấn đề hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính.. Đời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn.

Khi Sartre chết năm 1980, nước Pháp đã tiễn đưa ông với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Víctor Hugo 100 năm trước.

Về phía Việt Nam, cuộc di cư năm 1954 đã mở đầu cho sự có mặt của Sartre và A.Camus kéo dài trong suốt nhiều năm.

Những ngữ từ triết học trở thành sự quyến rũ mời gọi và biến hóa thành cái gọi là “mốt hiện sinh” mà những lời giải đáp đôi khi chỉ là một sự trống rỗng, những câu hỏi không có lời giải đáp..

Và tôi gọi giai đoạn này bằng  một danh hiệu mới:

 Những đứa con hoang của J.P.Sartre.

Nó ảnh hưỡng một cách nào đó trên các nhà văn như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại, Chu Tử và một số các nhà văn nữ thập niên 60 như: Túy Hồng, Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, ít nhiều cho thấy bóng dáng của F.Sagan hiện diện trong truyện của họ.

Bên cạnh đó, phải kể đến vô số các giáo sư dạy triết thế hệ thứ hai như Đặng Phùng Quân, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Trần Công Tiến, Nguyễn Trọng Văn..với những luận án cao học.

Thú thật, bản thân tôi đã mệt mỏi với những luận đề triết học nên không mấy quan tâm đến những luận đề triết học.

Tôi không hiểu có bao nhiêu người đọc họ và những luận văn ấy và nhất là hiểu họ viết gì?

Tôi không đủ tư cách để trả lời thay cho họ.

Hay liệu đó có phải chỉ là những luận án có tính thời thượng, theo đuôi hay bắt chước?

Câu trả lời có thể được trả lời một cách gián tiếp qua cái hướng nhìn của Phùng Khánh, nhất là Phùng Thăng theo cái hướng mà tôi tạm gọi là: Hướng nhìn về phương Đông.

Phần tôi, đã bước qua ngưỡng cửa triết học Tây Phương với nhữn câu hỏi, không có câu trả lời mà tìm cho mình một hướng đi mới, thiết thực và hấp dẫn hơn.

Nhưng trước hết, tôi xin được phép giới thiệu đến Tôn Nữ Phùng Thăng và Phùng Khánh.

Tên thật của PT là Công Tằng Tôn Nữ Phùng Thăng, sinh năm 1943, tại Huế. PT là em út trong một gia đình có 6 anh chị em. Chị của Phùng Thăng là Phùng Khánh, tức ni sư Trí Hải, sau này đi tù về vụ Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu hay Thích Mạnh Thát chống đối nhà cầm quyền cộng sản. Với tư cách bà là thủ quỹ, Sư bà Trí Hải lãnh án tù 4 năm. Sau này, Trí Hải bị tử nạn trong một tai nạn giao thông vào ngày 7-tháng 12- năm 2003.

Phần gia đình Phùng Thăng rất sùng đạo Phật.

Thuở nhỏ, PT ở thôn Vỹ Dạ, học tiểu học tại trường Thế Dạ. Lên Trung học, những năm đầu học tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Sau chuyển về học tại trường Đồng Khánh Huế. Nhưng hồi đó Đồng Khánh chưa có đệ nhất nên PT phải phải chuyển qua học triết học..ban C2, ở Quốc Học cùng với Thái Thị Kim Lan.

Theo Thái Thị Kim Lan, một người cùng học lớp đệ nhất C2 với bà cho thấy: PT hiền dịu, ít nói, chăm chú vào việc học, học giỏi nhiều môn làm cho các bạn đồng lớp có phần kính nể..

Trong khi đó, các bạn của bà như Thái thị Kim Lan bốc đồng và sôi nổi tuổi trẻ nhất thời chạy theo phong trào đấu tranh Phật giáo do Thích Trí Quang- một nhà sư với nhiều tham vọng, đôi mắt sắc sảo, giọng nói khàn đục đầy mê hoặc- đẩy một số tăng ni vào các vụ tự thiêu vô tiền khoáng hậu, coi mạng người như cỏ rác..

Thái kim Lan viết tiếp: bà dệt mơ ước học trò, hãnh tiến và không biết sợ, lên đường, tham gia vào các vụ biểu tình, tuyệt thực dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của Thích Trí Quang.

Trí Quang đã trao cho Thái Kim Lan như người đại diện chính thức thay cho Trí Quang.

Bạn đọc cần biết thêm, lúc 5 tuổi, cha của TKL vốn là một viên chức bưu điện đã bị cộng sản hạt sát. Sau này bà chị TKL có chồng là một sĩ quan phải đi học tập tập trung. Trong một lần đi tiếp tế cho chồng trở về, bà đã bị một tài xế việt cộng cán chết. Sau đó, bọn cộng sản đã đến đền bù bằng một bao gạo..

Phần TKL, bà như quên cái quá khứ đau buồn ấy và tiếp tục mê say Trí Quang vừa như người thày, vừa như một người tình trong rất nhiều năm trời như tôi được biết và được nghe kể từ chính Thái Kim Lan..

Và đây cũng có thể là ngã rẽ giữa bọn nữ sinh nông nổi, hãnh tiến khác với Phùng Thăng.

Xin ghi một đôi nét về Phùng Thăng dưới ngòi bút của Thái Kim Lan:

Áo trắng, dáng ngồi thẳng, nghiêm trang, nét mặt thanh tú, làn da trong sáng, tóc bín hai con rết thắt nơ trắng. Hai con rết và cái nơ tòng teng tiết lộ sự trẻ thơ so với nét mặt có sống mũi cao, nghiêm nghị của “ người lạ ấy”. Chị không cười mặc dù đôi môi hồng tươi, như tiết kiệm hay muốn giữ bí mật của cả tâm hồn hay của đôi hàm răng mà sau này tôi có đôi lần nhìn được rất trong. Môi không cười cho nên nét diễn tả tâm tình hầu như dồn nơi đôi mắt sáng lấp lánh đầy chân thiện, chị cười bằng mắt rất lặng lẽ. Gương mặt ấy hầu như chỉ biết cúi xuống trang sách hay nhìn lên bảng đen, hiếm khi thấy chị nhìn ngang hay liếc dọc để quan sát chuyện chung quanh mình..”

Và cứ tính ngược lại những điều trên của PT thì chính là chân dung đích thực của Thái kim Lan

Trong khi đó, Phùng Thăng ở ngoài những vùng xoáy lịch sử ấy lấy việc chuyên tu làm hướng đi của đời bà. Bà tiếp tục học lên Đại học, bà học khoa Triết, đại học văn khoa, Huế.

Ra trường, luận văn tốt nghiệp của PT là: Chỉnh lý tư tưởng Tây Phương.

Rất tiếc, hiện nay, tôi không có cơ hội tiếp cận luận văn này. Tuy nhiên, cái từ chỉnh lý tự nó nói lên một sự giải trình không đồng ý hay hơn nữa là một chống đối các triết lý Tây phương..

(Xin đọc thêm Trần Hoài Thư trên Thư Quán bản thảo, số 59, tháng ba 2014).

Xin mở một dấu ngoặc là trước khi tôi được tiếp cận với các bản dịch của Trí Hải và Phùng Thăng như câu chuyện của dòng sông, tôi có cơ duyên đọc chuyện Đôi bạn chân tình của nhà văn Herman Hesse do bản dịch tuyệt vời của Vũ Đình Lưu, tự Cô Liêu.

Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính: một là nhà tu sĩ khổ hạnh, sống cuộc đời chiêm nghiệm, hy vọng tìm ra ý nghĩa cuộc đời đâu là hạnh phúc của cuộc đời, đâu là đau khổ?

Nhân vật thứ hai, một người trẻ, cũng một thời theo vết chân của người thầy là vị tu sĩ khổ hạnh.

Nhưng rồi, ông nhận ra rằng con đường chiêm nghiệm khổ hạnh là không có lối thoát.

Chàng trai trẻ ấy đã quyết định rời bỏ tu viện và lăn vào đời và với tuổi trẻ, thông minh, tài tuấn, ăn nói hay đày nghị lực nên được rất nhiều phụ nữ trẻ say mê, đeo đuổi.

Ông đã chan hòa hưởng thụ nhiều thân xác phụ nữ như một hiến dâng mà không đòi hỏi..

Chàng trai trẻ vì thế đã thỏa mãn những khát khao được nâng niu, được thăng hoa của người phụ nữ.

Anh đã lấp đầy những cơn bảo cảm xúc, lấp đầy những nỗi trống trải hoang sơ của người phụ nữ.

Anh đã cảm nghiệm được thế nào là mưa dầm thấm lâu.

Đồng thời, người trai trẻ đã hiểu được thế nào là nếm trải được trái cấm ngọt bùi giữa biển đời giông bão.

Nhất là chàng trai trẻ cũng đã được nếm trải nụ hoa hàm tiếu đầu đời của những người người con gái tinh tuyền..Cái đó nó mới quý lam sao, trân quý làm sao. Và ngoài kia nắng đã lên, thiên nhiên và con người quyện vào nhau như một bản hòa tấu..

Cuối cùng, chàng trai trẻ như đạt đỉnh đã gieo trồng những giọt hạnh phúc tưới mát vào những vùng sâu kín trên những vùng cỏ rậm rạp khôi nguyên trinh bạch của người phụ nữ và được nồng nhiệt đón nhận. Và người tình đã chờ đợi, đã sẵn sàng ẩm ướt và cuối cùng đạt tới đỉnh của một thứ hạnh phúc si mê, cuồng nhiệt của đôi lứa.

Đã không biết có bao nhiêu phụ nữ đã dâng hiến cái tiết trinh ngàn vàng cho chàng trai trẻ mà không một lời nuối tiếc.

Từ những trải nghiệm sống ấy, chàng thanh niên tuấn tú, thông minh và nay được trải nghiệm nắm bắt được thế nào là hạnh phúc ở đời mà nhà tu khổ hạnh đã không bao giờ có cơ hội nắm bắt được.

Và trong số những phụ nữ mà ông gieo trồng trên những thửa đất đã được cầy sới, gieo mầm đã tạo ra một mầm sống như một phép mầu.

Ông đã sống cận kề  và chăm sóc người phụ nữ ấy trong tiến trình mang thai với rất nhiều khổ đau quặn thắt và nỗi cô đơn một mình của người phụ nữ mà không một ai có thể chia xẻ nỗi đau đớn tột cùng ấy.

Người phụ nữ ấy giống như như người đi biển một mình, hạnh phúc thì được xẻ chia, nhưng khi gian nan thì một mình trước những phong ba, bão táp của cuộc đời.

Chàng trai trẻ sau nhiều năm tháng tràn ngập nguồn vui hạnh phúc nay tóc đã hoa râm, ngậm ngùi nhìn ngắm thân thể người phụ nữ ấy mà đã có thời họ chan hòa hạnh phúc.

Nay mái tóc đã hai mầu, đi đứng đã có phần khó khăn, mắt đã mờ, tai đã nghễnh ngãng nhận thấy cái thân thể trần chuồng của người phụ nữ đã một thời ấy trong một nỗi bất lực như những cơn bão va vật, tiếng đau gào thét trước khi đứa bé chào đời mà bên ngoài là một trận đại dịch trong sự bơ vơ, cô quạnh.

Từ những trải nghiệm ấy, ông hiểu được thế nào là nỗi đau tận cùng, sự mong manh của kiếp người như thể một chân bước vào hư vô và ảo vọng.

Nhưng cũng từ khoảnh khắc ngắn ngủi và mong manh này, ông hiểu được thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ của kiếp người mà nhà tu khổ hạnh không bao giờ hiểu và đạt được.

Phải chăng, đó là luật của cuộc đời có trả vay, có được có mất mà con người không bao giờ nắm bắt và hiểu hết được trong cuộc hành trình nhân thế như một vòng xoáy mà không nắm bắt được đâu là điểm đến và đâu là cõi đi về!!!

Câu chuyện Đôi Bạn Chân tình, Câu chuyện của dồng sông cũng là một phần đời sau này của Phùng Thăng.

  • Cuộc đời ngắn ngủi của Phùng Thăng.

Sau khi tốt nghiệp đại học văn khoa, Huế, Phùng Thăng được bổ nhiệm về dạy tại Hội An Huế.

Hội An như một mảnh đất chật hẹp với những biến động chính trị và với những tranh dành quyền lực nhỏ nhen của phe phái khiến bà nghĩ tới lúc phải rời bỏ cái khung trời nhỏ hẹp ấy.

Bà lập gia đình với Trần Xuân Kiêm. Hai người có với nhau một đứa con gái. Bà đặt tên con gái là Tiểu Phượng. Nhưng không hiểu vì lý do gì, sau đó hai người chia tay.

Phùng Thăng tiếp tục cuộc sống của một “Single mom” mà đời sống khá là vất vả.

Năm 1973, PT cho xuất bản một tác phẩm của Simone Well mà tựa đề là: “Kẻ lạ ở thiên đường”. Qua bản dịch của PT, người ta nhận thấy tâm hồn của Simone Well là một sự cô đơn, trống vắng đi tìm một quê hương đích thực cho đời sống tâm linh. Phải chăng đó cũng là phản ánh tâm hồn Phùng Thăng mà một nỗi cô đơn trống vắng của tâm linh?                 

          Kẻ lạ ở thiên đường được chọn làm tên chung cho bản dịch với 6 bức thư gửi cho linh mục Perrin và 5 bài trần thuyết về năm đề tài tôn giáo. Qua toàn văn phẩm, tâm hồn Simone Well vẫn là một tâm hồn quằn quại cô đơn, nhưng rất sáng suốt trong công cuộc đi tìm một quê hương tâm linh đích thực cho mình.. Chính sự sáng suốt ấy đã đưa Simone Well đến chỗ khước từ thiên đường hữu hạn để chọn hỏa ngục vô biên vì quá sót thương và muốn chia sớt những lầm than của trần thế.

Trong nguyện ước của nàng, như có vọng âm những lời phát nguyện của các vị bồ tát của Phật giáo của từ muôn nghìn thế kỷ. Trên thiên đường hữu hạn ấy, nếu được, Simone Well vẫn mãi mãi là kẻ xa lạ, lạc loài.

Nàng chỉ ước muốn Thiên Đường chính thực, Quê hương bình đẳng cho tất cả loài người.

Simone Well mất ngày 24-8-1943

. Phùng Thăng ra đời ngày 9-10-1943.

Bước chân của Simone Well đã được tiếp nối bước chân của Phùng Thăng. Simone Well là một triết gia. Phùng Thăng cũng vậy. Có khác gì đâu.

Thử xem nào, ngoài Phùng Thăng ra có một phụ nữ trẻ nào mang tư tưởng mình qua” Theo dấu tình yêu”, hay “chỉnh lý tư tưởng Tây Phương”..

Thử xem, những buồn nôn, những ruồi, Bắt trẻ đồng xanh, Con sói đồng hoang, Thế giới Thiền, Kẻ lạ ở Thiên đường, khi số tuổi của chị mới dưới 25.

Hãy lẳng lặng mà nghe khi Thái Kim Lan ngưỡng mộ, giật mình khi cả lớp ngồi lắng nghe bài triết của Phùng Thăng..

Thử xem, thử xem nhánh sông Vỹ Dạ thấy bóng hai nàng tôn nữ, mà trăng, mà sao, mà tiếng chuông chùa đã bềnh bồng trong giấc ngủ.. Để rồi một người tìm sự cứu rỗi cho mình bằng con đường xuất gia, người kia lại chọn con đường nhập thế, mang bình bát đựng cả ngàn năm lao khổ lên núi, xuống biển.

Vai thì mong manh mềm yếu. Vậy mà phải gánh cả một trời oan nghiệt xuống đôi vai.

Cộng với nỗi Buồn nôn của JP. Sartre, PT đã dẫn đưa người đọc vào một góc khác của tâm linh.

Một người trí tuệ và tài hoa, thông hiểu triết học Ấn Độ.

Một người có cái nhìn về Phương Đông trong  bản dịch” Câu chuyện của dòng sông”, dịch từ chuyện Siddharta của văn hào Đức, thế kỷ XX.

Văn hào Đức mà các tác phẩm đều toát lên một nỗi niềm cô đơn tâm linh của con người, đi tìm một lối giải thoát ra ngoài của kiếp nhân sinh trong nỗi bơ vơ, bất lực.

Qua “câu chuyện của dòng sông”, “ Sói đồng hoang của Hermann. Hesse Băt trẻ đồng xanh, của J.D Salinger. Con người vẫn bám víu vào đời sống như một mẫu hình muôn thuở của cuộc đời. Câu chuyện một dòng sông vẫn là một hình ảnh cao đẹp, soi sáng trí tuệ và tư tưởng của cả một thế hệ tuổi trẻ mà cả hai chị em- họ cách nhau 5 tuổi- Phùng Thắng lấy cử nhân anh văn, Phùng Thăng cử nhân triết.

Cả hai chị em Phùng Khánh, Phùng Thăng như một của báu vật muốn trao gửi lại cho chúng ta, cho đời như một di sản văn hóa.

Đầu tháng 5, 1975, nghĩa là chỉ một tháng sau khi cs Bắc Việt thôn tính miền Nam, bà đã có một quyết định táo bạo là dẫn con gái, 9 tuổi theo đường bộ, tìm đường vượt biên. Trên một chiếc ghe ra đảo Thổ Chu, thuộc xã Nam Du với hy vọng được tàu Mỹ đón.

Nhưng thật quá trễ. Lúc bấy giờ quân Pol Pot, lợi dụng hòn đảo bỏ trống đã tấn công đảo và chiếm vào ngày 10 tháng 5, lùa theo hơn 515 người, trong đó có một số người vượt biên như mẹ con Phùng Thăng.

Và kể từ đó, gia đình chị không còn biết bất cứ tin tức gì về mẹ con chị.

Sau này, do một thày ngoại cảm tìm lại được thân xác và con gái, bị trói, đầu bị bể sọ, bị chôn vùi nông như một chúng tích dã man “cáp duồn” của bọn Pol Pốt

Phần gia đình chị, sau một thời gian tìm tung tích hai mẹ con đã lấy ngày 10-6-1975 làm ngày giỗ mẹ con chị.

Thật đau lòng và đứt ruột cho một tài hoa đã không may mắn mệnh yểu. Xin rỏ một giọt nước mắt xót thương chị mà số phận hình như đã được định trước theo nghĩa: tài hoa bạc mệnh (xin đọc thêm bài Tìm dấu Phùng Thắng).


 

Chùm Khế Ngọt ! – Sơn Tùng

Kimtrong Lam

Sơn Tùng

Trương Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh thành Hà Nội và chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, ông lên tàu đem gia đình ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông đến Xiêm La (Thái Lan), rồi định cư tại đây.

Nhờ có tàu bè, ông mang theo một mớ gia sản nên khi qua Xiêm ông đã có sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông đã gây dựng một sự nghiệp khá lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm vải vóc lụa là, và Trà Thất Mây Tần.

Là một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng ông luôn thương nhớ quê hương. Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc… má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ phở, nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột… Xiêm La có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương…

Ông nhớ những bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không bằng nhãn, vải, cam, quít… Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục khác biệt làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.

Lúc bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo một bầu nhiệt huyết, một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà cũng có người đi qua, đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế.

Trà Thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh Trà thất Mây Tần.

Trà Thất Mây Tần ở thủ đô Băng Cốc là một nơi trai thanh gái lịch lui tới tấp nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ đều thường xuyên tới uống trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. Một hôm, có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống rượu, Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt Nam.

Ông bèn tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người Bắc, người Trung, và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai bên thật vui vẻ như câu thơ “Thiên lý tha hương ngộ cố tri”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên Trà Thất là Mây Tần. Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa”.

Dần dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng cho biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như Liên Sô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người. Đảng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu đảng viên.

Lực lượng đảng trong nước đã vùng lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt nghe họ nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt động của đảng cách mệnh.

Ông được chi bộ đảng khen ngợi là “nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo Cộng Sản được gọi là “Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước, đã có công với cách mạng.

Sau 1945, Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân chúng vì nạn đói, vì sợ Cộng Sản và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những người Việt Nam sinh sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe Cộng Sản càng mạnh.

Năm 1954, Hiệp Định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” giao thương với Xiêm La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Băng Cốc. Những đảng viên Cộng Sản Việt Nam ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động “Việt kiều” tại Thái Lan về xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào, Miên…

Họ bảo “đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa, nông dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học hành, không phải đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở cho đến khi thành tài.

Trong nước ai cũng có công ăn việc làm, không ai thất nghiê.p. Họ gửi tặng ông nhiều sách báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ”. Trương Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng được nghe cha ông ca tụng về con người và đất nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài Hà Nội, và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê hương, tổ quốc.

“Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là cầu tre nhỏ

Mẹ về nón lá nghiêng che

Là hương hoa đồng cỏ nội

Bay trong giấc ngủ đêm Hè”

Lúc bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh chán nản. Nay được “cán bộ” cộng sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng quê hương. Ông nay được ban khen là “gia đình có công với cách mạng”. Nếu về Việt Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở trước mắt ông.

Ta về ta tắm ao ta!

Ông muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai!

Ôi! Nước ta nay đã độc lập, không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê hương. Vì thực dân Pháp mà nhân dân ta khốn khổ điêu tàn. Vì thực dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà đi. Nay là một dịp để ông trở về quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu quê hương không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến thành sự thực.

Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã “đăng ký” mua máy bay trở về Hà Nội thân yêu. Nhưng tòa đại sứ Việt Nam CS tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả “Việt kiều” tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường hàng không sang Cam Bốt rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.

Sau khi đoàn “Việt kiều” Thái Lan về đến Cam Bốt, họ được chuyển ngay lên xe ô tô Liên Sô là loại xe bốn bề kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám được cán bộ Cộng Sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề rào kín và có lính gác. Họ bảo:

“các Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Họ ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó. Họ bảo mọi người không được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép”. Họ đưa mọi người vào hội trường. Viên “thủ trưởng” tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:

“Chào các đồng bào và các đồng chí,

Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu trở về tổ quốc.”

Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.

Tiếp theo, ông nói:

“ Thưa các đồng chí và đồng bào,

“Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí nay đã thành người nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trước tiên, yêu cầu mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.”

Ông nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hột xoàn và đô la. Trong khi mọi người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào khám xét hành lý của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục kiểm tra.

Ngay hôm đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.

Ông cán bộ nói:

“Đảng sẽ giữ tài sản cho họ vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được ổn định.”

Tiếp theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ những ai còn cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê bình, kiểm thảo. Các gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy viết biên nhận bằng những tờ giấy vàng úa xấu xí với những dòng chữ nguệch ngoạc, không rõ chữ viết và con số, và cũng không ghi ngày tháng, chữ ký và tên người nhận:

….Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng… Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài… Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ óng ánh…

Đến đây thì các Việt kiều biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã Giám Sinh đã kêu lên:

Xem gương trong bấy nhiêu ngày

Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!

Vài ngày sau, các “Việt kiều” được “phân phối” về các thôn xóm ở miền Bắc. Gia đình Trương Thế Vinh được “phân phối” về một làng ở Quảng Bình. Ông chất vấn cán bộ:

– Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Băng Cốc chấp thuận. Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?

Tên cán bộ trong “ban Việt kiều yêu nước” nói:

”Nay chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn mười lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những tòa cao 40-50 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà Nội sau”.

Biết rằng phản đối cũng vô ích cho nên gia đình ông phải lên xe về Quảng Bình. Gia đình ông được đổ xuống Quốc Lộ I, rồi được công an dẫn bộ tới một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây số. Làng này cho ông một miếng đất ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở là bãi sông vắng, cách xa xóm làng vài cây số.

Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng gia đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để phá hoại xã hội chủ nghĩa.

Tiền của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm. Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và gia đình bị lưu đày và cấm cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành người xa lạ trên chính quê hương mình.

Ông suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông!

Kẻ sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi làm hại mình và con cháu!

Vài năm sau, chiến tranh bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh Bắc tử Nam”. Trương Thế Vinh có một trai, một gái. Con trai ông phải vào “bộ đội” rồi tử thương tại chiến trường miền Nam. Con gái ông phải đi “thanh niên xung phong”, lâm bệnh rồi chết trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắn đắng nhau.

Bà trách ông nhẹ dạ tin lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ và nỗi uất hận vì bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết. Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi Cộng Sản. Kết cuộc ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.

Sơn Tùng.


 

Chuyện tình khó quên của cha đẻ chiếc áo dài Việt Nam!

Xuyên Sơn

Chuyện tình khó quên của cha đẻ chiếc áo dài Việt Nam!

Lê Thiếu Nhơn

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường (sinh năm 1912, mất năm 1946)

chính là cha đẻ của chiếc áo dài

Việt Nam. Từ kiểu áo Lemur của Nguyễn Cát Tường, chiếc áo dài tiếp tục được cải tiến và dần dần trở thành trang phục truyền thống tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ nước ta. Thế nhưng, ít ai biết rằng, một trong những người đầu tiên góp công phô diễn chiếc áo dài của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, chính là vợ ông – bà Nguyễn Thị Nội!

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường sinh ra và lớn lên ở Sơn Tây – Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, họa sĩ Nguyễn Cát Tường cộng tác với báo Phong Hóa do nhà văn Nhất Linh làm chủ biên.

Bằng con mắt liên tài, nhà văn Nhất Linh nhận ra chàng họa sĩ trẻ Nguyễn Cát Tường ngoài sở trường vẽ tranh minh họa còn có khả năng đưa ra những ý kiến bổ ích để tư vấn làm đẹp cho phái nữ.

Vì vậy, trên báo Phong Hóa số 85 ra ngày 11/2/1934, nhà văn Nhất Linh mở chuyên mục

“Vẻ đẹp riêng tặng các bà, các cô” và giao cho họa sĩ Nguyễn Cát Tường phụ trách.

Sau 4 số báo nhẩn nha phân tích về trang phục phụ nữ Việt, họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhấn mạnh:

“Quần áo tuy dùng để che thân thể, nhưng nó có thể như tấm gương phản chiếu trình độ trí thức của một nước.

Bộ quần áo rồi sẽ phải như thế nào? Trước hết, nó phải hợp với khí hậu xứ ta, với thời tiết các mùa, với công việc, với khuôn khổ, với mực thước của thân hình mỗi bạn.

Sau nữa, nó phải gọn gàng, giản dị, mạnh mẽ và có vẻ thẩm mỹ lịch sự. Nhưng dù thế nào, nó cũng phải có cái tính cách riêng của nước nhà mới được. Các bạn là phụ nữ Việt Nam, vậy áo của các bạn phải có một vẻ riêng để người khác khỏi nhầm các bạn với phụ nữ nước ngoài, như nước Tàu, nước Pháp, nước Nhật Bản chẳng hạn”.

Với quan niệm ấy, trên báo Phong Hóa số 90 ra ngày 23/3/1934, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã công bố bản vẽ chiếc áo dài đầu tiên, đặt tên là áo dài Lemur. Nhà văn Thạch Lam đã lên tiếng ủng hộ áo dài Lemur rất nồng nhiệt:

“Sự cải cách y phục của phụ nữ ta có thể bởi cái nguyên nhân sau:

cái dáng điệu tự nhiên của thân thể người ta mà các họa sĩ biết thưởng thức. Biết sự mềm mại tha thướt của dáng điệu, rồi làm thế nào cho cái ống quần, cái tà áo theo cái mềm mại tha thướt đó, để làm tăng vẻ đẹp của thân hình cô thiếu nữ trẻ trung”.

Để chiếc áo dài Lemur bước từ trang báo ra cuộc đời, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã hợp tác với hiệu may Cử Chung ở số 100 phố Hàng Bông – Hà Nội và hiệu may Phạm Tá ở số 23 phố Bờ Hồ – Hà Nội để khuyến khích phụ nữ trưng diện trang phục này.

Đích thân họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã đi tìm những phụ liệu nhằm làm tăng thêm sức hấp dẫn cho chiếc áo dài.

Và một lần ra ga Hàng Cỏ để gặp một ông chủ xưởng dệt ren ở Bắc Ninh lên, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã nhận được món quà nhân duyên lớn nhất đời mình!

Khi tàu từ Bắc Ninh vào ga Hàng Cỏ,

họa sĩ Nguyễn Cát Tường chờ mãi không thấy ông chủ xưởng dệt ren đã có hẹn với mình. Đang mắt trái mắt phải ngó nghiêng kiếm tìm, họa sĩ Nguyễn Cát Tường sửng sốt khi phát hiện một cô gái đi ngang. Không trang điểm, trên đầu lại chít khăn xô đại tang, nhưng nhan sắc của cô gái làm họa sĩ Nguyễn Cát Tường ngơ ngẩn.

Sau mấy phút choáng váng, họa sĩ Nguyễn Cát Tường hoàn hồn và chạy theo cô gái. Lễ nghi lúc ấy không cho phép trai gái làm quen sỗ sàng, họa sĩ Nguyễn Cát Tường dò la biết được cô gái kia tên là Nội cũng ở Bắc Ninh và là con gái một chủ xưởng dệt ren vừa qua đời.

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường xã giao với người kéo xe của cô Nội để nhờ đưa thư. Sau mấy lần thư đi thư lại và thưởng không ít bạc cho người kéo xe, họa sĩ Nguyễn Cát Tường được thông báo rằng cô Nội hẹn ông ở chuyến tàu Bắc Ninh – Hà Nội dịp cuối tuần.

Đúng giờ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường chưng diện bảnh bao để đứng đợi cô Nội ở ga Hàng Cỏ.

Cô Nội xuống tàu thật, với hai chiếc va li to đùng. Họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhào đến, cúi chào cô Nội rất điệu đàng kiểu quý ông.

Cô Nội hơi ngơ ngác nhưng vẫn không tỏ thái độ gì, chỉ nhìn xuống… hai cái va li. Dù không phải loại người khỏe mạnh, nhưng họa sĩ Nguyễn Cát Tường cũng tỏ ra ga- lăng, hai tay nhấc bổng hai cái va li lên.

Cứ thế, nàng nhẹ nhàng đi trước, chàng hổn hển theo sau.

Ra khỏi cổng ga, nàng đi thẳng vào… đồn cảnh sát.

Hơi khó hiểu, nhưng chàng cũng vào luôn và hồn xiêu phách tán khi nghe nàng tố giác tội phạm:

“Ông này lấy cắp hai cái va li của tôi!”.

Nhân chứng và vật chứng đều có đủ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường không biết cách nào biện hộ cho bản thân, đành lấy mấy lá thư của cô Nội mà mình lúc nào cũng mang bên mình để chứng minh cả hai có quan hệ với nhau. Cô Nội khăng khăng

“không phải chữ của tôi”, và mượn giấy bút của cảnh sát để biểu diễn chữ viết hoa mỹ gấp trăm lần thứ chữ viết mà họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhận được.

Trời đất như sụp đổ dưới chân họa sĩ Nguyễn Cát Tường.

Cô Nội thì nhận lại hai cái va li để đi xa rồi, còn họa sĩ Nguyễn Cát Tường phải ngồi ở đồn cảnh sát để tường trình sự việc và chờ người của báo Phong Hóa đến bảo lãnh.

Tất nhiên, thuở đó nhà văn Nhất Linh – chủ báo Phong Hóa cũng là nhân vật có quyền lực, nên họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhanh chóng thoát nạn.

Bấy giờ, họa sĩ Nguyễn Cát Tường mới vỡ lẽ bị người kéo xe giở trò lừa đảo.

Cái gọi là thư của cô Nội, đều do người kéo xe tự viết để mong có mấy đồng tiền thưởng từ họa sĩ Nguyễn Cát Tường.

Oan gia ngõ hẹp, mấy ngày sau họa sĩ Nguyễn Cát Tường nhận được trát của tòa án.

Lý do, cô Nội về nhà kể lại cho mẹ nghe những điều đã xảy ra trên Hà Nội.

Và bà góa chủ xưởng thêu ren ở Bắc Ninh quyết không buông tha kẻ đã bôi nhọ thanh danh con gái cưng của mình bằng sự vu vạ “viết thư cho trai”. Thủ phạm là người kéo xe bị vạch mặt, nhưng họa sĩ Nguyễn Cát Tường vẫn thua kiện và phải “bồi thường một đồng danh dự” cho cô Nội.

Hình ảnh cô Nội ngỡ đã tan thành mây khói trong giấc mộng của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, thì cái câu “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” lại ứng nghiệm.

Tuy chồng đã qua đời, nhưng cam kết cung cấp nguyên liệu cho việc may áo dài vẫn được người vợ thừa kế xưởng dệt ren thực hiện.

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường được mời xuống Bắc Ninh để gặp mặt tiếp tục thỏa thuận cho một thương vụ êm thắm. Thật bất ngờ, cô gái của bà chủ xưởng thêu ren thay mẹ rót trà mời khách, không ai khác, chính là cô Nội.

Không giống như sự giận dữ trước đây đối với kẻ xúc phạm con gái mình, mẹ của cô Nội hết sức khen ngợi tài năng của họa sĩ Nguyễn Cát Tường và không giấu giếm ý muốn nhận họa sĩ Nguyễn Cát Tường làm con rể.

Cuối năm 1936, sau khi mãn tang thân phụ, Nguyễn Thị Nội xuất giá.

Đám cưới được tổ chức tưng bừng ở Bắc Ninh. Trong ngày vu quy, cô dâu Nguyễn Thị Nội mặc chiếc áo dài do tân lang Nguyễn Cát Tường thiết kế.

Vốn có gien kinh doanh của gia tộc, Nguyễn Thị Nội từ ngày làm vợ họa sĩ Nguyễn Cát Tường, đã giúp chồng phát triển thương hiệu áo dài Lemur rất thịnh vượng tại Hà Nội. Hiệu may Lemur với đặc sản áo dài được mở tại số 16 phố

Lê Lợi, trở thành địa chỉ nổi tiếng nhất về y phục phụ nữ.

Bà chủ Nguyễn Thị Nội không chỉ khéo léo chiều chuộng khách hàng,

mà còn là người mẫu thuyết phục nhất để người ta yêu thích chiếc áo dài.

Cũng nhờ người mẫu Nguyễn Thị Nội, họa sĩ Nguyễn Cát Tường có cảm hứng sáng tạo rất nhiều mẫu áo dài, để in thành cuốn sách “50 mẫu y phục phụ nữ Lemur” do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành.

Năm 1939, hiệu may Lemur chuyển về số 14 phố Hàng Da.

Và tại địa chỉ này, bà Nguyễn Thị Nội đã mở phòng trà Thiên Hương quy tụ những nghệ sĩ lừng lẫy nhất thủ đô hội ngộ hàng đêm.

Bà Nguyễn Thị Nội sinh cho họa sĩ Nguyễn Cát Tường cả thảy 5 người con, 3 trai 2 gái.

Ngày 17/12/1946, họa sĩ Nguyễn Cát Tường qua đời, hiệu may Lemur cũng đóng cửa.

Sau năm 1954, bà Nguyễn Thị Nội đưa gia đình vào Sài Gòn, và một mình làm lụng nuôi các con khôn lớn.

Bây giờ bà Nguyễn Thị Nội cũng đã thành người thiên cổ, nhưng những ngày bà cùng chồng mình – họa sĩ Nguyễn Cát Tường quảng bá chiếc áo dài, xứng đáng được thế hệ sau truyền tụng. Bởi lẽ, tình yêu của họ đã giúp người Việt Nam có được một trang phục truyền thống mang vẻ đẹp quyến rũ, như nhà thơ Nguyên Sa bồi hồi: 

“Có phải em mang trên áo bay/

Hai phần gió nổi một phần mây/

Hay là em gói mây trong áo/

Rồi thở cho làn áo trắng bay”,

hoặc như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên xao xuyến:

“Tháng giêng em áo dài trang nhã/

Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam/

Đài các chân ngà ai bước khẽ/

Quyện theo tà lụa cả phương Đông”.

Mời nghe radio

https://nongnghiep.vn/…/hoa-si-nguyen-cat-tuong-hanh…

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

GP Cần Thơ sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Thánh LM Trương Bửu Diệp năm 2026

Ba’o Nguoi-Viet

December 21, 2025

CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Giáo Phận Cần Thơ, Việt Nam, sẽ tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp vào Thứ Năm, 2 Tháng Bảy, 2026, tại Trung Tâm Hành Hương Tắc Sậy, xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.

Hôm Thứ Sáu, 19 Tháng Mười Hai, Giám Mục Lê Tấn Lợi, giám mục Giáo Phận Cần Thơ, gởi ra thông cáo cho biết như vậy.

Tượng Linh Mục Trương Bửu Diệp tại văn phòng Truong Buu Diep Foundation, Garden Grove. (Hình minh họa: Facebook Truong Buu Diep Foundation)

“Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, Tòa Giám Mục Giáo Phận Cần Thơ hân hoan loan báo một niềm vui trọng đại của giáo phận và của giáo hội tại Việt Nam: Tòa Thánh đã chính thức chấp thuận việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước cho Tôi Tớ Chúa – Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, do đặc sứ của Đức Thánh Cha Leo XIV là Đức Hồng Y Luis Antonio G. Tagle, quyền bộ trưởng Bộ Loan Báo Tin Mừng, chủ sự,” thông cáo cho biết.

Giám Mục Lê Tấn Lợi cho biết thêm: “Đây là hồng ân đặc biệt Chúa ban cho giáo phận chúng ta, đồng thời là niềm khích lệ lớn lao cho mọi thành phần dân Chúa noi gương Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trung thành sống đức tin, nồng nàn yêu mến Chúa và tận tâm hy sinh phục vụ tha nhân.”

“Xin toàn thể cộng đoàn dân Chúa hiệp thông trong lời tạ ơn Thiên Chúa, đồng thời sốt sắng cầu nguyện cho công việc chuẩn bị và tổ chức Thánh lễ Phong Chân Phước được diễn ra tốt đẹp và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng,” vị giám mục chánh tòa Cần Thơ thêm.

Giám mục kêu gọi: “Tôi tha thiết kêu gọi quý linh mục, tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân, trong khả năng và trách nhiệm của mình, nhiệt tình cộng tác và chung tay góp phần để việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Phanxicô Trương Bửu Diệp được sốt sắng, chu đáo và tràn đầy ý nghĩa đức tin.”

Được biết đây là lần đầu tiên có một Thánh Lễ Phong Chân Phước được cử hành tại Việt Nam. 

Thông cáo của Giám Mục Lê Tấn Tới nói về việc tổ chức Thánh Lễ Phong Chân Phước Cố Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Hình: Giáo Phận Cần Thơ)

Tiểu sử Linh Mục Trương Bửu Diệp

Theo Vatican News, Linh Mục Trương Bửu Diệp sinh ngày 1 Tháng Giêng, 1897, tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Đức, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Thân phụ của linh mục là ông Trương Văn Đặng và thân mẫu là bà Lê Thị Thanh. Năm 1904, sau khi mẹ qua đời, vị linh mục tương lai theo cha sang tỉnh Battambang, Cambodia, sinh sống.

Năm 1909, linh mục vào Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng, sau đó, tiếp tục tu học tại Đại Chủng Viện Phnom Penh, Cambodia, và được thụ phong linh mục tại thủ đô nước này năm 1924.

Từ năm 1924 đến năm 1927, linh mục được bổ nhiệm làm phó xứ Hố Trư, một họ đạo của người Việt Nam sinh sống tại tỉnh Kandal, Cambodia. Từ năm 1927 đến năm 1929, Linh Mục Trương Bửu Diệp về làm giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Cù Lao Giêng.

Từ năm 1930, linh mục được bổ nhiệm làm chánh xứ họ đạo Tắc Sậy, tỉnh Bạc Liêu, nay thuộc xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau.

Suốt 16 năm thi hành sứ vụ, linh mục tận tụy chăm sóc đoàn chiên, đặc biệt yêu thương người nghèo, không phân biệt lương giáo. Giữa thời loạn lạc chiến tranh, dù được khuyên lánh nạn, linh mục vẫn kiên quyết ở lại với giáo dân, khi nói: “Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên.”

Ngày 12 Tháng Ba, 1946, Linh Mục Trương Bửu Diệp bị Nhật bắt cùng với hơn 70 giáo dân họ Tắc Sậy. Linh mục đứng ra tranh đấu cho dân, đồng thời an ủi những người cùng bị giam. Sau lần thứ ba bị mời đi làm việc, linh mục không trở về. Sau đó vài ngày, giáo dân tìm thấy xác linh mục tại một cái ao, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.

Thi hài linh mục được vớt lên và chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo, Bạc Liêu, đến năm 1969 thì được di dời về an táng tại Tắc Sậy, nơi ngày nay trở thành điểm hành hương của đông đảo tín hữu kính nhớ một vị mục tử đã sống và chết vì đoàn chiên.

Sau khi linh mục qua đời, rất nhiều tín hữu bắt đầu đến kính viếng mộ linh mục, xin linh mục chuyển cầu và nhận được nhiều phép lạ.

Nhà thờ Tắc Sậy ở xã Phong Thạnh, tỉnh Cà Mau. (Hình: Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam)

Án phong Chân Phước 

Năm 2013, Giám Mục Tri Bửu Thiên, giám mục Giáo Phận Cần Thơ,  mở án điều tra cấp giáo phận, thu thập chứng cứ, lời chứng, và các phép lạ. Hồ sơ được hoàn tất vào năm 2017 và được gửi sang Vatican. Năm 2019, Bộ Tuyên Thánh kết luận điều tra có giá trị để khởi sự án phong Chân Phước.

Ngày 25 Tháng Mười Một, 2024, trong cuộc tiếp kiến dành cho Hồng Y Marcello Semeraro, bộ trưởng Bộ Phong Thánh, Đức Giáo Hoàng Francis cho phép bộ ban hành sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của Linh Mục Trương Bửu Diệp (bị giết vì sự căm thù đức tin).

Trong thư đề ngày 3 Tháng Mười Hai, gởi đến Linh Mục Cleber Willian Lopes Pombal, thuộc Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ, Tổng Giám Mục Edgar Pena Parra, phụ tá quốc vụ khanh Tòa Thánh Vatican, cho biết, theo ý định của Đức Giáo Hoàng Leo XIV, nghi thức tuyên phong Chân Phước cho Đấng Đáng Kính Tôi Tớ Chúa Phanxicô Trương Bửu Diệp sẽ được cử hành vào vào Tháng Bảy, 2026, như đã nêu ở trên.

Nhà thờ Tắc Sậy 

Theo trang web vietnamtourist.com, nhà thờ Tắc Sậy, hay còn biết đến là nhà thờ Cha Diệp, được xem là một trong những nhà thờ Công Giáo đẹp nhất miền Tây sông nước. Đây cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của Linh Mục Trương Bửu Diệp.

Nhà thờ được xây dựng năm 1925 và Linh Mục Trần Minh Kính là chánh xứ đầu tiên, từ Tháng Tám, 1926. Năm 1930, Linh Mục Trương Bửu Diệp là chánh xứ.

Tên Tắc Sậy xuất phát từ đặc điểm địa hình vùng này, có nhiều lau sậy, muốn đi vào nhà thờ phải đi qua một con đường tắt. Do người Nam biến âm “tắt” thành “tắc,” cho nên có tên Tắc Sậy.

Ngày nay, nhà thờ là một trong những điểm hành hương nổi tiếng nhất Việt Nam, thu hút nhiều du khách và giáo dân đến chiêm ngưỡng, dâng lễ, cầu nguyện, và khấn vái,…nhất là trong dịp Tết, những ngày lễ lớn của người Công Giáo, và ngày giỗ Linh Mục Trương Bửu Diệp. (Đ.D.)


 

LÒNG THAM VÔ ĐÁY NHƯNG CHỈ CẦN NHỮNG MẨU BÁNH VỤN VẶT

Luân Lê

 Mỗi chúng ta ai cũng có nhu cầu để được sống tốt đẹp và thịnh vượng hơn, nhưng không đồng nghĩa với việc gắng sao cho thoả lòng tham của mình đối với những giá trị của người khác và để làm những điều bất chính. Lòng tham là con đường nhanh nhất dẫn đến tai hoạ và những thảm kịch.

Mới nghe thì có vẻ như đã thấy nhận định này của tôi hàm chứa trong đó đầy những mâu thuẫn và sẽ có nhiều người muốn mắng tôi ngay khi đọc những câu này. Thế nhưng xin nhẫn nại thêm một chút và chúng ta cùng nhau mổ xẻ điều tôi vừa nói.

Chẳng phải gì to tát đâu xa, tôi nói ngay đến việc người ta hành xử với nhau tàn ác còn hơn cả loài cầm thú mà chúng sẵn sàng giết thịt nhau khi có loài nào đó tấn công cái tổ hoặc cướp đi miếng ăn của nó. Có phải gì hiếm hoi đâu, chuyện những người không may mà đi trộm chó, mèo, gà, trâu hay các tài sản khác của người dân ở những vùng quê, người ta phát hiện ra thì những tên trộm cắp kia chỉ có nước chết hoặc thương tật đầy mình. Dân làng xúm vào đánh đập, gậy gộc đủ cả, cứ thế mà nã vào đầu, phang vào chân, tay, mạng sườn kẻ cắp cho đến khi chết. Thế có phải là người ta quyết bảo vệ tài sản của mình đến cùng bằng những hành động vô nhân tính hay không.

Những hành vi ấy quả là man rợ không có đất nước văn minh nào làm thế như dân chúng ta. Thử hỏi luật pháp và chính phủ còn có giá trị gì nữa để mà duy trì và điều chỉnh hành vi con người. Nhìn vào đấy thì thấy rõ là người dân sẽ làm mọi cách kể cả là hung bạo và dãn man nhất để quyết bảo vệ cho được tài sản của mình, dù chẳng phải gì to tát. Hiện trạng này ở các vùng quê thì không thiếu. Vậy có phải là họ đang hành xử không cả bằng thời thực dân, phong kiến? Ngày xưa còn có công đường để kêu quan khi làng xóm mâu thuẫn, bắt được kẻ trộm, cướp thì đều lôi lên quan mà tâu bẩm và xét xử theo luật lệ. Chứ cũng không đến nỗi như bây giờ. Mà một dân tộc tàn ác với nhau như thế có khi nào đất nước văn minh và tốt hơn lên được? Mà nó chỉ làm cho con người ngày càng tàn bạo và coi thường luật pháp hơn thôi, như thế thì cái chính phủ kia cũng bị xem thường chứ đâu có giá trị gì để mà người dân cần đến. Quả là nguy cấp cho một đất nước mà con người sẵn sàng hung khí, hô hào một cách hung hãn để mà hành hạ đồng loại mình. Thật đau đớn và bại hoại hết chỗ nói.

Với chuyện con chó, con trâu đã kinh khủng như vậy. Vậy còn chuyện hôi của khi có người bị tai nạn trên đường, chuyện ngang nhiên nhặt tài sản của người khác mang về sử dụng. Đấy là hành vi khác gì trộm cướp và coi khinh luật pháp đâu. Thế thì quả là loạn lạc thực sự rồi chứ còn phải chờ đợi đến đao binh, bom đạn, chém giết gì mới cho là loạn lạc.

Với cái miếng ăn và tài sản của mình thì bảo vệ bằng được, nhưng sẵn của người khác hở ra là lấy cắp. Mà cũng bởi lối suy nghĩ này nên hầu như là ai cũng tính vào chính phủ để có quyền chức mà tìm cách đục khoét của công, làm giàu cho mình và gia đình. Cứ nhìn vào tệ trạng tham nhũng, sự suy thoái về con người, các cơ sở hạ tầng quốc gia thiếu thốn, sơ sài, yếu kém thì có thể thấy rõ nó là kết quả của việc vơ vét cho đầy túi tham của mình mà không để tâm gì đến việc chung của đất nước… tất cả đều xuất phát từ lòng tham vô đáy mà nên.

Thế nhưng đó chỉ là những cái vụn vặt và nhỏ mọn thôi, chỉ như những mẩu bánh có thể ăn được ngay tức khắc. Còn cái lớn hơn như chuyện chính sách kinh doanh làm ăn, chuyện đánh thuế tiêu dùng, chuyện chèn ép thương nhân, chuyện bị gây phiền hà trong công việc, chuyện bị cướp đoạt tài sản bằng cách tham nhũng ngân khố quốc gia với những con số khổng lồ, mà tất cả những cái đó rất thiết thực đánh vào túi tiền và chất lượng sống, vào điều kiện kinh doanh và cơ hội phát triển của người dân, thì dân chúng lại thờ ơ như chuyện riêng của nhà quan, chẳng màng gì cả, vì người ta không thấy nó bị thiệt hại gì như việc tên trộm, cướp lẻn vào nhà bắt trộm con chó hay dắt trộm trâu, bò của người ta đi mất. Nhận thức của người dân khiến tôi lo lắng tới những hậu họa khôn lường, vì nếu một lúc nào đó họ không thể lao động đủ để đóng thuế, sông hồ và không khí ô nhiễm, thực phẩm độc hại, bệnh viện thì tăng giá, giáo dục thì nâng học phí, lộ phí đi đường và xăng, dầu, điện, nước cứ leo thang. Thế thì họ định sống thế nào và làm gì để mà trả cho những thứ đó hay lại nhăm nhăm để cướp giật của người khác?

Mà cũng vì cái lòng tham vô đáy nhưng lại dễ thỏa mãn bằng những cái nhỏ nhặt này của người Việt mà các quốc gia khác lợi dụng điểm yếu đó để khai thác và bóc lột chúng ta từ tài nguyên thiên nhiên đến trí tuệ và sức người. Họ chỉ cần rót cho ít vốn vào làm ăn, đầu tư, hoặc cho vay với lãi suất thấp, chuyển giao công nghệ giá rẻ (mà có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, độc hại với con người, năng suất thấp, vận hành tốn kém và lại mau hỏng), cam kết vài điều khoản mà có vẻ như có lợi cho chính phủ, cho người dân bằng cách chia ít lợi nhuận hoặc chia sẻ quyền lợi kinh tế, thế là làm ráo, làm tuốt và làm nhanh cật lực. Bởi thế mà chúng ta cứ bị bóc lột sau khi đã bị dụ dỗ và mua chuộc bằng ít lợi ích cho thỏa cái lòng tham của mình. Đây chính là vấn đề lớn của dân tộc mà chúng ta phải nhận ra và thay đổi, nếu không thì chúng ta sẽ luôn bị mua chuộc và lợi dụng để cho người khác làm ăn mà thôi.

Quốc gia nào mà xây dựng bằng lòng tham, thì quốc gia đó sẽ sụp đổ bởi những mẩu bánh mỳ.

Bởi vậy tôi mới nói, đa phần người dân thì lòng tham vô đáy, nhưng chỉ cần những mẩu bánh vụn vặt để no cái bụng và ấm cái thân là đã đủ rồi, chẳng cần gì khác cả. Quốc gia lụn bại và suy vong cũng từ đây mà ra.

(Trích: MỘT NGƯỜI QUỐC DÂN)


 

KHÔNG AI TRONG SỐ HỌ ĐÃ HÔ “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM” – (Fb Trần Trung Đạo)

Đặng Minh Tâm

 KHÔNG AI TRONG SỐ HỌ ĐÃ HÔ “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM”

(Fb Trần Trung Đạo)

Ngày 25 tháng 12, 1927 là ngày thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, một tổ chức chính trị quy tụ đông đảo người Việt yêu nước với chủ trương “Làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Độc lập Cộng hòa.”

Hội nghị đại biểu toàn quốc ngày 26 tháng 1, 1930 quyết định cuộc khởi nghĩa cả nước sẽ nổ ra vào đêm 9 rạng ngày 10 tháng 2, 1930. Tuy nhiên, vì gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức và Pháp có thể đã biết ngày nổi dậy, đảng trưởng Nguyễn Thái Học quyết định dời ngày khởi nghĩa sang đến 15 tháng 2, 1930.

Nhiều nơi không nhận được tin nên vẫn bắt đầu vào đêm 9 tháng 2 hay như trường hợp Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Hưng Hóa và Lâm Thao vẫn quyết định tiến hành.

Khi thất bại, Xứ Nhu tức Nguyễn Khắc Nhu tự sát bằng lựu đạn nhưng không chết. Địch băng bó vết thương và khiêng ông về nhà lao Hưng Hóa. Trên đường giải về nhà lao Nguyễn Khắc Nhu nhảy xuống sông tuẫn tiết nhưng cũng được vớt lên. Ngày 11 tháng 12, 1930, vì tay chân bị xích, Nguyễn Khắc Nhu phải tự sát lần nữa bằng cách đập đầu vào tường, ông vỡ đầu và hy sinh vì dân tộc.

Các nơi khác, nói chung cuộc khởi nghĩa thất bại và nhiều lãnh tụ đảng đã hy sinh, tự sát, hàng trăm người bị kết án chung thân và 62 người bị kết án tử hình.

Trong tác phẩm Vụ Án Việt Nam Quốc Dân Đảng 1929-1930 của tác giả Cẩm Đình, xuất bản năm 1950 viết lại khá đầy đủ chi tiết biên bản các buổi xử án của Hội đồng Đề hình Pháp xử các đảng viên VNQDĐ suốt hai năm từ 1929 đến 1930. Những đảng viên VNQDĐ chống án, nhận án, phủ nhận hay công khai nhận trách nhiệm đều được ghi rõ.

Hầu hết trong số lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng thời kỳ thành lập đều còn rất trẻ như Nguyễn Thái Học 28 tuổi, Phó Đức Chính 23 tuổi, Nguyễn Ngọc Sơn 27 tuổi, Nguyễn Thế Nghiệp 24 tuổi, Hoàng Phạm Trân tức Nhượng Tống 22 tuổi, Nguyễn Thị Giang tức Cô Giang 24 tuổi, Nguyễn Thị Bắc tức Cô Bắc mới 22 tuổi, Đoàn Trần Nghiệp tức Ký Con cũng chỉ mới 22 tuổi v.v..

Trong suốt thời gian dài xử án, nhiều trường hợp cảm động nói lên tình yêu nước ngay cả lúc đứng trước vành móng ngựa.

Nguyễn Thái Học tuyên bố: “Tôi nhận cả trách nhiệm trong những cuộc biến động vừa rồi. Chính tôi đã chủ trương cuộc biến động ở Yên Bái, cũng chính tôi đã chủ tọa cuộc hội nghị ở Lạc Đạo. Chỉ có tôi mới là tay chính trong các cuộc biến động.”

Học sinh Trịnh Văn Yên, 16 tuổi, trả lời khẳng khái anh gia nhập VNQDĐ lúc 14 tuổi để “đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa Pháp”.

Đoàn Thị Ái, khi luật sư Mayet biện hộ rằng bà chỉ theo đảng vì tình cảm riêng tư dành cho người yêu vốn đã là đảng viên VNQDĐ, bà đứng lên phủ nhận và cho rằng bà gia nhập đảng chỉ vì “thương nước Việt Nam” chứ không phải vì tình yêu trai gái.

Nhiều người như Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Văn Lân, Nguyễn Tấn Tuất không cho phép các luật sư người Pháp biện hộ giùm.

Tối 16 tháng 6, 1930, chuyến tàu đêm đưa đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí lên Yên Bái để hành hình.

Theo tác giả Hoàng Văn Đào trong tác phẩm “Từ Yên Bái Đến Các Ngục Thất Hỏa-Lò, Côn-Nôn, Guy-An”: “Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn có thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh mục Mechet và Dronet. Máy chém di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách buổi hành quyết là Cai Công. Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5 phút sáng ngày 17.6.1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.”

Tác giả Louis Roubaud in trong cuốn sách Việt Nam, xuất bản 1931, được trích dẫn khá nhiều, viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và những diễn biến tại pháp trường. Ngay ở trang đầu Roubaud đã viết: “Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! 13 lần tôi nghe tiếng hô này trước máy chém ở Yên Bái. 13 người bị kết án tử hình đã lần lượt thét lên như vậy cách đoạn đầu đài hai thước”. Tác giả cũng viết về nhà cách mạng Nguyễn Thái Học: “Anh mỉm miệng cười, cực kỳ bình thản, đưa mắt nhìn đám đông công chúng và cúi đầu chào đồng bào rồi cất giọng đĩnh đạc, trầm hùng mà hô lớn: “Việt Nam vạn tuế”. Cô Giang, vợ chưa cưới của Nguyễn Thái Học, cũng có mặt trong đám đông.”

Vài hôm sau Ngày Tang Yên Báy, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, bức hình mười ba chiếc đầu của các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa bị chém còn phơi trên bãi cỏ được đăng trên báo Pháp. Chiếc đầu được đánh dấu tròn được tờ báo ghi chú “đây là đầu của Nguyễn Thái Học.”

Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bị chém.

Như hai tác giả Louis Roubaud và Hoàng Văn Đào viết, không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”.

Đó cũng là điểm khác biệt chính giữa các đảng cách mạng thật sự chiến đấu vì tự do, độc lập của dân tộc và đảng CSVN.

Với những người yêu nước chân chính, đảng cách mạng chỉ là chiếc ghe để đưa dân tộc Việt Nam qua sông trong khi với Đảng Cộng sản chiếc ghe lại chính là dân tộc.

Hôm nay, sở dĩ đảng CS ca ngợi lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học chỉ vì ông đã hy sinh, tuy nhiên, nếu ông còn sống và tiếp tục lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng trong giai đoạn 1945, số phận của Nguyễn Thái Học cũng giống như Bùi Quang Chiêu, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước bị CS giết mà thôi.

Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”.

Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học mới 28 tuổi.

Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, nhưng dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau.

Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.

Dưới đây là bài thơ của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy viết để tưởng niệm những liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy.

NGÀY TANG YÊN BÁY

(Kính tặng hương hồn những liệt sĩ đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy)

Tác giả: Gs Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Trong bình minh sương lạnh phủ âm thầm.

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt.

Toan lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Gió căm hờn rền rĩ tiếng gào than.

Từ lưng trời, sương trắng rủ màn tang.

Ánh mờ nhạt của bình minh rắc nhẹ

Trên Yên Báy âu sầu và lặng lẽ,

Giữa mấy hàng gươm súng toả hào quang,

Mười ba người liệt sĩ Việt hiên ngang

Thong thả tiến đến trước đài Danh Dự:

Trong quần chúng đứng cúi đầu ủ rũ,

Vài cụ già đầu bạc lệ tràn rơi

Ngất người sau tiếng rú: Ối con ơi!

Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn

Trên khoé mắt đã từng khinh đau đớn

Của những trang anh kiệt sắp lìa đời,

Nhưng chỉ trong giây phút vẻ tươi cười

Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước.

Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước,

Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường,

Éo le thay! muốn phụng sự quê hương

Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến.

Nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến.

Sau cái nhìn chào non nước bi ai,

Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài

Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng.

“Việt Nam muôn năm!” Một đầu rơi rụng,

“Việt Nam muôn năm!” Người kế tiến lên.

Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên

Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc,

Sau Đức Chính, đây là phiên Thái Học,

Anh nghiêng mình trước xác những anh em,

Rồi mĩm cười, Anh ngảnh mặt nhìn xem

Những kẻ đến quan chiêm đoàn liệt sĩ

Để từ biệt những bạn đồng tâm chí.

Tiếng tung hô bổng nổi, vang trời cao,

Nhưng liền theo Anh đã bị xô vào

Chiếc gươm máy giăng tay chào, lặng lẽ.

Đao xuống, đầu rơi, máu đào tung toé.

Người anh hùng nước Việt thôi còn đâu!

Lũ thực dân giám sát đứng nhìn nhau

Như trút sạch hết những đìều lo ngại

Và xoa tay chúng thở dài khoan khoái,

Trong rừng người ứa lệ, Nguyễn Thị Giang

Nén nỗi đau như cắt xé can tràng

Đứng ngơ ngác lặng người bên Hữu Cảnh.

Trong nắng sớm, gió căm hờn quát mạnh

Như thề cùng những tử sĩ anh linh

Vang dội cùng trên đất Việt điêu linh

Những tiếng thét uy hùng vì giống Việt.

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Như tan trong gió mạnh khóc vang rầm

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt

Cố lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

Thân anh hùng đã nát dưới ngàn cây

Nhưng tiếng hô còn phảng phất đâu đây,

Mười lăm năm sau ngày sầu Yên Báy,

Toàn thể giống Tiên Rồng cùng đứng dậy,

Cố đuổi loài tham bạo khỏi non sông,

Hơn hai năm đất Việt máu pha hồng

Mà chiến sĩ vẫn một lòng cương quyết

Thề tranh đấu đến khi nào nước Việt

Được hoàn toàn độc lập mới ngừng tay.

Thế là dòng máu vọt dưới trời mây

Một buổi sáng mười lăm năm về trước

Đã vẽ được cảnh anh hùng nguyện ước.

Đưa non sông ra khỏi chốn u trầm

Cả toàn dân nước Việt đến muôn năm

Vẫn ghi tạc trong tâm ngày hôm ấy,

Ngày hôm ấy, ôi! ngày tang Yên Báy!

Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Xé nát màn sương lạnh phủ âm thầm,

Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt

Đã lay tỉnh cả toàn dân nước Việt.

(Đằng Phương, Hồn Việt, NXB Đuốc Việt, Sài Gòn, 1950)

Những ai đã chết vì sông núi

Sẽ sống muôn đời với núi sông.

(Trần Trung Đạo)

Trần Trung Đạo

Ảnh pháp trường Yên Báy 17 tháng 6 năm 1930

(Ảnh sưu tầm)


 

TẦN VƯƠNG ĐỐT SÁCH CHÔN TRÒ!…

Trần Tố Ngọc

TẦN VƯƠNG ĐỐT SÁCH CHÔN TRÒ!

CỘNG SẢN CŨNG ĐỐT KHO TÀNG VĂN CHƯƠNG

TRẢI QUA NHỮNG CẢNH ĐOẠN TRƯỜNG

SÁCH MIỀN NAM LẠI KHIÊM NHƯỜNG HỒI SINH!

Câu chuyện này làm tôi nhớ đến ông soạn giả Mai Quân (mọi người lên Google sẽ biết là ai), chồng NSUT Thuỳ Liên (diễn viên cách mạng miền Nam, đóng phim Mùa gió chướng), là người quen với gia đình tôi! Ông này sau năm 1975 là cán bộ văn nghệ của thành phố, làm việc bên Hội Sân khấu của thành phố. Không biết nhờ quen biết hay sao mà ông này đem rất nhiều sách Miền Nam trước 75 về nhà cất giữ (những cuốn sách lẽ ra đã bị tiêu huỷ theo lệnh của chánh quyền Cộng Sản).

 Ông chứa được một kho sách lớn trong nhà vì hai vợ chồng ông có công với cách mạng nên được Nhà Nước cấp cho một căn nhà bự như biệt thự ở đường Nguyễn Văn Trỗi, quận Phú Nhuận (ngày nay). Mấy năm trước ổng mất, bà vợ (diễn viên Thuỳ Liên) kêu người bên tiệm sách cũ (tiệm nào thì tôi không biết) vô thâu mua. Tất nhiên là tiệm sách cũ ở đâu trên khắp thành phố này thì đều thâu mua sách cũ bằng hình thức… cân ký! 

Thế nhưng, tuy cân ký bán như ve chai mà bà ấy bán hết chỗ sách đó và thâu được… 20 mấy triệu VNĐ! Nói như vậy là tưởng tượng được số sách nhiều cỡ nào! 

Nhiều khi tôi cũng thắc mắc: chỗ sách ấy rốt cuộc đi về đâu, ai đã may mắn mua được? Không biết trong những cuốn sách mà quán sách Mùa Thu bán khống giá vài triệu đồng kia, có cuốn sách nào từ kho sách của ông soạn giả Mai Quân không!?

Luu Pham Tam Minh st

Tố Ngọc Trần chia sẻ


 

Người tù thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu

Phạm Thanh Nghiên

 Hôm nay 19/12/2025, tròn 3 năm “người tù thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu về với Chúa.

Trong 75 năm hành trình dương thế, ông đã trải qua 37 năm bị đoạ đày sau song sắt, trở thành người bị cầm tù lâu nhất tại Việt Nam. Với kỷ lục bất đắc dĩ này, ông đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, như một bằng chứng không thể chối cãi về tội ác của ch.ế đ.ộ c.ộ.n.g sả.n đối với đồng bào mình.

Xin cầu cho linh hồn ông Gio-an Bao-ti-xi-ta được hưởng nước Thiên đàng.


 

XỨ THIÊN ĐƯỜNG

Lê Ngọc Công

XỨ THIÊN ĐƯỜNG .

Cụ Bà đi nhặt ve chai mất bên vệ đường.

Một cái chết lặng lẽ và khoảng trống mang tên an sinh xã hội

Một cụ bà gục xuống bên vệ đường, bên cạnh là chiếc bao ve chai cũ kỹ.

Không còi hú, không bệnh viện kịp thời, không người thân bên cạnh.

Chỉ có một cuộc đời khép lại trong im lặng.

Cái chết ấy không phải là tai nạn hiếm hoi. Nó là hệ quả của một hệ thống an sinh xã hội thiếu vắng, nơi người già không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục lao động cho đến khi kiệt sức.

Ở những quốc gia phát triển, tuổi già là giai đoạn được chăm sóc. Người cao tuổi có lương hưu tối thiểu, có bảo hiểm y tế, có dịch vụ chăm sóc tại nhà, có nhà dưỡng lão, có những cơ chế bảo vệ để không ai phải chết trên vỉa hè vì mưu sinh. Xã hội coi việc bảo đảm phẩm giá cho người già là một nghĩa vụ căn bản.

Còn ở Việt Nam, quá nhiều người già không có lương hưu. Họ từng lao động cả đời trong khu vực phi chính thức: bán hàng rong, làm thuê, làm ruộng nhỏ lẻ. Khi sức khỏe cạn dần, họ không có điểm tựa. Không lương hưu. Không trợ cấp đủ sống. Không hệ thống chăm sóc dài hạn. Cuối cùng, họ ra đường—nhặt ve chai, bán vé số, bốc vác—đổi từng đồng lẻ lấy một bữa ăn.

Một xã hội được đo bằng cách nó đối xử với những người yếu thế nhất.

Và người già là thước đo không thể chối cãi.

Khi một cụ bà phải kéo lê tấm lưng còng trên đường phố để nhặt từng chai nhựa, đó không phải là “ý chí vượt khó”. Đó là sự thất bại của chính sách. Khi cụ chết bên vệ đường, đó không phải là “số phận”. Đó là khoảng trống của an sinh xã hội.

Người ta thường nói về tăng trưởng, về chỉ số, về thành tích. Nhưng tăng trưởng nào có ý nghĩa nếu nó không đủ để bảo vệ những người đã cống hiến cả đời? Thành tích nào có giá trị nếu cái kết của tuổi già là một cái chết lặng lẽ giữa phố?

Một bà cụ lớn tuổi đáng lẽ phải được chăm lo—được nghỉ ngơi, được chữa bệnh, được sống những năm cuối đời trong an toàn và tôn trọng. Thay vào đó, bà phải mưu sinh đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là lựa chọn của bà. Đó là lựa chọn mà xã hội đã không làm.

Cụ bà đã ra đi. Nhưng câu hỏi còn ở lại:

Bao nhiêu người già nữa sẽ phải đi nhặt ve chai cho đến khi không còn đứng dậy được?

Và bao lâu nữa, an sinh xã hội mới thôi là khẩu hiệu để trở thành điểm tựa thực sự cho những phận người yếu thế?

Im lặng trước những cái chết như vậy cũng là một hình thức chấp nhận.

Còn lên tiếng, ít nhất, là cách để nhắc nhau rằng: tuổi già không nên là một cuộc mưu sinh đến chết.

Nhật Ký Yêu Nước.

Từ Fb Van Nguyen


 

NHỮNG NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN SAU 1975…- Nguyễn Văn Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Nguyễn Văn Tuấn

Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là “Thời Bao Cấp”. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v…

Tem phiếu:

Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là “chế độ tem phiếu”. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.

Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành). Nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tùy theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.

Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dân bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.

Danh từ “ăn độn” có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70 % để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quý hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quý, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.

Đổi tiền:

Screenshot

Ngày 22 Tháng Chín 1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.

Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”

Đốt sách:

Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu hủy. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.

Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh “lạc hậu” về “tình yêu ủy mị” và “tìm kiếm niềm vui thể xác” đã bị đốt bỏ.

Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80.000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt “văn hóa tư sản”.

Đánh tư sản:

Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.

Đợt X1 khởi động sáng 09 Tháng Chín 1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.

Đợt X2 bắt đầu từ Tháng Ba 1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hỗ trợ.

Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TPHCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.

Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.

Nhà báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10 Tháng Tư 1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.”

“Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. ”

Kinh tế mới:

Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ “Kinh tế mới”, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19 Tháng Năm 1976):

  • Người thất nghiệp
  • Người cư ngụ bất hợp pháp
  • Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa
  • Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
  • Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.

Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc Việt Nam Cộng Hòa tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.

Tù cải tạo:

Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.

Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ tù khoảng hơn 1.000.000 người trên tổng dân số Nam Việt Nam lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500.000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200.000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250.000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60.000 người bị giữ lại.

Theo một bài báo: “Trong số trên 1.000.000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165.000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.

“Thuyền nhân”:

Screenshot

Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.

Chế độ mới áp dụng “chủ nghĩa lý lịch”, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong quy chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lý lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của “gia đình cách mạng” và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của “những sĩ quan cao cấp, hay là người công giáo”.

Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: Vượt biển.

Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưng theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800.000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100.000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là “cao trào” của làn sóng vượt biển.

Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50 %) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10 % người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, “vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa”. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100.000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.

Nguyễn Văn Tuấn


 

‘Tiền trong dân còn rất nhiều’ và niềm tin trong dân đã cạn-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 13, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Trong nhiều năm qua, các nhà lãnh đạo cao cấp CSVN liên tục nhắc đi nhắc lại một cụm từ, mà thoạt nghe, tưởng như rất “kinh tế học” nhưng thực chất lại rất “chính trị học”: “Tiền trong dân còn rất nhiều”.

Khi còn sinh tiền, Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng CSVN nói “Các đồng chí nói “Tiền trong dân còn nhiều” như thế là không đúng, thậm chí, rất lệch lạc. Dân không mang tiền ra làm ăn là vì họ không yên tâm, không có môi trường thuận lợi chứ đâu phải vì họ không muốn phát triển? Chính cán bộ yếu kém, quản lý chồng chéo, thủ tục nhiêu khê, hết kiểm tra lại thanh tra… mới làm dân sợ rủi ro, đành để tiền nằm một chỗ…”.

Các nhân viên (bên trái) một ngân hàng thương mại tại Hà Nội tiếp khách hàng trong dịch vụ thường lệ từ ký thác, chuyển khoản, đến tín dụng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Sau khi kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư, Tô Lâm cũng đã lập lại câu nói này với lời chê trách nhân dân “…vì nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất, không mở được doanh nghiệp, thì tỉnh làm sao có thuế được, thu được thuế ở đâu được”.

Cho thấy, tuy cùng một câu nói “Tiền trong dân còn rất nhiều”, nhưng ít ra, Nguyễn Phú Trọng còn nói được về nguyên nhân “dân sợ rủi ro”, nên chưa huy động được nguồn tiền trong dân, khác với Tô Lâm chỉ nói về lợi ích của tiền sinh ra tiền một cách đầy thực dụng.

Nhưng nói cách nào đi nữa, hàm ý phía sau câu nói ấy không phải để suy tư về niềm tin xã hội, mà là để ám chỉ một điều khác, rằng dòng tiền đang nằm im trong túi dân, chúng chưa được huy động cho mục tiêu phát triển, và vì thế, chế độ muốn “khai thông”.

Nhưng vấn đề của người dân lại không nằm ở đồng tiền, lại càng không phải ở chỗ khơi thông, mà nằm ở niềm tin. Điều mà chế độ đã sớm “phung phí” đến cạn kiệt từ lâu! Thú vị là chính Nguyễn Phú Trọng, người cứ hay bị công chúng đùa với hỗn danh “Trọng lú” lại công khai thừa nhận nguyên nhân cốt lõi của tình trạng này. Dĩ nhiên, với ông Trọng, đây không phải lời “tự diễn biến”, chúng là lời tự thú chính trị.

Nó cho thấy ông ấy hiểu khá rõ bản chất vấn đề, rằng dân không thiếu tiền, mà là dân sợ hãi, dân thiếu niềm tin. Khiến cho nguồn lực tài chính khổng lồ trong dân phải ngủ yên, chúng chưa được khai thác hiệu quả. Đó là sự lãng phí nguồn lực khi không tạo ra được giá trị gia tăng trong bối cảnh thiếu vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, y tế, giáo dục… làm chậm sự phát triển chung.

Thế nhưng, thay vì chữa bệnh từ gốc, người kế nhiệm Tổng Bí thư, Tô Lâm, lại nhìn vấn đề theo hướng ngược lại, rằng “Tiền trong dân rất nhiều… nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất…”. Cách tư duy này đánh dấu một sự trượt dài nhận thức, thay vì tự kiểm điểm cấu trúc quyền lực lại quay sang đổ lỗi cho người dân! Đó là vấn đề của chế độ CSVN lúc này.

Nước Anh thế kỷ XVII và giải pháp dân chủ hóa tài chính

Lịch sử thế giới cũng từng có dịp ghi nhận về giải pháp huy động nguồn lực tài chính trong dân rất hiệu quả, đó là Anh quốc vào thế kỷ thứ XVII.

Năm 1689, ngay trong cuộc Chiến tranh Chín Năm (Nine Years’ War) nổ ra giữa Anh và Pháp. Tình thế tài chính của Anh lúc đó vô cùng kiệt quệ, nhà vua không có uy tín để đi vay tiền, ngân khố trơ khốc. Chiến tranh đã gây tiêu hao các nguồn lực của nước Anh một cách khủng khiếp.

Giải pháp mà họ chọn không phải là tịch thu tài sản nhân dân bằng các chiến dịch “Đánh tư sản mại bản”, “Tư sản công thương nghiệp”, quốc hữu hóa, cũng không phải vận động nhân dân đóng góp, mà là một bước đột phá bằng tạo dựng lòng tin thể chế.

Đó là việc thành lập Ngân hàng Anh (Bank of England) vào năm 1694. Đây là ý tưởng của một nhà quý tộc Scotland, ông tên William Paterson, được giao thành lập ngân hàng tư nhân Anh quốc. Theo đó, ông có quyền thành lập Ngân hàng Anh với những đặc quyền ngân hàng của chính phủ bao gồm phát hành giấy bạc.

Sắc lệnh hoàng gia hợp thức các quyền này ngày 27 Tháng Bảy 1694. Thị trường tài chính lúc đó rất nghèo nàn nên khoản vay bị tính lãi suất tới 8% một năm cộng thêm phí quản lý của khoản vay là £4.000 mỗi năm.

Bản chất của ngân hàng này là một công trình của niềm tin. Khi ấy, người dân góp vốn, nhưng đổi lại họ có: Quyền sở hữu rõ ràng, được bảo đảm pháp lý và một thể chế buộc phải tôn trọng cam kết của mình. Kết quả hết sức ngoạn mục, chỉ trong chưa đầy hai tuần, nước Anh huy động được 1,2 triệu bảng Anh, một số tiền khổng lồ ở thế kỷ XVII.

Câu chuyện không nằm ở chỗ người Anh ít hay nhiều tiền hơn người Việt hôm nay, mà điều quan trọng nhất là họ đã đồng ý góp rất nhiều tiền vào ngân hàng khi có lòng tin rằng tài sản của họ được bảo vệ bởi luật pháp.

Bài học từ Anh quốc và sự bất khả thi trong thể chế độc đảng Việt Nam

Chúng ta sẽ tự hỏi, liệu chăng mô hình huy động tài chính thành công tại Anh quốc có thể áp dụng tại Việt Nam hay không? Câu chuyện của Anh quốc là một lý thuyết rất đẹp. Nhưng hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam hiện nay lại đối lập hoàn toàn với những tiền đề căn bản của mô hình này.

Để huy động được tiền trong dân theo cách văn minh như Anh, cần tối thiểu 5 điều kiện nền tảng: Chính quyền có tính chính danh, nếu ở Anh Quốc là sự truyền ngôi chính đáng thì ở Việt Nam cần thông qua bầu cử tự do; Một nền tư pháp độc lập tuyệt đối để có thể ban phát công bằng, công lý mà không bị tác động bởi chính trị, đảng phái; Quyền tài sản được Hiến pháp bảo đảm thực chất; Minh bạch hóa ngân khố và chi tiêu công; Không có nỗi sợ bị tước đoạt tài sản tùy tiện.

Nhưng Việt Nam hiện nay có gì?

Chính quyền không chính danh, do độc tài đảng trị; Tư pháp bị đặt dưới sự “lãnh đạo toàn diện của đảng Cộng Sản”, tác động bởi những cơ chế như Ban An ninh Nội chính và tình trạng hối lộ, tham nhũng; Quyền tài sản không được bảo đảm, như nhà đất bị giải tỏa bất công mà không được bồi thường đầy đủ; Tình trạng công an trị và tham nhũng có hệ thống; Doanh nhân vi phạm pháp luật để có thể tồn tại và trở thành con tin của công an.

Trong môi trường ấy, khuyên người dân mang tiền ra kinh doanh, sản xuất, làm dịch vụ chẳng khác nào bảo người ta bước ra khỏi nhà mà không khóa cửa, không có công an bảo vệ, không có tòa án độc lập, rồi trách họ sao “không dám ra đường!?

Tiền nằm trong dân là phản ứng phòng vệ

Một thực tế cần được thẳng thắn, rằng người dân Việt Nam gửi tiền tiết kiệm vì không phải không biết làm ăn, mà họ gửi tiền tiếp kiệm vì đó là phương thức phòng vệ cuối cùng trước một hệ thống bất định, bất lương và đầy rủi ro.

Họ hiểu rất rõ xã hội, nơi chế độ CSVN tạo ra môi trường, mà: Làm ăn lớn ⇒ dễ bị thanh tra. Mở rộng doanh nghiệp ⇒ dễ “va chạm” lợi ích. Thành công quá ⇒ có thể trở thành mục tiêu chính trị. Trong xã hội như vậy, lựa chọn an toàn nhất không phải là “khởi nghiệp”, mà là trú ẩn tài sản. Đó không phải tâm lý tự ti, đó là phản ứng sinh tồn.

Bài học cốt lõi từ Anh quốc — Niềm tin

Nhiều người nhầm tưởng rằng bài học huy động tài chính trong dân từ giải pháp của nước Anh là “hãy tạo lập một ngân hàng mới”. Điều này sai một cách cơ bản. Vì lẽ, bài học thật sự là: Hãy lập một thể chế mang lại cho dân niềm tin mới.

Người dân tại Việt Nam tới nay vẫn quen dùng tiền mặt trong mọi giao dịch trong khi trị giá đồng bạc CSVN thì rất thấp nên số tiền bỏ vào hay rút ra đều chồng đống như những cục gạch. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Thể chế đó chỉ có thể là: Một chính quyền dân chủ được hình thành từ bầu cử tự do. Một nền tư pháp hoàn toàn độc lập . Một hệ thống quyền lực chính trị có thể kiềm chế, giám sát được. Quyền tài sản, quyền tự do được bảo đảm bởi luật pháp … thì “Tiền trong dân còn nhiều” sẽ được huy động vào nền kinh tế một cách tự nhiên mà không cần đến lời kêu gọi.

Nhưng trong một thể chế độc tài, đảng trị, nơi công an mạnh hơn tòa án, nơi hiến pháp có hiệu lực thấp hơn nghị quyết, nơi luật pháp yếu hơn chỉ thị, nơi tài sản có thể bị “thu hồi” chỉ bằng một quyết định hành chính bất kỳ, nơi tham nhũng tràn lan, thì vĩnh viễn, “Tiền trong dân còn nhiều” đến mức nào đi nữa, sẽ vẫn mãi mãi nằm trong hầu bao của họ.

Nước Anh đã trở thành đế quốc, nơi được xưng danh “Mặt trời không bao giờ lặn”, không phải vì họ giàu hơn dân tộc khác, mà vì họ tạo được một thể chế để dân dám tin.

Còn Việt Nam hôm nay, nơi được hứa hẹn “Kỷ nguyên vươn mình”, không phải vì giàu, vì mạnh, mà vì chế độ nơi ấy rất hào phóng hứa hẹn điều mà họ và dân của họ đều quá hiểu nhau, rằng chẳng có cơ sở gì để kỷ nguyên hão huyền ấy trở thành sự thật.

Vì lẽ, “Tiền trong dân còn rất nhiều” nhưng niềm tin trong dân đã cạn.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 9 Tháng Mười Hai 2025

Đặng Đình Mạnh.


 

Thân bất lao tù , chí bất cao

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Cùng cầu bình an cho các TNLT/VN đang bị đày đọa trong chốn lao tù CS, trong đó có  TNLT cô Phạm Đoan Trang, được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới RSF kêu gọi trả tự do trong chiến dịch ưu tiên năm 2025.

***

“ Đời không cát bụi , đời không sạch

Thân bất lao tù , chí bất cao “ .

Tù không có gì phải sợ , chỉ sợ trong cuộc dạo chơi cõi nhân gian này không làm được gì cống hiến cho nhân thế.

Không ai muốn sống trong tù ( dù chỉ một ngày ) nhưng nếu cần cho một đất nước hồi sinh và thịnh vượng thì tù cả đời cũng không đáng sợ.

(PVT)