“Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6:34-35)- Cha Vuong

Nguyện xin Chúa tuôn đổ muôn hồng ân xuống trên bạn và gia đình hôm nay.

Thứ 3, 3PS: 6/5/2025

TIN MỪNG: Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” Đức Giê-su bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6:34-35)

SUY NIỆM: Bạn thử nghĩ xem nếu một người giàu có đầy đủ: gia đình, nghề nghiệp, lợi tức, chức quyền, danh vọng… nhưng họ vẫn thấy còn thiếu cái gì nữa chăng? Nếu bạn trả lời rằng “CÓ” thì đoạn Tin Mừng hôm nay là một sứ điệp quan trọng. Chúa nhắc nhở rằng trên thế giới này có hai loại đói: 

trước hết là đói khát thể lý mà chỉ đồ ăn thức uống mới có thể thỏa mãn được. 

Thứ đến là đói khát thiêng liêng mà không thực phẩm nào trên trần gian này có thể thỏa mãn được. Nói cách khác, dầu bạn có giàu có hoặc thành công đến đâu đi nữa, bạn vẫn cảm thấy nơi thâm sâu lòng mình một cơn đói khát khó có thể bày tỏ được.

Đối với con người nếu chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu về thể xác thì càng cảm thấy thiếu thốn, vì nhu cầu đẻ ra nhu cầu, nhu cầu này nối tiếp nhu cầu kia làm cho người ta luôn tìm kiếm mà không bao giờ thoả mãn được. Chẳng trách nào họ “xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” 

Cuộc sống hôm nay, con người cứ bôn ba vất vả về nhiều chuyện: Hết lo cơm ăn, lo áo mặc, lại lo cho có tiện nghi sang trọng. Họ dành rất nhiều thời giờ cho những việc chóng qua nhưng cuộc sống viên mãn mai sau lại chẳng mấy quan tâm.

 Ước mong bạn “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6:27a)

LẮNG NGHE: Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” (Ga 7:37)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, Chúa ban tặng cho con “bánh hằng sống”, xin cho con biết siêng năng rước Mình Máu Thánh Chúa đều đặn mỗi ngày để được sống muôn đời. 

THỰC HÀNH: Tham dự Thánh Lễ thường xuyên và nghiêm trang hơn nhé. 

From: Do Dzung

**************************

HÃY CHO HỌ ĂN – Lm Thái Nguyên

Những nạn nhân đầu tiên bị CSVN đàn áp ngày 30 Tháng Tư, 1975

Ba’o Nguoi-Viet

May 4, 2025

Chuyện Vỉa Hè

Đặng Đình Mạnh

Ngày 30 Tháng Tư, 1975, đã đi vào lịch sử Việt Nam như một trang sử đau thương, đánh dấu sự sụp đổ của chính thể Việt Nam Cộng Hòa và mở đầu cho giai đoạn đen tối của đất nước dưới sự cai trị độc tài của Cộng Sản Việt Nam.

Thương binh VNCH được săn sóc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, thuộc quận Gò Vấp. (Hình: VNCH Today)

Sau thời khắc này, tất cả quân, dân, cán, chính miền Nam đều lần lượt bị đàn áp, như một sự trả thù vì đã phụng sự trong chính thể Việt Nam Cộng Hòa.

Có điều, họ chỉ bắt đầu bị điểm danh vào sau ngày 30 Tháng Tư, 1975. Thế nhưng, có những người bị đàn áp ngay tức khắc từ buổi chiều ngày 30 Tháng Tư theo cách phi nhân, táng tận lương tâm và độc ác nhất mà loài người chỉ có thể tưởng tượng ra. Hơn nữa, họ, những người bị đàn áp cũng không phải là những người khỏe mạnh.

Đó là những thương binh Việt Nam Cộng Hòa đang nằm điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa.

Thật vậy, trong những giờ phút hỗn loạn cuối cùng vào những ngày cuối Tháng Tư, hàng nghìn binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn chiến đấu để bảo vệ tự do cho miền Nam, và rất nhiều người trong số họ đã phải gánh chịu những vết thương chiến tranh trên cơ thể mình.

Tổng Y Viện Cộng Hòa, một trong những bệnh viện lớn nhất Sài Gòn, đã trở thành nơi chứng kiến những đau đớn thể xác và tinh thần của những binh sĩ này, những người mà sau đó đã trở thành những nạn nhân đầu tiên của sự đàn áp và trả thù từ phía Cộng Sản Việt Nam.

Ngay cả vào ngày 30 Tháng Tư, năm 1975, ngày cuối cùng của cuộc chiến, tại một số khu vực trên đường phố đô thành Sài Gòn vẫn còn sự kháng cự của nhiều đơn vị binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, như tại Tân Cảng, Thị Nghè, Bảy Hiền… để ngăn bước tiến công của quân đội Bắc Việt.

Còn kháng cự là vẫn còn thương binh, Tổng Y Viện Cộng Hòa nằm ở khu vực Gò Vấp vẫn là nơi tiếp nhận hàng loạt thương binh được đưa về điều trị thương tích. Các bác sĩ và y tá làm việc không ngừng nghỉ, cố gắng cứu chữa những người lính bị thương nặng. Tiếng rên rỉ, tiếng khóc than và mùi máu tanh nồng bao trùm cả bệnh viện.

Ngoài số những binh sĩ bị thương mới được đưa về, vẫn gồm cả những binh sĩ đã chiến đấu ở tuyến đầu, bảo vệ từng tấc đất của miền Nam. Họ bị thương vì đạn pháo, bom mìn, và súng trường. Nhiều người mất đi một phần cơ thể, có người bị mù, có người bị liệt.

Tổng Y Viện Cộng Hòa, nơi gìn giữ hy vọng của thương binh

Tổng Y Viện Cộng Hòa, tọa lạc khu vực Gò Vấp, Sài Gòn. Nơi đây là cơ sở y tế quân sự lớn nhất của Việt Nam Cộng Hòa, với sức chứa lên đến 1,800 giường vào thập niên 1970. Tổng Y Viện được trang bị hệ thống y tế tiên tiến, cùng với đội ngũ bác sĩ tận tâm và sự hỗ trợ từ các chương trình viện trợ quốc tế, Tổng Y Viện Cộng Hòa không chỉ là nơi chữa lành vết thương thể xác mà còn là biểu tượng của hy vọng cho những người lính đã mất đi một phần cơ thể hay sức khỏe trong chiến tranh.

Những thương binh tại đây mang trên mình những vết thương kinh hoàng: Cụt tay, cụt chân, mù mắt, hay những vết thương nội tạng phức tạp. Theo thống kê, khoảng 35,000 thương binh bị cụt chi và 31,000 người mù mắt do chiến tranh đã từng được điều trị tại Tổng Y Viện.

Thời điểm chấm dứt cuộc chiến, nhiều người trong số họ vừa trải qua các ca phẫu thuật, vẫn còn băng bó, nằm bất động trên giường bệnh, hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc y tế. Đối với họ, Tổng Y Viện Cộng Hòa là nơi duy nhất mang lại cơ hội sống sót và hồi phục, dù mong manh.

Ngày 30 Tháng Tư 1975, bi kịch bắt đầu

Khi xe tăng của Cộng Sản Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập, trái tim của đô thành Sài Gòn vào trưa ngày 30 Tháng Tư. Chỉ độ vài giờ đồng hồ sau đó, thảm kịch nhân đạo đã diễn ra tại Tổng Y Viện Cộng Hòa.

Theo các nhân chứng và tài liệu lịch sử, ngay sau khi chiếm được Sài Gòn, Cộng Sản Bắc Việt đã tiến vào Tổng Y Viện Cộng Hòa. Thay vì tôn trọng luật nhân đạo quốc tế về việc bảo vệ bệnh nhân và cơ sở y tế trong chiến tranh, họ đã ra lệnh xua đuổi tất cả các thương binh Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi bệnh viện.

Một bài viết trên Việt Báo Online mô tả: “Trong các quân y viện khắp miền Nam, mọi thương bệnh binh Cộng Hòa đều bị đuổi ra đường.” Những người lính này, nhiều người còn đang trong tình trạng nguy kịch, bị buộc phải rời khỏi giường bệnh, bất kể vết thương chưa lành hay tình trạng sức khỏe yếu ớt.

Hạ Sĩ Nhất Võ Phùng Dương, một thương binh tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, là một trong những nhân chứng sống của sự kiện này. Trong bài đăng trên mạng xã hội X vào ngày 30 Tháng Tư, 2025, đã chia sẻ hình ảnh ông cùng câu chuyện đau lòng: “Chiều 30 Tháng Tư, 1975, quân Cộng Sản đã tràn vào Tổng Y Viện Cộng Hòa và đuổi hết các thương bệnh binh Việt Nam Cộng Hòa ra ngoài. Trong đó có nhiều người mới giải phẫu và vết thương chưa lành.”

Hình ảnh những thương binh lê lết trên đường phố Sài Gòn, với băng gạc thấm máu và thân thể tàn tật, là minh chứng sống động cho sự tàn nhẫn, phi nhân của hành động này.

Thương phế binh VNCH đến nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn để được giúp đỡ chữa bệnh suốt nhiều năm qua. Tuy nhiên, chương trình này phải chấm dứt hồi Tháng Tư, 2024, do các áp lực của nhà cầm quyền CSVN. (Hình: Tin Mừng Cho Người Nghèo)

Tội ác đàn áp, vết nhơ không thể xóa nhòa

Hành động đuổi thương binh ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa không chỉ vi phạm Công Ước Geneva về bảo vệ dân thường và thương binh trong chiến tranh, mà còn thể hiện sự vô nhân đạo của lực lượng chiến thắng. Những thương binh này không còn khả năng chiến đấu, không phải là mối đe dọa quân sự, và nhiều người thậm chí không thể tự di chuyển. Việc xua đuổi họ khỏi nơi điều trị là một hành động cố ý gây tổn hại, đẩy họ vào cảnh nguy hiểm và tuyệt vọng.

Nhiều thương binh, sau khi bị đuổi, không có nơi nương tựa. Gia đình họ, nếu còn ở Sài Gòn, thường không đủ khả năng chăm sóc trong bối cảnh hỗn loạn. Một số người đã qua đời trên đường phố do vết thương tái phát hoặc thiếu chăm sóc y tế. Những người sống sót phải đối mặt với sự kỳ thị và đàn áp từ chế độ mới.

Câu chuyện của ông Trần Văn Phụng, một thương binh mù cả hai mắt, cánh tay trái gãy và khuôn mặt dị dạng, là một ví dụ điển hình. Ông kể lại: “Tui chết đi sống lại. Tui nằm bệnh viện một năm trời.” Sau ngày 30 Tháng Tư, trợ cấp thương tật từ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không còn, gia đình ông rơi vào cảnh khốn cùng, phải buôn bán lặt vặt để kiếm sống. Những thương binh như ông không chỉ mất đi sự chăm sóc y tế mà còn bị tước đoạt phẩm giá và cơ hội tái hòa nhập xã hội.

Di sản của nỗi đau và bài học lịch sử

Sự kiện tại Tổng Y Viện Cộng Hòa ngày 30 Tháng Tư, 1975, không chỉ là một chương đau thương trong lịch sử Việt Nam mà còn là lời cảnh tỉnh về hậu quả của hận thù và sự thiếu nhân đạo trong chiến tranh.

Những thương binh Việt Nam Cộng Hòa, vốn đã hy sinh tất cả cho lý tưởng tự do, đáng lẽ phải được đối xử với lòng trắc ẩn, bất kể bên thắng hay thua. Thay vào đó, họ trở thành nạn nhân của một chính sách trả thù, đàn áp có chủ đích, nhằm xóa bỏ mọi dấu vết của chế độ cũ.

Hôm nay, khi nhìn lại biến cố 50 năm trước, chúng ta cần ghi nhớ câu chuyện của những thương binh tại Tổng Y Viện Cộng Hòa như một phần không thể tách rời của lịch sử dân tộc. Họ không chỉ là nạn nhân của chiến tranh mà còn là biểu tượng của sự kiên cường và hy sinh. Việc tố cáo tội ác này không nhằm khơi lại hận thù, mà để khẳng định giá trị của nhân quyền và lòng nhân ái – những điều mà nhân loại cần bảo vệ trong mọi hoàn cảnh.

Hãy để những vết thương của quá khứ trở thành bài học cho tương lai, để không một ai, dù là thương binh hay thường dân, phải chịu cảnh bị bỏ rơi hay đàn áp trong những thời khắc định mệnh của lịch sử.

Tài liệu tham khảo:
-Phùng Annie Kim, “Người Thương Binh và Bóng Tối Còn Lại,” Việt Báo Online.
-“Y tế Việt Nam Cộng hòa,” Wikipedia tiếng Việt.
-Bài đăng của @ThanhPhoSaiGon trên X, 30/4/2025.


 

2025-1975, Nửa Thế Kỷ Nhìn Lại: Tháng Tư Đen và Chuyến Di Tản Của Gia Đình Tôi Trong Ngày Cuối Cuộc Chiến

Viet Bao

22/04/2025

Tầu Đông Hải neo trong vịnh Tân Gia Ba vào tháng 5 năm 1975, sau khi hơn nửa số người di tản trên tầu đã được chuyển sang các tầu khác. Ảnh: Tác giả cung cấp.

 Viết cho hương hồn bố

và cho mẹ, vợ, cùng các em

Bắt phong trần, phải phong trần, 

Cho thanh cao mới được phần thanh cao 

(Truyện Kiều)

Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi.

Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó.

Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.

Tháng Ba Xám, Tháng Tư Đen

Lúc bấy giờ tôi đang là sinh viên ban Đốc Sự của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (QGHC), một cơ sở giáo dục nằm trên đường Trần Quốc Toản, đặt trọng tâm vào việc đào tạo nhân viên hành chánh cao cấp cho chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Nói rõ hơn, tôi là một sinh viên gốc quân nhân trong số 105 sinh viên của khóa.

Đầu năm 1974, khi 21 tuổi và đang là chuẩn úy phục vụ tại tiểu đoàn 253 Pháo Binh, thuộc sư đoàn 25 Bộ Binh, tôi ghi danh học hàm thụ năm thứ nhất Luật khoa, viện đại học Sài Gòn. Tháng 7 năm ấy, tôi thi đậu chứng chỉ năm thứ nhất với số điểm cao thứ hai trong tất cả thí sinh. Thừa thắng xông lên, hai tháng sau tôi thi đậu vào ban Đốc Sự khóa 22 của Học Viện QGHC với học trình 4 năm. Theo quy định của chính phủ lúc bấy giờ, các quân nhân thi đậu được trở lại đời sống sinh viên, một hình thức xem như biệt phái vĩnh viễn từ quân đội sang hành chánh. Tháng 12 năm 1974, khi đã được thăng chức thiếu úy trong lúc tình hình chiến sự trở nên sôi động, tôi nhận được sự vụ lệnh từ Bộ Quốc Phòng để trình diện trường QGHC. Được bảo trợ bởi đại học Michigan State University, trường QGHC tổ chức chương trình học gồm hai khóa mùa Xuân và mùa Thu với những kỳ thi cuối khóa như những đại học ở Hoa Kỳ.

Chúng tôi nhập học ngay sau Tết Dương Lịch năm 1975. Đến ngày 12 tháng Ba, tin tức thị xã Ban Mê Thuột thất thủ trước sự tấn công của Cộng quân khiến quân dân miền Nam rúng động. Gia đình tôi có nhiều kỷ niệm với thành phố cao nguyên này. Năm 1968, bố tôi, khi còn là thiếu tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), giữ chức vụ quận trưởng quận Ban Mê Thuột trong gần hai năm cho đến khi ông được thăng chức trung tá và đổi về Sài Gòn. Gia đình tôi đã chuyển lên sống tại thị xã này trong thời gian ấy.

Hai ngày sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh triệt thoái khỏi Kontum và Pleiku. Cao nguyên Trung phần ở Vùng II chiến thuật bị thất thủ. Thêm vài ngày nữa, Quảng Trị, Quảng Ngãi rồi Huế ở Vùng I mất vào tay địch. Cuối tháng Ba, Đà Nẵng, Phú Yên, và Bình Định cùng chung số phận. Sang đầu tháng Tư, đến lượt Khánh Hòa, Bình Thuận, Phan Rang. Chỉ trong vòng chưa đầy ba tuần, miền Nam đã mất nửa lãnh thổ. Quân đội hoang mang, lắm nơi địch chưa đến mà người lính đã bỏ thành. Làn sóng đồng bào từ vùng I và vùng II ồ ạt theo chân người lính VNCH, trốn chạy Cộng sản bằng đường bộ và đường thủy. Những tội ác của Cộng sản Việt Nam như chiến dịch cải cách ruộng đất ở miến Bắc trong giai đoạn 1954-1957 và cuộc thảm sát tại Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968 còn gieo rắc kinh hoàng trong ký ức họ. Cũng vì hồi ức về những tội ác của Cộng sản mà hàng triệu người miền Nam đã cuống cuồng tháo chạy khỏi những vùng bị địch chiếm đóng trong những ngày tang thương thuở ấy. Biết bao chuyện thương tâm đã xẩy ra trên những con đường di tản đầy máu và nước mắt, bi thảm nhất là dọc Liên Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku đến Phú Bổn, nơi hàng ngàn thường dân đã bị tàn sát vì đạn pháo của Việt Cộng liên tục rót vào đoàn người đang lũ lượt gánh gồng xuôi Nam vào hạ tuần tháng Ba.

Bước sang tháng Tư, Hoa Kỳ đã bắt đầu cho di tản người Mỹ còn ở Việt Nam cùng các nhân viên người Việt đang làm cho sở Mỹ, và gia đình các quân nhân, công chức VNCH mà họ nghĩ sẽ bị Cộng sản trả thù sau khi chiếm được miền Nam. Lúc ấy, chúng tôi, những sinh viên QGHC, sau giờ học, thường vào câu lạc bộ của trường, gọi một tách cà phê hay ly nước ngọt, đăm chiêu ngồi bàn chuyện thời sự. Thật đau lòng khi trông thấy tấm bản đồ miền Nam với những tỉnh lỵ, thành phố được tô đỏ dần trên các tuần báo Time và Newsweek.

Theo chỉ thị của Ban Giám Đốc học viện, sáng ngày 8 tháng Tư, lớp chúng tôi tề tựu tại sân trường, chuẩn bị lên ba chiếc GMC đến trại Chí Linh, trung tâm huấn luyện cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, tại Vũng Tầu để giúp người tỵ nạn từ miền Trung theo tầu, thuyền đến thành phố này. Khi xe lăn bánh, chúng tôi nghe hai tiếng nổ lớn, vang đến từ hướng trung tâm thủ đô. Nhìn về hướng tiếng nổ phát ra, mọi người trông thấy một phản lực cơ F5 của Không lực VNCH đang lượn trên vùng nơi dinh Độc Lập tọa lạc nên đoán là quân đội, hay một phần của quân đội đang thực hiện cuộc đảo chánh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Mãi khi đến trại Chí Linh, chúng tôi mới nghe kể một phi công của Không lực VNCH oanh tạc dinh Độc Lập rồi bay ra vùng Việt Cộng đã chiếm.

Theo chương trình đã hoạch định, lớp chúng tôi ở Vũng Tầu một tuần. Tuy nhiên, đến sáng ngày thứ ba của chuyến đi, tức ngày 10 tháng Tư, trường QGHC cho xe đón chúng tôi trở về vì e ngại an ninh trên lộ trình Vũng Tầu – Sài Gòn sẽ không còn được bảo đảm trong vài ngày sắp đến. Hôm trước, bốn sư đoàn Cộng quân đã tấn công Xuân Lộc, nơi được ví von là cánh cửa thép để bảo vệ Sài Gòn từ hướng Đông của thành phố. Trên đường về, qua từng chặng, chúng tôi lại thấy những đơn vị lính kẻ đứng người ngồi dọc hai bên lề. Không hiểu họ được lệnh canh gác huyết lộ dẫn đến thủ đô hay triệt thoái về đấy để tránh sức ép của địch. Đó đây, có những đoàn người tay xách, nách mang đi bộ về hướng về Sài Gòn. Có lẽ họ là những người dân chạy loạn.

Tin tức những người được Mỹ chấp thuận cho di tản đã lên máy bay từ phi trường Tân Sơn Nhất rời khỏi Sài Gòn được loan truyền rộng rãi. Khoảng trung tuần tháng Tư, bố tôi liên lạc với một đại tá quân đội Mỹ đang phục vụ tại Tòa Đại sứ Hoa Kỳ mà ông quen biết đã nhiều năm để nhờ ông này giúp gia đình tôi rời khỏi Việt Nam bằng đường hàng không. Ông đại tá hứa sẽ giúp và bảo bố tôi rằng khi nhận được điện thoại của ông, cả gia đình phải ra ngay phi trường Tân Sơn Nhất. Mẹ tôi may cho chúng tôi, mỗi người một túi vải nhỏ để đựng hai bộ quần áo. Bà dặn tôi và các em, sau giờ học, phải về nhà ngay, đừng để sự vắng mặt của mình ảnh hưởng đến cả gia đình.

Bố Tôi 

Bố tôi tình nguyện nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, tiền thân của Quân lực VNCH, năm 1951. Ông tốt nghiệp thủ khoa trường Võ bị Phà Đen ở Hà Nội với cấp bậc chuẩn úy và rồi phục vụ trong một liên đoàn lưu động từng tham gia các trận đánh khốc liệt với Việt Minh, về sau gọi là Việt Cộng, tại Bắc phần. Di cư vào Nam, đơn vị ông đóng ở Phú Yên rồi Bình Định. Năm 1956, ông tham dự lớp Chỉ Huy Tham Mưu và tốt nghiệp thủ khoa nên được thuyên chuyển về Phòng Ba Bộ Tổng Tham Mưu. Đôi ba năm sau, ông được thăng cấp đại úy và giữ trách nhiệm Trưởng Khối Kế Hoạch. Năm 1968, ông theo học khoá Quân Chánh, khoá học bắt buộc dành cho các sĩ quan sẽ được bổ nhiệm làm tỉnh hay quận trưởng. Sau khi mãn khóa, được chọn quận đầu tiên vì tốt nghiệp thủ khoa, ông đã chọn Ban Mê Thuột, quận lỵ lớn nhất ở cao nguyên Trung phần thuộc tỉnh Dak Lak. Tháng Ba năm 1970, ông được biệt phái sang hành chánh và trở về Sài Gòn. Năm 1974, ông giữ trách nhiệm chánh sở kế hoạch thuộc Bộ Nội Vụ.

Bố tôi nhập ngũ một phần vì mối căm thù với Việt Cộng, sau khi họ giết ông nội tôi một cách dã man.

Thẻ căn cước quân nhân của thân phụ tác giả bài viết

Ông tôi vốn là nhà giáo trong một làng thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng chục cây số. Khi Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội vào năm 1945, làng bố tôi trở thành vùng xôi đậu, ban ngày Quốc Gia kiểm soát, ban đêm Việt Minh mò về. Những người bên kia ép buộc ông tội nghỉ dậy không được nên trong một đêm năm 1947, họ xông vào nhà tuyên án tử, rồi bắn ông tôi 5 phát súng lục trước sự chứng kiến của người thân. Lúc đó bố tôi đang là thông ngôn, làm việc ở nơi khác. Bắn xong, họ khênh ông tôi đi rồi bỏ lại đầu ngõ vì nghĩ ông đã chết. Bác gái tôi, tức chị kế bố tôi năm ấy mới 20 tuổi, thấy ông còn thoi thóp nên cùng hai người trong họ thay nhau khênh cáng đưa ông đến một đồn lính Tây cách nhà khoảng 3 cây số nhờ họ chữa trị tạm thời. Mãi ba hôm sau, những người lính trong đồn mới có xe đưa ông tôi lên nhà thương Phủ Doãn ở Hà Nội. Ông dần dần bình phục và tạm trú ở Hà Nội. Đầu năm 1951, làng bố tôi trở thành làng Tề, tức đã được quân Pháp và quân đội Quốc Gia kiểm soát. Những người trong làng ra Hà Nội thỉnh cầu ông tôi trở về dậy học lại. Bùi tai, ông quay về làng. Ít lâu sau, vào một buổi tối, khi dân trong làng, trong đó có ông tôi, đang xem hội hàng năm của làng thì cán bộ Việt Minh đột kích vào bắn ông tôi. Khi ông tôi ngã xuống, họ cẩn thận đâm thêm dăm bẩy nhát dao găm cho chết hẳn rồi mới rút lui.

Bố tôi có người em út, kém ông 15 tuổi, là đại úy trưởng Phòng Tiếp Liệu Quân Y Viện Ban Mê Thuột. Khi thành phố thất thủ, ông theo đoàn người chạy giặc ra vùng ngoại ô và được một chiếc trực thăng bốc về Sài Gòn ngày hôm sau, trong khi vợ và con gái nhỏ vẫn đang kẹt lại thành phố. Khi về đến Sài Gòn, ông tá túc tại nhà chúng tôi nhưng không tìm đường ra nước ngoài với hy vọng được đoàn tụ vợ con. Hậu quả là ông phải trả giá với hơn 5 năm tù. Khi cùng vợ con sang định cư tại Houston năm 1990 theo diện tù cải tạo, ông kể rằng trong những năm tháng bị cầm tù, ông và các bạn đồng cảnh phải học tập cái gọi là “tội ác Mỹ Ngụy,” dĩ nhiên theo sự tuyên truyền dối trá của Cộng Sản. Trong những “tội ác” này có chiến dịch truy lùng cán binh Cộng Sản nằm vùng tại Phú Yên sau hiệp định Geneva mà bố tôi là người trong cuộc. Lúc ấy, tiểu đoàn 10 khinh chiến của Quân Đội Quốc Gia do đại úy Vũ Duy Đê là tiểu đoàn trưởng và bố tôi là trung úy đại đội trưởng Đại Đội Chỉ Huy đã lùng soát và tiêu diệt thành phần chủ chốt của Việt Cộng tại làng Ngân Sơn, thị trấn Chí Thạnh thuộc tỉnh Phú Yên. Hiện nay vẫn còn rất nhiều báo mạng của Cộng Sản Việt Nam ghi lại chuyện này nhưng với những lời thêu dệt, như những dòng sau đây trên trang mạng báo Phú Yên Online: “Ngày 5/9/1954, tiểu đoàn lính ngụy mang tên Lê Hữu Từ (một linh mục phản động khét tiếng ở Bùi Chu – Phát Diệm di cư vào Nam) do Vũ Duy Đê chỉ huy đã gây ra vụ thảm sát Ngân Sơn – Chí Thạnh làm chết 64 người, bị thương 76 người. Đây là một trong ba vụ thảm sát man rợ ở miền Nam gây chấn động cả nước và quốc tế.”

Nói tóm tắt, bố tôi là người không bao giờ có thể sống chung với Việt Cộng. Miền Nam mất mà ông còn ở lại trong nước thì cách này hay cách khác, ông cũng mất. Gia đình tôi biết rõ như vậy.

Thân phụ tác giả và các con trong buổi tiệc mừng thọ 80 tuổi của ông vào năm 2009.

Ba Tổng Thống trong 10 Ngày Cuối của Miền Nam Tự Do

Tối 21 tháng Tư, đài truyền hình Sài Gòn chiếu trực tiếp cảnh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lãnh đạo đất nước cho tân tổng thống Trần Văn Hương, trong lúc tình hình chiến sự thêm bi thảm cho quân đội VNCH.

Trong khung cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, trong tâm trạng buồn rầu, hoang mang, lo lắng ấy, chúng tôi tự đánh lừa mình với một giải pháp chính trị chấm dứt cuộc chiến sẽ xuất hiện trong những ngày sắp tới. Tin tưởng như thế để còn có thể gạo bài chuẩn bị cho kỳ thi cuối khoá.

Gần 8 giờ sáng thứ Hai ngày 28, chúng tôi ngồi trong lớp chờ giáo sư Đoàn Triệu Yến, vị thày môn Kinh Tế đến phát đề tài bài thi đầu tiên trong kỳ thi cuối học kỳ. Giáo sư đến đúng giờ với y phục chỉnh tề như thường lệ; vừa bước vào lớp, ông tuyên bố môn thi được hoãn lại cho đến ngày sẽ được thông báo sau. Ngay sau đó, ông ra về. Sau này, tôi nghe một bạn cùng lớp kể lúc đến trường, ông đưa gia đình theo trên chiếc xe hơi. Sau khi ông rời trường, họ đến phi trường Tân Sơn Nhất, lên một vận tải cơ của Hoa Kỳ đưa những người tỵ nạn thoát khỏi Sài Gòn. Nếu chuyện thật sự xẩy ra như vậy, ông là một người đáng ngưỡng mộ. Ít ra thì ông cũng đến trường để cho sinh viên biết họ được hoãn thi và chào giã biệt chúng tôi. Tư cách ông hơn hẳn biết bao cấp chỉ huy quân sự đã lén lút trốn thuộc cấp để đào tẩu trong những ngày tháng gian nan ấy.

Được hoãn thi, tôi và một số bạn trong lớp lại vào câu lạc bộ của trường chia sẻ cho nhau những tin tức cùng tin đồn về tình hình chiến sự và chính trị. Lúc bấy giờ có rất nhiều tin đồn đang được loan truyền. Đến quá trưa, mọi người từ giã, hẹn mai gặp nhau cho môn thi khác.

Khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, khi tôi đứng ở cổng nhà trong cư xá Bắc Hải tiễn người bạn cùng khóa Đốc sự vừa đến thăm, chợt có tiếng bom nổ rung chuyển nhà cửa vang đến từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Về sau, tôi được biết Nguyễn Thành Trung, một phi công của Không lực VNCH nhưng là gián điệp cho Cộng Sản Việt Nam đã hướng dẫn các phi công miền Bắc lái 4 chiếc oanh tạc cơ A-37 do Không quân bỏ lại ở phi trường Phan Rang để dội bom Tân Sơn Nhất. Trung cũng là người lái chiếc F5 oanh tạc dinh Độc Lập sáng ngày 8 tháng Tư như đã kể.

Chừng một tiếng sau, đài truyền hình Sài Gòn trực tiếp buổi bàn giao chức vụ tổng thống giữa cụ Trần Văn Hương và đại tướng Dương Văn Minh tại phòng khánh tiết dinh Độc Lập. Ngày hôm trước, Quốc Hội lưỡng viện sửa đổi hiến pháp để ông Minh thay cụ Hương trong niềm hy vọng ông đủ uy tín đàm phán với Việt Cộng để đạt được một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được.

Ngay sau khi nhận trách nhiệm tổng thống, tối 28, ông Dương Văn Minh tuyên bố Sài Gòn được đặt trong tình trạng thiết quân luật, người dân bị cấm ra khỏi nhà.

Cư Xá Sĩ Quan Chí Hoà

Cư xá nơi gia đình tôi cư ngụ trước kia có tên là Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa, thuộc Quận 10 trước tháng Tư năm 1975. Cư xá do người Pháp khởi công xây từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, dành cho những sĩ quan trong quân đội Pháp. Tuy nhiên, khi cư xá vừa xây xong thì người Pháp phải về nước theo quy định của Hiệp Định Geneva chia đôi nước Việt. Năm 1957, chính quyền VNCH cấp các hộ trong cư xá cho gia đình những sĩ quan trung cấp và cao cấp của Quân Lực VNCH đang phục vụ ở Sài Gòn và họ có thể cư trú tại đây trong thời gian tại ngũ. Gia đình tôi là một trong những gia đình đầu tiên dọn đến cư xá vào mùa hè 1957 và ở đây suốt 18 năm trời. Thoạt đầu, cư xá chỉ có 16 dẫy nhà, mỗi dẫy gồm 4 hộ ở tầng dưới và 4 hộ ở tầng trên, tức tổng cộng 128 hộ. Cổng chính cư xá ăn thông với đường Bắc Hải dẫn ra đường Lê Văn Duyệt. Cổng sau hướng ra cuối đường Nguyễn Tri Phương, nơi cắt ngang đường Tô Hiến Thành. Khoảng năm 1965, chính quyền cho xây thêm nhiều dẫy ở các khoảnh đất rộng gần cổng sau, nâng số hộ trong cư xá lên đến hơn 300. Đến cuối năm 1968, chính quyền cho những sĩ quan đứng tên chủ gia đình ở đây mua các căn hộ họ đang cư ngụ và cũng cho phép thường dân sở hữu các căn này. Vì không còn được dành riêng cho các sĩ quan như trước, nên cư xá được đổi tên thành Cư Xá Bắc Hải.

Kể từ những ngày đầu tiên, cư xá luôn có vị sĩ quan được chính quyền chỉ định là người có thể đưa ra những quyết định liên quan đến sự quản trị cư xá mà cư dân quen gọi là “trưởng trại.” Vị trưởng trại sau cùng là trung tướng Đổng Văn Khuyên. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, trong thời gian dầu sôi lửa bỏng vào tháng Tư năm 1975, trung tướng Khuyên giao quyền điều hành cư xá cho đại tá Lê Kim Ngô thuộc binh chủng Công Binh. Ông đại tá này có lẽ ác cảm với những người đang tìm cơ hội thoát khỏi Việt Nam nên ra lệnh cho trung đội lính và đám Nhân Dân Tự Vệ canh gác chặt chẽ tại hai cổng cư xá, nội bất xuất ngoại bất nhập từ chiều ngày 28 đến sáng 30. Trong thời gian này, tuy có lệnh thiết quân luật nhưng dân chúng vẫn tiếp tục tất tả ngược xuôi trên các nẻo đường thành phố, chỉ riêng cư xá chúng tôi bị ông quyền trại trưởng phong tỏa. Tôi được biết nhiều gia đình đã không thể di tản khỏi Sài Gòn trong ngày 29 vì không ra được cổng cư xá.

Rốt cục, ông quyền trại trưởng ở lại khi cuộc chiến kết thúc và cũng phải đi “lao động cải tạo” nhiều năm trời như những sĩ quan QLVNCH khác. Nghe nói ông và gia đình đã sang Hoa Kỳ tỵ nạn theo diện cựu tù nhân cải tạo tức Humanitarian Operation vào đầu thập niên 1990.

Hỗn Quan, Hỗn Quân

Sáng thứ Ba ngày 29, tôi lấy xe định đến nhà một người bạn. Tuy nhiên, cổng ra vào cư xá đã đóng với những người lính cơ hữu của cư xá cùng vài anh Nhân Dân Tự Vệ lăm lăm tay súng đang đứng gác. Những người này giải thích với tôi rằng đại tá Lê Kim Ngô, quyền trường trại, đã ra lệnh nội bất xuất còn ngoại bất nhập, tức là tất cả cư dân trong cư xá không được ra ngoài, ngoại trừ những quân nhân có sự vụ lệnh di chuyển. Người từ ngoài cũng không được vào nếu không xuất trình giấy tờ chứng minh mình đang ở cư xá. Những người lính gác cổng nói năng khá nhã nhặn nhưng các ông Nhân Dân Tự Vệ luôn biểu diễn nét mặt khó đăm đăm. 

Tôi trở về nhà, pha tách cà phê mang ra ngồi ở bậc thềm, vừa uống vừa nghe tin tức đài phát thanh Sài Gòn từ chiếc radio nhỏ. Có tiếng bấm chuông, tôi ra mở cổng, trông thấy anh Tiềng, một trong số hơn 10 công nhân của nhà in do một Hoa kiều và mẹ tôi làm chủ. Đây là một trong năm hay sáu nhà in các bộ bài tại miền Nam thời bấy giờ; bài Tây có, bài chắn, tứ sắc, tam cúc, bất, tổ tôm cũng có. Gọi là nhà in chứ thật ra chỉ là một cơ sở in đặt trong hai căn phòng khá lớn mà mẹ tôi cho xây thêm ở vườn sau nhà. Các công nhân làm việc, ăn ở tại đây.

Anh Tiềng trạc tuổi tôi nhưng không phải đi lính. Có người thợ in đồng nghiệp nói anh được hoãn dịch gia cảnh. Lại có người bảo anh trốn quân dịch. Anh quý tôi nên thỉnh thoảng mời tôi đi uống cà phê sáng tại một tiệm khá gần cổng sau cư xá. Hôm ấy, khi lên nhà trên nhưng không gặp tôi nên anh đi bộ một mình đến quán. Anh kể là khi trở về, đi ngang sân cỏ rộng mà các thanh, thiếu niên trong cư xá dùng làm sân bóng đá, anh trông thấy một chiếc trực thăng, có lẽ loại UH-1 khá thông dụng trong chiến tranh Việt Nam, đang bay là là chực đáp xuống. Gần đó là một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn hay năm con, đứa lớn, đứa nhỏ với hành lý lỉnh kỉnh đứng chờ bên cạnh một chiếc xe hơi. Bỗng dưng một chiếc gắn máy phóng rất nhanh đến. Hai thanh niên đeo băng tay Nhân Dân Tự Vệ xuống xe, giơ súng carbine nhắm bắn vào trực thăng, có lẽ là bắn dọa. Trực thăng vội bốc cao lên, đảo một vòng tròn có vẻ ngập ngừng như chưa biết nên bay xa hay liều đáp xuống. Hai anh nhắm bắn thêm vài phát. Chiếc trực thăng vút cao hơn rồi bay thẳng.

Nhân Dân Tự Vệ là lực lượng dân quân bán thời gian được thành lập sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 với mục đích bảo vệ an ninh tại làng, xã, thôn xóm. Hầu hết nhân sự trong lực lượng là thanh, thiếu niên chưa đến hạn tuổi quân dịch và không được huấn luyện đầy đủ, nhiều người còn chưa được học sử dụng súng, đạn. Báo chí thời bấy giờ gần như đăng tin mỗi ngày trong mục tin vặt “Từ Thành Đến Tỉnh“ về chuyện Nhân Dân Tự Vệ bắn lầm, bắn lẫn nhau khi tức giận, phá phách xóm làng, hay nghịch ngợm súng đạn đến nỗi gây thương vong cho người khác và cho chính mình. Những tin tức này nhiều đến nỗi lắm tờ báo bắt chước báo Sóng Thần đặt tít cho bản tin thường ngày về chuyện này là “Truyện Dài Nhân Dân Tự Vệ.” Trong hai tháng cuối của cuộc chiến, tình trạng hỗn quan hỗn quân khiến các anh Nhân Dân Tự Vệ cảm thấy mình uy quyền hơn, quan trọng hơn lên để thế thiên hành đạo mà đoàn Nhân Dân Tự Vệ trong cư xá chúng tôi là một trường hợp điển hình.

Anh Tiềng kể tiếp rằng những người đứng cạnh xe hơi đứng ngẩn ra nhìn theo bóng dáng chiếc trực thăng nhỏ dần, nhỏ dần, rồi mất hút. Họ lục tục mang hành lý trở vào xe. Xe nổ máy rồi rời sân bóng.

Hai anh Nhân Dân Tự Vệ đứng chờ vài phút để chắc chắn trực thăng không quay lại. Sau đó họ lên xe gắn máy, nổ máy và lao đi.

Tôi tự hỏi chiếc trực thăng ấy định đưa gia đình những người đứng chờ cạnh chiếc xe hơi đến đâu; một tầu chiến Mỹ đang đợi sẵn ngoài khơi Vũng Tầu hay một nơi nào họ nghĩ còn an toàn ở vùng IV? Tôi cầu xin ơn trên cho gia đình họ rồi sẽ thoát khỏi cánh cửa địa ngục đang mở dần để nuốt trọn khối người dân miền Nam tự do.

Trong chiều hôm ấy, hai em trai tôi, đứa lớn chín tuổi và đứa nhỏ bẩy tuổi, đã chứng kiến một tình trạng tương tự, nhưng với kết thúc có hậu cho người di tản.  

Đang chơi đùa trước cửa, hai cậu em trông thấy một trực thăng, có lẽ cũng là loại UH-1, đảo vòng tròn trên sân bóng tròn, cùng lúc các thanh niên Nhân Dân Tự Vệ ngồi trên vài xe gắn máy phóng nhanh ngang nhà. Trẻ con thì lúc nào chẳng hiếu kỳ và hiếu động, các cậu bé chạy đến sân bóng xem chuyện gì. Khi các cậu đến nơi, đám Nhân Dân Tự Vệ đến trước đã dựng xe máy, giơ súng bắn chỉ thiên về chiếc trực thăng nhưng trực thăng vẫn đáp xuống bãi cỏ. Các cậu đang hăm hở xông đến thì bỗng có một tràng đạn chát chúa vọng ra từ trực thăng. Tất cả khựng lại thì thấy ngoài viên phi công, trên máy bay có người xạ thủ chĩa nòng súng đại liên đang bốc khói về hướng mình. Một tràng đạn nữa nổi lên từ khẩu đại liên, chắc người xạ thủ chỉ bắn dọa. Thế là cả đám hoảng hốt chạy lui. Ba bốn người đang đứng đợi gần đó phóng nhanh đến trực thăng, rồi được người xạ thủ kéo lên. Chiếc trực thăng từ từ  bốc cao trong khi nòng đại liên vẫn hướng về đám Nhân Dân Tự Vệ.

Về sau, tôi nghe kể có thêm vài trực thăng khác định đáp xuống cư xá chúng tôi trong ngày hôm ấy nhưng cũng bị đám Nhân Dân Tự Vệ bắn đuổi. Cư xá lúc bấy giờ là nơi cư ngụ của nhiều vị sĩ quan cao cấp trong đó có cả mươi ông tướng nên các trực thăng đến đón gia đình họ trong hai ngày cuối của cuộc chiến là điều bình thường.

Tôi nghĩ không hẳn các anh Nhân Dân Tự Vệ của cư xá trong những ngày tháng ấy là những kẻ xấu, thích hành hạ người khác. Không hiểu lúc ấy họ suy nghĩ gì. Họ hành động theo lệnh cấp trên hay họ muốn thể hiện uy quyền? Khi được giao quyền lực với khẩu súng trong tay, họ có sức mạnh của tập thể và muốn thể hiện quyền uy với người khác, với đồng bọn, và với chính mình.

Hay phải chăng vì gia đình họ quyết định không di tản hoặc không có phương tiện để ra đi nên họ ngăn cản những người khác? Tao không đi được thì mày cũng không được đi, thế thôi!

Đêm Cuối Ở Sài Gòn 

Trưa ngày 29, sau bữa cơm trưa với gia đình, bố tôi mặc quân phục, đeo lon trung tá, lái xe ra đi. Tôi ngồi trong nhà dán tai vào chiếc radio để theo dõi tin tức. Khoảng 3 giờ, đài phát thanh Sài Gòn phổ biến lời thủ tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu người Mỹ rời khỏi Việt Nam ngay lập tức. Cuộc chiến đến hồi kết thúc. Coi như xong! Thật khủng khiếp khi biết trước thứ tương lai tồi tệ đang đưa cao bàn tay gớm chiếc vẫy gọi mình và mình đang bị kéo đến gần theo từng nhịp vẫy của nó.

Đến 6 giờ chiều, bố tôi trở về gọi tôi, mẹ tôi, ông chú lớn, và ông chú út vào một căn phòng để kể những chuyện vừa xẩy ra cho ông. Người chú lớn, em kế bố tôi, là một thiếu tá đang phục vụ tại Phòng 2, tức phòng có trách nhiệm tình báo, của Bộ Tổng Tham Mưu. Gia đình ông sống ở căn hộ số 3 dẫy L trong cư xá, đấu lưng với căn hộ của chúng tôi, số 3 dẫy K. Vì vậy hai gia đình có chung khoảng sân sau khá rộng. Như gia đình những sĩ quan phục vụ tại Phòng 2, vợ con ông đã được người Mỹ cho di tản bằng máy bay từ hai tuần trước.

Bố tôi kể, bố tôi vừa vào được tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, nơi có hàng hàng lớp lớp người vây quanh cố gắng vượt qua cánh cổng sắt để có chỗ ngồi trên những chuyến trực thăng bay ra Hạm Đội số 7 đang đợi ở hải phận quốc tế gần Vũng Tầu. Bố tôi gặp ông đại tá quân đội Hoa Kỳ đã hứa giúp gia đình chúng tôi di tản từ nhiều ngày trước. Ông này xin lỗi chưa giúp được và khuyên bố tôi nên ở lại tòa đại sứ để di tản bằng trực thăng ra hạm đội cùng ông. Bố tôi bảo ông rằng bố không thể đi một mình khi gia đình kẹt lại. Thuyết phục bố tôi không được, ông viết một tờ thư, ghi rõ tên và cấp bậc ông để yêu cầu những quân nhân Mỹ tại phi trường Tân Sơn Nhất có trách nhiệm giúp người Việt rời Sài Gòn chấp thuận cho gia đình tôi lên một chuyến bay vào sáng sớm ngày 30. Sau đó, ông cùng một người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đưa bố tôi ra cửa sau của tòa đại sứ để ra ngoài. “Mình sẽ ra phi trường trước 7 giờ sáng mai,” bố tôi bảo chúng tôi. “Sống thì sống hết! Chết thì chết hết!”, ông nói thêm, một cách dứt khoát.

Vấn đề đặt ra là Sài Gòn đang trong tình trạng thiết quân luật và cư xá đang bị phong tỏa. Với chiếc lon trung tá trên cổ áo, bố tôi có thể ra khỏi cổng cư xá dễ dàng nhưng vợ con sẽ bị chận lại. May mắn thay, khoảng nửa tiếng sau, đài phát thanh Sài Gòn phát ra bản tin tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh các quân nhân, công chức phải trình diện nhiệm sở vào 8 giờ sáng hôm sau. Chúng tôi bàn nhau sẽ khởi hành sáng sớm với xe hơi bố tôi lái, trên xe có các em tôi, cô em kế tôi chở ông chú thiếu tá trên chiếc PC, ông chú đại úy chở mẹ tôi trên chiếc Vespa của ông, và tôi chở một cô em trên chiếc Lambretta. Chúng tôi sẽ bảo lính canh và các Nhân Dân Tự Vệ là đi trình diện nhiệm sở và không yên tâm khi để phụ nữ và trẻ em ở nhà trong tình trạng bất an. Bàn bạc xong xuôi, mọi người uể oải ăn cơm tối rồi đi nghỉ, lấy sức cho một ngày đầy cam go sắp đến.

Tôi vào giường, nằm thao thức trong mớ hỗn độn của những âm thanh xa gần vọng đến. Tiếng động cơ máy bay vần vũ trên trời, tiếng đại bác nổ vang xen kẽ với tiếng súng lớn, súng nhỏ từng phát, từng tràng liên tục, và tiếng kinh cầu của mẹ tôi vọng đến từ bàn thờ. Mãi đến hơn một giờ sáng, tôi vẫn trằn trọc trong khi các em ở những giường bên đã yên giấc. Tôi bước xuống giường, soi đèn pin vào tủ sách rút đại ra một quyển, vặn ngọn đèn nhỏ đầu giường nằm đọc để quên đi thực tại. Đó là quyển Vợ Chồng Son, truyện phóng tác của Hoàng Hải Thủy mà tôi đã đọc từ năm, bẩy năm trước. Đến hôm nay nghĩ lại, tôi không thể tưởng tượng được trong lúc cả thành phố đang rung chuyển dưới cơn lửa đạn, bao nhiêu người đang thấp thỏm trước một tương lai tăm tối đầy tai ương mà tôi có thể nằm suốt đêm để ngốn xong một quyển tiểu thuyết với nội dung hài hước. Tôi vẫn biết ngày trước, ông Đỗ Mục chê các cô gái nước Thương qua hai câu thơ “Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu đình hoa” (cô gái nước Thương không biết đến nỗi hận mất nước, ở bên kia sông còn hát khúc Hậu Đình Hoa là khúc hát tình tứ, du dương). Thôi thì xem như mình không thể làm gì để thay đổi vận mệnh nước thì sách vở là sự khuây khoả tốt nhất dành cho người đang tuyệt vọng. 

Tìm Đường Di Tản

Khoảng 6 giờ sáng hôm sau, tức sáng sớm ngày 30 tháng Tư, khi mẹ tôi đánh thức cả nhà thì tôi vừa đọc xong quyển truyện. Nửa tiếng sau, mọi người lên đường. Trước khi rời nhà, tôi định mang bốn quyển album đầy hình ảnh gia đình trong hơn 20 năm kể từ những ngày bố mẹ tôi sống ở Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Tuy nhiên, lúc bấy giở, tôi thật sự nghĩ gia đình không đi thoát và sẽ trở về trong ngày nên thôi. Quyết định này khiến tôi ân hận cả đời. Chiều hôm ấy, khi những người lính Cộng sản đầu tiên tiến vào cư xá, hai người cô tôi, tức em ruột của bố tôi, đến nhà tôi mang tất cả quân phục của bố tôi, bốn quyển album, các giấy tờ chúng tôi để lại mang ra sân sau đốt sạch. Đúng mười lăm năm sau, khi mẹ tôi về Việt Nam lần đầu để thăm thân nhân, bà xin được vài tấm ảnh đã tặng cho họ ngày trước, trong đó có tấm tôi vừa đúng ba tháng tuổi đang nằm lẫy trong hiệu ảnh Tân Việt ở Hà Nội.

Sáng hôm ấy, khi bước ra sân trước, chúng tôi trông thấy cô em gái thứ hai tôi đã lập gia đình cùng chồng, đứa con trai một tuổi và cả bà mẹ chồng. Hôm trước, bố tôi dặn con gái và con rể đến đúng 6 giờ rưỡi sáng để cùng đi. Sự hiện diện của mẹ chồng cô với chiếc va ly khá to trong khi gia đình tôi, mỗi người chỉ một túi xách nhỏ bằng vải với hai bộ quần áo là điều không định trước. Tuy nhiên, đã như thế thì cứ như thế. Bà có mang theo con mèo của bà chắc chúng tôi cũng đành chịu. Chúng tôi chia nhau lên các xe như đã bàn với nhau. Cậu em rể và bà mẹ ngồi trên xe hơi với các em tôi.

Khi chúng tôi chuẩn bị rời nhà, một người bạn bố tôi gọi điện thoại cho biết Việt Cộng đã về đến Ngã Ba Ông Tạ, nơi nằm trên quãng đường ngắn nhất từ nhà tôi đến phi trường, lộ trình chúng tôi chọn từ tối hôm trước. Vì vậy, bố tôi quyết định sẽ đi qua cổng sau cư xá thay vì cổng trước, rẽ trái đường Tô Hiến Thành, gửi xe gắn máy tại nhà một người bạn của bố tôi ở ngã ba Tô Hiến Thành và Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), rồi tất cả lên xe hơi, đi đọc theo đường Lê Văn Duyệt về hướng trung tâm thủ đô, rẽ trái đường Yên Đổ (nay là Lý Chính Thắng), rẽ trái đường Trương Minh Giảng (sau 1975 thành Trần Quốc Thảo), vài cây số nữa Trương Minh Giảng đổi thành Trương Minh Ký (tức Lê Văn Sĩ bây giờ) dẫn đến phi trường.

Ra đến xe, bố tôi đưa cho tôi khẩu súng lục Colt 45 còn ông giữ khẩu Smith Wesson 38 mà chúng ta vẫn gọi là “súng sáu” để phòng thân. Ông biết tôi bắn Colt 45 rất khá. 

Đến cổng sau cư xá, nghe chúng tôi nói phải đi trình diện nhiệm sở theo lệnh của tổng thống, những người lính gác và Nhân Dân Tự Vệ mở cổng cho chúng tôi ra.

Sau khi chúng tôi gửi các xe gắn máy ở nhà người bạn bố tôi, mọi người cùng lên xe hơi. Riêng chú út chúng tôi quay về để đợi đoàn tụ với vợ và con còn ở Ban Mê Thuột. Chiếc xe Opel nhỏ của bố tôi phải chở 15 người kể cả hành lý gồm bố mẹ tôi, ông chú thiếu tá ngành tình báo, 9 anh chị em chúng tôi, chồng và đứa con một tuổi của em tôi, cùng bà mẹ chồng cô. Người này ngồi trên đùi người kia sát chặt vào nhau như những khoanh cá trong một hộp cá mòi.

Khi xe chạy trên đường Lê Văn Duyệt, tôi chứng kiến một khung cảnh vừa hỗn loạn, vừa thê thảm. Đường phố đầy người ngược xuôi như đàn kiến nhớn nhác túa ra khi tổ bị một đứa trẻ cầm que chọc vào. Dọc hai bên lề đường, ngổn ngang những bộ quân phục, giầy bốt, mũ sắt, và cả súng đạn của những người lính tan hàng vứt lại. Đâu đó có những xác người được phủ một chiếc chăn hay chiếu trên vỉa hè. Thỉnh thoảng, chúng tôi chứng kiến cảnh những người khuân bao gạo, bàn, ghế, tủ, và cả nồi niêu nửa đi nửa chạy trên đường. Có lẽ họ vừa đột nhập vào những căn nhà không còn người ở để hôi của. Khi xe đi qua Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trên đường Lê Văn Duyệt, tôi trông thấy một xe tăng M-48, loại tăng lớn nhất và tối tân nhất mà Hoa Kỳ viện trợ cho quân lực VNCH trong cuộc chiến, nằm giữa lòng đường với nòng đại bác chúc thẳng lên trời. Người lính trưởng xa chiếc xe tăng này quả là người có cái tâm tốt lành. Trước khi rời xe, anh cẩn thận ngước nòng súng lên cao để địch quân từ xa nhận biết chiếc tăng đã bỏ cuộc chơi nên không nã đạn vào, gây thương vong cho dân chúng gần đó.

Đến cầu Trương Minh Giảng gần Đại Học Vạn Hạnh, xe chúng tôi bị chận lại bởi một toán Biệt Cách Dù đang bố trí dọc cầu. Người trung uý, có vẻ là trưởng toán, tiến đến xe. Trông thấy bố tôi đang trong bộ quân phục với lon trung tá, anh đưa tay lên chào. Đó là lần cuối bố tôi nhận được kiểu chào đúng quân kỷ của một người dưới cấp trong 24 năm quân ngũ của ông. Sau khi nghe bố tôi nói rõ mục đích, anh cho biết phi trường đã bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng và khuyên bố tôi đưa gia đình về nhà cho an toàn vì Việt Cộng đã trà trộn với dân trong thành phố. Anh cũng để nghị bố tôi thay bộ quân phục bằng thường phục dù đang ngồi trong xe.

Thất vọng, bố tôi quay xe lại, rồi ngừng xe bên đường để cởi chiếc áo quân nhân ra thay bằng áo polo tôi mang theo. Ông bảo “thua keo này, ta bầy keo khác,” và lái xe đến bộ tư lệnh Hải quân gần đường Cường Để (nay là đường Tôn Đức Thắng) hy vọng gặp vài sĩ quan cao cấp ông quen biết để nhờ giúp gia đình lên một chiến hạm di tản. Đến nơi, chúng tôi thấy đường dẫn vào bộ tư lệnh đã bị chắn ngang bởi những hàng rào sắt với kẽm gai. Toán lính gác cho bố tôi biết tất cả những tầu Hải quân còn sử dụng được đã ra đi trong đêm. Nhớ lại mà tôi cảm thấy ngưỡng mộ các anh, dù biết rõ cấp chỉ huy đã ra đi, họ vẫn ở lại thi hành trách nhiệm cho đến giây phút cuối cùng của chế độ họ đang phục vụ.

Nước đã tràn vào thuyền, chẳng lẽ buông xuôi để chìm trong biển đỏ, thôi thì “còn nước, còn tát,” bố tôi quay đầu xe hướng đến bến Bạch Đằng với hy vọng mong manh gặp một chiếc tầu đang đậu ở đó. Khi bố tôi lái xe dọc theo bến, chúng tôi trông thấy xa xa có một tầu buôn lớn lố nhố đầu người trên boong. Ông đậu xe dưới một tàng cây ven bến, cách tầu khoảng 200 mét, tức gần gấp đôi chiều dài sân bóng, và bảo tôi lên tầu hỏi những người trên đó xem tầu có rời bến không. Tất cả mọi người ngồi đợi trong xe, tôi chạy nhanh đến tầu. Đây là một chiếc tầu chở hàng vượt đại dương, trên mạn có sơn tên Đông Hải, và đang cập sát một chiếc tầu lớn khác có vẻ như đang hỏng vì sàn tầu đầy rác rưởi và không có ai ngồi trên boong. Tôi trèo thang lên chiếc tầu hỏng, bước đến thành tầu đối diện sát thành tầu Đông Hải để trèo qua con tầu đầy người này. 

– Tầu này có đi không? Tôi hỏi người đàn ông gần tôi đang ngồi bệt trên sàn tầu cùng những người có lẽ trong gia đình ông.

– Tôi cũng không biết! Ông ta trả lời.

– Không biết sao ngồi đây?

– Thì thấy người ta ngồi nên mình cũng ngồi.

Hỏi vài ba ngồi gần đó, cũng không ai biết tầu có đi hay không.

Tôi trở lại xe, trình bầy những điều tai nghe mắt thấy cho mọi người. Sau ít phút bàn thảo, tất cả rời xe đi đến tầu, ngoại trừ tôi. Trong vài ngày qua, tại bến Bạch Đằng, có một đoàn quân hôi của, lùng sục khắp nơi để lấy những xe gắn máy, xe hơi do những người đi tản để lại trên bến. Với những xe hơi họ không nổ máy được hoặc không biết lái thì họ tháo bánh xe, gỡ bình điện, và lấy đi những phụ tùng khác có thể bán được. Với khẩu súng giắt trong lưng quần, tôi phải ở lại giữ xe để có phương tiện trở về nếu không tìm được tầu di tản.

Bước ra khỏi xe, tôi bật que diêm đốt điếu thuốc đầu ngày. Bỗng có gã thanh niên gầy gò, áo quần luộm thuộm bước đến.

– Lương xe hả? Cho em ké cái bánh nhé! Gã nhăn nhở cười hì hì nói (“lương” là tiếng lóng của giới giang hồ lúc bấy giờ, có nghĩa là lấy trộm).

– Lương mẹ gì? Xe tui đó cha!

Mặt tiu nghỉu, gã biến đi thật nhanh.

Hút xong điếu thuốc, tôi vào xe ngồi ở ghế tài xế để những tên đang lùng sục các xe bỏ lại trên bến biết xe có chủ nên không đến làm phiền. Tôi nhớ đến những bài báo thuật cảnh hàng ngàn người chen chúc nhau trên những chuyến tầu xuôi Nam sau khi miền Trung thất thủ trong tháng trước. Trên những chuyến tầu đó, biết bao trẻ em đã chết vì đói khát, và bị hải táng vào lòng biển. Gia đình tôi, vì tưởng có thể đi tản bằng phi cơ nên không mang theo chút thực phẩm và nước uống nào. Các đứa em nhỏ của tôi, đứa lên 9, đứa lên 7, đứa lên 5, đứa 21 tháng và đứa cháu đang chập chững tập đi chắc khó thế vượt qua cuộc hải trình cam go này mà không có cái để ăn, để uống.

Hơn nửa tiếng sau, có lẽ khoảng 9 giờ, mặt trời lên cao, nắng gắt chan hòa, trời trở nên nóng nực, tôi quyết định lên tầu gọi cả nhà ra về. Tuy nhiên, tôi e khi mình bước đi, chỉ trong dăm bẩy phút, sẽ có kẻ bất lương đến tháo bánh xe, lấy bình điện, hoặc tệ hơn, câu giây điện để nổ máy rồi lái xe đi. Đang ngập ngừng tiến thoái lưỡng nan, chợt có một trung đội Nhẩy Dù kéo đến bố trí cạnh gốc cây nơi xe chúng tôi đang đậu. Tôi bước đến hỏi han anh chuẩn uý trung đội trưởng, một sĩ quan Thủ Đức sau tôi vài khoá. Anh cho biết trung đội của anh vừa trải qua một đêm quần thảo với Cộng quân ở Hàng Xanh, gần xa lộ Biên Hoà để ngăn địch tiến vào Sài Gòn. Và rồi, vì thiếu đạn dược nên phải rút về đây. Anh cho trung đội đóng tạm nơi này để chờ lệnh. Chỉ tay về chiếc tầu Đông Hải, tôi bảo anh rằng gia đình tôi đang ở trên tầu. Tôi cần lên đó để gọi mọi người về và nhờ anh trông hộ chiếc xe cho tôi, không để kẻ bất lương lấy trộm. Tôi sẽ trở lại trong khoảng 10 phút. Anh gật đầu đồng ý và nói dứt khoát: “Anh yên tâm! Tôi giữ xe cho anh!”

Trở lại lên tầu Đông Hải, tôi nhanh chóng tìm được gia đình trong đám đông hỗn tạp. Tôi trình bầy với mọi người nỗi lo âu của tôi. Tất cả đồng ý trở về. Chúng tôi lần lượt, người lớn bế trẻ em, trèo qua thành tầu Đông Hải, bước vào con tầu hỏng bên cạnh để xuống bến. 

Khi mọi người qua hết con tầu hỏng, nhìn sang tầu Đông Hải không thấy chú tôi. Chúng tôi biết ông chắc chắn không về theo vì vợ con ông đã được người Mỹ cho di tản bằng đường hàng không như đã kể. Ông phải tìm mọi cách để đi. Tôi bước dọc theo thành con tầu hỏng tìm ông đứng lẫn lộn trong đám đông trên tầu Đông Hải, vừa đi vừa lớn tiếng gọi tên ông để báo ông biết chúng tôi quyết định trở về. Đúng lúc ấy có tiếng đạn pháo kích nối tiếp nhau nổ long trời lở đất. Bụi bốc lên mờ mịt ngay chỗ trung đội Nhẩy Dù đang bố trí dưới gốc cây bên cạnh xe hơi của chúng tôi. Rõ ràng là tiền sát viên Việt Cộng trà trộn trong dân đã chỉ điểm cho một đơn vị pháo binh của họ đội pháo vào vị trí toán quân Nhẩy Dù. Chợt có tiếng kêu to từ tầu Đông Hải: “Việt Cộng pháo kích! Nổ máy! Chặt neo!” Tiếng máy tầu rung lên rồi tôi trông thấy một người cầm chiếc rìu lớn chặt dây neo. Giây đứt, con tầu tự động chậm rãi tách ra khỏi chiếc tầu hỏng. Mọi người trong gia đình hối hả trèo lại sang tầu Đông Hải. Bố tôi sang trước, tôi đủn những người khác qua thành tầu, bố cầm tay đỡ xuống. Những đứa trẻ thì tôi bế lên chuyền cho bố tôi. Đến khi tôi ném những túi quần áo cho bố tôi thì tầu Đông Hải đã tách ra hơn một thước nên tôi phải lấy sức nhẩy sang. Có lẽ tôi là người cuối cùng từ con tầu hỏng sang được tầu Đông Hài.

Khi tầu tách xa khoảng ba hay bốn thước, tôi trông thấy một đứa bé trai khoảng năm tuổi đứng trên boong con tầu hỏng, hai tay khoắng loạn lên trời vừa nhẩy tưng tưng vừa khóc gào “Ba ơi! Ba ơi!” Trên tầu Đông Hải, có cặp vợ chồng đứng sát thành tầu nức nở thét to “Con ơi! Con ơi!” Những tiếng gào tiếng thét chìm vào tiếng đạn pháo nổ dập dồn trên bến. 

Tầu dời xa dần bến.

Hỏi chuyện những người đứng gần, tôi được biết cặp vợ chồng đang vật vã khóc đã đưa được hai con lên tầu Đông Hải, đứa lớn là gái, khoảng 7, 8 tuổi, đứa bé là trai, lên 5 hay 6. Ngồi trên tầu khá lâu mà không thấy động tĩnh nên cũng như gia đình tôi, họ quyết định về. Khi sang con tầu hỏng thì đạn pháo rơi trên bến và tầu Đông Hải mở máy chạy, họ vội vã trở sang tầu Đông Hải mà quên mang theo đứa con trai. Tôi chạnh lòng thương đứa trẻ, đời sẽ dẫn nó đến đâu? Tôi chạnh lòng thương cặp vợ chồng lạc con, ắt họ sẽ mãi mãi phải sống với nỗi buồn xé nát tâm can và cảm giác tội lỗi trong những ngày còn sống. Người xưa có câu thành ngữ “can trường thốn đoạn” có nghĩa ruột gan đứt ra từng đoạn để chỉ người cha, người mẹ mất con. Đứa con chết đi, bậc cha mẹ đau đớn có thể ngước lên trông Trời mà trách móc “lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống Trời hay không Trời” nhưng rồi sẽ nguôi ngoai theo thời gian. Đằng này, đứa con nhỏ bị dứt ra khỏi đời mình vì một sơ suất của chính mình. Mỗi lần nhớ đến đứa con, chắc chắn họ lại đau đớn tự hỏi thằng bé giờ ra sao, sống chết thế nào, đói hay no, khổ nhiều hay khổ ít. Cầu xin Thượng Đế giữ gìn, che chở họ cho đến ngày cha, mẹ, chị, em, được đoàn tụ.

Đường Ra Vũng Tầu 

Tầu đi được khoảng gần hai tiếng, khi đến chỗ sông Sài Gòn đổi tên thành sông Lòng Tảo, trời bỗng đổ cơn mưa rào, tuy không kéo dài nhưng cũng khiến mọi người ướt sũng. Có lẽ vì cả đêm trước không ngủ, đang bần thần, bải hoải nên tôi rét run cả người. Đứng gần tôi là một cô bé trạc 16, 17. Trông thấy tôi đang co ro, run lên từng chập nên cô mở va ly mang theo, lấy chiếc áo len cho tôi mượn. Dáng cô nhỏ hơn tôi khá nhiều nhưng áo đan bằng sợi len có thể dãn ra nên tôi cài nút được. Tôi đã mặc chiếc áo này cho đến lúc cơn mưa dứt và đợi cho áo khô mới trả lại cô. Lúc tàu khởi hành, tôi trông thấy cô ngồi dựa vào thành tầu, tay ôm hai đứa trẻ, gái độ 10 tuổi, trai chắc lên 5, và sùi sụt khóc. Hỏi thăm cô, tôi được biết ba chị em được mẹ dẫn lên tầu. Ngồi trên tầu một chốc, cậu em kêu đói nên bà mẹ xuống bến tìm mua bánh mì cho con và cho cả gia đình để dành ăn trong những ngày sắp tới. Bà vừa xuống bến độ dăm phút thì tầu chạy. Chuyện gia đình cô và chuyện đứa trẻ bị lạc cha mẹ ở bến tầu chỉ là hai trong hàng vạn câu chuyện “đau lòng kẻ ở người đi; lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm?” (Truyện Kiều) trên quê hương ta trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. 

Khoảng hai giờ chiều, có lẽ tầu Đông Hải đã đi được quá nửa đoạn sông Sài Gòn – Vũng Tầu, qua chiếc máy phát thanh nhỏ của người đứng gần, chúng tôi nghe tiếng ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Có những tiếng bật khóc nức nở chung quanh tôi. Thế là hết! 

Tin tức ông Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng đầu hàng vô điều kiện khiến những người trên tầu vừa bàng hoàng vừa lo lắng cho sự an toàn của con tầu. Khoảng một tiếng sau, đài Sài Gòn phát lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đang ngồi trong phòng vi âm của đài ca ngợi thành quả thống nhất đất nước của Cộng sản và lên án những người bỏ nước tìm tự do là những kẻ phản bội. Sau đó, ông hát vang ca khúc Nối Vòng Tay Lớn với tiếng vỗ tay theo nhịp của những người trong cái gọi là “Uỷ Ban Cách Mạng Lâm Thời” đang hiện diện tại đài phát thanh.

Tôi không hiểu ông Trịnh Công Sơn có bao giờ nhận thức được chính mảnh đất miền Nam tự do đã nuôi dưỡng, cưu mang ông và cung cấp cho ông môi trường thuận lợi để ông sáng tác? Thử tưởng tượng nếu sống ở miền Bắc, dù có thể tự học nhạc, chắc chắn ông chỉ được phép viết lên những ca khúc tầm thường xưng tụng bác và đảng, như bao văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ nô bộc của chế độ. Xét ở khía cạnh này thì chính ông mới là kẻ phản bội miền Nam tự do, phản bội những người thiết tha yêu mến nhạc của ông, đã xúm lại công kênh ông lên đỉnh cao ngất ngưởng của âm nhạc Việt.

Về sau, tôi được biết kể từ khi miền Nam đổi chủ, ông Trịnh Công Sơn đã viết cả trăm ca khúc thuộc loại nhạc “giác ngộ cách mạng,” nhưng những sáng tác này của ông nhanh chóng bị rơi vào quên lãng. 

Tầu tiếp tục chạy, khi đến cửa Cần Giờ, cách Vũng Tầu chỉ khoảng 20 cây số đường sông, bỗng có những tiếng nổ vang và những cột nước bắn lên tung toé gần tầu. “Nằm xuống! Việt Công bắn!” Tiếng người hét lên và mọi người nằm rạp xuống sàn tầu.” Sau này tôi biết nơi đây chính là khúc sông Việt Cộng từ bờ bắn vào tầu Việt Nam Thương Tín, con tầu khởi hành tuy sau nhưng khi đến sông Lòng Tảo đã vượt qua tầu Đông Hải, khiến nhà văn Chu Tử bị thiệt mạng. Có lẽ họ vừa bắn bằng súng cối vừa bằng B40 vì khúc sông khá hẹp. 

Khi tầu vượt qua tầm súng Việt Cộng, mọi người lồm cồm trổi dậy. Đứng bên thành tầu, vài phút sau, chúng tôi trông thấy ba, bốn chiếc thuyền máy trông giống như giang tốc đỉnh của Hải quân đuổi theo. Vài người trên thuyền cầm súng trường hướng lên trời bắn chỉ thiên như ra lệnh tầu ngừng lại. Lại có tiếng la to “Việt Cộng đuổi! Chạy nhanh lên! Nhanh lên!” Chẳng hiểu tiếng la hét dục tầu đi nhanh có vọng đến phòng lái hay không nhưng tôi có cảm tưởng như tầu đang dần tăng tốc độ. Tuy nhiên, khoảng cách giữa những chiếc thuyền máy và tầu dần dần thu hẹp theo từng phát đạn vang đến từ thuyền. Mọi người trên tầu hoảng loạn, kẻ nằm sóng soài trên boong, người đứng sát mạn tầu nhô đầu lên lo âu nhìn về hướng những chiếc thuyền đang xả hết tốc lực đuổi theo.

Trong thoáng chốc, tôi tưởng tượng ra cảnh đám lính Việt Cộng chặn tầu lại, bắt tầu tấp vào gần bờ, lùa dân trên tầu lội nước vào khu rừng bên cạnh. Họ chia người di tản ra làm hai, đàn ông trong tuổi lính đứng một bên, người già, phụ nữ, và trẻ con một bên, rồi nổ súng từng loạt vào những người đàn ông. Đúng thế, họ sẽ làm như đã làm đối với những đoàn người di tản mà họ chận lại trên Liên Tỉnh Lộ 7B và những nạn nhân của họ trong dịp Tết Mậu Thân ở Huế như tôi được biết qua các bài báo. Ồ không đúng, ở Huế thì họ không mất công chia ra làm hai mà lính tráng hay thường dân, đàn ông hay đàn bà, người già hay con trẻ cùng chung số phận như nhau, tức cùng bị giết. Các hố chôn tập thể được khai quật cho thấy rõ ràng sự công bằng, không phân biệt nam phụ lão ấu đối với các nạn nhân của họ. Tôi chuẩn bị cách đối phó, lòng tự nhủ “chết là cùng!”

Tuy nhiên, bố tôi bảo tôi đưa ông khẩu Colt 45. Ông lấy khẩu súng sáu ông đang giữ thả xuống biển rồi nhét khẩu Colt 45 vào bụng. Kế đó, ông nói tôi đưa ví cho ông. Mở ví tôi ra, ông lấy thẻ căn cước quân nhân và thẻ sinh viên trường QGHC có in cờ vàng ba sọc đỏ của tôi ném xuống biển như đã ném súng, rồi trao ví lại cho tôi. Ông bảo nhà còn mẹ, còn em, Việt Cộng bắt thì đừng chống cự, cứ nói là dân thường. Lúc bấy giờ người trên tầu nghĩ những người đang ngồi thuyền máy, bắn súng đuổi theo là Việt Cộng. Bố tôi giữ súng và giữ cả thẻ quân nhân ghi cấp bậc trung tá là quyết chống cự địch, nhưng buộc tôi không được liều mạng như ông.

Cuộc rượt đuổi kéo dài cũng cả mươi phút. Tuy nhiên, mọi người thở phào khi những thuyền máy đến gần. Đó không phải Việt Cộng mà là những người lính Việt Nam Cộng Hoà muốn được lên tầu Đông Hải vì biết những thuyền nhỏ của họ không thể ra biển. Tầu Đông Hải đi chậm lại để những người lính này trèo thang ở mạn tầu lên boong.

Ra Khơi: Những Ngày Đói Khát 

Khoảng 5 giờ chiều hôm ấy, tầu Đông Hải vượt qua Vũng Tầu và hướng đến hải phận quốc tế. Mọi người cùng bùi ngùi nhìn về thành phố Vũng Tầu xa dần, xa dần trong tầm mắt, “đoái trông muôn dặm tử phần, hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” (Truyện Kiều). Lúc đó, cũng như tôi, những người trên tầu nghĩ không bao giờ có thể trở về thăm quê hương, gặp lại người thân yêu, và tương lai thì đầy bất trắc.

Ra đến hải phận quốc tế, chúng tôi trông thấy rất nhiều thuyền nhỏ chung quanh. Mặt trời xuống dần rồi chìm vào lòng biển. Tầu Đông Hải ngưng chạy và bồng bềnh trên sóng nước suốt đêm. Thủy thủ đoàn đã neo tầu lại bằng neo khác vì một giây neo đã bị chặt đứt khi tầu khởi hành. Trong thời gian tầu được neo, nhiều thuyền nhỏ, trong đó có những thuyền đánh cá, cập vào để xin phép lên tầu và họ đều được chấp thuận.

Đêm xuống, tôi đứng tựa người vào thành tầu nhìn ra ngoài. Biển đêm thật đẹp. Ảnh trăng hạ huyền vẽ một đường lấp lánh trên mặt sóng lăn tăn, từ hướng mặt trăng ở chốn xa xăm chạy dài đến con tầu như chia đôi mặt biển. Tôi đã mang ơn đất và hôm nay tôi mang ơn biển. Trong một trận chiến năm xưa, khi đang nằm bẹp dí trên mặt đất thì một quả đạn pháo rơi cách tôi chỉ dăm thước. Tôi không hề hấn gì vì đất che chở tôi. Hôm nay biển cưu mang chúng tôi, đưa chúng tôi thoát khỏi địa ngục của trần thế.

Biển cả bao la trước mặt tôi, bầu trời sao khuya lấp lánh trên đầu tôi, không khí chúng ta đang thở, sinh vật dưới biển, chim chóc trên trời, các động vật trên mặt đất, núi, rừng, ngày, đêm, cỏ, cây, hoa, lá, và loài người là những tác phẩm tuyệt diệu chỉ có thể hoàn thành bởi bàn tay Thượng Đế. Tôi tự hỏi tại sao với quyền uy và phép mầu như vậy, sau khi dựng nên con người, Ngài lại để cho bao cảnh bi thảm, bao mối thương tâm xẩy ra trong lịch sử nhân loại. Loạn lạc, thiên tai, chiến tranh, kế cả những cuộc thánh chiến mà cả hai phe cùng nhân danh Ngài, thời nào cũng có. Có chiến tranh thì có hằng hà sa số cảnh người giết hại người, cha mất con, vợ mất chồng, những kiếp người lầm than, những mảnh đời khốn khổ. Phải chăng vì vậy mà Friedrich Nietzsche, triết gia nổi tiếng người Đức trong thế kỷ 19, từng tuyên bố “Thượng Đế đã chết” để ám chỉ (vì một lý do nào đó) Thượng Đế đã quay mặt không đếm xỉa đến loài người sau khi tạo ra sinh vật có thể gọi là tác phẩm vĩ đại nhất của Ngài? Có lẽ vì chịu ảnh hưởng của Nietzsche, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã mở đầu ca khúc Này Em Có Nhớ của ông với câu “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này em xin cứ phụ người.”

Sau khi đứng ngắm biển đêm một lúc, tôi tìm một chỗ trên sàn tầu lúc nhúc những người là người để nằm dỗ giấc ngủ. Nằm ngửa mặt nhìn bầu trời khuya chi chít những vì sao lấp lánh, tôi nhớ đến những khuôn mặt thân quen, họ hàng có, bạn hữu có, mà lúc ấy mình nghĩ đã vĩnh viễn rời xa. Nổi bật trong số này là hai đứa bạn gắn bó với tôi từ những ngày thơ ấu và có với nhau rất nhiều kỷ niệm, cùng một cô bạn khả ái người Huế có thể gọi là tâm giao nhưng chúng tôi chưa bao giờ vượt quá ranh giới của tình bạn. Tưởng tượng nét mặt bần thần của họ khi đến nhà tôi hôm nay hay ngày mai, bấm chuông không ai mở cửa mà thấy xót lòng. Tôi vui mừng vì đã thoát được Cộng sản nhưng buồn rầu, đau đớn vì những ly tan, cùng những mơ ước, những kế hoạch cho đời đã tan thành mây khói. Bao nỗi vui buồn va vào nhau, xô đẩy nhau trong tôi khiến tôi không ngủ được mặc dầu vừa trải qua đêm thức trắng. Lúc ấy, tôi chưa biết được thời gian rồi sẽ là liều thuốc chữa lành vết thương dù để lại trong ta những đường, ngấn sẹo suốt đời.

Một gia đình Công Giáo gần chỗ tôi nằm cất tiếng đọc kinh. Vài người chung quanh phụ họa. Khi hoang mang, lo lắng, trẻ con cậy đến cha mẹ còn cha mẹ cậy đến Chúa, Phật. Con người, khi đã trưởng thành, thường gần Phật hay Chúa nhất trong lúc nguy nan, gần đến nỗi có cảm tưởng mình cố vươn tay cao thêm một chút là có thể chạm đến trái tim từ ái của các ngài. Kể từ khi con người tin vào Thượng Đế hay Đấng Chí Tôn theo cách riêng của từng tôn giáo, họ đã cậy đến Ngài trong cơn nguy khốn. Ngài có lắng nghe những lời cầu xin của đàn con không, tôi không biết. Tuy nhiên tôi biết chắc một điều rằng Ngài không bị thiệt thòi. Nếu kẻ cầu xin rốt cục được tai qua nạn khỏi, họ tin đã được Ngài phù hộ. Trong trường hợp ngược lại, họ chép miệng thở dài “cái số mình như vậy” và vẫn một mực yêu mến, thờ kính, tin tưởng nơi Ngài. Thôi thì cứ mơ mộng, cứ cầu xin, đáp ứng hay không là việc riêng của Ngài. Dù sao, sự tin tưởng là điều cứu rỗi trong lúc ấy và chẳng thiệt thòi gì khi mình có một niềm tin. Ít ra nó cũng mang đến cho mình hy vọng.

Nhưng rồi, quá mệt mỏi, cuối cùng tôi cũng chợp mắt được khi giấc mơ về một ngày mai tươi sáng vẫn còn dang dở.

Tờ mờ sớm hôm sau, tiếng léo nhéo của những người chung quanh đánh thức tôi. Vừa ngồi dậy, tôi cảm thấy lưng áo mình ướt đẫm. Sờ tay vào sàn tầu, tôi thấy râm rấp nước. Chẳng lẽ mình ngủ say đến độ mưa xuống mà không biết. Sinh nghi, tôi đưa tay lên mũi ngửi thì rõ ràng là nước tiểu. Hàng ngàn người chen chúc trên sàn tầu mà không có một nhà vệ sinh nào trong tầm mắt thì tiểu tại chỗ, nhất là các em nhỏ, là chuyện thường. Đành tự an ủi trong cái rủi có cái may, người ta không đại tiện ra sàn tầu gần chỗ mình nằm là tốt rồi. 

Tôi nhặt chiếc túi đặt dưới sàn tầu đựng hai bộ quần áo mang theo định lấy một chiếc áo ra thay thì mới hay lớp vải chiếc túi cũng đẫm nước. Thôi thì cứ như vậy mà lạy trời mưa xuống.

Tầu Đông Hải nổ máy, chuyển minh rồi lầm lũi trôi đi trên mặt nước biếc xanh như ngọc. Nếu gạt bỏ được những xao động trong tâm tư, chắc những người trên tầu sẽ chứng kiến được vẻ đẹp tuyệt vời của biển Đông trong buổi bình minh sóng lặng như sáng hôm ấy, ngày 1 tháng 5 năm 1975. Chẳng ai ngờ, chỉ vài năm sau cũng chính biến Đông này đã nổi cơn thịnh nộ nuốt chìm hàng chục ngàn, có lẽ đúng hơn là hàng trăm ngàn thuyền nhân phải bỏ nước ra đi như chúng tôi ngày hôm ấy.

Xa xa, trong màn sương sớm, thấp thoáng một chiếc tầu trông giống chiến hạm. Tiến đến gần, chúng tôi thấy đó là một chiến hạm Hoa Kỳ với những người Việt tỵ nạn lố nhố đứng trên boong nhìn về tầu chúng tôi. Thủy thủ đoàn trên tầu Đông Hải quyết định cập vào chiến hạm Mỹ để xin họ cho những người trên tầu sang vì Đông Hải không có đủ thực phẩm cho số người trên tầu. Một trực thăng từ chiến hạm bay lên để quan sát số người đứng chật kín trên boong tầu. Loa phóng thanh trên chiến hạm phát ra những lời bằng Anh ngữ rồi ngay sau đó một người trên chiến hạm dịch sang Việt ngữ là trên tầu họ đã đầy người, không còn chỗ để chứa thêm; tầu chúng tôi phải tránh xa để giữ an toàn. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn Đông Hải vẫn lái tầu cập vào chiến hạm. Ngay lập tức một tràng đạn đại liên từ chiến hạm nổ chát chúa và chúng tôi nghe tiếng đạn bay cao veo véo trên tầu. Rõ ràng họ không muốn cho chúng tôi đến gần và bắn chỉ thiên cảnh cáo chúng tôi. 

Tôi không biết ai là trưởng tầu trên tầu Đông Hải, nhưng những người đang nắm vận mạng con tầu quyết định đưa tầu đi Tân Gia Ba. Với sự trợ giúp của một số thanh niên, các thủy thủ dựng được hai chòi vệ sinh bằng các thanh gỗ có bạt che gắn vào mạn trước của tầu, bên trái dành cho nam, bên phải dành cho nữ. Thế là giải quyết được nhu cầu cho những người di tản mà đến lúc ấy tôi mới biết có cả 2.000 người. Tôi cũng nghe một người trong thủy thủ đoàn kể rằng không có gia đình chủ tầu trong số người tỵ nạn. Sáng hôm trước, khi tầu neo trên bến Bạch Đằng, ông chủ tầu về nhà để đón vợ con. Lúc Việt Cộng pháo kích vào bến, một số quân nhân đã lên sẵn tầu, trong đó có nhiều người lính Hải quân, chặt giây neo và lái tầu đi. Cuộc đời có lắm oái oăm, chủ tầu bị bỏ lại, những người ông không hề quen biết dùng tầu ông tự do ra đi. Xin tạ ơn ông và mong ơn Trên bù lại cho ông công lao đã làm chủ một chiếc tầu đưa 2.000 người đến miền đất hứa.

Cũng đến lúc ấy, tôi mới biết gần giữa tầu có một chiếc thang đứng dẫn xuống khoang dùng để chứa hàng hoá nơi đang có chắc cũng phải bẩy hay tám trăm người la liệt đứng, ngồi, nằm. Để tránh nắng, mẹ tôi đưa các em nhỏ vào khoang. Và rồi, chúng tôi bắt đầu những ngày đói khát. Số bếp trên tầu chắc được thiết kế để đủ dùng cho một thủy thủ đoàn khoảng 30 người nên dĩ nhiên quá thiếu để phục vụ cho 2.000 người. Vì vậy, mỗi người chỉ được chia khoảng 5 thìa cơm trắng và 5 thìa nước hằng ngày. Xin nói cho rõ là thìa ở đây là cái muỗng cà phê. Điều may mắn là trên tầu có sẵn vài bao sữa bột nên các em nhỏ còn uống sữa hay bú chai được phát vài thìa sữa bột và khoảng nửa cốc nước; dĩ nhiên là nước lạnh chứ không phải nước nóng. 

Hai ngày sau, tầu Đông Hải vào hải phận Tân Gia Ba. Một chiến hạm hải quân của đảo quốc này hướng dẫn tầu đến bỏ neo trong vùng vịnh, xa xa là thành phố với những tòa building chọc trời. Mọi người phải chịu đựng cơn đói khát trong nhiều ngày nữa. Có lần trông thấy một gia đình bên cạnh lấy gói mì mang theo ra ăn sống vì không có nước và bỏ lại những túi bột gia vị mặn chát, cô em 12 tuổi của tôi xin họ rồi bóc những túi này ra chia cho ba em 9, 7, và 5 tuổi liếm cho đỡ thèm. Trên tầu, tôi gặp người bạn cùng khóa Đốc sự trường QGHC là anh Nguyễn Tử Nha, một sinh viên gốc quân nhân như tôi. Anh vốn là đại úy phục vụ tại Nha Kỹ Thuật trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, đơn vị hoạt động biệt kích thu thập tin tức tình báo để nhận biết hoạt động của địch. Anh có biệt tài châm cứu và tôi đã nhiều lần chứng kiến anh châm cứu bệnh nhân ngay trong khuôn viên Học Viện QGHC khi họ đến trường nhờ anh chữa bệnh. Khi di tản, anh xách theo túi kim và dụng cụ châm cứu. Anh đề nghị tôi để anh châm cứu cho cảm thấy đỡ đói. Tôi không tin tưởng lắm ở châm cứu nhưng đói quá hóa liều, đành nằm dài trên sàn tầu để anh cắm kim vào người. Thế mà sau đó tôi cảm thấy đỡ đói thật.

Mọi người trên tầu tiếp tục chịu đói thêm vài ngày, cho đến khi chúng tôi được nhà cầm quyền Tân Gia Ba tiếp tế lương thực bằng cách cho một tầu nhỏ đến sát tầu Đông Hải, ném những ổ bánh mì lên cho đám đông trên tầu giành giật. Những ổ bánh này có kích thước tương đương những ổ bán trong các siêu thị ở Mỹ nhưng không xẻ sẵn ra từng lát mỏng. Tham gia vào cuộc giành giật này cùng với các trai tráng trên tầu, tôi chụp được hai ổ. Khi bước về chỗ gia đình đang trú ngụ, trông thấy cô gái cho mượn áo len, tôi bẻ nửa ổ tặng ba chị em cô.

Hôm ấy, lúc chia phần bánh mì cho các em, tôi hả hê với cảm tưởng mình như một anh hùng khi trông thấy ánh mắt mừng vui của chúng. Tuy nhiên về sau, trưởng thành hơn, tôi thấy hỗ thẹn khi nhớ đến hành vi của mình tả xung hữu đột, chen lấn trong đám đông, xô nhau, đẩy nhau để chộp bắt những ổ bánh mì đang rơi xuống. Mình phải nhẩy cao hơn họ, phải vươn tay cao hơn họ. Trong nỗi hỗ thẹn, tôi lòng trấn an lòng rằng mình hành động như vậy để mang lợi ích cho thân nhân. Nhưng rồi tôi tự hỏi nếu chỉ có mình tôi trên chuyến tầu ấy, sau vài ngày nhịn đói, tôi có đủ dũng khí để làm kẻ bàng quan trong khi mình đủ sức tham gia cuộc giành giật ấy không? Rồi tôi buồn rầu vì tự hiểu chắc mình cũng không làm khác được. Thôi thì phải cậy đến câu nói của nhà hiền triết Plato để lòng còn thanh thản: “Trong mỗi chúng ta, ngay cả những người ôn hòa, chừng mực nhất, đều có một thứ ham muốn tồi tệ, hoang dã, và vô luật pháp.”

Khoảng 10 ngày sau khi tầu đến Tân Gia Ba, hải quân của đảo quốc này mang sà lan đến để chuyển hơn một nửa số người trên tầu Đông Hải sang những tầu buôn Việt Nam khác còn trống chỗ cũng đang neo trong vịnh và chỉ đường đến Subic Bay, một vịnh trên biển Đông thuộc lãnh thổ Phi Luật Tân và là căn cứ của Hải Quân Hoa Kỳ, nơi đang đón tiếp người tỵ nạn Việt Nam. Gia đình chúng tôi được chuyển lên tầu Long Hồ với số người trên tầu khoảng 700. Chính quyền Tân Gia Ba tiếp tế gạo, bánh mì, và thực phẩm đóng hộp cho chúng tôi đủ dùng trong hành trình. Thế là chấm dứt chuỗi ngày đói khát.

Từ lúc gia đình chúng tôi được chuyển sang tầu Long Hồ, tôi không gặp lại cô gái cho mượn áo len. Cô và hai em còn ở tầu Đông Hải. Về sau, tôi được biết tầu này đã từ Tân Gia Ba đến thẳng Guam, một hòn đảo thuộc Hoa Kỳ, ở phía tây của Thái Bình Dương, nơi từng đón tiếp cả trăm ngàn người Việt tỵ nạn trước khi họ được chuyển đến các trại tạm trú trên lục địa Hoa Kỳ.

Khi đến trại tạm cư trên đất Mỹ, một cô em tôi nhắc lại chuyện cô gái cho tôi mượn áo và bảo tôi đừng tưởng bở mà mộng mơ, có khi chiếc áo cô cho tôi mượn là của mẹ cô. Cô em khác hỏi đùa tôi sao anh hùng không bắt chước Từ Hải xưa mà cưu mang giai nhân. Tôi chưa kịp trả lời thì mẹ tôi đã phang cho câu thành ngữ “Ốc không mang nổi mình ốc, lại còn đòi mang cọc cho rêu.” Tôi vẫn tiếc đã quên hỏi tên cô hay đã hỏi mà giờ không nhớ. Thậm chí, bây giờ tôi không thể hình dung ra gương mặt cô mà chỉ nhớ cô có dung nhan phảng phất câu thơ của Trần Dạ Từ: “em mười sáu tuổi, trăng mười sáu.” Trong nỗi hoang mang, lo âu cho sự sống còn, không những cho mình mà còn cho cả gia đình, sự quên lãng này là điều đáng được tha thứ. Cầu mong cho cô và các em hạnh phúc, thành công trên xứ người trong nửa thế kỷ qua, và đã được đoàn tụ với bà mẹ.

Các Trại Tạm Trú Dành Cho Người Di Tản

Ba tuần sau khi rời Sài Gòn, chúng tôi đến Subic Bay vào một buổi tối. Hải quân Hoa Kỳ đưa sà lan ra đón nửa số người trên tầu Long Hồ vào tạm trú tại căn cứ này, trong đó có gia đình tôi. Đứng trên sà lan, bố tôi thả khẩu Colt 45 xuống biển. Tôi được biết người Mỹ cung cấp thêm lương thực cho những người còn lại trên tầu Long Hồ và chỉ đường cho thủy thủ đoàn lái tầu đến Guam.

Chúng tôi ở Subic Bay dễ chừng cả tháng, ngày ba buổi xếp hàng ở nhà ăn nhận phần ăn sáng, trưa, chiều. Gia đình tôi đông người và có nhiều trẻ em nên được tạm trú tại một phòng của khách sạn hai tầng độc nhất trên đảo, nơi trước đây dành cho các các quân nhân Hoa Kỳ nghỉ phép ngắn hạn, trong khi đa số người tỵ nạn ở các lều vải với ghế bố. Chỉ vài ngày sau, tôi được những người tạm trú trong khách sạn bầu làm trưởng khu vì người tiền nhiệm lên chuyến bay sang Guam, Nhiệm vụ chính của trưởng khu là cắt cử những người dọn dẹp vệ sinh tại khách sạn và đặc biệt là cùng với những nhóm khác, luân phiên làm công tác đổ thùng trong những nhà vệ sinh dã chiến do các quân nhân Hoa Kỳ dựng tạm cho người tỵ nạn trên đảo, một công tác khá nặng nhọc chỉ dành cho những thanh niên và trung niên phái nam. Dĩ nhiên, tôi phải có mặt cùng với những người trong nhóm mình. Đến cuối tháng Năm, tôi lại được chỉ định làm trưởng ban văn nghệ cho buổi tiệc cảm ơn những quân nhân Hoa Kỳ phục vụ giúp người tỵ nạn. Thật ra, người giữ trách nhiệm trưởng ban là nghệ sĩ La Thoại Tân. Tuy nhiên, khoảng hai tuần trước buổi tiệc, ông cùng gia đình có tên trong danh sách những người sang Guam nên tôi được chỉ định thay thế. Buổi tiệc được tổ chức tại nhà ăn trong một chiếc lều thật lớn có bàn ghế đủ cho khoảng 500 người với sự hiện diện của hầu hết những người lính Hải quân Mỹ trên đảo. Điều lý thú là buổi tiệc dành để cảm ơn họ nhưng âm thanh, ánh sáng, nhạc cụ, và cả thức ăn đều do họ cung cấp.

Vào đầu hạ tuần tháng Sáu, chúng tôi được chuyển sang căn cứ không quân Clark của Hoa Kỳ cách Subic Bay khoảng 80 cây số để lên một vận tải cơ bay đến Guam. Gia đình tôi chỉ ở Guam gần ba tuần trước khi đáp chuyến bay của hãng hàng không Pan Am do chính quyền thuê để đến thành phố Fort Smith thuộc tiểu bang Arkansas. Từ phi trường Fort Smith, chúng tôi lên chuyến xe bus đến Fort Chaffee, một trong năm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ được dùng làm nơi tạm trú cho người Việt tỵ nạn sau biến cố tháng Tư năm 1975. Fort Chaffee là một trại huấn luyện khá lớn của Lục Quân Hoa Kỳ với vài trăm dẫy nhà gỗ (barracks) đã đón tiếp khoảng 50.000 người Việt tỵ nạn trong năm 1975. 

Gia đình chúng tôi đến Fort Chaffee ngày 12 tháng 7, khi trại đang có rất đông người tỵ nạn đến trước. Tại đây, ông chú thiếu tá tình báo của chúng tôi đoàn tụ với vợ con đã được Hoa Kỳ cho di tản khỏi Việt Nam từ trung tuần tháng Tư như đã kề. Cuối tháng 8, tôi và cô em kế được học bổng của một trường đại học ở tiểu bang Oklahoma và rời trại đến trường để học nội trú. Khoảng 3 tuần sau, bố mẹ tôi và 6 người em được Northwoods Presbyterian Church, thuộc Giáo Hội Trưởng Lão có nguồn gốc từ Tô Cách Lan, ở Houston bảo lãnh. Cô em đã lập gia đình sang định cư ở Hoa Thịnh Đốn, tức Washington D.C. Mùa hè năm 1976, sau một năm học ở Oklahoma, tôi và cô em kế chuyển trường về Houston, tiểu bang Texas để sống chung với gia đình.

Hình gia đình tác giả với bố mẹ và 8 người con tại trại Fort Chaffee trong hồ sơ xin bảo lãnh.

Định cư tại xứ người, chúng tôi có cuộc sống gọi là tốt đẹp trong nửa thế kỷ qua. Tôi và các em lần lượt tốt nghiệp đại học, rồi đi làm, lập gia đình, sinh con đẻ cái. Chín anh chị em chúng tôi trên tầu Đông Hải ngày nào bây giờ trở thành một đại gia đình với hơn 60 người kể cả dâu rể. 

Chuyến di tản của gia đình tôi tuy gọi là cam go nhưng khi ra đến hải phận quốc tế, dù phải chịu đựng vài ngày đói khát, mọi người vẫn quá may mắn so với những đồng hương vượt biển tìm tự do vài năm sau đó. Chúng tôi ở trên một con tầu lớn trong những tuần lễ biển lặng, sóng êm chứ không phải ngồi chen chúc trên những tầu thuyền nhỏ bé mong manh giữa sóng to gió lớn, và không phải lo lắng về tệ trạng hải tặc. Chuyến đi của chúng tôi cam go ở nghĩa mình không làm chủ được vận mạng mình, những tính toán trước khi ra đi đã không thành sự thật. Thoát đi được là cả một đất trời may mắn.

Nửa thế kỷ trước, chúng tôi chỉ mong thoát khỏi Việt Nam mà không thể biết mình sẽ đến đâu, ở đâu, mưu sinh như thế nào. Những người tỵ nạn Việt Nam đầu tiên vào Hoa Kỳ được phân phối rải rác đến 50 tiểu bang, sống gần hoặc sống chung với người bảo trợ. Chúng tôi phải tìm hiểu, tự mầy mò để bắt đầu cuộc đời mới trên xứ người. Kinh nghiệm để sống còn, để tiến thân là kinh nghiệm từ chính những thất bại của mình chứ không thể học hỏi từ người đi trước, vì làm gì có người đi trước.

Quê Hương Ở Đâu?

Tháng 11 năm 2013, sau hơn 38 năm định cư tại Hoa Kỳ, tôi và nhà tôi về Việt Nam lần đầu để thăm người chị ruột nhà tôi đang bị ốm nặng. Khi máy bay chuẩn bị đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, lòng tôi vừa bồi hồi, vừa bùi ngùi, vừa xao xuyến, lại vừa cảm động. Nước mắt tôi ứa ra, quả tim tôi đập mạnh. Hình như có giai điệu của ca khúc Chiều do Dương Thiệu Tước phổ từ một bài thơ của Hồ Dzếnh đang réo rắt trong tôi: “trên đường về nhớ đầy, chiều chậm rơi chân ngày, tiếng buồn vang trong mây…”

Ấy vậy mà hơn hai tuần thăm viếng vài nơi từ Sài Gòn ra Hà Nội, tôi không có cái cảm xúc “về với quê hương” như mình hằng tưởng tượng, ngay cả khi đứng trước căn nhà cũ ở cư xá Bắc Hải, nơi tôi lớn lên với rất nhiều kỷ niệm, và một chung cư nhếch nhác ở Hà Nội mà trước năm 1954 là nhà bảo sanh Hồ Thị Mão, nơi tôi được sinh ra đời. Những người chiếm nhà chúng tôi đã chia nhà thành hai căn và xây thêm phòng ở nơi vốn là vườn trước. Tôi không thể nhận ra dấu tích quen thuộc nào của căn nhà yêu dấu cũ và những con đường cư xá năm xưa.

Rốt cục, trong chuyến đi hơn 11 năm trước, tôi đã đến thăm vài thành phố ở Việt Nam với con mắt của một khách du lịch. Lúc bấy giờ, tôi ước ao phải chi mình mang tâm trạng của một kẻ xa quê bao năm trời vừa trở về, như người về lại nhà sau chuyến du sơn du thủy nhiều nơi trong bài đọc “Chốn quê hương đẹp hơn cả” của Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà tôi đã học từ tấm bé. Tôi chợt thấy buồn rầu trong ý nghĩ hay là tôi đã mất quê hương?

Ngày hôm ấy, tôi bần thần suy nghĩ quê hương tôi ở đâu? Ở vùng Bắc Ninh, nơi mồ mả tổ tiên tôi đang yên nghỉ; ở Hà Nội, nơi tôi cất tiếng khóc chào đời và là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi; ở Sài Gòn, mảnh đất tôi khôn lớn, lưu giữ biết bao kỷ niệm cho tôi suốt 20 năm trời; hay là ở thành phố Houston trên xứ người, nơi bố, mẹ, vợ, và các em tôi sinh sống suốt nửa thế kỷ qua, nơi chúng tôi đang có bốn con trai và sẽ có những đứa cháu được sinh ra đời? Vâng, có người quả quyết rằng quê hương đích thực chính là nơi có sự hiện diện của người thân yêu, nơi ta nhung nhớ mỗi khi đi xa, và rộn rã niềm vui trên đường trở lại.

Dĩ nhiên, tổ quốc cùa tôi thì muôn đời vẫn là Việt Nam; nhưng câu hỏi về “quê hương” khiến tôi không khỏi quặn lòng. Trong lần thăm Việt Nam năm ấy, ngoài những đổi thay về khung cảnh mà ở bất cứ xã hội nào cũng có sau chiều dài gần bốn thập niên, tôi nhận rõ rằng ở những nơi mà trước chuyến đi tôi vẫn nghĩ là quê hương mình đã không còn những phong tục, tập quán, nếp sống, và cả thứ ngôn ngữ tôi từng quen thuộc. Lúc ấy, tôi nghĩ tôi đã có cùng tâm trạng với Bà Huyện Thanh Quan thuở trước, khi bà từ kinh đô nhà Nguyễn trở về thăm lại cố đô của nhà Lê và viết nên bài thơ bất hủ “Thăng Long Thành Hoài Cổ” với hai câu kết “nghìn năm gương cũ soi kim cổ, cảnh đấy người đây luống đoạn trường.” Thật buồn thay!

Ngẫu Nhiên Hay Số Mệnh?

Ngày còn trong lứa tuổi thanh niên “mộng vói tay cao hơn trời,” tôi nghĩ mình làm chủ vận mệnh của chính mình. Trước khi biến cố 30 tháng Tư ập đến, tôi đã từng nhiều lần phát ngôn với lòng tự tin của tuổi trẻ rằng nếu số mệnh cho mình một quả chanh chua, hãy vắt nó thành ly nước chanh ngon ngọt, cho mình và cho người chung quanh. Câu này dựa trên một giả thuyết chủ quan lắm khi không tồn tại là mình được số mệnh trao quả chanh kèm theo gói đường. Lỡ số mệnh cho thêm gói muối chứ không phải gói đường thì làm gì có nước chanh ngon ngọt mà thưởng thức? 

Hôm nay, chân đã bước qua cột mốc “thất thập nhi tòng tâm sở dục” như lời cụ Khổng dậy khi cụ khoảng tuổi tôi bây giờ, tôi tin rằng cuộc đời mỗi người sinh ra đã được dành sẵn một số phận mà mình không cưỡng lại được. Nhìn lại chuyến vượt thoát khỏi bàn tay Cộng sản vào ngày 30 tháng Tư năm ấy, với những biến chuyển nối tiếp nhau như đã được một bàn tay vô hình sắp xếp, tôi tin rằng định mệnh đã an bài sẵn cho chúng tôi thoát khỏi bàn tay bạo tàn của Cộng sản, trước khi chúng tôi bàn đến chuyện ra đi.

Nghĩ lại, tôi thấy nếu thiếu một chữ “nếu” trong những trường hợp dưới đây, gia đình chúng tôi đã không đi thoát trong ngày lịch sử 30 tháng Tư năm ấy.

– Nếu tôi không thi đậu vào Học Viện QGHC thì vào sáng 30 tháng Tư, giả thử còn sống sót trong trận chiến cuối, có lẽ tôi cũng bị bắt làm tù binh như những đồng đội ở sư đoàn 25. Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, vị tư lệnh sư đoàn, cũng bị Cộng quân bắt tại Củ Chi hôm ấy. Bố mẹ tôi sẽ không ra đi nếu thiếu một người con.

– Mẹ tôi có một xưởng cưa ở Ban Mê Thuột từ năm 1971 và cho một người thuê để khai thác. Ông này không trả tiền thuê trong suốt 6 tháng liên tục nên đầu tháng Ba năm 1975, mẹ tôi quyết định đến thành phố này nhờ thừa phát lại lập vi bằng tại xưởng và đóng xưởng cho đến khi họ thanh toán số tiền đang thiếu. Bà đã mua vé máy bay từ Sài Gòn đến Ban Mê Thuột ngày 9 tháng Ba. Tuy nhiên, sau khi bà mua vé, người Tầu đang thuê phòng nhà tôi để làm nhà in như đã trình bầy ở trên muốn thay thế các máy đang có bằng những máy tốt hơn, in đẹp hơn và nhanh hơn. Ông đề nghị mẹ tôi góp vốn để làm chủ một nửa nhà in. Mẹ tôi đồng ý nên hoãn chuyến đi Ban Mê Thuột một tuần để lo liệu giấy tờ liên quan đến nhà in. Nếu bà không mua một nửa nhà in thì sẽ đến Ban Mê Thuột ngày 9 và bị kẹt lại thành phố này vì hôm sau Cộng quân tấn công và rồi chiếm thành phố. Bà bị kẹt ở Ban Mê Thuột thì gia đình tôi, không ai nghĩ đến chuyện tìm đường ra khỏi nước.

– Sáng 30 tháng Tư, bố tôi đã chọn lộ trình đến phi trường qua Ngã Ba Ông Tạ. Nếu trước khi rời nhà, ông không nhận được điện thoại từ người bạn cho biết ngã ba này đã bị Việt Cộng chiếm mà vẫn theo lộ trình đã sắp xếp thì nếu vẫn an toàn, chúng tôi khó thể thoát ra khỏi khu vực này.

– Tương tự, nếu không có những người lính Biệt Cách Dù gác cầu Trương Minh Giảng cho chúng tôi biết phi trường đã rơi vào tay Cộng Quân thì gia đình không còn cơ hội đến bến Bạch Đằng để lên tầu Đông Hải.

– Nếu không có trung đội Nhẩy Dù đến bố trí ở chỗ chiếc xe gia đình tôi đang đậu thì chắc tôi phải tìm người nào đó nhờ trông xe để lên tầu gọi gia đình về. Việt Cộng không pháo kích vào bến, tầu Đông Hải chưa khởi hành còn chúng tôi đã lên xe về nhà.

– Nếu Việt Cộng pháo kích sớm hơn dăm bẩy phút lúc tôi còn trông xe, tầu Đông Hải sẽ khởi hành với gia đình tôi đang ở trên boong. Một mình tôi bị bỏ lại trên bến.

– Nếu họ pháo kích chậm hơn đôi ba phút, hoặc nếu ông chú tôi đứng gần chúng tôi lúc trên tầu để tôi không phải tốn vài phút tìm ông chào giã biệt, thì cả gia đình tôi đã rời tầu xuống bến, và tầu khởi hành không có chúng tôi. Trường hợp tệ hơn là vừa đi bộ đến xe hoặc vừa vào trong xe thì Việt Cộng pháo kích. Có thể vài người trong gia đình bị thương hoặc thiệt mạng vì mảnh đạn.

Vâng, quả thế, nhớ đến cuộc di tản cam go cuối tháng Tư năm ấy, thiếu một trong những chữ “nếu” nêu trên thì gia đình chúng tôi không đi thoát. Bố tôi, chú tôi, và tôi đã bị hành hạ trong cái gọi là trại cải tạo suốt nhiều năm ròng rã. Riêng bố tôi, với bản tính ương ngạnh “uy vũ bất năng khuất” và lòng căm thù Cộng sản, chắc khó có thể sống sót trong hoàn cảnh bị tù đầy. Mẹ tôi trở thành nạn nhân trong chiến dịch đánh tư sản. Gia đình tôi trắng tay sau hai đợt đổi tiền. Các em tôi rồi lêu bêu, phải bỏ học vì lý lịch để bươn chải kiếm miếng ăn tại những chốn rừng thiêng nước độc có tên mỹ miều là Vùng Kinh Tế Mới. Những cái người khác gọi là “ngẫu nhiên” xẩy ra cho gia đình tôi trong buổi sáng 30 tháng Tư như sự sắp xếp của bàn tay định mệnh để thành những mảnh ghép của con đường dẫn gia đình tôi đến bến bờ tự do. Ắt hẳn mỗi người đã mang sẵn một số mệnh khi vừa được sinh ra đời theo kiểu “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” (một hớp uống một miếng ăn cũng là việc được định trước) như lời cụ Mạnh Tử quả quyết?

Thời mới lớn, tôi được dậy cha đẻ của trách nhiệm là đức hạnh và lòng tự trọng. Trách nhiệm được ca tụng và được trao phần thưởng trong các sách giáo khoa và tiểu thuyết nhưng trên thực tế, trong nhiều hoàn cảnh, người chu toàn trách nhiệm là những người chịu thiệt thòi. Điển hình là những chiến sĩ VNCH tôi gặp sáng ngày 30 tháng Tư năm ấy: những người lính Hải quân đứng gác bộ chỉ huy dù họ biết rõ rằng cấp chỉ huy và những chiến hạm đã ra đi trong đêm, toán Biệt Cách Dù gác cầu Trương Minh Giảng để ngăn Cộng quân tiến vào trung tâm thủ đô, và trung đội Nhẩy Dù ở bến Bạch Đằng đã thức suốt đêm chong mắt quần thảo với địch dù đang trong hoàn cảnh thiếu thốn đạn dược. Họ và những người lính VNCH khác đã can trường bảo vệ thành phố trong những ngày cuối của cuộc chiến. Nhờ vậy mà hàng chục ngàn đồng bào có đủ thời giờ để vượt thoát được cái nhà tù vĩ đại đang mở rộng cửa để nuốt trọn khối người dân miền Nam, trong đó có gia đình tôi. Tôi suốt đời mang ơn các anh!

Khi ở trại tạm trú Fort Chaffee, tôi quen một thiếu tá binh chủng Nhẩy Dù, chỉ hơn tôi khoảng mươi tuổi. Anh là một người lính tác chiến, đã bao phen vào sinh ra tử trong chiến trận. Đêm 29 tháng Tư, anh đưa được gia đình nhỏ bé của anh gồm vợ và ba con nhỏ lên một chiến hạm Hải quân rời bến Bạch Đằng. Một buổi tối, anh rủ tôi đi uống bia ở Hitching Post, quán bia vốn dành cho quân nhân Mỹ trong trại nay được trưng dụng làm nơi tiếp đón người tỵ nạn. Anh bảo uống một bữa để mừng ngày sắp được hôn lên bàn chân tuyệt trần của Nữ thần Tự Do. Đó là lần đầu trong hơn hai tháng tôi lại được thưởng thức chất men của thứ nước mà lắm người quả quyết là phát minh vĩ đại nhất của loài người sau lửa. Chất men, dù nhẹ như men bia, làm người ta cởi mở với nhau hơn. Trong câu chuyện trao đổi, tôi kể anh nghe chuyện những người lính can trường đã chu toàn trách nhiệm mà tôi gặp trong những giờ phút cuối của cuộc chiến.

– Cậu phải hiểu có nhiều thứ trách nhiệm. Anh trầm ngâm một chốc rồi thở dài nói tiếp. “Trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình, với tập thể, với xã hội, và với đất nước. Ngày 29, khi biết tình hình không thể cứu vãn, tôi phải có trách nhiệm đối với bản thân để không bị bỏ mạng hay sa vào tay địch. Tôi phải có trách nhiệm đối với gia đình để đưa vợ con đến bến bờ tự do. Ông cụ của cậu cũng thế thôi. Tôi có ba đứa nhỏ còn ông cụ cậu có 9 người con. Trách nhiệm của ông còn to lớn hơn nhiều so với tôi.”

Lời anh nói khiến tôi suy nghĩ. Quả vậy, khi trưởng thành, mỗi người lắm phen phải phân vân, phải lưỡng lự cân nhắc khi đứng ở ngã ba hay ngã tư đối diện với những con đường trách nhiệm. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng người dám chọn bước vào con đường đầy chông gai và có thể mất mạng như chơi mà tuổi tên không ai biết đến là những người cao cả và đáng trọng, như những người lính tôi đã gặp trên bước đường di tản. Mỗi lần nghĩ đến họ, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của Đằng Phương, tức giáo sư Nguyễn Ngọc Huy: “Họ là những anh hùng không tên tuổi, sống âm thầm trong bóng tối mông mênh, không bao giờ được hưởng ánh quang vinh, nhưng can đảm và tận tình giúp nước.” Cầu mong họ vẫn lành lặn qua ngày định mệnh năm ấy. Cầu mong họ có một cuộc sống không gọi là bi thảm suốt nửa thế kỷ qua.

Vâng, nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hôm nay, cũng như bố tôi, có lẽ hầu hết những người chủ gia đình đưa được người thân yêu rời khỏi quê hương trong tháng Tư tang thương ngày ấy đã không còn trong cuộc đời này. Nghĩ mà thương bố tôi. Khi khởi đầu cuộc đời tỵ nạn, tôi là một thanh niên độc thân chưa đầy 23 tuổi và với tuổi này, không khó khăn lắm để thích nghi với xã hội mới và xây dựng tương lai. Ngày ấy, bố tôi đã 45 và từ lúc trưởng thành, ông là một người lính chuyên nghiệp, chỉ biết đánh giặc, biết làm tham mưu, dĩ nhiên là tham mưu trong cuộc chiến. Sang định cư tại xứ người, ông phải học một nghề lao động, quần quật nuôi đàn con ăn học nên người. Ông đã từ giã chúng tôi về “ngôi nhà lớn” gần ba năm trước. Những người chủ gia đình người Việt tỵ nạn năm 1975, trong đó có bố tôi, chính là những kẻ đã khai sinh ra cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ và cả tại những quốc gia Âu Mỹ khác. Cộng đồng ấy lớn mạnh đều đặn theo thời gian và đã cống hiến cho xã hội nơi họ định cư những đóng góp quan trọng trong mọi lãnh vực. Xin thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ và biết ơn những chủ gia đình thuở ấy nay đã về thế giới bên kia.

Trong cuộc đời, có lúc chúng ta phải đương đầu với những thách đố ảnh hưởng đến vận mạng. Những thách đố chúng ta chịu khuất phục để lại bóng tối trong hồi tưởng, nhưng những thách đố chúng ta vượt qua trở thành thứ ánh sáng ấm áp của ký ức, có thể soi rọi vào tâm hồn khiến bản thân thay đổi theo hướng tích cực. Hồi ức với những ngày tháng Tư năm ấy cho tôi sức mạnh để vượt qua những chướng ngại trong nửa thế kỷ qua. Nhờ mớ ký ức của tháng Tư thuở ấy, tôi đã có cái nhìn khoan dung hơn với người, với đời. Tôi nỗ lực hơn để cuộc sống mình ý nghĩa hơn.

Bài viết này được mở đầu bằng hai câu trong Truyện Kiều: “Bắt phong trần, phải phong trần; cho thanh cao mới được phần thanh cao;” Viết đến đây, tôi nhớ đến hai chữ “túc nhân” của nhà Phật, tức nhân duyên từ kiếp trước, nên xin mượn bốn câu khác cũng của Truyện Kiều để kết thúc:

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Cỗi nguồn cũng ở lòng người, 

Túc nhân âu cũng có Trời ở trong.

Nguyễn Ngọc Bảo 


 

Hoa Kỳ đã trở nên khiếp sợ ‘Kẻ Khác’ như thế nào

Ba’o Tieng Dan

03/05/2025

TIME

Tác giả: Nguyễn Thanh Việt

Việt Báo biên dịch

2-5-2025

LTS: Nguyễn Thanh Việt là tác giả gốc Việt đoạt giải Pulitzer. Tác phẩm mới nhất của ông là cuốn To Save and to Destroy: Writing as an Other. Dưới đây là bài “How America Became Afraid of The Other” của ông viết về tình hình bài trừ di dân hiện tại ở Hoa Kỳ dưới chính quyền đương thời, đăng trên tạp chí TIME ngày 28 tháng 4.

Việt Nam năm 2024

Nguyễn Thanh Việt, giáo sư đại học Havard (tiểu ban thơ văn)

Tiểu thuyết đầu tay của Viet, The Sympathizer được xuất bản năm 2015 bởi Grove Press /Atlantic. The Sympathizer đã giành giải Pulitzer năm 2016 cho tiểu thuyết hư cấu, giành giải thưởng tiểu thuyết đầu tay của Trung tâm tiểu thuyết hư cấu , huy chương Carnegie cho tiểu thuyết xuất sắc từ Hiệp hội thư viện Hoa Kỳ và giải thưởng văn học tiểu thuyết châu Á/Thái Bình Dương của Hiệp hội thủ thư châu Á/Thái Bình Dương .  Cuốn sách cũng đã giành giải Edgar cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất của một tác giả người Mỹ từ Hiệp hội nhà văn trinh thám Hoa Kỳ. Cuốn tiểu thuyết này cũng đã giành giải thưởng hòa bình văn học Dayton

***

Hoa Kỳ từ trước đến nay vẫn luôn có một mối quan hệ phức tạp với di dân và tị nạn, mặc cho một phần trong huyền thoại quốc gia luôn khắc họa hình ảnh chúng ta là một xứ sở của những người mới đến. Trong huyền thoại đó, họ — những di dân — là một phần của chúng ta.

Song song với điều đó, nước Mỹ cũng từng nhiều lần trải qua những cơn bùng phát dữ dội của tâm lý bài ngoại.

Hiện nay cũng vậy, khi chính quyền Trump vũ khí hóa nỗi sợ đối với ‘người khác’, đồng thời khơi dậy một cơn hoảng loạn tinh thần đối với những người được cho là những kẻ xa lạ đang mon men đến bờ cõi chúng ta. Khi những người này, bao gồm cả những người đã là người Mỹ, bị nhìn nhận như một mối đe dọa đối với quốc gia, thì họ không còn được xem là một phần của “chúng ta” nữa. Thay vào đó, họ trở thành “kẻ khác” đối với cái bản ngã tập thể của đất nước.

Điều này không phải là chuyện mới lạ. Vào cuối thập niên 1800, nhiều người Mỹ tin rằng, di dân Trung Hoa mang theo bệnh tật, tội phạm và các tệ nạn, cùng với đạo đức lao động phi nhân tính. Kết quả của những thành kiến ấy là việc đốt phá các khu phố Tàu, các vụ hành quyết tập thể đối với người Trung Hoa, và việc ban hành lệnh cấm gần như toàn bộ di dân từ Trung Hoa.

Với các chính sách thuế quan của mình, Tổng thống Donald Trump có lẽ còn nhắm mục tiêu vào người Trung Hoa một cách công khai hơn, so với khi ông từng gọi COVID-19 là “kung flu”. Tuy nhiên, ông đã khởi đầu chiến dịch tranh cử của mình bằng lời cam kết đóng chặt biên giới Hoa Kỳ để bảo vệ quốc gia khỏi “những kẻ hiếp dâm” người Mexico vào năm 2015, và đến năm 2024 lại cáo buộc các băng đảng Venezuela là mối đe dọa.

Chiến dịch trục xuất mà ông Trump hứa hẹn ngày nay gợi lại những hình ảnh cũ thời thập niên 1920 và 1930, khi chính phủ Hoa Kỳ tiến hành việc vây bắt và cưỡng bức hồi hương khoảng một triệu người Mexico và công dân Mỹ gốc Mexico về lại Mexico.

Việc trừng phạt “kẻ khác” thường mang hình thức một màn kịch và trình diễn, nhằm mục đích giải trí và làm thỏa mãn một số người, đồng thời khiến những người còn lại phải im lặng và quy phục.

Bởi thế, việc trục xuất các băng đảng Venezuela bị cáo buộc, bằng những chuyến bay do Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) vận hành, được thực hiện trước ống kính máy quay: Họ bị ghi hình như những sinh vật hạ đẳng, đầu cạo trọc, mặc đồng phục trắng trẻ con gồm áo sơ mi và quần đùi, bị tước đoạt nhân phẩm.

“Cưỡng bức di dời” (renditioning) là từ ngữ thích hợp hơn “trục xuất” (deportation), vì nhiều người trong số này không được đưa về quê hương gốc, mà bị đưa đến những nơi khác — như các di dân nhiều quốc tịch bị giam giữ trong khách sạn hoặc các trại tập trung giữa rừng ở Panama.

Từ “cưỡng bức di dời” cũng gợi nhắc đến những hành động mà Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) từng thực hiện đối với các nghi phạm khủng bố bị “biến mất” vào những “địa điểm đen” bí mật — điều hoàn toàn phù hợp khi Trump viện dẫn Đạo luật Kẻ thù Ngoại bang năm 1798, một đạo luật thời chiến từng được dùng để giam giữ người Nhật và công dân Mỹ gốc Nhật trong Thế chiến II, nhằm mô tả các băng đảng Venezuela như những “kẻ khủng bố” đang “xâm nhập” Hoa Kỳ (Tuy nhiên, các thẩm phán liên bang ở New York và Texas đã thách thức hành động này tại tòa án).

Việc các tổng thống và chính phủ mô tả những kẻ bị cáo buộc phạm tội là “khủng bố” khiến tất cả chúng ta lo ngại, bởi “khủng bố” là một nhãn mác có khả năng co giãn vô tận, có thể được áp đặt lên bất kỳ ai mà chính quyền cho rằng đang phá hoại quyền lực của mình.

Điều tồi tệ hơn nữa là một “Cuộc chiến chống Khủng bố” — như cuộc chiến mà Tổng thống George W. Bush tuyên bố sau sự kiện 11/9 — thì không thể nào giành chiến thắng được. Đó là một tình trạng chiến tranh vĩnh viễn, được áp đặt lên một dòng người là “kẻ khác” không bao giờ dứt, đồng thời buộc sự đồng hóa trong lòng nước Mỹ, như khi Bush tuyên bố: “Hoặc các vị đứng về phía chúng tôi, hoặc các vị chống lại chúng tôi”.

Dù có thể chiến thắng trước một nhóm thù địch cụ thể, làm sao có thể đánh bại được sự kinh hoàng? Mối đe dọa của nỗi kinh hoàng sẽ còn tiếp diễn, bởi lẽ kinh hoàng đã tồn tại cùng với sự tò mò và nỗi sợ hãi, với tình yêu và thù hận, ánh sáng và bóng tối — như chính nhịp đập của trái tim con người.

Chủ nghĩa cộng sản, hay bất kỳ hệ tư tưởng nào không được lòng chính quyền đương nhiệm, có thể bị đánh bại — nhưng “kẻ khủng bố” thì không bao giờ mất đi, bởi nỗi kinh hoàng không chỉ đến từ các mối đe dọa thực sự mà còn từ trong chính chúng ta, liên tục sinh ra những bóng ma mới.

Cuộc chiến chống khủng bố có lẽ đã đánh động sâu sắc tâm thức người Mỹ, bởi nỗi kinh hoàng đã luôn là một phần trong đời sống Hoa Kỳ, kể từ những ngày đầu tiên những người định cư châu Âu đặt chân lên mảnh đất này.

Có lẽ, những “người khác” đầu tiên đối với người định cư đến vùng đất này chính là người bản địa. Tiếp theo là những người châu Phi bị bắt cóc và nô lệ, những người mà công sức lao động và thân xác của họ đã giúp tạo dựng nên Hoa Kỳ.

Hoặc cũng có thể, “kẻ khác” đầu tiên đối với những người định cư chính là bản thân vùng đất rộng lớn này — một nơi vừa hứa hẹn sự phong phú, vừa rình rập hiểm họa.

Điều đó vẫn còn đúng cho đến ngày nay, khi những người có quyền lợi trong ngành nhiên liệu hóa thạch hứa hẹn rằng đất đai có thể bị khuất phục và biến thành lợi nhuận — cũng như những “kẻ khác” từng khai thác đất đai, từ người nô lệ đến công nhân di trú, từng bị bóc lột.

Bằng cách đối mặt với thiên nhiên hay với con người, những người định cư đã chạm trán điều mà triết gia Emmanuel Levinas gọi là “khuôn mặt của Kẻ Khác”, điều mà Levinas cho rằng có thể khơi dậy lòng trắc ẩn hoặc sự kinh hoàng. Hai cảm xúc đối lập này tiếp tục định hình cảnh quan chính trị và văn hóa Hoa Kỳ ngày nay.

Trong khi có người kêu gọi lòng cảm thông đối với tha nhân, chính quyền Trump lại mô tả các cử chỉ ấy như là sản phẩm của một hệ tư tưởng “đa dạng, công bằng và hòa nhập” – DEI cần phải tiêu diệt. Levinas tin rằng, cuộc gặp gỡ trực diện với ‘Kẻ Khác’ là một nhiệm vụ đạo đức cấp thiết, nhưng Elon Musk lại cho rằng “điểm yếu căn bản của nền văn minh phương Tây chính là lòng trắc ẩn”, vì nó mở ra cánh cửa cho những người không thuộc phương Tây và không [phải là người] da trắng chiếm đoạt.

Không phải ngẫu nhiên khi những người bị đưa tới các nhà tù ở El Salvador bị buộc phải cúi đầu, không cho phép người ta nhìn thấy gương mặt con người của họ.

Không chỉ những kẻ bị cáo buộc là băng đảng mới bị gán nhãn “khủng bố” trong trí tưởng tượng bài ngoại, mà cả những người tị nạn, di dân, dù có giấy tờ hay không, cũng bị xem như những kẻ âm mưu thay thế người da trắng.

Để bảo vệ bản thân khỏi nguy cơ bị trục xuất, những di dân này bị buộc phải thể hiện lòng trung thành tuyệt đối. Sự khác biệt của họ so với những chuẩn mực quốc gia — da trắng, nam giới, một giới tính, Cơ Đốc giáo — bị xem như là một trở ngại cho quyền tự do ngôn luận, một quyền mà lẽ ra là cốt lõi của nước Mỹ.

Do đó, tất cả những sinh viên quốc tế cho đến nay đã bị bắt và giam giữ bí mật vì biểu tình phản đối cuộc tấn công của Israel vào Gaza đều là người không da trắng, có gốc gác từ các quốc gia như Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Hàn Quốc.

Dù người ta có đồng tình hay không với lời nói của họ, thì họ cũng có quyền tự do ngôn luận được bảo vệ bởi Hiến pháp Hoa Kỳ, với tư cách là cư dân hợp pháp lâu dài hoặc sinh viên quốc tế.

Nhưng điều đáng hỏi là: Khoảng cách giữa một công dân Mỹ, nhất là người không da trắng hay người nhập tịch, với Mahmoud Khalil — cựu sinh viên tốt nghiệp Columbia, hiện là thường trú nhân hợp pháp — hay Rümeysa Öztürk — sinh viên cao học tại Tufts, bị các sĩ quan ICE đeo mặt nạ bắt giữ mà hầu như không thèm xuất trình thẻ hoặc phù hiệu — thực sự đã đi xa đến đâu?

Sự gia tăng quyền hạn đối với họ có thể nhanh chóng lan đến cả công dân Mỹ.

Khi ranh giới giữa việc bắt giữ và bắt cóc, giữa cảnh sát chính quy và mật vụ bí mật, bị làm cho lu mờ, thì tất cả chúng ta — dù là công dân hay không — đều bị đe dọa. Chúng ta bị buộc phải khuất phục trước bất kỳ ai đeo mặt nạ tuyên bố rằng họ đại diện cho pháp luật, giống như những người Venezuela bị đưa đến El Salvador bị buộc phải quỳ trước các lính canh đeo mặt nạ và mặc áo giáp.

Trong nước, cơ chế trục xuất hay đàn áp những kẻ mà nhà nước xem là thù địch sẽ không dừng lại ở người Venezuela hay những người ủng hộ nhà nước Palestine.

Cơ chế quyền lực này dựa trên sự hoang tưởng, với mỗi mối đe dọa mới nảy sinh và lan rộng.

Chiến dịch của chính quyền Trump nhắm vào sinh viên ủng hộ Palestine, chẳng hạn, gắn liền với luận điệu rằng họ đang bảo vệ người Do Thái trong và ngoài các trường đại học.

Nhưng đây chỉ là việc vũ khí hóa chủ nghĩa bài Do Thái, biến một hình thức phân biệt chủng tộc có thật thành công cụ phục vụ mục tiêu chính trị — nơi người Palestine tạm thời thay thế người Do Thái để trở thành “kẻ khác” vĩnh viễn.

Việc trừng phạt những “kẻ khác” làm tê liệt lòng trắc ẩn và sự phản kháng, bởi không ai muốn trở thành mục tiêu tiếp theo.

Vì vậy, chúng ta thấy những người có thể lẽ ra bị xem là “khác” lại quay sang chống lại những kẻ khác đã bị gán mác, như khi một số di dân có giấy tờ hợp pháp ủng hộ việc trục xuất những người di dân bất hợp pháp.

Đừng lầm nghĩ đây chỉ là sự hoang tưởng, bởi nó là một chiến lược chính trị cổ điển được lập lại: chia rẽ để cai trị  — chính quyền Trump tấn công từng trường đại học, từng hãng luật, từng nhóm di dân, từng cá nhân.

Mỗi nhóm hy vọng mình sẽ được tha, nhưng cuối cùng, chẳng ai được tha cả.

Bài học cần rút ra là: Chúng ta không thể an toàn bằng cách hiến tế những kẻ khác.

Chủ nghĩa độc tài sẽ không bao giờ hài lòng với chỉ một vật tế thần hay một kẻ thù — nó sẽ đòi hỏi nhiều hơn, vì quyền lực của nó phụ thuộc vào sự trình diễn trừng phạt. Mỗi lần trừng phạt, khả năng kháng cự của tất cả mọi người lại bị suy yếu.

Khi chủ nghĩa độc tài sẵn sàng phá vỡ mọi quy tắc và luật lệ, thì chính các quy tắc và luật lệ ấy cũng dần mất đi khả năng bảo vệ chúng ta.

Giải pháp duy nhất vẫn luôn như vậy và cần được nhắc lại: Đoàn kết là hy vọng duy nhất của chúng ta, đoàn kết là chiến lược tối thượng.

Chúng ta phải từ chối sự chia rẽ, dù được hứa hẹn an toàn bằng cách hiến tế kẻ khác, hay được đề nghị từ bỏ từng quyền một để mong giữ gìn bản thân khỏi nỗi kinh hoàng bất tận.

Giờ đây, Trump đang theo đuổi ý tưởng xóa bỏ quyền công dân theo nơi sinh, với mục tiêu đưa cả những công dân “sinh ra tại chỗ” đến các nhà tù El Salvador.

Chính quyền của ông cũng đang tìm cách mở rộng hệ thống trại giam di dân vì lợi nhuận, với ngân sách 45 tỷ đô la.

Khi nào những trại giam sẽ trở thành trại tập trung — như Franklin Delano Roosevelt đã từng gọi nơi giam giữ người Mỹ gốc Nhật?

Khi nào thì chúng ta sẽ nói: Đủ rồi?

Điều có thể phá hủy xã hội chúng ta không phải là di dân, tị nạn, người Palestine, phụ nữ đòi quyền phá thai, người chuyển giới, hay bất kỳ ai trong số những “kẻ khác” bị dựng lên.

Điều có thể hủy diệt chúng ta chính là nỗi sợ của chính chúng ta — không chỉ đối với tha nhân mà còn đối với chính bản thân mình, với những bí ẩn sâu thẳm không thể giải mã trong lòng mỗi con người.

Và điều có thể giúp chúng ta vượt qua nỗi sợ và kinh hoàng ấy không phải là trục xuất hay bài xích tha nhân, mà là đồng hành cùng họ, trò chuyện cùng họ, đối mặt với họ.


 

Tình trạng thất vọng của công nhân Trung Cộng bị thất nghiệp vì thuế nhập cảng cao của Hoa Kỳ

Đài Á Châu Tự Do và các báo 

Công nhân nhà máy điện tử Shangda biểu tình ở thành phố Toại Ninh, Trung Quốc.

Công nhân nhà máy điện tử Shangda biểu tình ở thành phố Toại Ninh, Trung Quốc. (@YesterdayBigcat)

“Đình công! Đình công!”, công nhân hét lớn bên ngoài nhà máy Shangda Electronics ở thành phố Toại Ninh vào Chủ Nhật, trong một video về cuộc biểu tình được người dùng X ‘ @YesterdayBigcat ‘ đăng tải trên mạng xã hội, một nguồn thông tin nổi bật về các cuộc biểu tình ở Trung Quốc.

Các công nhân cho biết công ty này, có trụ sở tại tỉnh Tứ Xuyên, chuyên sản xuất bảng mạch mềm, đã không trả lương cho họ kể từ đầu năm và các chế độ phúc lợi an sinh xã hội trong gần hai năm – kể từ tháng 6 năm 2023.

Tuần trước, vào ngày 24 tháng 4, hàng trăm công nhân của Công ty TNHH Hàng thể thao Guangxin ở huyện Đạo đã đình công sau khi nhà máy của công ty đóng cửa mà không trả lương cho nhân viên hoặc các chế độ phúc lợi an sinh xã hội.

Tại Nội Mông, nhiều công nhân xây dựng đã leo lên, đứng trên các mái nhà của Cộng đồng Vườn Hoàng gia Jincan ở thành phố Thông Liêu vào ngày 25 tháng 4, nơi họ đe dọa sẽ nhảy khỏi tòa nhà nếu không được trả số tiền lương còn nợ, một video khác được đăng trên cùng tài khoản X cho thấy.

“Hiện tại không dễ dàng gì,” một công nhân khác ở nhà máy sản xuất đồ chơi 26 tuổi nói với tờ thời báo Tài Chính – Financial Times. Chủ lao động của anh, ở thành phố Chiết Giang, Trung Quốc, chủ yếu bán cho Hoa Kỳ, và ban quản lý gần đây đã buộc công nhân phải nghỉ hai tuần không lương vì thuế quan.

Theo phân tích của Goldman Sachs, ít nhất 16 triệu việc làm trong nhiều ngành công nghiệp ở Trung Quốc đang bị đe dọa do Tổng thống Trump áp dụng mức thuế 145% đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.

Trong ngành sản xuất của Trung Quốc, ngành thiết bị truyền thông có khả năng mất nhiều việc làm nhất, tiếp theo là ngành may mặc và sản phẩm hóa chất, các nhà phân tích của Goldman, bao gồm Xinquan Chen và Lisheng Wang, đã viết trong một lưu ý gửi cho khách hàng vào Chủ Nhật, 4-5-2025.

Báo Bưu Điện Hoa Nam – SCMP cho biết:

Một sự thay đổi đáng chú ý đang diễn ra trong sản xuất toàn cầu khi ngày càng nhiều công ty Trung Quốc chuyển cơ sở sang đất Hoa Kỳ. Sự di chuyển này diễn ra trực tiếp để đáp trả mức thuế quan đáng kể mà Tổng thống Donald Trump áp đặt đối với hàng hóa Trung Quốc, khiến việc xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ ngày càng trở nên đắt đỏ.

Ryan Zhou, người điều hành một doanh nghiệp quà tặng mới lạ ở miền đông Trung Quốc, đã nhấn mạnh bản chất quan trọng của thị trường Mỹ.

“Hoa Kỳ chiếm gần 95% đơn đặt hàng của chúng tôi. Đây không phải là thị trường mà chúng tôi có thể để mất”, Zhou nói với SCMP. Đối mặt với mức thuế quan khổng lồ 90% đối với các lô hàng của Trung Quốc, Zhou chuẩn bị mở một cơ sở mới tại Dallas, Texas vào tháng tới như một hậu quả trực tiếp của các rào cản thương mại này.

Zhu Ning, một chuyên gia tư vấn cho các công ty Trung Quốc về việc mở rộng ra nước ngoài, đã ghi nhận sự gia tăng đột biến trong các yêu cầu di dời. Ông báo cáo đã xử lý hơn 100 yêu cầu như vậy chỉ trong bốn tháng qua, mức độ quan tâm chưa từng có trước khi áp dụng thuế quan của Trump, theo SCMP.

Có một ngày 30 Tháng Tư khác

Ba’o Nguoi- Viet

May 1, 2025

Thủy Như

Sau năm 75, ngày nào cũng là ngày 30 Tháng Tư đối với tôi, bởi gia đình tôi bị gọi là ngụy quyền phản động bán nước, và cái loa phóng thanh của thị xã sáng nào cũng hát “diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước…” làm tôi nhức cả đầu.

Những người đàn ông trong họ nhà tôi là lũ bán nước đó. Tôi nghe hoài bài hát ấy mà muốn điên. Cả mười năm như vậy, tôi cảm thấy đời mình bị dập sát đất. Sau đó tôi vào ở ruộng rẫy của miền Nam, chẳng có điện đóm, nên thấy đời tối hơn, nhưng được cái là không phải nghe mấy câu hát đó hét vào tai. Rồi cả nhà đùm túm theo ba sang Mỹ, túi bụi với việc làm để bắt đầu cuộc sống nơi xứ người, nên cái ngày 30 Tháng Tư đó ra khỏi đời tôi. Tôi nghĩ mình chẳng việc gì phải bận tâm đến cái ngày đã nhận chìm biết bao cuộc đời.

Giờ tôi đã ở xứ tự do, chả có ai kêu gia đình tôi là lũ này lũ nọ. Thôi thì cho cái ngày đen tối ấy trôi tuột vào quá khứ đi cho rồi. 

Vậy mà những năm gần đây, mỗi năm vào ngày 30 Tháng Tư tôi lại nghĩ ngợi về ngày khổ cực, đầy lo sợ và đau đớn ấy. Càng nghĩ càng cảm thấy buồn và tức giận về một thời kinh khủng.  Mấy hôm nay ngày nào cũng đọc những bài viết về kỷ niệm buồn 30 Tháng Tư, rồi một người bạn cho nghe Lê Khôi hát “Biết bao giờ quay trở lại.” Một người bạn khác gởi bài “Sài gòn niềm nhớ không tên.” Tôi nghe mà cảm thấy thật nặng nề.

Sáng nay trước khi đưa con đi học, tôi đọc cho các con câu Kinh thánh trong bài tĩnh nguyện Thi thiên 119: 147, “Buổi sáng tôi dậy sớm và kêu xin. Tôi đặt hi vọng nơi lời Ngài.” Chàng của tôi hỏi, “Có gì mà nặng nề thế?” Tôi đáp, “Em cần câu này. Hôm nay là 30 Tháng Tư, ngày mất Việt Nam.”

Ngày xưa, nếu tôi đọc những câu này, tôi sẽ nghĩ người viết chính trị hoá vấn đề. Đó không phải là những câu nói chuyện thường ngày trong một gia đình bình thường.  Nhưng hôm nay tôi nói như vậy và cảm thấy buồn, rất buồn khi nhớ về 30 Tháng Tư, 1975, khởi đầu những chuỗi ngày cơ cực nghèo khó của đại gia đình tôi 50 năm trước. Tôi cầu nguyện, xin Chúa cất khỏi tôi cái cảm nghĩ nặng nề ấy trước khi đi làm.

Tôi vào xe mở máy, đài KUSC phát nhạc cổ điển cho tôi nghe. Mỗi sáng vào lúc 7:45, đài có chương trình Mystery in History. Hôm 30 Tháng Tư cũng vậy. MC kể cho vài chi tiết về một ngày quan trọng trong lịch sử nước Mỹ để thính giả có thể đoán xem 30 Tháng Tư có sự kiện quan trọng gì.  Tôi thật ngạc nhiên khi nghe câu trả lời. Hôm nay, 236 năm trước là một ngày quan trọng của vị tổng thống mà tôi ngưỡng mộ nhất – Tổng thống George Washington. Vậy mà tôi không biết và chưa bao giờ nghe ngày lịch sử 30 Tháng Tư có liên hệ đến vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ.

Nhớ lại lúc học lịch sử nước Mỹ, ông giáo sư già kể lịch sử nước Mỹ mỗi buổi học.  Ông chẳng bao giờ cho học trò có ý kiến, ý cò gì cả.  Mình ông nói thao thao bất tuyệt.  Tôi nghe mấy người bạn giới thiệu về ông thầy này trước khi ghi danh lấy lớp. Chẳng phải vì tôi yêu thích môn lịch sử nước Mỹ, bởi tôi đâu có giỏi tiếng Anh mà lấy lớp học đầy chữ ấy, nhưng phải học vì đó là môn bắt buộc để đủ tiêu chuẩn xin học chương trình cử nhân. Một cậu em trong nhà thờ giới thiệu, “Chị lấy lớp học với ông này đi. Bảo đảm đậu, miễn là chị đừng trốn học, nhưng cái này thì không phải lo, vì em nghĩ chị không trốn học bao giờ. Nhưng mà nhớ là đừng cho ổng thấy chị ngủ gục trong khi ổng giảng bài nha. Nếu chị làm được vậy không chừng chị được A đó. Nói thiệt chứ không phải chơi đâu nghe.” Cả đám bật cười với lời giới thiệu của cậu em đó.

Theo lời khuyên của cậu em, tôi thường ngủ một giấc trong xe trước khi vào lớp để khỏi ngủ gục trong lớp. Vào giờ học, tôi ráng căng tai căng óc ra chăm chú nghe ông thầy giảng. Tiếng được tiếng mất. Mấy chục năm rồi chẳng nhớ ông thầy giảng những gì ngoại trừ một điều. Ông thầy bảo, “Người ta nói Tổng Thống Washington là người cha của nước Mỹ. Tôi nghĩ vì ông là một trong những người sáng lập ra nước Mỹ, và là tổng thống đầu tiên nên người ta phong cho ông ấy danh hiệu đó. Ông Tổng Thống Abraham Lincoln xứng đáng với danh hiệu đó hơn. Nhưng càng ngày tôi càng nghĩ họ đúng. Ông Washington là tổng thống đầu tiên. Khi một người ngồi vào một chiếc uy quyền như vậy thì họ không muốn xuống. Họ sẽ làm mọi cách để giữ chiếc ghế đó. Ông Washington thật khác người. Ông làm hai nhiệm kỳ và về hưu. Ông định ra một thể chế chính trị mới cho một quốc gia mới. Ông Washington là một người giỏi nhưng rất khiêm nhường, có tinh thần xây dựng một đất nước theo thể chế dân chủ. Tổng thống Washington xứng đáng là người cha của nước Mỹ.”

Sau khi nghe câu chuyện trên đài KUSC, tôi tìm trên mạng thấy có nhiều điều lý thú về Tổng Thống Washington. Chắc ai cũng biết ông đã lãnh đạo nước Mỹ non trẻ dành độc lập từ nước Anh như thế nào. Chính vì vậy, dân Mỹ qua cử tri đoàn đã bỏ phiếu 100% để ông làm vị tổng thống đầu tiên. Lễ tuyên thệ nhậm chức của ông vào thứ năm ngày 30 Tháng Tư năm 1789. Sau nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng Thống Washington không muốn ra tranh cử thêm nhiệm kỳ thứ hai. Nhưng vì nhiều người trong đó, mạnh mẽ nhất là hai ông Jefferson và Hamilton thúc dục, ông ra tranh cử nhiệm kỳ hai và thắng với số phiếu 77-50.  Ngày 4 Tháng Ba năm 1797, Tổng Thống Washington đã từ biệt quốc dân để về hưu, sau hai nhiệm kỳ tổng thống. 

Diễn văn từ biệt của Tổng Thống George Washington. (Hình: United States Library of Congress’s Religion and the Founding of the American Republic exhibition/commons.wikimedia.org)

Phó Tổng Thống John Adams thành vị tổng thống thứ hai của nước Mỹ, bắt đầu vào năm 1797.  Tháng Bảy năm 1798, Tổng Thống John Adams mời cựu Tổng Thống Washington quay lại phục vụ đất nước với nhiệm vụ là sĩ quan chỉ huy của Quân Hội Hoa Kỳ để giúp lập kế hoạch cho cuộc xung đột có thể xảy ra với người Pháp. Cựu Tổng Thống Washington miễn cưỡng chấp nhận. Vì lẽ đó, một năm sau, vào Tháng Sáu năm 1799, Jonathan Trumbull Jr., thống đốc Connecticut, người đã từng là thư ký quân sự của ông Washington trong cuộc cách mạng, nài nỉ ông Washington ra tranh cử thêm nhiệm kỳ thứ ba. Ông Washington từ chối lời kêu gọi đó. 

Trong thư trả lời cho Thống Đốc Trumbull, ông Washington viết, “Ranh giới giữa các Đảng phái trở nên rõ ràng đến mức các chính trị gia “không coi trọng sự thật hay sự đứng đắn; tấn công mọi nhân vật, không tôn trọng những người – công hay tư – tình cờ khác biệt với họ về chính trị.” Ông viết thêm rằng, ngay cả khi ông sẵn sàng tranh cử tổng thống một lần nữa, với tư cách là một người theo chủ nghĩa liên bang, “tôi hoàn toàn tin rằng tôi không nên thu hút một phiếu bầu nào từ phe chống liên bang.” Đối với ông Washington, các đảng phái chính trị đã làm cho tình hình chính trị của đất nước trở nên tồi tệ và tạo ra một bầu không khí mà theo như ông dự đoán trong bài phát biểu từ biệt năm 1796, “những kẻ vô nguyên tắc sẽ có thể lật đổ quyền lực của nhân dân và chiếm đoạt quyền lực của chính phủ.”

Nếu ông Washington tham gia tranh cử lần thứ ba, có lẽ ông thắng. Nhưng việc ông không ra tranh cử đã nâng ông lên thành một nguyên thủ quốc gia có một không hai trên thế giới.  Ông không tham quyền lực, và vì vậy mà thể chế chính trị do ông góp phần xây dựng được tiếp tục cho đến ngày nay.

Tổng Thống George Washington tuyên thệ nhậm chức vào thứ năm ngày 30 Tháng Tư năm 1789. (Hình: Tranh vẽ Tổng Thống George Washington của Gilbert Stuart năm 1797 – The Athenaeum/commons.wikimedia.org)

Dường như Tổng Thống Washington cũng có một tuổi thơ khó nhọc. Thuở nhỏ ông không qua một trường lớp chính qui nào cả. Ông mất cha lúc 11 tuổi, mẹ ông vất vả nuôi sáu người con, nên không có tiền để cho ông đến trường. Ông có một người thầy dạy kèm, giúp ông tự học nhiều thứ. Thấy những bản viết tay của ông mà tôi cứ tưởng như là chữ in vì nét chữ rất đẹp và đều răm rắp. Ông tự học hình học và lượng giác, hai môn học không dễ chút nào, nếu không có thầy dạy. Nhờ hai môn học này mà ông trở thành người đo đạc đất đai, một nghề chính của ông. Ông tự học mọi thứ qua sách vở. Trước khi trở thành tổng thống, ông có một thư viện với khoảng 400 – 500 đầu sách, trong số đó đa số viết về chính trị và triết học.

Tổng Thống Washington có quá nhiều điều hay để ngưỡng mộ. Nhưng điều tôi thích nhất là ông đã tuyên thệ nhậm chức lần đầu tiên vào ngày 30 Tháng Tư.  Từ nay về sau, tôi sẽ nghĩ về ngày này như vậy, để không phải buồn phiền vì cái ngày 30 Tháng Tư của Việt Nam với bao kỷ niệm buồn đến rã người. Hãy nhớ ngày 30 Tháng Tư là ngày nhậm chức của một vị tổng thống tài ba lỗi lạc, nhưng không hám danh, lạm quyền. Điều này thật tốt hơn nhiều so với ngày kia.

(30 Tháng Tư, 2025)


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chùa Xưa Người Cũ 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

05/05/2025

Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ: “Một thứ phật giáo theo định hướng XHCN còn quái dị hơn kinh tế thị trường định hướng XHCN

 Tôi không có duyên lắm với những người phụ nữ cầm bút, đặc biệt là những cô hay những bà làm thơ, kể cả Bà Huyện Thanh Quan. Vấn đề hoàn toàn chả phải vì lý do cá nhân, hay tư tiêng gì ráo. Điều không may chỉ vì tôi gặp nữ sỹ hơi quá sớm, thế thôi!

Thuở ấy, thuở mười ba mười bốn, tôi mới bước chân vào trung học mà đã giáp mặt với nàng thơ rồi. Có hôm, tôi vừa hối hả rời sân bóng đá (chạy vào phòng học) mồ hôi chưa kịp ráo lưng, đã nghe vị thầy phụ trách môn Việt Văn trầm giọng đọc bài Thăng Long Hoài Cổ:

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn chau mặt với tang thương…

Tôi vừa cắm cúi ghi chép, vừa khuých tay thằng ngồi cạnh:

– Cuộc hý trường là cuộc gì?

– Không biết.

– Thăng Long ở đâu vậy?

– Ai biết!

Thằng bạn chung bàn của những ngày xưa thân ái đã xa xôi và phôi pha ấy (nay) chả hiểu đã lưu lạc phương nào, sống chết ra sao? Còn tôi, sau cái cuộc hý trường (1975) thì lâm vào cảnh đời tha phương cầu thực và tha hương cho mãi đến bây giờ.

Chiều qua, ở một góc trời xa, tôi tình cờ đọc lại một truyện ngắn (“Mái Chùa Xưa”) của Võ Hồng và mới chợt hiểu (thấm thía) thế nào là nỗi niềm hoài cổ:

Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm…, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm.

Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hò màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò… Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.

Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, của Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp…

Trải qua cuộc chiến giằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau, hiên trước.

Cuối cùng “cuộc chiến giằng co” rồi cũng đến lúc kết thúc, hoà bình được tái lập. Chùa chiền nhiều nơi được trùng tu với qui mô lớn, đạt kỷ lục thế giới bởi những quần thể tu viện mênh mông và những pho tượng phật khổng lồ. Đây đều là những công trình tập thể, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều thành phần xã hội – theo nhận xét của T.S. Nguyễn Xuân Diện:

“Để tạo thành được những Chùa Bái Đính, Chùa Ba Vàng, Chùa Tam Chúc, Chùa Yên Tử như hiện nay, phải hội đủ ba mặt: Chức sắc Phật giáo + Chính quyền huyện đến tỉnh sở tại + Đại gia. Thiếu một trong ba thì không thể nào vẽ ra được các khu kinh doanh như vậy.”

Sau khi đã “vẽ” xong “các khu kinh doanh như vậy” thì vấn đề kế tiếp là điều hành, quản lý. Đây là giai đoạn cần sự “can thiệp” của Chính Quyền Trung Ương và Bộ Nội Vụ, với những ban ngành “có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”

Phương thức tổ chức này được nhập khẩu (nguyên con) từ nước bạn Trung Hoa Vỹ Đại:

“Tất cả các nhóm tôn giáo dựa trên đức tin ở Trung Quốc, bao gồm 41 viện nghiên cứu Phật giáo trên toàn quốc, đều được Ban Tôn giáo Chính phủ [State Administration of Religious Affairs] giám sát.” (“The decline and fall of Chinese Buddhism: how modern politics and fast money corrupted an ancient religion.” South China Morning Post, Sep. 21, 2018 translated by Hoàng Kim Bảo).

Chỉ có điều hơi khác là ta “can thiệp” rất vụng về và “giám sát” quá sống sượng nên đã gây rất nhiều điều tiếng:

– Từ Thức: “Qua cửa BOT của chùa VN ngày nay, người ta bước vào thế giới ma quái của oan hồn, của ‘vong’ ngất nghểu, ra rả đòi tiền như nặc nô đòi nợ.”

– Nguyễn Văn Tuấn: “Thuở đời nay nhà sư đã xuất gia mà ăn thịt chó, uống tiết canh, hút thuốc lào, uống rượu Tây, say xỉn bí tỉ. Đó không phải là nhà sư nữa (chưa nói đến bậc chân tu), mà là dân ‘giang hồ’ rồi.”

– Đặng Văn Sinh: “Có những hòa thượng vốn là nhân viên công lực hàm cấp cao tót vời, khoác áo cà sa trụ trì ở những chùa lớn theo dõi nhất cử nhất động của giới tăng ni phật tử.”

– Mạnh Kim: “Những gì đang diễn ra khiến diện mạo Phật giáo ngày càng bi thảm là kết quả của chính sách ‘nhuộm đỏ’ Phật giáo, trong lớp áo ‘Đạo pháp và Dân tộc’ ra đời từ đầu thập niên 1980.”

– Vương Trí Nhàn: “Ngày Phật đản… Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.”

Những vị sư “có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng nào đó” – đôi lúc – vẫn tưởng rằng mình đang ở giữa mặt trận nên đã phát biểu như một chiến sĩ (thực thụ) khiến công luận không khỏi bàng hoàng: “Chúng ta phải quyết tâm xây dựng quân đội nước ta mạnh như là quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.”

Bây giờ thì còn tìm đâu ra một ngôi chùa nhỏ bé, nghèo nàn nhưng thân thiết như chùa Châu Lâm trong ký ức tuổi thơ của Võ Hồng:

Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, của Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm…

Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mới thầy tụng kinh cầu an.

Mười năm một lần, ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất tắt mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới.

Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi và cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.

Những vị tu sĩ “mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chõ, mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy” cũng đều đã biệt tăm/biệt tích.

Những người muôn năm cũ

Hôn bây giờ ở đâu?


 

Chút trải nghiệm về khát khao cầu nguyện

dongten.net

Mácta Nguyễn Thị Ngọc Hạnh

 Hình ảnh “cầu nguyện, phó thác” thật tuyệt vời đang diễn ra trước mắt tôi. Từng đoàn người bệnh tật ngồi trên xe lăn, được những thiên thần tình nguyện đẩy họ; cùng nhau lần lượt tiến vào hang đá Đức Mẹ Lộ Đức. Những khuôn mặt rạng rỡ niềm tin, niềm hi vọng, tay gắn liền với chuỗi hạt, miệng thì thầm những lời nguyện dâng lên Mẹ Maria tận đáy lòng của họ. Hình ảnh này luôn đánh động tôi thật mãnh liệt trong mỗi lần tôi đặt chân tới nơi này. Sự khát khao cầu nguyện, và rõ rệt nhất là “cầu nguyện theo thánh ý Chúa”. Họ đang thực thi lời Mẹ nhắn nhủ năm xưa mà Mẹ đã gởi cho Hội Thánh, khi hiện ra ở nơi này, hoặc ở Fatima, và ở các nơi khác; “siêng năng cầu nguyện theo thánh ý Chúa”. 

Việc cầu nguyện là việc mọi người đều phải làm và phải tập làm. Chỉ cần cầu nguyện vắn tắt trong bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào. Tôi có một thói quen nói chuyện với Đức Mẹ và thưa với Chúa, kể cả trong những lúc tôi đang rất bận rộn “xin thương giúp con biết đón nhận Chúa vào lòng con. Xin luôn ở bên con, đừng bỏ con”. Tôi tín thác một điều, Chúa sẽ rất vui mừng nếu mỗi người chúng ta trở thành con người cầu nguyện. “Mục đích đời con là tới với Chúa”. 

Cầu nguyện, nơi tìm lại bình an nội tâm, nâng tâm hồn lên tới một thế giới tĩnh lặng, hoan lạc thật cao. Để đạt được sự bình an nội tâm này, chúng ta cần liên lỉ tới với Chúa. Đây là đời sống bên trong con người, đời sống thiêng liêng, đời sống sâu thẳm của tâm hồn. Theo cách nói của giáo lý Công Giáo, thì đời sống nội tâm là “đời sống tha thiết với các chân lý thiết yếu của cuộc đời. Như mục đích đời mình, chết rồi đi đâu. Đời sống nội tâm là sống có Chúa, với Chúa và trong Chúa”.

 Nhìn lại hành trình theo khóa Magis, tôi nhận ra rất rõ hoa trái của việc cầu nguyện. Thực sự tôi đã được ơn Chúa bước vào đời sống cầu nguyện qua những bài làm. Những suy tư khi đọc sách thiêng liêng hoặc những câu hỏi Cha Linh hướng đưa ra, từ từ đã đưa tôi đến gần với Chúa và được trổ sinh hoa trái: giúp tôi kiên nhẫn hơn, khiêm tốn hơn, tâm hồn hoan lạc hơn, và rất là bình an. Trên hết, tôi yêu mến Thiên Chúa hơn và những người anh chị em đang gặp khó khăn. Giờ đây, tôi luôn muốn sống phục vụ cho Giáo Hội, phục vụ tha nhân qua khả năng hạn hẹp của mình. Nhưng nếu tôi chỉ dấn thân hành động mà thiếu cầu nguyện, thì hành động của tôi sẽ không chuyển tải được sự sống Chúa Ba Ngôi, và các giá trị thiêng liêng, tôi sẽ không có ánh sáng của Chúa chiếu vào lòng tôi, và sẽ không giúp tôi nhận ra đâu là những giá trị đích thực mà Chúa muốn tôi phát triển và chia sẻ. Tất cả những gì tôi gặt hái được, không đến từ những nỗ lực của tôi, nhưng được đến từ Một Đấng ban tặng cho tôi, Ngài ban cho tôi sự thanh thản, Ngài ban cho tôi sự điềm tĩnh khi gặp những vấn đề, những lo toan và không bị sợ sệt khi những khó khăn ập xuống. 

Bình an nội tâm là một quà tặng quý giá, bởi chính trong hương thơm của nó, đức ái lớn lên. Bình an này làm cho chúng ta sẵn sàng trước công việc của ân sủng, giúp chúng ta phân định những hoàn cảnh và những quyết định cần đưa ra.

 Trong mỗi ngày sống con cảm tạ Chúa vì được gọi Chúa là Cha, và được Chúa nhận làm con, qua lời kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Con xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho con biết trách nhiệm nội tâm, mà Chúa trao ban cho con.

 Những hoa trái quý giá nhất là sự tinh tuyền trong tâm hồn. Cầu nguyện có khả năng lớn lao thanh luyện nội tâm. Trong cầu nguyện, tâm hồn được lắng đọng, trở nên giản dị và quy về Thiên Chúa với lòng khát khao đầy tín thác; đó là yêu mến Người cách chân thành và thực thi ý Người. 

“Những ai nghe các lời Thầy nói, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa nước cuốn hay bảo táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành” (Mt 7,26-27). Lời Chúa cảnh báo xưa kia thật ứng nghiệm. Nếu ta xem nhẹ việc gặp gỡ Ngài, ít cầu nguyện với Ngài, ít suy niệm Lời Ngài, thì làm sao chúng ta có thể gặt hái được hoa quả tốt, làm sao có được hiệu quả trong việc cầu nguyện. Sự khát khao, trung thành, liên lỉ, kiên trì là giá trị chính của cầu nguyện. Ước nguyện chân thành tìm gặp Thiên Chúa, làm vui lòng Người và yêu mến Người. Hiệu quả tuyệt vời của cầu nguyện mà tôi vẫn thường nghĩ: Đó là một phép lạ, một món quà đến từ Một Đấng; tâm hồn được đổi mới một cách âm thầm. Được tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sự tái sinh này được thực hiện một cách hết sức thầm lặng khiêm tốn. Tôi, một con người tội lỗi đã đựợc ơn trở về, một con người kiêu ngạo sa ngã đã được ơn trở lại. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn cho con luôn biết phấn đấu với chính mình, phải thường xuyên cầu nguyện và tỉnh thức trước mọi thử thách, con quyết tâm theo Chúa trọn đời. 

“Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau yếu mới cần. Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,31-32). Tôi tin Chúa yêu thương tôi, chính vì tôi là kẻ tội lỗi. Tôi tin Ngài yêu tôi, trước khi tôi trở lại với Ngài. Nghĩa là, tôi cầu nguyện với lòng tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Ngài và ở lại trong tình yêu ấy. Niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa đã giúp tôi nhận ra, cuộc sống là một chuỗi dài những ơn Chúa ban. Cầu nguyện được coi là một điều thiết yếu thuộc về cuộc sống. Cuộc sống gắn liền với cầu nguyện. Cầu nguyện đi theo mọi tình huống cuộc sống. Lúc nào cũng cầu nguyện. Sống là cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của cuộc sống. Cầu nguyện đưa tôi đến gần Thiên Chúa, để tôn vinh Danh Ngài, để thành thật nói với Ngài về những yếu đuối của tôi, những nguyện vọng của tôi. Và tôi xin Chúa cho tôi được ơn vâng theo thánh ý Chúa. Chỉ với tinh thần cầu nguyện, tôi sẽ biết nghĩ đúng, chọn đúng, làm đúng trong âm thầm và khiêm tốn.

 Cầu nguyện nhất thiết là một hành vi đức tin, còn là phương thế trước nhất và tự nhiên để diễn tả đức tin. Hành vi đức tin này giúp chúng ta nên một với Thiên Chúa. Đối với tôi, tin vào Chúa chính là gặp gỡ Chúa. Đây là một cuộc gặp gỡ sống động giúp ta thấy Chúa. Người đến trong tâm hồn tôi. Người đào tạo tôi nên tạo vật mới. Người giúp tôi tiến bước trên con đường thực thi thánh ý Chúa. Thánh Thần Chúa mở lòng tôi ra, cho tôi thấy bầu trời của đức tin. Càng thấy đức tin, càng thúc dục tôi đến gặp gỡ Thiên Chúa. Bên cạnh Ngài, tôi thấy mình rất tội lỗi, thế mà được Chúa thương một cách lạ lùng. Tôi không hiểu hết được tình thương xót của Ngài, nhưng tôi tin nơi Người, gặp gỡ Người, bước theo Người, bắt chước Người, từ bỏ mình, khoan dung, nhẫn nhục, yêu thương phục vụ, chấp nhận khổ đau và tuyệt đối tuân phục thánh ý Ngài. 

“Những người yêu mến Chúa Thánh Thần, sẽ thấy việc cầu nguyện đầy hoan lạc đến nỗi họ không thấy đủ thời giờ để cầu nguyện” (Cha Thánh d’Ars Johann Marie Vianey).

 Cảm giác và cảm xúc đóng một vai trò không thể thiếu trong đời sống thiêng liêng. Có hai khả năng này chúng ta mới có thể cảm nếm sự hiện diện của Thiên Chúa và sự trìu mến của Người. Bằng không Người vẫn luôn xa lạ đối với chúng ta.

Trong đời sống hiện tại, mối lo âu hàng đầu, theo tôi, chính là sự lãnh đạm của rất nhiều người công giáo chúng ta đối với Lời Chúa, đối với Bí Tích Thánh Thể, đối với những thao thức của Chúa, đối với những lo âu của Hội Thánh Chúa. Nghĩ đến sự lãnh đạm này, tôi sợ cho chính bản thân tôi, những cám dỗ vây quanh từng giây phút. Đó là cám dỗ chủ quan, lười biếng, về ỷ lại, kiêu căng… Dần dần, nó sẽ biến tôi thành một người bất lực trong việc dành một vị trí xứng đáng cho khả năng cảm nhận của mình.

 “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy”. Chúng ta có quyền xin ơn tri giác để có thể cảm nếm một điều gì đó từ mầu nhiệm Thiên Chúa, cảm nhận nhũng chân lý đức tin… bằng các giác quan và những cảm xúc thể lý; bằng không chúng ta không thể hiểu cũng không thể đem chúng vào đời sống một cách năng động. Khả năng cảm nhận của chúng ta cần được thanh luyện. Cầu nguyện là găp gỡ Thiên Chúa chứ không chỉ là những cảm giác mà sự hiện diện của Thiên Chúa gợi lên nơi chúng ta. Điều quan trọng không phải là những gì chúng ta cảm nhận, nhưng là điều chúng ta tin. Hành vi đức tin vượt xa mọi cảm xúc của chúng ta và thật sự giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa ngay cả khi chúng ta hoàn toàn trống trơn và tâm hồn khô cằn. Cầu nguyện như là đường dẫn đến tự do. Mặc cho những khô khan, việc trung thành cầu nguyện và kiên trì thực hành đức tin trong cầu nguyện sẽ dần dần giúp chúng ta tự do thanh thoát đối với những cảm xúc. Để có thể đạt được đến điểm son “trung thành cầu nguyện”, tôi cần sấp mình trước Mặt Chúa và khiêm tốn nhận mình chưa biết tỉnh thức và cầu nguyện, liên lỉ kiên trì xin Chúa giúp, để cùng được với Chúa mà tỉnh thức và cùng với Chúa mà cầu nguyện. Tôi tín thác, Chúa sẽ cho tôi một trái tim đổi mới, để tôi có một cái nhìn mới về Hội Thánh, về cộng đoàn, về chính bản thân tôi. Lúc đó, tôi mới thấy đâu đâu cũng cần được Chúa cứu độ, đâu đâu cũng kêu gọi sự cộng tác của tôi vào việc cứu độ. Cộng tác bằng sự tôn thờ kính yêu Chúa Giêsu Thánh Thể. Cộng tác bằng sự phục vụ những người xung quanh một cách khiêm nhường. Cộng tác bằng tâm tình sám hối và cảm thương, mối tương quan của tôi với người khác không dựa trên vui thú mà họ trao ban. Tự do đích thực cốt tại yêu thương họ, dù họ làm tôi hài lòng hay không làm tôi hài lòng; trung thành cầu nguyện bất cứ giá nào. Lạy Chúa, xin Chúa giúp con. 

Lý trí đóng một vai trò nền tảng trong đời sống con người và đời sống thiêng liêng; đức tin không thể hoạt động mà không có lý trí. Càng hiểu điều mình tin, đức tin càng trở nên ánh sáng và sức mạnh cho chúng ta. Trong đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ thường đón lấy những luồng sáng soi rọi trí năng trong  nhiều lãnh vực: một sự hiểu biết những khía cạnh nào đó của mầu nhiệm Thiên Chúa, nhận biết cách sống động con người Đức Kitô hay ý nghĩa của thân phận con người v.v…Mỗi khi tâm trí được soi sáng như thế, thì nó là một quà tặng quý giá và chúng ta cần làm hết sức có thể để sống đức tin của mình một cách khôn ngoan, sử dụng các khả năng suy tư, nhận thức, phân tích và những gì còn lại. Chúng ta phải cầu xin và tìm kiếm những soi dọi khai mở trí năng. Một đầu óc lười biếng và một sự sống động thiêng liêng không sánh đôi cùng nhau được.

“Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm đường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người ai theo dõi được!”

 Trí tuệ có thể mang chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn, nhưng nó không dẫn chúng ta đến với những gì Thiên Chúa thực sự là Người nơi chính Người. Chỉ có đức tin mới có thể làm điều đó. Chính đức tin, đức mến và sự thờ phượng đặt chúng ta vào sự gặp gỡ Thiên Chúa. Đức tin và duy chỉ đức tin, mới thiết lập cuộc gặp gỡ đích thực với sự hiện diện sống động của Thiên Chúa. Tôi tin và tôi cảm nghiệm thấy điều này: Chúa chủ động trong cách Ngài đến với tôi, trong thời gian và trong nơi Ngài đến với tôi. Vì thế, nhận ra sự hiện diện của Ngài, việc Ngài đến là một ơn trọng đại vô cùng, tôi không thể nào diễn tả hết được. Ơn Chúa ban qua lòng thương xót của Ngài. Tôi chỉ biết bổn phận của tôi phải cộng tác một cách tích cực bằng sự khiêm nhường cầu nguyện và khiêm nhường tỉnh thức. Điều tôi lo sợ cho mình là mất khả năng lãnh nhận. Do hẹp hòi, do tự đắc, do dửng dưng bất cần. Lạy Chúa, xin Chúa giúp con luôn khiêm tốn và chân thành để tiếp xúc với Thiên Chúa với một lòng tin tuyệt đối.

 Tin không nhất thiết là phải thấy, hiểu hay cảm nhận, nhưng đức tin là điều sống động nhất trong đời sống thiêng liêng. Một cách huyền nhiệm nhưng thiết thực, nhờ đức tin, chúng ta có thể “chạm đến Thiên Chúa” và để cho mình được người chạm đến; đức tin thiết lập một mối hiệp thông nội tại với Người và cho phép chúng ta được biến đổi dần dần bởi ân sủng Người. Sự hiểu biết Thiên Chúa mà đức tin mang đến có khả năng đốt lên trong chúng ta ngọn lửa yêu mến hơn bất cứ một kiến thức cụ thể, rõ ràng nào của trí năng. Thánh Gioan Thánh Giá đã diễn tả: “Đức tin trong đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà không hiểu biết Người”.

 Lạy Chúa, con tin Chúa nắm trong tay cuộc sống của con. Chúa có kế hoạch riêng cho đời con. Chúa có quyền sắp xếp mọi chi tiết cuộc đời con. Nơi Chúa, con tìm được ý nghĩa đời con. Bỏ Chúa, mọi thực hiện của con cho dù có thành công, cũng sẽ chỉ là phù du, mong manh. Chúa dạy con biết yêu thương, biết phục vụ, biết đón nhận, và làm gì, nghĩ gì, điều quy vào Lời và Thánh ý của Chúa.

Con đến với Chúa, con mời Chúa vào tâm hồn con. Một tâm hồn tội lỗi, xấu xí, nhưng Chúa vẫn đi vào và ở lại với con. Khi được đồng hành với Chúa trong chuyến đi cuộc đời, con sẽ không ngừng nhìn vào Chúa là Chúa của con. Con như một trẻ nhỏ khi cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong bản thân mình.

 Chúa Giêsu thực là Chúa của con, là Đấng cứu độ con.

Thiên Chúa là chủ cuộc đời. Không có Chúa con người chẳng làm gì nên công trạng. Vì thế phải sống trong đức tin. Đức tin cho thấy ta chẳng là gì. Chúa là tất cả. Ta chẳng có gì. Chúa có tất cả. Nhưng Chúa vô hình. Nên ta phải tin tưởng. Sống trong đức tin, con người được giải thoát, được tự do. Không còn lệ thuộc vào những gì bên ngoài: Lề Luật, dư luận. Chỉ sống cho Chúa. Sống trong đức tin vào Thiên Chúa.

Sống đức tin thực sự. Sống nội tâm thực sự. Tôi chẳng còn bận tâm đến bên ngoài. Đến người ngoài. Chỉ thanh tẩy nội tâm. Để một mình Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn. Thế là đủ và thật hạnh phúc!


 

50 Năm – Việt Nam Đang Ở Đâu, Làm Được Gì? Chau Doan

Chau Doan 

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm đang muốn đưa đất nước vào “kỉ nguyên vươn mình” và bài phát biểu nhân 50 năm ngày thống nhất đất nước đã gây được cảm hứng và hy vọng cho nhiều trí thức ở Việt Nam. 

Đấy là một việc tốt nhưng điều quan trọng là cần định vị đất nước đang ở đâu, điều cần thiết phải làm, mối nguy hiểm nào có thể rình rập và nếu là trí thức thực sự thì phải nhìn ra điều ấy thay vì tán thưởng với kiểu hời hợt và rỗng tuyếch. 

Để có thể đánh giá được thành tựu của một vị lãnh đạo trong vài năm tới, điều quan trọng là ta cần phải có một bàn cân có thể “cân đo, đong đếm” hiện trạng. Thực tế gần 50 năm thống nhất, đảng cộng sản Việt Nam và chính quyền Việt Nam nói chung đã không hề tạo được một bước đột phá nào đáng kể trong việc lãnh đạo đất nước. Việc cố bí thư Nguyễn Phú Trọng tự hào thốt lên “đất nước ta đã bao giờ được như thế này chưa” thể hiện một tầm nhìn hạn hẹp, lạc quan tếu, một ý chí yếu ớt trong việc đưa dân tộc đi lên. 

Ở đây cần làm rõ mấy ý. Đừng mang cái đói nghèo của thời bao cấp ra rồi gật gù tâm đắc bảo: thấy chưa, xưa áo rách, cơm độn bo bo, giờ áo lành, bữa ăn đầy thịt cá, công của ai?

Cũng đừng mang cái ý như kiểu một người đàn ông bảo vợ: Xưa mà không có anh lấy thì em ế. 

Cũng đừng bảo đất nước ta mới qua chiến tranh, thế là tốt rồi. 50 năm là một quãng đường rất dài, bằng 2/3 đời người. Đủ để một dân tộc với ý chí quật cường như Việt Nam phát triển rực rỡ, hoàn toàn có thể ngang hàng hay hơn Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan… 

Giờ chúng ta hãy nhìn thực trạng của Việt Nam về mọi mặt. 

Về kinh tế, mặc dù tuyên bố tăng trưởng GDP cao nhưng thực chất 80% là do FDI mang lại, Việt Nam đơn giản là làm thuê cho nước ngoài trên chính đất nước của mình. Các “nắm đấm thép” của nhà nước đã biến thành những móng vuốt thép cào cấu nát bét ngân sách quốc gia.

Cuối năm 2023, Bộ Tài Chính điểm ra 1000 dự án lãng phí không hiệu quả, riêng Bộ Công Thương có 12 dự án thua lỗ nghìn tỉ với tổng mức đầu tư 63.610 tỉ đồng. 

20 tập đoàn kinh tế nhà nước chiếm giữ 80% tín dụng ngân hàng, họ là những đứa con đẻ được nuông chiều hết mực nhưng đóng góp không hề tương xứng với ưu đãi nhận được mà ngược lại làm góp phần suy yếu nền kinh tế. 

Trong khi ấy, nội lực kinh tế của một quốc gia thực chất phải nằm ở kinh tế tư nhân. Mô hình của Hàn Quốc cho thấy, những tập đoàn tư nhân sẽ phải tự bươn chải, chỉ khi lớn đến một mức nào đấy, đã chứng tỏ được năng lực, họ sẽ có được sự hỗ trợ nhất định của nhà nước và kết quả cho thấy Hàn Quốc đã trỗi dậy với những thương hiệu khổng lồ. 

Cùng với nó là nạn tham nhũng ngày càng tệ hại ở Việt Nam chắc chắn có liên quan tới năng lực yếu kém của những “đứa con đẻ” của nhà nước. 

Kinh tế yếu kém sẽ dẫn tới quân sự yếu kém, công nghệ yếu kém. 

Hãy mang những thành tựu của người anh em cùng ý thức hệ của chúng ta so sánh. 

Trung Quốc đang làm chấn động thế giới bởi sự vươn mình thực sự của họ. Nền kinh tế của họ là thực sự do nội lực cách doanh nghiệp trong nước. Họ chuyển từ những kẻ học việc, bắt chước thành những nhà sáng chế. 

Giờ đây Mỹ đang toát mồ hôi trong cuộc chiến về thành tựu vật lý lượng tử, máy tính lượng tử và trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc, hàng hoá Trung Quốc tràn ngập khắp thế giới. Với đà này, với một dân số khổng lồ và nội lực vượt trội như vậy, nếu họ có vượt trội Mỹ về kinh tế và sức mạnh quân sự thì cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên. 

Điều ấy liên quan tới vận mệnh dân tộc Việt Nam. Nếu ông Nguyễn Phú Trọng có tầm nhìn bao quát thì thay vì thốt ra mấy câu cảm thán đầy hãnh diện thì ông đã nên thâm trầm mà nhìn ra nguy cơ khi đất nước ta phải sống cạnh ông bạn cùng lý tưởng, quá mạnh và vô cùng sâu hiểm. 

Hãy nhớ rằng khi anh em thân thiết nhất, hữu hảo nhất, chúng ta mất Hoàng Sa. Những năm trở lại đây Trung Quốc đã xây dựng 7 cơ sở quân sự ở Biển Đông. Những cơ sở quân sự thậm chí không có một bóng cây bởi mục đích đậm đặc của quân sự, đường băng, kho tàng vũ khí quân dụng. Họ xây dựng đảo không phải để sống, mà để tạo ra những cơ sở quân sự để kiểm soát biển Đông. 

Lãnh đạo Việt Nam nhận thức được điều này và đang nỗ lực xây dựng cơ sở quân sự ở Trường Sa nhưng với một nền kinh tế yếu kém, sự nỗ lực ấy không là gì so với thành quả xây dựng của Trung Quốc. 

Việt Nam đang trong một thế vô cùng hiểm nghèo, có thể thay câu nói của ông Trọng bằng câu nói: “Việt Nam đã bao giờ nguy đến thế này chưa?” 

Tại sao nguy, bởi phía Bắc giáp biên giới Trung Quốc, hướng biển Đông với 7 cơ sở quân sự của Trung Quốc và phía Tây Nam có Campuchia, một người anh em đang ngả hẳn vào vòng tay của Trung Quốc và tâm lý thù ghét có tính lịch sử với Việt Nam vẫn còn. 

Khi thằng hàng xóm xấu tính, đầy tham vọng ăn nuốt mà lại quá mạnh thì ta phải làm sao? Ta phải nỗ lực nâng cao năng lực, sức chiến đấu của mình, ta phải có đồng minh mạnh. Chơi với kẻ xấu tính, khi nó hữu hảo nhất, ta mất nhiều nhất, Hoàng Sa là minh chứng rõ ràng và đau đớn nhất. 

Trong khi nguy cấp như vậy nhưng quan chức Việt Nam lại khét tiếng là những thanh củi dự bị ngày càng to hơn. Lý tưởng, khát vọng xây dựng đất nước không có hay có nhưng quá yếu ớt, bị che lấp bởi lòng tham muốn kiếm lợi riêng. Cơ chế thiếu khoa học và bộ máy yếu kém lại chính là một cái công xưởng tạo ra củi, xong lại tự hào là mình đốt lò quyết liệt. Cái cần làm là trị tận gốc, tức là phải thay đổi cơ chế tạo ra củi, chứ không phải kiểu một tay tạo củi, tay kia đốt lò. 

Hãy nhớ kinh Trung Quốc được như ngày hôm nay là nhờ Đặng Tiểu Bình và hiện thời là Tập Cận Bình, hai người hiểu là muốn làm được việc lớn cho quốc gia, sự trong sạch với đồng tiền, với lợi ích riêng là điều cần thiết. 

Ông Nguyễn Phú Trọng sở dĩ có được một uy tín như vậy bởi ông là một người được đánh giá là trong sạch nhưng tiếc thay, tầm nhìn của ông quá hạn chế. Ông đắc ý về một thứ giá trị tầm phào như “ngoại giao cây tre”. 

Với thực trạng trung bình 10 người dân có một cán bộ, viên chức nhà nước, trung bình 5 lao động nuôi một viên công chức thì việc ông Tô Lâm cho tinh giản bộ máy, cắt giảm ngân sách của các tổ chức, hội nhóm trực thuộc nhà nước là một việc làm đúng đắn nhưng đấy mới chỉ là một bước nhỏ trong chặng đường trước mắt. 

Hãy nhìn vào khoa học kĩ thuật. 

Trong khi thế giới đang ráo riết và rầm rộ trong cuộc đua về máy tính lượng tử, trí tuệ nhân tạo, liên tục đạt được những thành tựu mới thì Việt Nam chỉ có con số không tròn trĩnh. 

Nói tới kỉ nguyên mới là phải nói tới những lĩnh vực này mà muốn phát triển được hai lĩnh vực này thì cần phải có ngân sách đáng kể dành cho R&D, nghiên cứu và phát triển nhưng tham nhũng như vậy, sự tích luỹ ngân sách yếu ớt như vậy thì làm sao có được R&D đáng kể? 

Do vậy, cái việc cắt giảm bộ máy cồng kềnh của ông Tô Lâm là hoàn toàn đúng. Hãy tạo ra một bộ máy tinh gọn để giảm gánh nặng cho ngân sách và cái quan trọng là phải tận diệt tham nhũng. 

Có dám làm quyết liệt hay không, bộ máy nằm trọn trong tay, không có gì là không thể nhưng đừng có kiểu tự hào đốt củi như ông Nguyễn Phú Trọng bởi với dưới góc nhìn của người dân củi là sản phẩm bộ máy của chính quyền và diệt tham nhũng chính trách nhiệm của các vị, không phải là thành tựu gì đáng để người dân tung hô. 

Hãy nhìn thực trạng của quản lý thị trường. Phải cắt đứt được vấn nạn nhập lậu qua biên giới Trung Quốc, Lào (tôi không rõ về biên giới Campuchia). Tôi đã phải có lúc 12 giờ đêm nằm phục để chứng kiến đoàn người vác đồ lậu xuyên biên giới. 

Doanh nghiệp Việt Nam nào có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập lậu như vậy? 

Rồi thực phẩm chức năng, thuốc tây, gần đây có 600 loại sữa giả lan tràn trên thị trường suốt bao năm. 

Đại dịch đã phô bày đạo đức cán bộ ngành y tế với que chọc mũi và những chuyến bay “giải cứu”. 

Tôi đau xót tự hỏi với đạo đức cán bộ như vậy thì bao dân oan mất đất đã phải tàn lụi trong đau khổ, uất ức. Những biệt phủ, siêu xe do các cán bộ buôn chỏi đót, nuôi lợn, chạy xe ôm thêm hay được xây bằng máu và nước mắt dân oan? 

Nếu thực sự “do dân vì dân” thì các vị phải nhìn thấu vấn đề. Trên con đường ra phía trước, các vị bảo không “bỏ lại ai phía sau” nhưng những người dân đã gục chết trên con đường tìm công lý thì làm sao chạy cho kịp với hành trình dân tộc? Phải chăng oan hồn của họ sẽ được bám theo? 

Tôi tự hỏi trong cái “kỉ nguyên mới” của ông Tô Lâm, bao phần trăm được hướng tới giá trị tinh thần của dân tộc? Con người ngoài bánh mì còn cần có hoa hồng. Hoa hồng ở đây là tự do, dân chủ, nhân quyền, công lý, văn học nghệ thuật, nền giáo dục tinh hoa, khai phóng con người, nền y tế khiến con người cảm thấy được chăm sóc chu đáo. Và điều quan trọng là niềm tự hào dân tộc. Ở đây tôi không nói tới niềm tự hào về lịch sử, về dòng giống con rồng cháu tiên mà là niềm tự hào của thành tựu hiện tại của một đất nước. Sao cho khi người dân ra nước ngoài, ai hỏi họ từ đâu tới, khuôn mặt người ta có thể bừng sáng rực rỡ mà trả lời “tôi là người Việt Nam.” 

Mấy “trí thức” nhân bài phát biểu của ông Tô Lâm mà “làm thơ” bằng văn xuôi, lại “tát nước theo mưa”, lại cao hứng tán thưởng, tràn trề hy vọng, lại “bay cao”… Mấy trí thức như vậy thật nhạt nhẽo, vô hại và ăn hại, chẳng có chút giá trị khai dân trí chút nào. 

Chúng ta ở đây không phải để khiến nhau thoả mãn, để vỗ tay, để cười giả lả ve vuốt hồn nhau, không phải để nhau “xuất ra” cho thoải mái và thư giãn tinh thần, để thăng hoa những cái ngã siêu bé của chúng ta. Chúng ta ở đây để nói lời thật, tư duy thật, thứ tư duy cần bao năm tháng học hỏi và suy ngẫm, thứ tư duy cần trăn trở, cần đọc nhiều, cần liên kết để đưa ra nhận định đúng đắn. 

Trước hết, nếu ông Tô Lâm thực sự là người có tâm có tầm, việc đầu tiên ông cần làm là nâng cấp, cải thiện nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà, dựng tượng tưởng nhớ những nạn nhân vượt biển mà ta gọi là thuyền nhân. Máu của người Việt Nam đã làm đỏ thêm biển Đông, nước mắt của thuyền nhân Việt Nam đã làm nước biển Đông thêm mặn. 

Họ chạy đi bởi sự đối xử tàn ác của chính quyền các vị. Có ai muốn bỏ quê hương đất nước ra đi trong khi biết nguy cơ bị chết đói, hãm hiếp và cướp bóc rất cao. Hành trình đầy sóng gió, máu, nước mắt, khi phải chứng kiến người thân chết trước mắt mình. 

Hãy dựng tượng thể hiện sự thông cảm, sự thương cảm của dân tộc Việt Nam với họ. Hành động ấy sẽ nâng hình ảnh của ông lên rất cao, và ông sẽ được ghi nhận mãi mãi trong lịch sử và trong lòng người dân. 

Hãy rà soát lại danh sách tù nhân lương tâm và hãy thả họ ra nếu các vị thấy họ vô tội. Tôi tin rằng đa phần các vị biết họ vô tội nhưng bởi thói quen độc tài, các vị bất chấp và nhân danh thứ gọi là pháp luật để buộc tội họ. 

Tôi là người trong cuộc, tôi biết rõ điều này. Tôi làm gì mà phải có kiến nghị khởi tố, cấm xuất cảnh, triệu tập và rình rập, đeo bám người nhà, bạn bè, học sinh để truy bắt? 

Hãy nhớ cho rằng tôi là người luôn thân thiện, hợp tác, lực lượng an ninh suốt từ năm 2000. 

Tôi là người ôn hoà. Bố mẹ tôi vốn có doanh nghiệp xe buýt, thời thế thay đổi, với chính sách cải tạo công thương mà trắng tay. Một doanh nghiệp ông tự xây dựng lên bằng bàn tay người thợ. Cuối đời ông thành một người bất đắc chí và chỉ cay đắng thốt lên “chúng nó cấu cánh tao.” Chỉ sợ xây nhà thì chính quyền đến cướp. Đến giờ tôi hiểu tại sao ông lo sợ, hồi hộp đến vậy khi thấy tôi mua sắt về xây nhà. 

Tôi là người ôn hoà nên không lấy câu chuyện, sự mất mát của gia đình làm mối hận thù, bởi tôi hiểu ấy là lịch sử và ta phải chấp nhận lịch sử. Ta không để cái sai của lịch sử định hình tư tưởng và hành động của ta. 

Sự công bằng, chính trực luôn là tiêu chí của tôi. 

Nhưng những ngày tháng trốn tránh này tôi càng nhận diện chân dung của các vị. Các vị nói một đằng làm một nẻo. Bảo tôi về nhưng ráo riết lùng sục. Liệu tôi có nên nhắm mắt, giả ngu để trao sinh mệnh cho các vị? Để số phận của tôi được các vị định đoạt? 

Một vị an ninh nhắn tin là chìa tay mà tôi từ chối. Ai chìa tay cho ai? Tôi có sa ngã gì đâu mà chìa tay cứu vớt? Ngược lại, tôi đang chìa tay cho cả chính thể của các vị. Bàn tay của tôi là bàn tay nhân ái, bàn tay trí tuệ, bàn tay của hiểu biết, bàn tay của khao khát thực sự đưa dân tộc đi lên, bàn tay chai sạn của lao động và tu luyện, bàn tay ấm nóng của một con tim đầy nhiệt huyết và lý tưởng cao đẹp chứ không phải bàn tay lừa lọc, đạo đức giả, bất nhân và độc tài. 

Ngày mai, ngày kia, tuần sau các vị có thể bắt được tôi nhưng các vị không bao giờ có thể khiến dân chúng nhìn sai về Đoàn Bảo Châu bởi tôi đã để ánh sáng của công lý, sự minh bạch, sự thật xuyên qua tâm hồn, hành động và toàn bộ bản thể thiêng liêng của tôi. Các vị bắt tôi, điều ấy chỉ tô thêm một nét xấu trên chân dung vốn đã không mấy tốt đẹp của các vị. 

Các vị phải học rất nhiều. Không phải học từ nhau bởi một cái ao tù thì lấy đâu ra sự trong lành mà học từ thế giới, từ những nhà hiền triết đã sống xuyên qua nhiều thế kỉ. Tôi hiểu là các vị không thể học nhanh được nhưng một con thuyền buồm sẽ tới được đích khi nó biết hướng đi. Buồm to được giương lên mà không có hướng đúng thì chỉ lạc lối mãi mà thôi. 

Vậy kỉ nguyên vươn mình của dân tộc sẽ có thể vươn được đến đâu thì ta cần phải chờ thêm thời gian và điều ấy phụ thuộc vào chính các vị. Không phải phụ thuộc vào những người được gọi là “trí thức” của đất nước bởi chính các vị đã làm hỏng họ, đã biến họ thành một thứ nhạt nhẽo, lờ lợ, ăn theo nói leo, vỗ tay và cười xu nịnh. 

Cũng không phụ thuộc vào quần chúng bởi cũng chính các vị đã biến họ thành một lớp người cam phận, sợ sệt, hèn nhát, ích kỷ và khôn lỏi. 

Muốn dân tộc vươn mình, lãnh đạo thực sự phải vươn mình trước về tư tưởng, tầm nhìn, sự quyết đoán và nhất định phải có con tim yêu nước thực sự.

Thời gian sẽ trả lời điều này và tôi cũng có hy vọng vào các vị. 

Đoàn Bảo Châu.

50 Years – Where Is Vietnam, What Has It Achieved?

The General Secretary of the Communist Party of Vietnam, Mr. Tô Lâm, wants to lead the country into an “era of rising,” and his speech on the 50th anniversary of the country’s reunification has inspired and given hope to many intellectuals in Vietnam.

That is a good thing, but the important thing is to determine where the country stands, what needs to be done, what dangers might be lurking, and if one is a true intellectual, they must see these things instead of giving shallow and empty and hollow praise. 

To be able to evaluate the achievements of a leader in the coming years, it is crucial that we have a scale that can “weigh and measure” the current situation. In reality, nearly 50 years after the guns fell silent, the Communist Party of Vietnam and the Vietnamese government in general have not made any significant breakthroughs in leading the country. The fact that the late Secretary-General Nguyễn Phú Trọng proudly exclaimed, “Has our country ever been like this before?” reflects a narrow vision, a naive optimism, and a weak will to lead the nation forward.

Let me clarify a few points here. Don’t bring up the poverty and hunger of the subsidy period and then nod smugly, saying: Look, in the past we wore tattered clothes, ate rice mixed with bo bo, now we have intact clothes, meals full of meat and fish—who’s to thank for that?

Also, don’t use the kind of logic like a man telling his wife: If I hadn’t married you back then, you’d still be single.

And don’t say that our country has just come out of war, so this is good enough. 50 years is a very long time, equivalent to two-thirds of a person’s life. It’s enough for a nation with a resilient spirit like Vietnam to develop brilliantly, completely capable of being on par with or surpassing South Korea, Taiwan, Singapore, Thailand… 

Now let us look at the reality of Vietnam in all aspects.

Economically, despite claims of high GDP growth, in reality, 80% of it comes from FDI; Vietnam is simply working for foreign countries on its own land. The “iron fists” of the state have turned into steel claws that tear the national budget to shreds.

At the end of 2023, the Ministry of Finance pointed out 1,000 wasteful and ineffective projects, with the Ministry of Industry and Trade alone having 12 loss-making projects worth thousands of billions, with a total investment of 63,610 billion VND.

20 state-owned economic corporations hold 80% of the banking credit; they are the spoiled children who are pampered to the fullest but contribute far less than the privileges they receive, and in fact, they contribute to weakening the economy.

Meanwhile, the true economic strength of a nation should lie in the private sector. The South Korean model shows that private corporations must struggle on their own, and only when they grow to a certain level and prove their capabilities do they receive certain support from the state. The result is that South Korea has risen with giant brands.

Along with that is the increasingly terrible corruption in Vietnam, which is certainly related to the incompetence of these “children” of the state.

A weak economy leads to a weak military, weak technology.

Let’s compare it with the achievements of our ideological brother.

China is shaking the world with their true rise. Their economy is genuinely driven by the internal strength of domestic enterprises. They have gone from being apprentices and imitators to becoming innovators.

Now, the U.S. is sweating in the race over achievements in quantum physics, quantum computers, and artificial intelligence against China, with Chinese goods flooding the world. At this rate, with such a huge population and superior internal strength, if they surpass the U.S. in economic and military power, it would not be surprising.

This relates to the fate of the Vietnamese nation. If Mr. Nguyễn Phú Trọng had a broader vision, instead of uttering those proud exclamations, he should have been more reflective and seen the danger of our country living next to a friend with the same ideology, who is too strong and extremely cunning.

Remember that when we were closest and most friendly, we lost the Paracel Islands. In recent years, China has built seven military bases in the South China Sea. These military bases don’t even have a single tree because their purpose is purely military—runways, weapon storage facilities. They build islands not to live on, but to create military bases to control the South China Sea.

Vietnam’s leadership is aware of this and is trying to build military bases in the Spratly Islands, but with a weak economy, those efforts are nothing compared to China’s achievements.

Vietnam is in an extremely dangerous position, so much so that we could replace Mr. Trọng’s statement with: “Has Vietnam ever been in such danger as it is now?”

Why is it dangerous? Because to the north, we border China; to the east, the South China Sea has seven Chinese military bases; and to the southwest, there’s Cambodia, a brother who has fully leaned into China’s embrace, with a historical resentment toward Vietnam that still lingers. 

When the neighbor is bad-tempered, full of ambition to swallow us, and far too strong, what must we do? We must strive to enhance our capabilities, our fighting strength, and we must have strong allies. When dealing with a bad-tempered neighbor, even at its most friendly, we lose the most—the Paracel Islands are the clearest and most painful proof.

Yet, in such a critical situation, Vietnamese officials are notorious for being increasingly large “firewood reserves.” The ideals and aspirations to build the country are either nonexistent or too weak, overshadowed by the greed for personal gain. An unscientific mechanism and an incompetent system are exactly the factory that produces firewood, and then they proudly claim they are fiercely “burning the furnace.” What needs to be done is to address the root cause, which is to change the mechanism that creates firewood, not to create firewood with one hand while burning the furnace with the other.

Remember that China’s success today is thanks to Deng Xiaoping and now Xi Jinping, two people who understood that to achieve great things for the nation, integrity with money and personal interests is essential.

Mr. Nguyễn Phú Trọng gained such prestige because he is considered an honest man, but unfortunately, his vision is too limited. He takes pride in something trivial like “bamboo diplomacy.”

With the reality that, on average, for every 10 citizens, there is one state official or employee, and on average, five workers support one civil servant, Mr. Tô Lâm’s decision to streamline the system and cut the budget of state-affiliated organizations and associations is a correct move, but it is only a small step on the road ahead.

Let’s look at science and technology.

While the world is racing fiercely in the competition over quantum computers and artificial intelligence, continuously achieving new milestones, Vietnam has a round zero.

Speaking of a new era means speaking of these fields, and to develop these fields, there needs to be significant funding for R&D, research and development. But with such corruption and such weak budget accumulation, how can there be significant R&D?

Therefore, Mr. Tô Lâm’s move to cut down the cumbersome system is absolutely correct. Create a lean system to reduce the burden on the budget, and the important thing is to eradicate corruption completely.

Do they dare to act decisively or not? The system is entirely in their hands; nothing is impossible. But don’t be proud of burning firewood like Mr. Nguyễn Phú Trọng, because from the people’s perspective, firewood is a product of the government’s system, and eradicating corruption is their responsibility, not an achievement for the people to praise.

Look at the reality of market management. We must cut off the problem of smuggling across the borders with China and Laos (I’m not sure about the Cambodian border). I once had to lie in wait at midnight to witness groups of people carrying smuggled goods across the border.

Which Vietnamese businesses can compete with smuggled goods like that?

Then there are functional foods, medicines, and recently, 600 types of fake milk have been flooding the market for years.

The pandemic exposed the ethics of health sector officials with nasal swab kits and “rescue” flights.

I painfully ask myself, with such ethics among officials, how many unjustly displaced people have withered away in misery and resentment? Were those villas and supercars of officials earned from selling brooms, raising pigs, or working as motorbike taxi drivers on the side, or were they built with the blood and tears of the wronged?

If you truly “serve the people, for the people,” you must see through the issues. On the road ahead, you say you won’t “leave anyone behind,” but the people who have died on the path to justice—how can they keep up with the nation’s journey? Could it be that their wronged spirits will follow along?

I ask myself, in Mr. Tô Lâm’s “new era,” what percentage is directed toward the spiritual values of the nation? People need not only bread but also roses. Roses here mean freedom, democracy, human rights, justice, literature and arts, an elite education system that liberates people, a healthcare system that makes people feel well-cared for. And the most important thing is national pride. I’m not talking about pride in history or the lineage of dragon and fairy descendants, but pride in the current achievements of a nation—so that when people go abroad, and someone asks where they’re from, their faces can light up brightly as they answer, “I am Vietnamese.”

Some “intellectuals,” upon hearing Mr. Tô Lâm’s speech, “compose poetry” in prose, “pour water with the rain,” enthusiastically praise, brim with hope, and “soar high”… Such intellectuals are truly bland, harmless, and useless, with no value in enlightening the people.

We are not here to satisfy each other, to clap, to laugh fakely and flatter each other’s souls, not to “release” for comfort and mental relaxation, to exalt our tiny egos. We are here to speak the truth, to think genuinely, the kind of thinking that requires years of learning and reflection, the kind of thinking that demands concern, extensive reading, and connection to make accurate judgments.

First of all, if Mr. Tô Lâm is truly a man of heart and vision, the first thing he should do is to upgrade and improve the Republic of Vietnam Cemetery, erect a statue to commemorate the victims of the boat people exodus. The blood of the Vietnamese has reddened the South China Sea further, the tears of Vietnamese boat people have made the sea saltier.

They fled because of the cruel treatment by your regime. Who would want to leave their homeland knowing the high risk of starvation, rape, and robbery? A journey full of storms, blood, tears, witnessing loved ones die before their eyes.

Erect a statue to express the sympathy and compassion of the Vietnamese nation toward them. That action would elevate your image greatly, and you would be forever remembered in history and in the hearts of the people.

Review the list of prisoners of conscience and release them if you find them innocent. I believe most of you know they are innocent, but due to your authoritarian habits, you disregard that and use what you call the law to convict them.

I am someone directly involved; I know this clearly. What have I done to deserve a proposal to prosecute, a ban on leaving the country, summons, and being stalked, with my family, friends, and students harassed to hunt me down?

Let me remind you that I have always been friendly and cooperative with the security forces since 2000.

I am a peaceful person. My parents used to own a bus company, but times changed, and with the policy of industrial and commercial reform, they lost everything. A business my father built with his own hands as a worker. At the end of his life, he became a disillusioned man, bitterly saying, “They clipped my wings.” He feared that if he built a house, the authorities would come and take it. Now I understand why he was so afraid and anxious when he saw me buying steel to build a house.

I am a peaceful person, so I don’t use my family’s story and losses as a source of hatred, because I understand that it is history, and we must accept history. We cannot let the wrongs of history shape our thoughts and actions.

Fairness and integrity have always been my principles.

But during these days of hiding, I have increasingly seen your true face. You say one thing and do another. You tell me to return but relentlessly hunt me down. Should I close my eyes, play dumb, and entrust my life to you? To let my fate be decided by you?

A security officer texted me, offering a helping hand, which I refused. Who is helping whom? I haven’t fallen into anything to need saving. On the contrary, I am offering a hand to your entire regime. My hand is a hand of compassion, a hand of wisdom, a hand of understanding, a hand with a genuine desire to lift the nation, a calloused hand from labor and cultivation, a warm hand of a heart full of passion and noble ideals—not a hand of deceit, hypocrisy, cruelty, and authoritarianism.

Tomorrow, the day after, or next week, you may catch me, but you will never make the people see Đoàn Bảo Châu wrongly, because I have let the light of justice, transparency, and truth shine through my soul, my actions, and my entire sacred being. If you arrest me, it will only add another stain to your already less-than-ideal portrait.

You have a lot to learn. Not from each other, because a stagnant pond cannot produce purity, but from the world, from the sages who have lived through many centuries. I understand you cannot learn quickly, but a sailboat will reach its destination if it knows the direction. A large sail hoisted without the right direction will only drift further away.

So, how far the nation’s era of rising can go depends on time, and it depends on you. It does not depend on those called “intellectuals” of the country, because you have ruined them, turned them into something bland, lukewarm, parroting, clapping, and laughing sycophantically.

Nor does it depend on the masses, because you have turned them into a class of people who accept their fate, who are fearful, cowardly, selfish, and cunning.

For the nation to rise, the leadership must first rise in thought, vision, decisiveness, and must absolutely have a heart that truly loves the country.

Time will answer this, and I, too, have hope in you. 

Đoàn Bảo Châu


 

MÃI NO THOẢ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”.

Cha linh hướng của Catarina Siêna kể, “Một hôm, có việc phải đi sớm, tôi không dâng lễ; chiều về, Catarina đến thưa, “Thưa cha, con đói lắm!”. Tôi bảo, “Rất nhọc, không dâng lễ được!”. Catarina buồn rầu rời đi; nhưng vài phút sau, trở lại, thưa như trước. Không cầm lòng, tôi ra kéo chuông và dâng lễ. Lạ lùng thay, khi vừa bẻ Mình Thánh, một nửa trong tay tôi biến mất. Tôi lo sợ tìm kiếm, nhưng Catarina nói, “Chúa đã đến với con!”. Lúc ấy, mặt chị sáng như mặt thiên thần!”.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Cơn đói của linh hồn’ chị thánh Catarina Siêna được Chúa Giêsu khai triển trong Tin Mừng hôm nay. Ngài nói đến cơn đói siêu nhiên, nói đến “lương thực thường tồn” cho con người ‘mãi no thoả’; và ai tiếp nhận Ngài, mặt người ấy sẽ sáng như mặt thiên thần.

Trước hết, hãy xét xem bối cảnh! Kìa, mới hôm qua, Chúa Giêsu nhân bánh cá ra nhiều để thết hàng ngàn người; và bây giờ, họ muốn điều đó tái diễn. Nhân cơ hội này, Ngài dạy họ về Bánh Ban Sự Sống; Ngài cũng muốn làm như thế cho bạn và tôi!

Vậy bạn đói khát điều gì? Có lẽ bạn có nhiều thức ăn, hoặc cũng có thể là không. Nhưng như Catarina, một khi xác định được cơn đói sâu xa nhất của mình – đói Giêsu – bạn hãy cho phép Ngài nói với bạn về Bánh Hằng Sống. Hãy nói với Ngài, “Đó là những gì con đói!”. Sau đó, hãy để linh hồn lắng nghe Ngài, “Ta muốn cho con nhiều hơn. Ta là những gì con thực sự đói. Hãy đến với Ta, con sẽ ‘mãi no thoả!’”. Đây là nội dung diễn từ Bánh Hằng Sống – suốt chương 6 Tin Mừng Gioan – Chúa Giêsu đã nói với người đương thời.

Đừng quên, Thánh Thể có khả năng biến đổi bạn ở mức độ sâu xa nhất! Vậy mà chúng ta thường đến với Bí tích này cách uể oải và hay sao nhãng; kết quả, bạn và tôi thường không thực sự tiếp nhận Chúa Giêsu ở mức độ mang lại niềm vui, sự phấn khích, cũng như sự no thoả vô tận sâu sắc nhất. Như Catarina, Têphanô – mặt sáng như mặt thiên thần – cho thấy sự no thoả đó, “Kìa, tôi thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” – bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con!”.

Anh Chị em,

“Ai đến với tôi, không hề phải đói!”. “Bánh Ban Sự Sống” cho con người để nó không còn đói chính là Chúa Kitô, một quà tặng không chỉ có khả năng nâng đỡ tâm hồn và thể xác mà còn lôi kéo chúng ta vào niềm vui bất tận của thiên đàng. “Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng quên rằng, nếu cần phải lo lắng về lương thực, thì điều quan trọng hơn nữa là nuôi dưỡng mối quan hệ của chúng ta với Ngài, củng cố đức tin của chúng ta vào Ngài, “Bánh Hằng Sống”, Đấng đã đến để thoả mãn cơn đói chân lý, cơn đói công lý và cơn đói tình yêu của chúng ta!” – Phanxicô. Đến lượt mình, chúng ta hãy đi, mang theo bánh Giêsu và làm no thoả cơn đói tinh thần và vật chất của anh chị em mình; để như chúng ta, họ cũng ‘mãi no thoả’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con đói lắm! Bao anh chị em con trong thế giới đói lắm! Cho con ‘no Chúa’ và con sẽ đi đến tận mút chân trời, mang bánh Giêsu đến cho anh chị em con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************************

Thứ Ba Tuần III Phục Sinh

Không phải ông Mô-sê, mà chính là Cha tôi đã cho bánh bởi trời, bánh đích thực.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.  Ga 6,30-35

30 Khi ấy, đám đông dân chúng hỏi Đức Giê-su rằng : “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? Ông sẽ làm gì đây ? 31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép : Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”

32 Đức Giê-su đáp : “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, 33 vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” 34 Họ liền nói : “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” 35 Đức Giê-su bảo họ : “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”


 

“Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”- Cha Vuong

Chúc 1 ngày thật mạnh mẽ trong đức Tin, bền vững trong đức Cậy, tràn đầy trong đức Mến nhé. 

Thứ 2, 3PS: 5/5/2025

TIN MỪNG: Họ liền thưa lại rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. (Ga 6:28-29)

SUY NIỆM: Có những người tự nghĩ rằng chỉ cần có đức tin là đủ để được cữu rỗi. Liệu đức tin của họ có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay họ sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác? Còn đức tin của bạn thì sao? Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Vậy thì, đối với bạn, Đức Giêsu Kitô là ai? Bạn mô tả mối quan hệ của bạn với Chúa như thế nào?

    Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, bạn cần phải gạt bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… có những người theo Chúa vì ích lợi riêng… “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Bạn hãy nhớ lời Ngài dạy: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.

LẮNG NGHE: Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi. (Pl 3:8).

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin tăng thêm lòng tin cho con để luôn biết dấn thân làm chứng cho Chúa và sống đức tin cách can trường trong mọi hoàn cảnh.

THỰC HÀNH: Cố gắng tuân theo lời Chúa dạy trở nên hiền hậu và khiêm nhường hơn.

From: Do Dzung

**************************

Con Tin Chúa Ơi – Lm Duy Thiên