BÃO SỐ 13 KALMAEGI KHIẾN ÍT NHẤT 5 NGƯỜI CHẾT, 6 NGƯỜI BỊ THƯƠNG

BBC News Tiếng Việt 

 

(Photo by Nhac NGUYEN / AFP) (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)
(Photo by NHAC NGUYEN / AFP) (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

Theo báo cáo của Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vào sáng sớm 7/11, cơn bão Kalmaegi đã khiến 5 người thiệt mạng, gồm 3 người ở tỉnh Đắk Lắk và 2 người ở Gia Lai 2 người, cùng với 6 người khác bị thương.

Thống kê ban đầu cho thấy cơn bão mà Việt Nam gọi là bão số 13 này đã giật sập 52 căn nhà, gồm Gia Lai 43 nhà và Đắk Lắk 9 nhà), đồng thời làm hư hại, tốc mái 2.593 căn nhà khác.

Cơn bão cũng đã đánh chìm 9 con tàu – Đắk Lắk và Gia Lai mỗi tỉnh 4 tàu, và một tàu còn lại ở Quảng Ngãi.

Hiện tại, bão Kalmaegi đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và tiếp tục suy yếu thành một vùng áp thấp trên khu vực Hạ Lào.

Theo dự báo, sáng 7/11, khu vực từ Nam Quảng Trị đến Đà Nẵng và cao nguyên Trung Bộ sẽ có mưa với lượng phổ biến 20–50mm, một số nơi có thể vượt 80mm.

Từ ngày 7 đến hết 8/11, khu vực từ Thanh Hóa đến Bắc Quảng Trị dự kiến xuất hiện mưa lớn với tổng lượng phổ biến 50–150mm, cục bộ có nơi trên 200mm.

Bão số 13 Kalmaegi là cơn bão mạnh nhất châu Á từ đầu năm đến nay, khiến ít nhất 140 người thiệt mạng tại Philippines trước khi đổ bộ vào Việt Nam.

Getty Images

#BBCNewsTiengViet #baoso13 #Kalmaegi #thientai


 

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

13/11/2010

  • Nguyễn Hoàng

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

Trong Thay Lời Tựa cho cuốn Hơn Nửa Đời Hư, in năm 1992, ông Vương Hồng Sển cho biết ông có tánh ham mê đọc sách từ nhỏ. Ông gọi “sách là bạn cố tri trung thành”, ông coi cuốn sách là của riêng, “y như vợ nhà, và nếu thuở nay không đời nào ai cho mượn vợ, thì xin các bạn hiểu giùm vì sao tôi ít cho mượn sách.” Bởi vì chính ông, ông cũng không bao giờ mượn sách của ai, lý do theo ông, sách mượn phải đọc hối hả để mau trả, mà đọc hối hả thì mất thú. Khi nào lựa được một cuốn sách hay thì giá nào ông cũng phải mua cho bằng được. Ông viết: “Khi đọc và lúc cao hứng, tôi thường ghi lại bên lề trang sách những cảm tưởng nhứt thời, không khác được tỉ tê tâm sự với một bạn cố giao bằng xương bằng thịt.”

Về cách đọc sách, ông cho biết ông đọc chậm rãi, không tiếc thì giờ bỏ ra cho việc đọc sách. Nhưng cũng có khi ông đọc “ngấu nghiến còn hơn bồ câu ra ràng nuốt mồi không kịp đút,… y như chó gặm xương, như mèo mới sanh được mẹ nhường mồi dạy ăn, vừa ngừ nghè sợ mất mồi, vừa gầm gừ tiếng rên nho nhỏ vì khoái trá và vì sợ miếng ngon chóng hết hoặc anh chị nào đồng lứa sắp giựt phỏng trong mồm.” Ông viết “cũng vì tật ham đọc sách hay, đọc quên ăn, quên ngủ, thậm chí có khi quên cả phận sự buồng the, cho nên chỉ tồn đã hai phen bị giựt vợ, bị cắm sừng mà không tởn.” [Sđd. Tr 7]

Ông Vương Hồng Sển có thú chơi sách đặc biệt. Mỗi khi có một cuốn sách mới xuất bản mà ông quan tâm, ông luôn luôn mua 2 cuốn. Ông đánh số và ghi vào sổ bộ hẳn hoi, theo cách thức của thư viện, để dễ tra cứu. Một cuốn để lưu trữ, trưng bày trong hàng chục tủ sách đặc biệt có cửa kính, để giữ cho cuốn sách luôn mới. Còn cuốn thứ hai thì ông dùng để đọc. Mọi người thường ngồi ghế hoặc nằm trên giường, trên ghế trường kỷ, ghế sô-pha để đọc sách. Riêng ông Vương có thói quen nằm võng đọc sách. Ông nói, vừa đu đưa chiếc võng, vừa đọc sách, vừa nghiền ngẫm, ông cảm thấy là rất thú vị.

Ông Vương lưu trữ gần đủ các ấn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du, in ở trong nước và ở nước ngoài, kể cả các bản dịch ra tiếng ngoại quốc. Cuốn Thú Chơi Sách của ông xuất bản năm 1962 liệt kê có tất cả 26 ấn bản Truyện Kiều đang được lưu trữ tại “thư viện” của ông vào năm đó.

Ông có thói quen đánh máy các bản thảo với cái máy chữ cũ kỹ sắm hồi thời Tây. Ông ít khi viết nháp bằng tay.

*****

Có thể nói, ngoài việc mê sách, chơi sách, ông Vương Hồng Sển còn là người chịu khó sưu tập những bài báo và các tài liệu liên quan đến những nhân vật đã nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà ông quan tâm. Ông mở một hồ sơ cá nhân cho mỗi người. Khi cần tiểu sử, thành tích và sự nghiệp của một người nào đó thì ông có tài liệu ngay tại nhà. Từ nhiều năm, ông sưu tầm và thâu thập những phương ngữ Miền Nam, mỗi từ ghi chép vào một phiếu cứng, xếp theo thứ tự ABC. Nhờ vậy mà khi ông qu‎yết định biên soạn cuốn Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam thì công trình của ông xem gần như hoàn tất.

Trong cuốn Hơn Nửa Đời Hư, ông Vương thổ lộ đời của ông, cái gì cũng cũ, cũng vá víu, cũng tạm bợ: nhà, thì mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, nhưng ở cho đến nay; vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp. Về sách vở, đĩa hát và đồ cổ, … thì càng đúng hơn. Ông viết:

“Đồ cổ, xem lại hết sức chung tình với tôi. …. Mua tháng này một cái dĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười họa, gặp, mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ: dầm, bàn, tống, tốt. Dầm: dĩa nhỏ; bàn: dĩa lớn; tống: chén lớn để dầm trà; tốt hay quân: chén để uống trà. Duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu…

Còn sách, những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng “liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ “cho phép để trong nhà”, xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thế thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.

Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp củm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quí, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gã chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm mùi tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ…”* [sđd, tr. 655-656]

Tôi thích sự thành thật của ông Vương. Nó cho thấy đời ông gắn liền với những gì xưa, cũ và «bất hợp lệ…”.

Trong cuốn Sài Gòn Tạp Pín Lù, ông Vương viết: “…Sài Gòn Năm Xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt ‘khảo cứu’ chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài Gòn Năm Xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm.” (Biểu viết lại, nhưng biết sống bao lâu mà làm?) – (Sđd tr. 95).

Thật ra, ai đọc những trang sách của ông Vương – bất cứ cuốn nào, chứ chẳng riêng gì cuốn Sài Gòn Năm Xưa – đều thấy ông Vương đúng là người viết “không khoa học, không trật tự, và thường lập đi lập lại”,…. Trong mục Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình (sđd tr. 94), ông Vương biện minh rằng bản tánh ông xưa nay “không gò gẫm, không ‘hành văn’ và chỉ viết như nói thôi. »

Nói là tự nhận lỗi, nhưng thật ra là ông Vương tự biện minh. Và rõ ràng, càng biện minh ông càng cho thấy ông coi thường người đọc khi ông viết: «Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe, và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng ‘cố tình không muốn tránh’.”

Sự khiêm tốn của ông Vương có một, nhưng lòng kiêu căng của ông có tới mười. Trước 1975, tôi có đôi lần gặp ông Vương. Và mặc dù không thích cách viết của ông, tôi vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng ông. Tôi không thích cách viết của ông: dài dòng, lê thê, đầy tĩnh từ và lập lời lập ý như một bà già khó tính khi dạy dỗ la rầy con cháu! Tôi thường bỏ giữa chừng những trang sách của ông. Tôi nghĩ, – và có lúc đã nói với anh Trần Phong Giao là nếu ông Vương cho phép tôi biên tập những cuốn sách của ông – ví dụ cuốn Sài Gòn Năm Xưa, 330 tr., tôi có thể viết gọn lại chừng 200 tr. mà không sợ phản bội tác giả. Trần Phong Giao đồng ý, nhưng anh nói, cậu không nên đụng vào ông ấy, đến như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bảo hãy đứng xa ông Vương ra một bước! Liệu cái thần hồn cậu! Tôi kể lại chuyện này chỉ muốn nói một điều, người đọc sách Sài Gòn dù trân trọng kiến thức [về hiểu biết của một “người chơi cổ ngoạn”] của họ Vương, vẫn nhận ra tính chất thiếu khoa học, vô trật tự và sự lập đi lập lại nhiều lời với chỉ một ý… của ông, chứ không cần phải chờ đến sau tháng Tư 1975, “Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng…” mới nhận ra điều ấy nơi ông.

Ông không thể coi thường những người đọc sách ông trong nửa miền Nam của đất nước trước đây. Người đọc yêu mến tài năng “khảo cổ” của ông, quý phục kinh nghiệm trường đời của ông, kính trọng tuổi tác của một bậc lão thành trong làng văn trận bút của ông… nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không nhìn ra sự lê thê, luôm thuộm, rề rà, không trong sáng trong bút pháp của ông. Dù sao, tôi nghĩ, nên đọc những trang sách của ông Vương với một nụ cười.

Hy vọng được nghe nhiều tiếng nói khác của người đọc chúng ta. [NXH]

* Ông Vương Hồng Sển là hậu duệ người Trung Hoa, lưu dân Triều Châu, đến định cư tại Miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 17. Ông sanh tại Sốc Trăng [chữ Sốc Trăng, ông Vương luôn viết có dấu ^] ngày 27 tháng 9 âm lịch, Nhâm Dần (1902), nhưng trên giấy thế vì khai sanh được ghi ngày 4-11-1904. Tên của ông theo tiếng Hán-Việt là Vương Hồng Thịnh. Người Hoa đọc Thịnh là Sển. Trong đơn xin thi thiết lập giấy thế vì khai sanh, gia đình ghi là Vương Hồng Sển.

Năm 1923, ông Vương tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Ra trường, ông làm công chức tại nhiều nơi, Sài Gòn, Sốc Trăng, Cần Thơ. Chức vụ cuối cùng trong đời công chức của ông là quản thủ bảo tàng viện Blanchard de la Brosse (trong khuôn viên Thảo cầm viên Sài Gòn) từ năm 1948 đến 1964.

Ông Vương Hồng Sển từ trần ngày 9-12-1996 tại Sài Gòn, hưởng thọ 92 tuổi, được an táng tại Sốc Trăng.

Ông đã sống gần trọn chiều dài của thế kỷ 20 và là tác giả của một số tác phẩm tiêu biểu:

– Sài Gòn Năm Xưa, in lần đầu 1960 [226 tr.], tái bản năm 1969 [328tr.]
– Thú Chơi Sách, 1960 [167tr.]
– Hồi Ký 50 Năm Mê Hát, 1968 [254tr.]
– Phong Lưu Cũ Mới, 1970 [310 tr.]
– Chuyện Cười Cổ Nhân, 1971 [253 tr.]
– Hiếu Cổ Đặc San, gồm 9 cuốn về đồ sứ men lam Huế, 1970-1972, nhưng chỉ in được có 6 cuốn.
– Hơn Nửa Đời Hư, 1992 [684 tr.]
– Sài gòn Tạp Pín Lù, 1992 [160 tr.]
– Nửa Đời Còn Lại, 1996 [434 tr.]
– Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam, 1994.

https://www.voatiengviet.com/a/sach-cua-vuong-hong-sen-11-13-2010-107813559/916917.html


 

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ cuộc đời và tác phẩm

– Nguyễn & Bạn Hữu

July 10th, 2020

Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long, là một nhà văn miền Nam. Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận định: Trong 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam thời kỳ trước 1975, có ba người gốc Huế: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Người thứ tư gốc Bắc di cư: Trùng Dương. Chỉ có Nguyễn Thị Thụy Vũ là dân Nam bộ rặt. Văn chương của bà cũng đặc sệt chất Nam bộ, từ ngôn phong, từ ngữ sử dụng cho tới lời ăn tiếng nói, tính cách, hành vi của các nhân vật.

Năm 1965 bà lên Sài Gòn dấn thân vào nghiệp viết văn, bên cạnh đó còn kiêm việc dạy tiếng Anh cho những cô gái bán bar hoặc lấy Mỹ.

Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, Thụy Vũ đã xuất bản 10 tác phẩm gồm 3 tập truyện ngắn: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông; và 7 tiểu thuyết: Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu (Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1971), Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.

Sau 1975, Nguyễn Thị Thụy Vũ không thể tiếp tục cầm bút do tác phẩm bị quy là đồi trụy, bà phải bươn chải với những công việc khác để nuôi đàn con, trong đó có một người sống đời thực vật. Bà từng buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê… những công việc mà trước đó không ai hình dung nhà văn nữ này có thể kham được.

Hiện nay đời sống của bà tương đối ổn định khi bà về Bình Phước dựng nhà trên mảnh đất cha mẹ để lại. Ðó là sau khi bà nhận được sự giúp đỡ từ những bạn văn cũ qua bài viết của một bạn văn mô tả cuộc sống lây lất khốn khó của mấy mẹ con, vào đầu thập niên 2000. Bà đang sống với gia đình con trai, là một người tu tại gia chuyên việc hộ niệm, và cùng với họ là cô con gái út ngoài bốn mươi tuổi vẫn sống đời thực vật.

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ

Về cha của các con bà, nhà thơ Tô Thuỳ Yên, bà cho biết: Ổng đi học tập cải tạo. 13 năm ổng đi học tập, tôi có đi thăm ông một lần duy nhứt. Sau đó ổng đi Mỹ với gia đình… (theo NT Kim Cúc)

Về chi tiết này, nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong một bài viết nhan đề “Thụy Vũ: Mỉm cười với nghiệt ngã” ghi nhận: Tôi chợt buột miệng hỏi, rồi lại hối hận đáng lẽ không nên hỏi, về nhà thơ tác giả bài Ta Về, Anh Hùng Tận, chị không một thay đổi sắc mặt hay bất bình, trả lời như chuyện của người khác: ‘Ổng gọi về nhiều lắm nhưng mà không có nói chuyện với tôi, nói chuyện cả giờ với con dâu.’ Tôi nghe tiếng ổng liền nhớ đến biết bao nhiều lần trong truyện ngắn như là tự truyện chị dùng thiệt nhiều lần từ tía sắp nhỏ vừa thương mến vừa xót xa vừa cách phân.

Nhà văn Ðoàn Dự cũng cho biết:

Nói chung, về tình trạng của chị Thụy Vũ hiện nay, chị có 3 người con thì cháu Khôi Hạnh lấy chồng ở Long An, đời sống êm ấm, hạnh phúc nhưng vì đông con nên cũng không giúp gì được cho mẹ. Cháu Khôi Hạo đã có gia đình, có một con trai, trước đây làm nghề nuôi cá cảnh để bán và viết văn theo cái “gien” của bố và mẹ, cũng kiếm được đồng tiền nhưng không hiểu sao tự nhiên cháu đi tu (Phật giáo), để vợ con cho mẹ lo. Còn cháu thứ ba, Khôi Thụy, thì vẫn sống đời sống thực vật, u mơ không biết gì hết như cũ. Năm nay chị Thụy Vũ đã 78 tuổi, tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào mấy con cá kiểng do vị “tu sĩ Phật giáo” truyền lại cho mẹ và mỗi tháng 100 đô-la do cháu Ðinh Quỳnh Giao, bác sĩ bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy Yên gửi về giúp đỡ. Cháu Ðinh Quỳnh Giao rất thương xót đứa em cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khôi Thụy đang nằm liệt giường. (Trích theo Phan Nguyên)

Một điều an ủi cho Nguyễn Thị Thụy Vũ là những sách của bà (10 cuốn) đã được nhà Phương Nam tái bản: Tất cả đều là sách đã in tại Sài Gòn trước 1975, đây có thể xem là toàn bộ sự nghiệp văn chương của bà, đã được Công ty Sách Phương Nam mua tác quyền: Lao vào lửa, Khung rêu, Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang, Mèo đêm, Chiều mênh mông, Chiều xuống êm đềm, Như thiên đường lạnh, Ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên…

Ðược hỏi bà cảm thấy thế nào khi tất cả tác phẩm trước năm 75 đều đã được tái bản. Nguyễn Thị Thụy Vũ thành thật trả lời: “Tôi rất vui. Sách in đẹp, tất cả lỗi chính tả đều được sửa rất kỹ. Tôi thấy mình thật may mắn khi nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều bè bạn, cả bạn cũ và bạn mới. Tôi xin cảm ơn cuộc đời và bè bạn…”

Tất nhiên là chúng ta cùng chia sẻ niềm vui với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhân đây cũng xin trình bày rõ thêm về những nỗi vất vả và khổ đau vô cùng tận cùng những may mắn dù có hơi trễ muộn trong đời nhà văn.

Thụy Vũ tâm sự với nhà báo Ngô Thị Kim Cúc:

“Cuộc sống sau ‘giải phóng’ vô cùng khó khăn. Tui một mình nuôi bầy con nheo nhóc, có đứa bị thiểu năng nằm một chỗ. Tui phải để nó cho mấy đứa lớn cho ăn, chăm sóc còn mình thì đi làm thuê bán vé xe bus cho một người bạn.

“Xe chạy tuyến Thủ Ðức – Sài Gòn, từ sáng đến tối mịt mới về nhà. Về đến nhà thấy con cái đứa thì nằm ngủ trên vũng nước đái, đứa lêu lổng đi chơi không cho em ăn… nhìn cái cảnh đó tui muốn chết đi cho rồi. Khó khăn quá, năm 1980 tui bồng bế tụi nhỏ về Bình Phước nương nhờ má cho đến bây giờ,” bà kể.

Xưa tui bỏ nó ở nhà đi làm báo, nó bị té, ảnh hưởng não nên nằm một chỗ đến giờ, vậy mà giờ nó nuôi tui bằng tiền từ thiện bạn bè, các nhà hảo tâm thương tình giúp đỡ…”

Làm nhiều nghề kiếm sống nuôi con, từ chăn dê, buôn bán, trồng tiêu… cây bút nữ dấn thân nhất của văn đàn miền Nam trước 1975 đã không còn viết gì nữa kể từ sau “giải phóng”. Bà kể: “Ổng (tức, Tô Thùy Yên) thì theo gia đình vợ con ổng đi sang Mỹ, có đời sống riêng. Tui làm đủ nghề lo cho con.

“Ba đứa con tui cũng thành nhân, yên bề gia thất. Có một thằng làm thơ, người ta nói nó có chịu ảnh hưởng của cha nó. Nhưng mấy con tui, đứa nào cũng nghèo, chẳng giúp gì được mình. Tui sống nhờ đứa con bị tàn tật.

Người mô tả về xã hội bên lề Sài Gòn khốc liệt một thuở lại cũng chính là người chịu đựng những hệ lụy mà chiến tranh để lại.

Trở lại văn đàn trong nước sau gần nửa thế kỷ, trong bối cảnh sách vở văn chương đang ở vào một giai đoạn hỗn loạn và phân hóa mạnh mẽ, thì tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ minh chứng rằng, những gì là chân giá trị sẽ không bị phủ lấp dưới bụi thời gian và những định kiến.

Xin được cảm thông với bao nỗi đời nghiệt ngã của nhà văn và mừng bà bước vào giai đoạn gọi là yên vui của cuộc đời. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ chắc chắn sẽ còn sáng mãi với thời gian.

NGUYỄN & BẠN HỮU – tổng hợp


 

Nữ ‘đại gia,’ vợ ca sĩ nổi tiếng, lừa đảo 26,000 người, thu hơn $346 triệu

Ba’o Nguoi-Viet

November 4, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Nữ tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam ở Hà Nội, được biết đến là vợ của một nam ca sĩ nổi tiếng, bị cáo buộc lừa gạt hàng chục ngàn người để chiếm đoạt hàng trăm triệu đô la.

Theo báo Tuổi Trẻ hôm 4 Tháng Mười Một, sau tám tháng điều tra bổ sung, Viện Kiểm Sát Thành Phố Hà Nội đã truy tố bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam (Nhật Nam Group), cùng các đồng phạm về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “rửa tiền.”

Bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Công ty bất động sản Nhật Nam. (Hình: VnExpress)

Bị can Vũ Thị Thúy, 44 tuổi, quê Thanh Hóa, được biết đến là vợ của ông Phạm Khánh Phương, tức ca sĩ Khánh Phương.

Theo cáo trạng, Nhật Nam Group thành lập Tháng Bảy, 2019.

Để “lùa gà” (từ ngữ để chỉ hành động dụ dỗ), bị can Thúy đã sử dụng các thủ đoạn gian dối như đưa ra thông tin quảng cáo trên các trang mạng truyền thông, mời những người có uy tín, địa vị xã hội để giới thiệu, quảng bá về việc Nhật Nam Group đầu tư mua nhiều bất động sản, nhà hàng, khách sạn có giá trị lớn trải dài từ Hà Nội, Thanh Hóa, Đắk Lắk đến Tây Ninh, Phú Quốc… “kinh doanh có hiệu quả” và cam kết phân chia lợi nhuận (cả tiền gốc, lãi) theo ngày với mức 7%-8%/tháng, lợi nhuận thu về sau hai năm 168%-192% giá trị hợp đồng.

Tuy nhiên, thực tế Nhật Nam Group đầu tư bất động sản nhưng không có lãi, hoạt động nhà hàng, khách sạn… thì thua lỗ dẫn đến đóng cửa.

Cơ quan điều tra cáo buộc, từ Tháng Bảy, 2019 đến Tháng Sáu, 2023, bị cáo Thúy đã lừa gạt 25,925 người, ký 43,314 hợp đồng hợp tác kinh doanh với Nhật Nam Group, thu hơn 9,113 tỷ đồng ($346.2 triệu).

Bị can Thúy sử dụng gần 4,300 tỷ đồng ($163.4 triệu) để trả tiền gốc, lãi cho chính các nhà đầu tư. Số tiền còn lại hơn 4,800 tỷ đồng ($182.4 triệu) đã bị bà ta chiếm đoạt sử dụng cá nhân, đến nay không còn khả năng chi trả.

Nhiều nhà đầu tư sau đó thấy dấu hiệu bị lừa đảo nên đòi tiền, đòi chất vấn. Một số người đã làm đơn tố cáo bà giám đốc với cơ quan công an.

Trước đó, bị can Thúy cũng đã từng có một tiền án về tội lừa đảo.

Sau khi điều tra, hôm 31 Tháng Tám, 2023, Phòng Cảnh Sát Kinh Tế Công An Hà Nội đã bắt giữ bị can Vũ Thị Thúy với cáo buộc “cung cấp thông tin đầu tư sai sự thật về bất động sản để lừa đảo chiếm đoạt số tiền “đặc biệt lớn.”

Ca sĩ Khánh Phương và vợ – bị can Vũ Thị Thúy. (Hình: Dân Trí)

Ngoài ra, bị can Thúy bị xác định đã chỉ đạo các nhân viên kế toán thực hiện việc rút tiền, chuyển tiền ra khỏi tài khoản của Nhật Nam Group rồi chuyển tiền vào các tài khoản cá nhân để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp do phạm tội mà có.

Từ đó, bị can Thúy sử dụng 120 tỷ đồng ($4.5 triệu) và nhờ người khác ký hợp đồng mua bất động sản, đầu tư mua cổ phiếu. Đây là hành vi khiến bà này bị Viện Kiểm Sát truy tố thêm tội “rửa tiền.”

Liên quan vụ án, trả lời công luận sau khi vợ bị bắt, ca sĩ Khánh Phương nói mình cũng là một nhà đầu tư tại Nhật Nam Group và “cũng thiệt thòi, mất mát giống như nhiều nhà đầu tư khác, thậm chí… mất nhiều hơn.” (Tr.N) [kn]


 

Nó vừa chính thức đóng cửa quán ….

Chuyện tuổi Xế Chiều

Tối qua, tôi với thằng bạn ngồi lì trong quán, nhìn nó cúi mặt mà thấy nghẹn.

Nó vừa chính thức đóng cửa quán, sau hơn hai năm cố gắng gồng gánh. Không phải vì hết vốn, mà là hết sức, hết niềm tin, hết chịu nổi.

  1. KHÔNG CÒN KHÁCH.

Cái đau đầu tiên và rõ nhất. Ngày xưa, quán lúc nào cũng có tiếng cười, mùi cà phê thơm, khách quen ghé chuyện trò.

Giờ mở cửa ra, là cảnh bàn ghế trống, ly cà phê nguội ngắt, mà đồng hồ điện thì vẫn quay, hóa đơn vẫn tới.

Mỗi đêm, nhìn ánh đèn quán hắt ra con đường vắng, nó bảo: “Tao thấy như tiền mình đang chảy theo nước cống vậy đó bro.”

Mấy tháng đầu nó còn cười, còn tự trấn an “rồi sẽ khá hơn”. Nhưng lâu dần, tiếng cười cũng tắt. Không phải vì hết tiền, mà vì hết động lực.

  1. THUẾ – CÁI ÁP LỰC KHÔNG NHÌN THẤY.

Nó nói, “thuế giống như cái dây thòng lọng, siết từ từ, không đau liền nhưng nghẹt thở.” Làm thì phải đóng, không ai trốn được. Nhưng vấn đề là, mấy cái chi phí phát sinh, thuế nọ thuế kia, cứ tăng dần mà không ai báo trước. Làm hoài, làm mãi, cuối cùng thấy mình chỉ là cái công cụ để nộp thuế.

Mệt mỏi nhất là cái cảm giác, dù có cố gắng cỡ nào, vẫn không thoát nổi.

  1. TIỀN THUÊ MẶT BẰNG – CÁI DÂY CÓ GAI.

Giá thuê giờ cao hơn cả lợi nhuận. Chủ nhà thì cứ nghĩ người thuê giàu lắm, có tiền mở quán là có tiền trả. Nhưng họ đâu biết, bên trong đó là cả đống nợ, là nước mắt, là áp lực gia đình. Nó nói, mỗi lần chủ nhà nhắn “tới hạn rồi nha”, là tim nó đập loạn, người run. Bán không đủ, vẫn phải trả, mà nếu không trả – bị khóa cửa, mất luôn cả vốn liếng, uy tín.

“Tao làm, không phải để sống, mà để tồn tại. Mà tồn tại kiểu này thì khác gì bị bóp cổ từng ngày.”

  1. NỖI ĐAU KHÔNG AI NHÌN THẤY.

Không ai thấy những đêm nó thức đến 2–3 giờ sáng, ngồi cộng sổ, gạch chi phí, vừa tính vừa rớt nước mắt.

Không ai thấy cảnh nó giấu vợ, giấu con, nói “ổn lắm”, trong khi ví không còn nổi 100 ngàn

Không ai thấy cảnh nó ngồi ngoài hiên, nhìn bảng hiệu quán mình dựng bằng cả giấc mơ bây giờ phải tháo xuống, từng chữ, từng ký ức…


 

Nguyễn Ánh hay Hồ Chí Minh: Ai là người “bán nước”, ai là người “cõng rắn cắn gà nhà”?

Ba’o Tieng Dan

31/10/2025

Trương Nhân Tuấn

31-10-2025

Sử gia CSVN lên án Nguyễn Ánh “bán nước”, bằng chứng là Hiệp ước Versailles 1787 và vụ cắt đất Trấn Ninh. Hiệp ước Versailles Nguyễn Ánh hứa nhượng Đà Nẵng và đảo Côn sơn cho Pháp. Đất Trấn Ninh, sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh cắt Trấn Ninh để ban thưởng cho vua Ai Lao đã có công giúp Nguyễn Ánh trong chuyện dẹp Tây Sơn.

Thực tế là gì?

Hiệp ước Versailles 1787 không được thi hành. Quan chức Pháp thấy là “không có lợi Pháp”, do đó khước từ. Tức là hiệp ước đơn thuần “vô giá trị”. Nguyễn Ánh không có nhượng “cục đất” nào cho Pháp cả.

Còn đất Trấn Ninh bị Pháp sáp nhập vào Ai Lao để dựng lên nước Lào. Điều không thấy ai nói là sau đó Pháp tách ra từ Lào (và Cambodge) vùng đất rộng lớn, gồm cao nguyên trung phần (bao gồm Darlac, Đà Lạt, Kon Tum v.v..) để sáp nhập vô Việt Nam, để “đền bù” cho Việt Nam vụ Trấn Ninh. Vụ này tôi có viết hôm trước.

Sử gia CSVN phê phán Nguyễn Ánh dựa trên “ý định nhượng đất cho Pháp”.

Vấn đề là việc phê phán của họ không dựa trên tinh thần khách quan, khoa học, mà lại dựa theo ý kiến của ông Hồ Chí Minh trong một “bài vè”, tựa đề “Lịch sử nước ta”. Trong bài có các câu:

“Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi giầy mả, thiệt là ngu si…”

Đâu phải cái gì ông Hồ nói, hay làm cái gì thì những cái đó đều đúng hết đâu!

Ông Hồ bị sử gia Tây phương xếp chung “một giỏ” với những “đồ tể cộng sản” như Mao Trạch Đông, Pol Pot… Họ Mao trách nhiệm về cái chết của hàng trăm triệu người Hoa. Pol Pot trách nhiệm “diệt chủng” 1/4 dân Cambodge. Ông Hồ chỉ giết sơ sơ có 4 triệu người Việt mà thôi.

Thực tế cho thấy những gì mà ông Hồ nói về Gia Long đều là “vu khống”, vì không có bằng chứng.

Nguyễn Ánh có “rước Tây vào nhà không?”

Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, sau đó chiếm Bắc kỳ, vì nhiều lý do mà không có lý do nào cho thấy có yếu tố “Nhà Nguyễn rước Tây vô nhà” hết cả.

Pháp chiếm Việt Nam “bằng vũ lực”. Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ bằng vũ lực. Pháp chiếm Hà nội bằng vũ lực. Pháp đánh quân Thanh để “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước An Nam” bằng vũ lực. Cuộc chiến tranh với nhà Thanh khiến Pháp thiệt hại nặng nề. Chuyện này tôi cũng nói rồi.

Tôi có thể kết luận rằng ông tổ ngành “sử phịa” của Việt Nam là ông Hồ!

Giả sử rằng nhà Tây Sơn không bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Liệu nhà Tây Sơn có giúp Việt Nam giữ được “độc lập” hay không?

Theo tôi là không! Càng “cương” thì càng chết nhiều.

Cùng thời kỳ, những đế quốc sừng sỏ nhứt, từ Ấn Độ cho tới Trung Hoa, tất cả đều bị thực dân chiếm đóng làm thuộc địa. Trung Hoa bị các đại cường “phân liệt” thê thảm hơn hết. Vì đế quốc này giàu quá. Đây là thời kỳ “trăm năm nhục nhã” của đất nước Trung Hoa. Tất cả các nước trong khu vực, không ngoại lệ, từ Ấn Độ trải dài qua tới Trung Hoa, đều trở thành thuộc địa của nước ngoài.

Ngoại trừ Nhật, nước này thấy coi bộ “chống không lại” nên “thua trước cho cao cờ”. Bèn mở cửa cho nước ngoài (Mỹ) vào buôn bán. Mục đích của Mỹ, cũng như các đế quốc khác, là tìm một chỗ trú chân, trước để buôn bán, sau là nơi dưỡng quân. Mục đích của các đế quốc là “xẻ thịt” con heo mâp ú là Trung Hoa.

Việt Nam đã có thể trở thành một nước Nhật, nếu Hiệp ước Versailles 1787 được Pháp thi hành. Việt Nam được một đại cường hải quân bảo vệ, qua một hiệp ước “an ninh hỗ tương”, không khác gì các hiệp ước an ninh giữa Mỹ và các đồng minh NATO hay Nhật, Hàn, Phi… Nước nào lại không cắt đất cho Mỹ đóng quân? Nước nào không trả tiền để được Mỹ bảo vệ? Vụ này tôi cũng đã nói rồi.

***

Không có một bằng chứng nào cho thấy nhà Nguyễn “cõng rắn cắn gà nhà”. Nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy ông Hồ và các hậu duệ cộng sản của ông đích thị là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy ông Hồ và hậu duệ đã “bán nước có văn bản”.

Biết bao nhiêu tài liệu từ nguồn Trung quốc, từ Mỹ, trong các thư viện các nước Tây phương… từ nhiều thập niên trước, đã cho ta thấy vai trò của Trung quốc trong cuộc kháng chiến gọi là “đánh Pháp giành độc lập”.

Khởi đầu phải tính từ cột mốc tháng 8 năm 1945: Thời điểm Nhật đầu hàng Đồng minh. Sử sách CSVN khoe khoang là “Việt Minh đã thành công đánh pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh để cướp chính quyền“.

Sự thật là sau khi quân Đồng minh vào Việt Nam để giải giới quân Nhật, miền Bắc được ủy nhiệm cho quân Trung Hoa Dân quốc và miền Nam cho quân Anh. Quân Trung Hoa vô tới đâu là tước vũ khí của Việt Minh tới đó, rồi giao chính quyền địa phương cho quân Việt Quốc. Miền Nam thì Anh “trả chủ quyền của An Nam” lại cho Pháp. Tức là không có vụ “đánh Pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh” mà chỉ có vụ Việt Minh “chạy có cờ”.

Nhờ thuật “bôi trơn” (truyền lại cho tới ngày nay) ông Hồ được Trung Hoa ủng hộ, ép Pháp ký Hiệp ước sơ bộ. Vấn đề là khi ký nhận, ông Hồ nhìn nhận “nước của ông Hồ” thực tế chỉ là một “tiểu bang tự do” trong “liên bang Đông dương thuộc Pháp”. Tức là cái “chính danh” của ngày 2-9-1945 rốt cục chỉ là “làm tay sai” lại cho Pháp mà thôi!!! Vụ này ông Bảo Đại có phê bình như vầy: “Để sửa sai ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu“.

Rõ ràng y chang như vậy: Ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu.

Sau năm 1949, nhờ sự trợ giúp về quân sự lẫn nhân sự từ cộng sản Tàu, lực lượng ông Hồ ngày càng mạnh, trên vùng biên giới. Trận Điện Biên Phủ năm 1954, quân ông Hồ thắng quân Pháp hay là quân Tàu thắng quân Pháp?

Bàn cãi vụ này tới chiều chưa hết. Để biết ai thắng, ta nên quy chiếu về Hiệp định Genève 1954. Bên nào chủ động trong bàn Hội nghị Genève? Xin thưa một bên là Pháp (dĩ nhiên), bên kia là Trung Cộng. Châu Ân Lai đóng vai chánh, Phạm Văn Đồng ngồi cho có. Kết quả phân chia Việt Nam ở vĩ tuyến 17, là quyết định của họ Châu.

Tới đây tạm đặt một dấu chấm để nói về “quyền dân tộc tự quyết”, là nền tảng của tính “chính danh” trong cuộc “đánh Pháp giành độc lập” của phe Cộng sản Việt Nam.

Làm gì có chuyện “tự quyết”, bởi vì sau lưng ông Hồ có Trung Cộng ủng hộ, từ cây súng, viên đạn, hột gạo… Trên mặt trận thì cố vấn Tàu Cộng chỉ vẽ đánh thế nào, đánh ở đâu v.v… Trên bàn hội nghị thì có Châu Ân Lai thương nghị với Pháp. Tức là Trung Cộng thủ vai chánh, “quyết” mọi thứ với địch thủ là Pháp.

Trong khi Việt Nam đã được Pháp trả độc lập trước đó 5 năm rồi, qua Hiệp ước Elysée 1949.

Việt Nam đã độc lập rồi, năm 1951 nước Việt Nam này tham dự Hội nghị San Francisco 1951, với tư cách là “quốc gia độc lập có chủ quyền, có tuyên bố chiến tranh với Nhật“. Việt Nam là khách mời của Mỹ.

Chuyện “đánh Pháp giành độc lập” của ông Hồ thực tế chỉ là chuyện “thọc gậy bánh xe” của Trung Cộng. Mao Trạch Đông không muốn có một Việt Nam thân tư bản ở sát nách nước mình.

Cho đến năm 1958, ông Hồ và chính phủ ký công hàm 1958, trong đó tôn trọng và thực thi mọi yêu sách về lãnh hải 12 hải lý, trên những vùng lãnh thổ của Trung quốc. Vấn đề là yêu sách của Trung Quốc bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Công hàm Phạm Văn Đồng ký năm 1958. Ảnh trên mạng

Quan điểm của nhà nước CSVN đối với công hàm này là gì?

Đó là nhà nước CSVN chỉ nhìn nhận lãnh hai 12 hải lý mà thôi. Không có chuyện gì khác nữa.

Theo tôi đây là lập luận ngu xuẩn nhứt trong những lập luận ngu xuẩn khác của CSVN về chủ quyền biển đảo.

Khi công nhận hiệu lực 12 hải lý thì nhà nước CSVN đã mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực của công hàm 1958.

Mọi bàn luận khác của học giả CSVN chung quanh chuyện này để phủ nhận công hàm 1958 trở thành chuyện hài.

Vấn đề là khi nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958 rồi, thì công hàm này phải được rọi dưới luật pháp quốc tế.

Chiếu luật quốc tế về “hiệu lực các tuyên bố đơn phương”. Không cần giải thích dông dài. Khi Việt Nam đã nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958. Việt Nam đã mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Chiếu Luật quốc tế về Biển 1982, Việt Nam nhìn nhận hiệu lực công hàm thì Trung Quốc có quyền yêu sách hải phận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa lên tới 200 hải lý.

Ngưng chuyện Hoàng Sa và Trường Sa ở đây.

Là gì? Là đích thị ông Hồ và hậu duệ ông Hồ đã chủ trương “bán nước”. Bán nước có văn tự hẳn hoi.

Học giả CSVN nghe ông Hồ dựng chuyện về Nguyễn Ánh rồi cả đàn hùa nhau “lật sử”, buộc Nguyễn Ánh về tội “bán nước”.

Ai bán nước có văn tự, Gia Long hay ông Hồ?

Cho tới cuộc chiến 54-75, có tới trên 300 ngàn quân Trung Cộng có mặt tại Việt Nam, giúp CSVN trong suốt cuộc chiến tranh “đánh Mỹ cứu nước”.

Theo luật quốc tế về việc thực thi quyền “dân tộc tự quyết”, khi một dân tộc gọi là “bị áp bức” nhờ tay một thế lực ngoại bang giúp đỡ để chống lại thế lực áp bức, quyền tự quyết của dân tộc này đã tiêu vong. Ta thấy quân Palestine khi chống Do thái, với danh nghĩa là sử dụng “quyền dân tộc tự quyết”, ta thấy có người ngoài nào trong hàng ngũ của họ hay không?

Tức là khi CSVN vịn vào quyền “dân tộc tự quyết” để “đánh Mỹ, giải phóng miền nam” mà trong hàng ngũ của họ lại có mặt 30 sư đoàn quân Tàu Cộng, thì CSVN không còn chánh nghĩa nào nữa cả.

Ngay cả khi quân Tàu chỉ đóng ở ngoài Bắc, thì theo luật và tập quán quốc tế, Trung Cộng vẫn là “một bên” can dự vào chiến tranh Việt Nam. Đây là lý do mà các nước EU không gởi quân giúp Ukraine tự vệ đánh lại Nga, ngay cả khi đạo quân này chỉ ở hậu phương không chạm súng với Nga.

Tức là gì?

Là không có chuyện “giải phóng miền Nam” mà chỉ có chuyện “xâm lược miền Nam”. Khi quyền tự quyết đã tiêu vong thì danh nghĩa “giải phóng” cũng thành mây khói.

Rốt cục lại, Gia Long hay Hồ Chí Minh, ai là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”?

Rắn Trung Cộng, rắn Liên Xô, rắn Bắc Hàn… có mặt cả đàn theo lời kêu gọi của ông Hồ và đảng CSVN.

Phê phán Gia Long thì phải lập luận theo “hệ quy chiếu thiên mạng”.

Phê phán ông Hồ thì phải quy chiếu theo luật lệ và tập quán quốc tế hiện hành.

Không phải ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN “cõng rắn cắn gà nhà” thì còn ai vô đây?

Có người dân miền Nam nào muốn được mấy ông cộng sản giải phóng? Không có ai hết. Việt Cộng vô tới đâu dân chạy “chết mẹ” tới đó, biết chết trong bụng cá họ vẫn chạy. Ngay cả bây giờ, thà chết trong thùng đông lạnh người Việt Nam vẫn bỏ nước ra đi. Không có bấy nhiêu người muốn ở lại Việt Nam để “xây dựng đất nước” với đảng CSVN hết cả.

Không ai tin vào cộng sản bất cứ một chuyện gì hết cả, huống chi là chuyện lịch sử.


 

Đảo chính 1-11-1963: Đại sự bất thành của bốn đại tá dân ông Tạ

Ba’o Tieng Dan

01/11/2025

Cù Mai Công

1-11-2025

(Ba cái chết thảm, một án tử hình và năm mộ phần ở khu ngoại vi/ phụ cận/environ vùng Ông Tạ. Xin nói rõ: Tôi không phải là người viết sử mà chỉ ghi nhận thông tin từ góc người Ông Tạ. Nhưng lịch sử VNCH chắc chắn sẽ phải viết lại hoàn toàn nếu mưu sự ấy thành công).

Trong một con hẻm trên đường Thánh Mẫu (nay là Bành Văn Trân, Tân Bình cũ, TP.HCM) có một ngôi nhà khá lặng lẽ. Dân trong xóm này gọi bà chủ nhà lịch thiệp, lộ rõ nét sang trọng này là o Khôi. Ít ai biết đó là vợ đại tá VNCH Lê Quang Tung – tư lệnh Lực lượng Đặc biệt VNCH, phụ trách Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ.

O Khôi hay đi bộ đến thăm gia đình đại tá Bùi Dzinh cách nhà o hơn trăm thước, đối diện hồ tắm Cộng Hòa. Phó của ông Tung là đại tá Trần Khắc Kính, nhà khu Bắc Hải – Ông Tạ, con rể cụ lý Sóc trong ngõ Con Mắt – Ông Tạ; cách nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân chừng vài chục mét.

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH

Ông Dzinh, ông Tung cùng Công giáo nhiều đời như gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất ủng hộ ông Diệm. Riêng ông Tung, người tuyệt đối trung thành với ông Diệm; từng được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao. CIA lúc đó xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam, sau anh em ông Diệm và ông Nhu.

Ngày 15.3.1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Kính làm phó.

Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ – như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm.

Rõ ràng phía Mỹ đã “ngửi mùi” một âm mưu đáng sợ từ Lực lượng Đặc biệt mà hai vị tư lệnh và phó tư lệnh là Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính – đều là dân Ông Tạ – đã lên kế hoạch: Một nhóm lính thuộc Lực lượng Đặc biệt mặc đồ thường dân sẽ phóng hỏa đốt Tòa đại sứ Mỹ, ám sát đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của tòa đại sứ.

Và nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.

NGÀY LỄ CÁC THÁNH, CÁC LINH HỒN 1 VÀ 2-11-1963 ĐẪM MÁU

Cả Tổng thống Diệm và ba vị đại tá kia đều là người Công giáo nhiệt thành chắc chắn không bỏ qua việc dự thánh lễ những ngày này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và em trai là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.

Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, có lẽ đã tính toán cả những chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963.

Tuy nhiên, ngày 1-11, trong khi đại tá Kính cùng gia đình chuẩn bị bước vào nhà thờ An Lạc, nơi mà “thằng bé” sau này là nhà thơ Đỗ Trung Quân từng giúp lễ để dự lễ Các thánh thì đại tá Lê Quang Tung lại phải chuẩn bị đến Bộ Tổng tham mưu (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) cách khu An Lạc khoảng cây số – theo yêu cầu của nhóm tướng lĩnh tổ chức cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Trong cuộc gặp này, ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính, bị lôi ra ngoài giết chết. Sau đó, em trai ông Tung là thiếu tá Lê Quang Triệu, tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt vào Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị giết.

Thân xác của hai anh em ông Tung và ông Triệu bị vùi ở đâu đó ở khu vực nghĩa trang Bắc Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình cũ), bên hông Bộ Tổng tham mưu mà tới giờ vẫn chưa tìm thấy.

Một ngày sau khi hai anh em ông Tung – ông Triệu bị thảm sát, ngày 2-11-1963, hai anh em ông Diệm và ông Nhu cũng bị thảm sát đẫm máu.

Điều trùng hợp là thoạt đầu, trước khi dời mộ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay là công viên Lê Văn Tám), hai ông Diệm – Nhu cũng được chôn cất gần nơi hai anh em ông Tung – Triệu bị giết (nghĩa trang Bắc Việt). Cụ thể hai ông Diệm, Nhu ban đầu đã được an táng trong một nghĩa trang trong khuôn viên Bộ Tổng Tham mưu, cạnh mộ Lê Văn Phong, em ruột Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt…

Sáu tháng sau, ngày 22-4-1964, em trai Tổng thống Diệm là ông cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn bị Tòa án Cách mạng tuyên án tử hình. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị hành quyết bằng xử bắn và chôn cất ở nghĩa trang Bắc Việt – xã Tân Sơn Hòa, ngoại vi Ông Tạ, cách mộ hai anh mình vài trăm thước.

Như vậy, ban đầu cả ba anh em ông Diệm – Nhu – Cẩn đều được chôn cất trên phần đất xã Tân Sơn Hòa, sát bên vùng Ông Tạ (trung tâm xã Tân Sơn Hòa).

MỘT ĐẠI TÁ BỊ TUYÊN TỬ HÌNH, MỘT ĐẠI TÁ BỊ SÁT HẠI

Ngày 1-11-1963, hay tin cuộc đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về phản đảo chính.

Nhưng đại tá Nguyễn Hữu Có, thuộc phe đảo chính, đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường – trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền.

Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh, cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm, do Tiểu đoàn 8 Nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.

Ông Dzinh không ngồi yên. Ngày 19-2-1965, ông cũng ra tay: Tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh, do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo.

Cuộc đảo chính thất bại. Ông Dzinh chạy về vùng Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông bà Dần trên đường Thánh Mẫu, sau đó sang Nhà hưu dưỡng các linh mục trong khuôn viên nhà thờ Chí Hòa cách đó vài chục mét. Đại tá Thảo vốn nhà ở khu Bắc Hải – Ông Tạ nên thoạt đầu cũng chạy về vùng Ông Tạ, được nhà báo Thiên Hổ – linh mục Nguyễn Quang Lãm, xứ Nghĩa Hòa che giấu.

Bị lùng sục ráo riết, hai ông chạy sang nơi khác. Ông Dzinh bị tòa án quân sự kết án tử hình khiếm diện với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp” (sau hạ xuống chung thân rồi tha bổng).

Ông Dzinh chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) và bị bắt ở đây. Ông Thảo chạy về Biên Hòa, bị bắt và sát hại ở đây.

… Những ngày đại lễ tam nhật Các thánh ấy đầy oan khiên, máu và nước mắt.


 

Khổ cho dân ta

Lê Vi

 Năm 2010 tui sang Cali chơi. Thông qua người bạn thân, tui quen biết với một người trong giới xã hội liên quan đến cờ bạc, cá độ.

Anh chàng xã hội đó đưa tui và bạn tui từ Cali qua Las Vegas chơi. Bọn tui được ngủ lại trong phòng president của ks 5 sao mấy đêm liền mà không tốn tiền.

Tôi tìm hiểu thì trên đường lái xe về lại Cali, anh chàng xã hội kể: Em là khách VIP của sòng bạc nên được ưu đãi, mỗi năm em mang lợi đến cho họ vài chục triệu đô là bình thường.

Tui hỏi làm sao? Anh ta kể, đại gia, quan chức VN qua Cali chơi đều nhờ em đưa đi Las Vegas, ai đến chơi cũng đều thua sạch, có người mỗi lần chơi thua vài triệu đô là bình thường.

Lúc đó tui không tin lắm.

Nhưng về sau này thì tui rất tin vì biết quan chức và đại gia ở VN kiếm được tiền rất nhiều và rất dễ.

Khổ cho dân ta

– Huỳnh Ngọc Chênh


 

Ở đất nước này, công lý chỉ dành cho kẻ biết nộp tiền!

Tri Nguyen Ông Tám 

Trịnh Văn Quyết, kẻ thao túng thị trường chứng khoán, rút ruột hàng nghìn tỷ của dân, được ân xá chỉ sau vài năm “ngồi chơi xơi nước” trong trại giam sang trọng. Đỗ Hữu Ca, tướng công an tham nhũng cả trăm tỷ, cũng được “khoan hồng” thả ra như chưa từng có chuyện. Trong khi đó, Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải – hai án oan ngút trời, bằng chứng ngoại phạm rõ ràng, nhân chứng sống còn – vẫn bị giam cầm, bị treo lơ lửng án tử như con rối trong tay công lý méo mó. Công lý Việt Nam không bằng một ký lông, đúng hơn là không bằng một đồng xu lẻ! Thả kẻ có tiền, giữ kẻ không tiền – đó là luật rừng, là đạo đức chợ búa, chứ không phải pháp luật!

Công lý ở Việt Nam giờ là vở hài kịch do Đảng Cộng sản đạo diễn, kịch bản đã viết sẵn: ai nộp được mớ tiền “khắc phục hậu quả” thì được tự do, ai không có thì chết trong tù. Thả Quyết ra để lấy lại tiền, thả Ca ra để giữ thể diện nội bộ, nhưng thả Hải ra thì phải đền bù oan sai, phải thừa nhận sai lầm, phải đối diện tai tiếng quốc tế. Thế nên công lý bị liệt, nằm im thin thít, để mặc oan hồn kêu khóc. Xã hội này, kẻ có ngân hàng và bạch kim đầy túi mới là “thằng thắng” – còn dân đen, dù đúng dù sai, chỉ đáng làm nền cho trò hề pháp đình. Công lý đã chết, chỉ còn cái xác được trang điểm bằng khẩu hiệu!

Án oan sai chồng chất trong dân, từ Cà Mau đến Hà Giang, ai cũng biết, ai cũng thấy, nhưng pháp luật thì cố che đậy bằng những phiên tòa dàn dựng, những bản án cắt sẵn. Họ lừa dân, lừa tiền, rồi bắt dân nộp tiền để “khắc phục” – như thể tội lỗi chỉ là món nợ có thể trả bằng tiền mặt. Dân biết hết, dân thấy hết, nhưng tiếng nói bị bóp nghẹt, bằng chứng bị tiêu hủy, nhân chứng bị đe dọa. Công lý không còn là công lý, chỉ là công cụ để bảo vệ kẻ mạnh, trừng phạt kẻ yếu. Đảng Cộng sản đạo diễn, tòa án diễn viên, công an bảo kê – còn dân thì ngồi xem, cười ra nước mắt, vì biết rằng: ở đất nước này, công lý chỉ dành cho kẻ biết nộp tiền!


 

 OAN KHỐC! –  Bùi Chí Vinh

Đặng Nam is with Exile Hoài Thạch Sơn.

Bùi Chí Vinh –

53 người bị chôn sống ở Trà My

Chôn sống khi đang còn mở mắt

Cơn thịnh nộ của núi rừng là một điều có thật

Sạt lở đất kèm theo sạt lở của lòng người!

53 sinh linh vô tội bị chôn vùi

Đừng đổ thừa tại tai trời ách nước

Mà hãy nhìn vào những ngọn núi trọc đầu, những khu rừng tang tóc

Những hệ thống thủy điện dã man tàn phá sạch môi trường!

Không còn gì ngăn cản được thần rừng

Núi đã trọc và rừng đã mất

Thiên nhiên bị hủy diệt màu xanh và bầu trời đã khóc

Bão tố mưa giông đại hồng thủy đã trả lời!

Tội nghiệp lũ lụt miền Trung và tội nghiệp dân tôi

53 người chết và nhiều người sẽ chết

Phải chăng sấm sét điên cuồng giáng xuống thành Thăng Long trong ngày Tết

Là điềm báo đầu tiên về cái chết cụ Kình

Về một năm đầy tà khí u minh!

29-10-2020

Bùi Chí Vinh.

 


 

Mưa chưa từng có, thủy điện xả lũ, miền Trung thành biển nước

Ba’o Nguoi-Viet

October 27, 2025

ĐÀ NẴNG, Việt Nam (NV) – Các đập thủy điện hối hả xả lũ vì “mưa lớn chưa từng có” làm cho nhiều khu vực các tỉnh thành miền Trung như Thừa Thiên , Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam chìm trong biển nước.

Nhiều báo tại Việt Nam đưa tin ngày Thứ Hai 27 Tháng Mười kèm theo các hình ảnh dẫn chứng khổ nạn của người dân địa phương đang phải chịu đựng “nhân tai” phối hợp với thiên tai, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

Trung tâm thành phố Huế bị ngập sâu. (Hình: Đức Hiếu/VNExpress)

Các nguồn tin cho hay ngày 26 Tháng Mười, mưa tầm tã trên diện rộng hai ngày qua trên các khu vực từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi. Thật ra mấy ngày trước đó, mưa lũ đã ập xuống khu vực này từ hệ quả của trận bão số 12, tên quốc tế là Fengshen. Bão khi đi vào gần đến đất liền miền Trung Việt Nam thì suy yếu thành áp thấp nhiệt đới với mưa như trút nước.

Theo thói quen chống chọi bão lũ hàng năm, các đập thủy điện ở khu vực từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi cũng đều mở các cửa xả bớt nước để tránh vỡ đập, giống như các khu vực khác tại các tỉnh miền núi phía bắc. Do vậy, các khu vực hạ du, gồm cả các thành phố lớn như Huế và Đà Nẵng đều biến thành biển nước. Một số cư dân Huế nói rằng lũ về nhanh quá họ không kịp trở tay.

“Lũ đặc biệt lớn trên sông Hương và sông Bồ (Huế) đang lên rất nhanh, có nơi vượt mức lịch sử. Hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn (Đà Nẵng) cũng đang trong giai đoạn lũ lớn; từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi đón đợt lũ mới.” Báo Pháp Luật tường thuật.

Trên hệ thống các sông Hương, sông Bồ ở thượng nguồn của thành phố Huế, hệ thống hai sông Vu Gia và Thu Bồn ở thượng nguồn Đà Nẵng, các đập thủy điện khi hối hả xả lũ thì hạ du thành biển nước mênh mông không thể tránh khỏi. Hiện người ta còn lo chống chọi với cơn đại hồng thủy nên chưa thấy có báo cáo nào cho các thiệt hại người và tài sản, chỉ biết có thể sẽ không nhỏ.

Lũ sông Hương tại Dã Viên đã lên tới 4.59 mét, vượt báo động 3 gần 2 mét, khiến nhiều con đường ở thành phố Huế bị ngập lụt nặng. (Hình: Quang Nhật/Người Lao Động)

Lũ bủa vây tứ bề

Theo báo Tuổi Trẻ hôm 27 Tháng Mười, Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, mưa to, lũ các sông lên nhanh, khiến 88 xã, phường, có nguy cơ ngập sâu khiến đường sắt, đường bộ qua thành phố Huế tê liệt. Người dân muốn di chuyển phải đi thuyền hoặc lội nước.

Bên cạnh đó, hàng trăm ngàn học sinh ở Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Ngãi phải nghỉ học nhiều ngày vì lũ “vượt mức lịch sử.”

Tại Huế, mưa lớn hơn 800mm, nước lũ về nhanh khiến nhiều khu dân cư ven sông Hương, Như Ý, Đông Ba và các tuyến đường trung tâm thành phố Huế bị ngập, nơi sâu nhất tới hơn 1 mét.

Từ tối 26 Tháng Mười, khu vực Đập Đá nằm giữa sông Hương và Như Ý nước dâng cao 0.7 mét, tràn vào nhà dân hai bên sông. Nhiều con đường chính ngập sâu trong nước như Hoàng Lanh, Vũ Thắng, Trường Chinh, Bạch Đằng… có nước chảy xiết đã buộc chính quyền địa phương giăng dây, đặt rào chắn ngăn không cho người dân qua lại từ trưa cùng ngày.

Thậm chí, lũ trên sông Tả Trạch dâng cao, cuốn sập cầu Le No ở xã Khe Tre, chia cắt hàng ngàn gia đình, buộc Ban Chỉ Huy Phòng Thủ Dân Sự Huế phải kích hoạt hệ thống còi hú báo động thiên tai.

Trong khi đó, ở bờ Bắc sông Hương, Lũ trên sông Hương đã vượt quá báo động 3 và đang tiếp tục lên. Nhiều di tích Huế nằm ven con sông này đang bị ngập lụt, chẳng hạn như Nghinh Lương Đình, cầu Cửa Ngăn (cửa Thể Nhân Môn) đường dẫn vào Đại Nội Huế, hay như khu vực cổng Ngọ Môn…

Tương tự, theo báo VNExpress, tối 26 Tháng Mười, nước lũ tại phường Hội An, Đà Nẵng, dâng nhanh. Đến khoảng 0 giờ rạng sáng 27 Tháng Mười, thì nước tràn lên đường Bạch Đằng 1 mét, lan sang đường Nguyễn Phúc Chu bên kia sông Hoài, buộc hàng quán đóng cửa, tắt điện.

Người dân phố cổ đã quen chạy lũ nên nhiều nhà dân và hộ kinh doanh chủ động di chuyển đồ đạc lên cao từ trưa cùng ngày.

Tuy nhiên, đến sáng 27 Tháng Mười, nhiều con đường huyết mạch trong khu phố cổ Hội An như Bạch Đằng, Nguyễn Thái Học, Công Nữ Ngọc Hoa… ngập sâu từ 1-1.5 mét.

Ngoài trung tâm phố cổ, các khu vực vùng ven như chợ cá Thanh Hà và làng gốm Thanh Hà, phường Hội An Tây, cũng bị nước lũ chia cắt hoàn toàn.

Chính quyền phường Hội An đã khuyến cáo người dân hạn chế đi lại trên các đoạn đường ngập sâu để phòng tránh tai nạn chết đuối.

Tại tỉnh Quảng Ngãi, mưa lớn trong hai ngày 26 và 27 Tháng Mười, đã khiến toàn tỉnh có 30 vị trí sạt lở do mưa lũ.

Theo đó, hàng loạt cây cầu nhỏ và cầu tràn bên sông Rin, sông Trà Bồng, sông Vệ, Trà Khúc bị nước lũ tràn qua. Trong đó, chỉ riêng xã Sơn Hạ có bảy điểm ngập, khiến hàng trăm gia đình bị chia cắt.

Ngoài cầu Sông Rin cũ ở xã Sơn Hà ngập 0.7 mét, nhiều khu vực giáp ranh miền núi và đồng bằng Quảng Ngãi cũng ngập nặng. Chẳng hạn, cầu tràn Thạch Nham ngập hơn 1.6 mét, cầu máng Hành Minh-Hành Nhân ngập 0.5 mét, lực lượng hữu trách phải chốt chặn, hướng dẫn giao thông.

Phố cổ Hội An, Đà Nẵng, ngập lũ sáng 27 Tháng Mười. (Hình: Trung Đào/VNExpress)

Hậu quả từ lòng tham thủy điện

Nhà cầm quyền Việt Nam tham lam cho xây dựng các đập thủy điện tràn lan trên các sông lớn đã đành, mà các phụ lưu của chúng cũng đều bị khai thác thủy điện với những cái đập nhỏ bé, khả năng chỉ cung cấp từ 2 MW trở lên. Chúng quá nhỏ nên không có khả năng cắt lũ hay điều tiết lũ, mà chỉ xả lũ ngay khi ở “trên mức báo động” hầu tránh vỡ đập.

Báo Vietnamnet kể rằng mưa lớn, nước đổ về hồ chứa tăng quá nhanh, các đập thủy điện Tả Trạch, Sông Tranh, Trà My, Đắk Mi, Trà Đơn, Sông Bung, A Vương… phải “xả tràn” để “đảm bảo an toàn công trình.”

Thủy điện tránh được vỡ đập thì phố xá, nhà cửa, ruộng vườn các khu vực hạ du lãnh hậu quả ngập lụt.

Bão số 10 (Bualoi) làm cho 51 người chết và hơn $600 triệu thiệt hại ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Bắc miền Trung khoảng 350 nhà sập hay bị lũ cuốn trôi trong khi 170,000 nhà hư hỏng. Còn bão số 11 cũng làm ít nhất 13 người chết, chưa kể các thiệt hại tài sản ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.

Tất cả đều từ hậu quả của “nhân tai” phối hợp với thiên tai gây ra. Gần chục năm trước, người ta thấy một số lời kêu gọi dẹp bỏ các thủy điện quá nhỏ vì những thiệt hại do chúng gây ra quá lớn trong khi lợi ích điện năng lại quá nhỏ. Nhưng những lời kêu gọi đó đều bị gác bỏ ngoài tai. Trong khi đó, tuy là kẻ gây thiệt hại người và tài sản nhưng dân lại phải chịu đựng hệ quả chứ không phải thủ phạm “nhân tai.”

Thủy điện Đăk Mi 4 xả lũ vào năm 2020. Hình: Đắc Thành/VnExpress)

Hệ thống sông Vu Gia-Thu Bồn ở Quảng Nam dài khoảng 200km phải gánh hơn 60 đập thủy điện lớn nhỏ. Dân chúng khu vực này từng bị thiệt hại nặng nề vì thủy điện xả lũ suốt bao năm qua cả người lẫn tài sản.

Theo dự báo của Đài Khí Tượng Thủy Văn Trung Bộ, do tác động của không khí lạnh, dải hội tụ nhiệt đới và gió Đông, từ tối 26 đến 29 Tháng Mười, từ Huế đến Quảng Ngãi tiếp tục mưa rất to có nơi vượt 500-600 mm.

Các sông ở khu vực này sẽ xuất hiện một đợt lũ, đỉnh lũ có thể lên trên báo động 3, lập “mốc lịch sử đỉnh lũ mới.” (NTB&Tr.N) [kn]