Việc lần chuỗi làm cho toàn bộ ngày sống của tôi bình an hơn- Cha Vương

Hôm nay Houston trời đẹp , chúc Bạn và gia quyến ngày ấm áp được Chúa và Mẹ ấp ủ. Đừng quên cầu nguyện cho nhau nhé!

Cha Vương

Thứ 6: 17/10/2025.  (t3-23)

Thánh Jose Maria Escriva chia sẻ tâm tư của ngài về Kinh Mân Côi như sau: Ngày nay cũng như những thời đại khác, Kinh Mân Côi hẳn là một vũ khí đầy sức mạnh giúp chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến nội tâm của chúng ta, và giúp ích cho tất cả mọi linh hồn. Mời bạn tiếp tục suy niệm điều bất ngờ thứ 5 khi bạn chạy đến Mẹ Maria qua Kinh Mân Côi nhé.

Điều Bất Ngờ Thứ 5 khi bạn cầu nguyện thường xuyên với chuỗi Mân Côi là ngày sống của bạn trở nên êm đềm hơn—Đây là những gì mà một trong số các tác giả của chúng ta nói về việc cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi hằng ngày: “Việc lần chuỗi làm cho toàn bộ ngày sống của tôi bình an hơn, như Đức Mẹ đang cùng tôi chiến đấu với những điều tồi tệ.” Mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Tôi ý thức hơn sự hiện diện của Thiên Chúa.” Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi không xóa đi nỗi đau trong đời sống của bạn, nhưng nó thực sự đưa tới cho bạn vũ khí mạnh mẽ hơn nhiều để chiến đấu với những khó khăn ấy.

Xin hãy đọc 10 Kinh Kính Mừng với ý chỉ cầu nguyện cho nỗi khó khăn của chính mình.

From Do Dzung

***************************

Hạt Ngọc Mân Côi Dâng Mẹ || Sáng tác: Thừa Sai – Sóng Tình || Hoàng Hà

Bệnh viện Bà Rịa bị tố không cấp cứu, bỏ mặc nạn nhân đến chết

Ba’o Nguoi-Viet

October 17, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Gia đình một nam thanh niên 19 tuổi, tố bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa không cấp cứu, khiến con họ chết oan sau khi bị tông xe trong lúc nhà thương này bác bỏ cáo buộc.

Trong bài đăng trên mạng xã hội, Facebooker Thanh Xuân kể, hôm 12 Tháng Mười, anh Điểu Đặng Quan Tâm, 19 tuổi, sinh viên trường Đại Học Văn Lang, Sài Gòn, về thăm nhà tại xã Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trước đây, nay thuộc TP.HCM.

Anh Điểu Đặng Quan Tâm và bài đăng của gia đình tố bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa tắc trách. (Hình: Chụp qua màn hình)

Khi từ nhà quay lại Sài Gòn, nam thanh niên bị đụng xe, nằm co giật trên đường và được đưa vào bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa.

Theo bài đăng, nhà thương này chờ thân nhân anh Tâm đến thì mới tiến hành cấp cứu cho nạn nhân trong lúc gia đình anh này không hề hay biết sự việc.

Một bác sĩ sau đó kể lại giây phút cuối, anh Tâm thều thào gọi “Chúa, Chúa” rồi qua đời vào sáng hôm sau.

Đến trưa hôm 13 Tháng Mười, cha mẹ anh Tâm thấy tin con trên Facebook nên đến nhà xác của bệnh viện đón về lo hậu sự.

Nhiều Facebooker sau đó chia sẻ bài đăng, kêu gọi công lý cho nạn nhân.

Tờ Người Lao Động hôm 17 Tháng Mười dẫn phản hồi của Bác Sĩ Dương Thanh, giám đốc bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa rằng bài đăng của người nhà anh Tâm là “chưa chính xác, gây ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động chuyên môn của bệnh viện.”

Nhà thương này đề nghị Công An TP.HCM điều tra và xử lý các thông tin sai sự thật được đăng tải trên mạng xã hội.

Thông cáo báo chí của bệnh viện Bà Rịa cho biết vào chiều ngày 12 Tháng Mười, Khoa Cấp Cứu tiếp nhận một nam thanh niên chưa rõ họ tên, được xe cứu thương đưa vào trong tình trạng “bệnh kích thích, không tiếp xúc được, không có thân nhân đi cùng.”

Bệnh viện này cho rằng nam thanh niên, tức anh Điểu Đặng Quan Tâm “đã được khám bệnh, chỉ định thực hiện cận lâm sàng và chữa trị” trước khi rơi vào hôn mê sâu và thiệt mạng.

Bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa. (Hình: Người Lao Động)

Bệnh viện sau đó làm thủ tục chuyển thi thể vào nhà xác do chưa xác định được thân nhân của anh Tâm.

Facebooker Diễm Đặng, chị của anh Điểu Đặng Quan Tâm, viết trên trang cá nhân: “…Tại sao bệnh viện [Bà Rịa] lại không cứu người khi chưa có người nhà?  ‘Lương y như từ mẫu’ để làm gì? Bệnh viện lập ra để cứu người hay để chỉ cứu những ai có người nhà, có tiền? Một mạng người ra đi, không ai báo tin cho gia đình, không ai đứng ra giúp đỡ. Công lý ở đâu? Lương tâm ở đâu?” (N.H.K) [kn]


 

CÙNG CÕI ĐỊA CẦU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Dù chỉ là một tân tòng – Luca được mừng kính hôm nay là một nhà truyền giáo, một sử gia, một tác giả lớn của hơn 1/4 sách Tân Ước. Như một công cụ sắc bén, Luca mang thông điệp cứu độ của Thiên Chúa đến mọi dân nước, mọi thế hệ ở ‘cùng cõi địa cầu’.

Tại Troa, thầy thuốc Luca xin trở lại, làm đồ đệ của Phaolô, “Chỉ một mình Luca ở với tôi!” – bài đọc một. Đồ đệ này đã cống hiến hai công trình nền tảng là Tin Mừng thứ ba và Công Vụ Tông Đồ – ‘nhật ký đầu đời’ của Giáo Hội. Không thể hiện sự am tường về niềm tin và tập tục, Luca chú tâm vào những gì cần cho lương dân: một Thiên Chúa xót thương, chữa lành. Chỉ Luca đề cập con số “72”; các Phúc Âm khác chỉ nói “Nhóm 12”. Vì thế, “Nhóm 72” là biểu tượng cho sự chuẩn bị mọi lương dân ở ‘cùng cõi địa cầu’. “Người thầy thuốc đích thực chữa lành linh hồn trước khi chữa lành thân xác!” – Hippocrates.

Chỉ với Luca, chúng ta nợ ngài về những kiến thức của mầu nhiệm Nhập Thể; các khoản rõ ràng như Magnificat, Benedictus và Nunc dimittis. Với biến cố Truyền Tin – Luca như thể thấp thỏm sau khuê phòng Maria trinh bạch – nơi Gabriel cho biết, cô sẽ là Mẹ Cứu Chúa. Và cũng chỉ với Luca, chúng ta nợ ngài về những gì xảy ra ở Lễ Ngũ Tuần; và sau đó, các hoạt động của Thánh Thần trong buổi lâm bồn của Hội Thánh. “Mầu nhiệm Nhập Thể khởi đầu trong tiếng thì thầm, và kết thúc trong cơn gió mạnh của Thần Khí!” – Fulton Sheen.

Các học giả khảo cổ đánh giá cao Luca. William Ramsay gọi “Luca là nhà sử học hạng nhất với những tuyên bố thực tế đáng tin cậy… được xếp với những sử gia vĩ đại nhất!”; E. M. Blaiklock, “Một sử gia xuất sắc, ngang hàng với các văn sĩ vĩ đại Hy Lạp!”; N. L. Geisler, “Luca kể tên 32 miền, 54 thành và 9 hòn đảo mà không một sai sót!”. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong sự nghiệp cầm bút, Luca không viết với tư cách sử gia mà là một nhà truyền giáo công bố sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa và sự chữa lành của Ngài. Có truyền thống cho Luca là một hoạ sĩ; một tác phẩm nổi tiếng về Đức Maria được gán cho Luca. Vì thế, Luca được coi là thánh bảo trợ các nghệ sĩ và các bác sĩ.

Anh Chị em,

“Bảy mươi hai môn đệ khác!”. Chúng ta là những “môn đệ khác” được chỉ định và sai đi như “Kẻ hiếu trung với Chúa được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” – Thánh Vịnh đáp ca. Hãy là “kẻ hiếu trung” giúp người khác nhận biết vinh quang Nước Chúa! Hãy cầu nguyện cho một ai đó, một số người nào đó; đừng ngần ngại trở thành một nhà truyền giáo với những phương tiện tuyệt vời ‘sẵn trên tay!’. Khi làm vậy, chúng ta có thể tạo nên ‘một sự khác biệt vĩnh viễn’ trong cuộc sống của một ai đó, ở một góc trời nào đó. Với Luca, bạn và tôi tiếp tục ra đi loan Tin Mừng cứu độ cho đến ‘cùng cõi địa cầu!’. “Được sai đi không phải là đi xa, nhưng là hiện diện thật gần!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết rằng, có thể con chỉ là một trong bảy mươi hai môn đệ, nhưng với ai đó, con có thể là người duy nhất!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

********************************

Lời Chúa Kính Thánh LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG, Thứ Bảy Tuần XXVIII Thường Niên

Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 10,1-9

1 Khi ấy, Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói : ‘Bình an cho nhà này !’ 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ : ‘Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông’.”


 

TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT, NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC CỦA ĐẤT GIA ĐỊNH THÀNH

Kimtrong Lam                                                   

TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT, NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC CỦA ĐẤT GIA ĐỊNH THÀNH.

       Trong ký ức của người Sài Gòn-Gia Định sinh trưởng vào những thập niên 1940 -1950 trở về trước, hình ảnh “Lăng Ông Bà Chiểu” là một trong những biểu tượng đậm nét, nhất là vào những ngày lễ Tết, việc đi viếng Lăng Ông trở thành một tập quán thiêng liêng mà mỗi gia đình đều không bao giờ sơ suất. Trong nghi ngút khói hương thành kính, lòng mỗi người nhớ về Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định Thành, như một nhân vật lỗi lạc đã góp công lớn trong việc gầy dựng vương triều Nguyễn, mang lại thái bình thịnh trị cho một dải đất trải dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên và tạo được thế mạnh trong quan hệ với các nước láng giềng.

* LÊ VĂN DUYỆT – HỔ TƯỚNG THỜI NGUYỄN ÁNH – GIA LONG.

      Năm 1763, khi cư dân Lê Văn Toại, người gốc Quảng Ngãi, chứng kiến sự ra đời của cậu bé Lê Văn Duyệt tại vàm Trà Lọt – Định Tường (nay thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang), nhìn thấy tình trạng bất túc (về cơ quan sinh dục) của con trai, ông chẳng bao giờ nghĩ rằng có một ngày nào đó, con mình trở thành một nhân vật hiển hách bậc nhất triều đình.

     Trong thời thơ ấu, cậu bé Duyệt chỉ có một đam mê lớn nhất là … đá gà. Thế rồi năm 1780, một bước ngoặt xảy ra khi ông tình cờ gặp được chúa Nguyễn Ánh đang trên đường ẩn lánh trước sự truy đuổi của quân Tây Sơn. Với thể trạng bất túc bẩm sinh, Duyệt chỉ có thể làm một Thái giám tầm thường chuyên phục vụ nội cung. Thế nhưng, ông đã không cam lòng với thân phận đó, vì sau những bước gian truân cùng chúa Nguyễn nơi đất khách, ông đã chứng tỏ cho mọi người một nhãn quan nhạy bén về quân sự, một khả năng cầm quân đầy hứa hẹn.

      Nhờ đó, vào năm 1793, từ một Thuộc nội Cai đội (chánh ngũ phẩm), Lê Văn Duyệt được thăng Thuộc nội Vệ úy (chánh tam phẩm), một biệt lệ chưa từng thấy trong giới hoạn quan lúc bấy giờ.

      Những năm cuối thập niên 1790, khi nhà Tây Sơn, sau cái chết của nhà lãnh đạo kiệt xuất Quang Trung-Nguyễn Huệ (1792), đã để lộ những khiếm khuyết trầm trọng, từ sự lộng quyền của Thái sư Bùi Đắc Tuyên đến những mâu thuẫn nội bộ hoàng gia, Lê Văn Duyệt tỏ rõ là một dũng tướng dưới trướng chúa Nguyễn Ánh, không một trận đánh nào do ông cầm quân mà thất bại. Hiển hách nhất là trận Thị Nại vào tháng giêng âm lịch năm 1801, trận đánh quyết định cho cả một cuộc chiến.

     Lúc này, ông đã là Đô Thống chế Tả dinh quân thần sách, hàm Tòng nhất phẩm. Trong trận thủy chiến sống mái với hổ tướng Tây Sơn Võ Văn Dũng, bộ tướng của ông là Võ Di Nguy bị trúng đạn tử thương, chúa Nguyễn Ánh muốn lui binh, nhưng ông thân hành cầm quân xốc tới, dùng hỏa công thiêu cháy hầu hết thuyền chiến Tây Sơn. Sử xác định đây là võ công lớn nhất trong cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn.

      Sau khi vua Gia Long lên ngôi (1802), kết thúc một thời kỳ biến động dài trên đất nước, võ nghiệp của Lê Văn Duyệt không vì thế mà kém hào hùng. Ở Quảng Ngãi, có người Man Thạch Bích thường gọi là “Mọi Đá vách”, rất nhiều lần nổi lên đánh phá, quan quân địa phương không trừ nỗi, cứ mỗi lần như thế, dù ở triều đình hay ở Gia Định Thành, Lê Văn Duyệt đều được điều ra đó để dẹp yên. Đặc biệt năm 1819, ông được cử đi kinh lược đất Thanh Hóa, Nghệ An, nghe oai danh ông, bọn giặc cướp tại địa phương vừa ra hàng, vừa giải tán, chỉ sau một thời gian ngắn, tình hình rối ren chấm dứt; ông dâng sớ xin chấn chỉnh bộ máy cai trị ở địa phương, tha thuế cho dân, từ đấy hai trấn này yên hẳn (Quốc triều sử toát yếu – NXB Văn học, Hà Nội 2002, trang 138).

* LÊ VĂN DUYỆT – NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC.

     Cùng với Bắc Thành, Gia Định Thành là tổ chức hành chánh đặc biệt thời Gia Long, gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên), trải dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên, phần lớn là đất mới thu phục, dân cư ô hợp từ khắp nơi tụ hội về sinh sống. Năm 1812, Lê Văn Duyệt được cử làm Tổng trấn Gia Định Thành, quyền hạn cao hơn cả cấp Thượng thư. Ông không chỉ là một hổ tướng, mà còn là một nhà cai trị lỗi lạc. Tính chung, thời gian ông đảm trách chức chưởng Tổng trấn là hơn 15 năm, gồm 3 năm thời Gia Long (1812-1815) và 12 năm thời Minh Mạng (1820-1832), đủ để ông làm được nhiều điều, cả ở cương vị một quan cai trị lẫn người đại diện triều đình trong giao dịch, ứng xử với lân bang.

        Nhận thấy đất Gia Định phần nhiều là dân tứ chiếng giang hồ, đời sống phức tạp, dễ gây ra tình trạng rối loạn về trật tự trị an, ông cho thành lập các đồn điền, dồn những kẻ du thủ vào đó, vừa tiện giúp đỡ họ mưu sinh, vừa dễ kiểm soát. Chẳng bao lâu, số dân đinh tại những nơi này tăng lên rõ rệt. Có lần, vua Minh Mạng đã ban dụ khen ngợi Tả Quân về việc này, vì sự gia tăng số cư dân kiểm tra được chứng tỏ chính sách an dân thực hiện có hiệu quả. Riêng đối với giặc cướp tại địa phương, “Duyệt đặt ra những điều luật ngăn cấm minh bạch, ra lệnh cho các quan chức sở tại mật báo quan biết những tên giặc cướp đó để bắt ngay chúng về trừng trị, lại ra thông cáo cho giặc cướp biết nếu chúng tự mình ra thú, thời sẽ được thu dụng. Từ đó trở đi, giặc cướp mới hết, dân cư nhờ thế mà được yên …”. (Giá Sơn Kiều Oánh Mậu – Bản triều bạn nghịch liệt truyện – Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn – 1963 – trang 23).

      Về bản thân nhà cai trị, cho dù là quan đại thần nhất phẩm triều đình, ông luôn tỏ ra khắt khe, nghiêm cẩn với chính mình. Năm 1825, một viên chức thuộc tào Binh tại Gia Định là Bùi Phụ Đạo lỡ tay đóng triện ngược trong sổ binh dâng về triều, vua Minh Mạng giao cho đình thần nghị xử, cho dù sơ suất đó không có gì là lớn lao. Được tin này, Tả quân cho rằng đó là lỗi mình không trông nom nên dâng biểu xin nhận tội. Vua Minh Mạng đã miễn trách và ban dụ rằng: ”Duyệt là bậc đại thần ở nơi bờ cõi, phàm trong hạt việc lợi thì làm, việc hại thì bỏ, người có tài thì tiến lên, người không tài thì bãi đi, khiến quan lại được xứng chức, nhân dân được yên nghiệp, như thế thì quan to sợ phép, quan nhỏ giữ liêm, ai là không biết khuyên răn, phép làm cho quan lại trong sạch như thế chẳng là đẹp tốt sao? Điều mà trẫm đòi ở Duyệt là ở đó, mà Duyệt làm được xứng chức cũng là ở đó …”. (Đại Nam thực lục – tập 2 – NXB Giáo Dục – 2004 – trang 464).

     Nhận xét về ông, những lời lẽ trên của vua Minh Mạng tưởng là đã quá đủ. Tinh thần trách nhiệm mà ông thể hiện đến nay vẫn còn có giá trị thực tiễn cho hậu thế. Bản tính ông thẳng thắn và trung thực nên có những việc làm không chính đáng của triều đình là ông phản ứng ngay.

    Những năm 1826 -1827, triều đình lấy cớ hai viên chức người Pháp là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đã xin về Pháp, không còn ai làm thông ngôn, yêu cầu các địa phương vận động giáo sĩ Pháp về Huế đảm trách giúp việc này. Trong chức trách của mình, Lê Văn Duyệt vận động hai giáo sĩ Gagelin và Odorico ra Huế; nhưng không lâu sau, ông được biết việc tìm thông ngôn chỉ là cái cớ, mục đích chính của triều đình Huế là giam lỏng hầu hết các giáo sĩ tại kinh thành, trong đó có cả Giám mục Taberd.

     Cảm thấy có trách nhiệm trong chuyện này, ông vội vàng cho sao một số trong 14 bức thư mà chúa Nguyễn Ánh đã viết gửi cho Giám mục Bá Đa Lộc cùng một số giáo sĩ và viên chức Pháp (để yêu cầu hỗ trợ đánh nhà Tây Sơn) vào những thập niên cuối thế kỷ 18, rồi xin ra Huế bệ kiến nhà vua. Sau một thời gian chờ đợi, ông được vua Minh Mạng cho về triều để dự lễ lục tuần khánh tiết (mừng thọ 60 tuổi) của Thuận Thiên Hoàng Thái hậu. Mấy tháng sau chuyến đi đó của ông, Giám mục Taberd và các giáo sĩ được thả về địa phương.

Trong bức thư đề ngày 8.2.1828 đăng trên Tập san Truyền bá Đức tin (tập IV), Giám mục Taberd đã viết về ông như sau: ”… Ông xứng đáng được người Pháp nhớ ơn …Ông được gọi là Thượng công, là người đầu tiên và cũng là người duy nhất trong số các quan lại được nhà vua nễ sợ … Những quan lại khác cũng rất yêu mến ông, bởi vì họ biết rằng ông là người chính trực; bọn trộm cướp rất sợ ông vì chúng biết là rơi vào tay ông sẽ bị chém đầu, mà không có hi vọng gì dùng tiền bạc để mua chuộc ông, như đã mua chuộc nhiều người khác …”. (Bulletin des Amis du Vieux Hue số 1 năm 1926, trang 2-3).

* Về mặt giao dịch với lân bang.

Ông là người đã mang lại cho triều đình Huế một uy tín lớn lao nhất trong con mắt các láng giềng. Năm 1813, trong lúc nội tình Chân Lạp (Campuchia ngày nay) rối ren, nước Xiêm (Thái Lan) có ý mang quân sang thực hiện những ý đồ định sẵn, ông thân hành dẫn hơn 13.000 quân đưa quốc vương Chân Lạp là Nặc Chân về nước. Đến nơi, ông ban ngay quân lệnh nghiêm cấm cướp phá dân lành, vỗ về trăm họ, quân Xiêm thấy thế vội rút về nước.

      Từ đó, vua Chân Lạp xem triều đình Huế là chỗ dựa vững chắc trước sự đe dọa của những lân quốc khác. Hàng năm, cứ vào chiều 30 Tết, quốc vương Chân Lạp thân hành đến Sài Gòn để sáng mùng một Tết, cùng Tả Quân Lê Văn Duyệt tới Hành cung trong thành Gia Định vọng bái hoàng đế Việt Nam và sau đó ra Đồng Tập Trận (sau Pháp gọi là Plaine des Tombeaux: Đồng mả mồ) xem binh sĩ thao diễn. Đó cũng là dịp để Tả quân cho người lân quốc tỏ rõ sức mạnh quân sự của Việt Nam.

     Tuy nhiên, không chỉ giao dịch với lân quốc trên thế mạnh, ông còn biết hành xử hợp với lẽ phải ở đời. Có lần Chân Lạp mang tặng nước ta 80 con voi, ông thấy nước bạn còn nghèo, lại không thể không nhận voi, nên tâu xin và được vua Gia Long cho xuất kho tặng lại họ một khoản tiền tương xứng với số voi nhận về … Vào thời ấy, các sứ bộ Việt Nam đi sang Diến Điện (Miến Điện, nay là Myanmar) trở về kể rằng khi tiếp sứ, quốc vương nước này vẫn thường bắt đầu cuộc nói chuyện bằng câu hỏi: ”Lê công có khỏe không?”. Điều này cho thấy oai danh ông khiến cả vùng Đông Nam Á nễ phục.

* LÊ VĂN DUYỆT – ĐÔI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG.

    Sử chép rằng Tả quân Lê Văn Duyệt là người tính tình bộc trực đến độ ngang tàng. Năm 1800, trong một trận đánh, ông là Phó tướng của Nguyễn Văn Thành, trước khi xung trận, Thành rót rượu mời ông: ”Uống rượu để thêm sức mạnh”, ông từ chối thẳng thừng: “Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi thời trước mắt coi không trận dữ, cần chi phải uống rượu …”. (Quốc triều chánh biên – Nhóm nghiên cứu Sử Địa Sài Gòn – 1972 – trang 37). Ông Thành cả thẹn, từ đấy hai người ít gần gủi nhau như trước.

     Trong thời gian ông tại chức Tổng trấn Gia Định Thành, dinh cơ của ông trải dài từ đường Thái Văn Lung ngày nay đến sau dinh Thống Nhất. Tư thất phu nhân Tả quân, bà Đỗ Thị Phẫn (vốn là một cung nữ, được vua Gia Long thưởng cho ông để làm bầu bạn), nằm trong khuôn viên dinh Thống Nhất ngày nay. Vườn hoa nơi ông đến để ngắm hoa, người đương thời gọi là Vườn Ông Thượng (thời Pháp thuộc là vườn Bồ-Rô, sau là vườn Tao Đàn, nay là Công viên văn hóa thành phố) vì danh nghĩa Thượng công là tiếng xưng hô phổ biến nhất trong dân gian.

    Cuộc sống thanh đạm, bình dị của Tả quân được George Finlayson, một thành viên trong phái bộ Crawfurd của Anh đến Sài Gòn năm 1822, miêu tả trong một bút ký kể lại lần được diện kiến ông và được ông cho xem trận voi hổ quyết đấu: …”Tư thất của ông to lớn nhưng giản dị, cả bên trong lẫn bên ngoài đều không có trang trí gì … Quan Tổng trấn ngồi ở cuối phòng, trên một cái sập rất đơn giản, rộng khoảng 4 m2, có trải chiếu và đặt một, hai chiếc gối tựa. Trên một cái sập thấp hơn, kê ở phía trái, là chỗ ngồi của ông Phó Tổng trấn, một cụ già dung mạo tao nhã, có lẽ tuổi đã quá thất tuần … Quan Tổng trấn, như lời thiên hạ kể, là một hoạn quan, vẻ mặt của ông xác định điều đó. Ông vào khoảng 50 tuổi (năm 1822, ông Duyệt 59 tuổi – LN), có cái nhìn thông minh và một vẻ năng động mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh thần. Gương mặt ông tròn trịa và hiền lành, không râu và có những nếp nhăn. Trang phục của ông chẳng những giản dị mà còn có vẻ thiếu chăm chút, như áo quần của những kẻ nghèo khổ nhất …”.

* CHÚT HUYỀN SỬ VỀ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT

      Sau khi Tả quân Lê Văn Duyệt qua đời vào tháng 7 âm lịch năm 1832, trong con mắt người dân Sài Gòn – Gia Định xưa, ông là hiện thân của sự oai linh và hiển hách. Năm 1835, cuộc nổi dậy do người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi và các tướng sĩ tại thành Phiên An khởi xướng bị triều đình Huế đánh tan, dù mất đã lâu, ông vẫn bị triều đình khép vào 7 tội trảm (xử chém), 2 tội giảo (treo cổ), ngôi mộ ở lăng Ông ngày nay bị xiềng lại và dựng tấm bia khắc tám chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ”. (Nơi chịu tội của tên hoạn quan lộng quyền Lê Văn Duyệt).

     Sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện kể rằng: ”Mộ của Duyệt ở bên thành Gia Định từ Minh Mạng năm 16 (1835) trở đi, những lúc trời âm u, đêm yên tĩnh, có tiếng ma quỷ khóc than, hoặc tiếng ồn ào người ngựa; dân cư nơi đó không dám lại gần, người đi đường đều dời lối khác để tránh đi. Đến lúc ấy, vua sai quan địa phương đem giấu bỏ tấm bia và cho con cháu tự ý sửa chữa ngôi mộ, thì tiếng ma quỷ trong ban đêm mới dứt …”. (Sđd – trang 67, 69).

     Những câu chuyện truyền tụng đó không có thật về mặt khoa học, nhưng về mặt tâm linh, nó phản ảnh sự đồng cảm của cư dân đất Gia Định trước nỗi oan khuất của một lão thần từng vào sinh ra tử, góp công lớn trong việc xây dựng vương triều Nguyễn, nhưng chỉ vì sự u mê, hẹp hòi của đấng quân vương mà sau khi mất rồi, vẫn còn bị đối xử như một kẻ tội đồ …

****

VÌ SAO ĐÃ CÓ MỘT THỜI TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT ĐƯỢC COI LÀ NHÂN VẬT “CÓ VẤN ĐỀ”?

     Năm 2009, trong một cuộc trả lời phỏng vấn của tạp chí Đương Thời số 4 (28), tháng 4.2009, trước yêu cầu trình bày quan điểm về các “nhân vật phức tạp” Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, tôi đã trình bày ý kiến về nhân vật Lê Văn Duyệt như sau:

   “… – Những gì xảy ra trong quá khứ cho chúng ta thấy rằng các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, thường được nhìn dưới nhiều lăng kính khác nhau, song có một thứ lăng kính không bao giờ méo mó hay sai lạc, đó là “lăng kính nhân dân”. Sự tồn tại của lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông Bà Chiểu), đền thờ Kinh lược sứ Phan Thanh Giản, sau nhiều biến chuyển của thời cuộc, đã nói lên điều đó.

    Có một thời, chúng ta quá “rạch ròi” trước cái tốt và cái xấu, cái gì chúng ta cho là tốt thì tốt toàn diện, cái gì chúng ta cho là xấu thì xấu triệt để. Nhưng lịch sử không có cái gì tuyệt đối cả. Chúng ta đánh giá nhà Tây Sơn là “toàn diện” nên cái gì đi ngược lại, chống lại quan điểm, sự tồn tại của nhà Tây Sơn thì đều là “phi nghĩa” hết. Nếu bình tâm mà xét, bên cạnh chiến công hiển hách mà người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ đã lập được trong công cuộc chống ngoại xâm năm 1789, nhà Tây Sơn sau năm 1792 chỉ còn là một bóng mờ của quá khứ, vua Cảnh Thịnh còn quá nhỏ, không tạo được một dấu ấn nào, đại thần lộng quyền làm điều xằng bậy, anh em trong nhà chống lại nhau …

Trong tình cảnh đó, sự sụp đổ của nhà Tây Sơn trước lực lượng quân sự hùng mạnh của chúa Nguyễn Ánh là điều dễ hiểu. Cứ nhìn cách cư xử của người dân Bắc hà đối với vua tôi Cảnh Thịnh trong bước khốn cùng (năm 1802) cũng thấy được điều này. Tôi cho rằng chính quan điểm coi nhà Tây Sơn là “toàn diện” đã gián tiếp đưa những người từng góp công lớn trong việc kết thúc triều đại này vào hàng ngũ “phản diện”.

    Lê Văn Duyệt là một ví dụ tiêu biểu. Khi cư xử với ông như vậy, người ta quên rằng ông không dính dáng gì đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp, vì khi đó, ông đã mất gần 30 năm rồi; mảnh đất miền Nam trải dài từ Bình Thuận vào đến Hà Tiên giặc cướp không dám nổi dậy, người dân an cư lạc nghiệp, các lân bang hết sức tôn trọng triều đình Huế, là nhờ có ông. Khi còn nhỏ, đi học gần lăng ông, tôi thường nhìn thấy rất nhiều người Hoa đến đó thắp hương với tất cả niềm thành kính, và tôi ngộ ra rằng lòng biết ơn của con người thật kỳ diệu, nó không phân biệt quốc tịch, giai cấp hay những giá trị phù phiếm nào khác.

Tôi nghĩ rằng có lẽ cũng do quan điểm “toàn diện” trên, mà có một thời, các chúa Nguyễn cũng được xếp vào hàng ngũ những kẻ “phản động nhất trong lịch sử” và không ít người nhất định cho rằng triều Nguyễn để mất nước là do đã bế quan toả cảng (đến nay vấn đề này vẫn còn tranh cãi) và cấm đạo, cứ làm như thể nếu không có hai chính sách đó thì thực dân Pháp sẽ khoanh tay ngồi yên để chúng ta duy trì sự độc lập dài dài vậy. Sự chú tâm vào một quan điểm bảo thủ duy nhất khiến đôi lúc chúng ta quên đi một yếu tố quá rõ ràng là hành động của thực dân Pháp nằm trong khuôn khổ một kế hoạch tranh giành thuộc địa gay gắt với thực dân Anh tại châu Á lúc bấy giờ; và vào giữa thế kỷ XVIII, nghĩa là khoảng 100 năm trước ngày Pháp chiếm Việt Nam, theo đề xuất của một lái buôn Pháp là Pierre Poivre, Chính phủ Pháp từng cử người (Bá tước d’Estaing) mang quân đánh úp Phú Xuân của ta (cuộc hành trình bị bỏ dở nửa chừng tại eo biển Malacca vì những nguyên nhân khách quan).

    Cuối cùng, chỉ xin nhớ một điều là năm 1558, khi Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá thì giang sơn của ta chỉ mới đến Bình Định ngày nay, nếu các chúa Nguyễn không có những chính sách nội trị và ngoại giao sáng suốt, nếu đất nước không có những con người tài năng và tâm huyết như Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thoại, … thì chúng ta không thể có được dải giang sơn kéo dài đến tận mũi Cà Mau như bây giờ. Chỉ cần quên đi điều này, chúng ta đã biến mình thành những kẻ vô ơn đối với người đi trước rồi …”. (hết trích).

     Đã hơn 16 năm qua rồi, song hẳn là những quan điểm ấy vẫn chưa phải là thừa!

Sài Gòn 17.10.2025

    Lê Nguyễn

—– 

Nguồn: FB Lê Nguyễn.


 

TÔ LÂM ĐANG BỊ MẮC KẸT TRÊN CHÍNH CÁI NGAI VÀNG MÀ MÌNH C.Ư.Ớ.P ĐƯỢC

Việt Tân 

TÔ LÂM ĐANG BỊ MẮC KẸT TRÊN CHÍNH CÁI NGAI VÀNG MÀ MÌNH C.Ư.Ớ.P ĐƯỢC

Tô Lâm đã c.ư.ớp được ngai vàng. Nhưng rồi ông ta nhận ra c.ư.ớp thì dễ, giữ mới khó.

Bởi cái ngai ấy không hề có tính chính danh, nó được dựng lên không phải bằng niềm tin, sự ủng hộ mà bằng sợ hãi, nghi kỵ, và những bộ hồ sơ tham nhũng mà chính ông từng dùng để leo lên tranh ghế.

Giờ đây, mỗi khi ông ngồi xuống, chiếc ngai lại kêu răng rắc như tiếng xương của cả hệ thống đang nứt dần.

Triều đại Tô Lâm mở màn bằng Nghị định 168, cây roi thép quất thẳng vào dân, tăng mức phạt giao thông, siết tự do, và chính thức khai sinh thời kỳ công an trị đậm đặc.

Rồi đến việc bỏ thuế khoán, khiến hàng vạn tiểu thương lao đao, chợ truyền thống vắng như sau bão.

Người ta nói đùa: “Thời Tô Lâm là thời đánh tư sản phiên bản 2.0” , từ tiệm vàng, doanh nghiệp… ai sơ sẩy là thành tội phạm, ai muốn yên thân thì phải biết “nộp lễ” cho yên cửa yên nhà.

Siết dân bằng kinh tế vẫn chưa đủ, Tô Lâm còn muốn bịt miệng dân bằng công nghệ.

Bộ Công an dưới thời ông nắm trọn Luật An ninh mạng, quản lý viễn thông, kiểm soát dữ liệu người dùng, mạng xã hội, và cả thông tin thuê bao điện thoại.

Hàng trăm người bất đồng chính kiến bị bắt, hàng ngàn tài khoản bị chặn, và hàng triệu người dân học cách im lặng để tồn tại.

Đó không còn là bảo vệ an ninh quốc gia mà là bóp nghẹt tiếng nói của nhân dân, để duy trì sự sợ hãi làm công cụ cai trị.

Nhưng Tô Lâm không chỉ đánh dân, ông ta còn đánh cả đồng chí.

Bằng cách dồn mọi quyền lực, dự án, ngân sách về Bộ Công an, ông khiến các Bộ khác chỉ còn là phông nền trên sân khấu quyền lực.

Bằng cách đưa người nhà, đồng hương Hưng Yên vào những vị trí trọng yếu, ông biến guồng máy thành “Hưng Yên trị”, ” gia đình trị”.

Và bằng việc công khai bắt tay với những cái tên từng bị xem là “thế lực cũ” như Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, ông đã đâm thẳng vào cấm kỵ mà Nguyễn Phú Trọng để lại.

Ông ta mượn danh “chống tham nhũng” nhưng thực chất là triệt hạ và khống chế phe đối thủ.

Ông nói “tinh gọn bộ máy” nhưng lại chỉ tinh gọn phần của thiên hạ, còn Bộ Công an thì phình to như cái bóng bao trùm cả chính quyền.

Chỉ trong chưa đầy một năm, Tô Lâm chọc giận dân, chạm nọc Đảng, và làm rạn cả quân đội.

Bộ Công an giờ quyền lực đến mức Bộ Quốc phòng cũng phải dè chừng.

Những tin đồn rằng Phan Văn Giang được nhiều phiếu tín nhiệm hơn Tô Lâm, và sự cố đọc nhầm chức danh trên sóng truyền hình, không phải ngẫu nhiên mà có. Đó là phép thử dư luận, và kết quả rõ ràng: dân nghiêng về quân đội, chứ không tin vào một kẻ khoác áo công an trị.

Tô Lâm giờ đây sống trong lo sợ. Ngai vàng của ông được dựng bằng quyền lực và nỗi sợ hãi, nên chỉ cần một vết nứt niềm tin, tất cả sẽ sụp đổ.

Người ta tưởng ông thắng. Nhưng thật ra, ông chỉ đang bị kẹt trên chính đỉnh quyền lực do mình dựng lên. Leo càng cao, càng cô độc. Mà càng cô độc, càng dễ ngã.

Tô Lâm đã đánh mất niềm tin của dân, mất lòng đồng đảng, và cả chỗ dựa từ những người từng giúp ông leo lên. Lịch sử cho thấy, không một triều đại nào có thể tồn tại lâu dài nếu chỉ biết cai trị, đàn áp và bóc lột nhân dân.

Ngai vàng của Tô Lâm không cần ai lật đổ, nó đang tự cháy từ bên trong.

Cô Ba


 

Cái Chết Oan Ức Của Nữ Phóng Viên Đặng Tuyền (Hải Đường)

Tri Nguyen Ông Tám 

Cái Chết Oan Ức Của Nữ Phóng Viên Đặng Tuyền (Hải Đường)

Đặng Thị Tuyền, bút danh Hải Đường, sinh năm 1983 tại huyện Thường Tín, Hà Nội, là một nữ phóng viên tài năng, đầy nhiệt huyết của Văn phòng đại diện Báo Pháp luật TP.HCM tại Hà Nội. Với cây bút sắc bén, chị đã có nhiều bài viết điều tra sâu sắc về các vấn đề xã hội, pháp luật, từ những vụ việc oan sai đến các bất cập trong quản lý đất đai và tham nhũng địa phương. Không ít lần, Hải Đường phải đối mặt với đe dọa, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng khi lật tẩy những góc khuất đen tối của xã hội.

Là một người mẹ đơn thân, chị một mình nuôi dạy cậu con trai 6 tuổi – Trần Đặng Trường Giang – bằng nghề viết báo kết hợp mở quán bún đậu mầm và làm gia sư tiếng Pháp. Cuộc sống của chị giản dị nhưng đầy nghị lực, luôn tràn đầy tình yêu thương dành cho gia đình và niềm đam mê với nghề báo. Thế nhưng, vào ngày 11/6/2018, mọi thứ đột ngột dừng lại khi chị mất tích sau một buổi tác nghiệp tại huyện Thanh Trì. Thi thể chị được tìm thấy vào chiều hôm sau, trôi dạt trên sông Hồng, cách bến đò thôn 1, xã Vạn Phúc khoảng 2km, trong tình trạng không một dấu vết rõ ràng về nguyên nhân tử vong.

Cái chết của Hải Đường không chỉ là nỗi đau mất mát mà còn là một bí ẩn đầy oan ức, khiến dư luận và gia đình không khỏi xót xa và phẫn nộ. Gia đình chị, đặc biệt là ông Đặng Văn Tĩnh – người cha già – kiên quyết bác bỏ mọi giả thuyết về tự tử hay tai nạn chết đuối, bởi Tuyền là một người bơi lội rất giỏi, yêu đời và yêu con đến mức không thể có chuyện quyên sinh. “Tuyền yêu con trai lắm. Nó cũng biết nó quan trọng với gia đình nên không bao giờ có thể có chuyện quyên sinh”, ông Tĩnh từng nghẹn ngào chia sẻ. Thi thể chị không có dấu hiệu chấn thương rõ rệt, nhưng vị trí phát hiện cách xa nơi mất tích, cùng với việc điện thoại và đồ dùng cá nhân biến mất, khiến nhiều người nghi ngờ đây là vụ án mạng được dàn dựng tinh vi.

Công an huyện Thanh Trì đã vào cuộc, tiến hành khám nghiệm tử thi và thực nghiệm hiện trường vào ngày 5/7/2018 tại bến đò Vạn Phúc, với sự chứng kiến của hàng chục người thân khóc ngất, gọi tên con gái trong nỗi đau đớn tột cùng. Dù vậy, đến nay, sau hơn 7 năm, vụ việc vẫn treo lơ lửng mà không có kết luận chính thức, như một vết thương chưa lành trong lòng làng báo chí Việt Nam. Cái chết oan ức của Hải Đường không chỉ cướp đi một tài năng mà còn là lời cảnh tỉnh về những rủi ro mà các nhà báo chân chính phải đối mặt, khi sự thật đôi khi bị che lấp bởi bóng tối của quyền lực và lợi ích nhóm.


 

QUÝ HƠN MUÔN CHIM – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đừng sợ, các con còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ!”.

Hầu hết các loài chim không tích trữ thức ăn, ngoại trừ một vài loài như gõ kiến, quạ Corvids và giẻ cùi. Ngay cả kền kền, chúng cũng không tha thịt rữa về tổ mà ựa ra từ diều để nuôi con. John Underhill nhận xét, “Chúng ta thường tích trữ những gì Chúa ban hôm nay vì không tin cậy Ngài sẽ chu cấp những gì cần vào ngày mai!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiết lộ, không một tạo vật nào nằm ngoài sự chú ý của Cha trên trời. Vậy nếu Chúa quan tâm đến từng con sẻ nhỏ bé, thì huống chi bạn và tôi. Trong ánh mắt yêu thương của Ngài, chúng ta còn ‘quý hơn muôn chim!’.

Nhận thức điều này, chúng ta sống trong một niềm an ủi sâu sắc giữa những lắng lo, bất an. Vậy tại sao đôi khi chúng ta có cảm giác như Thiên Chúa khá xa cách hay thờ ơ? Hãy nhớ, đó chỉ là cảm giác! Thực tế là Ngài luôn quan tâm đến chúng ta nhiều hơn chúng ta quan tâm đến chính mình. Ngài thấy hết mọi chi tiết trong đời sống chúng ta; thậm chí từng sợi tóc trên đầu. Tuy nhiên, cũng có thể có nhiều lý do khác, có thể Ngài chọn im lặng như một cách để kéo chúng ta gần Ngài hơn; nhưng dù gì đi nữa thì mục đích luôn là dẫn chúng ta sống mối tương quan sâu sắc hơn với Ngài. Hoặc cũng có thể chúng ta đã không lắng nghe Ngài đủ hoặc không cầu nguyện đủ. “Sự im lặng của Chúa không bao giờ là vắng mặt!” – C.S. Lewis.

Thư Rôma hôm nay nhắc đến niềm tin của Abraham. Sau bao thử thách, đợi chờ, “Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế, được kể là người công chính!”. Thánh Vịnh đáp ca cũng vang lên niềm cậy trông, “Chúa là nơi con ẩn náu, khắp bốn bề trổi vang những khúc ca mừng con được giải thoát!”. Điều này nhắc chúng ta rằng, niềm tin vào Chúa không chỉ là hy vọng, mà còn là sự tựa nương vững chắc. “Niềm tin là bước đi bước đầu dù chưa thấy toàn bộ bậc thang!” – Martin Luther King. Niềm tin không phải là biết tương lai ra sao, mà là biết Ai nắm giữ tương lai!

Anh Chị em,

“Các con còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ!”. Bạn và tôi ‘quý hơn muôn chim’ trước mắt Thiên Chúa. Vậy hễ khi nào cảm thấy tồi tệ về bản thân, thất vọng hay bi quan, hãy lùi lại, nhủ lòng về phẩm giá của mình, và tin rằng Thiên Chúa không bao giờ quên một ai! Hãy nhớ đến những người yêu quý của mình, chúng ta đâu ‘cần cố gắng’ để nhớ họ, nhưng Thiên Chúa nhớ đến mỗi chúng ta, chúng ta là ‘con ngươi’ mắt Ngài. Và điều này, dĩ nhiên, sẽ tạo nên một sự tự tin nhất định nơi những con trai con gái của Chúa! Chính nhận thức này sẽ mang đến cho chúng ta một niềm vui sướng trong bình an và sức mạnh để sống yêu thương, phục vụ khi tín thác tuyệt đối vào Ngài. “Hãy bình an trong sự thật về phẩm giá của mình và để điều đó mang lại cho bạn dũng khí!” – Joyce Meyer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con thua cả loài kền kền, khi chỉ lo tích trữ và tha về những gì ‘thối rữa!’. Chúa biết con hơn con biết con, biết ‘sâu sắc đến từng chi tiết’ đời con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

************************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 12,1-7

1 Khi ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ : “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. 2 Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3 Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày ; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.

4 “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết : Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. 5 Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai : hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết : anh em hãy sợ Đấng ấy. 6 Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không ? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7 Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.”


 

Thánh Maximialô Kollbe từng nói: “tôi gặp gỡ Mẹ Maria ở mọi nơi. Tôi chẳng còn gặp khó khăn nào nữa.” – Cha Vương

Mến chào bình an đến bạn và gia quyến, xin Chúa đồng hành với bạn 24/7 nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 16/10/2025  (t2-23)

Thế giới mà bạn đang sống, có thể nói, là một thế giới đầy bất an và bất ổn. Tin tức về xung đột, về chiến tranh, về dịch bệnh, về thiên tai ngày càng nhiều trên các phương tiện truyền thông, như: báo chí, truyền hình, truyền thanh hoặc internet. Nó đã làm cho nhiều người âu lo và tự hỏi, rằng, thế giới bạn đang sống rồi sẽ đi về đâu! Vậy thì, ở đâu mới thật sự là nơi an bình! Ở đâu mới có thể đem đến cho ta sự bình an đích thật? Để có được sự bình an thật con người phải trở về với Chúa Giêsu: là nguồn bình an đích thực. Thánh Giáo Hoàng Gioan 23. Ngài là người được nhiều người kính mến. Có lần Ngài nói: “Kinh Mân côi là một lời cầu nguyện tuyệt vời và phổ quát cho nhu cầu của Giáo Hội, các quốc gia, và toàn thế giới.” Có phải đây là thời điểm cấp bách nhất không? Nhu cầu ở đây không phải vũ khí có công sức tàn phá mạnh nhưng mà là vũ khí được tiềm ẩn trong Kinh Mân Côi. Hôm nay mời bạn suy niệm Điều Bất Ngờ Thứ 4 khi bạn thường xuyên chạy đến Nữ Vương Ban Sự Bình An qua chuỗi Mân Côi.

Điều Bất Ngờ Thứ 4: Bạn sẽ can đảm hơn.

Khi bạn đặt trọn niềm tin tưởng và đời sống, thậm chí cả chính tâm hồn bạn nơi bàn tay Đức Maria qua chuỗi Mân côi, bạn bắt đầu hiểu cách thức thực hành rất rõ ràng, đơn giản và đầy đủ trong những giải pháp của Mẹ. Đức Mẹ chỉ muốn đưa chúng ta đến với Đức Kitô và Mẹ yêu thương chúng ta rất nhiều, với sự dịu dàng thực sự của một người mẹ hoàn hảo. Khi chúng ta dâng những khó khăn của chúng ta cho Mẹ, chúng ta tôn vinh Mẹ. Sự can đảm bắt đầu nhuần thấm trong một đời sống mà luôn luôn hướng về mẹ Maria để xin Mẹ giúp đỡ và tin rằng Mẹ sẽ ban cho. Bạn có thể có được sự can đảm khi biết rằng Đức Maria luôn ở bên bạn! Thánh Maximialô Kollbe từng nói: “tôi gặp gỡ Mẹ Maria ở mọi nơi. Tôi chẳng còn gặp khó khăn nào nữa.”

Hôm nay mời bạn đọc 10 Kinh Kính Mừng với ý chỉ cầu nguyện cho các anh chị em đang gặp đau khổ vì chiến tranh tại Israel và Ukraine nhé.

From Do Dzung

************************

Nữ Vương Hòa Bình

Bây giờ có cho tiền, tui cũng không dám ở Việt Nam. 

Dat Nguyen

Ghé qua Viện Đại học Sài Gòn trước khi ra phi trường TSN về Mỹ coi như vĩnh biệt Sài Gòn! Cha con tui sợ người Sài Gòn bây giờ lắm rồi! Bây giờ có cho tiền, tui cũng không dám ở Việt Nam. 

Ác độc nhất là người lấy cắp balô đựng US Passport, visa miễn thị thực xuất nhập cảnh 5 năm, tất cả thuốc men gồm cả insulin của tui. Công an phường 11, Bình Thạnh không giúp tui tìm kiếm đồ đạc bị mất mà còn hù dọa tui đủ điều mới là lạ!

Tui thất vọng nhất là TLS Mỹ ở Sài Gòn khi họ ưu tiên phục vụ cho người Mỹ da trắng thượng đẳng chứ công dân Mỹ gốc Việt chỉ là loại công dân hạng 2? Tui yêu cầu được gặp trực tiếp giới chức Mỹ mà 2 cô người Việt đủng đỉnh phớt lờ! Tức cười làm sao khi một anh bảo vệ tỏ ra hách xì xằng với người Việt nhưng lại khúm núm với một thằng Mỹ trắng tâm thần!

Kế đến là thái độ quan liêu và làm tiền trắng trợn của công an phường 11, Bình Thạnh, cục QLXNC. Chính TLS Mỹ ở Sài Gòn kêu cha con tui đến cục QLXNC ở 333 Nguyễn Trãi. Tại đây, tui gặp cô đại uý Trịnh Thị Hồng Nhung nhưng cô bận nói chuyện qua cell phone với người thân nên cộc lốc kêu tui qua phòng QLXNC ở 196 Nguyễn Thị Minh Khai. Tại quầy #2, cô trung úy CA ở phòng QLXNC hình như không nắm vững công việc mà cô đảm trách khi kêu một VK như tui vô website dịch vụ công của bộ công an để khai báo mất visa miễn thị thực xuất nhập cảnh 5 năm và xin cấp lại mà chính cô cũng không rành thủ tục “định danh” nên cô đề nghị tui liên hệ với dịch vụ để nhờ khai báo!

Sau khi hoàn tất khai báo trên website dịch vụ công của bộ công an, tui nhận được đề nghị của bộ công an đến cục QLXNC ở 333 Nguyễn Trãi để hoàn tất thủ tục. Cuối cùng, khi tui quay lại gặp đại uý Trịnh Thị Hồng Nhung thì chính cô này chỉ nhận hồ sơ rồi đóng dấu vô Emergency passport nhưng bắt buộc tui phải đợi 10 ngày mới có. Tại sao cô không trả lại ngay khi tui phải lên máy bay về Mỹ vào cuối tuần này? Tui năn nỉ nhưng cô tỉnh bơ bỏ đi.

Nên nhớ làm công an bây giờ là job thơm nhất với lương cao chứ không phải chỉ có bổng lộc và quyền lực. Cô muốn cho tui thấy sự quan liêu hách dịch của một cán bộ công an!

Du lịch Việt Nam lần này cho tui nhiều bài học. Từ Mít MAGA cuồng Trump ở Úc, Florida, Louisiana ra sức tuyên truyền nhồi sọ, tẩy não người Việt trong nước đến chuyện ăn uống,  khách sạn mà ViệtTravel cung cấp. Đêm ở Măng Đen, máy lạnh không hoạt động nên tui báo với lễ tân nhưng không ai lên coi. Tui đề nghị đổi phòng thì lễ tân nói hết phòng. Cậu ấy đề nghị tui mở cửa sổ cho mát nhưng muỗi rừng chích ngay. Tui đành đóng cửa sổ chịu đựng đến 5am thì xuống lễ tân, gặp bảo vệ năn nỉ ông lên coi. Ông bảo remote hư nhưng không có cầu thang để leo lên chỉnh bằng tay. Thế là một đêm không ngủ!

Buồn cười nhất là tui bỏ tiền túi ra mua cơm trứng chiên cho Bảo ăn vì hầu hết các món ăn không hợp với khẩu vị của Bảo nhưng khi bếp dọn ra thì các “cô chú” tỉnh bơ thọc đũa gắp ăn, thậm chí còn dành ăn với Bảo. Bởi vậy cha con tui dứt khoát không ăn bữa nào hết suốt hành trình du lịch với Việt Travel.

Sợ nhất là khi ra đường phải gặp MAGA nói chuyện dựa trên YouTube và VNEXPRESS! Hình như họ mắc bịnh tâm thần?

Ông Tô Lâm mong muốn cải cách thì xin Ông làm ơn cải cách từ Bộ công an đi, đừng hành dân nữa và mỗi cán bộ công an không phải là một ông kẹ hù dọa người dân.

Sài Gòn bây giờ gồm lưu dân tứ xứ chứ không còn là Sài Gòn đẹp lắm mà Singapore, Nam Hàn ngày xưa gọi là hòn ngọc Viễn Đông. Sài Gòn trở nên bát nháo, tạp nham theo kiểu tả pín lù nên cướp đêm, cướp ngày đông như ruồi bu vào đống phân!

Sài Gòn của tui đã chết? Bây giờ chỉ còn là một phường với quá nhiều rác rưởi, sâu bọ, ruồi nhặng. Những người Sài Gòn cố cựu đã đi ra nước ngoài, để Sài Gòn lại cho di dân từ khắp mọi miền về đây lập nghiệp với đủ mánh khóe để sinh tồn; kể cả ăn cắp, ăn cướp, ăn bẩn, ăn quịt?

Lời thật mất lòng. Hy vọng lãnh đạo TP.HCM đọc được status này để kịp chân chính tình trạng không hay này.


 

ƠN GỌI THỪA SAI – TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 Đại hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức tại Đà Lạt từ ngày 06 đến ngày 10/10/2025 vừa qua.  Trong Thư Chung gửi đến mọi thành phần Dân Chúa, các vị chủ chăn của Giáo hội Công giáo Việt Nam đề nghị một lộ trình ba năm (2026-2028) để thực hiện sứ vụ vô cùng quan trọng là loan báo Tin Mừng, hay là ơn gọi thừa sai.  Theo thông lệ, Chúa nhật hôm nay là ngày cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội.  Khái niệm “truyền giáo” hay “loan báo Tin Mừng” dường như đã quá quen thuộc với chúng ta và nhiều người coi đó là một công thức khô cứng.  Trong khi đó, ơn gọi thừa sai là bản chất của đời sống Giáo hội và của mỗi Ki-tô hữu chúng ta.  Hơn nữa, một não trạng phổ biến nơi nhiều tín hữu, đó là việc truyền giáo là của các giám mục, linh mục và tu sĩ, còn người giáo dân chỉ là người lắng nghe và đón nhận.  Đó là một quan niệm sai lầm do thiếu hiểu biết.  Quan niệm này biến người tín hữu trở nên thụ động và ỷ lại, không nhiệt thành tham gia hoạt động của Giáo hội địa phương, nhất là hoạt động loan báo Tin Mừng.

 Thừa sai là gì?  “Thừa” là tiếp nhận; “Sai” là phái đi.  Ơn gọi thừa sai cũng là ơn gọi truyền giáo.  Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, Ki-tô hữu được Chúa ban ba chức năng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế.  Chức năng Ngôn sứ chính là ơn gọi thừa sai, vì “Ngôn” là lời và “sứ” là được sai đi.  Chúa sai chúng ta đi để nói Lời của Người.  Đó cũng là lệnh truyền của Đấng Phục sinh: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.  Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.  Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).

 Tại sao lại gọi thừa sai là một “ơn gọi?”  Vì đó là lời mời gọi của Chúa, đồng thời cũng là một vinh dự mà Chúa ban cho người tín hữu.  Khi Chúa gọi và chúng ta thiện chí đáp lời, thì Chúa sẽ ban ơn cần thiết để chúng ta chu toàn sứ mệnh cao cả này.  Chúng ta thường nghĩ đến khía cạnh “bổn phận” nhiều hơn là “vinh dự.”  Loan báo Lời Chúa là một vinh dự lớn lao vì chúng ta làm cho người khác biết Chúa.

 Làm sao có thể sống ơn gọi thừa sai hay có thể truyền giáo?  Một điều kiện căn bản là chúng ta phải biết Chúa thì mới có thể giới thiệu Người cho người khác.  Vì không ai cho người khác cái mình không có.  Một Ki-tô hữu không thể nói về Chúa Giê-su, nếu người đó không biết hoặc chỉ biết lơ mơ về Người.  Vì thế, để trở thành một nhà truyền giáo hay một thừa sai, cần phải học hỏi giáo lý, chuyên cần cầu nguyện để gặp Chúa Giê-su.  Khi cầu nguyện là chúng ta “nói với Chúa,” khi rao giảng là chúng ta “nói về Chúa.”  Hai khía cạnh này có mối tương quan mật thiết với nhau.  Không thể nói về Chúa nếu trước đó không nói với Người.

 Việc giới thiệu Chúa sẽ trở nên vô nghĩa nếu người giới thiệu không sống tương xứng với giáo huấn của Đấng mình rao giảng.  Vì vậy, truyền giáo bằng chính cuộc đời là việc truyền giáo hữu hiệu nhất.  Có tác giả đã so sánh đời sống người tín hữu với cuốn Kinh Thánh sống động, bằng xương bằng thịt, để người khác có thể đọc thấy Lời Chúa xuyên qua cuộc đời chúng ta.  Khi chuyên chăm thực thi Lời Chúa, hình ảnh của Người sẽ trở nên sống động qua chính cuộc đời chúng ta, đến nỗi người khác có thể nhìn thấy Chúa nơi chúng ta.

 Mọi tín hữu đều có ơn gọi thừa sai.  Tùy theo lứa tuổi, khả năng học vấn và bậc sống, mỗi chúng ta đều có thể nói về Chúa trong hoàn cảnh cụ thể của mình.  Đại hội Truyền giáo Á Châu lần thứ nhất tổ chức tại Thái Lan năm 2006.  Trong một bài thuyết trình, linh mục Saturnimo Dias, Trưởng ban điều hành Đại hội đã nói như sau:”Đức Ki-tô sinh ra tại Á Châu và đã chết tại Á Châu… nhưng đối với người dân Á Châu, Chúa vẫn còn là một người xa lạ.  Họ vẫn nhìn Ki-tô giáo như một tôn giáo Tây phương.  Mặc dầu Ki-tô giáo được phát sinh tại Á Châu, nhưng số phận của tôn giáo này tại lục địa Á Châu vẫn chưa được may mắn lắm.  Bởi vậy, cùng với đại hội Truyền giáo Á Châu lần này, chúng ta phải đưa Chúa Giê-su trở về với người dân Á Châu, phải kể cho họ những câu chuyện về Chúa Giê-su tại Á Châu, và làm cho họ nhận biết rằng Chúa Giê-su là người Á Châu.”  Vâng, quả vậy, truyền giáo là kể câu chuyện về Chúa Giê-su, về đời sống, giáo huấn và cái chết của Người vì yêu thương nhân loại.  Điều này ai cũng có thể làm được, nếu ý thức về sứ mạng thừa sai và trau dồi kiến thức để có thể thực hiện được sứ mạng cao cả ấy.

 Ước chi mỗi Ki-tô hữu hiểu ơn gọi thừa sai và sống ơn gọi ấy trong mối tương quan với tha nhân, thể hiện qua lời nói, hành động cũng như chính bản thân mình.

 TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

From Langthangchieutim


 

Cậu bé ăn xin bị bại liệt mù chữ cho đến 16 tuổi, nay trở thành bác sĩ cứu người

BBC Vietnamese

Bác sĩ Lý Sáng Nghiệp

Tác giả, Lữ Gia Hùng

Vai trò, BBC News Tiếng Trung

Tác giả, Vibeke Venema

Vai trò,BBC World Service

10 tháng 10 2025

Mắc bệnh bại liệt từ nhỏ, từng phải đi ăn xin để kiếm sống – 16 tuổi mới bắt đầu học chữ, câu chuyện về hành trình vượt khó và theo đuổi đam mê leo núi của bác sĩ Lý Sáng Nghiệp, 37 tuổi, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người.

Bác sĩ Lý Sáng Nghiệp

Bác sĩ Lý đã leo lên cả 5 ngọn núi trong Ngũ Nhạc Danh Sơn của Trung Quốc (gồm Thái Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn, Hằng Sơn, Hành Sơn), núi Hoàng Sơn cũng như Vạn Lý Trường Thành

Sinh năm 1988 trong một gia đình nông dân nghèo khó ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, Lý Sáng Nghiệp mắc bệnh bại liệt từ khi mới bảy tháng tuổi, khiến anh không thể đi lại như bình thường mà phải ngồi xổm trên gót chân để di chuyển.

Lúc nhỏ, cậu bé Lý Sáng Nghiệp mơ ước được đến trường với chiếc ba lô như bao đứa trẻ khác, nhưng anh đã phải chịu đựng rất nhiều sự chế giễu. Có những bạn gọi anh là “đồ vô dụng”, “chỉ biết ăn, chẳng làm được gì”.

“Điều đó khiến tôi cảm thấy rất tổn thương,” Lý chia sẻ.

Năm anh chín tuổi, cha mẹ anh nghe được tin rằng phẫu thuật chân có thể giúp anh đi lại, nên đã vay thêm tiền để lo chi phí phẫu thuật.

Lý rất kỳ vọng vào ca phẫu thuật. “Khi tôi đang ở trong phòng phục hồi, những đứa trẻ khác khóc lóc, còn tôi vẫn mỉm cười, vì tôi cảm thấy mình sẽ sớm đi lại được như người bình thường”, anh nói.

Nhưng ca phẫu thuật đã thất bại, dập tắt hy vọng đi lại của cậu bé 9 tuổi và khiến Lý rơi vào trầm cảm nặng nề. Anh cảm thấy cuộc sống của mình thật vô nghĩa, và nói với mẹ rằng anh thà chết còn hơn.

Mẹ anh dặn anh đừng bỏ cuộc. “Cha mẹ nuôi con khôn lớn để sau này khi cha mẹ già còn có người để trò chuyện.”

Lời nói ấy khiến anh thức tỉnh. “Tôi nghĩ về tất cả những gì cha mẹ và gia đình đã hy sinh cho mình, và tôi bật khóc. Tôi nhận ra mình phải sống, không chỉ vì bản thân mà còn vì họ,” anh nói.

Không lâu sau, một người lạ từ nơi khác đến làng, tìm kiếm những trẻ em khuyết tật để đi bán nhang tại các ngôi chùa. Người này hứa rằng Lý Sáng Nghiệp có thể gửi về nhà số tiền tương đương với lương tháng của cha anh lúc bấy giờ.

“Cha mẹ tôi phản đối kịch liệt, nhưng tôi coi đó là cơ hội để kiếm tiền và giảm bớt gánh nặng cho gia đình”, Lý kể lại. Anh đồng ý đi theo người đàn ông đó.

Bác sĩ Lý Sáng Nghiệp

Bác sĩ Lý đã phát trực tiếp hành trình leo núi của mình đến hàng ngàn người theo dõi

Ăn xin trên phố

Nhưng lời hứa về công việc chỉ là trò lừa đảo.

Bác sĩ Lý nói rằng người đàn ông kia điều hành một đường dây ăn xin, và trong suốt bảy năm sau đó, anh bị ép đi ăn xin trên đường phố cùng nhiều trẻ em và người lớn khuyết tật khác.

Trong đêm đầu tiên sống cùng “ông chủ” mới, một đứa trẻ khác đã cảnh báo Lý rằng phải làm việc chăm chỉ, nếu không sẽ bị đánh. Cảnh báo đó quả đúng là sự thật.

Sáng hôm sau, Lý bị bỏ lại trên vỉa hè, ở trần, trước mặt là một cái bát đựng tiền, hai chân bị ép vặn ra sau lưng để gợi lòng thương xót.

Lúc đó, Lý không hiểu vì sao mọi người bỏ tiền vào bát, cho đến khi có người qua đường hỏi tại sao anh lại đi ăn xin thay vì đi học.

“Ở quê tôi, ăn xin là điều rất đáng xấu hổ. Tôi không nhận ra rằng mình đang đi ăn xin. Khi hiểu ra, tôi suy sụp,” anh nói.

Lý Sáng Nghiệp có thể kiếm được vài trăm nhân dân tệ mỗi ngày – một khoản tiền lớn vào những năm 1990 – nhưng tất cả đều phải nộp cho “ông chủ”.

“Nếu tôi kiếm được ít hơn những đứa trẻ khác, ông ta sẽ nói tôi lười biếng và đôi khi đánh tôi”, anh nói. “Vì vậy, những năm tháng đó thực sự rất đau khổ.”

Qua nhiều năm, nhiều trẻ em khuyết tật khác đã trốn thoát hoặc được cảnh sát đưa về nhà, nhưng Lý vẫn ở lại, quyết tâm giúp đỡ gia đình. Khi cảnh sát đề nghị giúp đỡ, cậu bé Lý khi đó từ chối, khăng khăng rằng mình đang ở nhà người thân.

Trong suốt bảy năm, từ đông sang hè, Lý Sáng Nghiệp đã đi khắp đất nước để ăn xin.

“Cảm giác như sống trong địa ngục. Tôi xấu hổ, tránh giao tiếp bằng mắt, chân tôi đau đớn vặn ép về phía sau để gợi lòng thương hại. Tôi cầu cho trời mưa hoặc trời tối để không phải đi ăn xin”, Lý Sáng Nghiệp chia sẻ với chương trình Outlook của BBC World Service.

Mỗi đêm giao thừa, Lý đều gọi điện về nhà, trấn an bố mẹ rằng mọi thứ đều ổn và họ không nên lo lắng. “Nhưng sau cuộc gọi, tôi lại khóc trong phòng. Tôi không thể nói với họ rằng tôi đang ăn xin trên phố”, anh kể.

Ngay cả giờ đây, sau 20 năm, nỗi ám ảnh đó vẫn còn dai dẳng. “Ăn xin để lại vết sẹo tâm lý rất sâu – tôi vẫn thường mơ thấy cảnh đó, và tỉnh dậy với sự nhẹ nhõm khi biết đó chỉ là giấc mơ.”

Bác sĩ Lý Sáng Nghiệp

Bác sĩ Lý cho biết việc leo núi mang lại cho anh niềm vui

Con đường mới nhờ học tập

Mọi chuyện thay đổi khi Lý Sáng Nghiệp nhặt được một tờ báo trên phố và nhận ra mình chỉ đọc được những ký tự trong tên mình. Năm 16 tuổi, anh quyết tâm trở về nhà và cuối cùng được đi học.

“Mình không biết đọc, không biết viết, và chỉ có giáo dục mới có thể thay đổi cuộc đời mình,” anh nghĩ.

Vào khoảng thời gian đó, chính phủ Trung Quốc ban hành một chính sách mới, quy định việc lợi dụng trẻ em khuyết tật để ăn xin là hành vi phạm pháp. Lý cũng nghe tin rằng hoàn cảnh gia đình đã khá hơn. Anh nói với “ông chủ” rằng mình muốn về thăm nhà, và “được phép” rời đi.

Khi đoàn tụ với cha mẹ, họ mới biết sự thật về cuộc sống mà anh đã trải qua, và Lý giận dữ khi phát hiện người đã bóc lột anh chỉ gửi về nhà một phần rất nhỏ số tiền đã hứa.

Được sự ủng hộ của cha mẹ, Lý đăng ký học lớp hai bậc tiểu học, với những học sinh kém anh 10 tuổi. Ngày đầu tiên, bọn trẻ vây quanh bàn học của anh – nhưng anh không quan tâm.

“Tôi không hề buồn – tôi đã từng phải chịu đựng quá nhiều sự chế giễu và khó khăn trước đây. Giờ đây, khi đã là học sinh, tôi chỉ muốn tập trung vào việc học”, anh nói.

Lý Sáng Nghiệp đã trở thành học sinh chăm chỉ nhất, dù thể trạng khiến những việc đơn giản như đi vệ sinh cũng trở nên rất khó khăn. “Đi vệ sinh tốn rất nhiều sức, nên tôi thường ép mình không uống nước ở trường”, anh nói.

Nhờ quyết tâm không lay chuyển, Lý đã hoàn thành chương trình tiểu học và trung học trong vòng 9 năm. Anh thường rủ các bạn nhỏ trong làng tới chơi, rồi nhờ họ giúp làm bài tập.

Khi đến lúc nộp hồ sơ đại học, tình trạng thể chất hạn chế các lựa chọn của anh, nhưng Lý vẫn có thể đăng ký vào các chương trình đào tạo y khoa. Anh nghĩ: “Nếu trở thành bác sĩ, có lẽ mình có thể nghiên cứu về chính căn bệnh của mình, giúp đỡ gia đình, cứu người và đóng góp cho xã hội.”

Bác sĩ Lý Sáng Nghiệp

Để đến được trường đại học, Lý Sáng Nghiệp đã phải di chuyển hàng giờ trên chiếc xe lăn điện của mình, bất kể nắng mưa

Lý Sáng Nghiệp đỗ vào trường y khi 25 tuổi. Cơ sở vật chất tại đó thuận tiện hơn, nhưng các lớp thực hành lại là thử thách lớn nhất đối với anh.

“Trong khi các bạn cùng lớp có thể dễ dàng theo thầy cô đến thăm bệnh nhân hoặc chạy giữa các khoa trong thời gian thực tập, thì vấn đề di chuyển của tôi lại khiến việc đó trở nên khó khăn. Những gì người khác học được trong một ngày có thể khiến tôi mất nhiều thời gian hơn.”

“Trong khi các bạn cùng lớp có thể dễ dàng đi theo giảng viên tới thăm bệnh nhân hoặc chạy giữa các khoa trong thời gian thực tập, thì việc di chuyển với tôi rất khó khăn. Những gì người khác học trong một ngày, tôi có thể mất nhiều thời gian hơn,” anh chia sẻ.

Lý cảm thấy mình cần trở nên mạnh mẽ hơn, và quyết định bắt đầu leo núi. Trong chuyến leo đầu tiên, anh mất năm ngày để lên đến đỉnh núi Thái Sơn. Dù tay và chân rách toạc, chảy máu, anh vẫn không bỏ cuộc mà từng chút từng chút dùng mông bò lên lên từng bậc đá.

Leo núi đến nay vẫn là niềm đam mê – và mùa hè năm nay, đam mê ấy đã trở thành một hiện tượng trên mạng xã hội khi bác sĩ Lý chia sẻ video các chuyến leo núi của mình.

Hiện tại, bác sĩ Lý điều hành một phòng khám nhỏ ở vùng nông thôn Tân Cương, nơi anh túc trực cả ngày lẫn đêm. Bệnh nhân gọi anh là “bác sĩ thần kì”.

“Chăm sóc bệnh nhân bằng chính đôi tay của mình, cải thiện sức khỏe cho hàng xóm láng giềng – điều đó làm tôi hài lòng hơn bất cứ điều gì”, bác sĩ Lý nói.

Ngạc nhiên trước việc câu chuyện của mình lan rộng trong cộng đồng người Hoa trên toàn thế giới, anh hy vọng điều đó có thể thay đổi định kiến xã hội.

“Một số người vẫn xem người khuyết tật là vô dụng. Có lần tôi đến quán ăn, đang ngồi xổm thì bị nhầm là ăn xin và bị đuổi đi, nói rằng ở đây không có đồ ăn. Tôi chỉ mỉm cười và rời đi – hầu hết mọi người đều tử tế,” anh kể.

Bác sĩ Lý Sáng Nghiệp

Bác sĩ Lý điều hành một phòng khám ở nông thôn và trực điện thoại 24/7

Một cuộc đời đầy tự tin và ý nghĩa

Nhiều người đã hỏi bác sĩ Lý tại sao anh không tố giác kẻ đã bóc lột mình. “Tôi quyết định để quá khứ ngủ yên,” anh nói. “Bảy năm đó là một trải nghiệm đau thương, nhưng chúng là một phần cuộc đời tôi.”

Hành trình của Lý đã định hình lại quan điểm của anh. “Sau khi được đến trường, tôi không còn quan tâm đến ý kiến hay phán xét của người khác. Tôi nhận ra những điều đó thật vô nghĩa. Tôi muốn tập trung thời gian và sức lực vào việc học và đạt được mục đích sống của mình,” anh nói.

Anh nói rằng nhiều người khuyết tật “khó khăn trong việc tiến về phía trước” vì họ sợ bị phán xét hoặc chế giễu.

“Nhưng với tôi, điều đó không còn quan trọng nữa. Tôi di chuyển quanh trường, quanh thành phố bằng cách ngồi xổm hoặc bò, dù là đi học, tham gia hội thảo, hay giúp hàng trăm người khuyết tật khác qua công việc của mình. Tôi nghĩ tôi làm điều đó một cách đầy tự tin. Tôi không còn quan tâm đến ánh mắt của người khác nữa.”

Gửi gắm đến công chúng, anh chia sẻ: “Cuộc đời chúng ta giống như những ngọn núi – ta leo lên một ngọn, rồi lại thấy một ngọn khác phía trước. Ta luôn phải nỗ lực và tiến về phía trước.”

“Tôi nghĩ con người nên luôn giữ thái độ tích cực, lạc quan, và không bao giờ từ bỏ ước mơ.”

Bác sĩ Lý Sáng Nghiệp đã trò chuyện với chương trình Outlook của BBC World Service


 

LỊCH SỬ HỎNG HÓC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”.

“Chưa bao giờ có một gương sáng đạo đức nào đáng kể nơi một người không tin; bởi lẽ, lỗ hổng trong tim họ không được lấp đầy bằng chính Chúa!” – Will & Ariel Durant.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến lịch sử một dân tộc không tin, một dân tộc dường như không có một gương sáng đạo đức nào đáng kể. Đó là ‘lịch sử hỏng hóc’ của Israel!

Lịch sử của Israel là một lịch sử từ chối Thiên Chúa, giết các tiên tri; đó là lịch sử của một dân không chung thuỷ, lạm dụng và vô ơn. Và nay, đến lượt con cháu các tiền nhân – những kẻ không tin Chúa Giêsu – đang làm điều tương tự; họ đi trên vết xe đổ của cha ông. Thế nhưng, tình yêu luôn lớn hơn sự bội bạc; Thiên Chúa luôn lớn hơn dân Ngài! Lịch sử của Israel là tấm gương phản chiếu ‘lịch sử hỏng hóc’ cuộc đời mỗi người chúng ta, cũng là một lịch sử bất trung, thất bại. Từ đó, chúng ta được thôi thúc để quay về với Chúa bằng việc sám hối. “Lịch sử là một tấm gương; khi nhìn vào đó, ta thấy cả thất bại lẫn lời mời gọi quay về!” – Madeleine L’Engle.

Một thiếu nữ lững thững đi vào thánh đường, ngồi trong góc tối. Một bà nội trợ đi vào, tay xách giỏ rau; bà quỳ gối vài phút, sau đó, bước ra. Cô gái sững sờ! Và ngần ấy đủ cho cô. Bà ấy đã cho cô thấy niềm tin công giáo có cơ sở như thế nào. Cô đứng dậy, hớn hở ra về. Chúa quan phòng đã đổ ân sủng để cứu linh hồn cô, một linh hồn đang hỏng hóc nổi loạn. Chỉ với gương sáng của một bà nội trợ, cô ấy đủ để trở thành một vị thánh của Đức, của châu Âu – một triết gia, một nhà thơ, một văn sĩ – được Gioan Phaolô II tôn phong ngày 11/10/1998. Đó là chị Thérèse Bénédicte Edith Stein dòng kín Carmel.

Qua thư Rôma hôm nay, Phaolô nói đến ‘lịch sử hỏng hóc’ của một nhân loại bất chính, nhưng đó cũng là lịch sử của xót thương, “Mọi người đã phạm tội, bị tước mất vinh quang Thiên Chúa!”; nhưng “Họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa… trong Đức Kitô”. Thánh Vịnh đáp ca thật ý tứ, “Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu độ nơi Người chan chứa!”.

Anh Chị em,

“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”. Lịch sử Israel, lịch sử Edith Stein – những lịch sử được xót thương! Một dân tộc nhiều lần chối từ Thiên Chúa, giết các tiên tri, vẫn được Ngài thương xót; một thiếu nữ lạc lối, tâm hồn nổi loạn, từng mảnh hư hỏng trong lòng cô được ân sủng chữa lành và biến đổi. Cũng thế, bên trong mỗi người chúng ta luôn tồn tại một sự hỏng hóc. Vậy mà những thất bại, những sai lầm không kết thúc câu chuyện, nhưng mở ra cơ hội để ân sủng toả sáng. Hãy để Chúa viết nên một câu chuyện cứu độ trong đời mình; Ngài sẽ biến hỏng hóc, vết thương và thất vọng thành nguồn sống, hy vọng và lời tạ ơn. “Lịch sử cho thấy những thất bại của chúng ta, nhưng lòng xót thương Chúa luôn tìm cách cứu chuộc và chữa lành!” – Desmond Tutu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì lịch sử đời con, một lịch sử hỏng hóc, đầy những lỗ hổng được Chúa xót thương lấp đầy; và rồi, con cũng nên thánh. Tại sao không?”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu các ngôn sứ, từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a.

✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

47 Khi ấy, Đức Giê-su nói với mấy nhà thông luật rằng: “Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! 48 Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.

49 “Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: “Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 50 Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51 từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.

52 “Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”

53 Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54 gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.