CÓ MỘT CỤ GIÀ…

Có một Cụ Già, mà khi gặp Cụ, các Đức Giám Mục đã cúi mình xuống và niềm nở chuyện trò.

Cụ già đó chính là Giáo sư Stêphanô NGUYỄN KHẮC DƯƠNG, nguyên trưởng Ban Triết học và Quyền Khoa trưởng Văn khoa của Đại học Đàlạt trước 1975; người đã góp công rất lớn trong việc đào tạo nên những nhà tri thức cho Giáo hội và xã hội.

Có rất nhiều Tu sĩ, Linh mục và cả Giám Mục… đã là môn sinh của thầy. Tuy nhiên, “Gia tài” mà cụ để lại không phải chỉ là những kiến thức uyên bác, nhưng là một chứng nhân của đức tin, một tình yêu cao cả mà cụ dành cho Chúa và Hội Thánh.

Thầy Nguyễn Khắc Dương sinh ngày 24-9-1925, trong một gia đình Nho Giáo tri thức. Tuổi thơ thầy sống với cha mẹ tại làng Thịnh Xá, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; trực thuộc Giáo họ Bình Hòa, Giáo xứ Đông Tràng, Giáo phận Vinh.

Thân phụ, cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm, là một nhà nho nổi tiếng học giỏi, đức độ. Sau khi đỗ đạt, cụ được bổ dụng vào chức Tư nghiệp Quốc tử giám tại Huế. Cụ đã từng làm Tri phủ huyện Anh Sơn, Án sát tỉnh Nghệ An, Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên, và về hưu năm 1943 với phẩm hàm Hiệp Biện Thượng thư. Cụ là một vị quan thanh bạch, trung chính, không lấy danh vị làm vinh, và nổi tiếng thanh liêm nên được dân chúng rất mến phục.

Thầy Dương là em ruột của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt.

Sinh ra trong một gia đình Nho Giáo nên từ nhỏ, thầy Khắc Dương không mấy thiện cảm với Đạo Kitô giáo, thậm chí là khinh thường Kitô giáo. Tuy nhiên, nhờ được học trong trường Thiên Hựu ở Huế, thầy đã có cơ hội tìm hiểu về Đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội ngày 9 tháng giêng năm 1949, tại nhà thờ Nghĩa Yên.

Việc trở thành người Kitô hữu của thầy Khắc Dương, đã gặp sự chống đối rất lớn từ gia đình và dòng họ, nhất là mẹ của thầy. Bà mẹ chất vấn thầy rằng: “Ông bà tổ tiên của mày có tội gì, mà mày phải cúi đầu cho người ta rửa tội nguyên tổ? , Tội của mày là tội bất hiếu, tội này có cạo hết tóc trên đầu cũng không sạch được, vậy chỉ một chút nước trên đầu thì sao mà rửa sạch được chứ”.

Lý giải về việc “bỏ” gia đình để theo Đạo, thầy Khắc Dương có lần chia sẻ rằng: Nho Giáo là một tôn giáo dành cho người tri thức, sống thanh cao và sống “trên” người khác; không dành cho người bình dân. Phật Giáo thì quan niệm rằng Đời Là Bể Khổ, nên phải tránh Đời, tự bản thân tìm sự giải thoát cho riêng mình. Còn Kitô giáo thì ngược lại, Chúa Giêsu vốn là Con Thiên Chúa nhưng đã bước vào đời, sống như một người nghèo, chia sẻ thân phận làm người của con người, vui niềm vui của con người, đau nỗi đau của phận người và yêu con người một cách say đắm đến nỗi sẵn sàng chết vì yêu con người… Đây là một tôn giáo gần với con người, gắn liền với con người, là đạo của tình yêu…

Một vài nét như thế, để ta hiểu hơn về con người của Cụ Già này, và để hiểu vì sao khi gặp Cụ, các Đức Giám Mục đã bước tới, cúi mình xuống và thăm hỏi chuyện trò.

FB: Hoa Trên Ngàn

CHA STEFAN GẶP MA và CUỘC DÕI TÌM TIỂU SỬ NGƯỜI KHUẤT MẶT

LM Stefan Starzynski, gp Arlington tiểu bang Virginia.

Một đêm nọ, tôi đang nằm ngủ trên giường trong phòng riêng, tôi còn đang ở trạng thái mơ mơ màng màng, nửa thức nửa ngủ. Rồi tôi nhìn qua phía phải của mình, tôi thấy một người đàn ông, thân thể không có vẻ như của người, không có da thịt thể lý rõ ràng như của chúng ta. Tuy thế, người đó là đàn ông, đầu hói, khuôn mặt gầy gò, ông mặc áo chùng của linh mục với hàng nút áo dài đến cuối hàng. Trông ngài giống như một linh mục đã sống cách nay một trăm năm vậy và khá hiền từ không có gì đáng sợ cả. Thế rồi, tôi chìm vào giấc ngủ sau đó.

Đến sáng hôm sau, thức dậy đi điểm tâm, trong phòng ăn, tôi nói với Mẹ mình, tôi đã thấy có một con ma trong phòng ngủ. Tôi tả hình dáng Ma từ ký ức của mình, hình ảnh rất rõ ràng của Ngài, như trên giấy trắng mực đen vậy, cho dù chỉ được gặp Ma trong một khoảnh khắc ngắn. Tôi nhớ tỏ tường cung cách nhân từ của Ngài, chỉ tiếc một điều, tôi không biết Ngài là ai!

Thấm thoát hai năm qua, tôi vẫn không biết người đàn ông Ma đó là ai cả, cho đến một ngày nọ, có một người quen đi lễ ở Vương Cung Thánh Đường, đền Đức Mẹ Vinh Thắng ở Lackawana, Nữu Ước.

Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Vinh Thắng do Cha Baker tổ chức xây cất năm 1921

Khi bà quen về nhà, bà mang theo một ảnh và đưa khoe, bà cho tôi xem một ảnh của Cha Nelson Baker, tôi nhận ra Ngài ngay lập tức, Cha Baker rất thánh thiện và là ân nhân tận tụy của vô số người nghèo, cô nhi, quả phụ. Cơ sở từ thiện của Ngài đã đón nhận rất nhiều em trai tứ chiếng, bụi đời và em gái có chửa, chính Ngài là người đàn ông Ma đã hiện ra với tôi.

Bài toán Ma, tôi đã giải được câu đầu rồi, còn câu hỏi thứ hai quan trọng hơn nhiều, Ngài muốn tôi làm gì, tôi thầm thì, Ngài định trăn trối cho con một hoài bão gì đây? Khi đi tìm con, Ngài có nhìn sai người không vậy? Tôi nhớ lại hồi đó, khi còn là một đứa trẻ nhỏ, trong một lần nói chuyện với cô tôi khi bà về thăm chúng tôi tại nhà, Cô là một nữ tu, Sơ mục vụ ở thành phố Buffalo, tôi được nghe Sơ kể về Cha Baker, rồi sơ chỉ tay về hướng driveway ở phía cuối đường xe đi, nơi có một căn nhà, “đó chính là nhà của Cha Baker.” Cho tới giờ phút đó, căn nhà là điều duy nhất tôi được biết về đời tư của Cha Baker!

Tôi tiếp tục tìm hiểu về Cha Baker, theo Thời Báo Buffalo, trong thời gian mục vụ, cộng đoàn phục vụ của Ngài đã nuôi người nghèo, họ đã cung cấp tới 50 triệu bữa ăn.

Trong giai đoạn đại khủng hoảng kinh tế (1930) Ngài và các thành viên phục vụ đã trao tặng hơn một triệu bữa ăn một năm, cung cấp quần áo ấm cho nửa triệu người.

Cơ quan từ thiện của Ngài chăm sóc y tế cho 250 ngàn người, cộng thêm việc cung cấp thuốc men cho 200 ngàn người nữa.

Có trên 300 ngàn người từ đàn ông, đàn bà, đến thanh niên, trẻ em đã được huấn luyện nghề nghiệp ở một chừng mực nào đó thông qua các cơ sở thiện nguyện của Ngài. Có 100 ngàn các em trai được huấn luyện tay nghề kỹ thuật chuyên môn.

Nhà cho Mẹ đơn thân và em bé sơ sinh, ảnh trích từ Wikipedia

600 các em gái chửa hoang trong cơn tuyệt vọng, đau khổ đã đến gõ cửa cơ quan của Cha Baker và được cứu vớt. 6000 trẻ sơ sinh bị vứt bỏ được cứu và có một mái nhà nương thân tại cơ sở từ thiện của Ngài.

Thể rồi Ngài mất vào năm 1936, đường phố Lackawanna bỗng dưng tràn ngập người là người, họ cùng nhau đi tham dự đám tang của Cha Baker, tạo nên một đám đông gần nửa triệu người.

Càng tìm hiểu về Ngài bao nhiêu, tôi càng say mê đời sống và công việc quá vị tha của Cha, thứ công việc tàm lam chả ai muốn dấy vào nhưng lại được Chúa ban ơn một cách nhiệm mầu. Vì yêu người cùng khổ, Cha nhìn ra nhu cầu to lớn quá mức của xã hội, nhất là các trẻ nam bụi đời, các trẻ gái chửa ngoài hôn nhân (vốn là điều bị khinh bỉ và cấm kỵ, bị ruồng bỏ vào thời đó). Chúa đã dùng một người để ảnh hưởng, tạo nên sự biến đổi tốt đẹp cho biết bao nhiêu cuộc đời, hàng triệu, triệu người.

Thật là một con người vĩ đại, sau khi tìm hiểu về lai lịch của Cha Baker. Tôi cảm thấy một sự thúc đẩy, tôi cần phải đến Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vinh Thắng, nơi có hầm mộ của Ngài để tĩnh tâm vì Cha Baker đang kêu gọi tôi, dường như Ngài muốn tôi tiếp nối công việc của Ngài.

Tôi đã cầu nguyện trước mộ Cha Baker trong tám tiếng đồng thời tôi được chứng kiến đức tin tốt đẹp của những người đến viếng mộ (Cha Baker chưa được tôn phong chân phước, hay hiển thánh). Trong khi cầu nguyện, tôi nài xin Cha Thánh cho tôi một dấu chỉ, đó là được sở hữu các thánh tính của Cha và… Ngài nhận lời tôi xin. Ngay sau đó, tôi tình cờ gặp một bà cụ, là thợ may ngày xưa của Cha, bà còn giữ được nguyên một bộ áo chùng linh mục của Cha Baker. Bà liền lộng kiếng 7 mảnh nhỏ vải và đem tặng cho tôi.

Rời Vương Cung Thánh Đường, tôi đến phi trường Buffalo để bay về nhà, ngày 6, tháng 6, năm 2008. Trong lúc nhàn rỗi, chờ chuyến bay, tôi lân la chuyện trò với người ngồi bên cạnh, bà ta tên là Debbie, một ca sĩ chuyên nghiệp vừa kết thúc cuộc lưu diễn, sô diễn ở Toronto, Gia Nã Đại. Không may là bà bị một thể ung thư lạ và được bác sĩ cho biết rằng bà chỉ còn vài tháng nữa để sống mà thôi. Ông chồng liền khuyến khích bà hãy làm tất cả những gì mình muốn trước khi từ giả cõi đời. Còn đang tràn đầy thần khí, tôi kể lại cho bà Debbie về chuyến đi của mình, cuộc thăm viếng mộ và di ảnh của Cha Baker. Rồi tôi đặt tay cầu nguyện cho bà ta nhờ Cha Baker dâng lên lời chuyển cầu của Ngài trước Chúa. Sau đó, chúng tôi ra đi. Tôi chả còn nghĩ ngợi nhiều về cuộc gặp gỡ ở phi trường, rồi ngày nọ, một giáo dân đến báo cho tôi biết rằng Người Đàn Bà mà tôi cầu nguyện cho ở phi trường đã được ơn chữa lành. Hai ngày sau, Debbie điện thoại cho tôi, bà cho biết căn bệnh ung thư, Metastasis melanoma (Ung thư hắc tố đã di căn), giai đoạn 4 (giai đoạn sau cùng của bệnh) coi như đã bị phán quyết tử hình rồi. Loại Ung thư này hung hiểm, nó đứng thứ hai về mức độ hung hiểm, chỉ sau bệnh ung thư tuyến tụy. Tôi liền nhờ bà thu thập dữ liệu y khoa để góp vào hồ sơ phong thánh cho Cha Baker.

Ngày nay Cha Stefan tiếp tục phục vụ trong cơ sở thiện nguyện có tên là “Paul Stefan Homes”, cơ sở chuyên phò sự sống, cứu vớt Mẹ bầu, Thai Nhi.

Cha là thành viên tích cực của ủy ban phò sự sống của Giáo Phận Virginia.

Một số hình ảnh của Mẹ đơn thân và con sơ sinh

Bà Evenly, người đồng sáng lập cơ sở “Paul Stefan Homes” nói, “Lòng tận tụy và đức tin của Cha Stefan Starzynski đã ảnh hưởng đến cách chúng ta sống cuộc sống của mình ngày nay. Sau sáu năm kể từ khi mở cửa cho Paul Stefan Homes, hơn 150 phụ nữ và trẻ sơ sinh đã có cơ hội cải thiện cuộc sống của họ. Chúng tôi kết hợp những lời cầu nguyện của chúng tôi với Cha Stefan, hy vọng rằng chúng ta sẽ chấm dứt nạn phá thai và chúng ta tiếp tục hỗ trợ phụ nữ một cách yêu thương bằng cách thiết lập những mái ấm khác ở mọi khu vực trên khắp đất nước (Hoa Kỳ).”

Cha Stefan còn có một nhiệm vụ quan trọng khác, lo giờ sau hết cho toàn thể bệnh nhân của nhà thương Inova Fairfax, tiểu bang Virginia. Trong đợt dịch Covid vừa qua, Cha được đặc quyền đi vào tất cả các phòng bệnh, (lạ quá Bác Sĩ cũng tin Cha được đặc ân miễn nhiễm khỏi Virus hay sao?)

Quả thực, Cha không hề bị Covid vật ngã, hơn thế nữa, Virus COVID không hề có chút ảnh hưởng nào trên thể lý của Cha ít nhất là cho tới ngày tháng này, 03/2023.

Bệnh nhân Covid được Cha lần chuỗi Lòng Thương Xót và cảm thấy được sự an ủi vô bờ bến vì vào cao điểm của COVID Cha là người duy nhất mà họ được gặp mặt trong tình trạng cô lập với thế giới bên ngoài. Đó là chưa kể lời cầu nguyện của Cha thường mang lại ơn chữa lành cho mọi bệnh nhân bất kể họ đang bị bệnh nan y gì. Lời cầu nguyện linh ứng của một Linh Mục tốt lành.

Phan Sinh Trần lược dịch

Linh mục bị bướu ở não được Đức Mẹ Lộ Đức chữa lành


Thông tấn xã Công Giáo Viêtcatholic

Linh mục bị khối u não cho biết ngài đã được chữa lành khi đến thăm Lộ Đức. Việc chữa lành diễn ra tức khắc, hoàn toàn không còn dấu vết bệnh tật, và không thể giải thích được về mặt y khoa.

Hãy ngợi khen Chúa vì sự tốt lành của Ngài!

Cha John Hollowell thuộc Tổng giáo phận Indianapolis đã thông báo vào ngày 30 Tháng Giêng rằng ngài đã được chữa khỏi bệnh u não khi đến thăm Lộ Đức, bên Pháp. Việc chữa lành cho ngài diễn ra tức khắc, hoàn toàn không còn dấu vết bệnh tật, và các bác sĩ nói họ không thể giải thích được về mặt y khoa.

Cha sở của Nhà thờ Công Giáo Truyền tin ở quận Brazil, của tiểu bang Indiana lần đầu tiên được chẩn đoán mắc bệnh u não vào đầu năm 2020. Ngài quyết định dâng tất cả những đau khổ của mình cho các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng.

Trong thông báo video trên YouTube, Cha Hollowell cung cấp một lịch sử ngắn gọn và sự quan phòng của Chúa trong việc chẩn đoán và chữa lành của ngài.

Ngài đã nhận được chẩn đoán mắc khối u não vào ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức, 11 tháng 2 năm 2020 tại bệnh viện Mayo.

“Tôi phát hiện ra mình có một khối u não tại bệnh viện Mayo vào ngày 11 tháng 2, lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Đêm đó, tôi đã thực sự có Thánh lễ trong Nhà nguyện Đức Mẹ Lộ Đức của bệnh viện này.”

Sau đó, cha Hollowell giải thích lịch sử của bệnh viện Mayo, bắt đầu sau tầm nhìn siêu nhiên của một nữ tu viện trưởng dòng Phanxicô.

“Viện trưởng đã nhìn thấy một bệnh viện và Chúa Giêsu bảo bà ấy đi vào thị trấn và tìm bác sĩ Mayo. Vì vậy, cô ấy đã làm, và đó là cách bệnh viện Mayo bắt đầu,” vị linh mục nói. “Các nữ tu là những y tá đầu tiên của bệnh viện. Bệnh viện Mayo thực sự được kết nối, và trong cùng tòa nhà với nhà nguyện Đức Mẹ Lộ Đức.”

Kể từ đó, vị linh mục đã trải qua phẫu thuật và điều trị, nhưng không lâu trước khi lên đường đến Lộ Đức, khối u của ngài tái phát. Tuy nhiên, ngài nói rằng ngài hài lòng với cái chết nếu Chúa muốn.

Ngài nói: “Kết quả chụp MRI cho thấy nó đang phát triển trở lại. Trên thực tế, chụp MRI cũng tìm thấy một khối u trên tuyến yên của tôi. Tôi không sao nếu tôi chết…Tôi sẵn sàng hy sinh cho những nạn nhân bị giáo sĩ Công Giáo ngược đãi”.

“Nhưng tôi nghĩ, nếu tôi đến Lộ Đức và tôi được chữa lành ở đó, thì điều đó có thể ảnh hưởng đến một số gia đình và bạn bè đã lìa xa Giáo Hội Công Giáo. Vì vậy, tôi đã đến đó và tôi đã được chữa lành,” ngài nói.

“Tạ ơn Chúa,” vị linh mục vui mừng. “Tôi rất phấn khích – dù thế nào thì tôi cũng rất vui, nhưng một lần nữa, tôi đã đến Lộ Đức và được chữa lành.”

Nhiều người dùng mạng xã hội đã vui mừng sau khi biết tin.

Nữ tu Veronica Paul đã viết: “Thật là một câu chuyện vinh quang tuyệt vời! Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, xin cầu cho chúng con. Thánh Bernadette, xin cầu cho chúng con.”

Một người dùng mạng xã hội khác nói: “Ngợi khen Chúa, Thiên Chúa của chúng con! Cha Hollowell đã nằm trong danh sách cầu nguyện của tôi kể từ khi được chẩn đoán vì ngài là một linh mục nổi tiếng thánh thiện và đây là Tin Vinh Quang!!! Tạ ơn Chúa!!! Xin Chúa tiếp tục chúc lành cho Cha Hollowell, khi cha ấy phục vụ Chúa Giêsu và chúng ta hàng ngày!

“Tôi nhớ đến cha ấy! Thật là một ân sủng đẹp đẽ mà ngài đã nhận được. Ngài đúng là một linh mục thánh thiện.”

Người dùng Twitter Karolina Beccue cũng cho biết: “Thật là một tin tức quá hay! Tôi rất mừng cho ngài! Vâng, Đức Mẹ thật tuyệt vời…”

Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, xin cầu cho chúng con!

Source:ChurchPOPPriest With Brain Tumor Says He Was Healed While Visiting Lourdes: “I’m Very Excited”

Tổng Bí thư đầu tiên của đảng Cộng Sản Việt Nam đã được rửa tội tại bệnh viện Chợ Quán

Phan Sinh Trần

Nguồn WikipediaVăn thơ Lạc ViệtThôn Quê Sài Gòn TVReuters

Tháng 3 năm 1931, với bí danh Anh Năm, Trần Phú chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 2 tại Sài Gòn bàn việc chấn chỉnh Đảng sau đợt khủng bố của thực dân Pháp. Hội nghị đã vạch ra nghị quyết về nhiệm vụ hiện tại của Đảng, nghị quyết về tổ chức của Đảng, nghị quyết về cổ động tuyên truyền. Tại hội nghị này, một quyết định về “Tổ chức ra cộng sản thanh niên Đoàn…tiền đề để hình thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về sau này.

Ngay sau Hội nghị, do sự phản bội của Ngô Đức Trì, ngày 19 tháng 4 năm 1931, Trần Phú bị chính quyền thuộc địa Pháp bắt tại nhà số 66 đường Champagne (đường Lý Chính Thắng hiện nay), Sài Gòn.

Biết ông là cán bộ cao cấp, chính quyền tìm cách dụ dỗ và tra tấn để khai thác thông tin. Nhưng với chí khí kiên cường, ông không bị khuất phục, dù bị đày ải nhiều lần. Ngày 6 tháng 9 năm 1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán ở tuổi 27 với lời nhắn nhủ bạn bè “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.

Sau khi ông qua đời, người thân ông vào Sài Gòn, tìm cách đưa thi hài ông ra chôn cất tại khuôn viên nghĩa trang Nhà thờ Họ đạo Chợ Quán Sài Gòn (tại cư xá Bắc Hải, đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

Năm 1998, chính quyền TP. HCM có chủ trương di dời các nghĩa trang của các xứ đạo tại cư xá Bắc Hải trên đường CMT8, Q.10 (mỗi xứ đạo có nghĩa trang riêng tại đây). Nghĩa trang các xứ đạo được gọi là Đất Thánh và chôn cất người Công giáo. Trong số những nghĩa trang bị di dời có nghĩa trang của họ đạo Chợ Quán.

Hội đồng giáo xứ (HĐGX) họ đạo Chợ Quán thông báo cho các thân nhân tự di dời hài cốt người thân của mình. Những ngôi mộ không có thân nhân thì HĐGX lo việc cất bốc và mai táng.

Trong quá trình cất bốc các ngôi mộ không có thân nhân, đã phát hiện một ngôi mộ trên tấm bia có ghi Phêrô Trần Phú. HĐGX báo cáo cho chính quyền sự việc trên. Chính quyền đã làm xét nghiệm ADN, và xác định bộ hài cốt này là của Trần Phú, vị TBT đầu tiên của ĐCSVN. Sau đó Trung ương Đảng, UBND TP.HCM, Chính quyền tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức đưa rước hài cốt ông về an táng tại quê nhà: Xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Khoảng đầu tháng 12 năm 1998, báo Sài Gòn Giải Phóng (Cơ quan ngôn luận của Đảng bộ TP. HCM) có bài đăng trên trang nhất với tựa đề: “Tại sao Đồng chí Trần Phú lại được an táng tại nghĩa trang họ đạo Chợ Quán?”

Sau khi báo loan tin khiến độc giả nhiều người thắc mắc, nhưng rồi cũng rơi vào im lặng vì không ai có câu trả lời.

Vào năm 2018, một chuyện tình cờ xảy ra: Một cụ già là lão thành cách mạng ở Trà Vinh, tình cờ phát hiện bài báo nói trên được dùng để gói thuốc bắc. Ông liền tò mò đọc và phát hiện ra sự việc. Ông là người từng hoạt động và từng bị giam cầm cùng nơi với Trần Phú bị giam trước đây. Do bị địch hành hạ dã man nên ông được chuyển tới bệnh viện gần đó và được các sơ Công giáo chăm sóc tận tình cùng với những người khác. Hàng ngày các sơ chăm sóc, kể chuyện đạo cho Trần Phú và các chiến sĩ khác và ông thấy lòng mình được bình yên nơi chúa Giê-su và ông quyết định theo đạo cùng các đồng chí khác và được an táng tại bệnh viện Chợ Quán.

Vào ngày 03/7/2018, ông viết thư kể lại toàn bộ sự việc và gửi Cha sở họ đạo Chợ Quán, là Linh mục Phanxicô Lê Văn Nhạc.

Linh mục Phanxicô Lê Văn Nhạc đã kiểm tra hồ sơ lưu trữ của giáo xứ Chợ Quán giai đoạn 1930-1940, và phát hiện trong sổ rửa tội năm 1931 có ghi tân tòng Phêrô Trần Phú; Sau đó ông sao chụp hồ sơ lưu sổ rửa tội, bài báo đăng trên SGGP và bức thư của vị lão thành cách mạng Trà Vinh, gửi ba nơi. Một gửi cho chính quyền thành phố Hồ Chí Minh, một gửi lên Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn, một lưu tại giáo xứ. Sau đó có người (là cán bộ an ninh) đến nói với linh mục Lê Văn Nhạc rằng không được tiết lộ thông tin này.

Hiện tài liệu của đảng chỉ viết: “Ngày 6 tháng 9 năm 1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán” mà thôi.

Ngày 4 tháng 1 năm 1999, phần mộ được cho rằng của ông đã được phát hiện. Ngày 12 tháng 1 năm 1999, hài cốt của Trần Phú được di dời về an táng tại quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh.

Hiện nay tại bệnh viện Nhiệt Đới (nhà thương Chợ Quán cũ) số 764 Võ Văn Kiệt, P.1, Q.5; bước vào cổng phía tay trái có một công viên nhỏ và tượng đài Đức Mẹ nay vẫn còn lưu giữ, là nơi các dì phước thời xưa mỗi buổi chiều đến thăm nom, chăm sóc bệnh nhân và đưa Mình Thánh cho các bệnh nhân có đạo được rước Chúa. Vào các chiều thứ bảy, các dì tổ chức dạy Giáo lý và có các Cha đến giải tội.


Ông Trần Phú là một trong những bệnh nhân được cảm hóa, tin Chúa và cảm mến Chúa để được rửa tội tại đây. Đi vào hành lang bên tay phải, nhà cầm quyền cho dựng lại “một chuồng cọp” nói là nơi giam giữ ông Trần Phú lúc được đem đến đây chữa bệnh. Người ta cũng dựng lên một bức tượng của ông tại đó.


Một nữ y tá làm việc lâu năm tại nơi này cho biết: “Cái nhà đá nói là nơi giam giữ ông Trần Phú là chuyện tưởng tượng. Bởi thời đó Bệnh viện là bệnh viện, và nếu là phạm nhân thì họ chỉ cần còng tay vào giường và có người canh gác là đủ”.

Riêng Cha sở Lê Văn Nhạc nay đã 80 tuổi. Ngài đang nghỉ hưu tại GX Hạnh Thông Tây, Gò Vấp”.

Cần biết, một người trưởng thành xin rửa tội vào đạo Công Giáo thủ tục còn khó hơn đứa trẻ sơ sinh. Giáo hội đòi hỏi người tân tòng phải học đạo, có người “đỡ đầu”, và trí óc còn minh mẫn (nếu là bệnh nhân).

Câu chuyện trên, chắc chắn không được nhà cầm quyền CSVN công nhận, bởi Lm Lê Văn Nhạc cho biết, ngài từng được Cán bộ CS đến hỏi thăm khi nhận được “hồ sơ” về việc rửa tội xin vào đạo Công Giáo của ông Trần Phú, và yêu cầu ngài không phổ biến tin tức này.

Và nếu phải nói về việc “ngoài dự kiến” không hay ấy, các văn nô viết lịch sử Đảng cũng sẽ nói “bọn thực dân và tay sai” đã ép buộc Đ/c Trần Phú vào đạo, để phá bỏ hình ảnh “vô thần” của Tổng Bí Thư.

Cho đến nay CSVN đã có 12 người làm TBT, nhưng rất nhiều ông khi chết đã bị hé lộ chuyện vẫn tin tưởng có thế giới bên kia, chứ không “vô thần” như lúc tuyên thệ vào Đảng. Ông HCM cũng nói khi chết sẽ đi gặp Các Mác và Lê Nin. Ông Lê Khả Phiêu trong nhà có bàn thờ Phật to tướng, và khi hạ huyệt có nhiều sư tụng kinh gõ mõ..v.v.

Chi tiết câu chuyện Trần Phú theo đạo còn được Thôn Quê Sài Gòn TV kể rõ ở đây:

https://youtu.be/wTm1ScGfJa0?t=638

Không phải chỉ có Trần Phú tin vào linh hồn bất tử, còn phải kể đến ông trùm cộng sản Fidel Castro, tổng bí thư đảng Cộng Sản Cuba,

Theo các bà vợ cũ và nạn nhân của Fidel kể lại, ông là một người chồng vũ phu và bệnh hoạn, đã từng cưỡng hiếp nhiều trẻ nhỏ từ 12 tới 17 tuổi, giao cấu với các tử tù nữ do cơ quan an ninh đưa nạp mỗi đêm, cho phép hút hết máu của tử tù trước giờ hành quyết để xuất khẩu lấy ngoại tệ giá 50 đô la một bịch máu.

Chính vợ và một số con gái phải chạy trốn vượt biên và đang sống ở Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Con trai lớn nhất của ông,  Castro Diaz-Balart một nhà khoa học, 68 tuổi,  đã tự sát năm 2017 vì bị trầm cảm nặng.

Cho đến nay, Cơ quan Lưu trữ ghi nhận khoảng 10.723 cái chết do chế độ Castro thực hiện. Bao gồm gần 1.000 trường hợp tử vong liên quan đến “mất tích”, hơn 2.000 vụ giết người không xét xử và hơn 3.100 người bị xử bắn. Khoảng 100 trẻ vị thành niên đã bị chế độ sát hại bằng cách đánh đập cho đến chết, không cho chăm sóc y tế và cấp dưỡng. Ngoài những vụ giết người này, ước tính có khoảng 78.000 người đã chết khi cố gắng chạy trốn khỏi đất nước.

Theo tờ Washington Thời Báo, trong những bức thư từ nhà tù của cựu chủ tịch Cuba Fidel Castro lúc còn là một thanh niên trẻ, khi chưa cướp được chính quyền ông từng tỏ ra “là một người có chiều sâu tâm linh khác thường – và là một người tin tưởng nhiệt thành vào Chúa”. Ông viết cho cha của một đồng chí đã ngã xuống, như sau:

– Tôi sẽ không nói về anh ấy như thể anh ấy vắng mặt, anh ấy đã không có mặt và sẽ không bao giờ có mặt. Đây không chỉ là những lời an ủi. Chỉ những ai trong chúng ta, những người cảm nhận nó một cách thực sự và vĩnh viễn trong sâu thẳm tâm hồn mình mới có thể hiểu được điều này. Cuộc sống vật chất là phù du, nó trôi qua không thể tránh khỏi… Sự thật này nên được dạy cho mọi người – rằng những giá trị bất tử của tinh thần ở trên cuộc sống vật chất. Cuộc sống có ý nghĩa gì nếu không có những giá trị này? Thế thì sống để làm gì? Những người hiểu điều này và hào phóng hy sinh mạng sống thể xác của mình vì lợi ích và công lý – làm sao họ có thể chết được? Thượng đế là ý niệm tối cao về sự tốt lành và công bằng.

Trong cuốn tự truyện viết năm 2009 của mình, Castro nói rằng Kitô giáo thể hiện “một nhóm giới luật rất nhân đạo” mang lại cho thế giới “các giá trị đạo đức” và “ý thức về công bằng xã hội”, sau đó ông kết luận một cách rõ ràng, “Nếu mọi người gọi tôi là Kitô hữu, không phải từ cách nhìn tôn giáo, nhưng từ quan điểm xã hội, tôi tuyên bố rằng tôi là một Kitô hữu.” Có tin đồn rằng Fidel đã trở lại đạo trước khi chết.

Lời Bàn:

– Chúa yêu thương mọi người và có thể cứu độ bất cứ tội nhân nào kể cả người Cộng Sản miễn là họ biết từ bỏ tội lỗi và sám hối quay về với tình thương của Chúa. Họ sẽ phải trả lẽ công bằng cho các nạn nhân khiếu nại với Chúa, tuy nhiên sau thời gian ở luyện hình, linh hồn họ cũng sẽ được cứu vớt.

Phan Sinh Trần

Tổng Bí Thư Trần Phú được rửa tội tại giáo xứ Chợ Quán trước khi qua đời

VỊ LINH MỤC VIỆT NAM RẤT ĐẶC BIỆT VÌ CÓ CHA THUỘC ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÓ MẸ THUỘC ĐẠO PHẬT

Nguyễn Văn Hùng

Nhất gia tam Đạo. Tam nhân tam Tôn. Gia đình liên Tôn. Một gia đình ba Tôn giáo. Ba thành viên trong cùng một gia đình lại thuộc ba Tôn giáo khác nhau.

Chuyện lạ không tưởng này đã xảy ra trong gia đình cha Phêrô Giuse Maria HÀ THIÊN TRÚC, đương kim Chánh xứ Martinô và nguyên là Phó xứ Hàng Xanh thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn.

Quả vậy, cha Trúc đã xuất thân trong một gia đình có thân phụ là một tín đồ thuộc Đạo Cao Đài và thân mẫu thuộc Đạo Phật.

Ngài nguyên là một bác sĩ y khoa có tâm và kiêm là một ca sĩ hát rất chân tình.

Cha ngài vì muốn con trai trưởng thành về tâm linh và vững mạnh về kiến thức nên đã đặt tên ngài là Thiên Trúc, tên cũ của Ấn Độ, một quốc gia Phật Giáo.

Cả ông cố và bà cố đều tôn trọng niềm tin của nhau, cùng sùng Đạo của riêng mình và đã tôn trọng sự chọn lựa tâm linh của các con, nên đã vui vẻ chấp nhận cho con trai mình là Hà Thiên Trúc được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Chính Chúa Giêsu đã phán: “Cây tốt thì sinh trái tốt. Xem quả thì biết cây” (Lc 6, 43-44). Ông bà cố bố mẹ cha Trúc quả thật rất tốt lành. Hiện nay cả hai ông bà cố đều đã an nghỉ. Lễ tang của ông bà cố đã được cử hành theo nghi thức của riêng Đạo mình.

Cha Trúc đã từng sống bên những người Công giáo đạo đức thánh thiện, đã được nghe biết về Chúa Giêsu cách sâu xa ấn tượng thuyết phục.

Chính vì thế mà cha Trúc đã gia nhập Đạo Công giáo vào năm 19 tuổi với sự chấp thuận, tôn trọng và ủng hộ rất vô tư của cả cha lẫn mẹ.

Ngài được Rửa tội ở Giáo xứ Tân Định, Sài Gòn năm 1989 và được gia nhập vào Giáo xứ này.

Không dừng lại ở đó, cha còn say mê Đạo Công giáo đến nỗi đã muốn trở thành một Linh mục để phục vụ nhằm đem ơn cứu độ cho nhân thế.

Cha đã được cha sở Gioan Baotixita Võ Văn Ánh giới thiệu vào Đại Chủng viện dưới sự dìu dắt tận tình vô tư trước đó của cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn.

Chính cha Lạn đã khuyến khích, đã nâng đỡ, đã hướng dẫn bác sĩ Hà Thiên Trúc trong những bước đầu của ơn gọi linh mục.

Và cuối cùng, sau 20 năm liên lỷ tận tụy theo Chúa, cha đã được truyền chức Linh mục vào ngày 19.06.2009. Năm nay 2021, cha vừa tròn 12 năm được làm Linh mục.

Vậy là cha Trúc tuy đang có một tương lai xán lạn, cũng đang phục vụ, mang lại an ủi cho nhiều bệnh nhân, nhưng đã chọn đi tu trở thành linh mục, và có lẽ đã làm nhiều người thắc mắc, khó hiểu.

Vậy là bác sĩ Trúc từ việc chữa lành thể xác con người cách chóng qua lại trở nên “bác sĩ” chữa lành tâm linh con người cách Vĩnh cửu.

Vậy là cha Trúc từ là người không hiểu gì về Đạo Công giáo đã trở thành thầy dạy sâu sắc về Đức tin Công giáo.

Khẩu hiệu đời linh mục mà cha đã chọn lại chính là những câu ca ngợi Thiên Chúa của Đức Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” (Lc 1,46).

Sở dĩ cha Trúc có đến 3 tên Thánh vì cha rất yêu thích Thánh Phêrô, rất sùng kính Đức Mẹ và tri ân cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn nên đã chọn tên Thánh Giuse để tưởng nhớ cha cố.

Cha đã thành tâm thiện chí tìm hiểu Đạo Công giáo nên đã khiến cha hết sức thán phục và quyết định gia nhập Đạo.

Hiện nay cha Trúc còn là thành viên tích cực của ủy ban đối thoại liên Tôn thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn và là phó Linh giám hội Legio Mariae Việt Nam.

Cha Trúc khi còn là một Chủng sinh đã từng chân thành tâm sự như sau:

“Ba con rất sùng đạo Cao Đài, ăn chay trường, đạo đức, có ước muốn con cái giúp ích cho đời (như: đặt tên chị con là “Thanh Tuyền” với ước mong phục vụ vô vị lợi cho đời như “dòng suối trong” chảy hoài không ngưng nghỉ, và hiện chị con là bác sĩ đang giúp ích rất nhiều cho các bệnh nhân và cho xã hội trong lãnh vực ngoại thần kinh và chẩn đoán hình ảnh).

“Và ba con cũng đã giác ngộ trên đường Đạo nên có ước mong các con cái sẽ được thăng tiến trong đời sống tâm linh (như đặt tên con là “Thiên Trúc”, tên cũ của Nước Ấn Độ – cái nôi của Phật giáo).

“Má con cũng là người sùng đạo Phật, đã dẫn các con cái quy y Phật. Má cũng thường đi học và nghe thuyết pháp về Phật giáo vào các chiều chủ nhật hàng tuần ở chùa Xá Lợi. Bản thân con cũng được má con dẫn quy y Phật vào năm học lớp 6, pháp danh “Thiện Tuấn”.

“Ba má con rất quan tâm, chăm sóc, giáo dục nhiều cho các con cái về tri thức và đạo đức.”

Cha Trúc chính là chứng nhân cho câu nói của Thánh Phê-rô: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!” (Cv 10, 34-35).

Hồng ân Chúa vẫn ngày ngày tuôn đổ như nắng như mưa xuống trần gian không phân biệt.

Bất cứ ai thành tâm thiện chí mở rộng tâm hồn, thì sẽ được đón nhận dồi dào ơn Chúa.

Chúng ta cùng nhau thành tâm cúi đầu tạ ơn Chúa, ngợi khen Chúa, chúc mừng cha Thiên Trúc, cám ơn sự thiện chí của cha, cám ơn sự quảng đại của ông bà cố, rồi cầu cho cha, cho ông bà cố và tất cả chúng ta ngày càng gần trái tim Chúa hơn.

Ước được như vậy. Amen.

Giuse Thanh Bình

(Bài viết có tham khảo một số nguồn tin).

Hơn 10 ngàn người tham dự Thánh lễ an táng thầy Biagio Conte, Phanxicô Assi thời nay

18/01/2023

Thầy Biagio Conte 

Ngọc Yến – Vatican News

Vatican News (18.01.2023) – Sáng thứ Ba 17/01/2023, hơn 10 ngàn người tham dự Thánh lễ an táng thầy Biagio Conte, một thừa sai giáo dân tông đồ bác ái, được gọi là Phanxicô Assisi thời nay, vì đã từ bỏ mọi sự, cho đi tất cả những gì mình có, sống như một ẩn sĩ và người hành hương, bắt đầu tìm kiếm tự do và an bình đích thực và theo gương thánh Phanxicô Assisi.

Biagio Conte sinh năm 1963 trong một gia đình giàu có ở Palermo. Năm 16 tuổi Biagio bắt đầu làm việc tại một công ty xây dựng do gia đình làm chủ. Anh sống thoải mái và vô tư trong một xã hội tiêu thụ. Nhưng rồi anh cảm thấy khó chịu, bất an trước những bất công xã hội mà anh chứng kiến hằng ngày, sự trống rỗng trong cuộc sống, sự vắng bóng các giá trị.

Thầy Biagio giữa mọi người

Năm 26 tuổi, anh từ bỏ mọi sự, sống như một ẩn sĩ và người hành hương, bắt đầu tìm kiếm tự do và an bình đích thực và theo gương thánh Phanxicô Assisi. Anh cho đi tất cả những gì mình có. Lúc đầu muốn đi truyền giáo ở châu Phi, nhưng khi ghé qua Palermo để chào người thân, Biagio thấy hoàn cảnh nghèo khó của người dân trong thành phố, nên quyết định ở lại, và vào năm 1993 thầy thiết lập trung tâm “Hy vọng và Bác ái”, trợ giúp và đón tiếp hơn 600 người vô gia cư và di dân trong hàng chục nhà. Ngày 15/9/2018, khi viếng thăm mục vụ tại thành phố Palermo, Đức Thánh cha đã đến thăm và dùng bữa trưa với thầy tại trung tâm “Hy vọng và Bác ái”.

Thầy Biagio thường mặc một chiếc áo choàng màu nâu, mang theo một cây gậy và vác thánh giá, đồng thời cũng được chú ý vì những lần tuyệt thực yêu cầu chính quyền dân sự quan tâm nhiều hơn đến những người gặp khó khăn.

Ngày 12/01/2023 thầy Biagio qua đời ở tuổi 59, sau một thời gian chiến đấu với căn bệnh ung thư ruột già.

Thầy Biagio sống bên lề đường như những người vô gia cư

Hay tin vị thừa sai giáo dân tông đồ bác ái qua đời, qua Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha đã gửi điện thư chia buồn đến Đức Tổng Giám Mục Corrado Lorefice của Palermo. Ngài nói : “Thầy Biagio Conte là thừa sai giáo dân đã nhận ra nơi những người nghèo khuôn mặt của Chúa Giêsu và đã dấn thân không biết mệt mỏi, an ủi, bảo vệ và mang lại hy vọng cho họ. Chứng tá can đảm theo tinh thần Tin Mừng của thầy Biagio Conte, người môn đệ của Chúa Kitô, đã thắp lên một ngọn lửa tình thương tại thành Palermo và trong tâm hồn những người gặp gỡ thầy”.

Đức Thánh Cha gặp thầy Biagio

Trong Thánh lễ an táng được cử hành vào sáng thứ Ba tại Nhà thờ Chính toà Palermo, trước sự hiện diện của hơn 10 Giám mục, nhiều linh mục cùng với 1.500 giáo dân trong nhà thờ và hơn 10 ngàn tham dự bên ngoài, Đức Tổng Giám Mục Corrado Lorefice nói: “Thầy Biagio đã nghe tiếng Chúa Giêsu, đã bỏ tất cả những gì mình có và đã sống nghèo khó với người nghèo, vì người nghèo. Trong thầy luôn có niềm vui. Thầy có tất cả, giàu có nhưng lại không có gì, không thiếu điều gì. Người nghèo, bình an và công lý là niềm say mê của người giáo dân này. Sự bảo đảm của thầy đến từ một nơi khác. Vì thế thầy đầy tràn sức sống ngay cả trên giường bệnh”.

Hàng ngàn người đưa tiễn thầy Biagio

Ngài nói thêm: “Kim chỉ nam cho cuộc đời của thầy Biagio là cầu nguyện tin tưởng. Mẫu gương của thầy sưởi ấm tâm hồn chúng ta. Thầy đã cùng đi trên con đường của chúng ta để bày tỏ lòng ưu ái dành cho người nghèo qua nụ cười. Bất công, tội ác và mafia sẽ không phải là lời cuối cùng. Thầy Biagio là một chiến binh ôn hòa và mạnh mẽ. Thầy đã chiến đấu để dạy chúng ta rằng có thể đấu tranh chống lại mọi hình thức bạo lực, mafia”.

Nguồn: vaticannews.va/vi

Nghệ sĩ Hoài Linh đã trở lại đạo Công Giáo sau bao năm tháng anh xa Chúa.

GIÁO XỨ ĐA MINH – BA CHUÔNG

Thật vui Trong đêm Chương Trình Xuân Yêu Thương, ngày 12.1.2023, tại giáo xứ Đa Minh Ba chuông, đã mời Nghệ sĩ Hoài Linh lên chia sẻ cuộc đời sống đạo trước đây của mình, và bây giờ Nghệ sĩ Hoài Linh đã trở lại đạo Công Giáo sau bao năm tháng anh xa Chúa.Hoài Linh, lúc bé đã từng là cậu bé giúp lễ tại giáo xứ Dầu Giây, giáo phận Xuân Lộc. Hoài Linh theo bà Nội đi lễ từ lúc 4 giờ sáng mỗi ngày.

Video gốc của nhà thờ ba chuông với phần trình diễn và tâm sự của Hoài Linh:

Trực tiếp đêm nhạc Xuân Yêu Thương lần 9 – 12.01.2023

From: Phan Sinh Trần

CÔ TIẾP VIÊN HÀNG KHÔNG

Kẻ Đi Tìm

Hôm đó, trên chuyến bay từ Ý về Mỹ, mang theo một số Giám Mục mới đi dự Công đồng Vaticanô II về, trên máy bay có một nữ tiếp viên hàng không rất xinh đẹp tên là Louise Bannet.

Suốt chuyến bay, cô rất bực mình vì một đôi mắt cứ nhìn chòng chọc vào cô, và đôi mắt đó không phải của ai khác hơn là Đức Cha Fulton Sheen, vị tông đồ lừng danh nước Mỹ.

Khi phi cơ hạ cánh, và đợi cho hành khách xuống hết, vị Giám mục mới tiến đến trước mặt cô, nói nửa nghiêm trang nửa bông đùa:

– Cô đẹp lắm! Cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.

Câu chuyện tưởng như vậy là xong.

Có ai dè đâu là mấy hôm sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Đức Cha Fulton Sheen.

Cô tiếp viên hàng không hôm nọ xuất hiện một cách đầy tự tin. Cô vào thẳng đề tài:

– Câu nói của Đức Cha mấy bữa trước làm cho con suy nghĩ mãi. Con phải cám ơn Chúa thế nào đây?

– Cô biết trại phong cùi Di linh ở Việt Nam chứ?

– Vâng, con đọc báo có nghe nói đến!

– Chúa đã lấy hết sắc đẹp của những người ở đó mà ban cho cô. Cô hãy qua bên đó an ủi họ.

Vâng! Chỉ từng ấy! Cô ctiếp viên hàng không trút bỏ cả tương lai huy hoàng, đã tự nguyện khoác lấy chiếc áo nữ tu trong Hội Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn Việt Nam, tình nguyện phục vụ những người cùi ở Di Linh tại Việt Nam, để cảm ơn Chúa đã ban cho mình sắc đẹp.

Chị Louise Bannet đã tình nguyện ở lại trại phong Di Linh suốt đời. Nhưng biến cố của năm 1975 gây ra nhiều biến động, khiến Chị không thể tiếp tục ý nguyện của mình. Sau mười năm phục vụ người phong, Chị đã phải lên đường về nước. Một thời gian sau, Chị lại xin Nhà Dòng cho đi phục vụ bệnh nhân phong cùi ở Tahiti.

Năm 1982, sau nhiều ngày bị căn bệnh ung thư quái ác hoành hành, Chị Louise Bannet đã qua đời giữa sự tiếc thương vô cùng của cộng đoàn anh chị em phong cùi tại Tahiti.

Sơ Cecilia trút hơi thở cuối cùng (43 tuổi) với nụ cười rạng rỡ trên môi.

Tu Le

Mình đã chứng kiến rất nhiều cái chết, đủ kiểu, vì nhiều nguyên nhân, trong nhiều tình huống khác nhau.

Nhưng đây là hình ảnh vô cùng hiếm hoi:

Sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư phổi, sơ Cecilia (Tu viện Thánh Têrêsa ở Santa Fe – Argentina) trút hơi thở cuối cùng (43 tuổi) với nụ cười rạng rỡ trên môi.

Sau này, khi biết đến khái niệm “cận tử nghiệp” của Đạo Phật, thì 10 phần hiểu đến 7, 8 phần, cái khoảnh khắc ấy thể hiện toàn bộ “nghiệp” lúc sinh thời (trừ trường hợp chết bất ngờ, đột tử)

Tâm lý của tuyệt đại đa số đều sợ chết, điều ấy là tất nhiên. đặc biệt với những người khi còn sống tham lam, ích kỷ thì càng sợ chết, thậm chí không bao giờ dám “đả động” đến khoảnh khắc ấy (sợ xui!).

Ngược lại, những người có đức tin, hầu như không sợ điều đó.

Tất nhiên, đức tin của mỗi tôn giáo là khác nhau, nhưng đều có chung một điểm: “Chết không phải là hết !”

Ở đây không làm cái việc so sánh giữa các đức tin (điều ấy không phù hợp) chỉ nói trong phạm vi biết và hiểu rất hẹp của mình.

Ngày còn sống, ông Thản kể lần ổng chết lâm sàng (rất giống và khớp với những trường hợp khác mà mình biết) Chỉ trong khoảnh khắc, ổng thấy lại gần như toàn bộ cuộc đời từ lúc còn nhỏ, những kỷ niệm sâu sắc nhất lần lượt xuất hiện rất nhanh như cuộn phim đang “tour” lại, rồi bị hút vào một không gian sáng trắng, không có gì, cho đến lúc ông nghe thấy các y tá, bác sĩ đang gọi ông.

Khoảnh khắc sắp lìa đời trong đạo Phật gọi là “cận tử nghiệp” và được Phật tử rất chú trọng (đặc biệt trong Kim Cang thừa)

Một đời người luôn luôn ở trong ba trạng thái : thiện, ác và không thiện không ác. Khoảnh khắc sắp chấm dứt hiện đời quyết định con đường (luân hồi) kế tiếp, dựa trên ba trạng thái đó, vì vậy mà ta có thể thấy hiện tượng : có người ra đi rất thanh thản, có người đau đớn vật vã và cũng có người ra đi trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh.

(Để biết sâu hơn, bạn hãy tìm nghe các bài giảng của các thượng toa, hòa thượng nói về cận tử nghiệp)

Dĩ nhiên, sống một đời tham tàn, đến lúc đó mới hối hận là quá muộn, thậm chí không cần là một người quá tham lam, độc ác mà chỉ là người luôn khó chịu với người xung quanh, luôn coi thường người khác hoặc chỉ bo bo vì mình, khoảnh khắc cuối cùng luôn tạo ra sự ăn năn, hối hận muộn màng.

Nữ tu Cecilia (Argentina) ra đi với nụ cười vì chẳng những cô sống một đời phạm hạnh mà cả cuộc đời cô mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác, cô không có gì để hối tiếc khi ra đi,

Tất cả những ai (không phải người tu hành) khi sống một đời tương tự sẽ ra đi thanh thản tương tự.

Ý thức đã ngưng, nhưng nghiệp thức vẫn còn để đi tiếp …

Bài này viết cũng đã lâu (2017), nhưng vì vừa cày vừa nhớ lại câu chuyện hôm qua …

Karen hỏi mình về “democracy … here and there …!” Mình bảo “… do nothing …!”

“Do nothing” nghĩa đen là “chẳng làm gì cả” … nhưng nghĩa bóng (không giải thích cho Karen – vì câu chuyện xoay quanh sự khác nhau trong tranh mình vẽ cho mình và cho khách) là: không tạo ra “nhân” dù lớn, dù nhỏ, ít hay nhiều cho bất cứ “quả” độc nào!

Le Van Quy Share từ FB anh Nguyen Thanh Binh