THÂN XÁC KHÔNG HƯ NÁT CHA THÁNH PIÔ NĂM DẤU THÁNH

Một trong những vị thánh đương thời được coi là đã làm nhiều phép lạ nhất là Padre Pio. Sau 40 năm, thi hài thánh nhân lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới được đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện. Hai mắt nhắm lại và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ.
Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ ngày 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng trong 9 tháng.
Có tới 15.000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử hành khi thi hài của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Thi hài của thánh Padre Piô được khai quật hôm 3/3/2008 và cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn cất.
Từ ngày đó đến nay một nhóm chuyên gia gồm các bác sĩ y khoa và chuyên ngành hóa chất đã làm việc tận tình để tân tạo thi hài thánh nhân hầu có thể giữ và bảo tồn thi hài được lâu dài hơn trong suốt thời gian 9 tháng trưng bày cho dân chúng đến kính viếng.
Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý và là một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
• Cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn;
• Cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại miền Nam Ý.
Cha đã bị kết án là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.
Theo lời Đức Giám Mục D’Ambrôsiô thì «thi hài thánh Padre Piô hầu như không bị hủy hoại… Tuy nhiên năm dấu đanh trên mình thánh nhân đã hoàn toàn biến mất.»
Thi hài thánh Padre Piô hiện quàn tại San Giovanni Rotondo. Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng khuôn mặt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silicon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.
Lạy thánh Padre Piô, xin cầu cho chúng con!

“ĐỨC TIN ĐI TÌM LÝ TRÍ” – CÁC NHÀ BÁC HỌC VÀ THIÊN CHÚA

Maria Nguyễn Vân

CÁC NHÀ BÁC HỌC VÀ THIÊN CHÚA

– Louis Pasteur : “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Đức Chúa Trời.. Thật là mĩa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết, hoặc chết là trở về với hư vô … Một chút khoa học sẽ gạt bỏ Chúa, giàu khoa học sẽ quay về với Chúa” .

– Albert Einstein: “Sự gian ác là do vắng bóng Thiên Chúa trong linh hồn … khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là què quặt….Tôi chưa hề gặp điều gì trong Khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo.”

– James Simpson : “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu .”

– Andre Marie Ampere “Con người chỉ vĩ đại khi quỳ xuống cầu nguyện với Thiên Chúa .”

– Blaise Pascal :”Giả như Thượng Đế không có, ta chẳng mất gì cả, nếu đã tin vào Ngài. Nhưng nếu có Ngài, ta sẽ mất tất cả, nếu ta không tin”

– Victor Hugo nói: “Nước Anh có hai cuốn sách: Kinh Thánh và Shakespeare. Nước Anh sinh ra Shakespeare; còn Kinh Thánh làm nên nước Anh”.

– Isaac Newton : “Cái huy hoàng của thái dương hệ, các hành tinh, sao chổi, chỉ có được là do sự điều hành của Một Đấng Thông Minh, Toàn Năng …Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính ….Thánh Kinh có nhiều biểu hiện chăc chắn về tính có thực hơn bât cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó …Trong đời mình tôi nhận biết được hai sự thật: thứ nhất – tôi là kẻ đại tội nhân, và thứ hai – Jêsus Christ vĩ đại vô lượng là Đấng Cứu Chuộc tôi …Lực hút Trái đất chỉ giải thích sự chuyển động của các hành tinh nhưng không thể làm rõ ai, khi nào và bằng cách nào đã đưa các hành tinh vào vị trí chuyển động như vậy. Chính Chúa trời là người điều khiển và sắp đặt vạn vật. Người là bất diệt, là vĩnh cửu…”.

– Becquerel: “Nhờ nghiên cứu khoa học, đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đưc tin .”

– Bourgeois: “Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng to hơn .”

– Duclaux: “Nếu sự sống đầu tiên xuât hiện trên mặt đât do tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuât hiện kia, nó kỳ dị như hòn đá, tự bò lên sườn núi .”

– Alessadro Volta : “Niềm tin như điện, bạn không thể thấy nó, nhưng có thể thấy ánh sáng .”

– Moreux : “Tôi liên lạc với cac vị giám đôc thuộc hầu hêt mọi đài thiên văn trên thế giới, tât cả đều tin có Thiên Chúa .”

– Charles Nicolle :“May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm; đó là dấu ấn của Thiên Chúa .”

– Thomas Alva Edison : “Edison hết sức khâm phục và ca ngợi tât cả kỷ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa .”

– Chevreul : “Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy công trình tạo dựng của Ngài”

– Diderot : “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần .”

– LaBruyère: “Tôi muốn thấy một người trong sạch và tiêt độ tuyên bố rằng không có Thượng đế, nhưng không thấy ai cả .”

– Wernher Von Braun : “Sự bao la huy hoàng của vũ trụ đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi được tăng thêm. Khoa học và đạo không thể mâu thuẫn nhau, nhưng là chị em ruột thịt, vì khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật, mà đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa quyền năng đã dựng nên vạn vật tốt đẹp lạ lùng”

– Bacon: “Kiến thức nông cạn đưa người ta xa tôn giáo, ngược lại kiến thức sâu sa đưa người ta lại gần tôn giáo .”

– Francois Coppée: “Làm sao từ nay tôi không tin có phep lạ, sau khi đã được phép lạ do sách Phúc Âm làm nơi tôi? Linh hồn tôi trước kia mù tịt trước ánh sáng đức tin, bây giờ đã thấy ánh sáng này với tât cả vẻ huy hoàng của nó. Linh hồn tôi trước kia điếc đặc trước Lời Chúa, nay đã nghe rõ ràng và vui sướng cảm phục. Linh hồn tôi trước kia tê liệt vì không tìm hiểu tôn giáo, lúc này đã nóng nảy hăng hái bay lên trời. Qủy dơ bẩn mà linh hồn tôi bị ám ảnh, nay đã bị đuổi đi .”

– T. Termier: “Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biêt Thiên Chúa hiện hữu…khoa học dẫn đến Thiên Chúa; và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa .”

– A. Eynieu : trong số 432 nhà bac học thuộc thế kỷ 19; 34 vị không biêt lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% cac nhà bac học tin có Thiên Chúa.

– Bossuet : “Những chân lý đời đời không thay đổi [của luân lý] buộc ta phải tin rằng có một Đấng Tạo Hóa”.

– Victor Gess : “Một nhà khoa học chân chính có thể tin vào Đức Chúa Trời được không? Tôi nghĩ là có … Tôi phải thừa nhận rằng qua suốt bấy nhiêu năm nghiên cứu khoa học của mình trong lĩnh vực vật lý và địa chất tôi chưa bao giờ nhận thấy những kết quả nghiên cứu khoa học có điều gì trái nghịch với đức tin vào Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa.”

– Charles Dickens : “Kinh Thánh Tân Ước chính là quyển sách tốt nhất đã từng và sẽ được biết đến trên thế giới”.

– Platon : “Những ai có một chút trí khôn, đều phải kêu cầu Đức Chúa Trời trước khi bắt đầu công việc của họ, dù việc lớn hay việc nhỏ”.

– Chateaubriand : “Tiêu hủy sự tin kính theo Phúc âm, thì mọi làng phải xây nhiều nhà ngục và phải có nhiều lý hình”.

– và tôi haha:

Kẻ vô thần không tin có đời sau

Vậy đời này chúng cần gì tích đức

Lời nói, việc làm từ trong vô thức

Cõi tâm hồn sâu thẳm hư không.

Nguồn: Copy từ Cha John Nguyen Sinh  

Phép lạ tại Fatima trong ngày ĐTC Phanxicô đến Fatima 2023.

Peter Lương-sdb

Phép lạ tại Fatima trong ngày ĐTC Phanxicô đến Fatima 2023.

-Jimena – cô gái 16 tuổi bị khiếm thị đến từ Tây Ban Nha đã được sáng mắt tại Fatima sau khi tham dự thánh lễ và rước lễ vào sáng ngày 05/08/2023, đúng ngày ĐTC Phanxicô hành hương đến Đền Thánh Đức Mẹ Fatima.

Jimena giải thích với đài phát thanh COPE Tây Ban Nha, Em bị khiếm thị hai năm rưỡi qua, em cũng đang học chữ nổi dành cho những người khiếm thị.

Jimena cùng với nhóm Opus Dei đến từ Madrid đã lên đường đến Lisbon tham gia Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới. Trong thời gian này, Gia đình và bạn bè của Jimena đã làm tuần Cửu Nhật xin Đức Mẹ Tuyết chữa lành. Ngày cuối cùng của tuần Cửu Nhật, chính xác là ngày 05/08 – ngày lễ kính Đức Mẹ Tuyết. Cũng như mọi ngày của những tháng ngày trước đây, sau khi thức dậy đón chào ngày mới, Jimena nhìn mọi thứ rất mờ ảo, gần như không thấy.

Với sự tin tưởng được Đức Mẹ chữa lành bởi hôm nay là ngày cuối cùng của tuần cứu nhật và cũng là ngày lễ Kính Đức Mẹ Tuyết, Jimena tham dự thánh lễ và đã rơi nước mắt sau khi Rước lễ.

Nhưng sau đó, Jimena nói, “Tôi đã mở mắt ra, và tôi có thể nhìn thấy một cách hoàn hảo.”

”Tôi đã nhìn thấy bàn thờ, nhà tạm, bạn bè của tôi đã ở đó và tôi có thể nhìn thấy họ một cách rõ ràng.”

”Đức Trinh Nữ đã chữa lành cho tôi, Mẹ đã ban cho tôi một món quà to lớn mà tôi sẽ không bao giờ quên,” Jimena khẳng định.

Đức Hồng y Juan José Omella, chủ tịch hội đồng giám mục Tây Ban Nha, trong một cuộc họp báo sau khi kết thúc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đã nói về phép lạ mà Jimena nhận được tại Fatima, tôi đã có cơ hội nói chuyện với Jimena trong một cuộc gọi video.

ACI Prensa cho biết, Đức Hồng y gọi phép lạ là “ân sủng của Chúa” và ngài cho biết thêm các bác sĩ sẽ xem xét tình trạng cụ thể, nhưng hiện tại, đối với Jimena, đây là “một sự kiện đáng kinh ngạc”.

”Chúng tôi muốn nói rằng, đây là một phép lạ. Cô ấy đã không nhìn thấy, và bây giờ cô ấy nhìn thấy. Các bác sỹ có thể kiểm chứng với gia đình, bạn bè và những người đã có mặt ở đó, nhưng cô ấy sẽ trở về nhà với đôi mắt sáng. Phúc lành của Chúa.”

Lược dịch: Jos Nguyen

Nguồn: https://aleteia.org/…/was-there-a-miracle-in-fatima…/

Cụ ông 104 tuổi lãnh nhận các bí tích Khai tâm Kitô giáo

Vietcatholic Net

Thanh Quảng sdb10/Aug/2023

Alto Piquiri (bản tin từ San Jose)

Ông José Lourenço da Silva đã được rửa tội có điều kiện, vì không rõ ông ấy đã được rửa tội thành sự trước đây hay không.

Vào ngày 17 tháng 6 năm nay, ông 104 tuổi, ông José Lourenço da Silva đã lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo – đó là Bí tích Rửa tội, Rước lễ lần đầu và Thêm sức.

Buổi lễ được cử hành trong nhà nguyện Thánh Jude Thaddeus ở Alto Piquiri, Paraná, do Cha Antonio Murilo Macedo da Luz, cộng tác viên mục vụ của Đền thờ Thánh Giuse của Giáo phận chủ tế.

Trước đó vài tuần, những ngày đáng chú ý trong cuộc đời của cụ già trăm tuổi là chuyến viếng thăm mục vụ của cô Sidônia dos Santos, người làm việc trong lĩnh vực chăm sóc mục vụ cho người già. Khi cô ấy hỏi ông ấy đã được rửa tội chưa, ông ấy nói với cô ấy rằng ông ấy được “rửa tội ở nhà, chưa bao giờ đi nhà thờ” vì hồi đó nhà thờ địa phương “chưa có”. Ông ấy nói thêm rằng ông ấy muốn lãnh nhận các bí tích trong nhà thờ và đặc biệt là “rước Mình Thánh Chúa”.

Ngay lập tức, những sắp xếp cần thiết đã được thu xếp để ông được biết một ít về giáo lý căn bản. Đó là sự chuẩn bị tích cực kéo dài một tháng để ông hiểu đúng ý nghĩa và trên hết là giá trị khôn lường của mỗi bí tích.

Ngày trọng đại cuối cùng cũng đến! Sau khi được rửa tội, lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô lần đầu tiên, và được củng cố đức tin qua bí tích Thêm Sức, cụ ông trăm tuổi cho biết cụ cảm thấy rất hạnh phúc:

Thân thể tôi vốn nặng nề, giờ nhẹ nhõm. Tôi đã từng nằm trên giường và mơ về nhiều điều xấu xa, giờ thì không còn nữa. Sau lễ rửa tội, tôi không còn mơ nữa! Tôi đã cải thiện rất nhiều.

Rửa tội có điều kiện

Điều quan trọng cần lưu ý là đã có “những nghi ngờ thận trọng” về tính hợp lệ của phép rửa tội mà ông ấy nói rằng ông ấy đã nhận được ở nhà, vì không có hồ sơ đáng tin cậy nào để xác nhận điều đó một cách thỏa đáng. Trong trường hợp như vậy, Giáo hội có thể rửa tội cho một người “có điều kiện”, vì không thể lặp lại Bí tích rửa tội nếu đã hợp lệ. Điều này có nghĩa là nếu Ông José chưa được rửa tội hợp lệ, thì bây giờ ông ấy được rửa tội thực sự; và nếu ông ta làm như vậy, phép rửa tội ban đầu đó vẫn hoàn toàn hợp lệ, và nghi thức lặp lại sẽ không có hiệu lực.

VỊ HOÀNG ĐẾ CUỐI CÙNG GIA NHẬP ĐẠO CÔNG GIÁO

Niềm Vui Tin Mừng

Dịp kỷ niệm ngày an táng vị hoàng đế cuối cùng của Triều Nguyễn, tức Vua Bảo Đại, tại Paris ngày 6 tháng 8 năm 1997, tạp chí Aleteia có bài viết về việc vị hoàng đế này cuối cùng đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo do ảnh hưởng liên tiếp của hai người vợ Công Giáo:

  1. TÌNH YÊU TỪ LẦN GẶP ĐẦU TIÊN Ở ĐÀ LẠT

Năm 1933, khi đang đi nghỉ tại một khu nghỉ dưỡng sang trọng ở miền Trung Việt Nam, Bảo Đại gặp Jeanne-Marie-Thérèse. Hai người trẻ tuổi ngay lập tức rất hợp nhau: Họ đã nhận được cùng một nền giáo dục phương Tây. Cô gái trẻ xuất thân từ một gia đình trí thức địa chủ giàu có, một trong những gia đình Công Giáo lâu đời nhất nước, vừa học xong ở Pháp, nơi cô đã được gửi đi, giống như Bảo Đại, năm 12 tuổi. Bắt đầu học tại trường nội trú Canons of Notre-Dame và sau đó tại tu viện Les Oiseaux ở Neuilly.

Mộng Điệp: Giai nhân khiến Bảo Đại thất hứa với Nam Phương Hoàng hậu ...

Chân thành yêu nhau, một vài tháng sau, vị vua trẻ tuyên bố đính hôn với một phụ nữ Việt Nam theo Công Giáo. Vui mừng thay, cha mẹ của cô gái trẻ – những người Công Giáo nhiệt thành đã cho xây dựng các nhà thờ và các công trình trong nước – được chứng kiến cuộc hôn nhân của con mình với hoàng đế.

Tin tức gây chấn động, triều đình không lấy làm vui mừng. Đối với triều đình, đó là một thảm họa thực sự ở một đất nước chủ yếu theo đạo Phật, nơi các Kitô hữu vốn là một số dân rất nhỏ, từng bị bách hại từ lâu, thậm chí bởi cả ông cố nội của Bảo Đại.

The Summer Palace of Bảo Đại | Saigon For 91 Days

  1. KẾT HÔN VỚI 1 PHỤ NỮ CÔNG GIÁO

Tai tiếng đã nổ ra trong bối cảnh tin đồn được đưa ra trước đó bởi tờ báo cộng hòa cho rằng hoàng đế đã được rửa tội.

Frederic de Natal cho hay tin ấy hoàn toàn sai sự thật “Không có bằng chứng; nhưng tin đồn đã lan rộng. Tại sao? Bởi vì Bảo Đại thực sự quan tâm đến đạo Công Giáo.”

Vì sự náo động của dư luận do tin đồn gây ra, chính phủ Pháp cuối cùng đã nhận thức được vấn đề này và kiểm duyệt tất cả các bài báo đăng tin sai về lễ rửa tội của ông.

Về phía Tòa Thánh, Đức Piô XI ban đầu từ chối ban miễn chuẩn theo giáo luật cần thiết cho cuộc hôn nhân khác đạo, mặc dù hoàng đế đã yêu cầu. Đức Giáo Hoàng yêu cầu những đứa con tương lai phải được rửa tội, giáo dục trong đạo Công Giáo. Frédéric de Natal giải thích :“Thực tế không thể như thế được; triều đình sẽ phản đối. Nhưng Bảo Đại đã ký một giao thức bí mật, theo đó, ông sẽ bí mật nuôi dạy các con của mình theo đức tin Công Giáo”.

Chính trong bối cảnh đó, lễ cưới – kéo dài bốn ngày, với một phần các nghi lễ hoàn toàn nghiêm cấm đối với công chúng – đã diễn ra tại hoàng cung ở Huế, từ ngày 20 tháng 3 đến ngày 24 tháng 3 năm 1934. Được phú cho một cá tính mạnh mẽ, cô dâu yêu cầu được phong là Hoàng hậu “Nam phương” (“Trời Nam”).

  1. CÁC LỚP GIÁO LÝ KÍN ĐÁO

Hoàng hậu đã nuôi dạy các con của mình theo đạo Công Giáo song song với việc giáo dục chúng trong đạo Phật. Bà đã bí mật cho chúng được rửa tội. Và khi bà cho chúng học giáo lý, chồng bà ở gần và ông cũng lắng nghe bà.

Nhà nghiên cứu lịch sử hoàng gia cho biết, “Nam Phương đã thấm nhuần giáo dục tôn giáo cho ông, đặc biệt bằng cách đọc Kinh thánh cho con trai nghe trước mặt ông. Bầu không khí khác xa với các lễ nghi hoàng gia mà người ta có thể tưởng tượng ra! Bảo Đại giữ mọi thứ bên trong ông, giống như một kho báu bí mật mà cuối cùng sẽ nở rộ vào ngày ông xin lãnh phép rửa”.

Là một phụ nữ trọng bổn phận, Nam Phương đã tận tụy cùng với các nữ tu của Tu hội Đức Bà ở Đà Lạt, mở tu viện Les Oiseaux nơi bà cho các con gái của mình theo học. Nam Phương cũng có một dự án lớn mà bà muốn giao phó cho chồng: đó là đưa Việt Nam trở thành vương quốc Công Giáo đầu tiên ở Châu Á. Trong khi không bao giờ xuất hiện trước công chúng với các nhà chức trách Công Giáo, ông đã bí mật đọc Kinh Thánh.

  1. CẢNH LƯU ĐÀY CỦA VỊ HOÀNG ĐẾ SA CƠ

Năm 1945, Nhật Bản đầu hàng, trao trả nền độc lập cho Việt Nam dưới tay Bảo Đại. Nhưng Bảo Đại đã thoái vị ngay sau khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền, tuyên bố lập ra chính phủ VNDCDH. Sau đó, Bảo Đại bị HCM hạ xuống chức vụ “cố vấn tối cao” để làm bù nhìn. Bảo Đại trốn HCM sang Hồng Kông sống lưu vong. Ông được người Pháp đưa trở về VN vào năm 1949, lên làm quốc trưởng chính phủ Quốc gia VN chứ không còn là hoàng đế, và cuối cùng bị phế truất vào tháng 10 năm 1955 bởi Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều đại Việt Nam cuối cùng đã vĩnh viễn rời bỏ chính trường.

Vị cựu hoàng đế này đã lưu vong cùng vợ và năm người con của họ ở Pháp, ở tuổi 42, để sống một cuộc hưu trí rất dài và rất kín đáo ở Cannes, và sau đó ở Paris.

The ex-emperor of Anam, in Indochina, Bao Dai, was in Paris recently ...

Kinh tế không mấy dư giả. Chỉ còn một vài cận thần, tì nữ trung thành cùng lưu vong với ông. Bà Nam Phương, đau khổ vì sự không chung thủy của chồng, đã rời bỏ ông bất chấp lời xác tin hôn nhân của bà và đến cư trú tại căn hộ ở Corrèze, nơi bà qua đời ở tuổi 52. Về phần Bảo Đại, ông đã tìm lại ở Pháp lối sống của thời trẻ, tiếp tục săn bắn, chơi gôn và xe thể thao. Ông tiếp tục các cuộc phiêu lưu đa tình của mình… cho đến khi ông gặp Monique Baudot, một phụ nữ 23 tuổi quê ở vùng Lorraine, vào năm 1969.

5. CÔNG CHÚA MONIQUE VÀ NHÀ THỜ SAINT LOUIS DES INVALIDES

Chính tại đại sứ quán Zaire, ánh mắt họ đã gặp nhau. Monique Baudot phụ trách văn phòng báo chí của đại sứ quán. Bà kết hôn với hoàng đế năm 1972. Được gọi là Công nương Monique, bà là một phụ nữ rất sùng đạo với tính cách kín đáo, thường xuyên đi lễ tại nhà thờ Saint-Louis des Invalides ở Paris. Cuối cùng, bà đã thuyết phục được chồng mình gia nhập cộng đồng Công giáo. Năm 1988, ông được rửa tội lấy tên thánh là Jean-Robert.

Chùm ảnh: Tuổi già bên người vợ Pháp của cựu hoàng Bảo Đại - Redsvn.net

Mặc dù buổi lễ diễn ra rất riêng tư, nhưng một số người thân cận với cả gia đình lẫn Đức Hồng Y Lustiger, Tổng Giám mục Paris vào thời điểm đó, xác nhận Bảo Đại đã chuẩn bị lâu dài để lãnh nhận phép rửa, một điều có thể được coi như một con đường rất đặc thù hướng tới đức tin Công giáo được đánh dấu bởi chứng từ sống động của hai người vợ: Nam Phương trước, sau đó là công nương Monique.

Nhà nghiên cứu lịch sử hoàng gia kết luận “Sau khi được rửa tội, Bảo Đại đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo một cách sốt sắng. Ông đã trở thành một Kitô hữu tận tụy. Sau khi trở thành một hoàng đế lưu vong và là một người đàn ông cô đơn, ông đã tìm thấy ơn cứu chuộc nơi Chúa Kitô.”

Chuyện về cựu hoàng Bảo Đại và Monique Baudot - người vợ cuối cùng ...

Vũ Văn An Vietcatholic


 

GS.Vũ Quốc Thúc đã gia nhập Giáo hội Công Giáo

Yeuchua.net 

12.04.2012 Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ Quốc Thúc.

Đây là một hồng ân nhưng không mà Chúa đã ban cho giáo xứ năm nay. Phải chăng Chúa muốn thưởng công bao nhiêu đóng góp thầm kín và kiên nhẫn của bao nhiêu hội đoàn, bao nhiêu giáo hữu trong giáo xứ? Không ai dám khẳng định. Chỉ biết rằng dưới sự lãnh đạo của Ban Giám Đốc nhiệt thành và hăng say truyền giáo, rất nhiều công việc đã được thực hiện, khi thì công khai, khi thì kín đáo.

  1. Ông đã thấy và đã tin Phúc Âm Gioan, đọc trong lễ Phục Sinh, ngày Gs Vũ Quốc Thúc lãnh nhận phép rửa, kể lại việc bà Maria Mácđala, ông Simon Phêrô và ông Gioan đã ra mộ tìm Chúa. Cả ba người đã thấy và đã tin.Gs Vũ Quốc Thúc và các tân tòng khác cũng đã thấy và đã tin. Họ đã thấy gì? Họ đã thấy một ân huệ Chúa ban, một nghĩa cử đáng phục, một người bạn đáng mến? Hay một điều gì khác?Trước và sau nghi lễ rửa tội, người viết có dịp được nói chuyện với dăm ba tân tòng. Người viết hỏi họ xem lý do nào đã thúc đẩy họ gia nhập đạo công giáo. Một chị trả lời rằng: “Hai năm trước đây, em học xong, ra trường, tìm mãi, không được việc làm. Trong lúc chán nản, một người bạn rủ em đi Lộ Đức cầu nguyện. Em nghe theo. Mấy tháng sau, em tìm được việc làm. Em nghĩ rằng đó là ơn Đức Bà phù hộ. Em đến trình bày với cha Vinh và xin học đạo”. Một anh thanh niên kể rằng: “Cách đây đúng 4 năm, em không phải là công giáo, nhưng thích sinh hoạt và du lịch, đã ghi danh dự ngày JMJ Sydney. Em đã gặp được vài người bạn. Gương bác ái của họ làm em xúc động và suy nghĩ rồi quyết định đi sinh hoạt theo họ. Trong các sinh hoạt đó, em gặp được một thiếu nữ công giáo. Em muốn xây dựng cuộc đời lâu dài với nàng và để đảm bảo hạnh phúc lâu bền gia đình, em đã xin học giáo lý vào đạo”.Trên bình diện tổng quát ở giáo xứ Việt Nam Paris, Đức Ông Mai Đức Vinh (1), người lo việc dạy giáo lý tân tòng trên ba chục năm nay (1977-2012), đã đặt câu hỏi và đã trả lời: “Những động lực nào đã thúc đẩy người Việt Nam xin học giáo lý để gia nhập đạo Công Giáo? Xin thưa:• Vì đã khấn hứa với Chúa và Đức Mẹ (đặc biệt khi rời Việt Nam,…);
    • Vì đã lãnh nhận một ân huệ Chúa và Đức Mẹ ban (ơn khỏi bệnh, ơn thoát nạn, được việc làm,…);
    • Vì muốn gia đình được hiệp nhất trọn vẹn và bảo đảm hạnh phúc lâu bền (các đôi bạn đã lập gia đình một số năm, hay sắp lập gia đình,…);
    • Vì cảm mến đạo công giáo (thấy đạo công giáo quan tâm nhiều về bác ái nhân đạo, có những nhân vật nổi tiếng, như Mẹ Têrêxa Calcutta, Abbé Pierre, Đức Gioan Phaolô II, hoạt động bác ái của giáo xứ Việt Nam,…);
    • Vì ảnh hưởng tốt của các bạn công giáo (ngoại quốc hay Việt Nam, có khi đã quen thân lâu năm, có khi những năm ở ca đoàn, trong một sinh hoạt, như JMJ, trại hè,…)
    • Ngoài ra, Đức Ông còn nhắc đến một động lực khác nữa, thúc đẩy, lôi cuốn và đưa đến Thiên Chúa Tình Yêu. Đó là ảnh hưởng của những người bạn đời hay bạn thân, có đời sống và liên hệ hằng ngày với các lương dân dự tòng, những người đồng hành lâu dài, những người giúp hiểu giáo lý, những người nhận đỡ đầu.Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng “Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Sài Gòn, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng” (2).Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói: “Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh” (3).

    Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

    Hôm nay, đã nhận Bí tích Rửa Tội, đã gia nhập Giáo Hội Tình Yêu, có lẽ Giáo Sư Jean-Paul Vũ Quốc Thúc và những tân tòng khác đã cảm nhận được những điều mà họ không thấy, nhưng cũng là những lực đưa đẩy họ tìm được Chúa, đi vào Đức Tin. Đó là những lời cầu nguyện và những sinh hoạt; có khi âm thầm của nhiều tín hữu, của nhiều cá nhân, của nhiều hội đoàn, của nhiều đồng nghiệp, bạn bè thân quen của họ, hay những nguyện cầu, suy nghĩ, biên khảo của chính họ; có khi công khai tổ chức quy mô ở giáo xứ, giáo phận, giáo hội, như các chiến dịch trong các năm: 2012 “Liên đới Niềm tin”, 2006 “Liên đới Tin Mừng”, 2005 “Liên đới Truyền giáo”, 2004 “Sống truyền giáo Tổng Giáo phận Paris”,…

    Và hôm nay, đã nhận Bí tích Thêm sức, có lẽ họ cũng đã cảm nhận được sức thúc bách sống và biểu lộ đức tin, làm chứng nhân về Chúa Phục Sinh, rao giảng Lời Chúa và liên đới bác ái với mọi người, như lời Đức Phaolô VI đã nói trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu rằng: “Bản chất Hội Thánh được thể hiện qua một trách nhiệm có ba mặt: rao giảng Lời Chúa, cử hành các Bí tích, phục vụ bác ái. Đó là những trách nhiệm lệ thuộc vào nhau và không thể tách rời nhau được. Việc phục vụ bác ái đối với Hội Thánh không phải là một cách thức hoạt động trợ giúp có thể giao cho người khác, nhưng nó thuộc về bản chất của Hội Thánh, là một biểu lộ bản chất không thể từ bỏ được” (4).

    2. Hội Ái Hữu Viện Đại Học Đà Lạt chúc mừng

    Nhân dịp này, trong niềm vui chung cho cộng đoàn giáo xứ và đại gia đình thụ nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại Học Đà Lạt đã tổ chức một bữa tiệc, vừa để chúc mừng Lễ Rửa Tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc. Khoảng 70 người đã đến tham dự.

    Mở đầu bữa tiệc, anh Phạm Trọng Khoát, chủ tịch hội Thụ Nhân, có đôi lời chúc mừng và dâng thầy Vũ Quốc Thúc bài thơ chúc thọ và mừng rửa tội:

    “Trong đời sống hàng ngày của mỗi người, ai cũng có niềm tin. Bình thường niềm tin đó là những ước muốn, những tin tưởng, những hy vọng về vật chất hay cho thăng tiến trong xã hội. Tuy nhiên, còn có những niềm tin thiêng liêng cao cả, sâu đậm, thánh hóa, đó là niềm tin về tôn giáo. Hôm nay trong ngày lễ Phục Sinh, thầy Vũ Quốc Thúc đã chọn niềm tin vào Thiên Chúa, đón nhận bí tích rửa tội để trở thành một tín đồ Công giáo. Đại diện cho toàn thể Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, chúng con xin cảm ơn Đức Ông, quý Cha, quý vị và quý anh chị đã đến để chứng kiến, và chia sẻ niềm vui này với thầy Thúc, là một người cha trong gia đình thụ nhân.

    Thưa Thầy, đối với những người đã trưởng thành, mỗi quyết định gia nhập bất cứ tôn giáo nào, vì nhiều lý do khác nhau, đều là chính đáng. Con nhớ những lần Thầy kể cho chúng con nghe về những phép lạ, những ơn lành mà Thầy đã nhận được, chắc hẳn đó là một trong những lý do đã tạo được niềm tin của Thầy với Thiên Chúa.

    Trong một bài giảng của một linh mục người Mỹ mà con được nghe, vị linh mục này nói: “Hãy đến với Thượng đế, chứ đừng dùng Thượng Đế như số 911, chỉ khi nào cần thì mới gọi, xong rồi thôi”. Thầy không vậy, sau khi tìm thấy được lòng tin vào Thiên Chúa, Thầy đã quyết định trở thành tín đồ để thờ phượng Ngài. Ở tuổi của Thầy, đây không phải là một quyết định dễ dàng, cũng như trước những phê bình, dèm pha của người đời, nhưng thưa Thầy, đức tin bao giờ cũng thắng.

    Đây là một bài học “dấn thân” thứ hai của Thầy cho chúng con. Đọc tác phẩm “Thời Đại của tôi” của Thầy, con đã học được bài học dấn thân cho đất nước, một lần nữa, Thầy lại cho chúng con thấy, ở bất cứ tuổi nào, việc có khó khăn đến đâu, khi đã tin tưởng, Thầy sẽ dấn thân vào việc đó.

    Chúng con không được nhiều dịp gặp Thầy đông đủ, cho nên mỗi lần có cơ hội như hôm nay, là một lần chúng con xin được phép chúc mừng thượng thọ Thầy. Chúng con xin có một bài thơ của anh Thông xin kính tặng Thầy:

    Nắng mới vườn xuân thoảng sắc hương,
    Thiều quang chợt đến lúc tinh sương.
    Niên kỷ cửu thập tri quốc mệnh,

    Bách niên chi kế chí cương thường.

    Thượng đế ban ơn qua vận hạn,
    Thiên thần giáng phúc thoát tai ương.
    Mừng Thầy rửa tội mùa xuân mới:
    Bách niên trường thọ phúc miên trường.
    綿

    Chúng con xin thành thật cầu mong Thầy tiếp tục được ơn trên che chở, và tìm được sự bình an đạo, đời với đức tin mà Thầy vừa lãnh nhận” (5).

    Sau đó, một chị đã dâng bon sai kính chúc thượng thọ thầy. Rồi anh Lê Đình Thông đã đích thân đọc bài Đường thi chúc mừng. Đức Ông Giám đốc Mai Đức Vinh, bận đi làm lễ, không đến tham dự được, nhưng gửi biếu chuỗi tràng hạt do Đức Bênêdictô XVI làm phép. Cha Tuyên úy Đinh Đồng Thượng Sách (thi sĩ Cung Chi) đã ghé chúc mừng Giáo sư Vũ Quốc Thúc và đề tặng một bài thơ.

    Thầy Vũ Quốc Thúc có đôi lời cám ơn Đức Ông đã ban phép Rửa tội, phép Thêm sức, phép Mình Thánh Chúa và cám ơn Ngài đã trao tặng cỗ tràng hạt do Đức Bênêđictô XVI làm phép. Thầy cũng đã cám ơn cha Tuyên úy Đinh Đồng Thượng Sách đã ghé thăm và chúc mừng. Rồi thầy kể lý do tại sao theo đạo, tại sao đã chọn Giáo Sư Lê Đình Thông làm bõ đỡ đầu và tại sao lại đã muốn công khai nhận phép rửa tội. Thầy cám ơn các cựu giáo sư và sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt hiện diện hôm nay, cám ơn chân tình và thịnh tình của họ, đã tổ chức tiệc mừng lễ rửa tội và chúc thọ. Việc anh chị em ăn mừng thượng thọ cho thầy vào ngày Phục sinh, thật chẳng khác chi nhắc nhở cho thầy rằng đời sống tinh thần không bao giờ chấm dứt, không bao giờ hết. Đặc biệt hôm nay thầy nhận ăn mừng thượng thọ bởi vì nó đem lại một niềm vui, phấn khởi; đánh tan nỗi buồn man mác của những người tuổi đã xế chiều như thầy.

    Thầy chúc cho mọi người theo gương văn hóa và giáo dục trong tinh thần THỤ NHÂN của Viện Đại Học Đà Lạt, đặc biệt là gương của ba vị Cựu Viện Trưởng: Lm Trần Văn Thiện (1957-1960), Lm Nguyễn Văn Lập (1960-1969) và Lm Giáo Sư Tiến sỹ Lê Văn Lý (1969-1975).

Ghi chú:

(1). Mai Đức Vinh, In: 60 năm Giáo xứ Việt nam Paris, 1947-2007, Giáo Xứ Việt Nam Paris; 2010, tr. 579
(2). Tài liệu ghi âm, do anh Phạm Trọng Khoát đánh máy và chuyển. Xin cám ơn anh Khoát
(3). Ibidem
(4). ĐTC Phaolô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThongDiep/01DEUS_CARITAS_EST.htm, số 25
(5). Tài liệu đánh máy, do anh Phạm Trọng Khoát chuyển. Xin cám ơn anh Khoát

Paris, ngày 12 tháng 04 năm 2012
(Trần Văn Cảnh)
(Nguồn: Trung tâm Công giáo Việt Nam Gp. Orange)

Giáo sư Vũ Quốc Thúc trả lời phỏng vấn RFI ngày 08/03/2012. (Hình: Thanh Phương – RFI)

CHUỖI MÂN CÔI cứu gia đình tôi

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Đứa em gái tôi thương mến nhất bị đau mắt. Sau khi khám nghiệm kỹ lưỡng, bác sĩ nhãn khoa cho biết chứng bệnh có dấu hiệu trầm trọng có thể đưa đến mù lòa. Ông ra toa cho thuốc và hẹn sẽ tái khám. Ba Má tôi và 5 anh chị em chúng tôi, nghĩa là cả gia đình chúng tôi, bắt đầu làm Tuần Cửu Nhật khấn Đức Mẹ Lộ Đức. Riêng tôi, tôi hứa với Đức Mẹ MARIA là mỗi ngày sẽ lần một chục hạt, nếu em gái tôi được khỏi bệnh…

Đức Mẹ Lộ Đức tại Việt Nam – Legio Mariae – Đạo Binh Đức Mẹ

Lần khám bệnh tiếp theo đó vị bác sĩ vô cùng kinh ngạc vì thấy chứng bệnh của em gái tôi đã hoàn toàn biến mất. Kể từ ngày hôm đó, giữ lời đã hứa, mỗi ngày, tôi đều lần một chục hạt để tạ ơn Đức Mẹ MARIA. Lớn lên, tôi lập gia đình. Mỗi tối, chồng tôi và tôi, cả hai cùng lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ. Rồi đệ nhị thế chiến 1939-1945 diễn ra. Năm 1940, chồng tôi bị động viên. Ở lại nhà một mình, tôi theo cha mẹ tôi chạy giặc từ miền Bắc nước Pháp di cư xuống sinh sống tại Nantes, miền Trung nước Pháp, nơi gia đình người chị cả của tôi.

Những tin tức nhận được từ chiến trường sôi động miền Bắc, “miền hỏa ngục Dunkerque”, khiến tôi vô cùng lo âu. Một ngày, tôi đến nhà thờ cầu nguyện và hứa với Đức Mẹ MARIA là sẽ lần mỗi ngày trọn Chuỗi Mân Côi, nếu chồng tôi trở lại gia đình bằng an, khi chiến tranh chấm dứt…

ba-nhan-duc-chung-ta-co-the-hoc-duoc-khi-lan-chuoi-man-coi - Sinh Viên ...

Cầu nguyện xong, tôi ra về. Vừa bước vào nhà, chị tôi nói ngay với tôi: “Có thư cho em kìa”. Tôi vội vàng mở thư ra đọc. Đó là thư của chị dâu tôi, vẫn còn ở lại miền Bắc, viết cho tôi. Chị báo tin là trong thời gian qua chồng tôi bị bắt làm tù binh nhưng sau đó đã được thả ra. Hiện chồng tôi đã về lại nhà và đang mong đợi tôi. Đọc xong thư, tôi vô cùng sung sướng và hết lòng cảm tạ Đức Mẹ.

Khi gặp lại chồng, tôi mới biết là anh đã ba lần thoát chết.

Lần thứ nhất, khi anh lái chiếc xe cam-nhông chạy dưới những lằn đạn bắn như mưa của quân Đức. Đạn xuyên qua cạnh anh nhưng anh vẫn bằng an vô sự.

Lần thứ hai, đáng lý đơn vị của anh phải lên tàu sang Anh quốc nhưng vào phút chót, có lệnh thay đổi. Các binh sĩ Anh phải lên tàu thay vì binh sĩ Pháp. Và chiếc tàu này đã bị quân Đức bắn chìm ngay trước mắt các binh sĩ Pháp.

ASPI recommends ‘Pacific Crucible: war at sea in the Pacific 1941–42 ...

Lần thứ ba, vào một đêm, khi nghe còi báo động, anh liền ra khỏi giường, chạy ra ngoài, nằm rạp xuống nơi hành lang, thì cũng vừa lúc đó, đạn pháo kích bắn rơi vào phòng. Riêng anh thì không bị vết thương nào…

Kể từ ngày đoàn tụ gia đình sau chiến tranh, mỗi ngày tôi đều lần Chuỗi Mân Côi và càng ngày tôi càng yêu thích lần chuỗi Mân Côi. Tôi thâm tín rằng khi cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi thì chúng ta nhận được rất nhiều ơn lành của Chúa nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA và nhất là được Đức Mẹ thương yêu gìn giữ cách riêng.

Familia rezando rosario - MVC

Ước gì câu chuyện này khuyến khích nhiều tín hữu Công Giáo yêu chuộng và sốt sắng lần hạt Mân Côi, dâng kính Mẹ THIÊN CHÚA.

(Albert Pfleger, “FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Editeur Diffuseur, 1992, trang 114-115)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn: Nguyen Thai & NguynNThu

Ông Roman Kluska, doanh nhân người Ba Lan được ơn trở lại nhờ đọc Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa

Thánh nữ Faustina

Ông Roman Kluska, doanh nhân người Ba Lan nổi tiếng trong lĩnh vực máy tính, được ơn trở lại, thay đổi cuộc đời nhờ đọc Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa của thánh Faustina.

Ngọc Yến – Vatican News

Năm 1988, Roman Kluska thành lập Optimus, công ty sản xuất máy tính cá nhân. Vào thời điểm đó, Đông Âu có nhiều biến động, nhưng Optimus rất nhanh chóng khẳng định là công ty dẫn đầu tại thị trường này. Trực giác kinh doanh của Kluska rất ấn tượng. Nhiều người thắc mắc làm thế nào mà một người khởi nghiệp với 12 USD trong túi lại có thể đánh bại các công ty lớn như IBM, Dell và HP trên thị trường khu vực?

Komputery Optimus na rynku - Nowe Technologie - polskieradio.pl

Thành công như vậy nhưng vào năm 2000, Kluska bị chính quyền Ba Lan buộc tội trốn thuế và bắt giữ. Năm 2003, Kluska hoàn toàn được minh oan và được trả tiền bồi thường. Qua sự kiện này Kluska trở thành một động lực thúc đẩy cho một cuộc cải cách cần thiết giữa các doanh nghiệp Ba Lan và chính quyền. Trường hợp của Kluska và của các doanh nhân khác phản ánh tình trạng tham nhũng và kém cỏi trong bộ máy quan liêu của Ba Lan vào giai đoạn đó.

Dlaczego upadł Optimus? Roman Kluska: Wszystko wskazuje na służby - tvp ...

Rõ ràng là cuộc chạy đua này với chính phủ không làm tổn hại đến danh tiếng của Kluska. Trong những năm sau đó, Kluska được nhiều người biết đến và được kính trọng vì các hoạt động bác ái, nhiều hoạt động trong số đó mang tính chất tôn giáo, như cung cấp kinh phí chính cho việc xây dựng Đền thánh Lòng Thương Xót Chúa ở Krakow.

Kluska bắt đầu quan tâm và chú ý đến Lòng Thương Xót Chúa trong một kỳ nghỉ đông của gia đình ở vùng núi vào đầu những năm 1990. Kluska nói: “Do công việc tôi không có thời gian đi trượt tuyết vào ban ngày, vì thế tôi đi trượt tuyết vào chiều tối, khi các sườn núi thiếu ánh sáng. Một ngày nọ, khi đang trượt tuyết trong bóng tối, tôi bị ngã nặng và phải nằm trên giường trong một thời gian dài”.

Diary of Saint Faustina | The Sisters of Our Lady of Mercy

Mặc dù tiếp tục nằm tại và chỗ quản lý công ty cách tốt đẹp bằng điện thoại, nhưng vào chiều tối, ông Kluska cảm thấy buồn chán. Không thể di chuyển, một ngày nọ, ông cố gắng tìm thứ gì đó để đọc và rồi ông thấy một tập sách nhỏ gồm những đoạn trích từ Nhật ký của Thánh Faustina trên chiếc bàn cạnh giường ngủ mà vợ ông đã đặt gần giường ông.

Về điều này, ông xác tín: “Hôm nay, tôi biết cú ngã đó không phải là một tai nạn”. Mặc dù đã quen đọc những cuốn sách khoa học hoặc những sách liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, nhưng doanh nhân này bắt đầu đọc Nhật ký, không có chút hứng thú nào với tác giả tập sách chỉ mới học ba năm tiểu học.

Tuy nhiên, tập sách lôi cuốn ông. Kluska tiếp tục đọc hết cuốn sách. Ông thú nhận: “Tôi đã quen với việc dễ dàng bắt lý hầu hết mọi cấp phó hoặc chủ tịch của các công ty cấp dưới của tôi về những điểm không nhất quán hoặc thiếu lý chứng… Hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của tôi khi đọc Nhật ký mà tôi không có một bình luận nào về Faustina! Trong đó, không có mâu thuẫn nội tại. Nó rất rõ ràng. Tôi khẳng định thánh nữ không thể tự mình viết Nhật ký, thánh nữ thực sự là thư ký của Chúa Giêsu. Thánh Faustina sẽ không thể thuyết trình một cách mạch lạc trong cuốn sách dày 600 trang về cách chúng ta cần phải sống”.

Việc đọc đã có một tác động sâu sắc đến Kluska. Ông nói: “Tôi được Chúa thu hút, được đánh động bởi sự hoàn hảo của Người trong mọi khía cạnh. Chúa nói với con người: ngươi có quyền lựa chọn giữa tình yêu thương xót vô biên của Ta hoặc công lý của Ta. Tuỳ ngươi. Ngươi được tự do! Cuối cùng tôi cũng cảm nhận được ý nghĩa của việc trở thành một người tự do… Tôi có quyền lựa chọn”.

Khi Kluska bị bắt và bỏ tù một thời gian sau đó với lý do trốn thuế, Nhật ký Lòng Thương Xót Chúa là “vũ khí mạnh nhất và duy nhất” của ông. Ông nói: “Trong tù, tôi không còn gì ngoài lời hứa của Chúa Giêsu rằng nếu tôi tin cậy Chúa, thì Người sẽ giải quyết các vấn đề của tôi. Đầu óc tôi tràn ngập những suy nghĩ đen tối. ‘Tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra?’ Tôi bắt đầu nói trong phòng giam, ‘Lạy Chúa, con tin tưởng nơi Ngài’”.

Roman Kluska i jego historia: Optimus i walka z fiskusem - Biznes ...

Ông nói thêm: “Chúa giải quyết các vấn đề của chúng ta khi chúng ta can đảm đáp lại tình yêu Chúa bằng sự tin tưởng vô điều kiện, bất kể điều gì xảy ra. Khi chúng ta có thể tin tưởng và đón nhận ý Chúa, các vấn đề sẽ tự giải quyết. Nếu chúng không được giải quyết, điều đó có nghĩa là cần phải thay đổi điều gì đó”.

Roman Kluska w Łagiewnikach

Ông nhấn mạnh: “Một công ty dựa trên đạo đức Kitô giáo là vô song so với một công ty chỉ dựa trên các thủ tục. Anh ấy đã mô tả những tình huống kịch tính từ kinh nghiệm của chính mình, khi “việc làm lương thiện được thay thế bằng điều kiện có quan hệ tốt với chính quyền.” Anh nhớ lại những chi tiết về vụ bắt giữ đầy kịch tính của mình và – với tư cách là một “tội phạm nguy hiểm” – bị còng tay và cách ly trong một chiếc lồng đặc biệt và giam giữ trong phòng giam bốn người.

Anh ấy gọi thời gian ở trong tù là “một bài kiểm tra thực sự về sức mạnh và niềm tin.” “Tôi sẽ không ở đây nếu không có St. Chị Faustina và câu nói ‘Chúa ơi, con tín thác vào Chúa’ mà tôi cứ lặp đi lặp lại,” Kluska nói trong hội nghị “doanh nhân đi hành hương” ở Łagiewniki.
Để phổ biến những lời của Thánh Faustina, ông đã phân phát miễn phí hơn một triệu bản Nhật ký của thánh nữ.

Hiện nay, ông Roman Kluska đã thành công trong việc kinh doanh chăn nuôi cừu và canh tác hữu cơ, nhưng ông vẫn tiếp tục hỗ trợ các dự án bắt nguồn từ các giá trị Kitô giáo và không ngừng làm chứng rằng niềm tin vào lòng thương xót của Chúa không bao giờ vô ích, ngay cả khi liên quan đến các vấn đề thế gian.

 


 

CÓ MỘT CỤ GIÀ…

Có một Cụ Già, mà khi gặp Cụ, các Đức Giám Mục đã cúi mình xuống và niềm nở chuyện trò.

Cụ già đó chính là Giáo sư Stêphanô NGUYỄN KHẮC DƯƠNG, nguyên trưởng Ban Triết học và Quyền Khoa trưởng Văn khoa của Đại học Đàlạt trước 1975; người đã góp công rất lớn trong việc đào tạo nên những nhà tri thức cho Giáo hội và xã hội.

Có rất nhiều Tu sĩ, Linh mục và cả Giám Mục… đã là môn sinh của thầy. Tuy nhiên, “Gia tài” mà cụ để lại không phải chỉ là những kiến thức uyên bác, nhưng là một chứng nhân của đức tin, một tình yêu cao cả mà cụ dành cho Chúa và Hội Thánh.

Thầy Nguyễn Khắc Dương sinh ngày 24-9-1925, trong một gia đình Nho Giáo tri thức. Tuổi thơ thầy sống với cha mẹ tại làng Thịnh Xá, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; trực thuộc Giáo họ Bình Hòa, Giáo xứ Đông Tràng, Giáo phận Vinh.

Thân phụ, cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm, là một nhà nho nổi tiếng học giỏi, đức độ. Sau khi đỗ đạt, cụ được bổ dụng vào chức Tư nghiệp Quốc tử giám tại Huế. Cụ đã từng làm Tri phủ huyện Anh Sơn, Án sát tỉnh Nghệ An, Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên, và về hưu năm 1943 với phẩm hàm Hiệp Biện Thượng thư. Cụ là một vị quan thanh bạch, trung chính, không lấy danh vị làm vinh, và nổi tiếng thanh liêm nên được dân chúng rất mến phục.

Thầy Dương là em ruột của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt.

Sinh ra trong một gia đình Nho Giáo nên từ nhỏ, thầy Khắc Dương không mấy thiện cảm với Đạo Kitô giáo, thậm chí là khinh thường Kitô giáo. Tuy nhiên, nhờ được học trong trường Thiên Hựu ở Huế, thầy đã có cơ hội tìm hiểu về Đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội ngày 9 tháng giêng năm 1949, tại nhà thờ Nghĩa Yên.

Việc trở thành người Kitô hữu của thầy Khắc Dương, đã gặp sự chống đối rất lớn từ gia đình và dòng họ, nhất là mẹ của thầy. Bà mẹ chất vấn thầy rằng: “Ông bà tổ tiên của mày có tội gì, mà mày phải cúi đầu cho người ta rửa tội nguyên tổ? , Tội của mày là tội bất hiếu, tội này có cạo hết tóc trên đầu cũng không sạch được, vậy chỉ một chút nước trên đầu thì sao mà rửa sạch được chứ”.

Lý giải về việc “bỏ” gia đình để theo Đạo, thầy Khắc Dương có lần chia sẻ rằng: Nho Giáo là một tôn giáo dành cho người tri thức, sống thanh cao và sống “trên” người khác; không dành cho người bình dân. Phật Giáo thì quan niệm rằng Đời Là Bể Khổ, nên phải tránh Đời, tự bản thân tìm sự giải thoát cho riêng mình. Còn Kitô giáo thì ngược lại, Chúa Giêsu vốn là Con Thiên Chúa nhưng đã bước vào đời, sống như một người nghèo, chia sẻ thân phận làm người của con người, vui niềm vui của con người, đau nỗi đau của phận người và yêu con người một cách say đắm đến nỗi sẵn sàng chết vì yêu con người… Đây là một tôn giáo gần với con người, gắn liền với con người, là đạo của tình yêu…

Một vài nét như thế, để ta hiểu hơn về con người của Cụ Già này, và để hiểu vì sao khi gặp Cụ, các Đức Giám Mục đã bước tới, cúi mình xuống và thăm hỏi chuyện trò.

FB: Hoa Trên Ngàn

CHA STEFAN GẶP MA và CUỘC DÕI TÌM TIỂU SỬ NGƯỜI KHUẤT MẶT

LM Stefan Starzynski, gp Arlington tiểu bang Virginia.

Một đêm nọ, tôi đang nằm ngủ trên giường trong phòng riêng, tôi còn đang ở trạng thái mơ mơ màng màng, nửa thức nửa ngủ. Rồi tôi nhìn qua phía phải của mình, tôi thấy một người đàn ông, thân thể không có vẻ như của người, không có da thịt thể lý rõ ràng như của chúng ta. Tuy thế, người đó là đàn ông, đầu hói, khuôn mặt gầy gò, ông mặc áo chùng của linh mục với hàng nút áo dài đến cuối hàng. Trông ngài giống như một linh mục đã sống cách nay một trăm năm vậy và khá hiền từ không có gì đáng sợ cả. Thế rồi, tôi chìm vào giấc ngủ sau đó.

Đến sáng hôm sau, thức dậy đi điểm tâm, trong phòng ăn, tôi nói với Mẹ mình, tôi đã thấy có một con ma trong phòng ngủ. Tôi tả hình dáng Ma từ ký ức của mình, hình ảnh rất rõ ràng của Ngài, như trên giấy trắng mực đen vậy, cho dù chỉ được gặp Ma trong một khoảnh khắc ngắn. Tôi nhớ tỏ tường cung cách nhân từ của Ngài, chỉ tiếc một điều, tôi không biết Ngài là ai!

Thấm thoát hai năm qua, tôi vẫn không biết người đàn ông Ma đó là ai cả, cho đến một ngày nọ, có một người quen đi lễ ở Vương Cung Thánh Đường, đền Đức Mẹ Vinh Thắng ở Lackawana, Nữu Ước.

Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Vinh Thắng do Cha Baker tổ chức xây cất năm 1921

Khi bà quen về nhà, bà mang theo một ảnh và đưa khoe, bà cho tôi xem một ảnh của Cha Nelson Baker, tôi nhận ra Ngài ngay lập tức, Cha Baker rất thánh thiện và là ân nhân tận tụy của vô số người nghèo, cô nhi, quả phụ. Cơ sở từ thiện của Ngài đã đón nhận rất nhiều em trai tứ chiếng, bụi đời và em gái có chửa, chính Ngài là người đàn ông Ma đã hiện ra với tôi.

Bài toán Ma, tôi đã giải được câu đầu rồi, còn câu hỏi thứ hai quan trọng hơn nhiều, Ngài muốn tôi làm gì, tôi thầm thì, Ngài định trăn trối cho con một hoài bão gì đây? Khi đi tìm con, Ngài có nhìn sai người không vậy? Tôi nhớ lại hồi đó, khi còn là một đứa trẻ nhỏ, trong một lần nói chuyện với cô tôi khi bà về thăm chúng tôi tại nhà, Cô là một nữ tu, Sơ mục vụ ở thành phố Buffalo, tôi được nghe Sơ kể về Cha Baker, rồi sơ chỉ tay về hướng driveway ở phía cuối đường xe đi, nơi có một căn nhà, “đó chính là nhà của Cha Baker.” Cho tới giờ phút đó, căn nhà là điều duy nhất tôi được biết về đời tư của Cha Baker!

Tôi tiếp tục tìm hiểu về Cha Baker, theo Thời Báo Buffalo, trong thời gian mục vụ, cộng đoàn phục vụ của Ngài đã nuôi người nghèo, họ đã cung cấp tới 50 triệu bữa ăn.

Trong giai đoạn đại khủng hoảng kinh tế (1930) Ngài và các thành viên phục vụ đã trao tặng hơn một triệu bữa ăn một năm, cung cấp quần áo ấm cho nửa triệu người.

Cơ quan từ thiện của Ngài chăm sóc y tế cho 250 ngàn người, cộng thêm việc cung cấp thuốc men cho 200 ngàn người nữa.

Có trên 300 ngàn người từ đàn ông, đàn bà, đến thanh niên, trẻ em đã được huấn luyện nghề nghiệp ở một chừng mực nào đó thông qua các cơ sở thiện nguyện của Ngài. Có 100 ngàn các em trai được huấn luyện tay nghề kỹ thuật chuyên môn.

Nhà cho Mẹ đơn thân và em bé sơ sinh, ảnh trích từ Wikipedia

600 các em gái chửa hoang trong cơn tuyệt vọng, đau khổ đã đến gõ cửa cơ quan của Cha Baker và được cứu vớt. 6000 trẻ sơ sinh bị vứt bỏ được cứu và có một mái nhà nương thân tại cơ sở từ thiện của Ngài.

Thể rồi Ngài mất vào năm 1936, đường phố Lackawanna bỗng dưng tràn ngập người là người, họ cùng nhau đi tham dự đám tang của Cha Baker, tạo nên một đám đông gần nửa triệu người.

Càng tìm hiểu về Ngài bao nhiêu, tôi càng say mê đời sống và công việc quá vị tha của Cha, thứ công việc tàm lam chả ai muốn dấy vào nhưng lại được Chúa ban ơn một cách nhiệm mầu. Vì yêu người cùng khổ, Cha nhìn ra nhu cầu to lớn quá mức của xã hội, nhất là các trẻ nam bụi đời, các trẻ gái chửa ngoài hôn nhân (vốn là điều bị khinh bỉ và cấm kỵ, bị ruồng bỏ vào thời đó). Chúa đã dùng một người để ảnh hưởng, tạo nên sự biến đổi tốt đẹp cho biết bao nhiêu cuộc đời, hàng triệu, triệu người.

Thật là một con người vĩ đại, sau khi tìm hiểu về lai lịch của Cha Baker. Tôi cảm thấy một sự thúc đẩy, tôi cần phải đến Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vinh Thắng, nơi có hầm mộ của Ngài để tĩnh tâm vì Cha Baker đang kêu gọi tôi, dường như Ngài muốn tôi tiếp nối công việc của Ngài.

Tôi đã cầu nguyện trước mộ Cha Baker trong tám tiếng đồng thời tôi được chứng kiến đức tin tốt đẹp của những người đến viếng mộ (Cha Baker chưa được tôn phong chân phước, hay hiển thánh). Trong khi cầu nguyện, tôi nài xin Cha Thánh cho tôi một dấu chỉ, đó là được sở hữu các thánh tính của Cha và… Ngài nhận lời tôi xin. Ngay sau đó, tôi tình cờ gặp một bà cụ, là thợ may ngày xưa của Cha, bà còn giữ được nguyên một bộ áo chùng linh mục của Cha Baker. Bà liền lộng kiếng 7 mảnh nhỏ vải và đem tặng cho tôi.

Rời Vương Cung Thánh Đường, tôi đến phi trường Buffalo để bay về nhà, ngày 6, tháng 6, năm 2008. Trong lúc nhàn rỗi, chờ chuyến bay, tôi lân la chuyện trò với người ngồi bên cạnh, bà ta tên là Debbie, một ca sĩ chuyên nghiệp vừa kết thúc cuộc lưu diễn, sô diễn ở Toronto, Gia Nã Đại. Không may là bà bị một thể ung thư lạ và được bác sĩ cho biết rằng bà chỉ còn vài tháng nữa để sống mà thôi. Ông chồng liền khuyến khích bà hãy làm tất cả những gì mình muốn trước khi từ giả cõi đời. Còn đang tràn đầy thần khí, tôi kể lại cho bà Debbie về chuyến đi của mình, cuộc thăm viếng mộ và di ảnh của Cha Baker. Rồi tôi đặt tay cầu nguyện cho bà ta nhờ Cha Baker dâng lên lời chuyển cầu của Ngài trước Chúa. Sau đó, chúng tôi ra đi. Tôi chả còn nghĩ ngợi nhiều về cuộc gặp gỡ ở phi trường, rồi ngày nọ, một giáo dân đến báo cho tôi biết rằng Người Đàn Bà mà tôi cầu nguyện cho ở phi trường đã được ơn chữa lành. Hai ngày sau, Debbie điện thoại cho tôi, bà cho biết căn bệnh ung thư, Metastasis melanoma (Ung thư hắc tố đã di căn), giai đoạn 4 (giai đoạn sau cùng của bệnh) coi như đã bị phán quyết tử hình rồi. Loại Ung thư này hung hiểm, nó đứng thứ hai về mức độ hung hiểm, chỉ sau bệnh ung thư tuyến tụy. Tôi liền nhờ bà thu thập dữ liệu y khoa để góp vào hồ sơ phong thánh cho Cha Baker.

Ngày nay Cha Stefan tiếp tục phục vụ trong cơ sở thiện nguyện có tên là “Paul Stefan Homes”, cơ sở chuyên phò sự sống, cứu vớt Mẹ bầu, Thai Nhi.

Cha là thành viên tích cực của ủy ban phò sự sống của Giáo Phận Virginia.

Một số hình ảnh của Mẹ đơn thân và con sơ sinh

Bà Evenly, người đồng sáng lập cơ sở “Paul Stefan Homes” nói, “Lòng tận tụy và đức tin của Cha Stefan Starzynski đã ảnh hưởng đến cách chúng ta sống cuộc sống của mình ngày nay. Sau sáu năm kể từ khi mở cửa cho Paul Stefan Homes, hơn 150 phụ nữ và trẻ sơ sinh đã có cơ hội cải thiện cuộc sống của họ. Chúng tôi kết hợp những lời cầu nguyện của chúng tôi với Cha Stefan, hy vọng rằng chúng ta sẽ chấm dứt nạn phá thai và chúng ta tiếp tục hỗ trợ phụ nữ một cách yêu thương bằng cách thiết lập những mái ấm khác ở mọi khu vực trên khắp đất nước (Hoa Kỳ).”

Cha Stefan còn có một nhiệm vụ quan trọng khác, lo giờ sau hết cho toàn thể bệnh nhân của nhà thương Inova Fairfax, tiểu bang Virginia. Trong đợt dịch Covid vừa qua, Cha được đặc quyền đi vào tất cả các phòng bệnh, (lạ quá Bác Sĩ cũng tin Cha được đặc ân miễn nhiễm khỏi Virus hay sao?)

Quả thực, Cha không hề bị Covid vật ngã, hơn thế nữa, Virus COVID không hề có chút ảnh hưởng nào trên thể lý của Cha ít nhất là cho tới ngày tháng này, 03/2023.

Bệnh nhân Covid được Cha lần chuỗi Lòng Thương Xót và cảm thấy được sự an ủi vô bờ bến vì vào cao điểm của COVID Cha là người duy nhất mà họ được gặp mặt trong tình trạng cô lập với thế giới bên ngoài. Đó là chưa kể lời cầu nguyện của Cha thường mang lại ơn chữa lành cho mọi bệnh nhân bất kể họ đang bị bệnh nan y gì. Lời cầu nguyện linh ứng của một Linh Mục tốt lành.

Phan Sinh Trần lược dịch