Ngày 7/6, tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn, TGM Giuse Nguyễn Năng đã đặt tay truyền chức linh mục cho 19 thầy phó tế. Trong số này, có tân linh mục Vincent Lucia Cổ Diệu Thanh, người gốc Hoa.
Điều đáng nói, tân linh mục Cổ Diệu Thanh không chỉ là người gốc Hoa mà còn là một Tân Tòng. Ơn gọi của cha khá đặc biệt. Thuở nhỏ, cha cùng các bạn hay đạp xe tới Nhà thờ Cha Tam chơi. Thế rồi, từng chút một Chúa cảm hoá cậu thiếu niên lúc nào không biết và giờ đây cậu trở nên một linh mục dâng trọn đời mình cho Chúa.
Một triệu phú… đã từ bỏ tất cả … để trở thành linh mục của Chúa Giêsu
♡♡♡ một bằng chứng sống động cho thấy ơn gọi linh mục và tu sĩ có thể xảy đến bất cứ lúc nào trong cuộc đời của một người ♡♡♡
Một người từng là người mẫu, một chuyên gia làm đẹp và là người sáng lập dòng mỹ phẩm “e.l.f” – đó là triệu phú Scott làm việc ở Beverly Hills, có một biệt thự trên bãi biển, và có mặt thường xuyên ở các quán bar, các bữa tiệc sang trọng của những ngôi sao thế giới.
Một ngày kia sau khi đọc kinh Mân Côi với gia đình, Scott đã thì thầm xin Đức Mẹ gìn giữ mình suốt cuộc đời. Đức Mẹ đáp lời cầu xin này, chính Scott xác quyết:
“Tôi biết Đức Mẹ đã đưa tôi đến với ơn gọi này vì tình thương của Mẹ dành cho tôi và cho Con Mẹ. Thực vậy, Chúa đã gọi tôi lúc tôi được 10 tuổi. Nhưng tôi đã đáp lời Người quá muộn”.
Scott kể về ơn gọi linh mục của mình:
“Một ngày kia, khi đang tham dự một lễ hội lớn, được bao quanh bởi những người giàu có, với cơ hội sẽ làm cho tài sản gia tăng, nhưng tự trong thâm sâu tôi cảm thấy ghê tởm vị trí này. Tôi cảm thấy trống rỗng, kiệt sức. Tôi thưa với Chúa: Lạy Chúa, nếu đây là cuộc sống, nơi tất cả những gì con thực hiện là công việc và tiệc tùng, ngày qua ngày bắt đầu, kết thúc và sau đó là cái chết, thì đó không phải là cuộc sống mà con nghĩ Chúa đã tạo cho con. Nhưng con không thể thay đổi nếu Chúa không giúp con. Tôi đã xin Chúa giúp và ơn Người đã hoán cải tôi. Chúa chúng ta chưa bao giờ từ bỏ tôi”.
Sau đó, khi trở về nhà, không một chút do dự, Scott chuẩn bị hành lý và rời khỏi biệt thự sang trọng. Scott nói:
“Tôi đơn giản không muốn ở trong nhà nữa. Mọi thứ làm cho tôi nhớ đến tội lỗi. Tôi thưa với Chúa: Lạy Chúa, con thực sự xin lỗi Chúa vì đã xúc phạm đến Chúa”.
Sau khi rời Los Angeles, Scott bắt đầu áp dụng lối sống điều độ hơn. Nhưng việc từ bỏ của cải và vinh dự đời này chỉ có thể thực hiện từng bước. Sau cuộc hành hương đến Đền thánh Đức Mẹ Mễ Du và cầu nguyện rất nhiều, cuối cùng Scott đã từ bỏ hoàn toàn bằng cách chuyển tài sản cho tổ chức phi chính phủ Bữa ăn Đức Maria, bệnh viện ung thư gần đó và cho người vô gia cư. Về điều này, Scott xác tín:
“Chúa chúng ta đã nói rõ ràng yêu mến Người là yêu thương người nghèo. Tôi sẽ tôn trọng yêu cầu này của Người trong suốt quãng đời còn lại của tôi”.
Vị linh mục tương lai thừa nhận việc từ bỏ này không phải là không đau lòng. Đó thực sự là một lựa chọn khó khăn và cần cố gắng suốt cả đời. Nhưng một khi đã thoát ra được, không phải lệ thuộc, chúng ta có được sự mãn nguyện tuyệt đối. Scott chia sẻ:
“Vâng, từ bỏ tất cả là một điều rất khó. Chỉ ơn Chúa thì một người đã từng sống trác táng mới có thể từ bỏ lối sống tội lỗi này. Tôi đã khóc cho cuộc sống cũ và phải bám vào Chúa để hoàn thành những mục tiêu mà Người đã đặt ra cho tôi. Người đã hạ mình xuống vì chúng ta và sẽ tiếp tục làm như vậy. Đó là cách duy nhất tôi có thể làm theo ý Người. Tôi chưa bao giờ hạnh phúc như trong lúc này, tràn đầy niềm vui. Tất cả những gì thế gian có thể cho tôi, tôi sẽ từ bỏ hàng triệu lần nếu điều đó làm cho tôi kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu hơn.”
Và với những ai đang dấn thân trong thừa tác vụ linh mục, Scott khuyên: “Chức tư tế là một hồng ân của Chúa. Tôi khuyên các chủng sinh và linh mục hãy đi chầu Thánh Thể, phủ phục trước Chúa Giêsu và cầu nguyện với Mẹ rất thánh để Mẹ giúp chúng ta hoàn thành ý muốn của Con Mẹ. Đó là chìa khoá giúp các linh mục sống đúng sứ vụ được Chúa uỷ thác, với sự khiêm nhường, tình yêu và niềm vui. Cuối cùng tôi muốn nói với tất các các chủng sinh và linh mục rằng chúng ta ở đây trên mặt đất này để giúp các linh hồn trở về với Chúa. Đó là một hồng ân và một ơn gọi. Chúng ta hãy ngợi khen Chúa và Ba Ngôi Chí Thánh. Tôi sẽ không bao giờ ngừng nói về lòng thương xót Chúa và tình yêu Người cho tất cả mọi người”.
[nguồn: Vatican News]
♡
Ơn gọi nào cũng tốt, bậc sống nào cũng quý. Chỉ cần đời sống ấy tỏa hương thánh thiện tuyệt vời, biết kiếm tìm điều thiện hảo, để sinh ích cho chính mình và cho tha nhân.
Nguyện ước cho cuộc đời mỗi người là một mùa xuân bác ái, yêu thương và hy vọng; biết can đảm mở lòng lắng nghe, phân định và bền tâm vững chí với chọn lựa tròn đầy nhất, để ta sống cuộc đời hạnh phúc, ngõ hầu Tin Mừng được đơm bông kết trái và lớn lên trên toàn thế giới.
Sinh ra trong một gia đình nhiều đời thuần Phật giáo nhưng vì bố anh từ Saigon phải đổi lên làm việc ở Nam Vang, Cao Mên, anh theo học trường Pháp của các Cha Thiên chúa giáo nên từ nhỏ đã có lòng kính Chúa và yêu Đức Mẹ, trong túi áo của anh luôn luôn có tấm hình Đức Mẹ Hằng Cứu rỗi.
Lớn lên, dù cuối tuần vẫn đưa đón ông bà cụ đi chùa, vẫn cùng cả nhà ăn chay vào ngày rằm và mùng một, anh đọc và nghiên cứu giáo lý của Phật Thích Ca như một nguyên lý hướng dẫn chúng sinh cách sống tốt đẹp, tử tế để xã hội được an lành. Là một Phật tử, quen anh, chị biết rõ đức tin và suy nghĩ của anh, chị chấp nhận sự khác biệt tư duy của mỗi người.
Sau đám cưới, một hôm mẹ chồng bảo chị:
– Con xem trong bóp của chồng con có tấm hình Đức Mẹ, liệu tìm cách lấy đi, má chỉ sợ có ngày chồng con theo hẳn bên đạo.
Chị e dè thưa:
– Dạ chắc con không dám, mình phải tôn trọng đức tin của ảnh thôi má à.
Mẹ chồng chị buồn rầu:
– Nhưng nó là con trai duy nhất trong gia đình, nếu theo đạo sau này ba má mất ai là người thờ cúng?
– Xin má yên tâm, con sẽ là người lo việc thờ cúng, giỗ quảy trong gia đình.
Mẹ chồng chị thở dài, nhưng từ đó bà không hề nhắc lại vấn đề hệ trọng này thêm lần nào nữa.
Cuối năm 1973 anh có học bổng trở lại Pháp theo một khóa tu nghiệp 2 năm, chị vẫn ở nhà cùng cha mẹ chồng và các con, cứ nghĩ 2 năm rồi sẽ qua mau, anh sẽ trở về vào cuối năm 1975. Nhưng chiến tranh và thời cuộc thay đổi nhanh như sấm chớp giữa trời quang, thoắt một cái miền Nam mất từng đoạn giang sơn vào tay cộng sản miền Bắc.
Đầu tháng 4/1975 chị đánh điện tín khuyên anh đừng về VN. Chị đang làm việc cho một công ty ngoại quốc sẽ tìm cách đưa các con qua Mỹ rồi qua Pháp gặp anh. Nhưng không ngờ gần cuối tháng Tư anh trở về Saigon bằng chuyến bay cuối cùng của hãng Air France. Ra đón anh, chị nghẹn ngào “sao anh lại về trong khi người ta đang tìm đủ mọi cách để ra đi”. Anh cũng nghẹn ngào “nhưng ba má đánh điện tín kêu anh về gấp và anh cũng rất sợ cảnh thất lạc mất em, các con và cả đại gia đình”…
Thôi thì số mệnh đã sắp đặt như thế, anh chị cùng cả nhà rơi vào hoàn cảnh đau thương, đói khổ chung của toàn thể miền Nam. So với nhiều người khác anh chị vẫn còn cái may được chính quyền mới “lưu dung” – ban đầu chị cứ tưởng chữ này là lưu dụng mà họ viết thiếu dấu nặng, nhưng mà không một cán bộ đã giải thích rõ ràng “các anh chị chỉ được lưu dung nghĩa là dung thứ và lưu lại để tạm thời giải quyết công việc đang cần, không có nghĩa là sẽ được đảng và nhà nước dùng các anh chị lâu dài”.
Trong bối cảnh đen tối, lầm than của cả một xã hội đang sống an lành trên mặt đất bỗng nhiên rơi đùng xuống một vực sâu thăm thẳm không biết bao giờ mới đưa con cái ngoi lên được, anh chị cũng như số đông người miền Nam lúc đó chỉ còn có con đường hy vọng duy nhất là thoát ra khỏi VN bằng mọi cách.
Người em của anh từ Canada làm giấy tờ bảo lãnh cả nhà ra đi theo chương trình “đoàn tụ gia đình”. Giấy tờ gởi về từ năm 1977, số phận nằm trong tay mấy cán bộ của sở Ngoại vụ, trong 4 năm liên tiếp từ 1977 đến 1980 ngày ngày anh và một nhóm người có thân nhân ở ngoại quốc bảo lãnh, cơm bới nước mang chầu chực ở sân cỏ trước cái sở này để chờ tin. Chạy chọt đủ đường, chỗ này mất 1 cây, chỗ kia 2 cây, cũng có khi nhận được tin vui, sắp có giấy xuất cảnh, sắp được phái đoàn Canada phỏng vấn, nhưng tin chỉ là tin miệng, chờ dài cổ cũng chưa hề thấy mảnh giấy nào trao tay.
Thời gian chờ đợi giấy tờ xuất cảnh trong vô vọng anh chị cũng đã vài lần tìm đường vượt biển nhưng không thành công. Các con ngày càng lớn, đường lối giáo dục vô cùng thiếu giáo dục của trường lớp trong xã hội cộng sản làm anh chị càng cuống cuồng lo lắng thêm, liều mạng đem con ra biển chín phần chết một phần sống hay tiếp tục chờ đợi tấm giấy cho phép rời VN??? Câu hỏi bám vào đầu óc luôn làm mất ăn mất ngủ, tiến thối lưỡng nan.
Một hôm anh đi đâu mất suốt ngày không bới theo lon cơm như mọi khi ra chầu sở Ngoại vụ, chiều tối đạp xe về anh chỉ nói với chị anh có việc phải lên Bình Triệu, chị cũng tưởng lại có đường dây vượt biển nào đó kêu gọi anh… Một buổi sáng vào tuần sau bỗng nhiên anh hớn hở đạp xe về sớm báo tin cho cả nhà “đã có giấy xuất cảnh, ngày mốt cả nhà phải đi lăn tay làm thông hành”.
Ôi Trời, đầu óc chị choáng váng như bị va vào cột, có thiệt không, thật hay mơ, ông bà, cha mẹ, con cái, tất cả rồi sẽ được lên máy bay ra khỏi đất nước âm u khổ nhục này một cách an lành??? Trong những giọt nước mắt trào ra vì vui mừng chị biết có một phần đau xót, quê cha đất tổ mà phải vui mừng khi được bỏ đi!!!
Rồi ngày cuốn gói lên máy bay cũng tới, nhà bán được mấy cây vàng đã chia hết cho các cô, chú bên nội của anh, đồ đạc trong nhà qua mấy năm thiếu ăn đã ra chợ trời gần hết, chỉ còn lại mớ quần áo, nồi niêu son chảo cũng đã chia hết cho bà con, láng giềng… Cả gia đình 10 người già trẻ với một mớ hành lý xách tay hỗn độn lên phi trường ngồi chờ người ta gọi lên máy bay. Chờ mãi, chờ mãi vẫn không thấy máy phóng thanh kêu tên mình, anh chị sốt ruột tới quầy Air France hỏi tiếp viên ở đó và được trả lời gia đình anh chị không có tên trong danh sách chuyến bay này. Anh chị gần như hóa đá khi nghe, không thể nào như vậy được, chúng tôi có giấy xuất cảnh và đã được thông báo ngày giờ của chuyến bay, vé máy bay đây, tại sao không có tên? Cô nhân viên bình thản dò lại một lần nữa tờ manifest, xin lỗi ông bà tôi không biết lý do nhưng gia đình ông bà hoàn toàn không có một tên nào được ghi ở đây.
Điếng người, anh chị thất thểu trở về chỗ ông bà cụ và đám con nít đang chờ đợi, không biết phải giải thích với cả nhà ra sao, không biết rời phi trường sẽ về đâu để trú ngụ đêm nay với bầu đoàn thê tử 10 người, với đám hành lý ngổn ngang túi xách. Đang chìm trong lo lắng, hoang mang thì bỗng nhiên có tiếng chào hỏi “Gia đình đang chờ lên máy bay đấy hẳn?” Ngẩng lên anh chị trông thấy cán bộ X, người vẫn lo giấy tờ và lo luôn việc hướng dẫn đường dây “bôi trơn” từ mấy năm nay.
Như bắt được vàng, anh vội vã nắm tay áo cán bộ X kéo đến quầy Air France cho anh ta biết tình trạng đang xảy ra. Anh ta quát lên với cô Air France “thậm vô lý, chính tay tôi đánh máy tên của gia đình anh này tại sao lại không có danh sách, để tôi vào bên trong xem lại”. Chỉ biến mất vào phòng bên chừng vài phút anh ta xuất hiện với tờ giấy trên tay và lại quát vào mặt cô tiếp viên “danh sách này tại sao để nằm trong hộc bàn?” Cô tiếp viên nói gì đó với anh cán bộ mà anh chị không nghe được, chỉ thấy tay cán bộ quay lại với nét mặt hòa hoãn “chỉ là sơ sót thôi, vậy là tốt nhé, gia đình anh chị sẽ lên máy bay hôm nay, không có sự cố gì quan trọng”.
Vậy mà bảo không có “sự cố gì quan trọng”… Thật là chết đi sống lại, anh chị lật đật trở về chỗ cả nhà đang đợi, vừa kịp nghe máy phóng thanh lần lượt kêu tên 10 người cuối cùng lên máy bay. Ra khỏi không phận VN chị mới cảm thấy bớt hồi hộp, lo lắng, lúc đó anh cầm tay chị nói thầm:
– Em có nhớ ngày anh đạp xe lên Bình Triệu không?
– Vâng, có đường dây vượt biên nào trên đó hả anh
– Không, anh lên gặp Đức Mẹ Fatima cầu xin Mẹ gia ơn cho nhà mình ra khỏi VN và hứa tới đất tự do việc đầu tiên anh làm là sẽ xin rửa tội.
Và khi thấy anh kín đáo làm dấu thánh giá chị nhắm mắt lâm râm cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát.
Giữ đúng lời hứa, đặt chân lên đất Canada, anh đã đến nhà thờ gần nhà xin làm thủ tục rửa tội, chính thức trở về với đạo, điều làm anh vui mừng nhất là ông bà cụ và cả nhà cùng hân hoan tham dự thánh lễ với anh. Và nhờ vào việc cha hoặc mẹ là một giáo dân các con của anh chị đã được nhập học trường công giáo, với hệ thống giáo dục giống trường công lập nhưng kỷ luật và nề nếp hơn hẳn các trường công.
Đức tin và lòng kính Chúa, yêu Đức Mẹ của anh vô cùng sâu nặng, mưa, gió, bão tuyết chưa bao giờ anh bỏ lễ Chúa nhật và thánh lễ Noel nửa đêm Giáng sinh, chị là người Phật tử duy nhất mỗi năm vẫn theo anh đi lễ nửa đêm để khi về nhà vợ chồng con cái có một bữa ăn khuya ấm áp hương vị gia đình giữa mùa đông giá rét.
Trên đất mới cũng như mọi di dân khác anh chị lao vào bất cứ công việc gì tìm được để nuôi gia đình, chị may mắn có một việc văn phòng, anh thì phải làm lao động trong hãng xưởng. Trước nay chỉ biết chữ nghĩa, sách vở, hoàn toàn không có kinh nghiệm làm việc lao động, lại thêm tay chân vụng về, chỉ sau 3 tháng thử việc là anh bị đuổi. Thất nghiệp nhưng sợ ông bà cụ lo lắng chị vẫn ngày ngày bới cơm cho anh ra đi từ sáng sớm y như lúc còn đi làm, có hôm anh than nhỏ với chị:
– Ngày nào cũng vô thư viện đọc sách hoài ngán qua em ơi.
– Thì anh đi nhà thờ, đi viện bảo tàng, đi lòng vòng mấy cái chợ, thay đổi không khí.
– Đi đâu cũng thấy ngày quá dài.
Nhưng cũng nhờ thời gian thất nghiệp anh mới rảnh rỗi tìm hiểu việc lấy lại bằng cấp, nộp đơn cho các cơ quan giáo dục để xin trở lại công việc dạy học. Sau mấy tháng chờ đợi, sau mấy lần phỏng vấn anh được nhận vào Sở Giáo dục Công giáo dạy môn Pháp văn thay thế cho bất cứ giáo viên ở bất cứ trường nào bị đau ốm phải nghỉ dạy bất ngờ. Công việc mới nhìn thì không khó vì khi giáo viên chính nghỉ dạy là học sinh cảm thấy như được sổ lồng, chúng không màng việc học, coi sự có mặt của substitute teacher như không, và chính việc giữ kỷ luật, không để học sinh làm ồn ào ảnh hưởng đến các lớp bên cạnh mới thật sự khó khăn cho người thầy làm công việc dạy thế. Quen với sự giáo dục và kỷ luật của học sinh VN, quen với việc tôn sư trọng đạo, tình cảm, sự tôn kính giữa thầy và trò ở VN, anh thấy hụt hẫng, thất vọng và tổn thương với tính cách hoang dã có thể coi là thất lễ của học sinh ở đây. Sự thất vọng và buồn bực làm anh thấy mỗi buổi đến trường là một cực hình, một đằng mong cho người ta kêu mình đi dạy để có tiền, một đằng cầu mong cho khỏi tới trường, sự mâu thuẫn này làm anh hao tâm tổn trí đến nỗi bị ulcer dạ dày.
Mùa hè năm đó anh chị mua được chiếc xe hơi, chị đề nghị cả nhà đi một chuyến vacation đầu tiên để anh bớt căng thẳng. Địa điểm được chọn là Montreal thăm viếng mấy gia đình bà con và nhất là viếng thánh đường St. Joseph sau đó tiếp tục lên thăm Quebec City, một thành phố du lịch xinh đẹp cách Montreal 4 tiếng lái xe. Dọc đường anh muốn ghé thăm nhà thờ St. Anne de Beaupré, một ngôi giáo đường nhỏ nhắn rất xinh nổi tiếng linh thiêng với những người công giáo.
Chị chụp cho anh tấm hình đang cầu nguyện trong nhà thờ này và trêu anh:
– Lần này anh lại xin Đức Mẹ chuyện gì nữa đây?
Anh cười cười:
– Rồi em sẽ biết khi anh nhận được phép lạ và ơn lành của Đức Mẹ.
Chị cũng cười và rồi quên bẵng chuyện trêu anh. Cho tới sau 2 tuần du lịch trở về khi mở hết những thư từ nhận được trong thời gian vắng nhà bỗng nhiên như có món quà từ trên trời rơi xuống, anh đưa cho chị lá thư của Sở Giáo dục Công giáo mời anh nhận việc mới là giáo sư thực thụ dạy tiếng Pháp cho những lớp chuyên dùng Pháp ngữ cho các môn học chính (French Emersion). Dạy những lớp này thì học sinh đa số đều ngoan, có kỷ luật, chịu khó học vì đã tự chọn tiếng Pháp làm sinh ngữ chính nên giáo sư cũng bớt mệt, bớt căng thẳng và bực mình.
Khi chị tròn mắt nhìn anh có ý dò hỏi, anh thì thầm “cũng là anh đã cầu xin Đức Mẹ ban tình thương cho anh ở giáo đường St. Anne de Beaupré” – chao ôi đức tin sâu nặng của anh, một tấm lòng sắt son tin tưởng mà chị không hề tưởng tượng được. Chính Đức tin mãnh liệt đó đã giúp anh vượt qua bao chặng đường chông gai, trắc trở, bao nỗi khổ phải chịu đựng từ trong nước ra đến hải ngoại.
Mùa Giáng sinh năm nay đánh dấu thời gian gia đình anh chị đặt chân đến đất nước Canada xinh đẹp, hiền lành đúng 42 mùa tuyết đổ, nhìn tuyết chị lại nhớ đến cảm giác đêm đặt chân xuống phi trường, lần đầu tiên thấy tuyết bao phủ mặt đất một màu trắng xóa, mênh mông chị có cảm giác thật lạ lùng, bơ vơ nhưng không hề sợ hãi, bởi vì chị biết mình đang được đứng trên một miền đất tự do thật sự, có thể dựa vào bàn tay, sức lực và ý chí của chính mình để xây dựng tương lai cho con cái.
Rồi như sực nhớ ra điều gì chị hơi ngơ ngác, ừ nhỉ, bao nhiêu năm nay anh có nghĩ như chị không hay với đức tin sâu nặng của mình anh đã đặt mọi sự vào bàn tay Đức Mẹ và các phép nhiệm mầu của Người? Dù sao đi nữa phải kể chị lại là kẻ rất may mắn đã có anh và Đức Tin của anh để được hưởng ké những Phép Lạ mà Đức Mẹ ban cho con chiên đầy nhiệt tâm với lòng lành như người đàn ông luôn đi bên cạnh chị.
Mời xem và nghe chuyện khó tin nhưng có thật. Thiên Chúa vẫn làm những điều kỳ diệu.
CÂY THÁNH GIÁ
… trên nắp quan tài của bác cán bộ “cỡ bự” …
Một câu chuyện kể về một vị cán bộ: Cuối đời, bác cán bộ nhớ ra ‘mình có đạo’!!!
+ [bác cán bộ]: Bà ơi, bà đi tìm cho tôi một linh mục Công giáo.
+ [vợ bác cán bộ]: Ông tìm để làm gì?
+ [bác cán bộ]: Bà cứ đi tìm giùm tôi đi. Nguyện vọng cuối đời của tôi là gặp một linh mục Công giáo.
Thế là ‘vợ bác cán bộ’ – cũng là một đảng viên, không có đạo – đã nhờ một ‘người hàng xóm’ kết nối với một linh mục Công giáo (cha Giuse Tiến Lộc)
+ [người hàng xóm]: Cha ơi cha, có ông cán bộ … đang cần gặp một linh mục Công giáo. Cha có thể đi [đến gặp ông ấy] được không?
+[cha Tiến Lộc]: Đi, đi ngay… Đây là một cơ hội tuyệt vời!!!
Trên đường đi thì cha Tiến Lộc nhớ đến đệ tử Lê Quang Uy (lúc đó là năm 1985 – khi ấy cha Giuse Lê Quang Uy chưa đi tu, chỉ là Huynh trưởng)
+ [cha Tiến Lộc]: Uy ơi, đi với tớ!!!
Cả hai cha Tiến Lộc và huynh trưởng Lê Quang Uy đèo nhau trên chiếc xe Honda đến nhà ông bà cán bộ.
+ [bác cán bộ]: Thưa cha, tôi là người Công giáo. Tôi bỏ đạo đi theo cách mạng… 50~60 năm rồi. Tôi nhớ khi còn trẻ tôi đã từng học trường ‘bà sơ’ [‘dòng các Nữ tu Phaolô Hà Nội’]
+ [cha Tiến Lộc]: Các sơ … đã dạy chương trình Pháp. Bác có nhớ các sơ dạy kinh cho mọi người không?
+ [bác cán bộ]: Có. Các sơ dạy kinh bằng tiếng Pháp.
+ [cha Tiến Lộc]: Bác ơi, bác có nhớ kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh bằng tiếng Pháp không?
+ [bác cán bộ]: Lâu lắm rồi tôi không đọc, không biết còn nhớ không… Tôi sẽ cố gắng đọc, nếu tôi có đọc sai hay thiếu sót chỗ nào thì cha sửa cho tôi nhé?
+ [bác cán bộ]: … Notre Père, qui es aux cieux, que Ton Nom soit sanctifié, que Ton règne vienne, que Ta volonté soit faite sur la terre comme au ciel. Donne-nous aujourd’hui notre pain de ce jour. Pardonne-nous nos offenses, comme nous pardonnons aussi à ceux qui nous ont offensés. Et ne nous laisse pas entrer en tentation mais délivre-nous du Mal. Amen; …
Bác cán bộ vấp chỗ nào thì cha Tiến Lộc mồi theo và hai bác cháu cùng đọc cho hết kinh Lạy Cha – Kính Mừng – Sáng Danh bằng tiếng Pháp. Đọc xong, bác cán bộ rơi lệ…
+ [cha Tiến Lộc]: Bác ơi, Đức Mẹ vẫn giữ cho bác, vì vậy bác vẫn còn ‘đức tin’… bác còn thuộc những kinh như vậy. Trong lòng của bác vẫn cháy sáng lửa của đức tin… nhờ Đức Mẹ.
+ [bác cán bộ]: À đúng rồi.
+ [bác cán bộ]: Thưa cha, tên thánh của tôi có tên thành là Maria, đầy đủ là John Mary (‘Gioan Maria’).
+ [bác cán bộ]: Cha giải tội cho con được chưa?
… (tham khảo chi tiết như link đính kèm) …
__________♡♡♡__________
Giáng sinh đã gần kề. Thiên Chúa làm người để cho con người được sống, đó là niềm vui cho nhân loại, cách riêng cho mỗi người Kitô hữu. Thế nhưng niềm vui đó vẫn chưa trọn vẹn khi thế giới này phần đông vẫn chưa nhận biết Chúa. Đau đớn hơn nữa, có biết bao người đã được ghi dấu ấn thiêng liêng qua bí tích Rửa tội, nhưng giờ đây đang sống xa rời Giáo hội, đức tin bị chao đảo, lung lay và sụp đổ.
Chúng ta hãy là những ngôi sao như Mẹ Maria mà chia sẻ lại câu chuyện trên đây như là một lời chứng!!!
[như lời tóm tắt của cha Giuse Lê Quang Uy ở phần cuối video].
– sói thanh –
TĨNH TÂM MÙA VỌNG, Gx. TÂN CHÂU 16.12.2023 – Mt 2 ,9-12 – TA DẪN AI ĐẾN GẶP CHÚA ? Lm. QUANG UY.
Một trong những vị thánh đương thời được coi là đã làm nhiều phép lạ nhất là Padre Pio. Sau 40 năm, thi hài thánh nhân lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới được đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện. Hai mắt nhắm lại và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ.
Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ ngày 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng trong 9 tháng.
Có tới 15.000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử hành khi thi hài của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Thi hài của thánh Padre Piô được khai quật hôm 3/3/2008 và cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn cất.
Từ ngày đó đến nay một nhóm chuyên gia gồm các bác sĩ y khoa và chuyên ngành hóa chất đã làm việc tận tình để tân tạo thi hài thánh nhân hầu có thể giữ và bảo tồn thi hài được lâu dài hơn trong suốt thời gian 9 tháng trưng bày cho dân chúng đến kính viếng.
Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý và là một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
• Cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn;
• Cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại miền Nam Ý.
Cha đã bị kết án là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.
Theo lời Đức Giám Mục D’Ambrôsiô thì «thi hài thánh Padre Piô hầu như không bị hủy hoại… Tuy nhiên năm dấu đanh trên mình thánh nhân đã hoàn toàn biến mất.»
Thi hài thánh Padre Piô hiện quàn tại San Giovanni Rotondo. Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng khuôn mặt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silicon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.
– Louis Pasteur : “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Đức Chúa Trời.. Thật là mĩa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết, hoặc chết là trở về với hư vô … Một chút khoa học sẽ gạt bỏ Chúa, giàu khoa học sẽ quay về với Chúa” .
…
– Albert Einstein: “Sự gian ác là do vắng bóng Thiên Chúa trong linh hồn … khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là què quặt….Tôi chưa hề gặp điều gì trong Khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo.”
…
– James Simpson : “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu .”
…
– Andre Marie Ampere “Con người chỉ vĩ đại khi quỳ xuống cầu nguyện với Thiên Chúa .”
…
– Blaise Pascal :”Giả như Thượng Đế không có, ta chẳng mất gì cả, nếu đã tin vào Ngài. Nhưng nếu có Ngài, ta sẽ mất tất cả, nếu ta không tin”
…
– Victor Hugo nói: “Nước Anh có hai cuốn sách: Kinh Thánh và Shakespeare. Nước Anh sinh ra Shakespeare; còn Kinh Thánh làm nên nước Anh”.
…
– Isaac Newton : “Cái huy hoàng của thái dương hệ, các hành tinh, sao chổi, chỉ có được là do sự điều hành của Một Đấng Thông Minh, Toàn Năng …Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính ….Thánh Kinh có nhiều biểu hiện chăc chắn về tính có thực hơn bât cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó …Trong đời mình tôi nhận biết được hai sự thật: thứ nhất – tôi là kẻ đại tội nhân, và thứ hai – Jêsus Christ vĩ đại vô lượng là Đấng Cứu Chuộc tôi …Lực hút Trái đất chỉ giải thích sự chuyển động của các hành tinh nhưng không thể làm rõ ai, khi nào và bằng cách nào đã đưa các hành tinh vào vị trí chuyển động như vậy. Chính Chúa trời là người điều khiển và sắp đặt vạn vật. Người là bất diệt, là vĩnh cửu…”.
…
– Becquerel: “Nhờ nghiên cứu khoa học, đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đưc tin .”
…
– Bourgeois: “Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng to hơn .”
…
– Duclaux: “Nếu sự sống đầu tiên xuât hiện trên mặt đât do tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuât hiện kia, nó kỳ dị như hòn đá, tự bò lên sườn núi .”
…
– Alessadro Volta : “Niềm tin như điện, bạn không thể thấy nó, nhưng có thể thấy ánh sáng .”
…
– Moreux : “Tôi liên lạc với cac vị giám đôc thuộc hầu hêt mọi đài thiên văn trên thế giới, tât cả đều tin có Thiên Chúa .”
…
– Charles Nicolle :“May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm; đó là dấu ấn của Thiên Chúa .”
…
– Thomas Alva Edison : “Edison hết sức khâm phục và ca ngợi tât cả kỷ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa .”
…
– Chevreul : “Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy công trình tạo dựng của Ngài”
…
– Diderot : “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần .”
…
– LaBruyère: “Tôi muốn thấy một người trong sạch và tiêt độ tuyên bố rằng không có Thượng đế, nhưng không thấy ai cả .”
…
– Wernher Von Braun : “Sự bao la huy hoàng của vũ trụ đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi được tăng thêm. Khoa học và đạo không thể mâu thuẫn nhau, nhưng là chị em ruột thịt, vì khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật, mà đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa quyền năng đã dựng nên vạn vật tốt đẹp lạ lùng”
…
– Bacon: “Kiến thức nông cạn đưa người ta xa tôn giáo, ngược lại kiến thức sâu sa đưa người ta lại gần tôn giáo .”
…
– Francois Coppée: “Làm sao từ nay tôi không tin có phep lạ, sau khi đã được phép lạ do sách Phúc Âm làm nơi tôi? Linh hồn tôi trước kia mù tịt trước ánh sáng đức tin, bây giờ đã thấy ánh sáng này với tât cả vẻ huy hoàng của nó. Linh hồn tôi trước kia điếc đặc trước Lời Chúa, nay đã nghe rõ ràng và vui sướng cảm phục. Linh hồn tôi trước kia tê liệt vì không tìm hiểu tôn giáo, lúc này đã nóng nảy hăng hái bay lên trời. Qủy dơ bẩn mà linh hồn tôi bị ám ảnh, nay đã bị đuổi đi .”
…
– T. Termier: “Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biêt Thiên Chúa hiện hữu…khoa học dẫn đến Thiên Chúa; và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa .”
…
– A. Eynieu : trong số 432 nhà bac học thuộc thế kỷ 19; 34 vị không biêt lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% cac nhà bac học tin có Thiên Chúa.
…
– Bossuet : “Những chân lý đời đời không thay đổi [của luân lý] buộc ta phải tin rằng có một Đấng Tạo Hóa”.
…
– Victor Gess : “Một nhà khoa học chân chính có thể tin vào Đức Chúa Trời được không? Tôi nghĩ là có … Tôi phải thừa nhận rằng qua suốt bấy nhiêu năm nghiên cứu khoa học của mình trong lĩnh vực vật lý và địa chất tôi chưa bao giờ nhận thấy những kết quả nghiên cứu khoa học có điều gì trái nghịch với đức tin vào Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa.”
…
– Charles Dickens : “Kinh Thánh Tân Ước chính là quyển sách tốt nhất đã từng và sẽ được biết đến trên thế giới”.
…
– Platon : “Những ai có một chút trí khôn, đều phải kêu cầu Đức Chúa Trời trước khi bắt đầu công việc của họ, dù việc lớn hay việc nhỏ”.
…
– Chateaubriand : “Tiêu hủy sự tin kính theo Phúc âm, thì mọi làng phải xây nhiều nhà ngục và phải có nhiều lý hình”.
Phép lạ tại Fatima trong ngày ĐTC Phanxicô đến Fatima 2023.
-Jimena – cô gái 16 tuổi bị khiếm thị đến từ Tây Ban Nha đã được sáng mắt tại Fatima sau khi tham dự thánh lễ và rước lễ vào sáng ngày 05/08/2023, đúng ngày ĐTC Phanxicô hành hương đến Đền Thánh Đức Mẹ Fatima.
Jimena giải thích với đài phát thanh COPE Tây Ban Nha, Em bị khiếm thị hai năm rưỡi qua, em cũng đang học chữ nổi dành cho những người khiếm thị.
Jimena cùng với nhóm Opus Dei đến từ Madrid đã lên đường đến Lisbon tham gia Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới. Trong thời gian này, Gia đình và bạn bè của Jimena đã làm tuần Cửu Nhật xin Đức Mẹ Tuyết chữa lành. Ngày cuối cùng của tuần Cửu Nhật, chính xác là ngày 05/08 – ngày lễ kính Đức Mẹ Tuyết. Cũng như mọi ngày của những tháng ngày trước đây, sau khi thức dậy đón chào ngày mới, Jimena nhìn mọi thứ rất mờ ảo, gần như không thấy.
Với sự tin tưởng được Đức Mẹ chữa lành bởi hôm nay là ngày cuối cùng của tuần cứu nhật và cũng là ngày lễ Kính Đức Mẹ Tuyết, Jimena tham dự thánh lễ và đã rơi nước mắt sau khi Rước lễ.
Nhưng sau đó, Jimena nói, “Tôi đã mở mắt ra, và tôi có thể nhìn thấy một cách hoàn hảo.”
”Tôi đã nhìn thấy bàn thờ, nhà tạm, bạn bè của tôi đã ở đó và tôi có thể nhìn thấy họ một cách rõ ràng.”
”Đức Trinh Nữ đã chữa lành cho tôi, Mẹ đã ban cho tôi một món quà to lớn mà tôi sẽ không bao giờ quên,” Jimena khẳng định.
Đức Hồng y Juan José Omella, chủ tịch hội đồng giám mục Tây Ban Nha, trong một cuộc họp báo sau khi kết thúc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đã nói về phép lạ mà Jimena nhận được tại Fatima, tôi đã có cơ hội nói chuyện với Jimena trong một cuộc gọi video.
ACI Prensa cho biết, Đức Hồng y gọi phép lạ là “ân sủng của Chúa” và ngài cho biết thêm các bác sĩ sẽ xem xét tình trạng cụ thể, nhưng hiện tại, đối với Jimena, đây là “một sự kiện đáng kinh ngạc”.
”Chúng tôi muốn nói rằng, đây là một phép lạ. Cô ấy đã không nhìn thấy, và bây giờ cô ấy nhìn thấy. Các bác sỹ có thể kiểm chứng với gia đình, bạn bè và những người đã có mặt ở đó, nhưng cô ấy sẽ trở về nhà với đôi mắt sáng. Phúc lành của Chúa.”
Ông José Lourenço da Silva đã được rửa tội có điều kiện, vì không rõ ông ấy đã được rửa tội thành sự trước đây hay không.
Vào ngày 17 tháng 6 năm nay, ông 104 tuổi, ông José Lourenço da Silva đã lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo – đó là Bí tích Rửa tội, Rước lễ lần đầu và Thêm sức.
Buổi lễ được cử hành trong nhà nguyện Thánh Jude Thaddeus ở Alto Piquiri, Paraná, do Cha Antonio Murilo Macedo da Luz, cộng tác viên mục vụ của Đền thờ Thánh Giuse của Giáo phận chủ tế.
Trước đó vài tuần, những ngày đáng chú ý trong cuộc đời của cụ già trăm tuổi là chuyến viếng thăm mục vụ của cô Sidônia dos Santos, người làm việc trong lĩnh vực chăm sóc mục vụ cho người già. Khi cô ấy hỏi ông ấy đã được rửa tội chưa, ông ấy nói với cô ấy rằng ông ấy được “rửa tội ở nhà, chưa bao giờ đi nhà thờ” vì hồi đó nhà thờ địa phương “chưa có”. Ông ấy nói thêm rằng ông ấy muốn lãnh nhận các bí tích trong nhà thờ và đặc biệt là “rước Mình Thánh Chúa”.
Ngay lập tức, những sắp xếp cần thiết đã được thu xếp để ông được biết một ít về giáo lý căn bản. Đó là sự chuẩn bị tích cực kéo dài một tháng để ông hiểu đúng ý nghĩa và trên hết là giá trị khôn lường của mỗi bí tích.
Ngày trọng đại cuối cùng cũng đến! Sau khi được rửa tội, lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô lần đầu tiên, và được củng cố đức tin qua bí tích Thêm Sức, cụ ông trăm tuổi cho biết cụ cảm thấy rất hạnh phúc:
Thân thể tôi vốn nặng nề, giờ nhẹ nhõm. Tôi đã từng nằm trên giường và mơ về nhiều điều xấu xa, giờ thì không còn nữa. Sau lễ rửa tội, tôi không còn mơ nữa! Tôi đã cải thiện rất nhiều.
Rửa tội có điều kiện
Điều quan trọng cần lưu ý là đã có “những nghi ngờ thận trọng” về tính hợp lệ của phép rửa tội mà ông ấy nói rằng ông ấy đã nhận được ở nhà, vì không có hồ sơ đáng tin cậy nào để xác nhận điều đó một cách thỏa đáng. Trong trường hợp như vậy, Giáo hội có thể rửa tội cho một người “có điều kiện”, vì không thể lặp lại Bí tích rửa tội nếu đã hợp lệ. Điều này có nghĩa là nếu Ông José chưa được rửa tội hợp lệ, thì bây giờ ông ấy được rửa tội thực sự; và nếu ông ta làm như vậy, phép rửa tội ban đầu đó vẫn hoàn toàn hợp lệ, và nghi thức lặp lại sẽ không có hiệu lực.
Dịp kỷ niệm ngày an táng vị hoàng đế cuối cùng của Triều Nguyễn, tức Vua Bảo Đại, tại Paris ngày 6 tháng 8 năm 1997, tạp chí Aleteia có bài viết về việc vị hoàng đế này cuối cùng đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo do ảnh hưởng liên tiếp của hai người vợ Công Giáo:
TÌNH YÊU TỪ LẦN GẶP ĐẦU TIÊN Ở ĐÀ LẠT
Năm 1933, khi đang đi nghỉ tại một khu nghỉ dưỡng sang trọng ở miền Trung Việt Nam, Bảo Đại gặp Jeanne-Marie-Thérèse. Hai người trẻ tuổi ngay lập tức rất hợp nhau: Họ đã nhận được cùng một nền giáo dục phương Tây. Cô gái trẻ xuất thân từ một gia đình trí thức địa chủ giàu có, một trong những gia đình Công Giáo lâu đời nhất nước, vừa học xong ở Pháp, nơi cô đã được gửi đi, giống như Bảo Đại, năm 12 tuổi. Bắt đầu học tại trường nội trú Canons of Notre-Dame và sau đó tại tu viện Les Oiseaux ở Neuilly.
Chân thành yêu nhau, một vài tháng sau, vị vua trẻ tuyên bố đính hôn với một phụ nữ Việt Nam theo Công Giáo. Vui mừng thay, cha mẹ của cô gái trẻ – những người Công Giáo nhiệt thành đã cho xây dựng các nhà thờ và các công trình trong nước – được chứng kiến cuộc hôn nhân của con mình với hoàng đế.
Tin tức gây chấn động, triều đình không lấy làm vui mừng. Đối với triều đình, đó là một thảm họa thực sự ở một đất nước chủ yếu theo đạo Phật, nơi các Kitô hữu vốn là một số dân rất nhỏ, từng bị bách hại từ lâu, thậm chí bởi cả ông cố nội của Bảo Đại.
KẾT HÔN VỚI 1 PHỤ NỮ CÔNG GIÁO
Tai tiếng đã nổ ra trong bối cảnh tin đồn được đưa ra trước đó bởi tờ báo cộng hòa cho rằng hoàng đế đã được rửa tội.
Frederic de Natal cho hay tin ấy hoàn toàn sai sự thật “Không có bằng chứng; nhưng tin đồn đã lan rộng. Tại sao? Bởi vì Bảo Đại thực sự quan tâm đến đạo Công Giáo.”
Vì sự náo động của dư luận do tin đồn gây ra, chính phủ Pháp cuối cùng đã nhận thức được vấn đề này và kiểm duyệt tất cả các bài báo đăng tin sai về lễ rửa tội của ông.
Về phía Tòa Thánh, Đức Piô XI ban đầu từ chối ban miễn chuẩn theo giáo luật cần thiết cho cuộc hôn nhân khác đạo, mặc dù hoàng đế đã yêu cầu. Đức Giáo Hoàng yêu cầu những đứa con tương lai phải được rửa tội, giáo dục trong đạo Công Giáo. Frédéric de Natal giải thích :“Thực tế không thể như thế được; triều đình sẽ phản đối. Nhưng Bảo Đại đã ký một giao thức bí mật, theo đó, ông sẽ bí mật nuôi dạy các con của mình theo đức tin Công Giáo”.
Chính trong bối cảnh đó, lễ cưới – kéo dài bốn ngày, với một phần các nghi lễ hoàn toàn nghiêm cấm đối với công chúng – đã diễn ra tại hoàng cung ở Huế, từ ngày 20 tháng 3 đến ngày 24 tháng 3 năm 1934. Được phú cho một cá tính mạnh mẽ, cô dâu yêu cầu được phong là Hoàng hậu “Nam phương” (“Trời Nam”).
CÁC LỚP GIÁO LÝ KÍN ĐÁO
Hoàng hậu đã nuôi dạy các con của mình theo đạo Công Giáo song song với việc giáo dục chúng trong đạo Phật. Bà đã bí mật cho chúng được rửa tội. Và khi bà cho chúng học giáo lý, chồng bà ở gần và ông cũng lắng nghe bà.
Nhà nghiên cứu lịch sử hoàng gia cho biết, “Nam Phương đã thấm nhuần giáo dục tôn giáo cho ông, đặc biệt bằng cách đọc Kinh thánh cho con trai nghe trước mặt ông. Bầu không khí khác xa với các lễ nghi hoàng gia mà người ta có thể tưởng tượng ra! Bảo Đại giữ mọi thứ bên trong ông, giống như một kho báu bí mật mà cuối cùng sẽ nở rộ vào ngày ông xin lãnh phép rửa”.
Là một phụ nữ trọng bổn phận, Nam Phương đã tận tụy cùng với các nữ tu của Tu hội Đức Bà ở Đà Lạt, mở tu viện Les Oiseaux nơi bà cho các con gái của mình theo học. Nam Phương cũng có một dự án lớn mà bà muốn giao phó cho chồng: đó là đưa Việt Nam trở thành vương quốc Công Giáo đầu tiên ở Châu Á. Trong khi không bao giờ xuất hiện trước công chúng với các nhà chức trách Công Giáo, ông đã bí mật đọc Kinh Thánh.
CẢNH LƯU ĐÀY CỦA VỊ HOÀNG ĐẾ SA CƠ
Năm 1945, Nhật Bản đầu hàng, trao trả nền độc lập cho Việt Nam dưới tay Bảo Đại. Nhưng Bảo Đại đã thoái vị ngay sau khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền, tuyên bố lập ra chính phủ VNDCDH. Sau đó, Bảo Đại bị HCM hạ xuống chức vụ “cố vấn tối cao” để làm bù nhìn. Bảo Đại trốn HCM sang Hồng Kông sống lưu vong. Ông được người Pháp đưa trở về VN vào năm 1949, lên làm quốc trưởng chính phủ Quốc gia VN chứ không còn là hoàng đế, và cuối cùng bị phế truất vào tháng 10 năm 1955 bởi Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều đại Việt Nam cuối cùng đã vĩnh viễn rời bỏ chính trường.
Vị cựu hoàng đế này đã lưu vong cùng vợ và năm người con của họ ở Pháp, ở tuổi 42, để sống một cuộc hưu trí rất dài và rất kín đáo ở Cannes, và sau đó ở Paris.
Kinh tế không mấy dư giả. Chỉ còn một vài cận thần, tì nữ trung thành cùng lưu vong với ông. Bà Nam Phương, đau khổ vì sự không chung thủy của chồng, đã rời bỏ ông bất chấp lời xác tin hôn nhân của bà và đến cư trú tại căn hộ ở Corrèze, nơi bà qua đời ở tuổi 52. Về phần Bảo Đại, ông đã tìm lại ở Pháp lối sống của thời trẻ, tiếp tục săn bắn, chơi gôn và xe thể thao. Ông tiếp tục các cuộc phiêu lưu đa tình của mình… cho đến khi ông gặp Monique Baudot, một phụ nữ 23 tuổi quê ở vùng Lorraine, vào năm 1969.
5. CÔNG CHÚA MONIQUE VÀ NHÀ THỜ SAINT LOUIS DES INVALIDES
Chính tại đại sứ quán Zaire, ánh mắt họ đã gặp nhau. Monique Baudot phụ trách văn phòng báo chí của đại sứ quán. Bà kết hôn với hoàng đế năm 1972. Được gọi là Công nương Monique, bà là một phụ nữ rất sùng đạo với tính cách kín đáo, thường xuyên đi lễ tại nhà thờ Saint-Louis des Invalides ở Paris. Cuối cùng, bà đã thuyết phục được chồng mình gia nhập cộng đồng Công giáo. Năm 1988, ông được rửa tội lấy tên thánh là Jean-Robert.
Mặc dù buổi lễ diễn ra rất riêng tư, nhưng một số người thân cận với cả gia đình lẫn Đức Hồng Y Lustiger, Tổng Giám mục Paris vào thời điểm đó, xác nhận Bảo Đại đã chuẩn bị lâu dài để lãnh nhận phép rửa, một điều có thể được coi như một con đường rất đặc thù hướng tới đức tin Công giáo được đánh dấu bởi chứng từ sống động của hai người vợ: Nam Phương trước, sau đó là công nương Monique.
Nhà nghiên cứu lịch sử hoàng gia kết luận “Sau khi được rửa tội, Bảo Đại đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo một cách sốt sắng. Ông đã trở thành một Kitô hữu tận tụy. Sau khi trở thành một hoàng đế lưu vong và là một người đàn ông cô đơn, ông đã tìm thấy ơn cứu chuộc nơi Chúa Kitô.”
12.04.2012Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ Quốc Thúc.
Đây là một hồng ân nhưng không mà Chúa đã ban cho giáo xứ năm nay. Phải chăng Chúa muốn thưởng công bao nhiêu đóng góp thầm kín và kiên nhẫn của bao nhiêu hội đoàn, bao nhiêu giáo hữu trong giáo xứ? Không ai dám khẳng định. Chỉ biết rằng dưới sự lãnh đạo của Ban Giám Đốc nhiệt thành và hăng say truyền giáo, rất nhiều công việc đã được thực hiện, khi thì công khai, khi thì kín đáo.
Ông đã thấy và đã tin Phúc Âm Gioan, đọc trong lễ Phục Sinh, ngày Gs Vũ Quốc Thúc lãnh nhận phép rửa, kể lại việc bà Maria Mácđala, ông Simon Phêrô và ông Gioan đã ra mộ tìm Chúa. Cả ba người đã thấy và đã tin.Gs Vũ Quốc Thúc và các tân tòng khác cũng đã thấy và đã tin. Họ đã thấy gì? Họ đã thấy một ân huệ Chúa ban, một nghĩa cử đáng phục, một người bạn đáng mến? Hay một điều gì khác?Trước và sau nghi lễ rửa tội, người viết có dịp được nói chuyện với dăm ba tân tòng. Người viết hỏi họ xem lý do nào đã thúc đẩy họ gia nhập đạo công giáo. Một chị trả lời rằng: “Hai năm trước đây, em học xong, ra trường, tìm mãi, không được việc làm. Trong lúc chán nản, một người bạn rủ em đi Lộ Đức cầu nguyện. Em nghe theo. Mấy tháng sau, em tìm được việc làm. Em nghĩ rằng đó là ơn Đức Bà phù hộ. Em đến trình bày với cha Vinh và xin học đạo”. Một anh thanh niên kể rằng: “Cách đây đúng 4 năm, em không phải là công giáo, nhưng thích sinh hoạt và du lịch, đã ghi danh dự ngày JMJ Sydney. Em đã gặp được vài người bạn. Gương bác ái của họ làm em xúc động và suy nghĩ rồi quyết định đi sinh hoạt theo họ. Trong các sinh hoạt đó, em gặp được một thiếu nữ công giáo. Em muốn xây dựng cuộc đời lâu dài với nàng và để đảm bảo hạnh phúc lâu bền gia đình, em đã xin học giáo lý vào đạo”.Trên bình diện tổng quát ở giáo xứ Việt Nam Paris, Đức Ông Mai Đức Vinh (1), người lo việc dạy giáo lý tân tòng trên ba chục năm nay (1977-2012), đã đặt câu hỏi và đã trả lời: “Những động lực nào đã thúc đẩy người Việt Nam xin học giáo lý để gia nhập đạo Công Giáo? Xin thưa:• Vì đã khấn hứa với Chúa và Đức Mẹ (đặc biệt khi rời Việt Nam,…); • Vì đã lãnh nhận một ân huệ Chúa và Đức Mẹ ban (ơn khỏi bệnh, ơn thoát nạn, được việc làm,…); • Vì muốn gia đình được hiệp nhất trọn vẹn và bảo đảm hạnh phúc lâu bền (các đôi bạn đã lập gia đình một số năm, hay sắp lập gia đình,…); • Vì cảm mến đạo công giáo (thấy đạo công giáo quan tâm nhiều về bác ái nhân đạo, có những nhân vật nổi tiếng, như Mẹ Têrêxa Calcutta, Abbé Pierre, Đức Gioan Phaolô II, hoạt động bác ái của giáo xứ Việt Nam,…); • Vì ảnh hưởng tốt của các bạn công giáo (ngoại quốc hay Việt Nam, có khi đã quen thân lâu năm, có khi những năm ở ca đoàn, trong một sinh hoạt, như JMJ, trại hè,…) • Ngoài ra, Đức Ông còn nhắc đến một động lực khác nữa, thúc đẩy, lôi cuốn và đưa đến Thiên Chúa Tình Yêu. Đó là ảnh hưởng của những người bạn đời hay bạn thân, có đời sống và liên hệ hằng ngày với các lương dân dự tòng, những người đồng hành lâu dài, những người giúp hiểu giáo lý, những người nhận đỡ đầu.Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng “Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Sài Gòn, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng” (2).Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói: “Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh” (3).
Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.
Hôm nay, đã nhận Bí tích Rửa Tội, đã gia nhập Giáo Hội Tình Yêu, có lẽ Giáo Sư Jean-Paul Vũ Quốc Thúc và những tân tòng khác đã cảm nhận được những điều mà họ không thấy, nhưng cũng là những lực đưa đẩy họ tìm được Chúa, đi vào Đức Tin. Đó là những lời cầu nguyện và những sinh hoạt; có khi âm thầm của nhiều tín hữu, của nhiều cá nhân, của nhiều hội đoàn, của nhiều đồng nghiệp, bạn bè thân quen của họ, hay những nguyện cầu, suy nghĩ, biên khảo của chính họ; có khi công khai tổ chức quy mô ở giáo xứ, giáo phận, giáo hội, như các chiến dịch trong các năm: 2012 “Liên đới Niềm tin”, 2006 “Liên đới Tin Mừng”, 2005 “Liên đới Truyền giáo”, 2004 “Sống truyền giáo Tổng Giáo phận Paris”,…
Và hôm nay, đã nhận Bí tích Thêm sức, có lẽ họ cũng đã cảm nhận được sức thúc bách sống và biểu lộ đức tin, làm chứng nhân về Chúa Phục Sinh, rao giảng Lời Chúa và liên đới bác ái với mọi người, như lời Đức Phaolô VI đã nói trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu rằng: “Bản chất Hội Thánh được thể hiện qua một trách nhiệm có ba mặt: rao giảng Lời Chúa, cử hành các Bí tích, phục vụ bác ái. Đó là những trách nhiệm lệ thuộc vào nhau và không thể tách rời nhau được. Việc phục vụ bác ái đối với Hội Thánh không phải là một cách thức hoạt động trợ giúp có thể giao cho người khác, nhưng nó thuộc về bản chất của Hội Thánh, là một biểu lộ bản chất không thể từ bỏ được” (4).
2. Hội Ái Hữu Viện Đại Học Đà Lạt chúc mừng
Nhân dịp này, trong niềm vui chung cho cộng đoàn giáo xứ và đại gia đình thụ nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại Học Đà Lạt đã tổ chức một bữa tiệc, vừa để chúc mừng Lễ Rửa Tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc. Khoảng 70 người đã đến tham dự.
Mở đầu bữa tiệc, anh Phạm Trọng Khoát, chủ tịch hội Thụ Nhân, có đôi lời chúc mừng và dâng thầy Vũ Quốc Thúc bài thơ chúc thọ và mừng rửa tội:
“Trong đời sống hàng ngày của mỗi người, ai cũng có niềm tin. Bình thường niềm tin đó là những ước muốn, những tin tưởng, những hy vọng về vật chất hay cho thăng tiến trong xã hội. Tuy nhiên, còn có những niềm tin thiêng liêng cao cả, sâu đậm, thánh hóa, đó là niềm tin về tôn giáo. Hôm nay trong ngày lễ Phục Sinh, thầy Vũ Quốc Thúc đã chọn niềm tin vào Thiên Chúa, đón nhận bí tích rửa tội để trở thành một tín đồ Công giáo. Đại diện cho toàn thể Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, chúng con xin cảm ơn Đức Ông, quý Cha, quý vị và quý anh chị đã đến để chứng kiến, và chia sẻ niềm vui này với thầy Thúc, là một người cha trong gia đình thụ nhân.
Thưa Thầy, đối với những người đã trưởng thành, mỗi quyết định gia nhập bất cứ tôn giáo nào, vì nhiều lý do khác nhau, đều là chính đáng. Con nhớ những lần Thầy kể cho chúng con nghe về những phép lạ, những ơn lành mà Thầy đã nhận được, chắc hẳn đó là một trong những lý do đã tạo được niềm tin của Thầy với Thiên Chúa.
Trong một bài giảng của một linh mục người Mỹ mà con được nghe, vị linh mục này nói: “Hãy đến với Thượng đế, chứ đừng dùng Thượng Đế như số 911, chỉ khi nào cần thì mới gọi, xong rồi thôi”. Thầy không vậy, sau khi tìm thấy được lòng tin vào Thiên Chúa, Thầy đã quyết định trở thành tín đồ để thờ phượng Ngài. Ở tuổi của Thầy, đây không phải là một quyết định dễ dàng, cũng như trước những phê bình, dèm pha của người đời, nhưng thưa Thầy, đức tin bao giờ cũng thắng.
Đây là một bài học “dấn thân” thứ hai của Thầy cho chúng con. Đọc tác phẩm “Thời Đại của tôi” của Thầy, con đã học được bài học dấn thân cho đất nước, một lần nữa, Thầy lại cho chúng con thấy, ở bất cứ tuổi nào, việc có khó khăn đến đâu, khi đã tin tưởng, Thầy sẽ dấn thân vào việc đó.
Chúng con không được nhiều dịp gặp Thầy đông đủ, cho nên mỗi lần có cơ hội như hôm nay, là một lần chúng con xin được phép chúc mừng thượng thọ Thầy. Chúng con xin có một bài thơ của anh Thông xin kính tặng Thầy:
Nắng mới vườn xuân thoảng sắc hương, Thiều quang chợt đến lúc tinh sương. Niên kỷ cửu thập tri quốc mệnh, 年纪九十知國命 Bách niên chi kế chí cương thường. 百年之計志綱常 Thượng đế ban ơn qua vận hạn, Thiên thần giáng phúc thoát tai ương. Mừng Thầy rửa tội mùa xuân mới: Bách niên trường thọ phúc miên trường. 百年長壽福綿長
Chúng con xin thành thật cầu mong Thầy tiếp tục được ơn trên che chở, và tìm được sự bình an đạo, đời với đức tin mà Thầy vừa lãnh nhận” (5).
Sau đó, một chị đã dâng bon sai kính chúc thượng thọ thầy. Rồi anh Lê Đình Thông đã đích thân đọc bài Đường thi chúc mừng. Đức Ông Giám đốc Mai Đức Vinh, bận đi làm lễ, không đến tham dự được, nhưng gửi biếu chuỗi tràng hạt do Đức Bênêdictô XVI làm phép. Cha Tuyên úy Đinh Đồng Thượng Sách (thi sĩ Cung Chi) đã ghé chúc mừng Giáo sư Vũ Quốc Thúc và đề tặng một bài thơ.
Thầy Vũ Quốc Thúc có đôi lời cám ơn Đức Ông đã ban phép Rửa tội, phép Thêm sức, phép Mình Thánh Chúa và cám ơn Ngài đã trao tặng cỗ tràng hạt do Đức Bênêđictô XVI làm phép. Thầy cũng đã cám ơn cha Tuyên úy Đinh Đồng Thượng Sách đã ghé thăm và chúc mừng. Rồi thầy kể lý do tại sao theo đạo, tại sao đã chọn Giáo Sư Lê Đình Thông làm bõ đỡ đầu và tại sao lại đã muốn công khai nhận phép rửa tội. Thầy cám ơn các cựu giáo sư và sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt hiện diện hôm nay, cám ơn chân tình và thịnh tình của họ, đã tổ chức tiệc mừng lễ rửa tội và chúc thọ. Việc anh chị em ăn mừng thượng thọ cho thầy vào ngày Phục sinh, thật chẳng khác chi nhắc nhở cho thầy rằng đời sống tinh thần không bao giờ chấm dứt, không bao giờ hết. Đặc biệt hôm nay thầy nhận ăn mừng thượng thọ bởi vì nó đem lại một niềm vui, phấn khởi; đánh tan nỗi buồn man mác của những người tuổi đã xế chiều như thầy.
Thầy chúc cho mọi người theo gương văn hóa và giáo dục trong tinh thần THỤ NHÂN của Viện Đại Học Đà Lạt, đặc biệt là gương của ba vị Cựu Viện Trưởng: Lm Trần Văn Thiện (1957-1960), Lm Nguyễn Văn Lập (1960-1969) và Lm Giáo Sư Tiến sỹ Lê Văn Lý (1969-1975).
Ghi chú:
(1). Mai Đức Vinh, In: 60 năm Giáo xứ Việt nam Paris, 1947-2007, Giáo Xứ Việt Nam Paris; 2010, tr. 579 (2). Tài liệu ghi âm, do anh Phạm Trọng Khoát đánh máy và chuyển. Xin cám ơn anh Khoát (3). Ibidem (4). ĐTC Phaolô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThongDiep/01DEUS_CARITAS_EST.htm, số 25 (5). Tài liệu đánh máy, do anh Phạm Trọng Khoát chuyển. Xin cám ơn anh Khoát
Paris, ngày 12 tháng 04 năm 2012 (Trần Văn Cảnh) (Nguồn: Trung tâm Công giáo Việt Nam Gp. Orange)
Giáo sư Vũ Quốc Thúc trả lời phỏng vấn RFI ngày 08/03/2012. (Hình: Thanh Phương – RFI)