TÌM HIỂU CÁC TÔNG ĐỒ – Sao Biển

Sao Biển

25/10/2021

Có lẽ chúng ta không còn là Kitô hữu khi loại bỏ các tông đồ. Không có những con người trung thành và can đảm này, chúng ta sẽ không biết Tin mừng và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Mười hai tông đồ đầu tiên cùng với Phaolô và Mátthia là nền móng cho đức tin của chúng ta.

TÌM HIỂU CÁC TÔNG ĐỒ

D.D. Emmons

WGPNT (25.10.2021) – Có lẽ chúng ta không còn là Kitô hữu khi loại bỏ các tông đồ. Không có những con người trung thành và can đảm này, chúng ta sẽ không biết Tin mừng và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Mười hai tông đồ đầu tiên cùng với Phaolô và Mátthia là nền móng cho đức tin của chúng ta. Chính các ngài đã loan truyền sứ điệp của Đức Giêsu, chia sẻ câu chuyện phục sinh cho hầu hết phần thế giới được biết đến vào thế kỷ I (Rôma lúc bấy giờ được xem là tận cùng trái đất). Sau lễ Ngũ tuần, các ngài kiên quyết dấn thân vì Đức Kitô, đến độ sẵn sàng chịu đau khổ và hi sinh mạng sống; thật vậy, hầu hết các ngài đã chịu tử đạo.

Về tầm quan trọng của các tông đồ, chúng ta lại ít biết về một vài vị trong số họ, và những gì chúng ta thực sự biết phần lớn dựa trên truyền thống hoặc truyền thuyết. Chúng ta có thể phỏng đoán một số điều về các tông đồ nhưng tất cả đều dựa trên văn hóa Do Thái. Chẳng hạn, vị Thầy (Giêsu) luôn lớn tuổi hơn môn đệ, nên các tông đồ có lẽ dưới 30 tuổi và một vài vị có thể đang tuổi niên thiếu. Là những người trẻ và ngư dân, có lẽ họ có sức khỏe tốt, là điều cần thiết để theo Đức Giêsu khắp miền Galilê. Hầu hết họ đều ít học, có lẽ ngoại trừ Mátthêu người thu thuế. Họ ít đi đây đi đó, chất phác, sống và lao động tại địa phương. Thánh Josemaría Escrivá đã viết về các Tông đồ như sau: “Các tông đồ chỉ là những người đánh cá… Họ ít học; thậm chí không được thông minh lắm, nếu chúng ta nhìn cách họ phản ứng trước những điều siêu nhiên… Họ nghèo và kém hiểu biết”. Thế nhưng, Đức Giêsu đã kêu gọi họ trở thành chứng nhân của Ngài cho toàn thể nhân loại.

Nêu tên các tông đồ

Trong các lớp giáo lý cho người dự tòng trưởng thành, có lúc người hướng dẫn yêu cầu học viên nêu tên các tông đồ đầu tiên. Thông thường, có người sẽ trả lời: “Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan”, rồi ngập ngừng “và Phaolô”. Nhiều học viên, và các Kitô hữu khác, phải chật vật để kể tên nhóm Mười hai và thường nghĩ rằng các tác giả Tin mừng đều là các tông đồ.

Các tông đồ gồm: Phêrô, Anrê, Giacôbê Tiền, Gioan, Philípphê, Batôlômêô (Nathanaen), Tôma, Mátthêu (Lêvi), Giacôbê Hậu, Giuđa (Tađêô), Simon và Giuđa, cộng thêm Mátthia và Phaolô là hai vị không thuộc nhóm Mười hai. Ba Tin mừng Nhất lãm, cùng với sách Công vụ Tông đồ, xác nhận việc tuyển chọn nhóm Mười hai tông đồ đầu tiên. Một số tên gọi có khác nhau đôi chút nhưng cùng chỉ một người. Theo Tin mừng thánh Mátthêu, thì Anrê, Phêrô, cùng với Giacôbê và Gioan, tiếp theo là Philípphê là những tông đồ đầu tiên được chọn. Họ đều là ngư dân; trên thực tế, hầu hết nhóm Mười hai cũng vậy. Họ có một đức tính đặc biệt nơi mọi ngư dân năng nổ, đó là đức kiên nhẫn; họ giăng câu hay quăng lưới và chờ đợi. Đức tính này sẽ hữu ích khi Đức Kitô kêu gọi họ trở thành những kẻ lưới người. Sau khi chọn năm vị đầu tiên này, Đức Giêsu tiếp tục gọi Mátthêu, một người thu thuế, và sau đó là Batôlômêô. Tin mừng không đề cập cụ thể việc Đức Giêsu gọi từng tông đồ còn lại, mặc dù họ được nêu tên cùng với nhóm tông đồ ở một số nơi trong Tin mừng.

Đức Giêsu ban ơn cho các tông đồ

Ba năm sống với Đức Giêsu, nghe giảng và chứng kiến các phép lạ Ngài làm; các tông đồ đã sẵn sàng cho một sứ mạng lớn lao. Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ những ân huệ thần linh, bao gồm ơn tha tội, khả năng chữa lành và việc biến bánh rượu thành Mình Máu Ngài. Không một người thường nào có thể trao cho người khác những khả năng đến từ Thiên Chúa. Một tuyển thủ bóng chày xuất sắc của đội bóng lớn có thể trình diễn và giải thích cách anh ta ném bóng, nhưng không thể làm cho người khác thấm nhuần tài nghệ riêng của mình. Một giáo lý viên có thể bàn luận cách cầu nguyện, nhưng sự thành tâm phải đến từ bản thân người cầu nguyện. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Đấng thần thiêng, còn ban cho các tông đồ những lời lẽ cần thiết để công bố Tin mừng.

Ban đầu Đức Giêsu giới hạn Nhóm Mười hai giảng dạy nơi người Do Thái mà thôi: “… đừng đi về phía các dân ngoại… hãy đến với các con chiên lạc nhà Ítraen” (Mt 10,5–6). Hai năm sau, Ngài đưa ra lệnh truyền quan trọng khi bảo các tông đồ đi đến các nơi ngoài đất Do Thái “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19–20).

Sau khi công bố lệnh truyền quan trọng và ngay trước khi về với Chúa Cha, Đức Giêsu truyền cho các tông đồ ở lại Giêrusalem, chờ đợi  “điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới” (Cv 1,4). Tóm lại, họ chưa thể thực thi sứ mạng cho đến khi nhận lãnh Thánh Thần. Những người trở lại đầu tiên đều là người Do Thái; các tông đồ đã không khởi sự rao giảng cho những người ngoài Do Thái trong khoảng 10 năm sau đó. Họ sẽ được những người khác như Banaba và Timôthê hỗ trợ để hoàn tất công việc linh thánh này.

Những con người bất toàn

Họ là những con người bất toàn, đầy khiếm khuyết như được kể trong các sách Tin mừng: đôi lúc họ nghi ngờ, khước từ thậm chí phản bội Đức Giêsu; họ chậm hiểu và thắc mắc về một số việc Ngài làm. Giuđa phản bội Ngài và sau đó ra ngoài treo cổ tự vẫn. Phêrô thì chối Chúa ba lần. Trừ Gioan, tất cả đã bỏ rơi Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn. Tôma khước từ câu chuyện Đức Kitô sống lại, và hầu hết các ông đều không tin các phụ nữ vào buổi sáng phục sinh rằng Ngài đã sống lại. Philípphê tỏ ra kém tin khi hỏi làm sao Đức Giêsu có thể cho 5000 người ăn với chỉ vài con cá. Chỉ sau biến cố phục sinh các tông đồ mới được ban đầy đức tin vững vàng và trọn vẹn vào Đức Giêsu.

Trước lễ Ngũ tuần, họ sợ hãi chạy trốn; giờ đây họ sẵn sàng ca tụng danh Ngài đến tận cùng trái đất, mặc dù điều đó khiến họ bị căm ghét, đánh đập và cầm tù. Hầu hết, họ đi từng người từ Giêrusalem đến Ấn Độ, qua Ba Tư, rồi Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bắc Phi, Ukraina, Ai Cập, Syria, khắp Địa Trung Hải và Trung Đông. Đây chưa phải là danh sách đầy đủ các quốc gia, nhưng nếu tính thêm nỗ lực của thánh Phaolô, người đã thực hiện hành trình truyền giáo hơn 10.000 dặm, bao gồm cả châu Âu, thì các tông đồ đã làm cho Kitô giáo loan truyền hầu khắp thế giới được biết đến vào thời đó. Ngoại trừ các thành phố như Giêrusalem, Antiôkhia và Rôma, họ thi hành sứ vụ nơi các cộng đồng Kitô giáo nhỏ bé nơi họ đã bỏ cả mạng sống mình trong nhiều trường hợp. Kinh thánh chỉ kể về cái chết của hai tông đồ: thánh Giacôbê Tiền, người bị giết bởi vua Hêrôđê; và Giuđa, người đã treo cổ tự vẫn. Theo truyền thống và truyền thuyết, chúng ta biết Phêrô đã bị đóng đinh ngược ở Rôma; và gần đó vào cùng ngày, Phaolô bị chém đầu. Anrê bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X, Batôlômêô bị lột da sống, Mátthêu bị ném đá và sau đó chém đầu, còn Tôma bị đâm bằng giáo cho đến chết. Tất cả các tông đồ đều chịu tử đạo chỉ trừ Gioan đã chết cách tự nhiên.

Chẳng bao lâu sau, Kitô giáo không còn là sản phẩm phụ của Do Thái giáo mà đã phát triển thành một Giáo hội phổ quát. Các tông đồ đã phải đi những chuyến hành trình dài và nguy hiểm, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, và biết rằng mình vẫn bị người Rôma và nhiều người Do Thái muốn bách hại. Nhưng hầu như bất cứ nơi nào họ đến, họ thu hút những người tìm hiểu về Đức Kitô phục sinh, về sứ điệp tình yêu của Ngài, về sự sống đời đời. Những con người thánh thiện này vẫn là hình mẫu cho chúng ta.

GẶP GỠ CÁC TÔNG ĐỒ

Thánh Phêrô

Phêrô chối Đức Giêsu ba lần vào đêm Ngài bị bắt, “trước khi gà gáy hai lần”, đúng như lời Đức Giêsu đã báo trước (Mc 14,30). Tuy nhiên, ngay sau lần chối từ đau thương nầy, Đấng Cứu Độ đầy thương xót đã tha thứ cho Phêrô và cắt đặt ông làm người đứng đầu Giáo hội trên trần gian. Phêrô trở thành thủ lãnh các tông đồ, và nhờ ơn Thánh Thần, là người đầu tiên rao giảng Tin mừng cho người Do Thái. Bất cứ nơi nào trong Tân ước kể tên 12 môn đệ đầu tiên, Phêrô luôn được nêu tên đầu tiên.

Trong Tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu trước tiên gặp Phêrô, Giacôbê và Gioan tại hồ Ghennêxarét, nơi họ thả lưới suốt đêm nhưng không bắt được gì. Đức Giêsu đề nghị họ thả lưới thêm một lần nữa. Phêrô phàn nàn vì mẻ lưới trước nhưng rồi cũng đồng ý làm theo. Bất ngờ, họ bắt được rất nhiều cá đến nỗi lưới không thể chứa hết. Phêrô xấp mình trước Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Đức Giêsu bảo ông đừng sợ, rồi nói với ba người ngư phủ: “‘Từ nay các anh sẽ thu phục người ta’… rồi họ bỏ tất cả mà đi theo Người” (Lc 5,8–11).

Phêrô tỏ ra thiếu lòng tin và thậm chí nhiều lần tranh luận với Đức Giêsu. Ông cho thấy một lòng tin kém cỏi khi cố đi trên mặt nước mà đến cùng Đức Giêsu; chỉ cần Phêrô chú ý đến Đấng Cứu Độ thì ông không sao, nhưng một khi rời mắt khỏi Đức Giêsu, thì ông bắt đầu chìm (x. Mt 14,28–33). Phêrô cãi lời Đức Giêsu khi Ngài bảo rằng sẽ bị người Do Thái giết, và một lần khác khi muốn rửa chân cho ông. Cùng với Giacôbê và Gioan, Phêrô ngủ quên khi Đức Kitô lo âu khắc khoải trong vườn dầu. Nhưng đối lại tất cả những khiếm khuyết nhân loại này, Đức Giêsu nhìn thấy Phêrô là người lãnh đạo Giáo hội bằng việc trở thành giáo hoàng đầu tiên. Không chỉ rao giảng cho người Do Thái, Phêrô còn làm cho người ngoại đầu tiên trở lại: ông Cornêliô, viên đại đội trưởng (xem Cv 10).

Thánh Tôma

Thánh Tôma được ghi nhớ như là vị tông đồ đã nghi ngờ khi nghe tin Đức Kitô phục sinh hiện ra với các tông đồ khác trong phòng Tiệc ly. Tôma vẫn không bị thuyết phục cho đến khi ông đặt bàn tay vào vết thương của Đức Kitô. Sự hoài nghi ban đầu của ông có thể hiểu được vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và được đặt trong ngôi mộ kín có niêm phong. Theo thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả, không phải ngẫu nhiên mà Tôma vắng mặt khi Đức Kitô hiện ra với các tông đồ khác: “Với một cách kỳ diệu, lòng thương xót của Thiên Chúa đã an bài cho người môn đệ không tin này, khi chạm vào các vết thương trên thân thể Thầy của mình, sẽ chữa lành vết thương hoài nghi của chúng ta. Sự hoài nghi của Tôma đã tác động đến đức tin của chúng ta nhiều hơn là bởi đức tin của các môn đệ khác. Vì Tôma chạm vào Đức Kitô và bị chinh phục để tin, mọi ngờ vực đều được gạt qua một bên và đức tin của chúng ta được củng cố. Vì vậy, người môn đệ hoài nghi, sau đó cảm nhận được vết thương của Đức Kitô, trở thành nhân chứng cho thực tại phục sinh”. Tôma là chứng nhân cho chúng ta, đôi mắt và đôi tay của ngài cũng là đôi mắt, đôi tay của chúng ta, chúng ta không còn nghi ngờ… Đức Kitô đang sống.

Thánh Giacôbê và Gioan

Hai anh em Giacôbê và Gioan cùng với Phêrô là những tông đồ duy nhất đồng hành với Đức Giêsu trong ba biến cố đặc biệt: con gái ông Giaia sống lại, biến hình trên núi Tabo, tại vườn Giếtsêmani vào đêm trước cuộc khổ nạn. Theo đó, ba vị được coi là nhóm thân cận, gần gũi nhất với Đức Giêsu. Giacôbê được biết đến với tên Giacôbê Tiền, đơn giản chỉ để phân biệt ngài với một tông đồ khác cũng tên Giacôbê. Giacôbê Tiền là vị tông đồ đầu tiên đổ máu vì Đức Giêsu, khi bị sát hại theo lệnh vua Hêrôđê Agríppa vào năm 44, để làm “đẹp lòng người Do Thái” (Cv 12,3). Gioan là vị tông đồ duy nhất đứng bên thánh giá khi Đức Giêsu chịu đóng đinh; những người khác đều đã bỏ chạy. Từ thánh giá, Đức Giêsu đã trao Đức Maria, mẹ Ngài cho Gioan chăm sóc, để cho thấy sự gắn kết độc nhất giữa Đức Giêsu và Gioan.

Mẹ của Giacôbê và Gioan đã xin Đức Giêsu cho hai người con của bà được ngồi một đứa bên hữu và một đứa bên tả trong Nước Ngài. Đức Giêsu nói với bà: “Các người không biết các người xin gì”. Trước mặt tất cả các tông đồ, Ngài giải thích rằng quyền hành đều đến từ Chúa Cha, từ lời kêu gọi thần linh chứ không phải từ tham vọng cá nhân và Ngài nói thêm: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”(Mt 20,22.26–28).

Thánh Philípphê và Bartôlômêô

Tại miền Galilê, Đức Giêsu đã kêu gọi Philípphê làm tông đồ. Đến lượt Philípphê tìm đến Bartôlômêô (hay Nathanaen) và nói với ông rằng Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét.

Sau đó Bartôlômêô nói những lời mà chúng ta ai cũng biết: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Bất chấp sự khước từ này, Philípphê vẫn dẫn Bartôlômêô đến với Đức Giêsu, để ông quyết tâm kiểm chứng Đức Giêsu. Nhưng không có gì để kiểm chứng cả bởi vì Bartôlômêô nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia đích thực, ngài nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ítraen!” (Ga 1,49). Lời tuyên xưng này không khác gì lời tuyên xưng của Phêrô nhiều tháng sau đó: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ ơn trên mà cả Bartôlômêô và Phêrô đều nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Ít nhất hai lần, qua Philípphê mà Đức Giêsu giúp các môn đồ hiểu ra vai trò và chân tính của Ngài. Lúc làm phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tin mừng Gioan, Philípphê lo lắng không biết làm sao cho 5.000 người ăn: “Có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,7). Philípphê kinh ngạc khi thấy Đức Giêsu biến ít cá và bánh đủ cho tất cả mọi người ăn. Sau đó trong Bữa Tiệc ly, Chúa quở trách Philípphê khi vị tông đồ này hỏi: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Ga 14,8–9). Tất cả các tông đồ đều xem Đức Giêsu là thầy, nhưng một số chậm nhận ra Ngài là Đấng cứu độ.

Cũng cần lưu ý rằng không nên nhầm lẫn Philípphê tông đồ với Philípphê nhà truyền giáo, người đã thành công khi mang sứ điệp của Đức Giêsu đến miền Samari và làm phép rửa cho một viên thái giám người Êthióp trên con đường vắng giữa Giêrusalem và Gada (xem Cv 8,27–39).

Thánh Phaolô

Mặc dù không nằm trong số 12 tông đồ đầu tiên, nhưng Phaolô được Đức Giêsu chọn là “lợi khí [Ta chọn] để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ítraen” (Cv 9,15). Phaolô (ban đầu được gọi là Saulô) là một trong những người thù ghét Kitô giáo cực đoan nhất vào thời của ngài. Phaolô là người chứng kiến và ủng hộ việc ném đá thánh Stêphanô, và ngài đã xuất sắc bắt các Kitô hữu giải về Giêrusalem và nộp họ cho giới cầm quyền Do Thái để bị bách hại.

Lúc Phaolô đang trên đường đi Đamát để bắt thêm những người đi theo Đức Kitô. Giữa đường, ngài đã mặt giáp mặt với Đức Giêsu, bị mù và hoán cải, được đưa vào thành Đamát và đến một ngôi nhà ở phố gọi là Phố Thẳng. Tại đây, ngài được sáng mắt trở lại và chịu phép rửa. Từ đó Phaolô trở thành người vĩ đại nhất trong số những người rao giảng Tin mừng, vị Tông đồ dân ngoại. Ngài thiết lập ít nhất 14 cộng đoàn Kitô hữu và rao giảng cho hàng nghìn người khi đi qua đi lại Trung Đông và vào đến châu Âu bốn lần khác nhau. Các lá thư gửi đến các cộng đoàn do ngài đã thiết lập chiếm phần lớn Tân ước.

Thánh Giacôbê Hậu

Giacôbê Hậu là vị thủ lãnh có ảnh hưởng của giáo đoàn Giêrusalem và có tiếng nói quyết định tại Công đồng Giêrusalem (năm 50), nơi các tông đồ quyết định loan truyền giáo huấn của Đức Giêsu cho dân ngoại. Giacôbê đã ủng hộ ý tưởng không bắt dân ngoại phải trở thành người Do Thái trước khi trở thành Kitô hữu: “Vì vậy, phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa” (Cv 15,19).

Giacôbê đã viết một lá thư gửi đến dân ngoại, cơ bản chỉ ra rằng dân ngoại không cần phải giữ tất cả các luật lệ về việc kiêng ăn uống của người Do Thái hoặc phải cắt bì trước khi trở thành Kitô hữu, nhưng trước hết chỉ đòi hỏi những ai đang theo Đức Kitô phải từ bỏ việc cúng tế ngoại giáo. Những hành động này đã vượt qua trở ngại lớn trong việc hoán cải và làm phép rửa cho những người ở mọi quốc gia, chứ không chỉ cho người Do Thái. Thánh Giacôbê Hậu cũng được xem là tác giả của thư Giacôbê trong Tân ước.

Thánh Mátthêu

Mátthêu là viên thu thuế cho người Rôma đang chiếm đóng ở Galilê. Người Do Thái ghét những người thu thuế, vì họ làm việc cho người Rôma và thường gian lận đối với dân chúng. Đức Giêsu thấy Mátthêu (Lêvi) “đang ngồi ở trạm thu thuế. Ngài bảo ông: ‘Anh hãy theo tôi!’ Ông đứng dậy đi theo Người” (Mc 2,14).

Trong mắt người Do Thái, Mátthêu là một kẻ đáng khinh, một kẻ bị ruồng bỏ không hơn gì một tội nhân do công việc thu thuế của ông, nhưng Đức Giêsu, với tình yêu và lòng thương xót chứa chan, đã thấu hiểu tấm lòng Mátthêu và kêu gọi ông trở thành một trong các tông đồ. Mátthêu đã từ bỏ mọi sự để đi theo và tin vào Đức Kitô. Mặc dù không có nhiều chi tiết về thánh Mátthêu, nhưng có bằng chứng cho thấy ngài đã đi truyền giáo ở Ấn Độ, và trở thành vị thánh bảo trợ của đất nước này.

Anrê, Simon, Giuđa và Mátthia

Kinh thánh có ít chi tiết về Anrê, Simon, Giuđa và Mátthia. Tuy nhiên, mỗi người đều theo Đức Kitô và đi giảng dạy Tin mừng. Anrê thuộc nhóm tông đồ được chọn đầu tiên và là người trước tiên gọi Đức Giêsu là Đấng Mêsia; do đó, ngài rất gắn bó với Đức Giêsu. Simon có thể là thành viên của một nhóm chính trị Do Thái gọi là nhóm Nhiệt thành, những người kiên quyết với đức tin Do Thái giáo và ghét người Rôma. Đức Giêsu đã chinh phục được Simon, và vị tông đồ này đã chuyển lòng nhiệt thành và sức lực của ngài vào sứ điệp của Đức Kitô.

Trong Tin mừng theo thánh Mátthêu và Máccô, Giuđa được gọi là Tađêô, và theo thánh Luca thì được gọi là Giuđa. Thánh Gioan cũng gọi ông là Giuđa trong Bữa Tiệc ly: “Ông Giuđa, không phải Giuđa Ítcariốt, nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?’” (Ga 14,22). Đây là câu hỏi mà có lẽ một số tông đồ khác cũng quan tâm, họ vẫn xem Đức Giêsu có thể trở thành một vị vua trần thế, và chưa hiểu tại sao Đức Giêsu lại đến thế gian hay điều gì sẽ xảy đến với Ngài sau đó. Đức Giêsu trả lời rằng Ngài sẽ tỏ mình ra cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ các giới răn “… Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

Mátthia được chọn để thay thế Giuđa, kẻ phản bội (Cv 1,15–26). Trong khi các tông đồ ở Giêrusalem chờ đợi Thánh Thần; Phêrô trong tư cách lãnh đạo có thể đã chọn được người thay thế, nhưng ngài để cho các tông đồ lựa chọn. Phêrô đưa ra chỉ dẫn rằng bất cứ ai được chọn phải thuộc nhóm những người đã đi theo Đức Kitô kể từ khi Ngài chịu phép rửa và phải làm chứng rằng Ngài đã phục sinh. Có hai người được đề cử là Basaba và Mátthia; cuối cùng Mátthia được chọn qua việc rút thăm. Từ đây, Tân ước không nói gì thêm về Mátthia.

Giuđa Ítcariốt

Giống như một số tông đồ khác, chúng ta không biết Giuđa được chọn khi nào. Ông là người giữ túi tiền của nhóm, phụ trách về tiền bạc, có lẽ đã nỗ lực làm việc hiệu quả. Giuđa có mặt tại Bêtania khi Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất, quý giá mà xức cho Đức Giêsu và ông than phiền việc lãng phí này, tuy nhiên ông phàn nàn “không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga 12,6). Đức Giêsu quở trách những lời nhận xét của Giuđa, và ngay sau đó Giuđa đã thông đồng với các thượng tế mà phản bội Đức Giêsu để lấy 30 đồng bạc.

Trong Bữa Tiệc ly, Đức Giêsu biết dự tính của Giuđa, và sau khi rửa chân cho các tông đồ, kể cả Giuđa, Ngài tiết lộ có người sẽ phản bội và xác định đó là Giuđa, khi nói: “Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13,27). Ngay trong đêm hôm đó, Giuđa dẫn một toán quân đến và đã chỉ điểm Đức Giêsu là thủ lĩnh của nhóm. Sau khi Đức Giêsu bị bắt, Giuđa cố trả lại tiền nhưng người Do Thái từ chối, nên ông đã “ra đi thắt cổ” (Mt 27,5).

Thánh Maria Mađalêna – Tông đồ của các Tông đồ

Vào tháng 7 năm 2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nâng ngày lễ nhớ buộc hàng năm của thánh nữ Maria Mađalêna lên bậc lễ kính. Ngoài Đức Mẹ, ngài là người phụ nữ duy nhất được Giáo hội tôn kính như thế. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã ra huấn thị nói rằng: “Thật là hợp lý để ngày lễ thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các thánh tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Rôma, cũng như để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của người phụ nữ này như một tấm gương và hình mẫu cho các phụ nữ trong Giáo hội”.

Như các tông đồ, Maria Mađalêna thể hiện lòng yêu mến và dấn thân theo Chúa. Bà và những phụ nữ khác đi khắp Galilê với Đức Giêsu và “lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3). Bà theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, và đã hiện diện lúc Chúa chịu đóng đinh, cùng với Gioan, chứ không bỏ trốn như các tông đồ khác. Vào buổi sáng phục sinh đầu tiên Tin mừng thuật lại là Đức Giêsu đã gặp bà trước tiên. Ngài sai bà đến với anh em mình là các tông đồ và nói với họ “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Vì vậy, bà được gọi là Tông đồ của các Tông đồ.

Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ từ Our Sunday Visitor (15/10/2021)

Nguồn: giaophannhatrang.org

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tim-hieu-cac-tong-do-42944


 

ĐẤNG BIẾT TỎNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”.

“Những gì tôi có thể làm, là những gì tôi phải làm! Những gì tôi phải làm, nhờ ơn Chúa, tôi sẽ làm! Và tôi ước không bao giờ phải nghe Ngài phàn nàn, ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?’” – Edward Hale.

Kính thưa Anh Chị em,

 

“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”. Đây là nghi vấn ông Chủ dành cho người quản gia và cho cả chúng ta hôm nay. Thực ra, Thiên Chúa không cần ‘nghe’ gì về một ai, vì Ngài là ‘Đấng biết tỏng!’.

Chúa biết hết mọi sự! Tuy nhiên, khi xem lại hồ sơ cuộc sống mỗi người, rất có thể Ngài vẫn hỏi như thế – không để kết án, mà để đánh động – hầu mời chúng ta nhìn lại mình dưới ánh sáng của tình yêu. Chắc hẳn, không ai có thể đứng vững trước ánh nhìn của Chúa và sẽ không có một ‘thủ thuật lươn khươn’ nào trước Ngài! Liệu bạn và tôi có bị buộc tội là ‘phung phí’ ân sủng, ‘hoang phí’ thời gian và ‘lãng phí’ cơ hội? Những gì Chúa ban – đức tin, Lời Chúa, các Bí tích, gương thánh nhân, tài năng, của cải – liệu chúng ta là những kẻ ‘hoài của?’. “Sự xấu hổ trước mặt Thiên Chúa chính là chuyển động đầu tiên của ân sủng!” – Jean Vanier.

Như người quản gia, chúng ta được chất vấn; như anh ta, bạn và tôi có dám đánh cược vào ‘canh bạc xót thương’ của Đấng vừa biết hết, vừa tha hết? Khiêm tốn nhìn nhận và bắt đầu lại, khẩn xin ơn tha thứ để sống liêm chính, xa lánh tinh thần thế tục… là những gì thật cấp thiết. Ước gì như Phaolô, chúng ta có thể nói một cách an lòng khi nhìn lại, “Trong Đức Kitô Giêsu, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa!” – bài đọc một – và có thể xác tín, qua chúng ta, “Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Lời Chúa cảnh báo mỗi người chúng ta về ‘thói thời thượng thiêng liêng’ vốn có thể len lỏi vào đời sống mọi đấng bậc. ‘Thói thời thượng thiêng liêng’ đó bộc lộ qua thái độ tham nhũng quyền lực, khoe mẽ chức danh, trí tráo ngôn từ, vay mượn tri thức… vốn sẽ kiến tạo một nhân cách ‘nghèo’ – nhân bản, tu đức, thần học – một bản ngã ‘cùn’ mà sớm muộn thiên hạ đều biết tỏng. Con đường ấy chỉ dẫn đến những ngõ cụt, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. “Quyền lực, nếu không được lương tâm chế ngự, sẽ ăn mòn linh hồn trước khi làm hư thế giới!” – C.S. Lewis.

Anh Chị em,

“Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?”, câu hỏi của Chủ dạy chúng ta khiêm tốn, biết xấu hổ và thống hối. Ai nhận ra mình ‘được biết’ từ trong ra ngoài mà vẫn được yêu, người ấy không thể coi thường người khác. Chính từ đó, chúng ta học biết thế nào là phải hoán cải. Chỉ khi nhìn tha nhân bằng ánh mắt của ‘Đấng biết tỏng’, chúng ta mới biết thế nào là yêu trong sự thật và khiêm tốn chu toàn mọi sự trong sự thật. “Thật là một nỗi hổ thẹn diễm phúc khi con người cảm thấy sức nặng của ‘sự thật chính mình’ trước mặt Thiên Chúa!” – Henry Newman.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cám ơn Chúa đã không công bố bản “tổng kết quản lý” của con cho thiên hạ, vì nếu như thế, có lẽ con sẽ phải rao bán cả linh hồn để bịt miệng thế gian!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*******************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ 

Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 16,1-8

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. 2 Ông mới gọi anh ta đến mà bảo : ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa !’ 3 Người quản gia liền nghĩ bụng : ‘Mình sẽ làm gì đây ? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. 4 Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !’

5 “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất : ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?’ 6 Người ấy đáp : ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo : ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ 7 Rồi anh ta hỏi người khác : ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy ?’ Người ấy đáp : ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo : ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.’

8 “Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.”


 

Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; (Rm 14:7,8b) – Cha Vương

Một ngày tràn đầy yêu thương trong Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 6/11/2025

TIN MỪNG: Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình… Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; (Rm 14:7,8b)

SUY NIỆM: Thiên Chúa không tạo ra sự chết. Thiên Chúa chỉ tạo ra sự sống, với tất cả vinh quang và tốt lành của nó. Chính con người, đôi khi, lại từ chối sự sống đó qua tội lỗi và sự ích kỷ của mình. Khi bạn chọn sự thù hận thay vì yêu thương, trả thù thay vì tha thứ, tìm kiếm lạc thú thay vì nhân đức, chiến tranh thay vì hòa bình, bạn đã chọn cái chết thay vì sự sống. Dù bạn có chọn cái chết với những tội lỗi của nó nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi và để bạn sống trong bóng tối của sự chết. Ngài luôn tìm kiếm bạn bằng cách đã sai Chúa Giê-su đến, không chỉ như một gương mẫu cho đời sống, mà còn là Đấng chiến thắng sự chết qua cây thập giá. “Ngài ngồi đó chờ mong con đến bến yêu thương Chúa ban niềm tin… với đôi bàn tay luôn rộng mở. Về cùng Chúa xót thương hải hà lệ tràn mi sướng vui chan hòa. Và hồn con ước mơ cung điện thiên tòa.” 

(Chờ Con Chúa Nhé—Lm. Nguyễn Văn Tuyên)

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha nhân từ, chỉ có tình yêu của Chúa mới chiến thắng sự chết, xin cho con biết tin tưởng và quyết tâm chọn Chúa mỗi ngày để được sống hạnh phúc và bình an trong Chúa. 

THỰC HÀNH: Cố gắng tập bỏ một thói quen xấu không đẹp lòng Chúa. 

************************

 Lời tâm sự với Chúa khi cuộc đời bơ vơ..

Lời cầu nguyện được nhậm lời: Sophia Forchas, người sống sót sau vụ xả súng tại Annunciation, cuối cùng đã trở về nhà

YouTube player

Sophia Forchas, 12 tuổi, cuối cùng đã được về nhà — sau 57 ngày nằm bệnh viện vì những vết thương nghiêm trọng do vụ xả súng chết người tại Nhà thờ Công Giáo Truyền tin ở Minneapolis trong Thánh lễ đầu tiên tại trường trong năm khiến hai học sinh thiệt mạng.

Sophia đã nhận được lời tạm biệt trìu mến bên ngoài bệnh viện vào ngày 23 tháng 10.

Trong một tuyên bố được đăng trên trang GoFundMe của gia đình, cha mẹ của Sophia, Tom và Amy Forchas, đã viết: “Hôm nay đánh dấu một trong những ngày phi thường nhất trong cuộc đời chúng tôi! Con gái yêu quý của chúng tôi, Sophia, sắp trở về nhà!!”

Bày tỏ lòng biết ơn đối với đội ngũ bác sĩ đã tận tụy cứu sống con gái mình, hai vợ chồng viết: “Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bạn. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên sự chăm sóc tận tình của các bạn đã giúp con bé vượt qua. Sự tận tụy của các bạn đã giúp chúng tôi vượt qua.”

Sophia vẫn còn một chặng đường dài phía trước với “liệu pháp ngoại trú”, nhưng cha mẹ cô bé cho biết “trái tim chúng tôi tràn ngập niềm vui khôn tả khi chứng kiến giọng nói của con cải thiện từng ngày, tính cách của con lại tỏa sáng, và khả năng đi lại, bơi lội, thậm chí là rê bóng rổ của con. Mỗi bước đi của con là một minh chứng sống động cho ân sủng vô biên của Chúa và sức mạnh kỳ diệu của lời cầu nguyện.”

Đức Tổng Giám Mục Bernard Hebda của Tổng giáo phận St. Paul và Minneapolis nói với tờ Register:

Tôi cùng cộng đoàn Truyền Tin mừng vui mừng Sophia Forchas trở về nhà. Thật cảm động khi cô ấy có thể cùng chúng tôi tham dự buổi đọc kinh Mân Côi hàng ngày lúc 9:00 tối qua bên ngoài nhà thờ. Cô ấy và cha cô ấy cảm ơn cộng đoàn vì những lời cầu nguyện mà họ đã nhận được trong suốt thời gian Sophia nằm bệnh viện và tại trung tâm phục hồi chức năng. Xin hãy cùng tôi tiếp tục cầu nguyện cho sự hồi phục của tất cả những người bị ảnh hưởng bởi thảm kịch tại Annunciation, và đặc biệt là cho gia đình và người thân của Harper Moyski và Fletcher Merkel.

Trong buổi họp báo ngày 5 tháng 9, bác sĩ phẫu thuật thần kinh Walt Galicich thuộc Trung tâm Y tế Quận Hennepin nói với các phóng viên rằng khi điều trị chấn thương cho Sophia, ông sẽ cố gắng “xuyên qua phần não bình thường để tiếp cận” và có khả năng gây ra nhiều tổn thương hơn. Do áp lực trong não quá lớn, khả năng sống sót của Sophia là cực kỳ thấp.

Bác sĩ phẫu thuật thần kinh đã dẫn đầu một nhóm thực hiện phẫu thuật cắt hộp sọ giải áp, cắt bỏ nửa bên trái hộp sọ của cô để giảm áp lực trong não.

Galicich đã nói với các phóng viên trong nước mắt vào tháng 9 rằng: “Nếu lúc đó bạn nói với tôi rằng, 10 ngày sau, chúng ta sẽ đứng đây với một tia hy vọng, tôi sẽ nói, ‘Phải có phép màu mới làm được’“.

Mẹ của Sophia, y tá nhi khoa làm việc tại khoa chăm sóc đặc biệt của bệnh viện nơi các nạn nhân được đưa đến, không hề biết rằng trường học của con mình đã bị tấn công vào ngày định mệnh đó. Ban đầu, bà không hề biết rằng một trong ba bệnh nhân là con gái mình.

Em trai của Sophia cũng chứng kiến vụ xả súng ở trường học ngày hôm đó; và nhờ ơn Chúa, em trai không hề hấn gì, mặc dù vẫn đang phải chịu đựng nỗi đau do sự kiện kinh hoàng đó gây ra và những vết thương nghiêm trọng của chị gái em.

Sau 57 ngày nằm bệnh viện, bác sĩ Galicich đã ôm chặt bệnh nhân nhỏ của mình khi cô bé bước ra khỏi Trung tâm Y tế Quận Hennepin trong tiếng reo hò và vỗ tay của gia đình và bạn học. Ngay cả cảnh sát trưởng thành phố cũng có mặt, đưa cô bé đi dạo quanh thành phố trên chiếc limousine dài để kỷ niệm sự kiện này.

Phát biểu với tờ The Minneapolis Star Tribune, Cảnh sát trưởng Brian O’Hara gọi sự trở về của Sophia là “một phép màu”.

Cha mẹ Tom và Amy vô cùng xúc động cũng ghi nhận tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong quá trình chữa lành của con gái họ. Họ viết trong tuyên bố: “Những lời cầu nguyện đó đến từ gia đình, bạn bè và vô số tâm hồn trên khắp thế giới; nhiều người trong số họ chưa từng gặp Sophia, nhưng đã nâng đỡ tinh thần con bé bằng tình yêu thương vô điều kiện. Những lời cầu nguyện của quý vị là nguồn an ủi, hy vọng và chữa lành cho cả gia đình chúng tôi. Chúng tôi tin chắc rằng Chúa đã lắng nghe từng lời cầu nguyện của mọi người.”

Gia đình Forchas đã gửi lời chia buồn đến các gia đình có con em thiệt mạng trong vụ xả súng, nói rằng: “Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện cho những người đã mất mạng một cách bi thảm trong ngày đau thương đó. Cầu mong họ được sống mãi trong ký ức.”

“Chúng tôi cũng xin chia buồn cùng những người đã bị thương và mang những vết sẹo vĩnh viễn, và gia đình cùng những người thân yêu đã mãi mãi thay đổi,” vợ chồng Forchas tiếp tục. “Nguyện xin Chúa ban ơn chữa lành, an ủi và bình an cho tất cả những ai đang đau buồn. Với những ai đang chai sạn trong tuyệt vọng, nguyện xin ân sủng của Chúa Thánh Thần làm họ mềm lòng. Chúng tôi cầu xin Chúa Ba Ngôi đổ đầy lòng trắc ẩn và tình yêu thương vào thế giới này.”


 

Có Một Người Phụ Nữ Như Thế – Hoàng Thị Bích Hà-Truyen ngan HAY

Kimtrong Lam

Hoàng Thị Bích Hà

Tôi gặp chị trong một dịp tụ họp cà phê ăn sáng với nhóm thi hữu văn chương tại thành phố HCM. Đó là chị Ngọc Mai với khuôn mặt đẹp, dáng người nữ tính, đôi mắt long lanh sáng đẹp như hút hồn người đối diện. Tên đẹp, người đẹp, nụ cười duyên dáng và giọng nói êm ái, ngọt ngào là ấn tượng đầu tiên của tôi về chị. Tôi nhìn chị đoán cỡ khoảng chưa ngoài tứ thập. Chị cười dịu dàng bảo:

-Em cộng thêm ba mươi năm nữa mới gần đúng tuổi thật của chị!

Tôi ngạc nhiên và không thể ngờ trước việc chị trẻ hơn tuổi nhiều đến thế!

-Ôi vậy à! Nếu thế thì chị quá trẻ so với tuổi. Nếu chị không khai, khó ai mà đoán ra tuổi thật của chị!

– Nhìn chị, em biết chắc chị hạnh phúc lắm mới trẻ được như vậy, chắc là lúc nhỏ được ba mẹ cưng, lập gia đình thì được chồng cưng, chị mới có dáng hình trẻ trung, gương mặt xinh tươi ánh lên vẻ yêu đời lạc quan đến vậy.

-Ồ cảm ơn em! Nhưng chị thì không được như em nghĩ đâu!

      Thế rồi chị bắt đầu kể tóm tắt cuộc đời của chị cho tôi nghe, chị ngược dòng thời gian đưa tôi về miền ký ức của chị trong những năm tháng khói lửa chiến tranh.

      Chị sinh ra và lớn lên tại quận 3 Saigon xưa. Những quận 1-3-5-4- 10,… là những quận xem như những quận trung tâm của thành phố này.       

       Dĩ nhiên chị có điều kiện sống tốt, như những bạn cùng trang lứa trong vùng. Mặc dù bố chị đi tập kết ra Bắc theo lệnh khi đang làm việc tai cơ quan, chưa kịp về từ giã gia đình. Mẹ chị một mình vẫn lo được cho chị ăn học đàng hoàng. Thi xong tú tài chị học tiếp ngành ưa thích và đi làm. Với nhan sắc như chị tôi đoán được chị có khá nhiều sự lựa chọn cho cả công việc lẫn người thương. Chắc chắn chị sẽ chọn cho mình một ý trung nhân trong vô số các chàng đẹp trai, con nhà giàu học giỏi trong thành phố. Duyên số đưa đẩy chị chọn anh! Sau khi lập gia đình, cơn lốc chiến tranh cuốn anh vào con đường binh nghiệp theo lệnh tổng động viên. Và anh chị cũng đã kịp có một đứa con xinh xắn!

       Cuối tháng 3/1975, thời gian này tiếng súng nổ ùng oàng đâu đó, ngoài đường những toán lính VNCH đã buông súng theo lệnh của tổng thống Dương Văn Minh, người người dáo dác ngược xuôi. Người dân kẻ thì tràn ra đường chào mừng quân giải phóng, người thì tìm đường rời khỏi thành phố. Người thì tìm kiếm trong đoàn quân vào thành phố xem có cha, anh mình đi tập kết trở về không?

       Lúc này, bé Bảo Ngọc được 9 tháng tuổi. Chị cũng ôm con ra bến tàu Bạch Đằng đi tìm chồng. Hi vọng anh sẽ trở về. Chị thấy một con tàu neo đậu, người chen chúc lên, trên đó cũng thấp thoáng những bộ đồ lính của binh chủng chồng chị. Chị bồng con bươn bẩy hòa và dòng người đang xô đẩy nhau cố chen cho được chân lên tàu. Bỗng tiếng súng nổ chát chúa ngay bên hông tàu. Thế là tàu chìm, mọi người hỗn loạn rơi xuống nước, kẻ bám vào thành tàu trong sự hoảng loạn đến tột cùng. Run rủi sao chị lạc mất con. Khi tỉnh dậy chị thấy mình nằm trên sàn một chiếc tàu khác đậu cách đó một quảng. Không biết ai đã đưa chị lên đây. Chị mở mắt ra, áo quần còn ướt sũng, hoảng loạn. Ôi con tôi đâu rồi! Bảo Ngọc ơi! Con đâu rồi! Chị lấy hết sức bình sinh gọi con trong tiếng nấc nghẹn ngào.

       Bỗng chị chợt thấy anh (chồng đây rồi!): Chị như người sắp chết đuối vớ được phao cứu sinh: Anh Tùng! Mình ơi! Em đi tìm anh mà lạc mất con rồi! Mình thấy con mình Bảo Ngọc đâu không? Súng nổ, tàu chìm, không hiểu ai đã vớt em lên đây, còn con mình đâu rồi! Con ơi! Vừa mừng gặp được chồng, nhưng chưa tìm thấy con. Chị òa lên khóc nức nở trong nghẹn ngào!

       Anh không nói gì, anh cũng ngạc nhiên và bất ngời không kém nhưng nét mặt không lộ vẻ vui mừng. Tia nhìn cũng thiếu ấm áp như ánh nhìn dành cho chị trước khi anh đi lính. Đoạn anh quay lại nói gì đó với người phụ nữ bên cạnh anh. Hóa ra đây là chuyến tàu người ta chuẩn bị vượt biên bao gồm cả sỹ quan, lính và gia đình người thân của họ. Như đã tính toán trước, chuyến tàu anh đi không ngờ lại gặp chị trong hoàn cảnh này. Người anh chọn để cùng đi với nhau không phải chị và con gái mà là một người phụ nữ khác. Họ trốn chị. Còn chị lạc lên đây, số phận trêu ngươi cho chị thấy tận mắt anh và người khác đi cùng nhau, cho chị nếm cảnh đời đắng chát của sự phản bội. Thực ra thì phản bội có lẽ đã xảy ra trước rất lâu rồi mà chị không biết. Chỉ đến khi trong tình cảnh éo le, khốc liệt này số phận lại bắt chị chứng kiến cảnh tượng không còn lời nào để nói. Sau những giây phút ngỡ ngàng, sững sờ rồi rơi vào câm lặng. Dù xung quanh vẫn hỗn độn, vẫn ồn ã.

       Như hiểu ra tình thế! Chị bất giác nhận ra, anh không còn là của chị nữa, anh không thuộc về chị nữa, anh đã thuộc về người khác. Từ vui mừng gặp anh, đến thảng thốt mất con, đến thái độ thờ ơ dửng dưng khi gặp chị, đến cử chỉ ánh mắt không còn dành cho chị nữa mà sự vỗ về âu yếm anh đã dành cho người khác ngay trước mắt chị. Tất cả trong một vài khoảnh khắc rất ngắn, vội vã và trớ trêu của thời gian. Chị mất con và mất luôn cả chồng. Giữa họ bây giờ đã có bức tường vô hình ngăn cách. Dù anh đang đứng đó, trước mắt chị, không xa mà khoảng cách xa vời vợi không với tới được. Trong lúc này đáng lẽ chị cần anh nhất để cùng chị đi tìm con: “Níu đời đời đá mưa thương/ Níu em em đẩy chẳng nương tay nhờ/ Có than ngửa mặt lên trời/ ông ơi ngó xuống đầy vơi nợ nần” (Quỳnh Tiên)

      Thôi thì: “Vết thương ứa máu đủ rồi!”. Chị biết nơi đây không dành cho mình. Chị không chọn ra đi vì chị còn phải đi kiếm con, chị cũng phải ở lại thành phố để chờ cha trở về sum họp nữa. Chị quay mặt, tìm ra cửa mò mẫm tìm đường rời khỏi con tàu. Xuống bến, người người hỗn loạn đang tất tả ngược xuôi và gọi nhau í ới. Bỗng chị thấy bên đường có một người phụ nữ (có lẽ là một người mẹ) đã chết, ngồi bên cạnh là đứa con đang cố ôm lấy mẹ và khóc. Chị tất tả nhào đi để may ra tìm được con mình. Đi tới đâu chị gặp ai chị cũng hỏi, thấy đứa trẻ nào lạc ở đây không?      

      Mọi người giúp tôi với, tôi lạc mất con rồi! Bỗng có một chị bảo quay lại đằng kia, chỗ người phụ nữ nằm, bên cạnh có đứa bé tầm tuổi con chị, cứ cúi xuống xem biết đâu là con mình.          Chị quay lại cúi xuống lay gọi và nhìn mặt cháu bé. Ôi đây rồi! Hóa ra đây là con chị. Trong lúc bom rơi đạn lạc, chị phụ nữ này bồng được con chị rơi xuống nước và khi chị lội vào bờ thì trúng đạn, chị cố lết thêm vài mươi bước nữa thì gục xuống và tắt thở, trong khi đứa bé hoảng loạn không biết mẹ mình đâu, chỉ biết người vừa ẵm em dưới nước sông Sài Gòn lên!

       Chị ôm lấy con mừng khôn xiết tả, và tưởng như tim mình vừa sống lại sau những gì đã xảy ra.

***

       Mới đó mà nửa thế kỷ trôi qua! Chị vừa lo kinh doanh, kiếm tiền nuôi dạy con cái một gánh hai vai thay cho cả người cha của bé. Bé có cha cũng xem như không, vì cha đã thuộc về nơi khác, gắn bó với những con người xa lạ khác, không phải mẹ con mình. Trong gian khó, chị làm lụng nuôi con vượt qua thời kỳ hậu chiến, rồi bao cấp, rồi hội nhập,… Con gái chị nay đã trưởng thành, cháu cũng đã thành đạt và có mái ấm gia đình. Xem chị như đã hoàn thành nhiệm vụ làm mẹ thiêng liêng cao cả của mình. Nay chị đã thảnh thơi, bên cạnh vẫn duy trì công việc kinh doanh thường nhật. Chị đến với thi ca, sinh hoạt với các nhóm bạn cùng sở thích như picnic, khiêu vũ hay những hoạt động lành mạnh rèn luyện sức khỏe về thể chất và tinh thần. Bởi vậy chị không cô đơn, Dẫu thiếu đi một người tình tưởng là trăm năm nhưng lại bội bạc thì chị vẫn còn cha mẹ, con cái và bạn bè tri âm. Chính vì thế chị không gục ngã. Bởi vì con cần chị, cha mẹ chị cần chị. Chị không thể buông xuôi theo số phận nghiệt ngã mà đứng lên, vượt lên nỗi đau để tiếp tục tìm cho mình lẽ sống có ý nghĩa. Chị cũng không oán hờn người cũ nữa.

       Một đôi lần, “người ta” trở về Saigon thăm quê hương, chị tình cờ gặp lại cũng xem như gặp một người quen cũ, không vui cũng không buồn. Bình thường như một người bạn cũ từng quen biết rồi thôi!

       Chị buông bỏ những gì không đáng dằn vặt hay tiếc nuối. Chị làm chủ cuộc sống của mình, mặc dù khi người ấy đành đoạn rời đi chị mới ngoài hai mươi tuổi. Mẹ đơn thân, lại xinh đẹp có thừa. Xung quanh chị không thiếu đàn ông vây quanh tán tỉnh. Nhưng có lẽ chị đã thấm đòn tình ái và hôn nhân. Đau một lần đã đủ! Chị nói rằng: “Cứ ngồi yên đó, không cần đi đâu cả, tri kỷ sẽ tìm em!”. Và đúng vậy những người bạn hiểu lòng nhau sẽ chia ngọt sẻ bùi tâm sự đôi điều cho với buồn đau, và ai có cuộc sống nấy rồi mọi thứ sẽ ổn. Rồi chị đến với thi ca. Xem thi ca như một cuộc sẻ chia tâm tình, nâng đỡ tâm hồn con người.

       Ngẫm lại trong cái rủi có cái may. Dẫu phải chứng kiến hiện thực phủ phàng nhưng đau một lần rồi thôi! Nếu ngày đó, chị không lạc lên con tàu ấy, không biết anh đã thay lòng để trốn chạy cùng với một phụ nữ khác thì cả đời còn lại chị cứ khắc khoải và canh cánh không yên: “không biết giờ nay anh ở đâu? Còn sống hay đã chết, mất tích? Rồi chị lại lặn lội đi tìm hết trại cải tạo này đến trại cải tạo khác để tìm anh, không tìm ra thì nghĩ rằng anh đã tử trận bị bom rơi đạn lạc buổi giao thời, rồi lại về nhà lập bàn thờ năm tháng lo cúng cấp, cầu siêu này nọ,… trong lúc người ta đang sống phây phây cùng người khác. Thôi thế cũng là may!

        Như vậy có phải là chị mất đi thứ này thì trời bù cho chị thứ khác. Con cái giỏi, ngoan, công việc trôi tròn, sức khỏe bình an. Và thế là chị cứ tươi trẻ, cứ tràn đầy sức sống, đầy năng lượng làm việc và vẫn xinh đẹp không khác xưa là mấy. Có chăng đậm đà, chín chắn hơn xưa mà thôi! Người ta nói dù ai đó lúc trẻ căng tràn sức sống, trắng trẻo, đẹp nhưng nhạt duyên thì nhan sắc sớm phai tàn còn ngược lại nếu trời phú cho có nét duyên ngầm thì vẻ đẹp mặn mà đó không phai mờ dẫu đi qua thời gian. Nếu biết giữ gìn sức khỏe thể lực và sức khỏe tâm hồn tốt, đảm bảo chế độ ăn uống và tập luyện đúng cách, sức khỏe và dáng người vẫn ít thay đổi. Qua mỗi mốc thời gian tám mươi chín mươi đi nữa vẫn nét duyên trời cho đó vẫn ánh lên sau lớp bụi thời gian ghi dấu trên khuôn mặt. Và chị là một người phụ nữ như thế dù đã đi qua mùa thu của cuộc đời!

Saigon, ngày 23/9/2025

Hoàng Thị Bích Hà


 

HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH- LM. ĐAN VINH

LM. ĐAN VINH

LỜI CHÚA: Chúa phán: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu…. Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?”  (Lc 16,9.12).

KHÔNG THỂ THOÁT NGHÈO DO THIẾU KIÊN TRÌ.

Có một anh nông dân nghèo sống trong căn nhà lá siêu vẹo giữa một cánh đồng hoang vu. Ngày nọ, một ông phú hộ giàu có tốt bụng trong miền, nghe biết hoàn cảnh của anh, đã đến nhà thăm hỏi và tặng anh một con bò giúp anh khai hoang thửa đất gần nhà, đợi đến mùa xuân ông sẽ quay lại cho thêm hạt giống gieo trồng thì chắc anh sẽ thoát khỏi cảnh nghèo khó.

  Anh nông dân rất mừng khi được vị ân nhân tận tình giúp đỡ như vậy và quyết tâm phấn đấu sẽ vượt qua cảnh nghèo. Nhưng ít ngày sau anh lại gặp hoàn cảnh khó khăn: Ngay từ sáng sớm con bò đã kêu to đòi anh dẫn ra ngoài đồng ăn cỏ. Đang khi trong nhà không còn hạt gạo nấu cơm, khiến anh bị bế tắc.

Bấy giờ anh liền nghĩ: Tại sao ta không bán con bò này đi để mua được ba con dê, và loài dê lại dễ nuôi hơn bò. Sau khi có dê anh đã giết đi một con ăn thịt thỏa thích sau nhiều ngày chịu đựng đói khát. Hai con dê còn lại anh dự tính sẽ nuôi để chúng sinh sản và nếu mang dê con ra chợ bán sẽ kiếm được nhiều tiền.

Nhưng cặp dê lại không sinh sản, nên cuộc sống của anh vẫn bế tắc. Anh nghĩ: “Nếu cứ tiếp tục thế này thì không ổn. Sao ta không bán hai con dê này đi, rồi mua một đàn gà. Gà lại mau đẻ trứng và hằng ngày ta vừa có trứng ăn, lại có thể bán trứng lấy tiền chi tiêu thì chắc cuộc sống sẽ ổn định”.

 Nhưng rồi sau đó cuộc sống của anh vẫn không khá hơn. Vài ba ngày không có gì ăn, anh lại thịt một con gà. Cuối cùng đàn gà chỉ còn lại một con. Ước muốn làm giàu của anh nông dân hoàn toàn thất bại. Anh tự nhủ: “Ôi ! Làm giàu sao khó thế ! Thôi thì hôm nay ta đành đem con gà cuối cùng này đi bán, lấy tiền mua một bình rượu và uống rượu cho thoả thích rồi đành phó mặc tương lai cho ông trời vậy !
 

Hôm ấy đã sang mùa Xuân, ông phú hộ tốt bụng giữ đúng lời hứa với anh nông dân. Ông cùng một người đầy tớ, mang theo một bao hạt giống lúa mì đi đến nhà anh nông dân để giúp anh gieo trồng lúa đúng thời vụ. Nhưng ông rất thất vọng khi thấy anh ta không ra đồng làm việc, mà ngồi uống rượu giải sầu với đĩa dưa muối trước mặt. Con bò ông cho trước đây không thấy đâu. Trong căn nhà siêu vẹo vẫn trống trơn giống như mấy tháng trước đó.

  Ông phú hộ tốt bụng đành chịu bất lực và cùng người đầy tớ trở về nhà, mặc cho anh nông dân tiếp tục sống trong cảnh nghèo khổ như trước.

SUY NIỆM:  Rất nhiều người nghèo đã từng có cơ hội thoát nghèo, nhưng chính họ lại lười biếng không chịu làm việc, hoặc thiếu khôn ngoan và không quyết tâm vượt qua hoàn cảnh nên cuối cùng đành buông xuôi theo số phận.

    Trái lại, một nhà đầu tư thành công đã chia sẻ bí quyết làm giàu: “Lúc không có tiền, cho dù gặp nhiều khó khăn về tài chánh, nhưng tôi quyết tâm áp dụng phương pháp làm giàu như sau:

Luôn chăm chỉ làm việc và không mất thời giờ vào việc ăn chơi lãng phí.
Luôn chi tiêu tiết kiệm tiền bạc để khi có cơ hội là có thể đầu tư ngay.
Dù gặp khó khăn vẫn không chán nản nhụt chí, nhưng biết khiêm tốn học tập kinh nghiệm của những người thành đạt và kịp thời nắm bắt thời cơ…
nên cuối cùng tôi đã thành công và gây dựng được sự nghiệp lớn lao hiện nay”.

LỜI CẦU:  Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con ý thức về giá trị tích cực của đồng tiền như người đời thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa; Bần cùng sinh đạo tặc !”. Cho chúng con không quá đề cao giá trị của đồng tiền như nhiều người đã nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý…

    Xin cho chúng con biết tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa… Nhất là xin cho chúng con đừng vì tiền mà bán rẻ lương tâm làm điều thất nhân ác đức như: buôn bán hàng cấm, sản xuất hàng giả lừa gạt người khác…tuy có đem lại cái lợi trước mắt, nhưng không được bền lâu và sẽ bị tác hại lâu dài. – AMEN.

CHA ĐA MINH ĐINH VĂN VÃNG,
BÚT HIỆU LM. ĐAN VINH, HHTM (HIỆP HỘI THÁNH MẪU)

From: Ngoc Bich  & KimBang Nguyen


 

ĐỀN THỜ TÂM HỒN – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21).  Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại.  Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. 

  1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô

Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu.  Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324.  Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha.  Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới. 

Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế.  Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ.  ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.  Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng. 

Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, được xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590). 

Thánh đường dài 130m, có 5 gian.  Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng.  Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống.  Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây).  Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô.  Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008). 

2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ

 Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa.  Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch. 

Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.  Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. 

Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời. 

Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ. 

Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.  Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. 

Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin.  Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. 

Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ.  Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.  Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng.  4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công.  Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn. 

Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.  Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi. 

Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu.  Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ.  Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết.  Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật.  Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ.  Khốn nỗi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài.  Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật.  Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. 

Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.  Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.

 Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận.  Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm.  Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường.  Vậy mà ở đây, Chúa đã nổi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả. 

Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng.  Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất.  “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16).  “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).  Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.  “Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.  Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11). 

Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.  “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).  Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5). 

3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ? 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.

 Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.  Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.  Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.  Trong sân Đền thờ người ta cãi vã về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ. 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa. 

Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy.  Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11).  “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). 

Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.  Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành. 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” 

Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.

 Các chức sắc Đền thờ, các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được. 

4. Xây dựng đền thờ tâm hồn. 

Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem.  Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình. 

Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá.  Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.

 Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy.  Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy.”  Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô.  Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý.  Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan.  Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem.  Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm.  Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.  Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?  Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại.  Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người.  Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy.  Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý.  Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền. 

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21).  Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại.  Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.  Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu.   Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24).  Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này.  Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11).  Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông.  “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9).  Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu.  Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27).  Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).

 Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác.  Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.  Amen. 

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim


 

LÒNG TRẮC ẨN….!

Xuyên Sơn

LÒNG TRẮC ẨN….!

Có một cụm danh từ rất hay trong tiếng Việt mà ở thời đại này không mấy khi được sử dụng nữa…!

Đó là “lòng trắc ẩn”.

Trắc ẩn, tức là những gì cảm nhận được những điều mắt không thể thấy, tai không thể nghe…

Nếu bạn bắt được một đứa bé ăn cắp hai ổ bánh mì vì quá đói, thay vì bỏ tù nó, bạn chỉ cho nó đến xin làm việc ở đâu đấy, đưa lại cho nó một ổ để ăn cầm hơi qua cơn đói, rồi dặn nó cả đời tuyệt đối không bao giờ được làm những việc như trộm cắp nữa…

Nếu bảo vệ cửa hàng sách bắt gặp một trẻ con ăn cắp và dấu cuốn sách, thay vì báo cảnh sát hay cha mẹ đứa bé…, bảo vệ “có thể” không thấy hay cho tiền để mua cuốn sách.

Biết đâu sau này, lòng đam mê đọc sách và những lời dặn dò đừng trộm sách sẽ giúp đứa trẻ trở thành người thành đạt.

Đó là lòng trắc ẩn…!

Câu chuyện Edison thuở nhỏ đã dạy các bạn học cách đánh morse để “qua mặt” thầy Hiệu trưởng khiến bị đuổi học khỏi trường.

Người mẹ thương xót cho con đã dời nhà đi để tìm trường cho con học.

Và Edison đã trở thành nhà bác học vĩ đại của nhân loại với hơn một ngàn phát minh đem hữu ích cho mọi người…!

Đó là lòng trắc ẩn của người mẹ…!

Người có lòng trắc ẩn, chính là người có tấm lòng bao dung, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, cảm thông cho nỗi khổ của họ.

Nếu con người không có lòng trắc ẩn, thì cũng sẽ không có những thứ như nhân cách, hay tình thương giữa người với người….!

“Lòng trắc ẩn” cũng là con đường đi trong cuộc sống, là cái chủ đích để đạt được ” cái thứ cao nhất mà người xưa coi là nếu có được thì sẽ có cả thiên hạ và lòng người-đắc nhân tâm…!

Vậy muốn được “lòng trắc ẩn” con người cần có điều gì..?

Chính là Nhân-Văn…!

*Nhân là người hướng thiện, bao dung và có trái tim quãng đại…!

*Văn là phát triển chủ yếu hai việc: một là khả năng trắc ẩn, hai là kỹ năng diễn đạt hành động.

Trước đây, Văn là công cụ duy nhất để một người được đặt mình vào trong cuộc đời của rất nhiều người khác và học những bài học làm người từ những người đó…!

Hôm nay, ngoài Văn thì đã có điện ảnh, Internet, các phương tiện nghe nhìn,…

Do đó, Văn không còn là phương tiện duy nhất nữa…!

“Lòng trắc ẩn” là công cụ và là phượng tiện giúp con người gần nhau hơn, biết chia sẻ, giúp đỡ và cưu mang cho nhau…!

“Lòng trắc ẩn” không chỉ là cảm thấy tiếc nuối, đau buồn hay thương hại người khác.

“Lòng trắc ẩn” cũng không có nghĩa là bạn phải chấp nhận mọi đau khổ của thế mọi người vào tâm trí bạn.

“Lòng trắc ẩn” là cảm giác hòa hợp với tâm trạng của người khác và có ý định hành động để giảm bớt đau khổ hay chia sẻ niềm vui với người ấy…

“Lòng trắc ẩn” đơn giản chỉ là dấu hiệu, biểu hiện của tâm từ bi nhân ái….!

Một câu nói thật hay:

“Tình yêu thương từ trái tim sẽ nhận lại lại vô vàn yêu thương của những trái tim…!”

Đó chính là “LÒNG TRẮC ẨN…!”

(sưu tầm)


 

Hãy Im Lặng !!!

Hãy Im Lặng !!!

  1. Im lặng – trong cơn nóng giận.
  2. Im lặng – khi bạn không có đầy đủ thông tin.
  3. Im lặng – khi bạn chưa kiểm chứng được câu chuyện.
  4. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm mất lòng một người yếu đuối hơn.
  5. Im lặng – khi đến lúc cần lắng nghe.
  6. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ xem thường những điều thánh thiện.
  7. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ nói đùa về tội lỗi.
  8. Im lặng – nếu sau này bạn phải xấu hổ vì lời nói của mình.
  9. Im lặng – nếu lời nói của bạn gây ra ấn tượng sai lầm.
  10. Im lặng – nếu vấn đề không liên quan đến bạn.
  11. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ nói dối trắng trợn.
  12. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm tổn hại đến danh tiếng của người khác.
  13. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm tổn hại đến tình bạn.
  14. Hãy im lặng – khi bạn cảm thấy bị chỉ trích.
  15. Hãy im lặng – nếu bạn không thể nói ra mà không hét lên.
  16. Hãy im lặng – nếu lời nói của bạn sẽ phản ánh không tốt về bạn bè và gia đình bạn.
  17. Hãy im lặng – nếu sau này bạn có thể phải hối hận.
  18. Hãy im lặng – nếu bạn đã nói điều đó nhiều hơn một lần.
  19. Hãy im lặng – khi bạn bị cám dỗ nịnh hót một kẻ xấu.
  20. Hãy im lặng – khi đáng lẽ bạn phải làm việc!!

“AI GIỮ MIỆNG LỬA MÌNH THÌ GIỮ LINH HỒN MÌNH KHỎI RỐI LOẠN”

From: Tu-Phung

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

13/11/2010

  • Nguyễn Hoàng

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

Trong Thay Lời Tựa cho cuốn Hơn Nửa Đời Hư, in năm 1992, ông Vương Hồng Sển cho biết ông có tánh ham mê đọc sách từ nhỏ. Ông gọi “sách là bạn cố tri trung thành”, ông coi cuốn sách là của riêng, “y như vợ nhà, và nếu thuở nay không đời nào ai cho mượn vợ, thì xin các bạn hiểu giùm vì sao tôi ít cho mượn sách.” Bởi vì chính ông, ông cũng không bao giờ mượn sách của ai, lý do theo ông, sách mượn phải đọc hối hả để mau trả, mà đọc hối hả thì mất thú. Khi nào lựa được một cuốn sách hay thì giá nào ông cũng phải mua cho bằng được. Ông viết: “Khi đọc và lúc cao hứng, tôi thường ghi lại bên lề trang sách những cảm tưởng nhứt thời, không khác được tỉ tê tâm sự với một bạn cố giao bằng xương bằng thịt.”

Về cách đọc sách, ông cho biết ông đọc chậm rãi, không tiếc thì giờ bỏ ra cho việc đọc sách. Nhưng cũng có khi ông đọc “ngấu nghiến còn hơn bồ câu ra ràng nuốt mồi không kịp đút,… y như chó gặm xương, như mèo mới sanh được mẹ nhường mồi dạy ăn, vừa ngừ nghè sợ mất mồi, vừa gầm gừ tiếng rên nho nhỏ vì khoái trá và vì sợ miếng ngon chóng hết hoặc anh chị nào đồng lứa sắp giựt phỏng trong mồm.” Ông viết “cũng vì tật ham đọc sách hay, đọc quên ăn, quên ngủ, thậm chí có khi quên cả phận sự buồng the, cho nên chỉ tồn đã hai phen bị giựt vợ, bị cắm sừng mà không tởn.” [Sđd. Tr 7]

Ông Vương Hồng Sển có thú chơi sách đặc biệt. Mỗi khi có một cuốn sách mới xuất bản mà ông quan tâm, ông luôn luôn mua 2 cuốn. Ông đánh số và ghi vào sổ bộ hẳn hoi, theo cách thức của thư viện, để dễ tra cứu. Một cuốn để lưu trữ, trưng bày trong hàng chục tủ sách đặc biệt có cửa kính, để giữ cho cuốn sách luôn mới. Còn cuốn thứ hai thì ông dùng để đọc. Mọi người thường ngồi ghế hoặc nằm trên giường, trên ghế trường kỷ, ghế sô-pha để đọc sách. Riêng ông Vương có thói quen nằm võng đọc sách. Ông nói, vừa đu đưa chiếc võng, vừa đọc sách, vừa nghiền ngẫm, ông cảm thấy là rất thú vị.

Ông Vương lưu trữ gần đủ các ấn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du, in ở trong nước và ở nước ngoài, kể cả các bản dịch ra tiếng ngoại quốc. Cuốn Thú Chơi Sách của ông xuất bản năm 1962 liệt kê có tất cả 26 ấn bản Truyện Kiều đang được lưu trữ tại “thư viện” của ông vào năm đó.

Ông có thói quen đánh máy các bản thảo với cái máy chữ cũ kỹ sắm hồi thời Tây. Ông ít khi viết nháp bằng tay.

*****

Có thể nói, ngoài việc mê sách, chơi sách, ông Vương Hồng Sển còn là người chịu khó sưu tập những bài báo và các tài liệu liên quan đến những nhân vật đã nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà ông quan tâm. Ông mở một hồ sơ cá nhân cho mỗi người. Khi cần tiểu sử, thành tích và sự nghiệp của một người nào đó thì ông có tài liệu ngay tại nhà. Từ nhiều năm, ông sưu tầm và thâu thập những phương ngữ Miền Nam, mỗi từ ghi chép vào một phiếu cứng, xếp theo thứ tự ABC. Nhờ vậy mà khi ông qu‎yết định biên soạn cuốn Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam thì công trình của ông xem gần như hoàn tất.

Trong cuốn Hơn Nửa Đời Hư, ông Vương thổ lộ đời của ông, cái gì cũng cũ, cũng vá víu, cũng tạm bợ: nhà, thì mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, nhưng ở cho đến nay; vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp. Về sách vở, đĩa hát và đồ cổ, … thì càng đúng hơn. Ông viết:

“Đồ cổ, xem lại hết sức chung tình với tôi. …. Mua tháng này một cái dĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười họa, gặp, mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ: dầm, bàn, tống, tốt. Dầm: dĩa nhỏ; bàn: dĩa lớn; tống: chén lớn để dầm trà; tốt hay quân: chén để uống trà. Duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu…

Còn sách, những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng “liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ “cho phép để trong nhà”, xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thế thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.

Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp củm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quí, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gã chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm mùi tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ…”* [sđd, tr. 655-656]

Tôi thích sự thành thật của ông Vương. Nó cho thấy đời ông gắn liền với những gì xưa, cũ và «bất hợp lệ…”.

Trong cuốn Sài Gòn Tạp Pín Lù, ông Vương viết: “…Sài Gòn Năm Xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt ‘khảo cứu’ chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài Gòn Năm Xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm.” (Biểu viết lại, nhưng biết sống bao lâu mà làm?) – (Sđd tr. 95).

Thật ra, ai đọc những trang sách của ông Vương – bất cứ cuốn nào, chứ chẳng riêng gì cuốn Sài Gòn Năm Xưa – đều thấy ông Vương đúng là người viết “không khoa học, không trật tự, và thường lập đi lập lại”,…. Trong mục Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình (sđd tr. 94), ông Vương biện minh rằng bản tánh ông xưa nay “không gò gẫm, không ‘hành văn’ và chỉ viết như nói thôi. »

Nói là tự nhận lỗi, nhưng thật ra là ông Vương tự biện minh. Và rõ ràng, càng biện minh ông càng cho thấy ông coi thường người đọc khi ông viết: «Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe, và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng ‘cố tình không muốn tránh’.”

Sự khiêm tốn của ông Vương có một, nhưng lòng kiêu căng của ông có tới mười. Trước 1975, tôi có đôi lần gặp ông Vương. Và mặc dù không thích cách viết của ông, tôi vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng ông. Tôi không thích cách viết của ông: dài dòng, lê thê, đầy tĩnh từ và lập lời lập ý như một bà già khó tính khi dạy dỗ la rầy con cháu! Tôi thường bỏ giữa chừng những trang sách của ông. Tôi nghĩ, – và có lúc đã nói với anh Trần Phong Giao là nếu ông Vương cho phép tôi biên tập những cuốn sách của ông – ví dụ cuốn Sài Gòn Năm Xưa, 330 tr., tôi có thể viết gọn lại chừng 200 tr. mà không sợ phản bội tác giả. Trần Phong Giao đồng ý, nhưng anh nói, cậu không nên đụng vào ông ấy, đến như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bảo hãy đứng xa ông Vương ra một bước! Liệu cái thần hồn cậu! Tôi kể lại chuyện này chỉ muốn nói một điều, người đọc sách Sài Gòn dù trân trọng kiến thức [về hiểu biết của một “người chơi cổ ngoạn”] của họ Vương, vẫn nhận ra tính chất thiếu khoa học, vô trật tự và sự lập đi lập lại nhiều lời với chỉ một ý… của ông, chứ không cần phải chờ đến sau tháng Tư 1975, “Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng…” mới nhận ra điều ấy nơi ông.

Ông không thể coi thường những người đọc sách ông trong nửa miền Nam của đất nước trước đây. Người đọc yêu mến tài năng “khảo cổ” của ông, quý phục kinh nghiệm trường đời của ông, kính trọng tuổi tác của một bậc lão thành trong làng văn trận bút của ông… nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không nhìn ra sự lê thê, luôm thuộm, rề rà, không trong sáng trong bút pháp của ông. Dù sao, tôi nghĩ, nên đọc những trang sách của ông Vương với một nụ cười.

Hy vọng được nghe nhiều tiếng nói khác của người đọc chúng ta. [NXH]

* Ông Vương Hồng Sển là hậu duệ người Trung Hoa, lưu dân Triều Châu, đến định cư tại Miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 17. Ông sanh tại Sốc Trăng [chữ Sốc Trăng, ông Vương luôn viết có dấu ^] ngày 27 tháng 9 âm lịch, Nhâm Dần (1902), nhưng trên giấy thế vì khai sanh được ghi ngày 4-11-1904. Tên của ông theo tiếng Hán-Việt là Vương Hồng Thịnh. Người Hoa đọc Thịnh là Sển. Trong đơn xin thi thiết lập giấy thế vì khai sanh, gia đình ghi là Vương Hồng Sển.

Năm 1923, ông Vương tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Ra trường, ông làm công chức tại nhiều nơi, Sài Gòn, Sốc Trăng, Cần Thơ. Chức vụ cuối cùng trong đời công chức của ông là quản thủ bảo tàng viện Blanchard de la Brosse (trong khuôn viên Thảo cầm viên Sài Gòn) từ năm 1948 đến 1964.

Ông Vương Hồng Sển từ trần ngày 9-12-1996 tại Sài Gòn, hưởng thọ 92 tuổi, được an táng tại Sốc Trăng.

Ông đã sống gần trọn chiều dài của thế kỷ 20 và là tác giả của một số tác phẩm tiêu biểu:

– Sài Gòn Năm Xưa, in lần đầu 1960 [226 tr.], tái bản năm 1969 [328tr.]
– Thú Chơi Sách, 1960 [167tr.]
– Hồi Ký 50 Năm Mê Hát, 1968 [254tr.]
– Phong Lưu Cũ Mới, 1970 [310 tr.]
– Chuyện Cười Cổ Nhân, 1971 [253 tr.]
– Hiếu Cổ Đặc San, gồm 9 cuốn về đồ sứ men lam Huế, 1970-1972, nhưng chỉ in được có 6 cuốn.
– Hơn Nửa Đời Hư, 1992 [684 tr.]
– Sài gòn Tạp Pín Lù, 1992 [160 tr.]
– Nửa Đời Còn Lại, 1996 [434 tr.]
– Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam, 1994.

https://www.voatiengviet.com/a/sach-cua-vuong-hong-sen-11-13-2010-107813559/916917.html


 

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ cuộc đời và tác phẩm

– Nguyễn & Bạn Hữu

July 10th, 2020

Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long, là một nhà văn miền Nam. Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận định: Trong 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam thời kỳ trước 1975, có ba người gốc Huế: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Người thứ tư gốc Bắc di cư: Trùng Dương. Chỉ có Nguyễn Thị Thụy Vũ là dân Nam bộ rặt. Văn chương của bà cũng đặc sệt chất Nam bộ, từ ngôn phong, từ ngữ sử dụng cho tới lời ăn tiếng nói, tính cách, hành vi của các nhân vật.

Năm 1965 bà lên Sài Gòn dấn thân vào nghiệp viết văn, bên cạnh đó còn kiêm việc dạy tiếng Anh cho những cô gái bán bar hoặc lấy Mỹ.

Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, Thụy Vũ đã xuất bản 10 tác phẩm gồm 3 tập truyện ngắn: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông; và 7 tiểu thuyết: Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu (Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1971), Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.

Sau 1975, Nguyễn Thị Thụy Vũ không thể tiếp tục cầm bút do tác phẩm bị quy là đồi trụy, bà phải bươn chải với những công việc khác để nuôi đàn con, trong đó có một người sống đời thực vật. Bà từng buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê… những công việc mà trước đó không ai hình dung nhà văn nữ này có thể kham được.

Hiện nay đời sống của bà tương đối ổn định khi bà về Bình Phước dựng nhà trên mảnh đất cha mẹ để lại. Ðó là sau khi bà nhận được sự giúp đỡ từ những bạn văn cũ qua bài viết của một bạn văn mô tả cuộc sống lây lất khốn khó của mấy mẹ con, vào đầu thập niên 2000. Bà đang sống với gia đình con trai, là một người tu tại gia chuyên việc hộ niệm, và cùng với họ là cô con gái út ngoài bốn mươi tuổi vẫn sống đời thực vật.

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ

Về cha của các con bà, nhà thơ Tô Thuỳ Yên, bà cho biết: Ổng đi học tập cải tạo. 13 năm ổng đi học tập, tôi có đi thăm ông một lần duy nhứt. Sau đó ổng đi Mỹ với gia đình… (theo NT Kim Cúc)

Về chi tiết này, nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong một bài viết nhan đề “Thụy Vũ: Mỉm cười với nghiệt ngã” ghi nhận: Tôi chợt buột miệng hỏi, rồi lại hối hận đáng lẽ không nên hỏi, về nhà thơ tác giả bài Ta Về, Anh Hùng Tận, chị không một thay đổi sắc mặt hay bất bình, trả lời như chuyện của người khác: ‘Ổng gọi về nhiều lắm nhưng mà không có nói chuyện với tôi, nói chuyện cả giờ với con dâu.’ Tôi nghe tiếng ổng liền nhớ đến biết bao nhiều lần trong truyện ngắn như là tự truyện chị dùng thiệt nhiều lần từ tía sắp nhỏ vừa thương mến vừa xót xa vừa cách phân.

Nhà văn Ðoàn Dự cũng cho biết:

Nói chung, về tình trạng của chị Thụy Vũ hiện nay, chị có 3 người con thì cháu Khôi Hạnh lấy chồng ở Long An, đời sống êm ấm, hạnh phúc nhưng vì đông con nên cũng không giúp gì được cho mẹ. Cháu Khôi Hạo đã có gia đình, có một con trai, trước đây làm nghề nuôi cá cảnh để bán và viết văn theo cái “gien” của bố và mẹ, cũng kiếm được đồng tiền nhưng không hiểu sao tự nhiên cháu đi tu (Phật giáo), để vợ con cho mẹ lo. Còn cháu thứ ba, Khôi Thụy, thì vẫn sống đời sống thực vật, u mơ không biết gì hết như cũ. Năm nay chị Thụy Vũ đã 78 tuổi, tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào mấy con cá kiểng do vị “tu sĩ Phật giáo” truyền lại cho mẹ và mỗi tháng 100 đô-la do cháu Ðinh Quỳnh Giao, bác sĩ bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy Yên gửi về giúp đỡ. Cháu Ðinh Quỳnh Giao rất thương xót đứa em cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khôi Thụy đang nằm liệt giường. (Trích theo Phan Nguyên)

Một điều an ủi cho Nguyễn Thị Thụy Vũ là những sách của bà (10 cuốn) đã được nhà Phương Nam tái bản: Tất cả đều là sách đã in tại Sài Gòn trước 1975, đây có thể xem là toàn bộ sự nghiệp văn chương của bà, đã được Công ty Sách Phương Nam mua tác quyền: Lao vào lửa, Khung rêu, Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang, Mèo đêm, Chiều mênh mông, Chiều xuống êm đềm, Như thiên đường lạnh, Ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên…

Ðược hỏi bà cảm thấy thế nào khi tất cả tác phẩm trước năm 75 đều đã được tái bản. Nguyễn Thị Thụy Vũ thành thật trả lời: “Tôi rất vui. Sách in đẹp, tất cả lỗi chính tả đều được sửa rất kỹ. Tôi thấy mình thật may mắn khi nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều bè bạn, cả bạn cũ và bạn mới. Tôi xin cảm ơn cuộc đời và bè bạn…”

Tất nhiên là chúng ta cùng chia sẻ niềm vui với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhân đây cũng xin trình bày rõ thêm về những nỗi vất vả và khổ đau vô cùng tận cùng những may mắn dù có hơi trễ muộn trong đời nhà văn.

Thụy Vũ tâm sự với nhà báo Ngô Thị Kim Cúc:

“Cuộc sống sau ‘giải phóng’ vô cùng khó khăn. Tui một mình nuôi bầy con nheo nhóc, có đứa bị thiểu năng nằm một chỗ. Tui phải để nó cho mấy đứa lớn cho ăn, chăm sóc còn mình thì đi làm thuê bán vé xe bus cho một người bạn.

“Xe chạy tuyến Thủ Ðức – Sài Gòn, từ sáng đến tối mịt mới về nhà. Về đến nhà thấy con cái đứa thì nằm ngủ trên vũng nước đái, đứa lêu lổng đi chơi không cho em ăn… nhìn cái cảnh đó tui muốn chết đi cho rồi. Khó khăn quá, năm 1980 tui bồng bế tụi nhỏ về Bình Phước nương nhờ má cho đến bây giờ,” bà kể.

Xưa tui bỏ nó ở nhà đi làm báo, nó bị té, ảnh hưởng não nên nằm một chỗ đến giờ, vậy mà giờ nó nuôi tui bằng tiền từ thiện bạn bè, các nhà hảo tâm thương tình giúp đỡ…”

Làm nhiều nghề kiếm sống nuôi con, từ chăn dê, buôn bán, trồng tiêu… cây bút nữ dấn thân nhất của văn đàn miền Nam trước 1975 đã không còn viết gì nữa kể từ sau “giải phóng”. Bà kể: “Ổng (tức, Tô Thùy Yên) thì theo gia đình vợ con ổng đi sang Mỹ, có đời sống riêng. Tui làm đủ nghề lo cho con.

“Ba đứa con tui cũng thành nhân, yên bề gia thất. Có một thằng làm thơ, người ta nói nó có chịu ảnh hưởng của cha nó. Nhưng mấy con tui, đứa nào cũng nghèo, chẳng giúp gì được mình. Tui sống nhờ đứa con bị tàn tật.

Người mô tả về xã hội bên lề Sài Gòn khốc liệt một thuở lại cũng chính là người chịu đựng những hệ lụy mà chiến tranh để lại.

Trở lại văn đàn trong nước sau gần nửa thế kỷ, trong bối cảnh sách vở văn chương đang ở vào một giai đoạn hỗn loạn và phân hóa mạnh mẽ, thì tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ minh chứng rằng, những gì là chân giá trị sẽ không bị phủ lấp dưới bụi thời gian và những định kiến.

Xin được cảm thông với bao nỗi đời nghiệt ngã của nhà văn và mừng bà bước vào giai đoạn gọi là yên vui của cuộc đời. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ chắc chắn sẽ còn sáng mãi với thời gian.

NGUYỄN & BẠN HỮU – tổng hợp


 

CHỈ CẦN LẶNG YÊN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai!”.

Mỗi khi ngã quỵ, bạn đừng quên Thánh Vịnh 46, 11, “Hãy lặng yên và biết rằng, Ta là Chúa!”. Cuối đời, Hudson Taylor, yếu đến mức thều thào, “Tôi yếu đến độ không thể cầu nguyện, không thể đọc Thánh Kinh. Tôi chỉ có thể lặng yên trong tay Chúa, đợi Ngài vác về!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Đợi Ngài vác về!”. Lời cuối của Taylor cũng là chi tiết mà chỉ một mình Luca có trong dụ ngôn Chiên Lạc với những tình tiết thật ly kỳ! Nào ‘người đó vui mừng vác trên vai, đem về nhà’; ‘mời bạn bè, hàng xóm’ chung vui; và nhất là, ‘giữa triều thần, ai nấy vui mừng!’. Phần con chiên, nó ‘chỉ cần lặng yên!’.

Con số “99” biểu tượng cho những ai đã thuộc về Vương Quốc – đại diện cho triều thần thánh; con chiên lạc đại diện cho toàn thể nhân loại, và đại diện cho từng con người lạc lối. Người Chăn Chiên, chính Chúa Giêsu, luôn tìm kiếm một nhân loại sa ngã; trong đó, có bạn và tôi – mỗi người lạc mỗi cách, mỗi kiểu – để vác về. Ngài không đi tìm chiên vì tiếc của hay giận giỗi, nhưng chỉ vì quan tâm và xót thương. Về phần chiên, đừng nổi loạn, nó ‘chỉ cần lặng yên’, vì “Đôi khi điều thiêng liêng nhất bạn có thể làm là nghỉ ngơi!” – Craig Groeschel.

Thông thường, chúng ta có thể rơi vào cạm bẫy khi nghĩ rằng, tôi phải tìm đường trở lại với Chúa bằng những nỗ lực riêng; nhưng sự thật là, Thiên Chúa luôn ngược chiều, Ngài hối hả, dáo dác dõi mắt tìm kiếm mỗi người. “Ân sủng tìm thấy ta ở nơi ta đang ở, nhưng không để ta nguyên chỗ ấy!” – Max Lucado. Thánh Vịnh đáp ca hôm nay nói, “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban!”. Ân lộc Chúa ban là niềm tin của người để Chúa kiếm tìm và vác về giữa quãng đường còn xa. Như vậy, “Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” – bài đọc một. Vậy thì còn phải lo chi? ‘Chỉ cần lặng yên’ để Ngài bước tiếp phần đường của chính mỗi người. “Ân sủng là sức mạnh dịu dàng vác ta về nhà khi đôi chân ta không còn bước nổi!” – John Stott.

Anh Chị em,

Như vậy, ‘chỉ cần lặng yên’ không phải là buông xuôi, nhưng là để cho ân sủng hành động. Khi con người thôi vùng vẫy, Thiên Chúa mới có thể ôm lấy và vác về. Chính trong bất lực, chúng ta chạm đến quyền năng cứu độ của Chúa. “Ân sủng tuôn tràn mạnh nhất qua những vỡ vụn của con người!” – Philip Yancey. Vì thế, lặng yên không là trốn chạy, mà là tin rằng, Ngài biết đường về. Như chiên yên ắng trên vai Mục Tử – không cựa quậy, đạp chọi – nó không biết, đó chính là giây phút cứu độ của nó. Nói cách khác, khi linh hồn đã kiệt sức, chẳng còn cầu nguyện, chẳng còn suy tư, chỉ còn lặng yên trong Chúa, thì đó không phải là thất bại, mà là điểm chạm giữa ân sủng và sự bất lực. Ở đó, ơn cứu độ bắt đầu! “Đôi khi Thiên Chúa để bạn chạm đáy, để bạn khám phá ra Ngài chính là Đá Tảng nơi đáy sâu ấy!” – Tony Evans.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con không xin sức mạnh, chỉ xin ơn bình an, để khi Ngài băng qua sa mạc lòng con, con đủ tin để không cựa quậy, và để Ngài làm phần còn lại!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ

Trên trời ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 15,1-10

1 Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này :

4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? 5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.’ 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.’ 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”