“Mua tội” bằng tiền mặt và đất vàng: Đại án Phúc Sơn phơi bày mặt thật chống tham nhũng

Ba’o Dat Viet

May 1, 2025

Trong một vở kịch chống tham nhũng ngày càng trở nên nhàm chán với khán giả, cái tên Hoàng Thị Thúy Lan – cựu bí thư Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc – bất ngờ được nhắc đến với “nỗ lực khắc phục hậu quả” bằng cách… nộp lại tiền mặt cùng hai lô đất, sau khi bị cáo buộc nhận hơn $2 triệu hối lộ từ Hậu “Pháo”, đại gia xây dựng đứng sau tập đoàn Phúc Sơn.

Theo cáo trạng vừa được Viện Kiểm Sát Tối Cao ban hành, bà Lan không chỉ nộp lại 20 tỷ đồng (~$769,000) mà còn “tự nguyện” giao hai lô đất gồm một lô mặt tiền rộng 304 mét vuông và một lô đất kho vận hơn 3,000 mét vuông – một hành động được ca ngợi là “tích cực khắc phục hậu quả.”

Cựu chủ tịch tỉnh Vĩnh Phúc, ông Lê Duy Thành, cũng “tự nguyện” đóng góp không kém phần hào phóng: 15 tỷ đồng cùng $830,000, tất cả để đổi lấy sự khoan hồng từ cơ quan tố tụng. Tổng cộng, các bị can trong đại án này đã nộp gần 119 tỷ đồng và $900,000, không phải để trả lại cho dân mà để… giảm án.

Đáng nói, ông Nguyễn Văn Hậu, tức Hậu “Pháo,” bị cáo buộc đã chi tổng cộng hơn $5 triệu cho loạt quan chức tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ và Quảng Ngãi, nhằm trúng thầu và thâu tóm dự án. Riêng tại Vĩnh Phúc, nơi được xem là “trung tâm lộ sáng” của vụ án, có đến 15 quan chức bị đề nghị truy tố, trong đó có hai cựu bí thư tỉnh và hai cựu chủ tịch.

Cáo trạng tiết lộ chi tiết gây sốc: “Chị có việc, chuẩn bị ngay cho chị 1 triệu Mỹ,” bà Lan thản nhiên yêu cầu. Không cần giấy tờ, không cần ngụy trang, chỉ một cái giơ ngón tay là ông Hậu hiểu ngay: tiền mặt, và chỉ tiền mặt.

Nghe qua tưởng như chuyện kịch bản trong phim, nhưng đây là thực tế tại một địa phương ở miền Bắc Việt Nam. Tài sản quốc gia bị bòn rút trắng trợn thông qua “quan hệ – tiền tệ – hậu tệ,” và khi bị lộ, giải pháp lại là dùng chính phần tiền hối lộ để “khắc phục hậu quả.” Thật trớ trêu, đây được xem là “tình tiết giảm nhẹ,” là lý do để các bị can mong chờ mức án nhẹ nhàng hơn khi ra tòa.

Chống tham nhũng kiểu này chẳng khác nào bật đèn xanh cho sai phạm: “Cứ ăn đi, nếu bị bắt thì nộp lại một ít là xong.”

Trong khi đó, người dân, giới lao động và những ai dám lên tiếng chống bất công xã hội vẫn đang chịu cảnh lao lý, không tiền để nộp “khắc phục hậu quả,” cũng chẳng có đất để tự nguyện hiến tặng. Luật pháp rõ ràng không mù, nhưng dường như luôn chọn cách nhìn theo… số dư tài khoản.


 

Ước mong gì ở Đức Giáo Hoàng tương lai

Tổng hợp báo chí quốc tế  

Tạp chí Tuần Tin – Neweek

Vatican investiges Bishop Joseph E. Strickland, Diocese of Tyler | cbs19.tv

‘Một Người Có Sự Thánh Thiện Cá Nhân Sâu Sắc Trong Thời Đại Hỗn Loạn’

Strickland không nghĩ đến cái tên cụ thể mà ông muốn bầu làm giáo hoàng tiếp theo, nhưng ông có ý tưởng về những phẩm chất cần thiết cho vai trò này.

Ngài phải là người có sự thánh thiện sâu sắc, có tình yêu sâu sắc đối với Chúa Giêsu Kitô và Giáo hội của Người. Ông ấy phải can đảm, sẵn sàng bảo vệ Đức tin mà không thỏa hiệp, đặc biệt là trong thời điểm hỗn loạn”, ông nói.

 

“Người đó cũng phải bắt nguồn từ Truyền thống, với lòng tôn kính phụng vụ thánh, và là một giáo viên rõ ràng, người công bố chân lý trong đức ái nhưng không mơ hồ”, Strickland nói tiếp. “Giáo hội cần một người chăn chiên đoàn kết, không phải bằng cách xóa bỏ sự khác biệt, mà bằng cách kêu gọi mọi tâm hồn trở về với trái tim của Chúa Kitô thông qua lòng trung thành, sự rõ ràng và tình yêu hy sinh”.

“Khi Vatican tỏ ra dung túng cho các hệ tư tưởng thế tục thay vì đối đầu với chúng bằng Phúc âm, điều đó tạo ra sự nhầm lẫn trong số các tín đồ”, ông nói. “Giáo hoàng tiếp theo phải có can đảm để nói sự thật với quyền lực – không chỉ với các chính phủ, mà còn với một thế giới đang mất đi ý thức về Chúa“.

Theo trang mang Thiên Thần – Agelus

Những thách thức mà tân giáo hoàng sẽ phải đối mặt 

Là tác giả của “Witness to Hope”, cuốn tiểu sử bán chạy nhất về Thánh John Paul II, và là thành viên cao cấp lỗi lạc tại Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công của Washington, Weigel nhớ lại rằng John Paul đã bắt đầu Thánh lễ nhậm chức của mình bằng những lời sau: “Ngài là Đấng Christ, Con Thiên Chúa hằng sống”, đưa ra “lời tuyên xưng đức tin Kitô học vững chắc”.

George Weigel: Pope Francis’s First Year - Ave Maria Radio

 “Thách thức đầu tiên đối với giáo hoàng tiếp theo, cũng như bất kỳ giáo hoàng nào, là trở thành một nhân chứng sống động, đáng tin cậy và thuyết phục về Chúa Jesus Christ bằng chính con người của mình”.

… “sẽ rất hữu ích nếu Đức Giáo hoàng một lần nữa trở thành người ủng hộ mạnh mẽ cho quyền tự do tôn giáo trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những quốc gia mà người Công giáo đang bị đàn áp – như Cuba, Venezuela và Nicaragua”, và “chính sách đối với Trung Quốc của giáo hoàng trước đây nên được chôn vùi một cách lặng lẽ dưới thời giáo hoàng (mới)”.

Weigel cũng nhấn mạnh “năng lực quản lý”, một đặc điểm mà giáo hoàng mới cần có để đối mặt với những cải cách đầy thách thức – bao gồm cải cách tài chính.

Theo trang Nội bộ Vatican – Inside Vatican

Trong số những người suy ngẫm về những bài học trong giáo hội có nhà báo Công giáo kỳ cựu người Anh Damian Thompson, ông cho rằng

Có thể chắc chắn, trong các cuộc trò chuyện trước mật nghị, hầu hết các hồng y sẽ đồng ý rằng Giáo hoàng tiếp theo phải là người có khả năng giám sát công việc sửa chữa khẩn cấp nhằm làm rõ giáo lý và phạm vi quyền hạn của giáo hội, đồng thời chấm dứt cuộc thánh chiến chống lại những người Công giáo theo truyền thống.

Giáo hoàng mới phải là một người thánh thiện, người dựa vào những người trung thành không có gì để chê trách và ông cũng không có gì để chê trách — và đây là một sự thật gây sốc rằng điều này sẽ đại diện cho một sự thay đổi so với tiền lệ gần đây. Giáo hoàng(mới) phải không thể có gì đáng bị chê trách. Điều đó quan trọng hơn nhiều so với việc Ngài là một người theo phái “tự do” hay “bảo thủ”.

The Papal Conclave and Experiencing the Dolce Vita in Rome

Conclave ceremony begins at the Vatican The... - Los Angeles Times

Letter #6, 2024, Monday, March 4: Melloni on conclaves - Inside The Vatican

 

 

 

Tân đại sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh là một người cứng rắn

Theo báo Bưu Điện Hoa Nam

Thượng viện Hoa Kỳ đã xác nhận nhà phê bình Trung Cộng lâu năm, ông David Perdue là đại sứ mới của Hoa Kỳ tại Trung Cộng vào thứ Ba, một vai trò quan trọng trong bối cảnh căng thẳng song phương leo thang và cuộc chiến thuế quan căng thẳng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
See the source image
Perdue, 75 tuổi, cựu thượng nghị sĩ Hoa Kỳ của tiểu bang Georgia và là một giám đốc điều hành doanh nghiệp kỳ cựu, đã được xác nhận trong cuộc bỏ phiếu áp đảo,  67-29,  bao gồm một số sự ủng hộ từ cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ.
Sen. David Perdue and his wife Bonnie Perdue are congratulated by ...
Ông được biết đến với quan điểm coi Trung Cộng là mối đe dọa toàn cầu, Perdue gia nhập nhóm làm việc về Trung Cộng của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump , vốn đã đầy những người theo chủ nghĩa diều hâu đối với nước Tàu.

Tại phiên điều trần phê chuẩn vào tháng 4, 2025. Perdue cho biết Hoa Kỳ phải có quan điểm “sắc thái, phi đảng phái và chiến lược” đối với Trung Cộng, và gọi mối quan hệ của Hoa Kỳ với Trung Cộng là “thách thức ngoại giao quan trọng nhất của thế kỷ 21”.

From Georgia To China: Trump Picks David Perdue As Ambassador

Phiên điều trần này lại lặp lại quan điểm của ông rằng Bắc Kinh đang tiến hành “một kiểu chiến tranh mới” chống lại Hoa Kỳ và rằng Trung Cộng gây ra mối đe dọa đối với “trật tự thế giới hiện tại”.


Bắc Kinh không muốn Mỹ chứng kiến ​​nỗi đau do chiến tranh thương mại gây ra

Theo nhật báo Phố Wall

Trung Cộng đã báo hiệu rằng quốc gia này có khả năng chịu đựng nỗi đau của cuộc chiến thuế quan kéo dài tốt hơn Hoa Kỳ. Nhưng những vết nứt đang bắt đầu xuất hiện, cho thấy nỗi đau đó đã ăn sâu vào nền kinh tế của nước này như thế nào.

Thương mại giảm mạnh trên khắp Thái Bình Dương đang dẫn đến việc ngừng sản xuất và đe dọa làm suy yếu sự ổn định việc làm của hàng triệu người Trung Cộng. Vào ngày thứ Tư 30-4-2025, nền kinh tế Trung Cộng đã cho thấy những dấu hiệu đầu tiên về thiệt hại lớn từ cuộc chiến thương mại, với sự sụt giảm các đơn đặt hàng xuất khẩu vào tháng 4 và sản lượng yếu nhất tại các nhà máy của nước này trong hơn một năm.

Các quan chức Trung Cộng đã muốn làm giảm nhẹ mọi bằng chứng về khó khăn, khẳng định lại sự tự tin rằng mục tiêu tăng trưởng khoảng 5% của năm nay sẽ đạt được.

China’s trade war-hit job market to be overseen by special task force ...

Tấm bảng quảng cáo một vị trí công việc với mức lương cơ bản bắt đầu từ 2000-7000 tệ.

Nhưng trong những tuần gần đây, đã xuất hiện nhiều dấu hiệu cho thấy nhiều doanh nghiệp đang phải vật lộn để tồn tại. Các công ty phụ thuộc vào doanh số bán hàng cho thị trường Hoa Kỳ, từ các nhà sản xuất đồ chơi, đồ nội thất và áo phông, đến các nhà sản xuất kim loại và nhà sản xuất thiết bị điện và thiết bị xây dựng, đã đình chỉ sản xuất và cho nhân viên nghỉ việc. Những công ty cần tìm nguồn cung ứng linh kiện của Hoa Kỳ để sản xuất, chẳng hạn như các nhà máy bán dẫn và nhà sản xuất ô tô, đã phải vật lộn để duy trì hoạt động.

Một số chủ doanh nghiệp đã ví sự gián đoạn này giống như việc ngừng sản xuất trong đại dịch Covid – đồng thời cảnh báo rằng triển vọng lần này có vẻ ảm đạm hơn. “Mọi người tôi biết đều lo lắng,” Feng Qiang , người gần đây đã cho hàng chục công nhân tại nhà máy máy móc khiêm tốn của mình ở tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Cộng, nghỉ phép vì đơn hàng từ khách hàng Mỹ của ông bị hủy, cho biết. “Không thấy hồi kết.”Người phụ nữ đang chất những chiếc hộp lên xe đẩy ở một khu chợ.

Các gói hàng đang được chuẩn bị để vận chuyển tại một chợ bán buôn ở miền đông Trung Cộng. Ảnh: Andrea Verdelli cho WSJ

Nỗi đau đối với Trung Cộng có thể sẽ sâu sắc hơn. Một phần là do nước này đã tăng cường, thay vì giảm bớt, sự tập trung vào xuất khẩu như một nền tảng của nền kinh tế. Ting Lu , nhà kinh tế trưởng về Trung Cộng tại công ty tư vấn tài chánh Nomura, lưu ý trong một báo cáo nghiên cứu mới rằng xuất khẩu tăng vọt trong vài năm qua đã giúp Trung Cộng tránh được cuộc khủng hoảng tài chính khi bong bóng bất động sản làm suy yếu đầu tư và tiêu dùng, gây căng thẳng cho tài chính chính phủ và gây áp lực lên các ngân hàng.

Tác động lớn nhất của thuế quan sẽ là đối với các công việc gắn liền với thương mại; số lượng lớn công nhân trong ngành sản xuất; sản xuất nguyên liệu thô; và các dịch vụ như hậu cần và tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho dòng chảy thương mại. Lu của Nomura dự đoán rằng thuế quan của Trump sẽ khiến Trung Cộng mất tới 15,8 triệu việc làm.

Công nhân lắp ráp các thiết bị điện tử nhỏ trên dây chuyền sản xuất của nhà máy.

Công nhân lắp ráp các thiết bị điện tử nhỏ tại một nhà máy ở miền nam Trung Quốc. Ảnh: Gilles Sabrié cho WSJ

Nay lại có nghĩa là “nền kinh tế sẽ phải đối mặt với hai lực cản lớn cùng một lúc”. (Bong bóng bất động sản và Thuế quan tariff.)

Các nhà phân tích kinh tế tài chánh nói rằng khó có thể cường điệu hóa tầm quan trọng của thương mại Hoa Kỳ đối với nền kinh tế Trung Cộng. Tổng kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 13% tổng sản phẩm quốc nội của Trung Cộng, trong đó hàng xuất sang Hoa Kỳ ước tính chiếm khoảng 3% GDP của Trung Cộng.

“Tập Cận Bình ngày nay có cùng quan điểm với Mao,” một cố vấn của chính phủ Trung Cộng cho biết. “Điểm mấu chốt của ông ấy là không được phép có bất kỳ cuộc khủng hoảng lớn nào gây nguy hiểm cho quyền lực của ông ấy.”

Các nhà kinh tế cảnh báo rằng việc xuất khẩu giảm sẽ gây ra hiệu ứng dây chuyền trên toàn nền kinh tế Trung Cộng, khiến hàng triệu việc làm bị mất và có nguy cơ dẫn đến suy thoái kinh tế khó có thể thoát ra trong nhiều năm tới.


CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

 Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

 Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài.  Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ.  Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế. 

Hành vi không bình thường

Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô.  Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ.  Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó.” 

Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó.”  Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài.  Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra. 

Thái độ của Phêrô rất là tức cười.  Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!  Tại sao vậy?  Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?

 Cách hành xử của Đức Giêsu 

Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ.  Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ.  Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương. 

“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây.”  Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ?  Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.

 Tại sao lại là con số 153 con cá?  Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được.  Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.

 Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai,” vì tất cả đều biết đó là Chúa.  Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai.”  Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.

 Số phận và thái độ cần có của con người 

Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”  Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không,” chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời.  Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”  Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy,” và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần.  Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy.”  Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối.  Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa.”  Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa.  Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.

 “Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn.”  Phêrô được ơn biết tương lai mình.  Còn những người khác?  Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta.  Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.

 “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta.”  Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy.  Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình.  Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.

 Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

From: Langthangchieutim

THUỞ ĐI BAY – Minh Thảo Elizabeth Hoàng

Minh Thảo Elizabeth Hoàng

Posted by GLN

Lời Tác giả: Thấy tin tức mấy cô Tiếp Viên Hàng Không của Việt Nam bây giờ đi bay mà mang hàng quốc cấm coi như đời tàn. Nhất là thời buổi văn minh hiện nay đồ đạc đều qua máy kiểm soát họ thấy tất cả mọi thứ rất rõ.

Ngoài ra tất cả các phi trường luôn luôn nhắc nhở hành khách không nên giữ đồ hay mang đồ giùm cho bất cứ người nào mình không quen biết.

Mấy cô Tiếp Viên này đủ thông minh để hiểu.

Cho nên tôi ngẫu hứng viết về Air Việt Nam trước năm 1975 để nhiều người hiểu thêm về công việc của các Tiếp Viên Hàng Không Air Việt Nam [Cộng Hòa] trước kia mà tôi đã từng làm và trong thời gian tôi làm chưa từng thấy Tiếp viên Hàng Không của Air Việt Nam mang đồ quốc cấm. 

Trân trọng.

Minh Thảo Elizabeth Hoàng.

Khi còn nhỏ, mỗi lần tôi theo gia đình ra phi trường đón người nhà. Tôi thích ngắm nhìn các nữ Tiếp Viên hàng không của Air Việt Nam mặc đồng phục với chiếc áo dài màu xanh da trời, đầu đội mũ thêu con rồng, tay đeo bao tay trắng trông đẹp và dễ thương làm sao.

Các cô khi thì đi riêng, khi thì đi từng nhóm với phi hành đoàn.

Tôi ước ao không biết bao giờ tôi cũng được đi bay như họ để được đặt chân tới những nước văn minh trên thế giới để được tận mắt ngắm nhìn những thành phố đồ sộ với những công trình kiến trúc độc đáo, những chiếc cầu vắt chéo chạy ngang dọc hay thăm viếng những di tích lịch sử tôi từng đọc trong sách vở.

Tuy máy bay Air Việt Nam không đi những nước Âu Châu, nhưng mỗi khi đi vacation, tiếp viên phi hành đoàn hay đi ngoại quốc vì vé máy bay được giảm giá tới 90% cho các nhân viên phi hành đoàn theo luật lệ hàng không.

Một hôm chị bạn thân của tôi học Đại học Luật khoa trước tôi đang làm việc cho văn phòng hành chánh của Air Việt Nam cho tôi biết Air Việt Nam đang tuyển lựa Tiếp Viên Hàng Không. Chị thúc dục “Thảo ghi tên đi thi đi, người như bạn nên làm nghề này”.

Tôi liền ghi tên dự thi. Điều kiện ưu tiên là phải đẹp, cao từ 1 mét 55 trở lên, nói được hai thứ tiếng Anh và Pháp. Trình độ học thức Tú Tài trở lên.

Trước tiên tôi phải gặp một vị của Air Việt Nam phỏng vấn. Khi được vị này chấp nhận thì tôi mới chính thức qua 8 vị giám khảo khác gồm cả nam lẫn nữ phỏng vấn. Các vị này thay phiên mỗi người đặt một câu hỏi để dò xét sự hiểu biết của tôi.

Thấm thoắt hôm nay đã đến ngày phỏng vấn. Tôi đứng trước tủ áo lưỡng lự không biết chọn chiếc áo nào mặc cho hợp với thời tiết và nước da của tôi.

Ướm thử từng cái áo trên người cuối cùng tôi chọn chiếc áo dài màu vàng anh, quàng chiếc khăn voan trắng ngà quanh cổ. Tôi trang điểm chút phấn hồng trên hai má, đánh son môi màu hồng nhạt, đánh mascara trên hai hàng lông mi. Ngắm nhìn mình trong gương tôi tạm ưng ý và ra khỏi nhà.

Khi vào phòng để gặp các vị giám khảo, tôi hồi hộp thấy họ nhìn tôi chăm chú. Tôi cố gắng bình tĩnh mỉm cười chào ban giám khảo và tập trung trả lời những câu hỏi của họ.

Cuối cùng tôi đã pass cuộc thi và được đưa đi may đồng phục, họ cho mũ, giầy, bóp đều do hãng Air Việt Nam đài thọ.

Họ phát cho chúng tôi mỗi người một vali nhỏ sách tay để đựng đồ đạc khi đi bay.

Sau đó chúng tôi phải qua một khóa huấn luyện cứu thương do một y tá chuyên môn dậy và hướng dẫn. Môn học này phần lớn ai cũng pass.

Air Việt Nam cũng huấn luyện chúng tôi cách mở phao và những dụng cụ khẩn cấp khi máy bay lâm nạn.

Kế chúng tôi phải đi bay tập sự trong ba tháng cách bưng đồ ăn, cách đọc thông báo trước khi máy bay cất cánh và trước khi máy bay đáp xuống phi trường dưới sự kiểm soát của mấy chị làm lâu năm trong ngành (Chef–de–cabin).

Sau ba tháng tôi đã pass lúc đó mới chính thức được đi bay và làm lâu năm tôi cũng trở thành Chef–de–cabin khi đi bay cùng với những tiếp viên mới vào nghề.

Chương trình sắp xếp đi bay chúng tôi phải bay xen kẽ đường bay quốc nội và quốc ngoại. Khi tôi làm lâu năm được đi bay đường quốc ngoại nhiều hơn.

Tuy nhiên chúng tôi phải pass khóa bơi và lặn do Hàng Không Dân Sự chấm điểm vì đường bay ngoại quốc như Hồng Kông sân bay ngay bờ biển, cũng như để biết ứng phó khi phi cơ khẩn cấp phải đáp xuống biển.

Khi đi thi bơi thật vui. Vì có vài anh biết bơi nhưng không lặn được, người cứ nổi lềnh bềnh trên mặt nước dù rán làm nhiều lần, nước mắt nước mũi chảy ra thật thảm.

Vì vậy mấy ông chấm điểm nói “cứ nhìn sâu dưới đáy hồ thấy tơ lụa, vải vóc thì người sẽ chìm.” Vì khi đó đi đường bay Hồng Kông và Đài Loan mang vải vóc về bán rất có lời.

Tôi đứng trên bờ phì cười nhưng cũng lo không biết mình lặn được nửa hồ bơi theo sự đòi hỏi hay không. Tới phiên tôi, tôi suy nghĩ đánh liều lên đứng trên cầu cao nhảy xuống chắc chắn thân mình sẽ chìm. Tôi nín thở qươ tay lặn qua hẳn bờ hồ phía bên kia lúc nào không hay. Tôi đã pass và chính thức đi bay.

Thời đó Air Việt Nam chỉ có phi cơ Caravel đi ngoại quốc. Sau này bay tới Nhật Air Việt Nam mới có thêm máy bay Boeing mới. Những đường bay quốc ngoại gồm có Nhật, Thái Lan, Singapore, Hồng Kông, Taiwan, Cambodge và Lào. Phần lớn những đường bay ngoại quốc phi hành đoàn phải ngủ qua đêm. Chúng tôi đều có phòng riêng biệt ở Hotel để ở.

Đường bay trong nước là máy bay mướn của Đài Loan, phi công cũng người Đài Loan lái. Máy bay cũ nên hay bị trục trặc, phải sửa nên hay trễ giờ.

Bởi vậy dù ngày phòng hờ (stand by) của tôi nhưng luôn luôn bị gọi đi bay. Nhiều khi tôi muốn nghỉ cũng không được.

Vào thời kỳ tôi làm việc, máy bay Caravel do phi công người Việt Nam lái, Máy bay Boeing do người Mỹ lái và máy bay mướn của Đài Loan do phi công người Đài Loan lái.

Mấy ông Phi công Đài Loan đi bay đường quốc nội, ham ăn hết sức. Mỗi lần tới sân bay họ toàn gọi đồ ăn Tàu mắc tiền để ăn trưa. Tôi nhìn không ăn nổi vì mệt. Nên chỉ ghé quán ở phi trường ăn bún bò hay vài cái nem chua là xong bữa ăn hoặc có khi chẳng ăn gì ngoài uống nước trái cây. Cho nên hồi đó tôi rất eo và mảnh khảnh.

Tất cả những chi phí ăn uống đều được hãng Air Việt Nam đài thọ.

Chúng tôi phi hành đoàn có thể mua hàng hóa ngoại quốc với một mức lượng cho phép. Nếu quá tải sẽ phải đóng thuế hay bị phạt tùy theo loại hàng hóa.

Đường bay Lào, vàng nổi tiếng tốt và rẻ, nhưng chỉ có thể mua đồ trang sức chút đỉnh thôi. Có một tiếp viên hàng không phái nam mới đi bay đã dát vàng mỏng bó vào giầy để che mắt quan thuế đã bị bắt và bị đuổi khỏi hãng. Quan thuế và kiểm nã họ rất tài tình, rất chuyên nghiệp khó có ai qua mặt họ được và họ có đủ dụng cụ để kiểm soát dù bạn cất giữ đồ bất cứ ở đâu.

Về an ninh kiểm soát ở phi trường rất khó khăn. Mọi người phải qua tới 3 cửa ải, trước tiên là quan thuế, thứ hai là kiểm nã và cửa ải cuối cùng ở ngoài sân bay là cảnh sát.

Cho nên khó có ai thoát nếu giấu giếm hay mua đồ quốc cấm.

Vào dịp Noel hay Tết mấy vị này nhờ chúng tôi mua đồ ở ngoại quốc giùm. Chúng tôi không bao giờ tính tiền, chỉ là những món quà nho nhỏ cho vui vẻ.

Thông thường đi những chuyến bay quốc ngoại tôi phải có một người khiêng đồ giúp tôi để mang hành lý ra xe. Những người này làm hãng trả lương để giúp phi hành đoàn. Tôi phải chọn một người vui vẻ, nhanh nhẹn giúp riêng tôi. Dù rơi vào những chuyến bay không đúng giờ cho người này làm nhưng họ vẫn tới phi trường có mặt để giúp tôi. Họ rất vui làm việc cho tôi nhưng tôi luôn luôn không quên cảm ơn họ bằng cách mua những món quà ngoại quốc hay đồ chơi cho con cái họ hoặc đồ dùng cho gia đình họ. Những món quà này thật sự chẳng đáng giá gì nhưng rất quý đối với họ vào thời buổi lúc đó.

Chúng tôi phi hành đoàn không bao giờ kéo vali lớn hay khiêng đồ đạc.

Khi ra khỏi máy bay chúng tôi chỉ đeo trên vai một cái bóp và kéo theo một chiếc vali nhỏ đựng đồ lặt vặt như kiếng, telephone vân vân như quý vị ra phi trường đều thấy tất cả các tiếp viên phi hành đoàn của các công ty ngoại quốc ở phi trường đều làm như vậy. Đồ đạc của phi hành đoàn sẽ do các người khuân vác của Air Việt Nam mướn để giúp chúng tôi mang vào phi trường cho quan thuế kiểm soát rồi mới được mang ra xe.

Một hôm tôi bay trên chuyến DC4 đi Đà Nẵng. Khi đáp xuống phi trường thì thắng không ăn nên đoàn cứu cấp phải quăng những giây cáp dưới bánh xe phi cơ để giữ phi cơ lại đã làm cho một bánh xe phi cơ bị gãy. May mắn phi trưởng nhanh trí đã cho máy bay chạy trên những thảm cỏ và đất bên cạnh phi đạo. Bụng máy bay đã sụt sâu dưới đất nên máy bay mới dừng lại. Xe cứu hỏa, xe cứu thương bóp còi inh ỏi chạy tới giúp hành khách thoát ra khỏi máy bay gấp rút để tránh hỏa hoạn. Tôi và phi hành đoàn vẫn phải bình tĩnh để giúp đỡ hành khách ra khỏi máy bay và chúng tôi ra sau cùng. Cảnh tượng lúc đó không khác gì những cảnh phi cơ lâm nạn chiếu trên màn hình. Tất cả phi hành đoàn và phần lớn hành khách được an toàn, chỉ có mấy người bị thương nhẹ mà thôi.

Tôi cảm ơn Thượng Đế đã cho tôi thoát khỏi tai nạn này.

Tôi bước ra khỏi máy bay, mũ bóp đều mất, tóc tai bù xù và sau đó đã được máy bay của MỸ giúp đưa chúng tôi về Sài Gòn lại. Tuy nhiên cá nhân tôi chẳng thấy Air Việt Nam gửi chúng tôi đi nhà thương để kiểm tra sức khỏe. Thật thiếu sót.

Tôi thấy nghề làm tiếp viên hàng không cũng rất nguy hiểm. Tôi tự hỏi không biết có nên tiếp tục đi bay nữa hay không. Chưa kịp hoàn hồn thì hai ngày sau lại có giấy báo cần tôi đi bay gấp vì thiếu người. Tôi đi làm trở lại và tự an ủi và nghĩ rằng tất cả chúng ta đều có số mệnh. Nhất là thực tế mưu sinh cần giúp đỡ cho gia đình và bản thân tôi đã thắng thế. Tôi đi bay trở lại cho tới khi lập gia đình với chồng tôi.

Người yêu của tôi yêu cầu sau khi làm đám cưới anh muốn tôi nghỉ bay vì không muốn vợ đi xa vắng nhà vì những chuyến bay ngoại quốc phải ngủ qua đêm. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh vì tôi thấy gia đình hạnh phúc là quan trọng hơn tất cả. Mặc dù đi bay tôi có đồng lương khá cao.

Theo tôi khi đã yêu, kiếm được người yêu lý tưởng hợp với mình thì phải biết giữ lấy hạnh phúc dù phải hy sinh về vật chất.

Blaise Pascal đã nói “Hạnh phúc duy nhất trên đời là Yêu và được Yêu”

Minh Thảo Elizabeth Hoàng

Hồi ký – Nguyễn Hiến Lê

Thienlong Nguyen 

( Hồi kí của một người cảm tình sâu sắc với kháng chiến,  với Miền Bắc VNDCCH, một đại trí thức  Miền Nam- Học giả uyên bác  Nguyễn Hiến  Lê )

THẤT BẠI TRONG HÒA BÌNH

Mấy tháng đầu sau ngày 30-4-75, các bạn kháng chiến, già cũng như trẻ, nhất là trẻ, đều có tâm lý chung là hăm hở hưởng thụ sau mấy chục năm gian khổ sống chui, sống nhủi trong rừng, trong bụi, dưới hố dưới hầm. Đành rằng phải bắt tay ngay vào việc kiến thiết, nhưng đã có đường lối sẵn rồi, có kinh nghiệm 20 năm ở Bắc thì không có gì khó; vả lại đã thắng được Mỹ, thành cường quốc thứ ba trên thế giới, sau Nga và Trung Hoa thì có việc gì mà làm không được, chỉ trong 5 năm sẽ tiến bộ, 20 năm sẽ đuổi kịp Nhật Bản về kinh tế.

Đồng chí Lê Duẩn - nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam

Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ đã không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”

Thời chiến hễ nung được lòng yêu nước của quốc dân rồi, giữ cho lòng đó đừng giảm, quốc dân kiên trì chịu đựng được tới phút chót thì không còn vấn đề gì nữa: thiếu cái gì đã có Nga, Trung Hoa cung cấp cho; trái lại trong thời bình mới phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, ngoại giao, kinh tế, nhất là kinh tế. Nước ta nghèo, thiếu vốn đầu tư thiếu kỹ thuật gia, khó phát triển kinh tế mau được. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của cách mạng sụp đổ.

Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.

KHÔNG ĐOÀN KẾT

Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mỹ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ 6, 7 tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài Gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Đào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.

Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc.

Có nhiều nguyên nhân.

Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “ngụy” hết, trụy lạc, bị nhiễm độc nặng của Mỹ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến rằng dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi Họ chỉ nhìn bề ngoài, chỉ thấy một số thanh niên híp pi, lêu bêu ở ngoài đường; tôi phải giảng cho họ hiểu rằng đó chỉ là thiểu số, chứ đại đa số người trong này ghét Mỹ, ghét văn minh Mỹ, có thể nói gia đình nào cũng có người có cảm tình với kháng chiến, giúp kháng chiến cách này hay cách khác, nếu không vậy thì làm sao kháng chiến thành công được. Chỉ nội một việc biết người nào đó là kháng chiến mà không tố cáo cũng đủ có công với kháng chiến, chớ đừng nói là còn che chở, giúp tiền bạc, tiếp tay cho nữa. Chỉ trừ một số phản quốc, theo Mỹ, Thiệu triệt để vì quyền lợi, còn thì không có gia đình nào trong Nam là ngụy cả. Một số người yêu nước, có tư cách, mới đầu gia nhập kháng chiến, sau vì lập trường chính trị, phải rời hàng ngũ, về thành, mà không ưa Pháp, Mỹ, hạng đó không nên coi người ta là ngụy. Bọn thanh niên hư hỏng chỉ ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.

Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mỹ thì cái gì cũng làm được.Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lý, anh đừng nói nữa”.

Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kỹ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau … Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…

Chợ trời | Sài gòn thập cẩm

 

Trong mỗi cơ quan ở Sài Gòn cũng có sự chia rẽ. Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn “nằm vùng” cũng không ưa bọn tập kết về đó; bị khinh nhất là bọn ngụy được tạm dùng lại, mà bọn này thạo việc hơn hết. Chỉ vì thiếu đoàn kết cho nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và ở Bắc có câu này: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.

CHỢ TRỜI SAU 1975 ĐẢNG cs CƯỚP SÀI GÒN - THÔNG TIN-VĂN HÓA

BẤT CÔNG

Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn thời trước nhiều.

Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Ly để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả.

Một ông bạn tôi bảo có vô nhà thương mới thấy có cả chục (sic) giai cấp bệnh nhân, tùy giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao, trị bệnh ra sao, cấp thứ thuốc nào v.v.

Người chết cũng phân biệt giai cấp khi đăng cáo phó: cán bộ thường thì được mấy phân trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân; lời cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Đúng là đường lối Staline.

Sài Gòn được giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí v.v.) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?

Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn bằng 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng kỳ cục như vậy (2). Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay trở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!” Kravchenko (trang 185) nói chính phủ Nga bắt dân đói để dân biết phép chính phủ mà phải răm rắp tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp dụng cho những kẻ thù của chế độ thôi, tức bọn ngụy quân ngụy quyền còn ở trong một số trại cải tạo.

kinh tế việt nam thời bao cấp

Giành giật mua hàng nhu yếu phẩm ở mậu dịch quốc doanh.

THIẾU KỶ LUẬT

Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng, nên không có kỷ luật, dưới không tuân trên, loạn.

Chương trên tôi đã nói tới cái tệ mỗi tỉnh là một tiểu quốc, địa phương tự do tới mức không tuân lệnh trung ương (ngay xã cũng không tuân lệnh tỉnh, huyện), lấy lẽ rằng chỉ địa phương mới hiểu tình trạng của địa phương, cấp trên không nên xen vào; cái tệ nhân viên được lệnh đi công tác mà không đi, nằm ỳ ở nhà, một tuần sau trở lại sở, trả sự vụ lệnh mà không bị khiển trách; cái tệ nhân viên muốn bỏ sở về giờ nào thì về, lấy cớ là phải kiếm gạo, chủ nhiệm đành làm thinh, chứ không biết đáp sao.

Tôi kể thêm một trường hợp nữa. Ông giám đốc một cơ quan nọ đến tuổi về hưu, bảo người giúp việc: “Tôi sẽ không về, về thì mất hết quyền lợi: xe hơi, “bìa” (sổ đặc biệt để mua nhu yếu phẩm), nhà ở v.v. mà còn bị xã ấp nó ăn hiếp, hoạnh họe cái này, cái khác; không, tôi không về”. Một ông giám đốc mà sợ công an ấp vì công an có quyền bắt ai thì bắt, giam ai thì giam. Một viên công an bảo: “Tôi làm việc 4, 5 năm rồi, mà bây giờ mới biết quyền hạn của tôi, từ trước tôi muốn làm gì thì làm”.

Vì mất kỷ luật, cho nên thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự: ở miền Nam trốn tới 90%, có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ, đưa họ ra mặt trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài họ được, gạo đâu mà nuôi? Họ sống yên ổn ngay ở làng vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn đào ngũ thì toàn quốc tới 25%. Trước kia người ta hy sinh để giành độc lập; bây giờ độc lập rồi lại đánh nhau với nước anh em, người ta không hăng hái nữa.

Nghe nói ở một tỉnh nọ, viên giám đốc sở tài chánh kiêm giám đốc ngân hàng (?) ôm 60 lượng vàng cùng với 30 viên công an xuống một chiếc tàu của chính phủ, mang theo đầy đủ khí giới (và không biết bao nhiêu lượng vàng nữa) để vượt biên. Tin đó chưa lấy gì làm chắc nhưng chuyện công an – cây cột chống đỡ chế độ – ôm vàng vượt biên thì mấy năm nay nghe thường quá rồi.

Tinh thần vô kỷ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không. Người ta cấm đánh trẻ – điều đó có thể hiểu được – cấm nghiêm khắc với trẻ, chúng nghỉ học thì lại nhà mời chúng đi học; chúng làm biếng thì không bị phạt mà cô giáo bị trách là dạy dở. Kỳ tựu trường có nơi còn tổ chức múa lân, đốt pháo để dụ trẻ em đi học nữa. Cô giáo nào mời được ít trẻ thì bị rầy. Riết rồi cô giáo ngán dạy quá, cứ tự ý nghỉ bừa, hiệu trưởng phải tới nhà năn nỉ, nếu không thì lỗi ở hiệu trưởng chứ không phải ở cô giáo. Và người ta ngán luôn cả nghề sư phạm: dốt hoặc muốn tránh nghĩa vụ quân sự mới phải thi vô sư phạm.

Kỷ luật như vậy, trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một số cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.

KÍNH TẾ SUY SỤP

Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt Nam trước thế chiến tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát (phosphate) phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.

Sau 30/4/1975, Chính Quyền VNCH Để Lại Nhiều Vàng Và USD, Tại Sao Nước ...

Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau 20 năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70% (3); có hồi gạo quý tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày Tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà.

Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai … đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường. Nhưng một người Ba Lan trong ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo … về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.

Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu

Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.

Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ … để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.

Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quỹ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, Tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kỳ một dịp gì cũng liên hoan được: một bạn đồng nghiệp được ban khen, ngày tựu trường, bãi trường, họp bạn để học tập, ban hành hiến pháp mới, làm xong một công tác, mỗi ngày lễ, Tết … mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít.

Cơ quan nào cũng có đủ nhà bếp, chén đĩa, xoong chảo, người làm bếp (lựa trong nhân viên) để nấu ăn làm tiệc Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn cho thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô Tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.

Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường Đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn. Hỏi như vậy làm sao chịu được, ông ta nhún vai đáp: “Lâu rồi quen đi” Không nên trách ông ta. Dù muốn sống sạch cũng không thể được: đâu có vôi để quét tường? đâu có xà bông để rửa sàn? đâu có giẻ để lau? Nước thì có nhưng phải xuống dưới sân để hứng rồi xách lên 5-6 chục bực thang, ai mà không ngại?

Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế – mà trước kia họ sống rất sạch – mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh 4, 5 người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.

Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.

Năm 1978, chính quyền Bắc … ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam…, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lý, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo. (Nguyến Hiến Lê tâm sự)

Nguyễn Hiến Lê

————————

( Nguồn: FB Sơn Bùi )

 


 

VÔ NGẦN VÔ HẠN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn!”.

“Lạy Chúa, xin cứ quấy rầy con, thúc bách con dám táo bạo hơn, lao ra những vùng biển lớn, nơi bão tố thể hiện quyền làm chủ của Chúa; nơi mất đất liền, con sẽ lần dò những vì sao! Xin đẩy lùi chân trời hy vọng của con ở người đời; giục con hướng tới một tương lai chỉ biết cậy trông vào Chúa, vào sức mạnh, khôn ngoan và tình yêu, những quà tặng vô ngần vô hạn của Ngài!” – Sir Frances Drake.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến những quà tặng vô giá mà Sir Frances Drake đề cập, đó là những gì Thần Khí Đấng Phục Sinh tặng trao những ai thuộc về Ngài – “Đấng được Thiên Chúa sai đi” – Đấng mà “Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người ‘vô ngần vô hạn!’”.

Hãy nhìn vào Hội Thánh sơ khai, nhìn vào các tông đồ để thấy sức mạnh nội tại của Thần Khí được ban! Trước thượng hội đồng, Phêrô và các tông đồ bị tra vấn về việc đã rao giảng một Đức Kitô tử nạn và phục sinh; các ngài đã ngoan cường lên tiếng, “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm!” – bài đọc một. Những lời ấy chỉ có thể phát xuất từ những con người đầy Thần Khí, tuyệt đối tin tưởng vào Ngài. Thánh Vịnh đáp ca xác tín, “Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời!”.

Chúa Phục Sinh sẽ không dè sẻn khi phân chia món quà Thánh Thần cho bất cứ ai! Ngài ban tặng Thánh Thần cách ‘vô ngần vô hạn’. Nhờ Thánh Thần, Ngài nâng toàn bộ cuộc sống chúng ta lên một bình diện khác, bình diện ân sủng. Sự hào phóng của Ngài, trước hết, thể hiện trong Bí tích Thánh Thể. Mỗi khi chúng ta tiếp nhận Mình Máu Thánh, Chúa Phục Sinh để lại trong tâm hồn chúng ta một sự đổi mới; đồng thời, giúp chúng ta đào sâu sự hiện diện của Thánh Thần trong cuộc sống. Hiệp thông với Thánh Thể, thân xác và linh hồn chúng ta hưởng nếm sự bất tử của mầu nhiệm Phục Sinh.

Thánh Thần là món quà hiệp nhất, cung cấp thuốc giải độc cho mọi khuynh hướng chia rẽ; chống lại sự kiêu ngạo, ích kỷ, bằng cách nhắc nhở chúng ta về sự khiêm nhường; thúc đẩy chúng ta sống bác ái, ban sức mạnh để mỗi người cho đi “Giêsu”, quà tặng ‘vô ngần vô hạn’ đã lãnh nhận, mà không tính toán hay kiết cáu.

Anh Chị em,

“Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn!”. Bởi Thánh Thần, Chúa Giêsu đi vào trần gian, hoạt động trong Thánh Thần; khi trút hơi thở, Ngài “trao Thần Khí”. Cũng thế, nhờ Thánh Thần, các tông đồ và con cái Giáo Hội hai ngàn năm qua không ngừng “lao ra những vùng biển lớn, bất chấp bão tố”. Bởi lẽ, Thánh Thần là tình yêu, sức mạnh và là món quà tuyệt hảo của Đấng không tính toán; trái lại, ban ân sủng của Ngài cách hào hiệp. Và tất nhiên, Ngài cũng đang chờ đợi sự đáp trả của bạn và tôi là những người vốn không cần “lần dò những vì sao”, chỉ cần ngoan nguỳ dưới bàn tay của Thánh Thần để hoàn tất những gì Chúa Phục Sinh còn dang dở; đó là trở nên chứng tá “hướng đến một tương lai” đầy sự hiện diện của Thiên Chúa trong một thế giới loại trừ Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con thoả mãn với những con cá quèn của ao đầm! Dạy con lao ra những vùng biển lớn; với Thánh Thần, con đánh bắt từng mẻ linh hồn về cho Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************************************************

Thứ Năm Tuần II Phục Sinh

Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người.  

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 3,31-36

31 “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người ; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người ; 32 Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. 33 Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. 34 Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. 35 Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. 36 Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời ; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.”


 

Ngày 30/4 của Phạm Xuân Ẩn

Tác Giả: Đàn Chim Việt

30/04/2025

Tuần báo Newsweek đã miêu tả về ngày 29-4 của Phạm Xuân Ẩn – người được đánh giá là “nhân vật của Thế kỷ XX” một “Điệp viên hoàn hảo”, một “Người Việt trầm lặng” sau này mới rõ dần chân dung ông. Còn ngày 29-4 ấy trong một biến động được miêu tả là “cuộc tháo chạy tán loạn”, là ”Sài Gòn sụp đổ “, thì ông Ẩn đã làm gì?

Tờ Newsweek viết về việc Phạm Xuân Ẩn đã cứu trùm cảnh sát mật vụ của chế độ Sài Gòn, bác sỹ Trần Kim Tuyến, đi được chuyến bay cuối cùng di tản khỏi Sài Gòn như thế nào? “Tuyến sẽ bị giết chết nếu ông ta còn ở lại”, Newsweek viết.

Khi ông Tuyến cuống cuồng gọi điện cho Sứ quán Mỹ tìm sự giúp đỡ của CIA thì được trả lời là tất cả đã đi hết. Quá hoảng sợ lo cho tính mạng, ông quay lại tìm người bạn thân Phạm Xuân Ẩn, một phóng viên báo Time nhiều quyền lực và có mối quan hệ rộng vào bậc nhất Sài Gòn.. Ông Ẩn vội đưa Tuyến lên chiếc xe của mình tới Tòa Đại sứ Mỹ kiếm tìm cơ hội cuối cùng nào có được.

Nhưng cảnh tượng thật hãi hùng. Tòa đại sứ đông nghẹt những người cầu cứu hoảng loạn. Chiếc xe cũ Renault của ông Ẩn không sao len vào được… Gọi điện khắp các địa chỉ cần thiết khác trong thành phố, cuối cùng ông Ẩn liên lạc được với một nhà báo Mỹ có thể nhắn cho Tòa Đại sứ… Nhờ thế họ mới biết được còn chuyến di tản cuối cùng của CIA tại ngôi nhà của CIA ở đường Gia Long, nơi đã diễn ra biểu tượng cuối cùng của Sài Gòn sụp đổ.

Ở tòa nhà này, họ cũng suýt nữa thì trượt chuyến đi. Khi xe của ông tới nơi, cánh cửa thép của tòa nhà đã đóng lại để tránh dòng người có thể ập vào. “Đề nghị cho gọi ông Polgar”. Ẩn yêu cầu được gặp người sếp mà ông quen. Nếu gặp được Polgar chắc chắn ông ta biết được câu chuyện trầm trọng của ông Tuyến, sẽ giải quyết ngay. Nhưng người lính gác không chịu gọi.

Vừa may lúc vợ của người lính gác mua đồ ăn đến, cánh cửa hé ra cho bà ta vào. Thế là ông Ẩn một tay giữ chặt cửa, tay kia đẩy thật mạnh bạn mình vào lọt. Tờ Newsweek kết luận: “Thế là, vị trùm cảnh sát mật vụ Sài Gòn đã được một điệp viên của Hà Nội cứu thoát, leo lên mái nhà để lên máy bay đi di tản.”

Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn: Biểu tượng của hòa bình và hòa hợp - Ảnh 2.

Khi tất cả phóng viên của Time được sơ tán trước ngày Sài Gòn thất thủ ngày 30/4 /1975, Phạm Xuân Ẩn là người ở lại. Ảnh tư liệu đăng ở Afamily Magazine.

Chuyện gì đã xảy ra sau đó? Vợ con ông Ẩn đã đi theo người của báo Time. Để rồi sau này lại phải vất vả mới về lại Sài Gòn. Chỉ còn mình ông ở lại vì chưa có mệnh lệnh nào. Ông không đi, bởi “ngoài việc đất nước đang sang giai đoạn mới, đã đẩy được người ngoại quốc chiếm đóng ra khỏi xứ sở, còn lý do nữa là mẹ tôi đã quá già yếu không thể đi được”. Đó là lời ông Ẩn trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài.

Vào năm 1992 khi tôi bắt đầu viết cuốn sách đầu tiên đưa Phạm Xuân Ẩn ra ánh sáng, mãi tới 10 năm sau mới in được, cuốn “Phạm Xuân Ẩn — Tên người như cuộc đời”, một công việc có ý nghĩa trong đời viết lách của mình, tôi đã phỏng vấn Phạm Xuân Ẩn về ngày 30-4 ở Sài Gòn.

Vì sao ông Tuyến lại rơi vào cảnh đó, khi mà ông ta là người đứng đầu bảng danh sách số người mà Mỹ phải đưa đi? Phạm Xuân Ẩn tả lại: “Ông ta là nhân vật thứ ba sau Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Làm giám đốc Sở Nghiên cứu Văn hóa Chính trị Xã hội, người Mỹ gọi là Sở Mật vụ. Trong suốt cuộc đời tôi hoạt động dưới vỏ bọc làm một nhà báo của Mỹ, ông mến tôi. Sau đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963, ông ta cũng bị bắt. Ông ta đi cùng chuyến máy bay với ký giả Stanley Karnow từ Hồng Kông về và bị bắt ngay trước mắt Stanley. Sau lúc ông bị bắt, tôi tới nhà thăm. Bả đang mang bầu. Vì sao ông ta kẹt lại khi vợ con ông ta đi cả rồi? Vì ông này ghét Thiệu. Trước giải phóng một tháng, ngay sau khi Đà Nẵng đã thất thủ, Tuyến vẫn đang trong một âm mưu lật đổ Thiệu để lập chính phủ mới.

Tối 1-4 bác sỹ Trương Khuê Quang, giám đốc trường Quốc gia Nghĩa tử, người trung gian của Tuyến đưa Tuyến đến gặp Trí Quang. Đêm mùng 3 rạng mùng 4 Thiệu bắt nhốt hết những phần tử âm mưu đảo chính, kể cả nghị sỹ, dân biểu, nhà báo.. Ông Tuyến vẫn nấn ná chờ vì nghĩ rằng Thiệu bỏ chạy sớm sẽ thả đàn em của mình ra… Nhưng mãi khi ông Hương lên rồi, ngày 26 mới thả. Ông Tuyến yên trí thế nào CIA cũng phải đưa mình đi.”

Tướng Phạm Xuân Ẩn nhớ lại cảnh ông Tuyến chạy đến cầu cứu:

Người cháu ông Tuyến – một viên thiếu tá – chở ông đến bằng xe Honda. Tôi giục nó về lo cho vợ con, để ông Tuyến lại. Tôi bắt đầu gọi điện. Kêu Tòa Đại sứ. Năm cái telephon tất cả. Sự thể diễn ra đúng như báo chí đã nói rồi.

Tuyến đi chuyến cuối cùng với ông Trần Văn Đôn. Ông Đôn cũng thảm, không sao chen lên được mấy chuyến trước. Con ông phải động viên “Ba, ba đừng bỏ cuộc.” Cô bí thư của ông Polgar chủ nhiệm CIA tên là Hà Hiếu Lang, em đại tá Điệp nhường 3 chỗ cho gia đình tướng Đôn. Người cuối cùng lên được máy bay là ông Tuyến. Trong hình, cái người thấp bé là ổng… Không leo lên được, tướng Đôn phải đưa tay kéo lên.

Chi tiết này sau tôi biết được do đọc báo trong bài người ta phỏng vấn tướng Đôn. Tấm hình minh chứng phút cuối cùng đó của một phóng viên hãng UPI. Hãng được sử dụng 20 năm, gần đây tác giả mới lấy bản quyền.”

Trong bài của Morley Safer, ông ta viết: “Ẩn đã can đảm giúp cho Trần Kim Tuyến thoát khỏi Việt Nam. Tuyến là một trong những viên chức cao cấp nhất của CIA tại Việt Nam. Là một tay âm mưu bất trị làm việc cho Thiệu sau đó chống lại chính quyền Thiệu. Vào ngày cuối cùng của Sài Gòn Tuyến vẫn còn nỗ lực thương thuyết với Phật giáo để lập một chính quyền mới.”

Những việc cứu “kẻ thù” như thế không chỉ diễn ra một lần. Ông đã từng cứu nhiều bạn Mỹ của ông thoát chết trong những hoàn cảnh vô cùng phức tạp và còn nguy hiểm cho ông trong chiến tranh.

Câu chuyện ngày 30-4 của tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn vẫn còn gây tranh luận tới tận gần 30 năm sau – vào năm 2006 khi ông Ẩn mất và giới truyền thông trong ngoài nước viết nhiều về ông.

Một bài phỏng vấn nhà báo Mỹ Don Southerland – người đang là Tổng giám đốc chương trình, trong đó có lý giải ngày 30-4 của Phạm Xuân Ẩn lý giải tại sao ông Ẩn lại cứu bác sỹ Trần Kim Tuyến.

Dan Southerland là người chứng kiến phút giây đó: “Đêm 29-4 trước khi các trực thăng chuẩn bị rời Việt Nam, tôi đang liên lạc với các trụ sở truyền thông nước ngoài thì Ẩn vẫn còn ở lại đó dù vợ con ông đã đi. Ông nói có một vấn đề hệ trọng là cần tìm cách cho bác sỹ Tuyến ra đi. Tôi sau khi liên hệ với một giới chức cao cấp của tòa Đại sứ Mỹ và được bảo là hãy nói cho ông Tuyến hay rằng có thể đến 22 Gia Long có thể gặp được số quan chức Nam Việt nam như Trần văn Đôn và một số người khác để được bốc đi khỏi Sài Gòn.” Và câu chuyện diễn ra như thế nào ta đã biết.

Dan Southerland nhận định như sau:

“Ông Ẩn đã giúp người vốn chống Cộng cuồng nhiệt. Tôi muốn nói là ông Ẩn đã giúp một người có lý tưởng mà ông Ẩn hoạt động gần hết đời để chống lại nó… Lời của đại tướng Võ nguyên Giáp đánh giá rằng “nhờ các tài liệu tình báo của Phạm Xuân Ẩn mà Hà Nội như có mặt tại phòng chiến tranh của Lầu Năm góc” là đúng. Bởi vì Ẩn có thể cung cấp cho Hà Nội một số việc, chẳng hạn cách suy nghĩ, lý luận của người Mỹ. Đó là khả năng lớn nhất của ông Ẩn. Ông ta có thể cảm nhận sự thật.”

Phạm Xuân Ẩn: Vừa làm báo, vừa... tình báo - Báo Công an Nhân dân điện tử

Tình báo Phạm Xuân Ẩn (phải) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp ảnh của báo lề phải.

“Có thể kết luận việc ông Ẩn hết sức giúp Trần Kim Tuyến ra khỏi Việt nam là chỉ thuần về ơn nghĩa và tình bằng hữu mà chuyện này có thể đã khiến ông mất sự tin cậy của Hà Nội.

Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn: Biểu tượng của hòa bình và hòa hợp - Ảnh 3.

Phạm Xuân Ẩn khoe thẻ nhà báo năm 1965 tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, ngày 26/4/2000. Ảnh tư liệu đăng ở Afamily Magazine.

Khi viết cuốn sách “Phạm Xuân Ẩn – Tên người như cuộc đời”, tôi cũng băn khoăn về suy diễn này và đã đem hỏi hai người chỉ đạo trực tiếp của ông là Trần Quốc Hương, Nguyên Bí thư TW Đảng, và Đại tướng Mai Chí Thọ. “Cứu Tuyến, đó là biểu hiện rất đặc biệt về tư chất Ẩn. Con người trung hậu như vậy nhất định sẽ thành công trong sự nghiệp. Đó gần như là Luật Nhân – Quả”(lời đại tướng Mai Chí Thọ). Còn ông Trần Quốc Hương thì nói: “Ẩn xử sự đúng với bản chất con người của mình trọng đạo lý.”

Ngày 30-4-1975 đã lùi xa 40 năm. Giá như tổ chức một cuộc đại phỏng vấn mọi người Việt Nam chung một câu hỏi: Ngày 30-4-75 đến với bạn như thế nào? Câu trả lời sẽ là phần máu thịt toàn vẹn đắp lên phần xương, là những diễn biến sự kiện lịch sử đã ghi lại.

Phạm Xuân Ân, phóng viên chiến tranh Việt Nam của tờ Times, 2005 ©AFP - Nicolas Cornet

Phạm xuân Ẩn năm 2005, hình của TTX AFP

Và trong số đó, ngày 30-4 của Phạm Xuân Ẩn đã hiện lên con người nhân văn nhất trong những giây phút sống còn. Viết về ông, tôi được các tác giả nước ngoài nhận xét tặng những lời ghi nhận quý báu:

Giáo sư sử học Mỹ Larry Berman, tác giả cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:

“Cuốn sách của bà đã mở đường cho tất cả chúng tôi” (Your biography of Pham Xuân Ẩn led the way for the rest of us..). “Trong tất cả những người viết về Phạm Xuân Ẩn, bà là người hiểu rõ chủ nghĩa nhân văn của ông ấy hơn ai hết” (You know An’s humanity better than anyone who writes his story”.

Giáo sư người Mỹ Thomas Bass – tác giả cuốn sách mới viết về Phạm Xuân Ẩn “Điệp viên Z 21, kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” đã trả lời phỏng vấn trên “Tuổi trẻ cuối tuần” ra ngày 27-4-2014 như sau:

“Bà Nguyễn Thị Ngọc Hải là tác giả quan trọng hàng đầu về Phạm Xuân Ẩn. Cuốn sách của bà là chỉ dẫn quan trọng cho tất cả chúng tôi những người theo bước chân bà viết về ông”.

Sau cùng, tôi vinh dự còn giữ một kỷ vật quý không công bố, đó là lá thư viết tay của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cảm ơn về cuốn sách Phạm Xuân Ẩn.

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI

 (Facebook)

***************************************************************

Ghi chú của Kẻ Đi Tìm:

Ý thức về cái xấu, cái bẩn của Cộng Sản, Phạm xuân Ẩn đã trăn trối với gia đình đừng chôn ông ở nghĩa trang của Cộng Cán. Sự tuyệt vọng và chán ghét chế độ Cộng Sản đã theo ông tới cuối đời bằng lời yêu cầu trước khi ông trút hơi thở cuối cùng, được tiết lộ bởi David Devoss: “Đừng chôn tôi gần Cộng sản”. 


 

Cha Bắn Tài Xế Từng Cán Chết Con Gái Rồi Tự Sát, Nghi Án “Chìm Xuồng” Lộ Diện

Ba’o Dat viet

April 30, 2025

Một bi kịch đẫm máu vừa xảy ra sáng 28 Tháng Tư tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, khi ông Nguyễn Vĩnh Phúc, 43 tuổi, nổ súng bắn vào một tài xế vận tải – người từng liên quan đến cái chết của con gái ông – rồi tự kết liễu đời mình bên vệ đường.

Theo tường thuật từ báo Tuổi Trẻ, khoảng 7 giờ 30 phút sáng cùng ngày, ông Phúc mang theo một khẩu súng tự chế đến tiệm bán vật tư nông nghiệp Nga Bình, xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn. Tại đây, ông bất ngờ rút súng bắn vào người chủ tiệm là ông Nguyễn Văn Bảo Trung, 33 tuổi, quê ở Cầu Kè, Trà Vinh – người từng là tài xế trong vụ tai nạn giao thông khiến con gái ông Phúc tử vong vào năm ngoái.

Sau phát súng, ông Phúc chạy bộ khoảng 200 mét ra quốc lộ 54 rồi quay súng tự bắn vào đầu mình. Cả hai được đưa đi cấp cứu trong tình trạng nguy kịch tại Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ.

Được biết, ông Trung là người điều khiển xe tải trong vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 4 Tháng Chín, 2024, trên tỉnh lộ 901, khiến em Nguyễn Ngọc Bảo Trân, 14 tuổi, con gái ông Phúc, tử vong tại chỗ. Vụ tai nạn sau đó gây ra nhiều tranh cãi khi Công An Huyện Trà Ôn không khởi tố vụ án, với lý do lỗi thuộc về em Trân do “không giữ khoảng cách an toàn” và “không chú ý quan sát.”

Tuy nhiên, kết luận này ngay lập tức vấp phải phản ứng từ Viện Kiểm Sát và Tòa Án Tỉnh Vĩnh Long. Hai cơ quan này khẳng định lỗi chính thuộc về tài xế Nguyễn Văn Bảo Trung do “vượt xe không bảo đảm an toàn,” trong khi em Trân chỉ vi phạm hành chính.

Dư luận địa phương khi đó sôi sục với nghi vấn có “bàn tay che chắn,” khi tin đồn lan truyền rằng tài xế Trung là cháu của một lãnh đạo cấp cao Công An Huyện Trà Ôn. Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết cáo buộc công an địa phương “đánh tráo khái niệm” để không khởi tố vụ án, đẩy phần lỗi hoàn toàn về phía nạn nhân.

Vụ án từ đó rơi vào im lặng. Cho đến sáng 28 Tháng Tư, người cha của nạn nhân tự tay “lật lại hồ sơ” bằng một hành động tuyệt vọng và bạo liệt.

Ông Phúc – người dân xã Trà Côn, được nhiều người địa phương mô tả là “ít nói nhưng thương con vô cùng” – đã im lặng suốt nhiều tháng, lặng lẽ sống cùng nỗi uất nghẹn vì cái chết của con gái không được làm rõ minh bạch.

Sự việc nay không chỉ là một vụ án hình sự liên quan đến súng đạn, mà còn là tiếng chuông cảnh báo về niềm tin đang mai một trong hệ thống tư pháp cấp cơ sở.

Một người cha mất con, một kẻ gây tai nạn không bị khởi tố, và một hệ thống điều tra – tố tụng bị nghi ngờ “nương tay” vì quan hệ cá nhân – tất cả đan xen trong một câu chuyện mà công lý vẫn chưa có lời đáp.


 

Kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng (Ga 3:21) – Cha Vương

Chúc bạn và gia quyến một ngày tràn đầy hy vọng dưới ánh sáng của Chúa Phục sinh nhé.

Cha Vương

Thứ 4, 2PS: 30/4/2025

TIN MỪNG: Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3:21)

SUY NIỆM: Là người Kitô hữu bạn đã được nhận ánh sáng của Chúa Kitô qua bí tích Rửa tội. Bạn cũng được mời gọi để sống như con cái sự sáng. Trong một xã hội đa dạng mà bóng tối và ánh sáng luôn đan xen, bạn cần phải làm gì để sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian? Mỗi ngày và trong từng giây phút, bạn được mời gọi chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Phục Sinh trong đời sống của mình, qua đời sống yêu thương bác ái, tuân giữ những lệnh truyền của Thiên Chúa, đẩy lùi bóng đêm tội lỗi ra khỏi chính con người mình, gia đình mình và cộng đoàn mình đang sống.  Nếu làm được như vậy thì bóng tối không làm gì bạn được đâu. 

LẮNG NGHE: Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. (Ga 1:5)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin ban cho con sự khôn ngoan của con cái sự sáng để con dám từ bỏ những gì là chóng qua và chỉ chọn Chúa là gia nghiệp đời con.

THỰC HÀNH: Là người hành hương của hy vọng, mời bạn hãy làm một việc bác ái hôm nay.

From Do Dzung

***************************

Bài hát Người Cha Hy Vọng – Dâng kính Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô

Chia sẻ của Ông Tô Lâm trong dịp 30-4

Kẻ Đi Tìm xin được ghi lại những ý chính trong bài viết cảm nhận ngày 30-4 của Ông Tô Lâm, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam

Ngày hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ – từ cựu thù – đã trở thành đối tác chiến lược toàn diện, cùng hợp tác vì hòa bình, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì an ninh và ổn định khu vực. Vậy thì không có lý do gì để những người Việt Nam – cùng chung huyết thống, cùng một mẹ Âu Cơ, luôn đau đáu về một đất nước thống nhất, phồn vinh – lại còn mang mãi trong lòng nỗi hận thù, chia rẽ và ngăn cách.

Hòa hợp dân tộc không có nghĩa là quên lãng lịch sử hay xóa nhòa sự khác biệt, mà là chấp nhận những góc nhìn khác nhau trong tinh thần bao dung và tôn trọng, để cùng hướng tới mục tiêu lớn hơn: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, hùng mạnh, văn minh, thịnh vượng, để các thế hệ mai sau không bao giờ phải chứng kiến chiến tranh, chia ly và hận thù, mất mát như cha ông từng đối mặt. 

Chúng ta tin tưởng rằng, mọi người con đất Việt – dù sinh sống ở đâu, dù quá khứ thế nào – đều có thể đồng hành, chung sức, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Đảng và Nhà nước luôn nhất quán mở rộng vòng tay, trân trọng mọi đóng góp, lắng nghe mọi tiếng nói xây dựng, đoàn kết từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài – những người đang góp phần kết nối Việt Nam với thế giới.

 

Trước đây, không một người Việt Nam chân chính nào muốn đất nước mình bị chia cắt. Ngày nay, chắc chắn không một người Việt Nam chân chính nào lại không mong đất nước mình ngày càng hùng cường, thịnh vượng sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Hơn ai hết, thế hệ hôm nay hiểu rõ rằng độc lập và thống nhất không phải là cái đích cuối cùng, mà là điểm khởi đầu cho một hành trình mới: hành trình xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, giàu mạnh, văn minh, phát triển và trường tồn. 

Lời Bàn của Kẻ Đi Tìm

  • Ông Tô Lâm đã nói lên được những điều mà chúng ta ở hải ngoại thắc mắc, mớ lý thuyết lỗi thời Cộng Sản, XHCN đâu có thể lấn át thực tế văn minh, tiến bộ, hợp tác của thế kỷ 21.
  • Tại sao người Cộng Sản cứ ôm mãi cái tự hào vô lối về cái chủ nghĩa lai căng XHCN mả quên đi lòng nhân ái của dân tộc Việt. Đó mới là di sản của Cha Ông.
  • Hy vọng Ông Tô Lâm sẽ có đủ trí dũng và khôn ngoan để làm được đại cuộc đó là Hòa Giải Dân Tộc và đem lại Thái Bình cho dân Việt.
  • Đến một lúc nào đó, mọi người sẽ nhận ra và ném những gì là lỗi thời, sáo mòn, những suy nghĩ cũ kỹ cả 100 năm, bế tắc là CNXH, CN Cộng Sản vào sọt rác lịch sử. Tự nó sẽ chết khi không còn ai tin nó, dùng nó nữa.