Trong Thay Lời Tựa cho cuốn Hơn Nửa Đời Hư, in năm 1992, ông Vương Hồng Sển cho biết ông có tánh ham mê đọc sách từ nhỏ. Ông gọi “sách là bạn cố tri trung thành”, ông coi cuốn sách là của riêng, “y như vợ nhà, và nếu thuở nay không đời nào ai cho mượn vợ, thì xin các bạn hiểu giùm vì sao tôi ít cho mượn sách.” Bởi vì chính ông, ông cũng không bao giờ mượn sách của ai, lý do theo ông, sách mượn phải đọc hối hả để mau trả, mà đọc hối hả thì mất thú. Khi nào lựa được một cuốn sách hay thì giá nào ông cũng phải mua cho bằng được. Ông viết: “Khi đọc và lúc cao hứng, tôi thường ghi lại bên lề trang sách những cảm tưởng nhứt thời, không khác được tỉ tê tâm sự với một bạn cố giao bằng xương bằng thịt.”
Về cách đọc sách, ông cho biết ông đọc chậm rãi, không tiếc thì giờ bỏ ra cho việc đọc sách. Nhưng cũng có khi ông đọc “ngấu nghiến còn hơn bồ câu ra ràng nuốt mồi không kịp đút,… y như chó gặm xương, như mèo mới sanh được mẹ nhường mồi dạy ăn, vừa ngừ nghè sợ mất mồi, vừa gầm gừ tiếng rên nho nhỏ vì khoái trá và vì sợ miếng ngon chóng hết hoặc anh chị nào đồng lứa sắp giựt phỏng trong mồm.” Ông viết “cũng vì tật ham đọc sách hay, đọc quên ăn, quên ngủ, thậm chí có khi quên cả phận sự buồng the, cho nên chỉ tồn đã hai phen bị giựt vợ, bị cắm sừng mà không tởn.” [Sđd. Tr 7]
Ông Vương Hồng Sển có thú chơi sách đặc biệt. Mỗi khi có một cuốn sách mới xuất bản mà ông quan tâm, ông luôn luôn mua 2 cuốn. Ông đánh số và ghi vào sổ bộ hẳn hoi, theo cách thức của thư viện, để dễ tra cứu. Một cuốn để lưu trữ, trưng bày trong hàng chục tủ sách đặc biệt có cửa kính, để giữ cho cuốn sách luôn mới. Còn cuốn thứ hai thì ông dùng để đọc. Mọi người thường ngồi ghế hoặc nằm trên giường, trên ghế trường kỷ, ghế sô-pha để đọc sách. Riêng ông Vương có thói quen nằm võng đọc sách. Ông nói, vừa đu đưa chiếc võng, vừa đọc sách, vừa nghiền ngẫm, ông cảm thấy là rất thú vị.
Ông Vương lưu trữ gần đủ các ấn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du, in ở trong nước và ở nước ngoài, kể cả các bản dịch ra tiếng ngoại quốc. Cuốn Thú Chơi Sách của ông xuất bản năm 1962 liệt kê có tất cả 26 ấn bản Truyện Kiều đang được lưu trữ tại “thư viện” của ông vào năm đó.
Ông có thói quen đánh máy các bản thảo với cái máy chữ cũ kỹ sắm hồi thời Tây. Ông ít khi viết nháp bằng tay.
*****
Có thể nói, ngoài việc mê sách, chơi sách, ông Vương Hồng Sển còn là người chịu khó sưu tập những bài báo và các tài liệu liên quan đến những nhân vật đã nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà ông quan tâm. Ông mở một hồ sơ cá nhân cho mỗi người. Khi cần tiểu sử, thành tích và sự nghiệp của một người nào đó thì ông có tài liệu ngay tại nhà. Từ nhiều năm, ông sưu tầm và thâu thập những phương ngữ Miền Nam, mỗi từ ghi chép vào một phiếu cứng, xếp theo thứ tự ABC. Nhờ vậy mà khi ông quyết định biên soạn cuốn Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam thì công trình của ông xem gần như hoàn tất.
Trong cuốn Hơn Nửa Đời Hư, ông Vương thổ lộ đời của ông, cái gì cũng cũ, cũng vá víu, cũng tạm bợ: nhà, thì mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, nhưng ở cho đến nay; vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp. Về sách vở, đĩa hát và đồ cổ, … thì càng đúng hơn. Ông viết:
“Đồ cổ, xem lại hết sức chung tình với tôi. …. Mua tháng này một cái dĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười họa, gặp, mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ: dầm, bàn, tống, tốt. Dầm: dĩa nhỏ; bàn: dĩa lớn; tống: chén lớn để dầm trà; tốt hay quân: chén để uống trà. Duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu…
Còn sách, những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng “liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ “cho phép để trong nhà”, xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thế thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.
Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp củm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quí, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gã chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm mùi tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ…”* [sđd, tr. 655-656]
Tôi thích sự thành thật của ông Vương. Nó cho thấy đời ông gắn liền với những gì xưa, cũ và «bất hợp lệ…”.
Trong cuốn Sài Gòn Tạp Pín Lù, ông Vương viết: “…Sài Gòn Năm Xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt ‘khảo cứu’ chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài Gòn Năm Xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm.” (Biểu viết lại, nhưng biết sống bao lâu mà làm?) – (Sđd tr. 95).
Thật ra, ai đọc những trang sách của ông Vương – bất cứ cuốn nào, chứ chẳng riêng gì cuốn Sài Gòn Năm Xưa – đều thấy ông Vương đúng là người viết “không khoa học, không trật tự,và thường lập đi lập lại”,…. Trong mục Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình (sđd tr. 94), ông Vương biện minh rằng bản tánh ông xưa nay “không gò gẫm, không ‘hành văn’ và chỉ viết như nói thôi. » Nói là tự nhận lỗi, nhưng thật ra là ông Vương tự biện minh. Và rõ ràng, càng biện minh ông càng cho thấy ông coi thường người đọc khi ông viết: «Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe, và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng ‘cố tình không muốn tránh’.”
Sự khiêm tốn của ông Vương có một, nhưng lòng kiêu căng của ông có tới mười. Trước 1975, tôi có đôi lần gặp ông Vương. Và mặc dù không thích cách viết của ông, tôi vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng ông. Tôi không thích cách viết của ông: dài dòng, lê thê, đầy tĩnh từ và lập lời lập ý như một bà già khó tính khi dạy dỗ la rầy con cháu! Tôi thường bỏ giữa chừng những trang sách của ông. Tôi nghĩ, – và có lúc đã nói với anh Trần Phong Giao là nếu ông Vương cho phép tôi biên tập những cuốn sách của ông – ví dụ cuốn Sài Gòn Năm Xưa,330 tr., tôi có thể viết gọn lại chừng 200 tr. mà không sợ phản bội tác giả. Trần Phong Giao đồng ý, nhưng anh nói, cậu không nên đụng vào ông ấy, đến như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bảo hãy đứng xa ông Vương ra một bước! Liệu cái thần hồn cậu! Tôi kể lại chuyện này chỉ muốn nói một điều, người đọc sách Sài Gòn dù trân trọng kiến thức [về hiểu biết của một “người chơi cổ ngoạn”] của họ Vương, vẫn nhận ra tính chất thiếu khoa học, vô trật tự và sự lập đi lập lại nhiều lời với chỉ một ý… của ông, chứ không cần phải chờ đến sau tháng Tư 1975, “Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng…” mới nhận ra điều ấy nơi ông.
Ông không thể coi thường những người đọc sách ông trong nửa miền Nam của đất nước trước đây. Người đọc yêu mến tài năng “khảo cổ” của ông, quý phục kinh nghiệm trường đời của ông, kính trọng tuổi tác của một bậc lão thành trong làng văn trận bút của ông… nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không nhìn ra sự lê thê, luôm thuộm, rề rà, không trong sáng trong bút pháp của ông. Dù sao, tôi nghĩ, nên đọc những trang sách của ông Vương với một nụ cười.
Hy vọng được nghe nhiều tiếng nói khác của người đọc chúng ta. [NXH]
* Ông Vương Hồng Sển là hậu duệ người Trung Hoa, lưu dân Triều Châu, đến định cư tại Miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 17. Ông sanh tại Sốc Trăng [chữ Sốc Trăng, ông Vương luôn viết có dấu ^] ngày 27 tháng 9 âm lịch, Nhâm Dần (1902), nhưng trên giấy thế vì khai sanh được ghi ngày 4-11-1904. Tên của ông theo tiếng Hán-Việt là Vương Hồng Thịnh. Người Hoa đọc Thịnh là Sển. Trong đơn xin thi thiết lập giấy thế vì khai sanh, gia đình ghi là Vương Hồng Sển.
Năm 1923, ông Vương tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Ra trường, ông làm công chức tại nhiều nơi, Sài Gòn, Sốc Trăng, Cần Thơ. Chức vụ cuối cùng trong đời công chức của ông là quản thủ bảo tàng viện Blanchard de la Brosse (trong khuôn viên Thảo cầm viên Sài Gòn) từ năm 1948 đến 1964.
Ông Vương Hồng Sển từ trần ngày 9-12-1996 tại Sài Gòn, hưởng thọ 92 tuổi, được an táng tại Sốc Trăng.
Ông đã sống gần trọn chiều dài của thế kỷ 20 và là tác giả của một số tác phẩm tiêu biểu:
– Sài Gòn Năm Xưa, in lần đầu 1960 [226 tr.], tái bản năm 1969 [328tr.] – Thú Chơi Sách, 1960 [167tr.] – Hồi Ký 50 Năm Mê Hát, 1968 [254tr.] – Phong Lưu Cũ Mới, 1970 [310 tr.] – Chuyện Cười Cổ Nhân, 1971 [253 tr.] – Hiếu Cổ Đặc San, gồm 9 cuốn về đồ sứ men lam Huế, 1970-1972, nhưng chỉ in được có 6 cuốn. – Hơn Nửa Đời Hư, 1992 [684 tr.] – Sài gòn Tạp Pín Lù, 1992 [160 tr.] – Nửa Đời Còn Lại, 1996 [434 tr.] – Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam, 1994.
Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long, là một nhà văn miền Nam. Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận định: Trong 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam thời kỳ trước 1975, có ba người gốc Huế: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Người thứ tư gốc Bắc di cư: Trùng Dương. Chỉ có Nguyễn Thị Thụy Vũ là dân Nam bộ rặt. Văn chương của bà cũng đặc sệt chất Nam bộ, từ ngôn phong, từ ngữ sử dụng cho tới lời ăn tiếng nói, tính cách, hành vi của các nhân vật.
Năm 1965 bà lên Sài Gòn dấn thân vào nghiệp viết văn, bên cạnh đó còn kiêm việc dạy tiếng Anh cho những cô gái bán bar hoặc lấy Mỹ.
Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, Thụy Vũ đã xuất bản 10 tác phẩm gồm 3 tập truyện ngắn: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông; và 7 tiểu thuyết: Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu (Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1971), Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.
Sau 1975, Nguyễn Thị Thụy Vũ không thể tiếp tục cầm bút do tác phẩm bị quy là đồi trụy, bà phải bươn chải với những công việc khác để nuôi đàn con, trong đó có một người sống đời thực vật. Bà từng buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê… những công việc mà trước đó không ai hình dung nhà văn nữ này có thể kham được.
Hiện nay đời sống của bà tương đối ổn định khi bà về Bình Phước dựng nhà trên mảnh đất cha mẹ để lại. Ðó là sau khi bà nhận được sự giúp đỡ từ những bạn văn cũ qua bài viết của một bạn văn mô tả cuộc sống lây lất khốn khó của mấy mẹ con, vào đầu thập niên 2000. Bà đang sống với gia đình con trai, là một người tu tại gia chuyên việc hộ niệm, và cùng với họ là cô con gái út ngoài bốn mươi tuổi vẫn sống đời thực vật.
Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ
Về cha của các con bà, nhà thơ Tô Thuỳ Yên, bà cho biết: Ổng đi học tập cải tạo. 13 năm ổng đi học tập, tôi có đi thăm ông một lần duy nhứt. Sau đó ổng đi Mỹ với gia đình… (theo NT Kim Cúc)
Về chi tiết này, nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong một bài viết nhan đề “Thụy Vũ: Mỉm cười với nghiệt ngã” ghi nhận: Tôi chợt buột miệng hỏi, rồi lại hối hận đáng lẽ không nên hỏi, về nhà thơ tác giả bài Ta Về, Anh Hùng Tận, chị không một thay đổi sắc mặt hay bất bình, trả lời như chuyện của người khác: ‘Ổng gọi về nhiều lắm nhưng mà không có nói chuyện với tôi, nói chuyện cả giờ với con dâu.’ Tôi nghe tiếng ổng liền nhớ đến biết bao nhiều lần trong truyện ngắn như là tự truyện chị dùng thiệt nhiều lần từ tía sắp nhỏ vừa thương mến vừa xót xa vừa cách phân.
Nhà văn Ðoàn Dự cũng cho biết:
Nói chung, về tình trạng của chị Thụy Vũ hiện nay, chị có 3 người con thì cháu Khôi Hạnh lấy chồng ở Long An, đời sống êm ấm, hạnh phúc nhưng vì đông con nên cũng không giúp gì được cho mẹ. Cháu Khôi Hạo đã có gia đình, có một con trai, trước đây làm nghề nuôi cá cảnh để bán và viết văn theo cái “gien” của bố và mẹ, cũng kiếm được đồng tiền nhưng không hiểu sao tự nhiên cháu đi tu (Phật giáo), để vợ con cho mẹ lo. Còn cháu thứ ba, Khôi Thụy, thì vẫn sống đời sống thực vật, u mơ không biết gì hết như cũ. Năm nay chị Thụy Vũ đã 78 tuổi, tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào mấy con cá kiểng do vị “tu sĩ Phật giáo” truyền lại cho mẹ và mỗi tháng 100 đô-la do cháu Ðinh Quỳnh Giao, bác sĩ bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy Yên gửi về giúp đỡ. Cháu Ðinh Quỳnh Giao rất thương xót đứa em cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khôi Thụy đang nằm liệt giường. (Trích theo Phan Nguyên)
Một điều an ủi cho Nguyễn Thị Thụy Vũ là những sách của bà (10 cuốn) đã được nhà Phương Nam tái bản: Tất cả đều là sách đã in tại Sài Gòn trước 1975, đây có thể xem là toàn bộ sự nghiệp văn chương của bà, đã được Công ty Sách Phương Nam mua tác quyền: Lao vào lửa, Khung rêu, Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang, Mèo đêm, Chiều mênh mông, Chiều xuống êm đềm, Như thiên đường lạnh, Ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên…
Ðược hỏi bà cảm thấy thế nào khi tất cả tác phẩm trước năm 75 đều đã được tái bản. Nguyễn Thị Thụy Vũ thành thật trả lời: “Tôi rất vui. Sách in đẹp, tất cả lỗi chính tả đều được sửa rất kỹ. Tôi thấy mình thật may mắn khi nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều bè bạn, cả bạn cũ và bạn mới. Tôi xin cảm ơn cuộc đời và bè bạn…”
Tất nhiên là chúng ta cùng chia sẻ niềm vui với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhân đây cũng xin trình bày rõ thêm về những nỗi vất vả và khổ đau vô cùng tận cùng những may mắn dù có hơi trễ muộn trong đời nhà văn.
Thụy Vũ tâm sự với nhà báo Ngô Thị Kim Cúc:
“Cuộc sống sau ‘giải phóng’ vô cùng khó khăn. Tui một mình nuôi bầy con nheo nhóc, có đứa bị thiểu năng nằm một chỗ. Tui phải để nó cho mấy đứa lớn cho ăn, chăm sóc còn mình thì đi làm thuê bán vé xe bus cho một người bạn.
“Xe chạy tuyến Thủ Ðức – Sài Gòn, từ sáng đến tối mịt mới về nhà. Về đến nhà thấy con cái đứa thì nằm ngủ trên vũng nước đái, đứa lêu lổng đi chơi không cho em ăn… nhìn cái cảnh đó tui muốn chết đi cho rồi. Khó khăn quá, năm 1980 tui bồng bế tụi nhỏ về Bình Phước nương nhờ má cho đến bây giờ,” bà kể.
Xưa tui bỏ nó ở nhà đi làm báo, nó bị té, ảnh hưởng não nên nằm một chỗ đến giờ, vậy mà giờ nó nuôi tui bằng tiền từ thiện bạn bè, các nhà hảo tâm thương tình giúp đỡ…”
Làm nhiều nghề kiếm sống nuôi con, từ chăn dê, buôn bán, trồng tiêu… cây bút nữ dấn thân nhất của văn đàn miền Nam trước 1975 đã không còn viết gì nữa kể từ sau “giải phóng”. Bà kể: “Ổng (tức, Tô Thùy Yên) thì theo gia đình vợ con ổng đi sang Mỹ, có đời sống riêng. Tui làm đủ nghề lo cho con.
“Ba đứa con tui cũng thành nhân, yên bề gia thất. Có một thằng làm thơ, người ta nói nó có chịu ảnh hưởng của cha nó. Nhưng mấy con tui, đứa nào cũng nghèo, chẳng giúp gì được mình. Tui sống nhờ đứa con bị tàn tật.
Người mô tả về xã hội bên lề Sài Gòn khốc liệt một thuở lại cũng chính là người chịu đựng những hệ lụy mà chiến tranh để lại.
Trở lại văn đàn trong nước sau gần nửa thế kỷ, trong bối cảnh sách vở văn chương đang ở vào một giai đoạn hỗn loạn và phân hóa mạnh mẽ, thì tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ minh chứng rằng, những gì là chân giá trị sẽ không bị phủ lấp dưới bụi thời gian và những định kiến.
Xin được cảm thông với bao nỗi đời nghiệt ngã của nhà văn và mừng bà bước vào giai đoạn gọi là yên vui của cuộc đời. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ chắc chắn sẽ còn sáng mãi với thời gian.
Mỗi khi ngã quỵ, bạn đừng quên Thánh Vịnh 46, 11, “Hãy lặng yên và biết rằng, Ta là Chúa!”. Cuối đời, Hudson Taylor, yếu đến mức thều thào, “Tôi yếu đến độ không thể cầu nguyện, không thể đọc Thánh Kinh. Tôi chỉ có thể lặng yên trong tay Chúa, đợi Ngài vác về!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Đợi Ngài vác về!”. Lời cuối của Taylor cũng là chi tiết mà chỉ một mình Luca có trong dụ ngôn Chiên Lạc với những tình tiết thật ly kỳ! Nào ‘người đó vui mừng vác trên vai, đem về nhà’; ‘mời bạn bè, hàng xóm’ chung vui; và nhất là, ‘giữa triều thần, ai nấy vui mừng!’. Phần con chiên, nó ‘chỉ cần lặng yên!’.
Con số “99” biểu tượng cho những ai đã thuộc về Vương Quốc – đại diện cho triều thần thánh; con chiên lạc đại diện cho toàn thể nhân loại, và đại diện cho từng con người lạc lối. Người Chăn Chiên, chính Chúa Giêsu, luôn tìm kiếm một nhân loại sa ngã; trong đó, có bạn và tôi – mỗi người lạc mỗi cách, mỗi kiểu – để vác về. Ngài không đi tìm chiên vì tiếc của hay giận giỗi, nhưng chỉ vì quan tâm và xót thương. Về phần chiên, đừng nổi loạn, nó ‘chỉ cần lặng yên’, vì “Đôi khi điều thiêng liêng nhất bạn có thể làm là nghỉ ngơi!” – Craig Groeschel.
Thông thường, chúng ta có thể rơi vào cạm bẫy khi nghĩ rằng, tôi phải tìm đường trở lại với Chúa bằng những nỗ lực riêng; nhưng sự thật là, Thiên Chúa luôn ngược chiều, Ngài hối hả, dáo dác dõi mắt tìm kiếm mỗi người. “Ân sủng tìm thấy ta ở nơi ta đang ở, nhưng không để ta nguyên chỗ ấy!” – Max Lucado. Thánh Vịnh đáp ca hôm nay nói, “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban!”. Ân lộc Chúa ban là niềm tin của người để Chúa kiếm tìm và vác về giữa quãng đường còn xa. Như vậy, “Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” – bài đọc một. Vậy thì còn phải lo chi? ‘Chỉ cần lặng yên’ để Ngài bước tiếp phần đường của chính mỗi người. “Ân sủng là sức mạnh dịu dàng vác ta về nhà khi đôi chân ta không còn bước nổi!” – John Stott.
Anh Chị em,
Như vậy, ‘chỉ cần lặng yên’ không phải là buông xuôi, nhưng là để cho ân sủng hành động. Khi con người thôi vùng vẫy, Thiên Chúa mới có thể ôm lấy và vác về. Chính trong bất lực, chúng ta chạm đến quyền năng cứu độ của Chúa. “Ân sủng tuôn tràn mạnh nhất qua những vỡ vụn của con người!” – Philip Yancey. Vì thế, lặng yên không là trốn chạy, mà là tin rằng, Ngài biết đường về. Như chiên yên ắng trên vai Mục Tử – không cựa quậy, đạp chọi – nó không biết, đó chính là giây phút cứu độ của nó. Nói cách khác, khi linh hồn đã kiệt sức, chẳng còn cầu nguyện, chẳng còn suy tư, chỉ còn lặng yên trong Chúa, thì đó không phải là thất bại, mà là điểm chạm giữa ân sủng và sự bất lực. Ở đó, ơn cứu độ bắt đầu! “Đôi khi Thiên Chúa để bạn chạm đáy, để bạn khám phá ra Ngài chính là Đá Tảng nơi đáy sâu ấy!” – Tony Evans.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con không xin sức mạnh, chỉ xin ơn bình an, để khi Ngài băng qua sa mạc lòng con, con đủ tin để không cựa quậy, và để Ngài làm phần còn lại!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
*************************************
Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ
Trên trời ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 15,1-10
1 Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này :
4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? 5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.’ 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.’ 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Sau 5 ngày cấp cứu, nam sinh lớp 10 tử vong sau khi bị nhóm bạn đánh hội đồng; trước đó nữa thì một nam sinh lớp 11 đâm chết kẻ truy đuổi mình từ nhóm học sinh lớp trên đang tìm cách quây đánh; và giờ đây một nữ sinh lớp 8 bị đánh gãy 3 xương sườn sau bởi một nhóm bạn kéo vào nhà vệ sinh tấn công dữ dội, trong khi nhiều bạn nam đứng nhìn rất đông xung quanh mà không ai can ngăn hay có hành động nào đáng kể để bảo vệ nạn nhân cũng như ngăn chặn sự côn đồ của đám bạn thủ phạm.
Làm sao có thể nói hết về nỗi bất hạnh này, khi nó hoàn toàn vượt qua tính gia đình hay cá thể đơn lẻ, nó trở thành một tình trạng ngày càng lan rộng, mang tính giáo dục và nền tảng xã hội sâu sắc trước hành vi và tính hậu quả của nó. Không thể hình dung được rằng điều gì đang xảy ra với những thế hệ trẻ măng đang mặc những tấm áo trắng tinh thế này? Tương lai như một bầu trời giăng đầy mây xám vậy. Thực sự đáng lo và buồn thảm quá.
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Nữ tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam ở Hà Nội, được biết đến là vợ của một nam ca sĩ nổi tiếng, bị cáo buộc lừa gạt hàng chục ngàn người để chiếm đoạt hàng trăm triệu đô la.
Theo báo Tuổi Trẻ hôm 4 Tháng Mười Một, sau tám tháng điều tra bổ sung, Viện Kiểm Sát Thành Phố Hà Nội đã truy tố bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam (Nhật Nam Group), cùng các đồng phạm về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “rửa tiền.”
Bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Công ty bất động sản Nhật Nam. (Hình: VnExpress)
Bị can Vũ Thị Thúy, 44 tuổi, quê Thanh Hóa, được biết đến là vợ của ông Phạm Khánh Phương, tức ca sĩ Khánh Phương.
Theo cáo trạng, Nhật Nam Group thành lập Tháng Bảy, 2019.
Để “lùa gà” (từ ngữ để chỉ hành động dụ dỗ), bị can Thúy đã sử dụng các thủ đoạn gian dối như đưa ra thông tin quảng cáo trên các trang mạng truyền thông, mời những người có uy tín, địa vị xã hội để giới thiệu, quảng bá về việc Nhật Nam Group đầu tư mua nhiều bất động sản, nhà hàng, khách sạn có giá trị lớn trải dài từ Hà Nội, Thanh Hóa, Đắk Lắk đến Tây Ninh, Phú Quốc… “kinh doanh có hiệu quả” và cam kết phân chia lợi nhuận (cả tiền gốc, lãi) theo ngày với mức 7%-8%/tháng, lợi nhuận thu về sau hai năm 168%-192% giá trị hợp đồng.
Tuy nhiên, thực tế Nhật Nam Group đầu tư bất động sản nhưng không có lãi, hoạt động nhà hàng, khách sạn… thì thua lỗ dẫn đến đóng cửa.
Cơ quan điều tra cáo buộc, từ Tháng Bảy, 2019 đến Tháng Sáu, 2023, bị cáo Thúy đã lừa gạt 25,925 người, ký 43,314 hợp đồng hợp tác kinh doanh với Nhật Nam Group, thu hơn 9,113 tỷ đồng ($346.2 triệu).
Bị can Thúy sử dụng gần 4,300 tỷ đồng ($163.4 triệu) để trả tiền gốc, lãi cho chính các nhà đầu tư. Số tiền còn lại hơn 4,800 tỷ đồng ($182.4 triệu) đã bị bà ta chiếm đoạt sử dụng cá nhân, đến nay không còn khả năng chi trả.
Nhiều nhà đầu tư sau đó thấy dấu hiệu bị lừa đảo nên đòi tiền, đòi chất vấn. Một số người đã làm đơn tố cáo bà giám đốc với cơ quan công an.
Trước đó, bị can Thúy cũng đã từng có một tiền án về tội lừa đảo.
Sau khi điều tra, hôm 31 Tháng Tám, 2023, Phòng Cảnh Sát Kinh Tế Công An Hà Nội đã bắt giữ bị can Vũ Thị Thúy với cáo buộc “cung cấp thông tin đầu tư sai sự thật về bất động sản để lừa đảo chiếm đoạt số tiền “đặc biệt lớn.”
Ca sĩ Khánh Phương và vợ – bị can Vũ Thị Thúy. (Hình: Dân Trí)
Ngoài ra, bị can Thúy bị xác định đã chỉ đạo các nhân viên kế toán thực hiện việc rút tiền, chuyển tiền ra khỏi tài khoản của Nhật Nam Group rồi chuyển tiền vào các tài khoản cá nhân để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp do phạm tội mà có.
Từ đó, bị can Thúy sử dụng 120 tỷ đồng ($4.5 triệu) và nhờ người khác ký hợp đồng mua bất động sản, đầu tư mua cổ phiếu. Đây là hành vi khiến bà này bị Viện Kiểm Sát truy tố thêm tội “rửa tiền.”
Liên quan vụ án, trả lời công luận sau khi vợ bị bắt, ca sĩ Khánh Phương nói mình cũng là một nhà đầu tư tại Nhật Nam Group và “cũng thiệt thòi, mất mát giống như nhiều nhà đầu tư khác, thậm chí… mất nhiều hơn.” (Tr.N) [kn]
Bản dập Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 135, mặt khắc 26, ghi chép việc vua Minh Mạng ra dụ kêu gọi giúp dân Bắc Kỳ bị lũ lụt năm 1834. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
Cũng giống như bây giờ, mỗi khi bị thiên tai (bão tố, lũ lụt, hạn hán bất thường và nặng nề), các triều đình phong kiến (quân chủ) sẽ thực hiện việc cứu tế, mở quốc khố, phát chẩn cho dân bằng tiền, lúa, gạo, cơm ăn… Các kho lẫm dành riêng cho cứu tế sẽ đặt ngay tại địa phương, khi có tình huống xấu xảy ra thì lập tức hành động. Và công việc này chủ yếu do nhà nước đảm nhiệm, lý do là triều đình coi đó là việc tất nhiên của mình. Thêm nữa, thời đó giao thông chia cắt, đi lại khó khăn, phương tiện hạn chế, nên dân vùng khác muốn giúp cũng rất khó.
Bây giờ thì dân cứu dân rất nhiều: Quyên góp tiền bạc, tổ chức nấu ăn, vận chuyển nhu yếu phẩm, tổ chức cứu nạn…, đôi khi làm lu mờ cả hình ảnh của nhà nước.
Biển nước đe dọa Hà Nội trong trận lụt lịch sử năm 1926, thời vua Bảo Đại. Nguồn: Aeronautique Militaire
Ngoài cứu đói, thời phong kiến triều đình còn thực hiện những việc rất đặc biệt.
Nhà vua cho rằng đất nước có thái bình thịnh vượng hay không là do cái đức của bản thân. Vì thế, mỗi lần thiên tai, vua sẽ tự trách, cho đó là vì “đức mỏng”, chưa sửa mình được tốt, nên tai họa mới ập xuống.
Lễ tế trời đất được thực hiện. Nhiều ngày trước khi diễn ra lễ tế, nhà vua sẽ ăn chay, giữ tâm ý lành thiện, ra lệnh cấm sát sinh… Hoàng thân và triều thần đều hưởng ứng và phải đồng lòng.
Những quan niệm và hành động này không phải chỉ là một kiểu “mê tín”, mà nó xuất phát từ tư duy trung đại, coi thiên – địa – nhân là hợp nhất, mọi thay đổi của tự nhiên đều có bàn tay và tâm ý con người. Vì thế muốn “yên thiên hạ” thì phải “sửa mình”.
Cũng vì thế mà lễ tế sẽ đi cùng với hành động (ăn chay, cấm giết hại…) chứ không phải chỉ hình thức, nói suông.
Hành động còn thể hiện ở việc mỗi lần thiên tai, triều đình sẽ cho điều tra, xem quan địa phương có bóc lột dân không, có gây ra bất công và điều ác gì khiến lòng dân oán hận hay không. Cách chức quan địa phương nếu vùng đó thường xuyên bị thiên tai bất thường, vì cho rằng họ kém đức nên mới bị giáng họa như thế.
Không chỉ sám hối và tự trách bằng lễ tế, triều đình còn miễn giảm thuế, hoãn sưu dịch. Ví dụ, năm 1442 sau lũ lụt lớn, vua Lê Nhân Tông miễn toàn bộ thuế cho vùng Thanh Hóa. Triều đình cũng có chính sách nhân đạo đặc biệt, như chôn cất người mất, nuôi dưỡng cô nhi quả phụ do thiên tai; không xử tội hình sự, tạm dừng tra khảo trong thời gian thiên tai; tổ chức ân xá cho tội nhân…
Tất cả các chính sách này là nhằm để thể hiện đức hiếu sinh, hiển bày đức độ của nhà vua nhằm “cảm động lòng trời”; và quan trọng là để an dân, cảm hóa và tạo niềm tin với dân.
Bỏ qua những khác biệt về tư duy, quan niệm và những yếu tố mà người bây giờ gọi là “mê tín”, thì hành xử của triều đình phong kiến có nhiều điều vẫn đáng để chính quyền hiện đại tham khảo. Ngoài công tác cứu trợ, cứu hộ, cứu nạn cần được đồng bộ, nhanh và hiệu quả thì các chính sách lâu dài như đê điều, trồng lại rừng, quy hoạch lại thủy điện là rất cần kíp.
Bên cạnh đó, nạn quan tham, việc tiêu xài phung phí, sự lãng phí khổng lồ (như cái tòa nhà Bộ Ngoại giao 4000 tỉ bỏ hoang trên khu đất vàng giữa thủ đô) không thể tái diễn mãi. Quan chức và “triều đình” ngừng lễ lạt, tránh xa hoa, tập trung giải quyết hậu quả và chia sẻ với đồng bào. Việc Hà Nội tính bắn pháo hoa giữa lúc miền trung đang bị nhấn chìm trong lũ dữ là một sự vô cảm và thất đức, khiến lòng người oán ghét.
Khó khăn nào rồi dân cũng sẽ vượt qua, nhưng một sự thịnh vượng lâu dài bền vững không thể không có sự tin tưởng, đồng lòng và yêu mến mà dân dành cho nhà nước. Lòng dân bao giờ cũng là điều hệ trọng…
Tối qua, tôi với thằng bạn ngồi lì trong quán, nhìn nó cúi mặt mà thấy nghẹn.
Nó vừa chính thức đóng cửa quán, sau hơn hai năm cố gắng gồng gánh. Không phải vì hết vốn, mà là hết sức, hết niềm tin, hết chịu nổi.
KHÔNG CÒN KHÁCH.
Cái đau đầu tiên và rõ nhất. Ngày xưa, quán lúc nào cũng có tiếng cười, mùi cà phê thơm, khách quen ghé chuyện trò.
Giờ mở cửa ra, là cảnh bàn ghế trống, ly cà phê nguội ngắt, mà đồng hồ điện thì vẫn quay, hóa đơn vẫn tới.
Mỗi đêm, nhìn ánh đèn quán hắt ra con đường vắng, nó bảo: “Tao thấy như tiền mình đang chảy theo nước cống vậy đó bro.”
Mấy tháng đầu nó còn cười, còn tự trấn an “rồi sẽ khá hơn”. Nhưng lâu dần, tiếng cười cũng tắt. Không phải vì hết tiền, mà vì hết động lực.
THUẾ – CÁI ÁP LỰC KHÔNG NHÌN THẤY.
Nó nói, “thuế giống như cái dây thòng lọng, siết từ từ, không đau liền nhưng nghẹt thở.” Làm thì phải đóng, không ai trốn được. Nhưng vấn đề là, mấy cái chi phí phát sinh, thuế nọ thuế kia, cứ tăng dần mà không ai báo trước. Làm hoài, làm mãi, cuối cùng thấy mình chỉ là cái công cụ để nộp thuế.
Mệt mỏi nhất là cái cảm giác, dù có cố gắng cỡ nào, vẫn không thoát nổi.
TIỀN THUÊ MẶT BẰNG – CÁI DÂY CÓ GAI.
Giá thuê giờ cao hơn cả lợi nhuận. Chủ nhà thì cứ nghĩ người thuê giàu lắm, có tiền mở quán là có tiền trả. Nhưng họ đâu biết, bên trong đó là cả đống nợ, là nước mắt, là áp lực gia đình. Nó nói, mỗi lần chủ nhà nhắn “tới hạn rồi nha”, là tim nó đập loạn, người run. Bán không đủ, vẫn phải trả, mà nếu không trả – bị khóa cửa, mất luôn cả vốn liếng, uy tín.
“Tao làm, không phải để sống, mà để tồn tại. Mà tồn tại kiểu này thì khác gì bị bóp cổ từng ngày.”
NỖI ĐAU KHÔNG AI NHÌN THẤY.
Không ai thấy những đêm nó thức đến 2–3 giờ sáng, ngồi cộng sổ, gạch chi phí, vừa tính vừa rớt nước mắt.
Không ai thấy cảnh nó giấu vợ, giấu con, nói “ổn lắm”, trong khi ví không còn nổi 100 ngàn
Không ai thấy cảnh nó ngồi ngoài hiên, nhìn bảng hiệu quán mình dựng bằng cả giấc mơ bây giờ phải tháo xuống, từng chữ, từng ký ức…
Cựu Phó Tổng thống Mỹ Dick Cheney – nhân vật từng giữ vai trò trung tâm trong chính sách đối ngoại và quân sự của Hoa Kỳ suốt gần nửa thế kỷ – đã qua đời vào tối 4 Tháng Mười Một, hưởng thọ 84 tuổi. Gia đình cho biết nguyên nhân là các biến chứng liên quan đến bệnh viêm phổi và tim mạch.
Thông báo từ gia đình nhấn mạnh, người vợ Lynne Cheney – người bạn đời 61 năm – cùng hai con gái Liz và Mary đã ở bên ông trong những giờ phút cuối. Bản tin còn nói rõ: “Dick Cheney là một người đàn ông đáng kính. Ông dạy con cháu mình sống yêu nước, quả cảm, tử tế và đầy yêu thương… Chúng tôi vô cùng biết ơn những đóng góp của ông đối với đất nước.”
Dick Cheney là một chính trị gia tiêu biểu của Đảng Cộng hòa, bắt đầu sự nghiệp trong những năm 1970, đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền liên bang, bao gồm Chánh Văn phòng Nhà Trắng dưới thời Tổng thống Gerald Ford, nghị sĩ Hạ viện đại diện bang Wyoming, rồi Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Tổng thống George H.W. Bush. Tuy nhiên, sự nghiệp của ông bước sang trang mới khi trở thành Phó Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ từ 2001 đến 2009 dưới quyền Tổng thống George W. Bush.
Trong giai đoạn này, Cheney được coi là một trong những phó tổng thống quyền lực nhất lịch sử nước Mỹ. Sau vụ khủng bố 11 Tháng Chín 2001, ông trở thành kiến trúc sư chính trong chiến lược “chống khủng bố toàn cầu”, thúc đẩy việc Mỹ phát động chiến tranh tại Afghanistan và sau đó là Iraq. Quyết định đưa quân vào Iraq năm 2003 đến nay vẫn gây nhiều tranh cãi, nhưng Cheney chưa từng công khai tỏ ra hối tiếc. Năm 2015, trong buổi phỏng vấn với CNN, ông nhấn mạnh: “Tôi không ân hận về quyết định đó. Lịch sử sẽ đứng về phía chúng ta.”
Trái Tim Bằng Sắt – Theo Nghĩa Đen
Sức khỏe của Dick Cheney từ lâu không còn là điều bí mật. Ông từng bị nhiều cơn đau tim, phải sống chung với bệnh tim mạch gần như suốt cuộc đời chính trị. Đến năm 2012, Cheney trải qua ca ghép tim thành công – sau đó ông gọi đó là “món quà của sự sống”. Điều này cho phép ông tiếp tục viết hồi ký, tham gia thảo luận chính trị, và ít nhiều giữ ảnh hưởng trong giới an ninh quốc phòng cho đến khi tuổi già.
Một Di Sản Gây Tranh Cãi Trong Đảng Cộng Hòa
Là người theo đường lối bảo thủ cứng rắn, Cheney nhiều năm liền được xem là gương mặt tiêu biểu của “diều hâu” chính trị Mỹ. Tuy nhiên, những năm cuối đời, ông gần như bị cô lập trong chính nội bộ Đảng Cộng hòa. Nguyên do: Cheney thẳng thừng chỉ trích cựu Tổng thống Donald Trump, người mà ông cho là “mối đe dọa lớn nhất từng có đối với nền cộng hòa”.
Quan điểm thẳng thắn ấy càng khiến ông tách xa dòng chảy chính trị bảo thủ đương đại. Trong kỳ bầu cử tổng thống gần nhất, năm 2024, Cheney tuyên bố bỏ phiếu cho ứng viên đảng Dân chủ Kamala Harris– một động thái gần như chưa từng có với một đảng viên Cộng hòa thâm niên.
Dick Cheney qua đời để lại một di sản chính trị phức tạp – được nhiều người ca ngợi vì lòng yêu nước và sự kiên định, nhưng cũng không thiếu những chỉ trích về vai trò trong các cuộc chiến kéo dài ở Trung Đông. Với nhiều thế hệ, ông vẫn là biểu tượng của nước Mỹ thời kỳ hậu 11/9, khi quốc gia này bước vào một thời đại mới với những quyết sách vừa mang tính quyết đoán, vừa chất chứa nhiều tranh luận kéo dài đến tận hôm nay.
Trước giữa thế kỷ XIX, không ai nói tới “Tâm hồn Nga”cả. Khoảng 1842, văn hào Gogol, người Ukraine viết cuốn tiểu thuyết lừng danh “Những Linh Hồn Chết” (Dead Souls) bằng tiếng Nga trong đó ông dùng “Linh hồn” ám chỉ số nông nô đã chết, nhưng các chủ nô dùng danh sách ma để mua bán, trao đổi, thế chấp, trốn thuế kiếm lời. Dần dần, Nga tìm kiếm mọi cách định nghĩa “Tâm hồn Nga” như một bằng chứng khẳng định Nga khác phần còn lại của Âu châu: Nga có linh hồn; Âu châu vô hồn. Nga tự hào; Âu châu tự ty. Nga văn minh; Âu châu man rợ. Nga kiêm tốn; Âu châu hãnh tiến. Nga thánh thiện; Âu châu tội lỗi. Nga cao thượng; Âu châu nhỏ nhen. Nga nhân hậu; Âu châu tàn nhẫn… Trong đó, văn hào Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky, và thi hào Alexander Pushkin là những môn đệ toàn tòng cho “Tâm hồn Nga” một cách cuồng nhiệt nhất.
Khoảng 13 tuổi, trên đường tới St Peterburg, Dostoyevsky chứng kiến tại một trạm bưu điện. Một gã đưa thư, mặc đồng phục, nhảy vào cỗ xe ngựa đậu gần đó, không nói không rằng, tung những quả đấm như trời giáng vào mặt vào cổ người đánh xe. Ngay lập tức, người đánh xe, điên cuồng vung roi quất vào mông ngựa. Cỗ xe lao đi trong khói bụi mịt mờ. Dostoyevsky, ngất ngây, tưởng tượng ra cảnh, người đánh xe ngựa trở về làng đêm đó, trong cơn say túy lúy, cũng thụi túi bụi vào mặt vào cổ vợ, như người ta đã thụi mình.
Không ngạc nhiên, Dostoyevsky đã kết hợp những ký ức vào nghệ thuật lãng mạn, với tâm linh, cảm xúc tuyệt vời nuôi dưỡng những hoang tưởng bạo lực và tàn ác của con người trong từng trang viết. Trong tiểu thuyết “Tội ác và Trừng phạt” nhân vật Raskolnikov nằm mơ thấy một nông dân đập chết một con ngựa. Khi tỉnh dậy, gã kết nối giấc mơ với một kế hoạch đập chết người bằng rìu. Gã nhảy ra khỏi giường, thực hiện giấc mơ giết người. Những chuỗi dài bạo lực tiếp nối bạo lực, mà không ai thoát ra khỏi.
Raskolnikov là sinh viên nghèo, giết chủ tiệm cầm đồ, để lấy tiền đi học. Gã bảo Napoleon đã giết hàng ngàn người Ai Cập, cướp kho báu khảo cổ, để thiết lập lên bộ môn Ai Cập học cho nhân loại. Vậy, gã giết người để hoàn thành một lý tưởng, giết người để hiện thực một giấc mơ, giết người để học tập, giết người để tiến bộ, là phi thường, là anh hùng. Lập luận của Raskolnikov là một dạng của “Tâm hồn Nga” tâm hồn đế quốc. Đó là cơn thịnh nộ của độc ác được chắt lọc từ lòng căm thù, đố kị, ganh tị đã dồn nén từ lâu.
Dostoyevsky bị đi đầy ở Siberia chỉ vì đọc cuốn sách cấm. Một người bạn tù gốc Ba Lan đã viết trong hồi ký: Dostoyevsky nguyền rủa đám Estonia, Litvia, Lithuania, và Ba Lan rằng đất đai của chúng mày mãi mãi là đất đai, tài sản của Nga. Nếu không nhờ Nga khai sáng thì bọn mày chỉ biết vùng vẫy trong tối tăm, đói nghèo, cơ cực, mù chữ, và man rợ.
Pushkin, được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga” là người đóng góp quan trọng vào ngôi đền thiêng “Tâm hồn Nga”. Khoảng 1820 Pushkin bị đày đi Kavkaz như một kẻ lưu vong chính trị. Ông đã viết bản trường ca “Người tù Kavkaz, trong đó kể lại câu chuyện người con gái miền sơn cước, ở tuổi dậy thì, duyên dáng nồng nàn, ngây thơ đắm đuối, phải lòng một tù nhân chiến tranh Nga. Nàng liều mình giải thoát cho chàng. Rồi, chàng rủ nàng trốn đến nước Nga. Nàng từ chối, giận hờn bảo anh đi đi, đừng bận tâm đến số phận tàn khốc u sầu của em. Lòng nàng vò xé, nước mắt lưng tròng, nàng đưa chàng tới bờ sông, để chàng xuôi dòng về lại quê hương. Rồi, nàng tự tử.
Nhưng khổ cuối của bản trường ca, Pushkin viết “Hỡi Kaskaz, hãy đầu hàng đi. Ermolov đang tới.” Alexei Ermolov là tướng Nga, tư lệnh cuộc chiến giữa Nga và Thượng Kaskaz ở thế kỷ XIX. Ermolov cực kỳ tàn nhẫn, giết 9/10 dân số Thượng Kaskaz. Ermolov tuyên bố: “Ta khao khát những nỗi kinh hoàng mang tên ta.” Chính Pushkin đã ủng hộ những tư tưởng đế quộc tàn bạo này. Những gì xảy ra ở Bucha, Ukraine, 2022, cho ta thấy “Tâm hồn Nga” man rợ tới cỡ nào.
Năm 1837, Pushkin công bố bài thơ “The Bronze Horseman” – Kỵ sỹ Đồng, hết lòng ca ngợi Peter Đại đế, cưỡi ngựa đi thị sát đầm lầy, những túp lều khốn khổ và hèn mọn của lũ Phần Lan lúp xúp dưới vó ngựa của Ngài. Peter Đại đế xây thành St. Petersburg hướng về Tây âu, lối ra biển Baltic. Ngài tuyên bố: Từ nơi này, ta sẽ uy hiếp Thụy Điển và nuốt cả Âu châu. Những ý tưởng này không thể nào không gợi nhớ tới Putin đang đe dọa Âu châu, và tàn phá phương Tây.
Pushkin đã viết những lời hoa mỹ, vô cảm trong cuộc chiến Nga -Thổ: “Người Circassia căm ghét chúng tôi (lính Nga) vì chúng tôi đã buộc họ phải phải rời khỏi những đồng cỏ mênh mông. Nhiều làng mạc bị tàn phá. Cả bộ lạc bị xóa sổ. Người làng phải từ bỏ tất cả để gia nhập Đế chế Nga.”
Ở tuổi 20, Pushkin bị lưu đày khắp nơi từ Kaskaz, tới Crimea, từ Kamianka tới Bessarabia chỉ vì những bài thơ viết ở tuổi 15. Sau năm tháng sống kiếp lưu vong, Pushkin trở về St. Petersburg, không bao giờ dám chỉ trích Sa hoàng nữa. Ngược lại, Pushkin làm thơ ca ngợi, tôn vinh những hành động đế quốc của Nga với các dân tộc láng giềng. Đó là vì sao Đế chế Nga và sau này là Liên Xô cùng cho dựng tượng Pushkin, công viên Pushkin, đường phố Pushkin, quảng trường Pushkin khắp nơi nơi.
Phong trào “Pushkinopad – Пушкинопад”– nghĩa đen là hạ bệ Pushkin tại Ukraine, sau cuộc xâm lược do Putin phát động. Người Ukraine xác định Pushkin và Dostoyevsky là những kẻ cổ xúy cho chủ nghĩa sô vanh (chauvinism) Nga, không xứng đáng được đặt tượng, đặt tên trên quê hương của họ.
Pushkin qua đời năm 37 tuổi sau cuộc đấu súng do ghen tuông ái tình. Dostoyevsky chết năm 59 tuổi, do nhồi máu phổi, động kinh kinh niên không thuốc chữa, đói nghèo, nghiện ngập, cờ bạc, nợ nần chồng chất. Ukraine không muốn đọc Dostoyevsky nữa, không muốn ngắm tượng Pushkin nữa vì trong từng trang viết chan chứa tư tưởng bành trướng, đế quốc, bạo lực, man rợ, được Putin tuyên truyền biện minh cho hành vi xâm lược hôm nay.
Nỗi mặc cảm tự ti chỉ là một đế chế thứ cấp, bên rìa Âu châu, Putin nhìn phương Tây là lũ suy đồi, trụy lạc, không thể nào đè bẹp được lòng kiêu hãnh Nga – Tâm hồn Nga đã dẫn dắt nước Nga lao vào những cuộc chiến tranh liên miên, không hồi kết, và luôn gây sự với người khác.
Tiến sỹ Henry Kissinger nhấn mạnh: Để hiểu Putin, phải đọc Dostoyevsky. Putin bước ra từ tiểu thuyết viết cách nay đã hai thế kỷ. Tiến sỹ Timothy Snyder nói: Để hiểu được Putin phải đọc 1984: “Chiến tranh là hòa bình. Tự do là nô lệ. Ngu dốt là sức mạnh.” Cựu tổng thống Mỹ George W. Bush bảo nhìn vào mắt Vladimir Putin và “hiểu được tâm hồn Putin”.
Tâm hồn Putin – tâm hồn điệp viên, tâm hồn sát thủ. Tâm hồn Nga – tâm hồn đế quốc – cơ chế của những đau thương.
Đứa bạn vừa chạy xong suất kết hôn giả để đi Mỹ với giá 50.000 đô,
hoàn thành giấc mơ trở thành công dân của đất nước cờ hoa mà nó ấp ủ bấy lâu nay.
Nó phân bua với tôi, với ngần ấy tiền, ở Việt Nam tao được gọi là tỷ phú, có thể sống phè phởn khi nhà cửa có sẵn, công việc ổn định nhưng tau vẫn phải đi. Mày biết vì sao không?
Đơn giản là qua Mỹ với giá đó, tao có thể chỉ là một thợ nail bình thường nhưng con cái tao sau này sẽ được thụ hưởng nền giáo dục Mỹ miễn phí, thứ mà mày phải mất gần 20 nghìn đô mỗi năm nếu như muốn con mày có nó ở Việt Nam.
Tao cũng sẽ chỉ mua một chiếc Lexus RX 350 có hơn 50 nghìn đô, thứ mà mày cũng phải mất gấp 3 để nó lăn bánh ở Việt Nam trong khi đường sá thì như shit, xăng, dầu, thuế, phí lại ở trên trời.
Ngoài ra tao và gia đình tao sau này sẽ được hưởng một môi trường trong lành, một bãi biển sạch để tắm, một chế độ an sinh hợp lý, một nguồn thực phẩm sạch đã qua kiểm nghiệm kỹ càng, và quan trọng là tao có thể nói bất cứ gì tau muốn mà không sợ ngồi tù…
Những thứ này thì dù mày có là đại gia ở Việt Nam, mày và gia đình cũng không bao giờ được thụ hưởng.
Bỏ ra 50.000 đô, hơn một tỷ ông cụ để làm được điều đó, tính ra tao lãi lớn chứ có lỗ đâu mày.
Cái đất nước này giờ đã tan hoang, biển thì chết, môi trường lại ô nhiễm nghiêm trọng, ăn uống thì toàn hoá chất độc hại, thuế, phí thì hơn cả thời Pháp thuộc, chất lượng cuộc sống thì ngày càng đi xuống… quy’ báu gì nữa mà lưu luyến mày ơi.
Nghe nó nói xong tôi chỉ biết lặng im cúi đầu.
Cái thằng, nói đúng thế thì lấy gì để bắt bẽ nó đây.
Trước khi đi nó còn bồi thêm câu, mày ở lại xây dựng xã hội chủ nghĩa cho tốt nhé, tao qua xứ giãy chết cho bọn nó bóc lột đây.
Kiếm ra ai đểu hơn thằng này cũng khó.
Thôi mày đi vui vẻ, tao cũng đang gắng để được như mày đây!