Hai phép lạ giúp thiếu niên Italy đủ điều kiện được phong thánh

Vatican công nhận việc một cậu bé khỏi bệnh bẩm sinh và một cô gái hồi phục kỳ diệu sau tai nạn là “phép lạ” của Acutis, giúp thiếu niên này đủ điều kiện được phong thánh.

Giáo hoàng Francis ngày 23/5 ra sắc lệnh công nhận phép lạ thứ hai của Carlo Acutis sau khi qua đời, giúp thần đồng máy tính gốc Italy sinh năm 1991 này đủ điều kiện để trở thành “vị thánh mặc quần jean đầu tiên” trong lịch sử giáo hội Công giáo.

Vatican tiến hành phong thánh cho tín đồ theo quá trình nghiêm ngặt, trong đó ứng viên phải được công nhận phép lạ thứ nhất trước khi được tuyên phong chân phước. Ứng viên sẽ đủ điều kiện được phong thánh khi được chứng nhận phép lạ thứ hai sau lễ tuyên phong chân phước.

“Phép lạ” phổ biến nhất là việc giúp những người bị bệnh bình phục hoặc khỏi hoàn toàn nhờ những lời cầu nguyện, điều nằm ngoài khả năng giải thích của khoa học. Các cố vấn thần học thuộc Bộ Phong thánh của Vatican sẽ điều tra, phỏng vấn các nhân chứng, tín đồ về những trường hợp cụ thể để lập hồ sơ, được gọi là “án phong”.

Họ cũng có thể tham vấn các cố vấn lịch sử và chuyên gia y tế về “phép lạ chữa lành bệnh”. Sau khi hoàn tất quá trình điều tra, Giáo hoàng là người đưa ra quyết định cuối cùng về việc công nhận phép lạ.

Lễ phong chân phước cho Acutis năm 2020 ở thị trấn Assisi, Italy. Ảnh: Hill

Án phong với Acutis, người qua đời năm 2006 ở tuổi 15, được bắt đầu vào năm 2013, sau khi cậu bé được cho là đã “can thiệp từ thiên đường để cứu mạng một bé trai Brazil mắc bệnh hiếm”.

Cậu bé tên Mattheus, sinh năm 2009, bị chứng dị tật bẩm sinh tuyến tụy hình vòng (annular pancreas) hiếm gặp, khiến cơ thể không thể chứa thức ăn, nôn mửa liên tục. Cậu bé chỉ nặng 9 kg khi lên 4 tuổi, sống nhờ vitamin và bột protein. Các bác sĩ không tin rằng Mattheus có thể sống lâu.

Luciana Vianna, mẹ Mattheus, đã dành nhiều năm cầu nguyện cho con trai khỏi bệnh. Linh mục Fr. Marcelo Tenorio, một người bạn của gia đình, đọc được thông tin về Acutis và bắt đầu gửi lời cầu nguyện đến cậu.

Năm 2013, linh mục Tenorio mời các tín đồ dự thánh lễ, khuyến khích họ gửi lời cầu nguyện đến Acutis để thỉnh cầu Chúa về phép lạ chữa lành. Bà Vianna đã đưa Mattheus và các thành viên trong gia đình đến giáo xứ dự lễ cầu nguyện ngày 12/10/2013.

Sau thánh lễ, trên đường về nhà, Mattheus nói với mẹ rằng cậu đã khỏi bệnh. Khi về nhà, cậu xin mẹ làm khoai tây chiên, cơm, đậu, bít tết và ăn sạch mọi thứ trên đĩa mà không nôn. Cậu cũng ăn uống bình thường những ngày sau đó. Các bác sĩ rất bối rối khi chứng kiến Mattheus khỏi bệnh mà không giải thích được.

Sau khi nghiên cứu trường hợp này, Bộ Phong thánh Vatican đã công nhận sự bình phục của Mattheus là phép lạ thứ nhất của Acutis và phong chân phước cho cậu vào năm 2020.

 Trong phép lạ thứ hai, Bộ Phong thánh của Vatican tiến hành điều tra và xác nhận Acutis đã “can thiệp từ trên thiên đường” để giúp Valeria Valverde, phụ nữ gặp tai nạn giao thông ở Italy năm 2022, hồi phục một cách kỳ diệu.

Ngày 2/7/2022, Valverde bị ngã xe đạp ở Florence, nơi cô đang theo học đại học. Cô gái khi đó 21 tuổi phải phẫu thuật cắt xương chẩm để giảm áp lực não, nhưng các bác sĩ cho hay tiên lượng sống của cô rất thấp.

6 ngày sau, bà Liliana, mẹ Valverde, đã đến lăng mộ của Acutis ở Assisi, thị trấn miền trung Italy, nguyện cầu Acutis gửi lời thỉnh nguyện tới Chúa để con gái bà qua cơn nguy kịch. Bà cũng để lại một bức thư tay ở lăng mộ.

Cùng ngày, bệnh viện thông báo Valverde bất ngờ hồi phục, không cần máy thở. Ngày hôm sau, cô bắt đầu cử động và khôi phục một phần khả năng nói.

10 ngày sau, Valverde rời phòng chăm sóc đặc biệt, được chuyển về khu phục hồi chức năng. Kết quả scan cho thấy khối máu đông trên não của cô đã biến mất.

Hai tháng sau tai nạn, Valverde hoàn toàn bình phục. Hai mẹ con cô đã tới Assisi để cảm tạ sự chuyển cầu của Acutis.

Mộ Carlo Acutis ở thị trấn Assisi, miền trung Italy. Ảnh: Camino Catolico

Carlo Acutis, sinh năm 1991, từ nhỏ đã xin bố mẹ thăm các nhà thờ ở Milan, quyên góp tiền tiêu vặt cho người nghèo trong thành phố. Khi đi học, Acutis cũng giúp đỡ các bạn học khuyết tật, bị bắt nạt hay có cha mẹ sắp ly hôn, đồng thời bắt đầu các hoạt động từ thiện.

Acutis được xem là thiên tài máy tính, nhưng không dùng máy tính để giải trí. Cậu từng cảnh báo bạn bè cùng trang lứa rằng Internet vừa là phước lành vừa là tai ương. Giáo hoàng Francis đã nhắc đến Acutis hồi năm 2019 khi cảnh báo giới trẻ rằng mạng xã hội có thể kích động thù hằn.

Với năng khiếu tin học của mình, Acutis tự học viết code từ thời tiểu học, tạo ra các website cho các tổ chức Công giáo và một trang ghi lại những phép lạ trên thế giới.

Acutis qua đời năm 2006 vì bệnh bạch cầu. “Khi cậu bé qua đời, tang lễ tại nhà thờ toàn người nghèo, là những người được Acutis âm thầm giúp đỡ”, Nicola Gori, người đại diện cho trường hợp phong chân phước năm 2020 của Acutis, cho biết.

Thi hài Acutis hiện được bọc trong lớp sáp giống tạo hình khi còn sống của cậu trong quan tài kính ở thánh địa Spoliation, thị trấn Assisi. Thi hài mặc quần jean, giày, áo khoác thể thao. Giới chức thường xuyên lên lịch mở cửa mộ cho công chúng, tín đồ đến viếng, cầu nguyện.

Tim của Acutis, được coi là một thánh tích, được trưng bày ở vương cung thánh đường Thánh Francis ở Assisi. Gia đình cho biết Acutis từng muốn hiến tạng sau khi mất, nhưng tâm nguyện không thành bởi bệnh bạch cầu. Lễ phong thánh cho Acutis nhiều khả năng sẽ diễn ra trong năm 2025. 

Đức Trung (Theo Catholic News Agency, Vatican News)

https://vnexpress.net/hai-phep-la-giup-thieu-nien-italy-du-dieu-kien-duoc-phong-thanh-4750415.html


 

Huntington Beach lên án ‘lời lẽ bạo lực’ tại lễ tưởng niệm Charlie Kirk

Ba’o Nguoi-Viet

September 16, 2025

HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Hội Đồng Thành Phố Huntington Beach ra tuyên bố lên án nạn bạo lực chính trị và “lời lẽ bạo lực” sau vụ một số nhóm người thượng tôn da trắng trà trộn vào lễ tưởng niệm ông Charlie Kirk, nhà hoạt động bảo thủ bị ám sát tuần trước, theo nhật báo The Orange County Register hôm Thứ Hai, 15 Tháng Chín.

“Thành phố này lên án rõ rệt mọi hình thức bạo lực và lời lẽ bạo lực, cũng như nạn lan truyền những lời phát ngôn sai trái, kích động, làm mất an toàn cho cộng đồng chúng tôi,” ông Pat Burns, thị trưởng Huntington Beach, cho hay trong tuyên bố được hội đồng thành phố này đưa ra hôm Chủ Nhật qua.

Lễ tưởng niệm ông Charlie Kirk tại Memorial Park ở in Provo, Utah, hôm 12 Tháng Chín. (Hình minh họa: Melissa Majchrzak/AFP via Getty Images)

“Thành phố Huntington Beach sẽ làm hết sức để loại bỏ hành vi bạo lực hoặc lời lẽ kích động đang đe dọa sự an toàn của cộng đồng chúng tôi. Chúng tôi đang làm việc chặc chẽ với cơ quan công lực địa phương để duy trì an ninh nơi công cộng và bảo đảm người nào có hành vi phạm tội sẽ bị buộc chịu trách nhiệm,” ông Burns cho biết.

Huntington Beach đưa ra tuyên bố này nhằm bác bỏ tin đồn và thông tin sai trái về vụ biểu tình xảy ra tại cầu tàu Huntington Beach hôm Thứ Tư tuần trước, theo ông Burns.

Ban đầu, cuộc tụ tập đó được giới thiệu là lễ tưởng niệm ông Kirk, nhưng có vẻ nhanh chóng biến thành vụ biểu tình của những người thượng tôn da trắng, theo video trên mạng xã hội. Video cho thấy người biểu tình vẫy cờ của nhóm Patriot Front – nhóm mà FBI nói là thượng tôn da trắng – và hô vang “Người da trắng hãy đánh lại.”

Một đoạn video ngắn, dường như cho thấy ông Butch Twining – nghị viên Huntington Beach – tại vụ biểu tình này, được chia sẻ rầm rộ trên Facebook.

Ông Twining giải thích, hôm đó, vợ chồng ông tới dự lễ tưởng niệm ông Kirk mà họ nghĩ sẽ ôn hòa, nhưng họ nhanh chóng bỏ đi sau khi người biểu tình bắt đầu hô vang khẩu hiệu kỳ thị chủng tộc. Ông Twining cực lực bác bỏ lời cáo buộc rằng ông tham gia hoạt động thượng tôn da trắng, đồng thời tuyên bố ông đang cân nhắc kiện người nào cáo buộc như vậy.

“Mọi thứ quý vị đọc trên mạng là bịa đặt và sai,” ông Twining khẳng định. “Đây là vụ vu cáo và phỉ báng điển hình.”

Ông Twning cho biết ông sẽ công khai lên án những nhóm thượng tôn da trắng đó khi họp hội đồng vào Thứ Ba tuần này. Ông nói ông dự trù hàng chục người sẽ xác nhận vợ chồng ông rời lễ tưởng niệm đó sớm.

Ông Kirk, 31 tuổi, người đồng sáng lập phong trào bảo thủ Turning Point USA và là đồng minh thân cận của Tổng Thống Donald Trump, bị bắn chết trong lúc tranh luận tại đại học Utah Valley University hôm Thứ Tư tuần trước. (Th.Long)


 

Đứa trẻ giải thích vì sao loài chó không sống thọ như loài người

Chuyện có thật.

Đúng là nguyên nhân tại sao những người cầm quyền độc tài

ngu dốt đều muốn và cần sống lâu…để học làm người.

Chiều hôm đó, tay bác sĩ thú y khẽ run. Không phải vì anh không biết mình đang làm gì — anh đã hành nghề nhiều năm, từng chứng kiến hàng trăm ca bệnh nặng, những cuộc chia ly nghẹn ngào.

Nhưng có điều gì đó ở Batuta, chú chó lai 13 tuổi, khiến lồng ngực anh nhói lên theo một cách khác.

Gia đình gọi anh đến khám vì họ đã linh cảm điều gì đó. Dù vậy, vẫn còn chút hy vọng mong manh nằm đâu đó trong góc khuất của tâm hồn — như tất cả chúng ta vẫn hay níu giữ.

Họ mong một phép màu.

Nhưng bác sĩ biết, sẽ không có điều kỳ diệu nào cả.

Ung thư đã lan rộng. Không còn cách nào cứu chữa.

Cả nhà quây quần quanh Batuta trong phòng khách. Họ vuốt ve nó, thì thầm trò chuyện, như thể những lời nói ấy có thể kéo dài thêm thời gian.

Batuta bình thản, thở chậm rãi. Mắt nó long lanh, dịu dàng. Nó không tỏ ra sợ hãi. Chỉ nằm đó, tựa như hiểu rằng nhiệm vụ của mình trên thế gian này đã trọn vẹn.

Pedro, cậu bé trong nhà, ngồi sát bên. Em nhẹ nhàng xoa đầu Batuta, không khóc, không sụt sùi — chỉ có sự dịu dàng thuần khiết, không cần lời.

Người lớn cố kìm nén cảm xúc trước mặt em. Nhưng rồi chính em lại là người giữ bình tĩnh cho tất cả.

Batuta ra đi trong yên bình. Quanh nó là những người thân yêu nhất. Không ai phải giải thích với Pedro điều gì — em tự hiểu.

Vài phút sau, khi sự im lặng bao trùm căn phòng, người mẹ hỏi một điều mà ai cũng nghĩ nhưng không dám thốt ra:

— Sao chó sống ngắn thế? Sao chúng lại rời bỏ ta quá sớm?

Trước khi bác sĩ kịp trả lời, Pedro cất tiếng. Nhẹ nhàng, như thể đó là một ý nghĩ em đã mang theo từ lâu:

— Bởi vì con người sinh ra để học cách trở thành người tốt. Mà đôi khi, phải mất cả đời để học cách yêu thương, chăm sóc, trung thành, tha thứ. Còn chó… chúng sinh ra đã biết tất cả những điều đó rồi. Chúng không cần sống quá lâu như ta.

Bác sĩ thú y lặng người. Nhìn Pedro, anh biết — từ giây phút ấy, mình sẽ không bao giờ còn nhìn nghề nghiệp của mình theo cách cũ nữa.

Lời giải thích ấy, tuy đơn sơ mà sâu sắc, đã thay đổi hoàn toàn cách anh nhìn nhận cái chết của động vật.

Không còn là một bất công đau buồn — mà là một vòng đời tuy ngắn, nhưng trọn vẹn.

Như thể loài chó đến thế giới này để nhắc ta điều con người hay quên.

Yêu không điều kiện.

Vui vì những điều giản dị.

Trung thành không cần ràng buộc.

Tha thứ không giữ hận thù.

Có lẽ vì vậy, chúng không ở lại lâu.

Bởi khi ai đó đã biết cách yêu thương mà không phức tạp — thì đâu cần kéo dài thêm bài học?

Chiều hôm ấy, khi thu dọn dụng cụ, bác sĩ không thấy buồn.

Chỉ còn lại lòng biết ơn.

Vì anh đã chứng kiến một cuộc chia ly không sợ hãi — và một câu trả lời mà chẳng cuốn sách nào dạy nổi.

Đôi khi, chỉ trẻ con và loài chó mới hiểu được điều thiết yếu — mà chẳng cần ai giảng giải.

(Ghi chép bởi Samuel Mendoza, bác sĩ thú y – và là người học trò của những sinh linh biết cách rời đi trong lặng lẽ.)

From: Tu-Phung

HÃY ĐỂ CHO ĐỜI SỐNG ANH HÙNG CỦA ĐỨC HỒNG Y VIỆT NAM TRUYỀN CẢM HỨNG CHO BẠN

Truyền Thông Thái Hà

 Nhân ngày lễ giỗ của Đấng Đáng Kính – ĐHY. Fx. Nguyễn Văn Thuận (16/09/2002-16/09/2025), xin gửi đến bạn đọc một bài viết để tưởng nhớ vị chứng nhân của Hy vọng. Xin ngài cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam và mỗi người chúng ta.

HÃY ĐỂ CHO ĐỜI SỐNG ANH HÙNG CỦA ĐỨC HỒNG Y VIỆT NAM TRUYỀN CẢM HỨNG CHO BẠN

Tác giả: Philip Kosloski

Hồng y đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là ngọn hải đăng hy vọng trong suốt 13 năm tù ngục.

Ngày 4/5/2017, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ban hành sắc lệnh tuyên bố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là “Đấng đáng kính” (Venerable), một bước quan trọng trên hành trình tiến tới phong thánh. Ngày 16/9 đánh dấu ngày giỗ của ngài. Hiện nay, phần mộ của ngài được đặt tại nhà thờ Santa Maria della Scala, Rôma, Ý.

________________________________________

Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là ai?

Ngài sinh ngày 17/4/1928 tại Huế, Việt Nam, sớm theo đuổi ơn gọi linh mục và được thụ phong linh mục năm 1953 khi mới 25 tuổi. Trong nhiều năm, ngài là giảng viên và giám đốc Đại chủng viện Nha Trang trước khi được bổ nhiệm làm Giám mục Nha Trang năm 1967.

Một biến cố định mệnh xảy đến vào ngày 24/4/1975, khi ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục phó Sài Gòn. Chỉ sáu ngày sau, Việt Nam rơi vào tay cộng sản, và Đức cha Thuận bị bắt với tội danh “kẻ thù của nhà nước.” Ngài bị đưa vào trại giam biệt lập suốt 13 năm, trong đó 9 năm bị giam cầm hoàn toàn đơn độc.

________________________________________

Đức tin sáng ngời trong ngục tối

Chính trong thời gian tù đày, đức tin mạnh mẽ của ngài đã tỏa sáng. Ngài bí mật gửi ra ngoài những mẩu giấy viết tay nhắn nhủ giáo dân; sau này, các suy niệm thiêng liêng ấy được tập hợp thành cuốn “Đường Hy Vọng.”

Đài Vatican kể lại:

“Đức cha đã làm ra một cuốn Kinh Thánh tí hon từ những mảnh giấy vụn. Các cai ngục cảm thông đã lén đưa cho ngài một mảnh gỗ và sợi dây điện bằng kim loại, từ đó ngài chế tác thành một thánh giá giám mục và dây đeo, mà ngài giữ đến tận cuối đời.”

Trong tù, ngài thường xin bạn bè gửi cho mình cái mà ngài gọi là “thuốc chữa bệnh.” Ai nấy đều hiểu, và họ gửi cho ngài những chai thuốc ho nhỏ đựng rượu lễ, cùng những mẩu bánh thánh. Với mảnh gỗ được lén chuyển vào, ngài làm một cây thánh giá nhỏ để dâng Thánh lễ.

Ngài giữ tất cả trong một chiếc hộp giấy bìa cứng. Chính chiếc hộp ấy trở thành bàn thờ riêng của ngài. Mỗi ngày, vào 3 giờ chiều – giờ Chúa chịu chết – ngài cử hành Thánh lễ bằng cách nhỏ vài giọt rượu lễ hòa với nước trong lòng bàn tay.

________________________________________

Sau khi được trả tự do

Đức cha Thuận được trả tự do vào 21/11/1988, và khi được phép sang Rôma, ngài bị cấm vĩnh viễn không được trở về Việt Nam. Vì thế, ngài sống phần đời còn lại tại Rôma, và qua đời ngày 16/9/2002.

Án phong thánh cho ngài được mở ngày 22/10/2010, và tiếp tục tiến triển với việc Tòa Thánh tuyên bố các nhân đức anh hùng của ngài.

________________________________________

Lời Đức Giáo hoàng Phanxicô về Đức hồng y Thuận

Trong sắc lệnh, Đức Thánh Cha Phanxicô viết:

“Chứng tá đức tin, đức cậy và đức mến của Tôi tớ Chúa, được trao ban cách quảng đại từng ngày với lòng khiêm nhường và kín đáo, là một lời mời gọi liên lỉ hướng tới sự thánh thiện tập thể. Chứng tá ấy đạt tới đỉnh cao nơi lòng trung tín với Thiên Chúa và trong sự nâng đỡ lẫn nhau để bước đi trên con đường thánh thiện.”

3 bài học thiêng liêng từ đời sống Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

________________________________________

  1. Đức tin vững vàng giữa bóng tối

Trong 13 năm tù, 9 năm bị biệt giam, ngài không đánh mất niềm tin mà còn biến hoàn cảnh thành nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Chiếc hộp giấy trở thành bàn thờ, vài giọt rượu và mẩu bánh nhỏ cử hành hy tế Thánh lễ.

Bài học: Trong thử thách, chúng ta cũng có thể tìm thấy Thiên Chúa nếu biết giữ niềm tin và cậy dựa vào Người.

“Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11,1)

________________________________________

  1. Hy vọng rực sáng trong ngục tù

Ngài viết “Đường Hy Vọng” ngay trong ngục tù, để gieo vào lòng tín hữu ánh sáng hy vọng giữa đêm tối. Thay vì than trách, ngài gieo lời khích lệ.

Bài học: Hy vọng Kitô giáo không dựa vào hoàn cảnh, nhưng đặt nền tảng nơi Đức Kitô Phục Sinh.

“Chúng ta được cứu độ nhờ niềm hy vọng.” (Rm 8,24)

________________________________________

  1. Tình yêu biến đau khổ thành hy lễ

Ngài đã làm tất cả với tình yêu: chế tác thánh giá từ dây điện và mẫu gỗ vụn, dâng lễ bằng vài giọt rượu trong lòng bàn tay… Ngài dạy rằng: “Chỉ có tình yêu mới tồn tại mãi.”

Bài học: Khi tình yêu hiện diện, không hoàn cảnh nào có thể cướp mất sự tự do và niềm vui nội tâm.

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu… Đức mến không bao giờ mất đi.” (1 Cr 13,4.

________________________________________

Tóm lại, Đức Hồng y Thuận để lại cho chúng ta con đường đức tin vững chắc, hy vọng bền bỉ và tình yêu quảng đại – ba nhân đức nền tảng mà mỗi Kitô hữu đều được mời gọi thực hành.

(Lm. Jos. Lương Tùng, CSsR. chuyển dịch và tổng hợp, từ trang Aleteia.org)


 

NGÃ RẼ- Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tôi phải ví người thế hệ này với ai?”.

“Hoang dã là một phần của khung cảnh đức tin, ở đó, mọi thứ đều thiết yếu! Trên đỉnh núi, tôi choáng ngợp trước sự hiện diện của Thiên Chúa; trong sa mạc, tôi choáng ngợp vì sự vắng mặt của Ngài. Cả hai nơi buộc tôi phải quỳ gối, tôn thờ, cảm tạ và hoán cải. Nơi này, tôi kinh ngạc tột cùng; nơi kia, tôi tuỳ thuộc hoàn toàn!” – Dave Dravecky.

Kính thưa Anh Chị em,

Trước Thiên Chúa, thái độ đúng đắn của con người là “quỳ gối, tôn thờ, cảm tạ và hoán cải!”. Hôm nay, Chúa Giêsu vạch ra sự kiêu hãnh của những người đương thời; cùng lúc, mở cho họ một ‘ngã rẽ’ phải chọn lựa: hoặc tiếp tục an thân hoặc khiêm tốn trước ơn cứu độ.

Chính sự kiêu hãnh ẩn tàng sau những suy nghĩ của họ về Gioan – “quỷ ám”; và về Chúa Giêsu – “ăn nhậu” khiến họ tuỳ tiện tạo ra một Chúa riêng vốn không lay chuyển họ khỏi những đặc lợi, đặc ân và đặc quyền. Có lẽ chúng ta cũng đang mắc phải rủi ro này. Bao lần chúng ta chỉ trích điều này điều kia, dù Giáo Hội nói như vậy hay đã nói như vậy, hoặc cả khi Giáo Hội nói ngược lại. Chúng ta lục lọi mọi kẽ hở và sai lỗi khi đề cập đến Giáo Hội và những chủ chăn của Giáo Hội. Tuy nhiên, trên thực tế, một cách vô thức, chúng ta chỉ biện minh cho sự lười biếng và thiếu ‘tham vọng hoán cải’ của mình – một ‘tham vọng’ đáng ao ước. “Khi chỉ trích Giáo Hội để né tránh việc đổi thay, chúng ta đang tôn thờ chính hình bóng của mình!” – Henri Nouwen.

Lời Chúa chạm thấu tâm hồn có khả năng hoán cải và biến đổi; nhưng trước tiên, chúng ta phải khiêm nhượng. Bởi lẽ, ân sủng chỉ có thể đọng lại ở những ‘vùng trũng khiêm hạ’. Vì thế, hãy xin Chúa đến gần bạn như đã đến với “những người thu thuế” và “các tội nhân!”. Khốn cho ai nghĩ rằng, tôi không cần thầy thuốc! Điều tồi tệ nhất đối với bất kỳ bệnh nhân nào là tin rằng mình khoẻ; bệnh sẽ nghiêm trọng hơn và không bao giờ có thể phục hồi. Bạn và tôi đều bị bệnh đến chết, chỉ Chúa Kitô mới có thể cứu, dù bạn nhận ra điều đó hay không. Đó chính là ‘ngã rẽ’ của đời sống thiêng liêng: khiêm nhường đón nhận hay kiêu hãnh khước từ. “Hãy quỳ gối tôn thờ, cảm tạ và hoán cải” trước Đấng Cứu Độ; hãy chào đón Ngài như vậy! “Ân sủng chỉ đọng lại trong những trái tim đủ thấp để cưu mang nó!” – Richard Rohr.

Anh Chị em,

Ở mỗi khoảnh khắc của đời sống, Chúa vẫn nhẹ nhàng đặt chúng ta trước một ‘ngã rẽ’: bước theo Ngài hay quay lưng lại. Không ồn ào, không ép buộc, chỉ một tiếng gọi âm thầm chờ đợi. Chọn lựa ấy diễn ra ngay trong những điều nhỏ nhặt bình thường nhất – một lời xin lỗi, một hành động sẻ chia, một phút quỳ gối cầu nguyện. Hãy để ân sủng chảy vào vùng trũng khiêm hạ của tâm hồn, và chúng ta sẽ nhận ra rằng, đường của Chúa luôn rộng mở cho ai dám bước xuống để được nâng lên. “Khiêm nhường là can đảm đi con đường thấp để trời cao nâng bạn lên cao hơn!” – Brennan Manning.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin hoá mọi chần chừ của con thành tiếng ‘xin vâng’, để mỗi ‘ngã rẽ’ đời con trở nên điểm hẹn của tình yêu bất tận!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*****************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXIV Thường Niên, Năm lẻ

Chúng tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa ; chúng tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 7,31-35

31 Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông về ông Gio-an rằng : “Tôi phải ví người thế hệ này với ai ? Họ giống ai ? 32 Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói :

‘Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà các anh không nhảy múa ;
tụi tôi hát bài đưa đám,
mà các anh không khóc than.’

33 “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo : ‘Ông ta bị quỷ ám.’ 34 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo : ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.’ 35 Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.”


 

Đôi Mắt Mùa Xuân – Phạm Tín An Ninh – Truyen ngan HAY

Phạm Tín An Ninh

Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức.  Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu.

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.

Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức.

Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm.  Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với đôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.

Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cảm ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.

Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cảm ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy.

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình.

Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung đội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.

Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, lằn ranh sống chết còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nước hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postale, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi.

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sự vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc trách hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)

Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.

Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy động trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác!

Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì.

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.

Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Đắk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Đắk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máy Alumin Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đập mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cửu.

Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.

Phạm Tín An Ninh .


 

Hoa quả của Chúa Thánh Thần là gì? – Cha Vương

Ngày Thứ 3 tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần nhé. 

Cha Vương

Thứ 3: 16/9/2025.  t2-24

GIÁO LÝ: Hoa quả của Chúa Thánh Thần là gì? 12 Hoa quả của Chúa Thánh Thần là bác ái, vui vẻ, bình an, nhẫn nhục, tử tế, tốt lành, quảng đại, nhã nhặn, trung tín, tiết độ, tự chế, thanh sạch (Gl 5,22-23). (YouCat, số 311)

SUY NIỆM: Việc liệt kê các hoa quả của Chúa Thánh Thần chứng tỏ rằng những ai để cho Chúa bắt lấy, dẫn đi, huấn luyện thì sẽ đi tới đâu. Các hoa quả của Chúa Thánh Thần chứng minh rằng Thiên Chúa có vai trò quan trọng trong đời sống Kitô hữu.

❦  Hãy rút ra sức mạnh từ niềm vui được ở với Chúa Giêsu. Hãy vui sướng và bình an. Hãy đón nhận bất cứ cái gì Chúa ban, và cho đi bất cứ cái gì Chúa lấy, với một nụ cười lớn.—Mẹ Têrêsa Calcutta (YouCat, số  311 t.t.)

LẮNG NGHE: Vì vậy, thưa anh em, anh em đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, thì hãy cố gắng hết mình, để làm cho các ơn đó nên vững mạnh. Có thế, anh em sẽ không bao giờ vấp ngã, và nhờ đó, con đường rộng mở để đón nhận anh em vào Nước vĩnh cửu của Đức Giê-su Ki-tô là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta. (2 Pr 1:10-11)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin đong đầy tim con các hoa quả của Chúa Thánh Thần để con  vững bước trên đường nhân đức.

THỰC HÀNH: Dựa trên 12 Hoa quả của Chúa Thánh Thần được nêu ra ở trên, bạn đang cần Hoa quả nào nhất? Hãy cố gắng hết mình rèn luyện để trở nên tốt lành hơn nhé.

From: Do Dzung

************************

Thánh Thần tình yêu – tinmung.net

Lịch Sử và Mục Đích Của Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình

Lịch Sử và Mục Đích 

Lịch sử

A- Lịch sử gia đình là lịch sử tình thương, Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người. Khi tạo dựng con người, Chúa đã thành lập gia đình đầu tiên là sự kết hợp giữa ông Adong và bà Eva.

B- Chúa Kitô xuống thế làm người để cứu chuộc nhân lọai. Ngài đã chấp nhận được sinh ra trong một gia đình như bước khởi đầu của công cuộc cứu thế

C- Tiếp nối tình thương của Thiên Chúa với các gia đình, các Đức Giáo Hòang luôn lưu tâm tới đạo đức gia đình như Đức Gioan Phaolo II đã nói tại Ba Tây ngày 17 tháng 10 năm 1991 như sau: ”Gia đình là yếu tố nền tảng cho mọi họat động mục vụ của Giáo Hội.”

D- Cha Phêrô Chu Quang Minh cùng với Giáo Hội, thao thức trước thềm nguy cơ đổ vỡ của các gia đình trong trào lưu mới của xã hội, trong đó nền tảng của gia đình bị lung lay. Con người đã đánh mất cái giá trị cao qúy mà Thiên Chúa đã cho là hạnh phúc gia đình. Vì thế, xây dựng lại nền tảng gia đình là một nhu cầu cấp yếu của thời đại.

Năm 1986, tháng 9, Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình đã được Cha Phêro Chu Quang Minh, Sáng Lập bằng cách áp dụng phương pháp cảm nghiệm vào lãnh vực tâm lý đạo đức gia đình tại Wichita, tiểu bang Kansas.

Năm 1987, cùng với văn phòng Đạo Binh Hồn Nhỏ, khóa thứ I được mở tại Orange County, kết qủa tốt đẹp và cha Giám Đốc Đỗ Thanh Hà đã công nhận là một sinh họat chính thức của Cộng Đồng.

Năm 1991, vào tháng 12, khóa 15 là khóa đầu tiên của Bắc California.

Năm 1994, ngày 28 tháng 10 Đức Thánh Cha Giaon Phaolo II đã ban phép lành và ký vào huy hiệu của Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình.

Mục đích

01- Tăng thêm đạo đức bản thân: cũng gọi là tăng thêm liên hệ giữa mình với Chúa, tức là cảm nghiệm, rung động thâm sâu sự hiện hữu của Chúa như Vua, như Cha, và như Bạn trong đời sống.

02- Tăng thêm thông cảm vợ chồng: ai cũng biết thông cảm là cần thiết, nhưng khó khăn là làm thế nào, thực hành điều gì để vợ chồng dễ thông cảm. Nhờ thông cảm mà vợ chồng thương yêu gần gũi nhau nhiều hơn.

03- Tăng thêm phương pháp giáo dục con cái: cũng gọi là tăng thêm liên hệ giữa cha mẹ và con cái. Nhờ cha mẹ thay đổi, với trái tim mới, tạo nên bầu khí mới, con cái được gần gũi, cảm thông trong tình yêu thương. Gia đình tăng thêm hạnh phúc.

04- Tăng thêm hồn tông đồ song đôi: cũng gọi là liên hệ với tha nhân, vợ chồng mang cùng một tấm lòng:“thương yêu gần gũi bằng việc làm”để phục vụ bất cứ ai mình gặp trên đường đời.


 

KÍNH BÁO KHẨN & XIN CẦU NGUYỆN 

CHƯƠNG TRÌNH THĂNG TIẾN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH HẢI NGOẠI

Email: cttthngd@yahoo.com

  KÍNH BÁO KHẨN & XIN CẦU NGUYỆN 

~~~

Trong Niềm Tin Tuyệt Đối Vào Chúa Kitô Phục Sinh 

Văn Phòng Điều Hành Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình Hải Ngoại

Vô Cùng Thương Tiếc Kính Báo:

 Linh Mục PHÊRÔ VÊRÔNÊ CHU QUANG MINH, SJ.

Sáng Lập Chương Trình TTHNGĐ 

Sinh ngày 30 tháng 04 năm 1937 tại Bắc Ninh, Việt Nam 

Vừa an nghỉ trong Chúa, lúc 08 giờ 45 (giờ California), ngày 15 tháng 09 năm 2025

Tại Santa Clara Valley Medical Center, San Jose, California, Hoa Kỳ.

Hưởng Thượng thọ 88 tuổi. 

*****

~ Đôi dòng tiểu sử ~

Linh mục Phêrô Vêrônê chuyên về tâm lý từ hồi còn thanh niên.

> Năm 1962, động viên làm sỹ quan tâm lý.

> Năm 1968, thụ phong linh mục, làm giáo sư Chủng Viện Thánh Quý, Cần Thơ.

> Từ 1970, dạy tâm lý các lớp 12 tại nhiều trung học; hiệu trưởng trung học.

> Năm 1975, di cư sang Hoa Kỳ.

> Năm 1978, đậu cao học tâm lý tôn giáo.

> Năm 1980, đậu tiến sỹ tâm lý giáo dục.

> Năm 1981, vào Dòng Tên Chúa Giêsu (SJ).

> Viết mấy trăm bài báo về tâm lý.

> Xuất bản 30 sách tâm lý, trong đó có 03 sách bằng Anh ngữ về CT/TTHNGĐ.

** Từ năm 1986, sáng lập và hướng dẫn CHƯƠNG TRÌNH THĂNG TIẾN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH tại Hoa Kỳ, Canada, Úc châu, Việt Nam, Nhật Bản và nhiều nước Âu châu.

* Lập nhiều Trạm Phát Thuốc Song Nguyền cho người nghèo ở Nam, Trung, Bắc Việt Nam.

* Thăm và viết về Bắc Kinh, Hồng Kông, Đài Loan, Tokyo, Manila, Mễ Tây Cơ,…

***

Kính xin quý Đức Ông, quý Cha, quý Phó tế, quý Tu sĩ và toàn thể quý Song nguyền khắp nơi tha thiết hiệp lời cầu nguyện:

Lạy Chúa Từ Nhân, 

Linh Mục Phêrô Vêrônê Chu Quang Minh, SJ.,

Suốt đời tận trung, tận nghĩa với Chúa -Phục Vụ Hạnh Phúc Các Gia Đình-

Nay ngài đã hoàn tất sứ mạng Chúa trao nơi trần thế.

Chúng con THA THIẾT NGUYỆN XIN CHÚA Sớm đưa ngài về hưởng Hạnh Phúc Thiên Đàng Bên Chúa. Amen.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Chương trình Tang Lễ & Cầu Nguyện xin kính báo sau

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ 

Thành kính.

 Thay mặt CT/TTHNGĐ Hải Ngoại

SN Phạm Văn Quyết & Điệp

Chủ Nguyền.

THÁNH GIÁ – (Lm. Nguyễn Tầm Thường)

Huong Duongthanh

 NHÂN NGÀY LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ, MỜI MỌI NGƯỜI ĐỌC BÀI VIẾT NÀY

THÁNH GIÁ

(Lm. Nguyễn Tầm Thường)

Tôi nhìn thấy thánh giá mỗi ngày. Tôi nghe nói về Thánh giá rất thường: Thánh giá trên tháp chuông. Thánh giá trên bàn thờ. Thánh giá bán trong tiệm.Thánh giá ngoài nghĩa trang. Thánh giá trên tường đá. Thánh giá trong nghệ thuật. Thánh giá trong thi ca. Thánh giá ở khắp nơi. Nhưng thánh giá là gì? Để tìm câu trả lời không phải là vấn đề đơn giản. Có nhiều ý nghĩa khác nhau về thánh giá.Tùy theo mỗi người mà thánh giá có giá trị khác biệt .

*

Thánh giá bằng vàng thì có giá trị hơn bằng gỗ. Thánh giá vàng cũng tùy theo to nhỏ mà giá đắt hay rẻ hơn. Người mua có thể trả giá để được bớt. Người bán thì lại mong bán giá cao. Người có tiền thì mua thánh giá bằng vàng tốt. Kẻ ít tiền thì mua vàng dở. Họ lừa nhau, không cẩn thận thì mua phải thánh giá vàng giả. Nhiều người muốn có .Thánh giá là đơn vị kinh tế để ấn định tiền bạc. Thánh giá lúc ấy xác định sự giầu có.

*

Thánh giá cũng dùng để trang điểm. Họ đeo từng chùm thánh giá trên vành tai, bên mái tóc nhuộm xanh đỏ. Người thích thì không sao, người không ưa thì lúc đó kẻ đeo thánh giá bị cười chê. Có người thích trang điểm bằng thánh giá trên giây chuyền vàng. Họ đeo thánh giá ở dạ hội , ở tiệc cưới , ở các buổi tiếp tân. Lúc đó ý nghĩa của thánh giá là muốn làm cho mình đẹp, kéo kẻ khác chú ý đến mình. Và cũng có những thánh giá trên vùng ngực hở hang.Lúc ấy thánh giá nằm trong duyên cớ của những rung động cám dỗ. Người có thánh giá để trang điểm thì hãnh diện. Kẻ không có thì thèm muốn. Thánh giá lúc này là xúi đẩy của lòng tham.

*

Thánh giá ở ngoài nghĩa trang thì vắng lặng, ít ai nhìn. Thánh giá bị mưa lạnh, bị nắng gắt.Thánh giá vàng được săn sóc giữ gìn cẩn thận. Thánh giá ở ngoài nghĩa trang có thể gãy đổ từ lâu nhưng chẳng ai để ý. Nhưng nếu Chúa ở trên thánh giá đó thì được tự do ngắm mây trời. Có cái hoang lạnh của buổi chiều mưa phùn, nhưng cũng có thể có tiếng hót của một cánh chim nào đó dừng chân hát vui. Cũng có thể là sương rơi, là gió bão nhưng Chúa không ngột ngạt vì hương phấn như những thánh giá vàng trên cổ trên ngực của con người. Thánh giá ngoài nghĩa trang có thể không được chăm sóc, nhưng Chúa có tự do để nhìn Hoa nở, nhìn trăng lên. Thánh giá trên giây chuyền vàng thì Chúa bị người ta nhìn nhiều khi bằng những ánh mắt tham lam, thiếu trong sạch.

*

Cũng có nơi thánh giá được dùng để xuống đường. Họ vác thánh giá không phải để lên đồi chịu đóng đinh, nhưng để đi biểu tình và đóng đinh kẻ khác.Thánh giá với khẩu hiệu. Thánh giá với những bàn tay nắm chặt hận thù. Thánh giá đằng đằng trước mũi súng. Thánh giá để đánh nhau. Thánh giá bấy giờ là phương tiện tranh đấu. Nếu Chúa nằm trên thánh giá đó chắc Chúa sợ lắm. Suốt cuộc đời Ngài chỉ dậy các môn đệ của Ngài cách chết chứ chẳng bao giờ dậy cách chiến đấu.

Các nhà lãnh tụ thì dậy kẻ theo họ chiến thuật tranh dành ảnh hưởng.Họ phải biết làm sao để áp đặt kẻ thù. Họ học cách tiêu diệt đối phương. Thày Yêsu chỉ dạy môn sinh của mình phải chuẩn bị chết. Vì thế khi thánh giá bị vác xuống đường biểu tình, chắc hẳn Chúa phải luống cuống lắm vì Ngài nào có biết gì?!

*

Có Thánh giá trên lầu chuông gỗ, có thánh giá trong Bảo tàng viện. Thánh giá trên lầu chuông thì có khi phủ bụi mờ , mạng nhện che kín. Thánh giá không có người săn sóc, nhưng chiều chiều có tiếng chuông phổ nhạc. Sáng sáng có lời chuông đưa kinh. Con người bỏ Chúa bụi phủ nhưng có đàn bồ câu bay về,đậu xuống chuyện trò. Thánh giá trong Bảo tàng viện là Thánh giá quý. Họ canh giữ cẩn thận. Nhưng khi được con người canh giữ cẩn thận thì Chúa trên thánh giá đó có nhiều lo âu. Người ta rình mò ăn cắp: Thánh giá bị đặt trong lồng kính. Nếu Chúa ở đó chắc ngột ngạt vì giam hãm. Ngày ngày , hàng ngàn con mắt qua lại dòm ngó. Nếu Chúa ở đó chắc Chúa bối rối lắm. Chúa trên Thánh giá gỗ xấu xí thì lại được tự do. Chúa trên Thánh giá mà được loài người gìn giữ quý hóa lại là một cõi tù đầy.

Người Ki tô hữu nhận thánh giá để phân biệt mình với tôn giáo khác . Giữa những người Ki tô hữu , Tu sĩ lại đeo thánh giá để phân biệt họ không là giáo dân. Giữa Tu sĩ , thánh giá cũng được để phân biệt trên Nhẫn Bạc , trên Gậy cầm để nói ai là thầy Thượng phẩm chức vị , ai là Tu sĩ thường. Như vậy, thánh giá cũng được dùng như dấu hiệu phân biệt: Những ngày còn sống, Chúa lao tác mệt nhọc, nhưng , dán bích chương hầu loan báo một tôn giáo mới. Chúa xây dựng Nước Thiên Chúa trong tim con người. “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các con là môn đệ ta: ấy là các con có lòng thương mến lẫn nhau” (Yoan 13:35).

Tình yêu vô hình, không nhìn thấy thì Chúa lại bảo lấy làm dấu hiệu cho ngưới ta nhìn. Còn thánh giá hữu hình Chúa lại chẳng chọn làm dấu hiệu.

Trên dường từ Jerusalem lên núi Sọ có rất nhiều người nhìn Chúa vác thánh giá. Có nhiều kẻ đã được thừa hưởng ân huệ của Ngài, được Ngài chữa bệnh, được Ngài nuôi ăn nhưng họ không vác thánh giá đỡ Ngài. Không một Môn đệ nào ghé vai gánh vác cho Thày mình đỡ mỏi. Chúa đã nhiều lần quỵ ngã vì yếu sức. Kẻ vác thánh giá đỡ Ngài là Simon, người xứ Kyrene. Phúc âm không hề nói là ông Simon đã được hưởng đặc ân gì của Chúa trước đó cả. Và có thể ông là người ngoại giáo.

Đời là vậy, có nhiều kẻ theo Chúa nhưng để Chúa vác Thánh giá một mình. Có kẻ trên danh nghĩa không là người theo Chúa, nhưng nhờ họ mà Chúa đỡ khổ.

THÁNH GIÁ LÀ GÌ?

Khi có quá nhiều loại thánh giá

. Thánh giá dùng như đồ trang sức.

. Thánh giá là đơn vị kinh tế tính bằng tiền bạc.

. Thánh giá là phương tiện tranh đấu

. Thánh giá có thể làm duyên cớ cho lòng thèm muốn tham lam.

. Thánh giá có thể bị quên lãng ngoài cánh đồng.

. Thánh giá cũng được gìn giữ cẩn thận trong tủ kính có khóa.

. Thánh giá để phân biệt chức vị trong xã hội.

Một câu hỏi mà có quá nhiều câu trả lời đúng thì câu trả lời thường là sai. Vì câu trả lời đúng nhất chỉ có một. Không bao giờ có hai cái đẹp nhất cũng như chẳng thể bao giờ có hai điều đúng nhất.

Người ta không thể tranh luận về Thánh giá. K3 dùng Thánh giá làm phương tiện tranh đấu thì không thể chấp nhận Thánh giá là để đóng đinh mình. Kẻ muốn dùng Thánh giá để làm dáng thì đối với họ Thánh giá chỉ có nghĩa khi dùng để trang điểm. Ai chọn Thánh giá để phân biệt mình với tôn giáo khác thì Thánh giá mang màu sắc một ký hiệu. Mỗi người nhìn Thánh giá một cách khác nhau. Giá trị của Thánh giá tùy thuộc cái nhìn của họ.

*

Đức Ki tô nói về Thánh giá như sau: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thánh giá của mình mỗi ngày mà theo ta.”

Vác Thánh giá để đi theo một người chứ không phải để thỏa mãn tò mò về một người. Như thế, Thánh giá không phải là một định nghĩa để hiểu biết bằng trí tuệ mà phải hiểu bằng lối sống. Bởi đó, kẻ không theo Ngài thì sự hiểu biết tri thức về Thánh giá chẳng có ý nghĩa gì. Kẻ đã theo ngài thì không cần tìm định nghĩa cho Thánh giá. Vì đã theo Ngài thì biết Thánh giá là gì rồi.” về phần tôi, ước chi tôi đừng có vinh quang nơi một điều gì, trừ phi là nơi thập giá của Chúa chúng ta”( Gal. 6:14)

Tôi nói với người ta về Thánh giá. Tôi cũng nghe người ta nói với tôi về Thánh giá. Nhìn Thánh giá mỗi ngày mà tôi đau thấy vinh quang. Cuộc sống vẫn dầy rẫy trầm luân của nó. Như vậy Thánh giá nào mới cho tôi hy vọng?

Giữa bao nhiêu loại thập giá, thánh Phaolo chọn có một. Đó là thập giá của Chúa chúng ta.

Như thế, không phải thập giá nào cũng có vinh quang. Điều ấy cũng hàm ý là có nhiều Thánh giá giả. Nếu phân biệt được Thánh giá thật giữa Thánh giá giả thì người ta sẽ hiểu được vấn đề sau đây.

Vấn đề là người ta phàn nàn về thánh giá. Khi gặp điều bất hạnh, người ta hay nói: Đời tôi khổ quá! Chúa gởi Thánh giá cho tôi!

Phúc âm kể rằng Chúa bị điệu ra công trường, bị phỉ nhổ làm nhục, bị chế nhạo chê cười… Người ta làm thập giá, bắt Ngài vác đi rồi đóng đinh Ngài trên thập giá đó (Mc 15:16…Yn. 19:13).

Như thế, thập giá trong ý nghĩa bất hạnh là sản phẩm của con người. Con người đã có sáng kiến chế ra thập giá để đóng đinh Chúa: Nếu thập giá là sản phẩm của con người thì phải nói con người đã gởi thập giá cho Chúa , chứ Chúa làm gì có thập giá mà gởi cho con người?

(Trích trong NƯỚC MẮT & HẠNH PHÚC)


 

Việt Nam, một lịch sử khác?-Tác giả Christopher Goscha

BBC Vietnamese

Tác giả Christopher Goscha

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Montréal, Canada

Tác giả Alex-Thái Đình Võ – Dịch

15 tháng 9 2025

Với đa số độc giả ngoài Việt Nam, quốc gia ven biển nhỏ bé này vẫn thường gắn liền với cuộc chiến kéo dài một thập kỷ, khi quân đội Hoa Kỳ sa lầy trong nỗ lực ngăn chặn cộng sản miền Bắc tiến chiếm một miền Nam không cộng sản. Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975 với sự thất bại nặng nề của Mỹ.

Nỗi thất bại cũng phủ bóng lên ký ức của Pháp về thuộc địa cũ. Thất bại ê chề mà Pháp phải chịu trong trận Điện Biên Phủ năm 1954, khi quân đội của Võ Nguyên Giáp chấm dứt 80 năm thống trị thuộc địa, vẫn còn vang vọng trong đời sống chính trị Pháp cho đến ngày nay.

Ở Việt Nam, chiến thắng vẻ vang này trở thành chủ đề chiếm vị trí trung tâm trong cách dân tộc này hình dung về chính mình.

Mỗi năm, hàng triệu học sinh và học viên quân sự được dạy rằng đất nước hình chữ “S,” trải dài từ sông Hồng ở miền Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, được xây dựng từ truyền thống bền bỉ chống lại sự xâm lược từ bên ngoài. Trước khi đánh bại người Pháp và người Mỹ, người Việt đã từng đẩy lùi các đội quân xâm lược từ Trung Quốc và Mông Cổ.

Hồ Chí Minh chỉ là một trong số nhiều anh hùng đã giành lại độc lập cho Việt Nam. Theo cách nhìn này, cả Pháp lẫn Mỹ chỉ có thể tự trách mình vì đã phớt lờ những bài học từ lịch sử.

Tuy nhiên, việc xây dựng một câu chuyện lịch sử xoay quanh truyền thống kháng chiến sẽ che mờ nhiều yếu tố quan trọng khác, và đó chính là cái giá của nó. Việc kiến tạo một quá khứ trong đó Việt Nam – với đường biên giới và hình dạng như ta thấy ngày nay – luôn là một thực thể thống nhất chống lại ngoại xâm đã che phủ một lịch sử phức tạp và thú vị hơn nhiều.

Hai Bà Trưng trên tranh dân gian

Thực tế, dải đất hình chữ S mà ta thấy trên bản đồ hiện nay không phải lúc nào cũng tồn tại ở hình dáng ấy. Giống như Hoa Kỳ, Nga hay thậm chí Trung Quốc, Việt Nam cũng là sản phẩm của quá trình mở rộng thuộc địa của chính mình. Và, như các đế chế khác trong lịch sử, quốc gia này khởi đầu từ một vùng lõi nhỏ trước khi bành trướng thành một thực thể mang hình thái đế chế.

Cái nôi của nền văn minh Việt nằm ở đồng bằng sông Hồng, nơi một nhà nước độc lập, tập quyền với kinh đô Cổ Loa hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, gần thủ đô Hà Nội ngày nay. Dù là một nhà nước sôi động và phát triển vượt bậc so với bối cảnh đương thời, nền độc lập của Cổ Loa đã nhanh chóng chấm dứt khi đế chế Trung Hoa ở phương Bắc bắt đầu cho quân tiến vào vùng biên cương. Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, Trung Hoa giành quyền kiểm soát vùng sông Hồng, biến Việt Nam thành quận cực nam của đế chế, mang tên Giao Chỉ. Khi ấy, lãnh thổ Việt Nam chỉ gói gọn ở đồng bằng sông Hồng và nằm dưới ách cai trị Trung Quốc trong một ngàn năm.

Sự cai trị của Trung Hoa đôi khi rất khắc nghiệt. Đã có những thời khắc người Việt kháng cự quyết liệt, trong đó có cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứ nhất Công nguyên. Quân đội nhà Hán đã được điều động để trấn áp phong trào này. Tuy nhiên, cũng có nhiều người Việt hợp tác với chính quyền Trung Hoa, coi sự cai trị ấy như một phương tiện thúc đẩy cải cách và hiện đại hóa. Trên thực tế, một ngàn năm dưới ách đô hộ đã khiến nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa ăn sâu vào đời sống ở Giao Chỉ.

Hưng Đạo đại vương và trận chiến Bạch Đằng trên tranh dân gian

Các quan lại Trung Hoa giới thiệu những khái niệm mới về luật pháp, thời gian và không gian (như các bộ luật, niên lịch, hệ thống đo lường, trọng lượng và bản đồ), cùng với nghệ thuật quản lý hành chính, vũ khí, giấy và kèm theo đó là hệ thống chữ viết theo ký tự. Văn hóa của tầng lớp tinh hoa ở đồng bằng sông Hồng cũng thay đổi với sự xuất hiện của kiến trúc cung đình, âm nhạc, nghệ thuật và ẩm thực lấy cảm hứng từ Trung Hoa, bao gồm cả việc sử dụng đũa. Trong giai đoạn này, Nho giáo và Phật giáo Đại thừa trở thành một phần của đời sống văn hóa Việt Nam.

Khi đế chế Trung Hoa suy yếu vào cuối thời Đường (618–907), người Việt giành lại độc lập vào thế kỷ 10, nhưng lại mất nó một lần nữa vào đầu thế kỷ 15, khi triều Minh khôi phục đế chế bằng cả biện pháp chính trị lẫn quân sự. Lần đô hộ thứ hai này không kéo dài lâu; đến năm 1427, người Việt lại giành được độc lập sau một cuộc kháng chiến. Song, việc thoát khỏi hệ thống đế chế Trung Hoa không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân không còn hiện diện trong câu chuyện của Việt Nam. Thực tế, nó vẫn là lực đẩy quan trọng định hướng mạnh mẽ trong tiến trình lịch sử.

Tương tự như người Mỹ thoát ly khỏi Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 nhưng sau đó lại tạo dựng một nhà nước thuộc địa riêng của họ bằng cách tiến dần về phía tây ra Thái Bình Dương, người Việt cũng chọn con đường bành trướng. Với sự rút lui của Trung Hoa, người Việt tập trung hướng tới việc kiến tạo đế chế riêng mình, chinh phục các vùng đất phía nam bằng vũ lực, nghệ thuật trị quốc và ý thức hệ thuộc địa theo tinh thần Nho giáo được coi là “ưu việt” mà họ tiếp thu từ Trung Hoa.

Trong bước tiến xuống phương nam, cùng với quân lính, quan lại và dân di cư, các hoàng đế Việt Nam thiết lập những phủ bảo hộ, thúc đẩy việc định cư, đồng thời luân phiên áp dụng hình thức cai trị “trực tiếp” và “gián tiếp” đối với các cộng đồng xa xôi, đa sắc tộc, như một phần trong sứ mệnh khai hóa của mình. Nếu người Mỹ chinh phục các tộc người bản địa và đẩy lùi các đế quốc châu Âu tại Bắc Mỹ, thì người Việt cũng chinh phục người Chăm ở miền Trung, người Khmer thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, cùng nhiều cộng đồng phi Việt ở vùng cao nguyên lân cận.

Triều Lê, tồn tại từ năm 1428 đến 1789 sau khi nhà Minh rút lui, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cuộc tiếp xúc “thuộc địa” này. Khi giành lại Việt Nam và xưng đế vào năm 1428, Lê Lợi cùng những người kế vị đã tái tổ chức nhà nước theo khuôn mẫu Nho giáo. Vị hoàng đế này nhìn thấy cơ hội làm được điều mà các bậc tiền nhân từng thất bại: thiết lập quyền lực tập trung trên một đất nước rộng lớn và khó quản lý. Ông và các thế hệ kế vị thúc đẩy mô hình trị quốc theo tinh thần Nho giáo thông qua việc mở mang trường học, đẩy nhanh các kỳ thi tuyển quan lại, và ban hành bộ luật nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức) mang đậm dấu ấn Nho giáo.

Việc mở rộng lãnh thổ quá nhanh đã châm ngòi cho nội chiến và sự hình thành các thế lực Việt Nam đối nghịch, cạnh tranh quyền kiểm soát một thực thể chính trị đang bành trướng. Dù danh nghĩa cai trị đất nước thuộc về triều Lê, nhưng từ sau khi Trung Hoa rút lui ở thế kỷ 15, thực tế đã hình thành hai Việt Nam: miền bắc do họ Trịnh nắm quyền quân sự, và miền nam do các chúa Nguyễn lãnh đạo trong quá trình bành trướng. Đến thế kỷ 18, nhà Nguyễn ở phương nam đã trở thành một nhà nước gần như độc lập, với triều đình, bộ máy hành chính và quân đội riêng. Mọi nỗ lực của họ Trịnh nhằm đánh bại thực thể này đều thất bại.

Bảo tàng Quang Trung tại Bình Định, nay là tỉnh Gia Lai, gợi nhắc một thời nội chiến của Việt Nam

Nội chiến leo thang trong thập niên 1770, khi ba anh em nhà Tây Sơn, dựa vào làn sóng phẫn uất vì đói nghèo của nông dân vùng cao nguyên miền Trung, đã đánh bật nhà Nguyễn khỏi kinh đô Huế và dồn họ vào các căn cứ trong rừng ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhà Tây Sơn sau đó hướng ra bắc và cuối cùng lật đổ luôn họ Trịnh vào cuối những năm 1780. Nhà Thanh tìm cách can thiệp nhưng bất thành và cuối cùng cũng bị Tây Sơn đánh đuổi.

Tuy nhiên, tàn dư của nhà Nguyễn vẫn bám trụ từ các căn cứ rừng sâu. Thực ra, cuộc nội chiến kéo dài 30 năm chỉ thật sự chấm dứt khi dòng họ Nguyễn có một màn trở lại ngoạn mục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ánh. Vị lãnh đạo quân sự quyết đoán này đã chỉ huy đoàn quân tiến dọc bờ biển, đưa hải quân bắc tiến, đánh bại nhà Tây Sơn rồi lập nên đế chế Việt Nam vào năm 1802. Dáng hình chữ S của Việt Nam ngày nay có từ năm ấy, kết quả của nhiều thế kỷ mở rộng lãnh thổ và nội chiến. Kể từ thập niên 1620, đất nước này đã sống trong chia cắt. Vì thế, việc tồn tại của “hai Việt Nam” ở nửa sau của thế kỷ 20 không phải là điều lạ thường.

Từ kinh đô Huế, Minh Mạng – con trai Gia Long – cai trị thực thể chính trị mới này bằng bàn tay cứng rắn. Lý trí đến mức cực đoan và thông minh hiếm thấy, ông dồn trọn hai thập kỷ trị vì để kiến tạo một quốc gia hiện đại. Ông cai trị với sự khắc nghiệt, không để bất cứ điều gì cản đường. Tương tự những nỗ lực xây dựng quốc gia mà các vua Xiêm và Miến thực hiện ở phía tây biên giới Việt, Minh Mạng tin rằng quyền lực tập trung dựa trên quản trị hành chính hợp lý sẽ giúp cai trị hiệu quả hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Các chính sách hành chính của ông thúc đẩy sự thống nhất lãnh thổ, tập trung quyền lực, phát triển kinh tế và đồng nhất về ý thức hệ. Hệ thống khoa cử được cải tổ để bảo đảm tính minh bạch và chống lại những hệ lụy tiêu cực của nạn gia đình trị cùng nhiều thế kỷ phân quyền cát cứ. Thực tế, việc xây dựng một bộ máy dân sự nắm quyền chỉ huy quân đội – thay vì ngược lại – là ưu tiên của Minh Mạng và là điều kiện cốt lõi để kiến tạo một nước Việt Nam mới.

Về kinh tế, hệ thống thuế do nhà nước quản lý, đánh trên dân cư và hoạt động thương mại, cung cấp nguồn tài chính để đầu tư vào các công trình hạ tầng lớn, nhập khẩu hàng hóa nước ngoài và trả lương cho bộ máy quan liêu ngày càng mở rộng. Việc mở rộng quyền kiểm soát hành chính xuống các tầng nấc thấp hơn cho phép huy động khối lượng lớn nhân công để xây dựng đê điều, đường sá và cầu cống mới. Dưới thời Minh Mạng, triều Nguyễn cho xây dựng Quan lộ chạy từ Hà Nội đến Sài Gòn nhằm giúp việc di chuyển quan lại và binh lính giữa hai miền hiệu quả hơn; đến đầu thế kỷ 20, người Pháp cũng cho trải nhựa con đường này với mục đích tương tự.

Minh Mạng cũng ủng hộ việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Ông mạnh tay trấn áp nạn buôn lậu gạo và thuốc phiện, thay vào đó phát triển hoạt động thương mại do chính quyền quản lý với Singapore, Trung Quốc và phương Tây. Triều Nguyễn cũng tổ chức cộng đồng thương nhân người Hoa thành các bang hội lớn để dễ kiểm soát và đánh thuế.

Những cải cách kinh tế và chính trị này cho thấy triều đại Minh Mạng ở đầu thế kỷ 19 xứng đáng được nhìn nhận nhiều hơn là chỉ một dòng chú thích trong lịch sử Việt Nam cận đại. Điều đó không có nghĩa là ông đã hoàn thành mọi mục tiêu đặt ra, mà thay vào đó cho thấy rằng tính hiện đại ở Việt Nam – cũng như ở bất kỳ nơi nào khác – không phải là một hiện tượng tuyệt đối “có hoặc không,” và cũng không nhất thiết phải đến từ mối liên hệ thuộc địa với phương Tây.

Cũng cần lưu ý rằng việc kiến tạo nước Việt Nam dưới thời Minh Mạng đã khởi phát một làn sóng chinh phục mang tính thuộc địa khác. Trong thập niên 1830, khi cải tổ bộ máy nhà nước, Minh Mạng đồng thời mở rộng lãnh thổ, sáp nhập toàn bộ Campuchia ngày nay và một phần Lào. Nhưng rốt cuộc, vị hoàng đế này đã đi quá xa: khi tìm cách xóa bỏ vương quyền Campuchia, ông đã châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn và kéo theo sự can thiệp quân sự của Xiêm.

Campuchia sau đó giành lại độc lập thông qua một thỏa thuận hòa bình do Xiêm và Việt Nam cùng thương lượng. Nói cách khác, hình dáng chữ S của Việt Nam thực sự chưa bao giờ là một tất yếu lịch sử. Cuối cùng, chính sự can thiệp của Xiêm – chứ không phải của người Pháp – đã cứu Campuchia thoát khỏi sự thôn tính của Việt Nam vào thập niên 1840.

Khi người Pháp áp đặt quyền lực đế quốc của mình tại Việt Nam, họ đã xây dựng bộ máy thuộc địa dựa trên nền tảng sẵn có của nhà nước Việt Nam. Thực vậy, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, được chính thức tuyên bố thành lập năm 1888, phản chiếu một cách lạ lùng ranh giới của “Đại Nam” dưới thời Minh Mạng của những năm 1830, bao gồm cả Campuchia và phần lớn Lào.

Dù hành trình giành thống nhất và độc lập ở thế kỷ 20 là chìa khóa để lý giải lịch sử Việt Nam, nhưng nó thường bỏ qua sự thật rằng chưa từng có một Việt Nam duy nhất, mà nhiều Việt Nam với những diện mạo rất khác biệt. Trong 80 năm dưới ách cai trị của Pháp, người Việt quả thực chịu nhiều đau khổ, nhưng họ không phải lúc nào cũng chỉ là nạn nhân của sự đô hộ. Bởi chính họ cũng từng là những kẻ đi chinh phục.

Các tường thuật chuẩn mực về quan hệ Việt-Trung thường mô tả đó là một lịch sử liên tục chống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Đây là một câu chuyện hấp dẫn đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, bởi nó khơi gợi một truyền thống kháng cự bất tận trước ngoại xâm – không chỉ trong các cuộc chiến chống Pháp và Mỹ giữa thế kỷ 20, mà cả trong xung đột biên giới với Trung Quốc những năm 1980 và các căng thẳng trên Biển Đông hiện nay. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, những câu chuyện “chống Trung Quốc” này đã đơn giản hóa thực tế.

Thay vào đó, cần nhìn nhận rằng Việt Nam – cũng như Triều Tiên và thậm chí Nhật Bản – nằm trong một vị trí đặc thù: từng là một phần của, và luôn phải đối diện với, đế chế khổng lồ mà Trung Hoa đã tạo dựng từ thời Hán (206 TCN – 220 CN). Giống như người Frank và người German (Giéc-manh) đối diện với đế chế La Mã cùng thời, người Việt đã vay mượn nhiều yếu tố từ Trung Quốc. Người Triều Tiên và người Nhật cũng từng làm như vậy ở những thời điểm khác nhau.

Tuy nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ Đế chế La Mã đã sụp đổ vào thế kỷ 5, trong khi đế chế Trung Hoa thì vẫn luôn tồn tại cho đến nay. Họ luôn có khả năng tái lập và thậm chí mở rộng quyền lực của mình.

Công cuộc chinh phục lãnh thổ của người Việt đã dẫn tới sự biến mất của các quốc gia phương nam

Người Việt, cũng như người Triều Tiên, vừa vay mượn từ Trung Hoa để xây dựng quốc gia và văn hóa riêng ở vùng ngoại vi đế chế, vừa phải luôn đề phòng nguy cơ bị kéo ngược trở lại trật tự cũ do Trung Quốc áp đặt. Điều này khiến người Việt luôn tự thuyết phục rằng mình không phải là người Trung Hoa, dù vẫn dựa vào những mô hình từ Trung Quốc, nhưng đồng thời tự xem mình như sứ giả của một nền văn minh “ưu việt” mà họ truyền bá xuống phương Nam thông qua quá trình bành trướng thuộc địa của chính mình. Đó là một hành động cân bằng độc đáo, khó khăn nhưng cũng đầy cuốn hút.

Người Pháp và người Đức không bao giờ phải lo La Mã quay trở lại để nghiền nát họ, hay chế giễu việc họ vay mượn thể chế, thần thoại, ngôn ngữ La Mã, hoặc tự xưng là “Caesar mới” trong châu Âu hậu La Mã với các danh hiệu như Tsar, Czar và Kaiser. Nhưng người Việt thì phải – và phải liên tục – đối mặt với điều này.

Ngày nay, những người cộng sản Việt Nam cũng rơi vào một tình huống tương tự. Họ đã vay mượn rất nhiều từ các mô hình và phương thức cộng sản Trung Quốc, từ cách tổ chức quân sự, xây dựng nhà nước độc đảng, cho đến – kể từ sau cải cách kinh tế thập niên 1980 – việc điều chỉnh kinh tế thị trường nhằm duy trì sự cai trị chuyên chế của đảng cộng sản. Song lãnh đạo Việt Nam vẫn làm điều đó bất chấp bối cảnh giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đang tìm cách mở rộng đế chế của mình vượt ra ngoài phạm vi lục địa.

Mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc – dù trong khuôn khổ cộng sản hay Nho giáo – đặt các nhà lãnh đạo Việt Nam vào tình thế vừa phải dựa vào mô hình Trung Quốc để duy trì quyền lực trong nước, vừa phải đối phó với sự bành trướng của đế chế Trung Hoa trên trường quốc tế. Thế cân bằng này càng trở nên khó khăn khi các lực lượng đối lập trong nước tìm cách làm suy giảm uy tín của đảng bằng việc chỉ ra sự lệ thuộc vào mô hình Trung Quốc.

Tác giả Christopher E. Goscha là một nhà sử học người Mỹ-Canada, hiện là giáo sư chính tại Đại học Québec à Montréal (UQAM), nơi ông giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế, chiến tranh Việt Nam và lịch sử thế giới. Ông chuyên nghiên cứu về Chiến tranh Lạnh ở châu Á, quá trình phi thực dân hóa và các cuộc chiến tại Việt Nam. Goscha bảo vệ luận án tiến sĩ tại École Pratique des Hautes Études (Pháp) năm 2000 với đề tài về Chiến tranh Đông Dương trong bối cảnh xuyên quốc gia. Ông đã biên soạn và xuất bản hơn một chục đầu sách, trong đó có Historical Dictionary of the Indochina War (1945–1954), được tạp chí Choice xếp vào danh sách “Outstanding Academic Titles 2012” (Sách học thuật xuất sắc năm 2012). Năm 2016, Goscha xuất bản cuốn Vietnam: A New History, đoạt giải John K. Fairbank 2017 và được đánh giá là một trong những công trình toàn diện nhất bằng tiếng Anh về lịch sử Việt Nam hiện đại. Gần đây, ông tiếp tục gây tiếng vang với The Road to Dien Bien Phu: A History of the First War for Vietnam, một khảo cứu nhiều chiều cạnh về chiến thắng Điện Biên Phủ của Hồ Chí Minh trước thực dân Pháp – sự kiện được xem như đã báo trước trải nghiệm của Mỹ tại Việt Nam sau này.