Thân bất lao tù , chí bất cao

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Cùng cầu bình an cho các TNLT/VN đang bị đày đọa trong chốn lao tù CS, trong đó có  TNLT cô Phạm Đoan Trang, được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới RSF kêu gọi trả tự do trong chiến dịch ưu tiên năm 2025.

***

“ Đời không cát bụi , đời không sạch

Thân bất lao tù , chí bất cao “ .

Tù không có gì phải sợ , chỉ sợ trong cuộc dạo chơi cõi nhân gian này không làm được gì cống hiến cho nhân thế.

Không ai muốn sống trong tù ( dù chỉ một ngày ) nhưng nếu cần cho một đất nước hồi sinh và thịnh vượng thì tù cả đời cũng không đáng sợ.

(PVT)

Hội nghị Trung ương 15, cuộc chơi của những kẻ tiếm quyền-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 15, 2025

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng Cộng sản Việt Nam đang diễn ra trong một thời điểm đặc biệt, vì đây là hội nghị trung ương cuối cùng trước kỳ Đại hội đảng Cộng Sản lần thứ XIV, dự kiến tổ chức vào đầu năm 2026.

Theo thông lệ chính trị nhiều thập niên qua, Hội nghị Trung ương 15 không chỉ là một kỳ họp “chuẩn bị”, mà thực chất là nơi hoàn tất việc sắp xếp nhân sự cao cấp nhất của toàn bộ hệ thống chính trị, từ hệ thống trung ương đảng đến hệ thống chính quyền trung ương.

Trung ương đảng họp để “nhất trí” theo những gì mà Bộ Chính trị CSVN và các ban bệ thu hẹp đã quyết định trước. Những kẻ ngồi ở hàng ghế đầu không phải là cùng một đẳng cấp với những kẻ ngồi ở các hàng ghế sau. Ghế càng xa, vai vế càng kém. (Hình: Chinhphu.vn)

Nói cách khác, Hội nghị Trung ương 15 chính là nơi quyết định ai sẽ lãnh đạo đất nước trong 5 năm tới, dù danh nghĩa pháp lý của các quyết định này sẽ được “hoàn thiện” bằng thủ tục hợp thức hóa ở Đại hội XIV và các kỳ họp của Quốc hội sau đó.

Điều đáng bàn không chỉ là kết quả nhân sự, mà là cơ chế quyết định nhân sự – nơi mà ít nhất ba chủ thể chính trị căn bản của một quốc gia, gồm nhân dân, Quốc hội và ngay cả tuyệt đại bộ phận hơn 5 triệu đảng viên Đảng Cộng sản đều bị loại ra ngoài quá trình tấn cử.

Nhân dân, người “chủ đất nước” nhưng hoàn toàn bị “chầu rìa”

Theo nguyên tắc dân chủ của một chính thể cộng hòa và theo chính thể Hiến pháp Việt Nam, thì “Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước”. Tuy nhiên, trong thực tiễn chính trị hiện nay, nhân dân không có bất kỳ vai trò nào trong việc lựa chọn các lãnh đạo cao cấp nhất của quốc gia.

Nhân dân không được đề cử ứng viên mà mình tin cậy. Nhân dân không được tranh luận về các ứng viên lãnh đạo. Nhân dân không được bỏ phiếu bầu lãnh đạo. Nhân dân thậm chí không được biết trước danh sách ứng viên. Họ, nhân dân, chỉ là người cuối cùng nhận thông tin, sau khi mọi thỏa thuận, sắp xếp, cân bằng phe phái đã hoàn tất trong nội bộ một nhóm rất nhỏ các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản.

Điều nghịch lý là, mọi quyết định của những người được “tấn cử” này, sau khi được tấn phong chính thức, đều tác động trực tiếp và sâu sắc đến vận mệnh quốc gia, đến sinh kế, quyền tự do, cơ hội sống, học tập và làm việc của trăm triệu người dân. Nhưng người dân lại hoàn toàn bị gạt ra ngoài tiến trình lựa chọn. Trong bất kỳ nền chính trị nào có chính quyền tự nhận là “của dân”, thì đây là một nghịch lý khó có thể biện minh.

Quốc hội, cơ quan “quyền lực cao nhất” nhưng chỉ đóng vai trò “nghị gật”, hợp thức hóa sự tiếm quyền

Theo Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền bầu và phê chuẩn các chức danh quan trọng như Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và nhiều chức vụ then chốt khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, Quốc hội không hề được tham gia gì vào quá trình lựa chọn nhân sự, mà chỉ thực hiện vai trò bỏ phiếu chuẩn thuận các nhân sự đã được Đảng Cộng sản “quy hoạch, giới thiệu và quyết định trước”.

Nói cách khác, quyền lực hiến định của Quốc hội bị vô hiệu hóa bởi nghị quyết của đảng. Việc bỏ phiếu tại Quốc hội trở thành một thủ tục mang tính nghi lễ, nơi mà kết quả đã được định sẵn, và mọi lá phiếu chỉ có tác dụng hợp thức hóa quyết định đã được đưa ra từ nơi khác. Khi cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia không có quyền lựa chọn, không có quyền bác bỏ thực chất, thì danh xưng “quyền lực cao nhất” chỉ còn tồn tại trên giấy tờ.

Đảng viên cũng bị loại ra ngoài việc chọn lãnh đạo của chính đảng mình

Không chỉ nhân dân và quốc hội, mà ngay cả tuyệt đại bộ phận gồm hơn năm triệu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam cũng không có quyền tham gia vào việc lựa chọn lãnh đạo cao cấp nhất của đảng.

Hội nghị Trung ương 15, với số lượng rất hạn chế các ủy viên trung ương và một nhóm còn hẹp hơn nữa trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã sắp xếp xong toàn bộ nhân sự chủ chốt, từ chức vụ Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm các Ủy ban… cho đến các vị trí chiến lược khác.

Khi Đại hội đảng XIV diễn ra vào đầu năm 2026, việc bỏ phiếu của hàng nghìn đại biểu thực chất chỉ còn là hình thức hợp thức hóa những quyết định đã được định trước. Các phương án khác, nếu có, cũng không tồn tại như những lựa chọn thực sự. Như vậy, đảng viên, lại không có quyền lựa chọn lãnh đạo của chính tổ chức mà họ là thành viên và được yêu cầu “tuyệt đối trung thành với Đảng”.

Một cơ chế tấn cử tiếm quyền quyền lực quốc gia

Khi đặt ba chủ thể chính trị này cạnh nhau, có thể thấy một nghịch lý mang tính hệ thống: Nhân dân không được tham gia; Quốc hội không được quyết định; Đảng viên không được lựa chọn. Quyền lực tấn cử, vì thế không thuộc về bất kỳ chủ thể chính trị chính danh nào, mà tập trung vào một nhóm rất nhỏ những người đang nắm quyền lực cao nhất trong Đảng Cộng sản.

Đây không còn là “tập trung dân chủ” theo nghĩa lý luận mà đảng Cộng Sản thường rêu rao, mà là sự tập quyền, độc tài thuần túy, nơi dân chủ chỉ còn là mỹ từ bị lợi dụng triệt để, và tính cạnh tranh chính trị công bằng bằng bầu cử tự do gần như bằng không. Thay vào đó, là sự thanh trừng, đấu đá tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong đảng, trên cơ sở ngành nghề, hoặc địa phương cục bộ.

Hệ quả: khủng hoảng tính chính danh và trách nhiệm chính trị

Một cơ chế lựa chọn lãnh đạo như vậy tất yếu dẫn đến những hệ quả dễ nhìn thấy trước, gồm: Khủng hoảng tính chính danh, vì lãnh đạo không do dân chọn, không chịu sự cạnh tranh, không đối diện với khả năng bị thay thế bởi lá phiếu.

Khủng hoảng trách nhiệm chính trị, vì khi quyền lực không được giao từ nhân dân, thì người nắm giữ quyền lực không chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Gia tăng đấu đá phe phái, vì quyền lực không được phân xử bằng lá phiếu công khai, tự do mà bằng thỏa thuận hậu trường.

Quốc hội CSVN ngày 20 Tháng Mười 2025, khai mạc khóa họp cuối năm và cũng là cuối cùng của nhiệm kỳ này. Báo chí tây phương gọi quốc hội CSVN là “con dấu cao su” vì chỉ bấm nút hay giơ tay “nhất trí” theo lệnh đảng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Hội nghị Trung ương 15, trong bối cảnh đó, không chỉ là một sự kiện nội bộ của Đảng Cộng sản, mà là một tấm gương phản chiếu bản chất của cơ chế quyền lực hiện hành, rằng quyền lực được quyết định trong phạm vi hẹp, khép kín, và xa rời các chủ thể chính trị mà lẽ ra phải là trung tâm.

Tóm lại, một quốc gia hiện đại không thể được dẫn dắt lâu dài bằng một cơ chế tấn cử mà người dân đứng ngoài, Quốc hội đứng ngoài, và ngay cả đảng viên cũng đứng ngoài. Khi mọi quyết định then chốt đều được định đoạt trước trong những hội nghị kín, thì các thiết chế còn lại chỉ đóng vai trò sân khấu hóa cho một kịch bản đã hoàn chỉnh.

Hội nghị Trung ương 15, vì thế không chỉ là bước chuẩn bị cho Đại hội XIV của đảng CSVN, mà còn là một sự hình thức tiếm quyền quyền lực chính trị trong một quốc gia. Chúng sẽ không mang lại tính chính danh cho những người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo cao cấp, mà chúng chỉ giúp xác nhận kẻ chiến thắng trong cuộc thỏa hiệp từ việc tranh giành, đấu đá chiếm giữ quyền lực chính trị trong đảng mà thôi.

Viết từ Hoa Thịnh Đốn, ngày 14 Tháng Mười Hai 2025


 

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

Luật sư Nguyễn Văn Đài và FANS 

Nguyễn Minh Cần,  Nguyên phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội viết:

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

1/ Cuộc đấu tranh giành độc lập của dân ta đã theo con đường khác, rất có thể là theo con đường của cụ Phan Châu Trinh, và dân tộc chúng ta sẽ sớm giành được độc lập mà không phải đổ máu, giống như nhiều nước khác trong vùng Đông Nam Á, Nam Á;

2/ Chúng ta tránh được nạn ám hại các người đứng đầu các đảng phái yêu nước – phần đông họ là những thành phần ưu tú của dân tộc – bằng những ban ám sát của ĐCS;

3/ Tránh được cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu, tàn bạo, làm trên 100 nghìn người chết oan uổng và làm đảo lộn đạo lý truyền thống của dân tộc, mà có một cuộc cải cách ruộng đất ôn hòa, hợp tình, hợp lý để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế;

4/ Tránh được những cuộc cải tạo công thương nghiệp và cưỡng bức hợp tác hóa nông nghiệp làm suy sập nền kinh tế của đất nước và triệt tiêu các lực lượng năng động nhất trong nền kinh tế;

5/ Tránh được những trận đàn áp văn nghệ sĩ, trí thức làm cho văn hóa, văn học nghệ thuật nước ta tụt hậu hàng nhiều thập niên, trái lại, nền văn hóa, văn học nghệ thuật nước nhà được tự do chắc chắn đã nảy sinh được nhiều thành tựu rực rỡ;

6/ Dân tộc ta tránh được cuộc chiến tranh Bắc Nam kéo dài hàng chục năm trời làm gần một chục triệu người dân và binh sĩ của cả hai phía phải bỏ mạng, tránh được sự chia rẽ nặng nề của dân tộc đến nay vẫn còn khó khăn hòa giải hòa hợp;

7/ Tránh được hệ thống những trại tù mang danh “trại cải tạo” để đày đọa hàng trăm nghìn con người yêu nước, những trí thức có tinh thần tự do và dân chủ và tránh được cái chết oan uổng của hàng vạn con người;

8/ Tránh được cái “công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng”, không có chuyện dâng đất, dâng biển dễ dàng cho Trung Quốc như vừa qua, không có chuyện bauxit Tây Nguyên, cho thuê rừng đầu nguồn, đưa hàng chục nghìn lao động Trung Quốc vào các vùng xung yếu của nước ta, và đặc biệt là không có nguy cơ mất nước như ngày nay ….

Nói tóm lại, nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì ngày nay đất nước Việt Nam từ lâu rồi đã được tự do, dân chủ và độc lập thật sự, đã đạt được mức tiến bộ về mọi mặt không kém gì các nước tiên tiến trong vùng, như Nam Hàn, Đài Loan.”

Fbk.  Nguyễn Doãn Đôn

Ảnh nguồn mạng


 

LỜI NÓI SAU CÙNG CỦA TRỊNH BÁ PHƯƠNG TRONG PHIÊN TÒA SƠ THẨM

Fb Manh Dang

Cách nay tròn 4 năm, năm 2021, anh Trịnh Bá Phương, một dân oan Dương Nội, phải ra tòa lãnh bản án 10 năm tù giam chỉ vì nói sự thật về vụ đàn áp đẫm máu vào Đồng Tâm. Vụ tấn công do Bộ Công an tổ chức với hơn 3000 công an đủ các lực lượng, vũ khí trang bị tận răng… bắn chết cụ Lê Đình Kình, bắn trọng thương cụ Bùi Viết Hiểu, mở đầu bi kịch Đồng Tâm.

Dưới đây là nói sau cùng của anh Trịnh Bá Phương tại phiên tòa trước khi hội đồng xét xử vào nghị án:

——-///——-

“Tôi đấu tranh với mong muốn đất nước tôi không còn tình trạng hàng trăm người bị đánh chết trong đồn công an.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng người Việt phải rời bỏ quê hương đi làm thuê ở xứ người qua những tổ chức buôn người với vỏ bọc xuất khẩu lao động.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng ruộng đất với bờ xôi ruộng mật là sinh kế của người nông dân bị Đảng Cộng Sản cướp đoạt.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng Đảng cử, dân bầu và người dân phải được bầu cử tự do và tôi dấu tranh để người dân chúng tôi không còn bị cai trị bởi Đảng Cộng Sản Việt Nam, một tổ chức hèn với giặc, ác với dân.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng áp bức bóc lột  và tôi chống Đảng Cộng Sản Việt Nam là việc làm chính nghĩa.

Tôi không có tội với dân với nước. Chính Đảng Cộng Sản Việt Nam mới là tổ chức phản bội, bán nước, hại dân.

Nhân dân và lịch sử sẽ phán xét tội ác của Đảng Cộng Sản đã gây ra với dân tộc Việt Nam”.

Trịnh Bá Phương


Người phụ nữ thầm lặng tên Thu

Kim Dao Lam

 Fb Tri Nguyen Ông Tám

Người phụ nữ thầm lặng tên Thu

Trong những câu chuyện đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, người ta thường nhắc đến những cái tên như Trịnh Bá Phương – người đàn ông kiên cường, dũng cảm đối diện với nhà tù và bạo lực chỉ vì dám lên tiếng cho người dân mất đất, cho những nạn nhân của bất công. Nhưng ít ai nhắc đến người phụ nữ luôn đứng sau lưng anh, lặng lẽ gánh lấy mọi nỗi đau lớn nhất: Thu Đỗ – người vợ, người mẹ, người đồng chí bất khuất.

Thu Đỗ không phải là người thích xuất hiện trước ống kính. Chị không diễn thuyết hùng hồn, không livestream dài dòng. Chị chỉ làm một việc duy nhất, ngày này qua ngày khác: sống sót để giữ lửa cho gia đình, để con cái còn có mẹ, để chồng dù trong tù vẫn còn biết rằng ở ngoài kia có một người phụ nữ nhỏ bé đang thay anh chống lại cả bầu trời sụp đổ.

Khi Trịnh Bá Phương bị bắt lần thứ nhất, rồi lần thứ hai, rồi bị kết án 10 năm tù với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”, rồi lần thứ ba thêm 11 năm chỉ vì một tờ giấy do người khác viết. Người ta thấy Thu Đỗ gầy đi trông thấy. Chị không khóc trước mặt ai. Chị chỉ lặng lẽ đi thăm nuôi, mang theo những gói bánh, chai nước mắm, và những lá thư viết tay mà anh Phương không bao giờ được đọc hết vì cán bộ trại giam giữ lại. Có lần chị kể, trên đường về từ trại giam Nam Hà, chị ngồi trên xe buýt mà nước mắt cứ rơi, nhưng chị lấy tay áo lau thật nhanh vì không muốn hành khách nhìn thấy. “Mình mà khóc thì ai lau nước mắt cho các con?” – chị nói, giọng nhẹ như gió.

Hai đứa con của anh chị, đứa nhỏ nhất còn chưa biết chữ “tù” nghĩa là gì. Thu Đỗ một mình nuôi con, một mình làm thuê, một mình đối mặt với những lần công an đến nhà “làm việc”, bị gọi lên đồn tra hỏi đến khi về được nhà thì trời đã gần sáng . Chị vẫn dậy nấu cơm cho con đi học, vẫn cười thật tươi khi con hỏi: “Mẹ ơi hôm nay mẹ ngủ đủ chưa?”. Không ai biết rằng tối hôm trước chị đã bị dọa dẫm, bị đe dọa sẽ cho cả nhà “đi theo chồng”.

Nhưng Thu Đỗ không bao giờ đầu hàng. Chị học cách livestream như chồng từng làm, giọng run run ban đầu, rồi dần dần đanh thép hơn. Chị kể về những ngày anh Phương bị tra tấn trong tù, về những vết thương không lành rồi lại mới, về những lần anh tuyệt thực đến kiệt sức. Chị nói mà như khóc, nhưng mắt vẫn khô: “Tôi chỉ muốn chồng tôi được chữa bệnh, được đối xử như một con người. Có gì sai đâu mà phải chịu thế này?”.

Có một chi tiết rất nhỏ mà khiến nhiều người rơi nước mắt: Mỗi lần đi thăm nuôi về, chị lại mang theo một chiếc áo anh Phương mặc trong tù để giặt. Chị giặt thật sạch, phơi khô, gấp thật gọn rồi… cất vào tủ, không mặc. Chị bảo: “Để dành, khi nào anh về thì mặc, còn thơm mùi nhà”. Chiếc tủ ấy đã chứa gần chục chiếc áo như thế suốt bốn năm qua.

Thu Đỗ không phải anh hùng theo nghĩa bắn súng hay hô khẩu hiệu. Chị là anh hùng theo cách đau đớn nhất của một người vợ, một người mẹ Việt Nam: dùng chính thân mình để che chắn cho chồng con trước bão tố. Chị không có vũ khí, chỉ có tình yêu và lòng kiên nhẫn ghê gớm của một người phụ nữ tưởng như yếu đuối mà lại mạnh mẽ hơn cả thép.

Hôm nay, khi Trịnh Bá Phương vẫn còn trong song sắt, khi những bản án bất công vẫn treo lơ lửng trên đầu những người dám nói thật, thì ở một góc nhỏ Hà Nội, vẫn có một người phụ nữ tên Thu Đỗ ngày ngày thắp hương thì thầm: “Anh ơi, em và các con vẫn ổn. Anh cứ yên tâm đấu tranh. Em ở đây, chờ anh về… dù phải chờ bao lâu cũng được”.

Và trong lòng những người biết câu chuyện này, đều thầm cầu nguyện: Mong một ngày không xa, người phụ nữ nhỏ bé ấy sẽ được ôm chồng trong vòng tay còn ấm hơi nhà, thay vì chỉ ôm những chiếc áo đã giặt sạch sẽ đang nằm lặng lẽ trong tủ.

Thu Đỗ – cái tên đẹp như một cánh hoa giữa mùa đông lạnh giá. Chị không cần ai phong thánh. Chị chỉ cần chồng được tự do, con cái được bình yên. Thế thôi mà sao khó đến thế.

Nhưng chị vẫn tin. Và vì chị tin, nên chúng ta cũng xin được tin cùng chị: rằng tình yêu và lòng kiên định cuối cùng sẽ thắng cả nhà tù và bất công.

Cảm ơn chị, Thu Đỗ – người vợ Việt Nam đẹp nhất mà chúng tôi từng biết.


 

BẢO ĐẠI – HOÀNG ĐẾ ĐA TÌNH VỀ LÀM RỂ GÒ CÔNG…

Việt Luận – Viet’s Herald

Trần Văn Nhựt

Chuyện tình nào cũng ít được suông sẻ, kể cả nhà vua cũng vậy. Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ.

Gái Gò Công không tự cho mình là đẹp, nhưng tự hào có được Hoàng Hậu Nam Phương. Hoàng Hậu duy nhứt của triều Nguyễn, qua 12 – 13 đời vua, trị vì 153 năm, đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan – (Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan con của Ông Nguyễn Hữu Hào). Người đẹp nhứt thời bấy giờ, bà đã ba năm liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Người đã chiếm trọn trái tim Hoàng Đế Bảo Đại khi mới gặp mặt lần đầu tiên trên chiếc tàu D’Artagnan. Hoàng Đế si tình đến nỗi thà bỏ ngôi vua chớ không chịu bỏ làm rể xứ Gò. Thật vậy, khi bị bà Từ Cung từ chối, Bảo Đại nói nếu không lấy được Thị Lan thì sẽ “ở vậy” suốt đời. Nếu chọn một trong hai, tôi sẽ chọn Thị Lan chớ không chọn ngai vàng. Đó là lời thuật của viên bí thư của Bảo Đại.

Ai ở Gò Công mà không biết Nguyễn Hữu Hào rể của Ông Huyện Sỹ tức Lê Phát Đạt đã xây ba nhà thờ: Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây và Thủ Đức để dâng cúng cho dân địa phương. Dân địa phương thường gọi là nhà thờ Huyện Sỹ.

Cái trở ngại lớn nhứt của Bảo Đại đó là triều đình nhà Nguyễn thì chủ trương chống lại công giáo, chống lại dân Tây mà Tây thì bị xem là kẻ xâm lược nước mình, còn gia tộc của Nguyễn Hữu Thị Lan thì quốc tịch Pháp và nặng nhứt là sùng đạo.

Người Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 20 đã truyền miệng nhau câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường tứ Định”. Nghĩa là người giàu nhứt Nam Kỳ thời đó là gia đình Huyện Sỹ (Tỷ phú), tức ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan.

Nếu so với Hoàng Đế cuối cùng của Trung Hoa – vua Phổ Nghi sau khi bị hạ bệ thì bị đày đi nông trường cải tạo nhiều năm mới được cho về làm công dân Trung Quốc, thì Bảo Đại – người Rể Gò Công nầy may mắn hơn nhiều, diễm phúc hơn nhiều cũng là nhờ bà Hoàng Hậu Nam Phương – Người con gái Gò Công làm nên lịch sử.

Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ. Đầu tiên là việc chống đối của triều đình. Các quan đại thần, ông nào cũng có con gái lớn chạc bằng hoặc nhỏ tuổi hơn cũng đều muốn gả cho Bảo Đại. Đó là truyền thống, đó là danh dự suốt cuộc đời làm quan cho triều đình. Làm Quốc trượng ai ai mà không ham.

Trong đoạn hồi ký “Con Rồng An Nam” ông tâm sự: “M.J Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê.

Vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới cô và cô đã đồng ý nhưng với điều kiện:

– Gia đình cô đồng ý trước đã

– Về phía gia đình cô Mariette Jeanne Lan cũng đồng ý nhưng phải thêm các điều kiện sau:

– Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay ngày cưới.

– Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật công giáo và giữ đạo.

-Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.

-Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép.

Tiếp đó cụ Tôn Thất Nhân nêu lý do: Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được.

Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu.” Câu nói lịch sử mà tất cả triều thần đều trố mắt nhìn nhau chịu thua. Tình yêu là sức mạnh. Tình yêu là trên tất cả.

Cuối cùng thì tình yêu đã thắng. Ngày cưới được ấn định vào ngày 20 tháng 3 năm 1934. Bảo Đại đúng 21 tuổi, và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Bảo Đại chính thức là Rể Gò Công. Ngày mùng 10 tháng 2 (tức tháng 3 năm 1934) lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm.

Bảo Đại chính thức đã có với Nam Phương Hoàng Hậu năm người con: hai trai và ba gái:

Hoàng tử Bảo Long 1936

Công chúa Phương Mai, ngày 1 – 4 năm 1937.

Công chúa Phương Liên, ngày 3 – 11 năm 1938.

Công chúa Phương Dung, ngày 5 – 2 năm 1942.

Hoàng tử Bảo Thắng năm 1948.

Trần Văn Nhựt


 

LỊCH SỰ- Nguyễn Hưng Quốc

Nguyễn Hưng Quốc

LỊCH SỰ

Năm 1979, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, tôi được giữ lại trường làm giảng viên môn Văn học Việt Nam. Một lần, giáo sư Mai Quốc Liên, thầy cũ của tôi, dẫn tôi đến thăm nhà phê bình Hoài Thanh (1909-82). Lúc ấy ông bà Hoài Thanh đã dọn vào sống ở Sài Gòn. Nói chuyện một lát, không nhớ tại sao, cả Hoài Thanh lẫn thầy tôi (vốn từ Hà Nội vào) lại so sánh người miền Nam và người miền Bắc. Hoài Thanh nhận xét:

“Bản chất của chế độ nguỵ là xấu vậy mà không hiểu sao nó lại đào tạo con người giỏi thế. Ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi rối rít. Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân ngoài Bắc vào.”

Năm 1996, lần đầu tiên về Việt Nam, tôi ở Hà Nội ba tuần. Suốt thời gian ấy, hầu như hàng ngày, tôi hay ra vào các tiệm sách để tìm các tài liệu mình cần cho công việc nghiên cứu ở Úc. Mỗi lần vào tiệm, tôi đều gật đầu chào các cô bán sách. Tất cả đều trố mắt nhìn tôi, đầy ngạc nhiên. Sau khi trả tiền sách, tôi “cám ơn”, họ lại trố mắt nhìn tôi, vẫn đầy ngạc nhiên. Nhìn họ, tôi nhớ đến các hợp tác xã thời bao cấp. Ở đó, những người bán hàng là những kẻ đầy quyền lực. Họ bán như bố thí. Mặt họ lúc nào cũng lạnh tanh. Không bao giờ cười hay chào ai cả.

Mà không phải chỉ những người bán hàng. Dạo ấy, đi ra ngoài đường, tôi cũng hiếm nghe những tiếng “xin lỗi” hay “cám ơn”. Cực hiếm.

Ở trên toàn là những chuyện cũ, đã hơn 40 năm. Chắc chắn bây giờ tình hình đã khác. Nhắc lại chủ yếu là để nhớ lại miền Nam xưa cũ. Vậy thôi.


 

Đà Lạt – Lâm Đồng Tiếp Tục Tê Liệt Vì Sạt Lở Nhiều Đèo Sau Mưa Lớn

Ba’o Dat Viet

December 5, 2025

Những trận mưa nặng hạt kéo dài từ ngày 3 đến rạng sáng 5 Tháng Mười Hai đã gây ra hàng loạt vụ sạt lở nghiêm trọng trên các tuyến đèo trọng yếu của tỉnh Lâm Đồng, khiến giao thông tê liệt và nhiều khu dân cư bị nhấn chìm trong nước lũ. Theo Dân Trí, tình hình tại Đà Lạt và các xã lân cận đang trở nên đặc biệt đáng lo ngại khi nhiều khu vực chìm trong ngập lụt, đất đá tiếp tục đổ xuống đường và hàng trăm hecta hoa màu bị phá hủy.

Đèo Mimosa, D’Ran, Gia Bắc đồng loạt sạt lở

Nửa đêm 4 Tháng Mười Hai, đèo Mimosa lại xảy ra sạt lở đúng tại đoạn đường tạm vừa được thông xe chưa đầy một tuần. Nhà chức trách lập tức phong tỏa, cấm phương tiện qua lại và thiết lập trực chiến để theo dõi diễn biến sạt lở nhằm ngăn nguy cơ tiếp tục đổ đất xuống đường.

Tình cảnh tương tự diễn ra trên đèo D’Ran, quốc lộ 20 đoạn gần cầu Xéo – nơi ranh giới giữa phường Xuân Trường (Đà Lạt) và xã D’Ran. Người dân đi làm và học sinh đi học sáng 4.12 hoàn toàn không thể qua lại vì mặt đường bị đất đá che kín.

Sở Xây dựng Lâm Đồng xác nhận thêm: đèo Sacom – hồ Tuyền Lâm, đèo Prenn đều ghi nhận sạt lở tại nhiều vị trí. Dù xe vẫn có thể lưu thông với tốc độ hạn chế, lực lượng chức năng đang gấp rút thu dọn đất đá để tránh nguy cơ tắc đường kéo dài.

Đáng lo ngại nhất là đèo Gia Bắc trên quốc lộ 28 nối Phan Thiết – Di Linh. Tại các Km43, Km50 và Km53, lượng đất đá sạt xuống dày đặc đến mức lấp hoàn toàn mặt đường, chia cắt giao thông và khiến mọi phương tiện phải dừng lại. CSGT đã phải chốt chặn từ hai đầu đèo, hướng dẫn tài xế quay đầu để tránh nguy hiểm.

Tại xã Hiệp Thạnh, nước từ thượng nguồn đổ về khiến quốc lộ 20 qua các thôn Định An, K’Rèn, K’Long bị nhấn chìm. Ông Hồ Hữu Hiếu – Trưởng phòng Kinh tế – Hạ tầng – Đô thị xã Hiệp Thạnh – cho biết mưa lũ từ nửa đêm đến rạng sáng đã làm ngập hơn 400 ha đất sản xuất, phá hủy hoa màu và gây thiệt hại lớn cho người dân.

Trên 70 căn nhà ngập sâu từ 1,5 đến 2,5 mét, hai căn nhà bị hư hỏng nặng, ba cây cầu dân sinh bị sạt lở. Nhờ lực lượng cứu hộ có mặt kịp thời, 16 người dân, gồm cả người già, trẻ nhỏ và bệnh nhân, đã được đưa ra khỏi vùng nguy hiểm. Rất may không có thiệt hại về người.

Bên trong nội thành Đà Lạt, nước mưa dâng cao gây ngập nặng khu vực dọc suối Phan Đình Phùng thuộc phường Cam Ly và Xuân Hương. Các khu dân cư, nhà kính trồng hoa ở đường Cách Mạng Tháng 8, Trạng Trình, Trương Văn Hoàn (phường Lâm Viên) cũng bị bao phủ bởi nước lũ, nhiều khu vực biến thành sông chỉ trong vài giờ.

Lâm Đồng hiện đang đối mặt với nguy cơ sạt lở lan rộng khi mưa lớn vẫn kéo dài, đất đá chưa kịp ổn định và nhiều tuyến giao thông nằm trên địa hình dốc. Chính quyền địa phương đang huy động tối đa nhân lực, máy móc để mở đường, hỗ trợ người dân sơ tán và hạn chế thiệt hại thêm.

Sau nhiều đợt sạt lở liên tiếp trong năm, người dân Lâm Đồng không chỉ lo lắng trước thiệt hại vật chất mà còn đặt câu hỏi lớn về năng lực ứng phó thiên tai cũng như tình trạng phá rừng, quy hoạch yếu kém khiến khu vực cao nguyên này ngày càng dễ tổn thương trước mưa lũ.


 

NỖI ĐAU KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ MẤT… – BS Xuân Sơn Võ

Việt Luận – Viet’s Herald

BS Xuân Sơn Võ

“… Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng…”

Một trong các thắc mắc mà mấy anh em chúng tôi cứ hỏi nhau hoài, là làm sao có thể tính được thiệt hại vật chất trong vụ lũ lụt vừa qua ở những nơi chúng tôi đến, tại Khánh Hòa, tại Phú Yên?

Mất sạch. Có lẽ đó là khái niệm chung nhất của bà con ở những vùng lũ lụt nặng. Nhưng mất sạch theo quan niệm chung, là mất những cái “động sản”, còn những thứ thuộc về “bất động sản” thì đâu có mất đi đâu. Nhưng không. Truyền thông đưa tin, nơi có 7 cái trang trại nuôi heo bò gà vịt đã bị biến thành một dòng sông. Ngay cả bất động sản cũng bị lũ cuốn trôi luôn.

Mất sạch ở đây cần được hiểu rằng, có gì mất nấy. Có ít mất ít, có nhiều mất nhiều. Có càng nhiều mất lại càng nhiều. Sau lũ, ai cũng trắng tay, ai cũng bắt đầu lại với hai bàn tay trắng… bệch. Cứu trợ bao nhiêu cho đủ, đền bù bao nhiêu cho đủ. Tiền tỉ mang ra đó, cũng chỉ như muối bỏ biển, chẳng thấm tháp vào đâu. Cái gì cũng phải mua lại, từ cây kim, sợi chỉ, đến xong nồi, chén dĩa, đũa muổng…

Anh Toàn, chủ một cơ sở bida thuộc hàng top đầu ở Tuy Hòa, Phú Yên với 20 cái bàn bida phải bỏ đi, phải thay mới hoàn toàn. Đi trên đường Võ Nguyên Giáp ở Nha Trang, bạt ngàn xe hơi chờ sửa sau khi bị ngập. Ngay trong thành phố Nha Trang, cứ chỗ nào thấy xe hơi xếp hàng dài, lớp trong lớp ngoài, là y như rằng ở đó có cái garage, xe xếp hàng đó để chờ đến lượt vô sửa. Đi trên cao tốc, ngoài các chuyến xe cứu trợ có gắn bandrole, thì nhiều thứ nhì là những chuyến xe cứu hộ, kéo những chiếc xe bị lũ đi từng đoàn, từng đoàn… theo hướng ngược lại.

Nhiều tỉnh đã phải điều xe rác đến Khánh Hòa, Phú Yên để giúp dọn rác. Dân ở đây làm gì mà lắm rác vậy? Không, đó là của cải, là tài sản, là mồ hôi, là nước mắt… của bao nhiêu người dân, bị lũ lụt biến thành rác. Chứng kiến một chỗ người ta đốt rác, trong đó lỏng chỏng tủ lạnh, TV… Không chỉ có cảm giác xót ruột. Của cải, tài sản không phải của mình, nhưng sống mũi cứ cay cay, lái xe nhìn đường cứ nhòe đi.

Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng.

Đau hơn nữa, là biết vậy, mà vẫn cứ phải cắn răng chịu mất, cứ phải chống mắt nhìn nó ăn, nhìn nó kiếm tiền, nhìn bà con mình bỏ mạng, nhìn của cải, đồ đạc mất sạch, nhìn hai bàn tay trắng bệch…

BS Xuân Sơn Võ


 

Bão tố, lũ lụt – Một thách thức về sinh thái và môi trường mà còn là một thách thức chiến lược sống còn của Hà Nội

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

09/12/2025

Tôi còn nhớ khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ vào tháng 12-1946 thì tôi có mặt ở Hà Nội và chứng kiến chỉ trong một đêm sau một tiếng nổ kinh hoàng và nhà đèn tắt phụt và ngày hôm sau, bộ đội chủ lực của Võ Nguyên Giáp đã rút lui ra khỏi Hà Đông và chỉ còn lại dân quân du kích ở lại cầm chân Pháp và làm vật hy sinh chết dần, chết mòn..

Người Pháp đã mau chóng ổn định an ninh Hà nội dần trở lại nếp sinh hoạt bình thường cho đến năm 1954 với Hiệp định Genève chia đôi hai bên ở Vĩ Tuyến 17..

Trong suốt gần 10 năm trời ở Hà Nội, tôi không hề thấy cảnh tượng Hà Nội chìm trong biển nước như hiện nay..Nay  cứ một trận mưa thì Hà Nội biến thành một hồ nước nhân tạo. Xe cộ chết máy la liệt trông đến thảm thương.

Vì Hà Nội xưa có những hồ chứa nước như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Trúc Bạch một sự điều hòa đúng mực..

Vào miền Nam, tôi ở Đà Nẵng một năm mới chuyển vào Sài Gon. Lên Đại học, học ở Viện Đại Học Đà Lat. Ra trường, đổi về Nhatrang trong 6 năm. Mùa hè ra Huế sống hơn 2 tháng, coi thi ở Quảng Ngãi, Quảng Trị..

Nhắc đến đây, tôi xin đặc biệt nhớ lại những kỷ niệm khó quên ở Phan Thiết, tôi không còn nhớ năm nào? Nơi mà nay cũng chìm đắm trong lũ lụt.

Chỉ biết rằng,  trước đây, tôi được điều động ra Phan thiết với vai trò phó hội đồng thi. Trương Ân, hiệu trưởng Quy Nhơn -một người bạn cũ Đà lạt làm chủ tịch. Hai chúng tôi đến ở nhà  một người bạn học cũ, anh Tùng được điều đi nơi khác..

Một lần, một nữ giáo viên vốn bố mẹ làm chủ vựa nước mắm mời đến nhà ăn. Cô Ung Thị Bạch Tuyết. Ôi thì sơn hào hải vị, cái gì ngon nhất, hai chúng tôi đều được hưởng. Cũng bữa tiệc đó, có một nữ giáo viên

đem lòng “ mê” tôi. Số tôi đúng là số “con rệp”, đi đâu gieo rắc họa đến đấy. Em nữ giáo viên tên N. có ngỏ lời bằng cách tặng tôi bài hát rất ư “ thôn nữ quê” : “hãy trả lời em đi anh” với băng casette.

Về nhà, Trương An cho vào máy, rồi hát rống lên: Hãy trả lời em di anh..Tôi nghe mà lòng lạnh tanh.  Trong khi Trương Ân nói: Này toa, em này nó mê toa rồi đố. Tôi lặng thinh.

Khi hai chúng tôi quay về, tại phi trường Phan Thiết, cả một bày nữ giáo viên ra tiễn đưa, trong đó có N. , nước mắt lưng tròng.. Sau này N. trở thành nhà

văn nữ khá nổi tiếng. Quà mang về là thứ nước mắm nhĩ thứ hảo hạng, cộng với mực phơi hai nắng trên nóc các thuyền đánh cá, ăn mới ngon và mới ngọt làm sao.

Ôi, cả một thời yên bình và hạnh phúc cho một con dân miền Nam.

Nhắc lại như một hồi ức khó quên!!!

Trong những năm tháng ấy, tôi chưa hề chứng kiến những trận bão như số 11, 12, 13 và những trận lụt khủng khiếp, nước ngập sâu đến mái nhà, dân chúng phải leo lên mái nhà. Lũ lụt trong khoảnh khắc phá tan cầu đường, thiệt hại chẳng những tài sản, nhất là đến sinh mạng con người.

Được biết, một gia đình nuôi đến 4000 con vịt, sau cơn lũ, chỉ còn khoảng 900 con. Người khác, ở Quảng Bình, có khoảng 100 gốc sầu riêng, sau lũ còn lại vài gốc.

Chưa kể, hàng trăm người bị lũ cuốn trôi mà nhiều người sau này không tìm được xác..

Nghĩ đến đây, bất giác như buồn nôn…

Tôi chỉ hỏi mà không có câu trả lời cho mình và cho đồng bào bị nạn..

Dân chúng trong khắp các tỉnh thành lập các đoàn cứu trợ để kịp thời để đền bù các thiệt hại về nhà cửa và nhất là người chết oan..

Lấy gì và bằng cách nào đền bù cho những oan hồn chết oan mà vốn mạng người là vô giá!!

Tôi theo dõi các bản tin mỗi ngày và  tôi nhận ra hai điều:

  • Dân chúng chỉ thấy đây là “tai trời” mà không một lời oán thán nhà cầm quyền.
  • Một cơn lụt lội khủng khiếp như thế, nhưng tôi không hề thấy cấp lãnh đạo cấp tỉnh bên cạnh người dân. Nói chi đến thủ tướng Phạm Minh Chính hay ông Tô Lâm? Người ta chỉ có cơ hội nhìn thấy các ông trong những chuyến công du liên tiếp, bên cạnh các mệnh phụ phu nhân ăn mặc  sang trọng.
  • Hình như thể họ thuộc một tầng lớp lãnh đạo chỉ biết cai trị hơn là người của dân chúng.

Tuy nhiên, nhà nước cộng sản Hà Nội đã không hề tiết lộ nạn phá rừng, xẻ núi, lấp ao hồ, lấp dòng sông để xây xa lộ, xây đường cao tốc và xây dinh thự.

Đất nước hình như chỗ nào cũng bị “xi măng hóa” hay “ nhựa hóa” đến độ mưa lũ xuống không có tầng đất xốp để hấp thụ nước nên gây nạn ngập lụt.

Mà đáng nhẽ, nó cần “một thành phố bông gòn” để có thể hấp thụ nước, tránh lũ lụt.

Nạn phá rừng tùy tiện lấy gỗ đã tạo ra nạn sạt lở, vì không có cây rừng ngăn chặn.

Nghĩ đến đây, tôi nghĩ đến trường hợp hãng Cimexcol, Minh Hải với Dương Văn Ba, toa rập với các quan chức đã cho người sang Lào khai thác gỗ, tạo ra dòng chảy sạt lở mà chúng gọi là “Chương trình phát tiển Lào”.

( Xin tóm lược  trở lại năm 1985, cách mạng Lào chiến thắng. Để kỷ niệm chiến thắng này, quân đội cách mạng Lào đã lập ra” công ty phát triển rừng núi Lào là Borisat Phattana Khet  Phoudoi, gọi tắt là BKKP. Công ty được đặt dưới chỉ đạo của đại tướng Khăm Tây Xiphandoong- thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng Lào.

Công ty lại liên doanh với một công ty mới thành lập tại TP Hồ Chí Minh và tỉnh Minh Hải, gọi là Cimexcol liên doanh..( Trích Đời của Hồ Ngọc Nhuận, trang 307). 

  • Về phía người dân

Dân chúng thì vô trách nhiệm. Rác cứ đem đến lỗ ống cống mà đổ gây nghẹt ống cống và nước lũ không trôi được..Lấy trường hợp Kênh Nhiêu Lộc cứ phải vét đi vét lại vì dân chúng coi con kênh như chỗ xả rác .

Đường Cỏ Ngư ở Hà Nội được ví như con đường tình Duy Tân ở Sài gòn. Nhưng hai bên đường mọc đầy quán ăn chen lấn cả lề đường làm con đường bị ô nhiễm trầm trọng..

Hiện nay, không ai còn biết, bao nhiêu ao hồ ở Hà Nội đã bị vùi lấp làm nhà ở?

Mảnh đất nào cũng bị cời xấy lên bằng xi măng làm nhà ở hoặc bằng nhựa đường làm các xa lộ, các cao tốc.

Hà Nội chỉ nhìn thấy cái lợi nhất thời mà không  có một cái nhìn về tương lai của một đất nước.

Mưa xuống không có lớp đất xốp, bãi cỏ để thẩm thẩu nước mưa gây nạn lụt gây ra sức tác hại về môi sinh, môi trường đến không thể nào tính hết thiệt thại bằng tiền.

Cả nước như chìm vào biển nước, dân chúng không biết kêu cứu vào ai. Hà Nội chỉ đưa ra những giải pháp vá víu cục bộ, nhất thời.

Năm nay lụt thì có thể năm sau cũng tiếp tục lụt lội ở một mức độ kinh kihủng hơn.

Có một cái gì bảo đảm là tương lai sẽ hết ngập lụt?

 Sự sửa chửa những sai lầm về môi sinh, môi trường đòi hỏi những tốn phí gấp hai, gấp ba lần hơn trước?

Đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho sự sai lầm ngu ngốc của mình..

Nay vẫn ưu tiên tiếp tục xây dựng những đền đài, cung điện như đài” tưởng niệm những nạn nhân đại dịch Cô Vít”?

Chúng ta chỉ biết lên tiếng cảnh báo, còn trách nhiệm là ở quan chức lãnh đạo Hà Nội!!!!

Ước gì Hà Nội học được bài học của Thủ tướng Lý Quang Diệu mà vứt mẩu thuốc lá xuống đường cũng bị phạt nặng.

Đó là một nếp sống văn minh và văn hóa cao mà người dân biết tự trọng tuân thủ.

Viết những dòng này, chúng tôi mong mỏi một đất nước “ độc tài dân chủ vì người dân” như nhiều xã hội Đông nam Á như Nhật, Đại Hàn, Singapore  thay vì một “ đất nước độc tài mà quyền lợi của đảng trên hết” như Việt nam, Triều Tiên.

Phần Hai: Sự lựa chọn ưu tiên chiến lược dưới sự trình bày của giáo sư Khương Hữu Lộc.

Phần bài viết này chủ yếu dựa trên sự trình bày khoa học, khách quan về mọi mặt giúp có một cái nhìn sáng tỏ và khách quan về sự chọn lựa sống còn cho Việt Nam.

Chúng ta không thể không ưu tiên giải quyết vân đề lũ lụt.

Thứ nhất, không thể nào không giải quyết sự an toàn giao thông nếu không giải quyết hạ tầng cơ sở với nạn ngập lụt trên khắp các tỉnh thành từ Nam ra Bắc.

Sự ưu tiên giải quyệ’t nạn lũ lụt này đòi hỏi một chi phí từ 70 chục tỉ đồng tiền Mỹ đến 100 tỉ đồng.

Không có sự chi phí ưu tiên thì xe điện đi ngang qua các vùng lũ lụt không có sự an toàn của những vùng địa lý thiên nhiên với những hồ chứa nước.

Chưa nói đến các tảng băng ở bắc cực nay tan nhanh tạo ra một dòng chảy như thác lũ đổ ra biển, làm cho mực nước biển tăng lên!! ảnh hưởng trục tiếp đến địa lý thiên nhiên khu vực.

Bên Mỹ, các xa lộ đều có hệ thống Master Plan- một hệ thống ao, bờ để giúp thoát nước..

Nhưng mặt khác, để đất nước phát triển không thể không nghĩ tới một dòng xe điện cao tốc với tốc độ trung bình 350 kilo/mét giờ. Từ ga xe lửa Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm, đi qua 22 trạm chỉ mất 5 tiếng thay vì 33 tiếng của xe lửa đã lỗi thời của thời Pháp để lại.

Tuy nhiên, sẽ có sự cạnh tranh với việc xử dụng phương tiện máy bay. Chi phí vé máy bay thường tốn kém hơn, mặc dầu chỉ mất hai giờ 10’ bay từ Hà Nội vào Sài Gon.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên là hành khách phải có mặt ở phi trường một tiếng đồng hồ trước cho việc check in cũng như thủ tục đợi lấy hành lý.

Thời tiết xấu cũng ảnh hưởng tới các chuyến bay với thời gian chờ đợi tại các phi trường không phải là điều dễ chịu..

  • Các công ty góp phần xây dựng đường cao tốc Bắc-Nam.

Hiện nay được biết có 6 công ty. Trong đó có hai công ty của người VN là Vin Speed và Taco. Trong đó việc góp vốn của công ty là 20 %, 80% còn lại vay vốn nhà nước không tiền lời, trả dần trong 30 năm.

Vin Speed là của ông Phạm Nhật Vượng- một người dám nghĩ và dám làm. Và làm là có thể lỗ. Và vì vậy khó có kết quả tài chánh hay thương mại, nhưng vẫn phải đứng ra đấu thầu.

Trễ một năm, tiền vốn dự chi có thể tăng không trù liệu trước được. Giả dụ  đầu tư 65 tỉ đô la, cho rằng tiền lời hàng năm là 5% vẫn lợi thế hơn làm đường cao tốc.

Việt Nam phải lựa chọn các nhà đầu tư như Nhật, Pháp và cả Trung Quốc. Nhờ đó có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh việc cài đặt các thiết bị do thám có hại cho an ninh quốc gia.

Đồng thời về mặt quyền lợi pháp lý, phải có sự bảo đảm quyền lợi bảo trì vốn là điều kiện tối ưu.

Và trong một thời gian nhất định, phải bàn giao việc chuyển giao công nghệ toàn bộ cho Việt Nam.

Nước Mỹ ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe hơi. Trong khi nước Pháp ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe điện cao tốc. Vì thế với kinh nghiệm nhiều năm, chúng ta nên mời Pháp tham gia chương trình kỹ nghệ đường sắt cao tốc cũng như mời cả Nhật bản.

Về mặt thương mại, mỗi một nhà ga là một điểm hội tụ tất cả những lợi ích thương mại như giao thông, vận tải, nhà băng, khu vực buôn bán làm ăn, các khu chung cư, các khu thương mại,  khu du lịch, các nhà hàng ăn như một thành phố đô thị mới phát triển và bền vững.

Lợi ích kinh tế không phải là nhỏ.

Trong trường hợp khi có nhu cầu quân sự, việc chuyển quân, các nhu cầu quân sự như súng ống, đạn dược, xe cộ chỉ mất vài tiếng đồng hồ, tránh tình trạng bị động, không thích ứng kịp..

Trước những lợi ích về nhiều mặt như thế, việc khai thác đường xe lửa cao tốc Bác- Nam là điều chẳng đặng đừng, không làm không được.

Và càng trì trệ, vốn sẽ đội lên không theo kịp..


 

NGUYỄN TƯỜNG THỤY: MỘT ĐỜI NGƯỜI CHỌN LÀM BÁO VIẾT SỰ THẬT

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Có những con người, dù đã đi qua hơn nửa đời người, vẫn không thể làm ngơ trước những điều sai trái đang diễn ra quanh mình. Nguyễn Tường Thụy, sinh năm 1950, là một trong số ấy. Ở tuổi mà nhiều người đã chọn sống an nhàn bên gia đình, ông lại chọn bước đi trên con đường đầy bất trắc: con đường của sự thật, của quyền tự do báo chí, của trách nhiệm công dân.

Ít ai biết rằng trước khi trở thành một trong những gương mặt nổi bật của báo chí công dân Việt Nam, ông Thụy từng là quân nhân trong Quân đội nhân dân. Hình ảnh người lính, người từng đi qua chiến tranh và hiểu giá trị của hòa bình, dường như đã góp phần tạo nên một Nguyễn Tường Thụy kiên trì, điềm tĩnh và luôn nghĩ về tương lai đất nước.

Từ giữa những năm 2000, ông Thụy xuất hiện ở nhiều nơi mà lẽ ra một người ở tuổi ông không cần phải đi: các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, các buổi xuống đường bảo vệ cây xanh Hà Nội, các phiên tòa xử dân oan khiếu kiện đất đai.

Ông không phải người hô hào. Ông quan sát. Ông lắng nghe. Ông viết lại.

Qua ngòi bút của ông, người đọc thấy được nỗi đau của từng người dân, sự khốn khổ của những mảnh đời bơ vơ trước guồng máy quyền lực, và cả hy vọng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt về một xã hội công bằng hơn.

Ông tham gia Hội Bầu bí tương thân, góp phần sáng lập Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, viết bài cho Đài Á Châu Tự Do, và điều hành một blog cá nhân với lượng độc giả lớn. Ở tuổi 60–70, ông vẫn miệt mài đi lại, ghi chép, trò chuyện với từng gia đình nạn nhân môi trường, từng người dân oan trong các vụ cưỡng chế đất.

Ngày 23/5/2020, công an bắt giữ ông tại Hà Nội theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. Phiên tòa ngày 5/1/2021 tuyên ông 11 năm tù giam và 3 năm quản chế.

Một người đã gần 70 tuổi phải đối mặt với bản án hơn một thập kỷ, điều đó vượt quá sức tưởng tượng của nhiều người.

Giờ đây, ông đang bị giam ở Trại giam An Phước (Bình Dương), xa gia đình, xa người thân, xa những câu chuyện mà ông vẫn muốn được kể.

Nguyễn Tường Thụy không phải người hùng theo nghĩa hào nhoáng. Ông chỉ là một người bình thường, lớn lên trong một đất nước nơi tiếng nói trung thực đôi khi phải trả giá đắt. Nhưng chính vì thế, câu chuyện của ông mới đáng trân trọng.

Những gì ông trải qua, nhắc ta rằng:

Làm người tử tế, ngay cả khi điều đó nguy hiểm, vẫn là một lựa chọn đáng sống.

Vân Phong


 

Hàng trăm ha rừng bị cày nát như thế…

Lê Vi

 Để hàng chục, hàng trăm ha rừng bị cày nát như thế không thể là chuyện không ai hay biết. Muốn phá rừng quy mô lớn phải có đường mở, máy móc vào, gỗ vận chuyển… tất cả đều diễn ra trong thời gian dài. Vậy mà khi hậu quả phơi bày, trách nhiệm lại thu hẹp vào hai nhân viên kiểm lâm?

Thực ra gốc rễ vấn đề chưa bao giờ được xử lý đến nơi đến chốn. Rừng không tự nhiên mất, mà mất vì con người ta chọn cách làm ngơ. Ai cũng hiểu phía sau mỗi cánh rừng bị xóa sổ là cả một chuỗi mắt xích cấu kết: từ người phá rừng, kẻ bao che, đến những người đáng lẽ phải bảo vệ nhưng lại quay đi vì lợi ích.

Chừng nào những mắt xích này còn được dung túng, chừng nào trách nhiệm vẫn chỉ được xử lý trên giấy, thì phá rừng sẽ còn tiếp diễn. Và cái giá phải trả luôn là người dân, là môi trường, là tương lai của chính chúng ta.