TRÓI BUỘC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thật là ngốc!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật khó để tưởng tượng Chúa Giêsu gọi ai đó là “ngốc”, nhưng thực sự, trong Tin Mừng hôm nay, Ngài đã nói như thế với một biệt phái. Với ông, luật thay vì giải thoát, lại ‘trói buộc’ và làm cho người ta ra ngốc nghếch!

Người biệt phái mời Chúa Giêsu dùng bữa; và ông trách Ngài không rửa tay. Nhân cơ hội này, Ngài cho biết, ông ấy giả hình; ông “theo ‘tôn giáo trang điểm’, giả vờ xuất hiện theo một cách thức ‘vui mắt’ nào đó, đang khi bên trong – như Ngài nói – là ngôi mộ đầy xương người chết và mọi thứ ô uế!” – Phanxicô.

Lời Chúa chất vấn chúng ta về những gì có thể ‘trói buộc’ đời sống mình. Nhiều khi, chúng ta vô tình biến điều sai trái thành ‘giá trị’, chỉ để che giấu tội kiêu ngạo, ích kỷ và tự phụ. Tệ hơn, chúng ta cố ‘phổ quát hoá’ những lệch lạc ấy, biến đạo đức thành một sự điều chỉnh cho phù hợp xu hướng xã hội, miễn sao không bị lạc lõng hay bị loại trừ. Và như thế, dù giá phải trả là sự tăm tối của tâm hồn, chúng ta vẫn tự trấn an, “Ai mà chẳng như thế!”. “Chúng ta đã học cách mài giũa thói xấu của mình cho đến khi chúng sáng lên như nhân đức!” – Søren Kierkegaard.

Phaolô mạnh mẽ tố cáo thái độ biệt phái này. Họ là “Những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý” – và quyết liệt hơn cả Chúa Giêsu – “Đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ!” – bài đọc một. “Khi đạo đức bị uốn cong cho hợp tiện nghi, thì sự thật là điều đầu tiên bị hy sinh!” – C. S. Lewis.

Thế kỷ XVIII, triết gia người Pháp – Jean-Jacques Rousseau như một hiện tượng. Ông kiêu ngạo đến mức thách thức, “Trước nhan Chúa, ai dám nói, ‘Tôi tốt hơn Rousseau!’”. Trước khi chết, ông tự tôn, “Ôi hạnh phúc! Một người không có lý do gì để hối hận hay tự trách mình!”; “Tôi trả lại linh hồn trong sáng cho Chúa như khi nó xuất phát từ Ngài; hãy để nó hạnh phúc với Ngài!”. Trong các tác phẩm, ông cổ vũ ngoại tình, tán dương tự tử. Hơn hai mươi năm sống xa hoa, ngông cuồng và duy ngã, những đứa con ngoài giá thú của ông đều bị vứt bỏ nơi viện mồ côi. Ông trở thành biểu tượng của một con người phô trương, bội bạc, giả hình và phạm thượng!

Anh Chị em,

“Thật là ngốc!”. Hẳn Chúa Giêsu sẽ nói với Jean-Jacques Rousseau và cũng có thể nói với bạn và tôi như thế. Hãy lắng nghe, đừng cảm thấy xúc phạm! Đó là những lời yêu thương nhất. Chúa Giêsu muốn chúng ta làm sạch chiếc cốc tâm hồn. Hãy để những lời này tiết lộ những gì cần ‘tháo cởi’. Đó có thể là lòng kiêu hãnh vốn đã làm chệch hướng và ‘trói buộc’ các thực hành nội tâm và cách giữ luật Chúa. “Sự thật khó đối diện nhất là sự thật lột mặt nạ những ‘nhân đức’ của ta!” – Thomas Merton. Đừng làm ngơ; hãy mở lòng và khiêm tốn đón nhận! Nhờ đó, bạn và tôi trở nên công chính và có thể cùng “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa” – Thánh Vịnh đáp ca!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, nếu hôm nay con nghe Chúa nói, “Thật là ngốc!”, cho con biết mỉm cười đáp lại, ‘Vâng, con ngốc thật; nhưng ít ra con vẫn còn đủ khôn để nghe Ngài!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Hãy bố thí thì mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,37-41

37 Khi ấy, Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. 38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng : “Này, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40 Thật là ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao ? 41 Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.”


 

SỰ THA THỨ-Truyen ngan HAY

Từ một câu chuyện có thật:

Tại một quán ăn ở San Jose, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non.

 Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rơi xuống chiếc cặp của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng, tôi muốn nhảy dựng lên, nộ khí xung thiên. Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì thì đứa con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói: “chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”.

 Cô hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp của tôi, nói với giọng lúng túng: “Tôi… để tôi đi lấy khăn lau … ”.

 Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói: “Không sao, mang về nhà rửa là sạch thôi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu.”

 Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn.

 Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ.

 Con gái bình tĩnh nói với tôi, dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, con mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.

 Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, lúc hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự…

 Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm và để huấn luyện tính tự lập cho nó, chồng tôi quyết định không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, anh ấy muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn. Khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước. Những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống.

 Ngày đầu tiên đi làm, nó đã gặp phải rắc rối.

 Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ cần dùng một chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh.

 Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu. Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng” liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc hoàn toàn biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.“Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục.”… giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng.

 “Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: “Em gái, em không sao chứ?”

 Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: “Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé!”

 Đối với con, ngay đến cả nửa câu trách móc cũng không có!”Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận, làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ. Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con: “không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt.”. Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, rồi từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên.

 Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm: “Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”

 Lúc này, không khí trở nên tĩnh lặng như màn đêm. Tròng mắt của tôi ướt đẫm lệ…

 Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình. Như tác giả nổi tiếng Andrew Matthews từng viết:

 “Bạn tha thứ cho mọi người vì chính lợi ích thân thiết của bạn. Nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn.”

 Các bạn thân mến của tôi,

 Chúng ta cảm động khi được người khác tha thứ. Điều đó khiến chúng ta có thể thay đổi hành vi và lời nói của chính mình. Hãy để những thiện ý này lưu truyền mãi về sau … như thế, mỗi ngày của chúng ta, sẽ là mỗi ngày hạnh phúc và may mắn!

 THA THỨ, không dễ lắm đâu, nhưng hãy cố gắng bạn nhé!

 Nguồn: Hito Nakazomo, Trinh DinhDung

 From: Thunnguyen


 

Trời là gì? – Cha Vương

Một ngày an lành trong niềm hy vọng vào Chúa Cứu Thế nhân hậu nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 13/10/2025.  t5-22

GIÁO LÝ: Trời là gì? Trời là thời gian vô tận của tình yêu không bao giờ còn xa cách nữa giữa Thiên Chúa và lình hồn đã yêu mến và tìm kiếm Người suốt đời. Được hiệp nhất với tất cả các thiên thần và tất cả các thánh, linh hồn được vui hưởng hạnh phúc luôn luôn ở gần Chúa và với Chúa. Trời là Thiên đường. (YouCat, số 158)

SUY NIỆM: Đôi bạn trẻ nhìn nhau với đôi mắt tình tứ, một em bé đang bú mẹ tìm đến cái nhìn của mẹ nó, như muốn giữ gìn mỗi nụ cười đó mãi mãi…. đó là những thí dụ có thể cho ta một ý niệm nhỏ về trời hay thiên đường. Được nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt là như thời gian độc nhất của tình yêu kéo dài đến vô tận. (YouCat, số 158 t.t.)

❦ Một người có thể mất hết của cải đời này trái với ý muốn của mình, nhưng không bao giờ họ mất của cải đời đời nếu không hoàn toàn do ý muốn của mình. (Thánh Augustinô)

LẮNG NGHE: Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. (1 Cr 13:12)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là con người thì có lẽ ai cũng có những lần lo âu xao xuyến, nhất là khi con đang sống trong một thế giới bất ổn, xin Chúa củng cố niềm tin cho con để con luôn xác tín vào lời Chúa dạy: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3)

THỰC HÀNH: Để hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa, bạn cần phải sạch tội. Tội nào đang làm bạn xa lìa Chúa? Hãy cố gắng tránh xa dịp tội hôm nay nhé.

From Do Dzung

*********************

Xin Đưa Về Quê Trời – Paul Nguyen, Vincent Cao, R. Zaragoza

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

FATIMA NĂM 1917

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

LM Nguyễn Hữu Thy

Chắc hẳn khi nhắc đến tên Fatima, các bạn đã nghe nói đến phép lạ mặt trời quay?

Nhưng các bạn có biết rằng qua cách thức phép lạ xảy ra, thì đây hẳn là một phép lạ vĩ đại nhất chưa từng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội?  Hay: Phải chăng đây là một chuyện thêm thắt và bịa đặt thái quá?

Hy vọng qua những dòng sau đây, các bạn sẽ có được sự nhận định chính xác hơn.

Để mọi người tin

Vào ngày 13.10.1917, tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi).

Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác, hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó.

Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.

Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917, sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người.

Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08.1917 và vào ngày 13.09.1917.

Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09.1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 tháng 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay.  Vì thế, đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50 đến 70.000 người đã tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.

Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha cũng đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó.  Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: “Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima,” hay: “Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo” kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.  Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.

Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó 

Ở đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó.  Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:

“Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa.  Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật.  (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều.  Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bỗng chốc nó chiếu sáng qua đám mây.  Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy.  Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời.  Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi, nhưng không làm lóa mắt.  (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây.  Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời.  Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh.  Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao.  Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó, bỗng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh.  Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ.  (…) Tất cả những hiện tượng này, tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả.  Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”[1]

Phải chăng đám đông bị thôi miên?

Hàng chục ngàn người đều đổ nhìn về phía mặt trời đang quay lộn kỳ lạ.  Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi.  Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.

Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.

Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ “nhẹ dạ cả tin.”  Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:

Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54  km.  Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.

Cha Lourenco tường thuật lại như sau: “Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia.  Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả.  Mặt trời vào lúc bấy giờ trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bỗng chốc nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa.  Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận.  Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường.  Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…

Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc,” cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê.  Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời.  Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”[2]

Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được

Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau:

  1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính râm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.
  2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.
  3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.
  4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn, bỗng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60 ngàn người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.

Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bỗng chốc khô ráo hoàn toàn.  Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.

Nỗi lo lắng của Mẹ Maria cho con cái loài người

Nếu thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã từng ước ao là khi được về trên trời, thánh nữ sẽ trở thành tình yêu đầy sáng tạo để cứu giúp mọi người, thì nay Fatima và nhất là phép lạ mặt trời quay, là một bằng chứng hùng hồn của tình yêu đầy sáng tạo của Mẹ Maria đối với con cái loài người chúng ta, dĩ nhiên, trên hết là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa.

Bởi vậy, chúng ta hãy nghiêm chỉnh đón nhận dấu chỉ của sự lo lắng của Mẹ Thiên Chúa; đúng như lời chị Lucia đã cảnh báo: “Fatima luôn luôn mang tính cách thời sự cao điểm của nó.”  Bởi vì, đối với Thiên Chúa, thời giờ là vô tận; nhưng đối với phàm nhân chúng ta, thời giờ luôn có giới hạn của nó.  Và giới hạn đó không ai biết được dài ngắn, lâu mau.  Vì chưa bao giờ có ai biết được mình sẽ được sinh ra lúc nào, và cũng rất ít ai biết được mình sẽ chết lúc nào.  Ngày tận cùng của mỗi người sẽ xảy đến một cách bất chợt, không ngờ trước được, tương tự như một kẻ trộm vậy (x.  Mt 24,37-44).  Do đó, Đức Giêsu đã căn dặn chúng ta: “Các con phải canh chừng, phải tỉnh thức, vì các con không biết khi nào thời ấy đến!” (Mc 13,33).

Nhưng dĩ nhiên, sự tỉnh thức và canh chừng mà Chúa nói đây, không có nghĩa là sự ngồi chờ cách thụ động, vô vi; nhưng là một sự tỉnh thức đầy sáng tạo, nghĩa là một sự tỉnh thức chờ đợi đầy tính năng động mà Mẹ Maria đã chỉ cho chúng ta tại Fatima cách đây đúng 90 năm về trước.  Đó là:

  • Mỗi người phải ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống cá nhân của mình;
  • Hằng ngày hãy siêng năng và sốt sắng lần hạt Mân Côi;
  • Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Chúa muốn.

Nếu được thế, thế giới sẽ được hòa bình, nhiều dân tộc sẽ tránh khỏi cảnh bị diệt vong và nhiều linh hồn sẽ không bị trầm luân trong hỏa ngục đời đời.

LM Nguyễn Hữu Thy

Nguồn: vietboston.com

 From: suyniemhangngay1& ThuNNguyen


 

Lại nói về sự tha thứ – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Đề tài này rất nhiều người đã viết. Tôi cũng có viết đề tài này rồi, tuy nhiên tôi cũng xin thêm vài ý nghĩ về sự tha thứ.

Làm sao tha thứ cho người đã hãm hại mình, đã vu khống, nói xấu mình, có khi còn giết chết mình và gia đình mình. Tha thứ không phải là việc dễ dàng, sự tha thứ nó vượt quá khả năng của con người bình thường. Có thể không nhắc tới, không liên hệ, nhưng nói đến tha thứ kẻ đã gây quá nhiều đau khổ cho mình, cho gia đình mình thì thật là quá khó khăn. Tuy nhiên, tôi xin nêu vài trường hợp đã xảy ra để giúp cho ta suy nghĩ và học hỏi.

Lời nói cuối cùng của Chúa Giê-Su:

Lời cầu xin cho những kẻ hành hạ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lu-ca 23:34). Đây là một trong những lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su trên thập giá, thể hiện lòng thương xót bao la ngay cả đối với những kẻ làm Ngài đau khổ.

 1)   Phó tế Stêphanô.

Phó tế Stephanô là người tử đạo đầu tiên tại Giêrusalem năm 35.

Stêphanô đã tranh luận nhiều lần với người Do Thái cứng lòng, Ngài đã nói lên những lời khôn ngoan, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, khiến đối phương phải im tiếng. Vì thế họ tức giận rồi vu khống cho ngài tội phạm thượng, chống lại Môisen và Thiên Chúa.

Họ đã dẫn Ngài ra ngoài thành rồi ném đá cho đến chết. Nhưng trước khi tắt hơi, thánh Stêphanô còn ngước mắt lên trời xin Chúa tha tội cho những người hành hạ mình. 

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-26-12-thanh-stephanotu-dao-tien-khoi-43756

 2)   Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II

Vào ngày 13 tháng 05 năm 1981 Đức Giáo Hoàng đã bị một người đàn ông Hồi giáo, gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca, bắn trọng thương khi Ngài đang đứng trên xe chạy vòng quanh quãng trường thánh Phêrô

Viên đạn xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, dù Ngài bị mất nhiều máu nhưng vẫn được cứu sống kịp thời.

Về phần mình Ngài lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Đức Mẹ Maria.

Sau khi hồi phục, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố với mọi người rằng: “Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ”. Giáo hoàng đã viết thư định gửi cho Ali Agca: “Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?” Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ali Agca.

 Năm 1983, Ngài đến thăm Agca và tha thứ cho việc ám sát ông. Ngài còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Agca. Ngài đã giữ liên lạc với gia đình của Agca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Agca năm 1987.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II

 3)   Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Đức Hồng Y bị giam 13 năm, 9 năm biệt giam, bị bỏ đói, tưởng chết trong trại kiên giam.  Nhưng Đức Hồng Y không nhắc đến giai đoạn bị đày đoạ, đau khổ tột cùng đó và Ngài vẫn đi rao giảng về yêu thương và tha thứ.

Cáo thỉnh viên Waldery Hilgeman, cáo thỉnh viên phụ trách tiến trình phong thánh cho cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận, nêu nhận định của ông về cố Hồng y:[112]

Điều đánh động tôi trong linh đạo của ngài là tình yêu liên lỉ đối với tha nhân. Ngài bị cầm tù và khi ở trong tù, ngài vẫn không ngừng yêu thương những người bách hại ngài, từ những viên chức cao nhất của chế độ đến anh lính canh thấp bé nhất.

Linh mục Trần Đức Anh, Giám đốc Ban Việt ngữ Đài phát thanh Vatican, đưa ra nhận định:[106]

Bản thân tôi, tôi có dịp được tiếp xúc với Đức Hồng y rất nhiều, và tôi rất khâm phục Ngài ở chỗ không bao giờ Ngài than trách, nói xấu hoặc phê bình những người đã hại Ngài, những người đã tạo đau khổ cho Ngài trong quá khứ. Đó là điều mà tôi rất cảm kích.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Phanxic%C3%B4_Xavi%C3%AA_Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Thu%E1%BA%ADn

 *******

Đức Hồng Y viết: “

Có một hôm mấy anh gác hỏi tôi:

–          Ông có thương chúng tôi không?

–          Có chứ, tôi yêu thương các anh cách thành thực, không có gì là khách sáo đâu!

–          Kể cả khi người ta giam ông, mất tự do năm này sang năm khác? Không xét xử gì cả.?

–          Anh nghĩ lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các anh.

–          Chừng nào được tự do anh có sai giáo dân của anh trả thù không?

–          Không, tôi vẫn tiếp tục yêu thương, dù các anh có muốn giết tôi.

–          Nhưng tại sao lại yêu kẻ thù hại anh?

–          Vì Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương; nếu tôi không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Kitô hữu nữa.”

(Sách Sách” Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” trang 76)

  4)Thánh nữ Maria Goretti, đồng trinh, tử đạo

Một di sản đạo đức quý giá khác mà thánh Maria Goretti để lại cho hậu thế đó là lòng từ bi và sự tha thứ. Sự tha thứ mà thánh Maria Goretti dành cho kẻ đã hạ sát mình đã làm trổ sinh hoa trái là sự hoán cải của Alessandro Serenelli, kẻ đã hãm hại và tước đi mạng sống của thánh nữ. Alessandro bị tuyên án 30 năm tù khổ sai lưu đày vì tội cố sát. Sau khi thụ án, anh đã tìm đến nhà Goretti gặp bà Assunta, mẹ của thánh nữ để xin được tha thứ. Anh cũng đã có mặt tại quảng trường thánh Phê-rô tham dự lễ phong thánh của Maria Teresa Goretti cùng với bà Assunta.

Sau đó, anh đến xin làm lao công trong một tu viện dòng Phanxico: để sống cuộc đời hoán cải và đền tội. Có thể thấy rằng, hai phép lạ đã xảy ra khi sự tha thứ làm nảy sinh ơn hoán cải. Khả năng tha thứ xuất phát từ ân sủng của Thiên Chúa và sự quảng đại của một tâm hồn thánh thiện, liêm chính đã thúc đẩy Maria Goretti nói những lời này: ‘Tôi muốn kẻ giết tôi cũng được như tôi trên Thiên Ðàng’.

https://vntaiwan.catholic.org.tw/thuongde/thuongde200.htm

Kết:

Trong suốt giòng lịch sử từ khi Chúa Giê-su chịu tử nạn cho đến ngày hôm nay (2025) vẫn có rất nhiều Kitô hữu là môn đệ của Thầy chí thánh, đã học tập, noi gương Thầy Giê-su đã quãng đại yêu thương và tha thứ đối với những kẻ đã nói xấu, vu khống, hãm hại mình.

Người Kitô hữu thường nhớ và áp dụng lời Chúa Giê-su dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi anh em” (Mt 5,44)

Phùng Văn Phụng

12/10/2025

VỰC TỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”.

Một chú mèo rơi xuống một giếng cạn, người ta xúm lại tìm cách cứu nó bằng việc xúc đất lấp giếng. Ai đó lo lắng, “Làm thế, nó sẽ chết!”. Nhưng họ vẫn tiếp tục. Lạ thay, cứ mỗi lần một lớp đất rơi xuống, con mèo lại phủi đất rồi bước lên cao hơn. Cuối cùng, nó ra khỏi giếng – bình an, tự do – dẫu khá lấm lem!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy, như con mèo kia, nhiều khi chúng ta cũng bị vùi lấp giữa những lớp đất của thử thách, tội lỗi hay nỗi sợ. Thế nhưng, chính trong những ‘vực tối’ đó, Thiên Chúa lại tỏ mình cách sâu thẳm nhất.

Bị ném xuống biển sâu, chôn vùi trong bụng cá, nhưng chính ở đó, Giôna bắt đầu trải nghiệm thế nào là bóng tối, thế nào là nổi loạn, là hoán cải; và điều quan trọng là Thiên Chúa có mặt ở đó! Đức Kitô cũng đã bước vào nấm mồ, vực sâu của sự chết, để ở đó, Ngài cũng trải nghiệm thế nào là sự dữ, là tội lỗi, là chết đi để từ đó trỗi dậy và bừng lên ánh sáng phục sinh. Như vậy, Thiên Chúa không ở ngoài vực thẳm u tối; Ngài ở trong đó, để biến ‘vực tối’ thành nôi sự sống. “Khi ta dám bước vào bóng tối của mình, ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã ở đó từ trước!” – Henri Nouwen.

Phaolô cho thấy lý do của mầu nhiệm ấy. Đức Kitô “xuất thân từ dòng dõi Đavít xét như người phàm”, nhưng “đã từ cõi chết sống lại” – bài đọc một. Để cứu con người Con Thiên Chúa phải bước xuống ‘vực tối’ của nó. Nếu Ngài chỉ đứng trên cao, nó sẽ không bao giờ được chạm đến Ngài; nhưng một khi Ngài cúi xuống, Ngài biến vực sâu của nó thành cầu thang dẫn về trời, ban cho nó ơn cứu độ vốn không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong vực tối nhân sinh. “Bóng tối không phải là kết thúc; nó là lòng mẹ sinh ra sự sống mới!” – Richard Rohr. “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!” – Thánh Vịnh đáp ca. Đúng vậy, Thiên Chúa không biểu dương ơn Người cứu độ bằng tiếng sấm trên trời, nhưng bằng thập giá trên đất. Ở nơi tưởng chừng Ngài vắng bóng, Ngài lại hiện diện viên mãn hơn bao giờ hết.

Anh Chị em,

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”. Nếu Giôna đã gặp Chúa trong bụng cá, nếu Đức Kitô đã tỏ mình trong mồ sâu, thì mọi ‘vực tối’ của chúng ta – tội lỗi, cô đơn, thất bại, sợ hãi – đều có thể trở thành ‘vực gặp gỡ’ Thiên Chúa. “Khi ta dám bước vào bóng tối của mình, ta khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã ở đó từ trước!” – Henri Nouwen. Ở đó, Ngài vẫn âm thầm tạo nên ánh sáng như chính Ngài đã làm trong buổi đầu sáng thế. ‘Vực tối’ không kết thúc bằng tuyệt vọng, nếu chúng ta biết phủi bụi và đứng lên. Mỗi lần chúng ta chỗi dậy, mỗi lần bạn và tôi để ánh sáng Chúa chiếu soi, chính là một lần chúng ta bước cao hơn trên con đường phục sinh. ‘Vực tối’ không vắng Chúa, mà chính là nơi Ngài đợi ta!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sợ vực thẳm đời con; cho con tin rằng, nơi tận cùng yếu đuối và tội lỗi của con, tình yêu Ngài vẫn mạnh mẽ hơn mọi đổ vỡ!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Thế hệ gian ác này sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,29-32

29 Khi ấy, dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác ; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. 30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. 31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn ; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. 32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng ; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.”


 

 Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại – 50 Năm Nhìn Lại – Vĩnh Chánh

Kimtrong Lam

BS Vĩnh Chánh

Sau nhiều làn sóng di cư rời khỏi Việt Nam, ngay trước ngày 30 tháng 4, 1975 và tiếp tục về sau, qua các cuộc di tản, vượt biên vượt biển, Đoàn Tụ Gia Đình, Ra Đi Có Trật Tự ODP, Tái Định Cư Nhân Đạo HO, Chào đón Con Lai qua nghị định American Home Coming Act, rồi về sau với di dân hợp pháp, di dân kinh tế…cộng đồng người Việt tỵ nạn CS ở Hải Ngoại lớn dần, mạnh dần, qua những nỗ lực quả quyết từ bàn tay trắng đạt được thành công vượt bực. Họ và các thế hệ tiếp nối đã không ngừng tích cực hội nhập vào xứ sở tạm dung đã cho họ cơ hội, đóng góp tài năng trí tuệ, văn học nghệ thuật, chính trị xã hội trong khi vẫn cố gắng duy trì văn hóa quê hương. Sự lớn mạnh trong 50 năm vừa qua của cộng đồng VN là một trang sử kiêu hùng, là niềm kiêu hãnh của đa số dân chúng từng sống tại Miền Nam Việt Nam, viết lên được ý chí và quyết tâm gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, như tinh thần hiếu học, giáo dục gia đình, tính siêng năng, kỷ luật có trên nhường dưới, tình đoàn kết cộng đồng, tôn trọng lẫn nhau trong xã hội. Bên cạnh, sự dung hòa thiết thực và dễ dàng chấp nhận giữa văn hóa gốc và văn hóa nước tạm dung đã đóng góp phần quan trọng trong hội nhập cho cộng đồng người Việt tại Hải Ngoại.

Trong phạm vi hạn hẹp của hiểu biết, tôi xin chú trọng bài viết nhiều về cộng đồng người Việt tại Mỹ, hơn là với cộng đồng người Việt sống tại các nước Canada, Âu Châu hay Úc Châu. Điều này cũng dễ hiểu khi có đến 2.4 triệu người Việt sống tại Mỹ, so với khoảng 280 ngàn tại Canada, 400 ngàn tại Pháp, 335 ngàn tại Úc, 219 ngàn tại Đức (mà đa số từ Đông Đức qua), vài chục ngàn tại các nước khác như Bỉ, Hà Lan, Anh, Na Uy, Thụy Điển và …

Cho dù hiện tại, người Việt Hải Ngoại theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng cần phải khẳng định căn cước chung của tất cả người Việt rời khỏi Việt Nam là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS. Và ngay từ đầu, chính vì mẫu số chung tỵ nạn CS, có sẵn căn bản tôn tri trật tự của một xã hội nhân bản qua giáo dục từng trân trọng nhân phẩm, tư cách con người, truyền thống gia đình, nên người Việt Hải Ngoại dễ dàng thông cảm, chỉ dẫn cho nhau, giúp nhau tìm nơi ăn chốn ở, rồi chỉ cho nhau bất cứ công việc gì để nuôi sống gia đình, tìm trường lo xây dựng tương lai cho con cháu qua học vấn, mở những cơ sở thương mãi chú trọng vào sở thích hay nhu cầu của đồng hương, tập hợp với nhau thành nhóm nhỏ, hội đồng hương, hội thân hữu đồng môn hay đồng nghiệp – đơn cử Hội Y Sĩ VN tại Canada, Hội đầu tiên có tổ chức bình diện thế giới tự do, mở màn cho các hội chuyên nghiệp có tầm vóc quốc tế về sau – hội đoàn các cựu quân nhân, rồi từ từ mới thành ra được một cộng đồng người Việt Hải Ngoại lớn mạnh theo thời gian. Người Việt thường có khuynh hướng tụ tập sinh sống gần nhau, nên các khu thương mãi, siêu thị, các phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, dược phòng, văn phòng luật sư, cùng các dịch vụ đi kèm, các quán rồi các nhà hàng sang trọng to lớn xuất hiện dần với ẩm thực Việt Nam, trong các khu vực thương mãi xung quanh Little Saigon, Quận Cam, trung tâm thương mãi ở Houston , Dallas, Austin, San Jose; trung tâm Eden và Little Saigon, Arlington, Virginia; ở Montreal,Vancouver, Toronto, Ontario, Alberta; ở Sydney, Melbourne, Perth, Brisbane; quận 13 tại Paris; Cha mẹ lại được khuyến khích cho con học thêm tiếng Việt tại các trung tâm cộng đồng tự nguyện dạy thêm tiếng Việt với mục đích gìn giữ văn hóa cổ truyền và ngôn ngữ Việt …

Năm qua năm, cộng đồng người Việt lớn dần, mạnh dần, thế hệ thứ nhất ổn định, an cư lạc nghiệp. Họ đã sống qua những cố gắng phi thường, chịu khó chịu khổ, cần cù xây dựng học hỏi; những trái ngang trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, vì buồn tủi của kiếp tha hương, vì bao vấn nạn cam go trong mưu sinh, cùng với mất mát bỏ lại trên quê hương hay trên biển cả, những vết sẹo trên cơ thể, kể luôn cả chấn thương tâm lý không chảy máu… đã và đang từ từ dịu dần, nhường lại cho sự phấn chấn và biết ơn đất nước đón nhận mình, liên tục cho mình cùng gia đình và cộng đồng mình nhiều cơ hội vươn lên, hội nhập vào vườn hoa muôn sắc muôn màu, đa văn hóa, đa chủng tộc. Sau 50 năm, cây xương rồng nở hoa, cây trái cho hoa quả ngọt ngào; cứ thế, thế hệ thứ 2 và thứ 3 hội nhập mạnh mẽ vào xã hội nước sở tại. Không thiếu những thành công vượt bực, những thành đạt đáng ngưỡng mộ của các thế hệ thứ nhất, thứ hai rồi thứ ba trong cộng đồng VN tại Hải Ngoại, là niềm hãnh diện chung, không những của cộng đồng người Việt chúng ta, mà còn là sự trân trọng của chính quyền nước sở tại. Trong mọi ngành nghề. Từ hệ thống chính trị cấp liên bang, tiểu bang đến các quận hạt địa phương, từ hệ thống quân đội, giáo dục, kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, nhân văn xã hội, trong thương trường, báo chí, văn học nghệ thuật, kỹ nghệ giải trí, ca nhạc điện ảnh, thể dục thể thao… đâu đâu cũng có những tên tuổi Việt Nam, đâu đâu cũng có đề tài thành công của người Việt chia sẻ với người Việt để tạo thêm niềm tin cho nhau

Với sự kém hiểu biết, với trí nhớ kém dần, và khuôn khổ của bài viết, tôi biết mình sót tên của vô số nhân vật đồng hương có công đóng góp cho sự tiến mạnh của cộng đồng người Việt. Mong quý vị thông cảm.

Dưới đây là danh sách cắt ngắn của một số những danh nhân trong các lãnh vực nói trên:

*** Các chính trị gia, các quan chức trong chính phủ liên bang:

*Đinh Đồng Phụng Việt. Cựu thứ trưởng Tư Pháp nội các Tổng thống 43 George W. Bush, tác giả của Patriot Act năm 2001, giáo sư Luật Khoa ĐH. Georgetown

*Hùng Cao, được hành pháp đề nghị vào chức vụ thứ trưởng Bộ Hải Quân, đang chờ Thượng Viện chuẩn y.

*Joseph Cao, cựu dân biểu liên bang của TB Louisiana.

*Derek Trần, dân biểu liên bang, địa hạt 45th, tiểu bang California.

*Stephanie Murphy, cựu dân biểu liên bang địa hạt 7, tiểu bang Florida

*Đạt Trần, quyền bộ trưởng Bộ Cựu Chiến Binh, tháng 1, 2020- tháng 2, 2021.

*Tony Phạm, Phụ tá bộ trưởng Bộ Home Land Security, và từng là quyền giám đốc US Immigration & Customs Enforcement.

*Giao Phan, giám đốc điều hành NAVSEA, đồng chức với một đô đốc 3 sao của Hải Quân Hoa Kỳ, điều khiển 85 ngàn người, vừa quân sự vừa dân chính, trách nhiệm nghiên cứu, phát triển, mua sắm, bảo trì, thiết kế những tàu chiến, từ nhỏ cho đến lớn như các hàng không mẫu hạm cho Hải Quân Hoa Kỳ.

* Joe Nguyễn, thượng nghị sĩ TB Washington.

*Jacqueline Nguyễn, Thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Washington DC..

*Miranda Mai Du, thẩm phán tòa án liên bang vùng Nevada.

* Michele Ginda, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao về Public Diplomacy + Public Affairs.

*Danny Lam Nguyễn, thẩm phán tòa án Tối Cao của District of Columbia.

*J. Peter Phan, đại sứ gốc Việt đầu tiên, cho vùng Sahel Region của Africa.

*Dương Như Nguyện, thẩm phán Mỹ gốc Việt đầu tiên, Houston,Texas, cựu GS. Luật ĐH Denver.

*Nguyễn Lâm Kim Oanh, GS TS. Giáo Dục, nguyên giám đốc chương trình Ngôn Ngữ/hệ thống ĐH TB CA, rồi giám đốc Nha Ngoại Ngữ và giáo dục Quốc Tế Liên Bang, và cố vấn cao cấp cho tòa Bạch Cung về liên hệ đến người Á Châu. Hiện tại bà đang giữ chức GS Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Cao Cấp tại Hoa Thịnh Đốn.

*Đinh Hân, giám đốc kỹ thuật và giao thông của Tổng Nha Bưu Điện Hoa Kỳ, người đưa ra và hoàn tất hệ thống xe thư chạy bằng điện, giải thưởng Giao Thông cao quý của Tổng Thống George W. Bush. Ts. Hân là em trai của Bs. Quân Y Nhảy Dù Đinh Hà.

*Phan Quang Tuệ, thẩm phán Tòa Di Trú liên bang ở San Francisco. Ông là con trai của Phó Thủ Tướng Phan Quang Đán.

*Nguyễn Trọng Nho, cựu thẩm phán tòa án Thượng Thẩm, quận Cam, California.

*Bs. Philipp Roesler, nguyên là 1 bác sĩ ngành giải phẫu lồng ngực, là phó thủ tướng kiêm bộ trưởng kinh tế của nước Đức khi ở tuổi 38.

*Ngô Thanh Hải, Thượng nghị sĩ liên bang, Canada.

*Hoàng Mai, dân biểu liên bang vùng Montreal, Canada.

*Hiến Văn Lê, Thống Đốc của South Australia.

*Tại thành phố Brimbank với khoảng 2 trăm ngàn dân, cách Melbourne chừng mười cây số, năm 2024, có đến 4 nghị viên thành phố là người Việt trên 11 nghị viên, lại toàn là phụ nữ. Như sau: Kim Thiên Trương, Thùy Đăng (mới 25 tuổi nhưng giữ chức thị trưởng), Lucy Nguyễn và Duyên Anh Phạm.

***Các chính trị gia, thị trưởng của các quận hạt địa phương và của tiểu bang, như:

Tony Lâm, thị trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên của thị xã Westminster, Quận Cam, Janet Nguyễn, Thượng Nghị Sĩ (TB CA), Văn Trần, Dân biểu (TB CA); Hubert Võ (dân biểu TB. Texas), Hoan Hùng (dân biểu TB. Illinois), Hoàn Nguyễn (dân biểu TB. Utah), John Trần (thị trưởng Rosemead, CA), Bao Nguyễn (thị trưởng Garden Grove, CA), Helen Trần (thị trưởng San Bernardino, CA), Michael Vu (thị trưởng Fountain Valley, CA), Richard Trần (thị trưởng Milpitas, CA), Andrew Võ (supervisor của OC, CA)…

*** Các tướng lãnh trong quân đội Hoa Kỳ

*Thiếu tướng Lương Xuân Việt.

*Thiếu tướng LapThe Chau Flora, Vệ Binh Quốc Gia

*Thiếu tướng William H. Seedy, TQLC

*Phó Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn, mà toàn gia đình ông bị VC thảm sát trong Mậu Thân 1968.

*Chuẩn Tướng Danielle Ngô, Công Binh

* Phó Đề Đốc Vũ Thế Thùy Anh, Dịch vụ Y tế Công Cộng, Hải Quân

* Chuẩn Tướng John R. Adwards, Không Quân

Tính cho đến tháng 9, 2024 có trên 105 sĩ quan Cấp Đại Tá, cả nam lẫn nữ, trong các quân binh chủng phục vụ trong Quân Đội Hoa Kỳ. Không tính 57 vị đã hồi hưu. Mà trong đó Y Sĩ Đại Tá Nguyễn Dương, tốt nghiệp YK Saigon trước 1975, từng là y sĩ trưởng một sư đoàn Thiết Giáp trong trận chiến Desert Storm tại Iraq; và có 2 chị em đều là Đại Tá Quân Y: Y Sĩ Đại Tá Mylene Trần Huỳnh (Không Quân), và Y Sĩ Đại Tá Appolo Trần (Bộ Binh), là con gái và con trai của vợ chồng Bs. Trần Đoàn (RIP, bác sĩ Quân Y Nhảy Dù VNCH) và Dược sĩ Phan Thị Nhơn, VA, Hoa Kỳ. Tại Pháp, còn có Đại Tá Trần Đình Vị. Ông gia nhập Quân Đội Pháp sau khi rời VN 1975 với cấp bậc Thiếu Tá Quân Lực VNCH, và hồi hưu với cấp bậc Đại Tá của Quân Đội Pháp. Tại New Zealand, có Bs. Nguyễn Quang Giao, nguyên Y Sĩ Thiếu Tá VNCH, nay là Phó Giám Đốc Nha Quân Y của Tân Tây Lan.

*** Nghiên cứu, Khoa Học, Giáo Dục:

Về nghiên cứu, nhiều nhà khoa học người Việt đang làm việc tại các trường đại học và viện nghiên cứu uy tín tại Mỹ. Họ tham gia vào các nghiên cứu khoa học tiên tiến trong các lĩnh vực như khoa học máy tính, kỹ thuật điện, vật liệu, và y sinh học, tạo ra những đột phá và phát minh mới.

Trong giáo dục, nhiều người Việt Nam đang giảng dạy tại các trường đại học và cao đẳng ở Mỹ. Họ truyền đạt kiến thức và kỹ năng cho thế hệ tương lai, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghệ cao, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành này.

Sau đây là danh sách ngắn của các khoa học gia, các giáo sư cùng các nghiên cứu gia tên tuổi:

*Eugene Trinh Trịnh Hữu Châu, tiến sĩ Vật Lý đại học Princeton, chuyên về Vật Liệu Học (Material Sciences), trước đó học ở CalTech, là phi hành gia NASA gốc Việt đầu tiên bay vào không gian với chuyến bay STS-50 (Columbia Space Shuttle). Ông là nhân viên cao cấp và trọng yếu của cơ quan hàng không và không gian quốc gia tại Washington DC và Jet Propulsion Lab, Pasadena California, giáo sư đại học California Institute of Technology (CalTech).

*Nguyễn Xuân Vinh, tiến sĩ Toán Học (Pháp), tiến sĩ Hàng Không Không Gian đại học Colorado, những nghiên cứu của ông tác động hữu hiệu trong việc sắp đặt quỹ đạo cho phi thuyền (optimization). Ông được giải thưởng Dirk Brouwer vinh danh những thành tựu trong chuyên môn về hàng không, không gian. Ông đã là Đại Tá cựu tư lệnh không quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cuốn sách “Đời Phi Công” với bút hiệu Toàn Phong đã là động lực cho rất nhiều thanh niên gia nhập không quân. Ông là giáo sư Emeritus ĐH Michigan.

*Trịnh Xuân Thuận, tiến sĩ Vật Lý Thiên Văn đại học Princeton, trước đó theo học CalTech, nổi tiếng không những trong chuyên môn Vật Lý Thiên Văn (Astrophysics), mà còn trong văn học, diễn giải những kiến thức chuyên môn qua văn chương, được UNESCO vinh danh, đoạt giải thưởng Prix Mondial Cino Del Duca, có huân chương Chevalier của Pháp. Nghiên cứu về tiến hóa các ngân hà, và hình thành sao, góp phần vào hiểu biết vũ trụ. Hiện tại, ông là GS ĐH Virginia.

*Ngô Bảo Châu, tiến sĩ Toán Học Université de Paris, trước đó Ecole Normal Superieure. Ông lãnh giải thưởng Field Medal, được coi như cao nhất về Toán Học, được tuần báo Time vinh danh, được giải MacCarthur Fellows Program ($800,000 tổng cộng trong 5 năm, phát 3 tháng một lần) cho những công trình nghiên cứu tự ý chọn lựa. Giáo sư môn Toán Học đại học Chicago.

*Jane Lưu Lệ Hằng, tiến sĩ Vật Lý Thiên Văn MIT, trước học Stanford, có thực tập tại Jet Propulsion Lab của NASA, có tên trên bản đồ Thiên Văn với Asteroid 5430LUU, đánh dấu sự dầy công nghiên cứu về vòng đai Kuiper ở ngoài cùng của Thái Dương Hệ (Solar System). Có thêm giải thiên văn cao quý Kavli Prize. Đã là giáo sư của MIT và đại học Leiden (Hòa Lan), hiện là khoa học gia trong Lincoln Lab của MIT, 1 trong 5 trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu của Hoa Kỳ.

* Lê Duy Loan, kỹ sư tốt nghiệp đại học Austin, Texas, senior Vice President gốc Việt đầu tiên của ngành kỹ thuật và quản trị của Texas Instruments. Được mời nói chuyện về quản trị và lãnh đạo tại các đại học danh tiếng như Westpoint Academy của quân đội Hoa Kỳ, giúp cho nhiều sinh viên xuất sắc theo học các đại học hàng đầu của Mỹ.

*Nguyễn Cường Charles, tiến sĩ điện tử đại học George Washington, DC, trước học ở Konstanz, Đức Quốc. Khoa trưởng gốc Việt đầu tiên ở một đại học có tầm vóc quốc gia (Catholic University of America), trong vòng 16 năm đã đưa vị trí của phân khoa kỹ sư (school of engineering) của trường này lên nhiều bậc cao hơn, có những nghiên cứu về tự động hoá (robotics) với Goddard Space Flight Center NASA, đại học này đã thiết lập giải thưởng Dean Charles Cuong Nguyen Leadership Award, phát thường niên cho các sinh viên ngành kỹ sư, ngoài ra ông là chủ bút nhiều tập san chuyên môn về tự động hóa (Automation). Hiện là dean emeritus.

*Võ Đình Tuấn, tiến sĩ học viện kỹ thuật Zuerich (Thụy Sĩ), trước đó Ecole Polytechnique Lausanne. Ông chuyên khoa về Photonics, sự chuyển động, tuần hoàn, vận hành của ánh sáng (physical science of light).Ông được xếp hạng là nhân vật số 43 trong 100 nhân tài xuất chúng trong khoa học. Ông được bầu vào hàn lâm viện khoa học các sáng chế gia (National Academy of Inventors). Là giáo sư của đại học Duke trong khu Research Triangle ở tiểu bang North Carolina, một trung tâm tập trung nhiều cơ sở khoa học hàng đầu của Mỹ.

*Thục Quyên Nguyễn, TS. GS Hóa Học của UC Santa Barbara. Bà ở trong danh sách top 1% các khoa học gia có ảnh hưởng lớn nhất đến thế giới.

*Đàm Thanh Sơn, tiến sĩ Vật Lý Học Viện Nghiên Cứu Nguyên Tử (Institute for Nuclear Research, Moscow, Russia), ông là vật lý lý thuyết (theoretical physicist) xuất sắc, được bầu vào hàn lâm viện quốc gia về khoa học (National Academy of Sciences), được đại học Chicago phong danh hiệu hiếm hoi là university professor (cho tới giờ chỉ có khoảng 30 người được đại học này phong), được giải MacCarthur Fellows Program ($800,000 tổng cộng trong 5 năm, phát 3 tháng một lần) cho những công trình nghiên cứu tự ý chọn lựa. Giáo sư môn Vật Lý đại học Chicago.

*Trương Công Hiếu, kỹ sư, Canada, phát mình cách in màu trên tiền đúc bằng kim loại, giải thưởng của Nữ Hoàng Anh.

*Đỗ Đức Cường, chuyên viên cao cấp ngân hàng Mỹ, được biết đến như là cha đẻ của máy ATM.

*Dương Nguyệt Ánh, khoa học gia trách nhiệm phát triển vũ khí Thermobaric cho Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Một phụ nữ chiếm nhiều cảm tình của người Việt hải ngoại.

*Võ Tá Hân. Tốt nghiệp MIT. Ngân hàng gia quốc tế (Bank of Montreal, Singapore Finance, UBS), CEO (Tập đoàn công ty bất động sản, khách sạn, kỹ nghệ Hong Leong Singapore) Thành viên Board of Trustees (Đại học Quản lý Singapore) & Board of Directors (Singapore Arts House – Bộ Văn Hóa Singapore). Sống và làm việc ở Á châu hơn 30 năm. Được xem như một trong những nhân vật ngoại quốc quan trọng đã giúp đảo quốc Singapore phát triển mạnh về kinh tế. Sáng lập MIT Club of Singapore và Singapore Classical Guitar Society. Khi về hưu tại Nam Cali. là CEO của Trung Tâm Y Tế Nhân Hoà, đưa Trung Tâm đạt tiêu chuẩn liên bang và thành lập chương trình MD100 giúp 100 sinh viên Mỹ gốc Việt vào trường Y. Ông còn được biết đến như một nhạc sĩ với những nhạc phẩm về Huế và về đạo Phật rất nổi tiếng. Từ nhiều năm qua, ông mở lớp dạy guitar cho những người cao niên.

*Nguyễn Sơn Bình, GS. TS Hóa Học tốt nghiệp Ca. Tech, và giảng dạy tại ĐH Northwestern. Có 30 bằng sáng chế trong nhiều lãnh vực và nhiều giải thưởng cao quý của National Science Foundation Career.

*Mya Lê Thái, nữ TS UC Irvine với phát minh loại pin Nanobattery, có thể xử dụng đến 400 năm.

*Nguyễn Trọng Hiền, TS từ Princeton, trong lãnh vực nghiên cứu bức xạ nền vũ trụ. Khi làm việc cho NASA, ông có nhiều đóng góp lớn vào nghiên cứu Nam Cực.

*Vũ Thành Long, Định cư tại Mỹ năm 1980, lấy xong 2 bằng cử nhân cơ khí & kỹ thuật hàng không không gian, tiếp tục tốt nghiệp tiến sĩ. Một thành viên fellow cao cấp của cơ quan NASA.

*Nguyễn Viết Kim, du học Đức Quốc từ thập niên 60, định cư về sau tại Mỹ và tốt nghiệp Tiến Sĩ. Phục vụ NASA và NSA (National Security Agency) cho đến khi hồi hưu. Đáng ngưỡng mộ hơn nữa ông từng là một con người khiêm nhượng và từng là gà trống nuôi 3 con thành đạt.

* Amanda Nguyễn, người phụ nữ trong năm 2022 của tuần báo Time. Một hoạt động viên cho nhân quyền và là phi hành gia trong chuyến bay tiểu quỹ đạo (sub orbital) Blue Origin NS-31 của ông Jeff Bezos, vào ngày 14 tháng 4, 2025, cùng với 5 phụ nữ khác.

*Kelly Nguyễn, nữ TS Hóa Học, Đại Học Australia, vinh danh và nhận nhiều giải thưởng qua nghiên cứu làm chậm tiến trình Lão Hóa.

*Nguyễn Cẩm Vân: tốt nghiệp hạng nhì Naval Academy, bác sĩ y khoa, ĐH Stanford, BS. phi hành ở Pensacola, chuyên khoa ĐH. Pennsylvania. Phục vụ tại tổng y viện Walter Reed và trường đại học quân y quân lực Hoa Kỳ. Cấp bậc HQ Đại Tá (Navy Captain).

*Lê Tự Quốc Thắng, tiến sĩ Toán. Từng đạt huy chương vàng Olympic toán học quốc tế (IMO) lần thứ 23 tại Budapest, năm 1982, với số điểm tuyệt đối 42/42. Cựu học sinh trường Quốc Học Huế. Hiện là GS Học Viện Công Nghệ TB Georgia.

*Ông Huy, GS Emeritus, Khoa trưởng Dược Khoa, Đại Học Montreal, Canada. Ông Huy là con rể của GS YK Nguyễn Hữu, YK Saigon.

*Bùi Tiến Đài, GS TS Điện Toán và Phần Mềm, Khoa trưởng Đại Học Concordia, Montreal, Canada

*Nguyễn Hữu Trâm Anh, Bs. gây mê, là trưởng ban gây mê cho cuộc ghép mặt người đầu tiên trên thế giới. Bs. Trâm Anh còn là chủ tịch Hội Y Sĩ VN tại Canada.

*Bs. Võ Văn Cầu, tốt nghiệp 1968 ĐH YK Huế, là Chủ Tịch và sáng lập viên của United Care Medical Group, một HMO nổi tiếng tại Orange County, CA, xử dụng trên 200 bác sĩ gia đình và hơn 300 bác sĩ chuyên môn gồm đủ mọi ngành. Bs. Cầu là một khuôn mặt lớn trong cộng đồng VN tại Quân Cam và là người đóng góp thường xuyên cho các công tác xã hội thiện nguyện.

*Bs. Nguyễn Ngọc Thạch, thành viên Hội YK Huế Hải Ngoại, thành viên của ban chấp hành của American College of Cardiology, của hội American Heart Association, fellow của Society of Cardiovascular Angiography & Intervention, và của Advanced International Cardiology, từng là thuyết trình viên quốc tế về Tim Mạch, khoa trưởng ĐH YK Tân Tạo, VN. Tác giả của Practical Hand book of Advanced Interventional Cardiology, đứng hàng thứ 3 được mua trên online, và sách được dịch qua tiếng Tàu và tiếng Việt.

Vĩnh Chánh

 


 

TIN MỪNG Y KHOA THẾ GIỚI : THUỐC TRỊ UNG THƯ “THẦN KỲ” -2

TIN MỪNG Y KHOA THẾ GIỚI : THUỐC TRỊ UNG THƯ “THẦN KỲ” -2

 Trong một thử nghiệm thuốc gây sốc, ung thư biến mất ở tất cả các bệnh nhân tham gia.

Trong một bước ngoặt đáng kinh ngạc từ Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering ở Manhattan, một thử nghiệm thuốc mới đã đạt được điều mà nhiều người trong cộng đồng y tế gọi là kỳ tích y học : Ung thư biến mất hoàn toàn ở tất cả các bệnh nhân tham gia. Thử nghiệm nhỏ nhưng chưa từng có này đã tạo ra một làn sóng lạc quan và sự tò mò trên toàn cầu, khi thuốc dostarlimab cho thấy tiềm năng có thể định nghĩa lại các tiêu chuẩn điều trị ung thư. Điều này có ý nghĩa gì đối với tương lai của ung thư học và những bệnh nhân đối mặt với căn bệnh tàn phá này

 Tóm tắt thử nghiệm

Trong một diễn biến bất ngờ, một thử nghiệm thuốc tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering danh tiếng đã khiến cả giới y học xôn xao. Thử nghiệm này tập trung vào dostarlimab, một loại thuốc ức chế điểm kiểm soát mới, và liên quan đến một nhóm nhỏ bệnh nhân ung thư trực tràng. Đáng chú ý, mỗi bệnh nhân đều đạt được sự thuyên giảm hoàn toàn—một hiện tượng hiếm hoi trong lĩnh vực ung thư học.

Nghiên cứu này nhỏ nhưng được lập kế hoạch tỉ mỉ, chỉ có 12 bệnh nhân bị ung thư trực tràng tiến triển tại chỗ. Những bệnh nhân này được chọn lọc dựa trên các tiêu chí cụ thể có khả năng đáp ứng với phương pháp điều trị mới, căn cứ vào mức độ và vị trí của ung thư.

Dostarlimab được tiêm mỗi ba tuần trong suốt sáu tháng. Phác đồ này được thiết kế để thử nghiệm hiệu quả của thuốc trong việc “lột mặt nạ” tế bào ung thư, giúp hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt chúng. 

Hiệu quả điều trị được đánh giá nghiêm ngặt bằng cách sử dụng một kết hợp các xét nghiệm thể chất, nội soi, chụp cắt lớp positron (PET) và cộng hưởng từ (MRI). Kết quả thống nhất—khối u hoàn toàn biến mất—đã gây sốc và khiến đội ngũ y tế cùng cộng đồng ung thư học vô cùng phấn khích. 

        Trải nghiệm của bệnh nhân

Trước khi tham gia thử nghiệm, nhiều bệnh nhân đã phải trải qua các phương pháp điều trị tốn kém và mệt mỏi, bao gồm hóa trị và xạ trị, không chỉ không loại bỏ được ung thư mà còn làm gia tăng đau đớn với các tác dụng phụ nghiêm trọng. “Bệnh nhân gần như đã từ bỏ hy vọng sau khi không thể hồi phục sau các đợt hóa trị và xạ trị khắc nghiệt”, Tiến sĩ Andrea Cercek, bác sĩ ung thư tại Memorial Sloan Kettering và là đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết. Một số bệnh nhân thậm chí còn đối mặt với khả năng phải trải qua các ca phẫu thuật “thay đổi cả cuộc đời”, có thể dẫn đến những thay đổi vĩnh viễn trong chức năng cơ thể.

Tuy nhiên, khi được tiêm dostarlimab, mọi thứ đã thay đổi. Các bệnh nhân ngỡ ngàng khi được thông báo rằng các khối u của họ đã biến mất và không cần phải tiếp tục các phương pháp điều trị xâm lấn. Tiến sĩ Cercek nhớ lại khoảnh khắc tiết lộ này, miêu tả đó là thời điểm “nước mắt vui mừng”. Tác động tình cảm của tin tức này không thể xem nhẹ, vì nó không chỉ là sự giải thoát về thể chất mà còn là một sự thay đổi lớn trong tâm lý và tinh thần của bệnh nhân.

Các bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ để phát hiện dấu hiệu tái phát thông qua các lần tái khám định kỳ với các kỹ thuật hình ảnh tiên tiến. Đáng kinh ngạc, không có dấu hiệu ung thư quay lại sau 25 tháng kể từ khi kết thúc thử nghiệm. Sự thuyên giảm kéo dài này mang lại một cảm giác nhẹ nhõm sâu sắc và một cái nhìn lạc quan thận trọng về tương lai.

Một bệnh nhân chia sẻ về trải nghiệm của mình : “Không mong đợi các khối u ung thư của mình sẽ biến mất, họ đã đồng ý tham gia thử nghiệm dostarlimab. Nhưng thật bất ngờ, họ được thông báo sẽ không phải tiếp tục các đợt hóa trị và xạ trị đau đớn nữa, và cũng không cần phải trải qua phẫu thuat

 Cơ chế hoạt động của Dostarlimab

Dostarlimab đại diện cho một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực ung thư học, đặc biệt là trong lĩnh vực liệu pháp miễn dịch. Là một chất ức chế điểm kiểm soát, cơ chế của thuốc nhắm vào khả năng của hệ miễn dịch nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư, một quá trình thường bị cản trở bởi chính các tế bào ung thư.

Tế bào ung thư có khả năng xảo quyệt để ẩn mình khỏi hệ miễn dịch bằng cách lợi dụng một số protein đóng vai trò như các điểm kiểm soát. Những điểm kiểm soát này thường được cơ thể sử dụng để ngăn hệ miễn dịch tấn công các tế bào của chính mình. Tuy nhiên, dostarlimab hoạt động bằng cách chặn các protein điểm kiểm soát này, qua đó loại bỏ “áo choàng vô hình” mà tế bào ung thư sử dụng để che chắn mình khỏi sự tấn công của hệ miễn dịch. Hành động này cho phép các tế bào T, “sát thủ tự nhiên” của cơ thể, nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư.

Các thuốc ức chế điểm kiểm soát như dostarlimab là một phần của nhóm thuốc rộng lớn đã cách mạng hóa điều trị ung thư trong những năm gần đây. Chúng đặc biệt hiệu quả đối với các loại ung thư có tỷ lệ đột biến cao, khiến chúng dễ dàng bị hệ miễn dịch nhận diện khi các điểm kiểm soát bị ức chế. Dostarlimab nhắm vào con đường PD-1/PD-L1, một yếu tố quan trọng trong chiến lược lẩn trốn hệ miễn dịch của nhiều khối u.

Trong thử nghiệm tại Memorial Sloan Kettering, dostarlimab được tiêm mỗi ba tuần trong sáu tháng, và phác đồ này đã chứng tỏ hiệu quả rõ rệt mà không có các tác dụng phụ nghiêm trọng thường gặp với các phương pháp điều trị ung thư thông thường như hóa trị. “Các thuốc này, được gọi là “chất ức chế điểm kiểm soát”, thường có phản ứng phụ ở 20% bệnh nhân điều trị. Gần 60% bệnh nhân gặp các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm yếu cơ. Tuy nhiên, không có phản ứng tiêu cực nào được ghi nhận ở các bệnh nhân tham gia nghiên cứu dostarlimab, báo cáo nghiên cứu nêu rõ.

Hồ sơ an toàn thuận lợi này, kết hợp với hiệu quả của thuốc trong việc tạo ra phản ứng hoàn toàn ở các bệnh nhân thử nghiệm, cho thấy tiềm năng của dostarlimab không chỉ trong điều trị ung thư trực tràng mà có thể mở rộng sang các loại ung thư khác có các dấu hiệu sinh học tương tự.

                     Kết quả chưa từng có

Truyền thống, phương pháp điều trị ung thư chủ yếu bao gồm sự kết hợp giữa phẫu thuật, hóa trị và xạ trị. Các phương pháp này, mặc dù hiệu quả đối với nhiều người, nhưng thường đi kèm với các tác dụng phụ tàn phá và ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. 

Sự thuyên giảm hoàn toàn ung thư ở tất cả các bệnh nhân tham gia thử nghiệm với dostarlimab gợi ý một sự chuyển mình hướng tới các phương pháp điều trị ít xâm lấn hơn. Điều này có thể có nghĩa là ít phẫu thuật hơn và giảm sự phụ thuộc vào các phương pháp hóa trị và xạ trị khắc nghiệt, đặc biệt đối với những ung thư có thể điều trị bằng liệu pháp miễn dịch.

Thử nghiệm này nhấn mạnh tầm quan trọng của y học cá thể hóa trong điều trị ung thư. Bằng cách nhắm vào các dấu hiệu di truyền và con đường sinh học cụ thể, các phương pháp điều trị như dostarlimab có thể được điều chỉnh cho phù hợp với từng bệnh nhân, tăng cường hiệu quả và giảm thiểu tác dụng phụ không mong muốn. Cách tiếp cận này đặc biệt hứa hẹn đối với các loại ung thư vốn khó điều trị bằng các phương pháp truyền thống. Khi nghiên cứu di truyền và dấu hiệu sinh học tiến bộ, liệu pháp miễn dịch cá thể hóa có thể trở thành chuẩn mực thay vì ngoại lệ.

                                  KẾT LUẬN 

  Một bình minh mới trong chăm sóc ung thư

Kết quả thành công của thử nghiệm dostarlimab tại Memorial Sloan Kettering không chỉ là một bước đột phá y học ; nó còn báo hiệu một sự thay đổi lớn trong cách chúng ta tiếp cận và điều trị ung thư. Thử nghiệm này không chỉ chứng tỏ thành công chưa từng có trong việc tiêu diệt ung thư ở tất cả các bệnh nhân tham gia mà còn làm nổi bật khả năng vô cùng to lớn mà khoa học hiện đại có thể mang lại trong việc thay đổi cuộc đời của những người mắc phải căn bệnh này. 

Nhìn về tương lai, điều quan trọng là tiếp tục hỗ trợ nghiên cứu nghiêm ngặt để xác thực và mở rộng những phát hiện này. Cũng cần xây dựng một môi trường chăm sóc sức khỏe khuyến khích tiếp cận công bằng đối với các liệu pháp cứu sống này, đảm bảo tất cả bệnh nhân, bất kể hoàn cảnh kinh tế hay địa lý, đều có thể hưởng lợi từ những tiến bộ mới nhất trong khoa học y tế.

Lời hứa hẹn từ dostarlimab là một tia hy vọng—không chỉ cho những người đang chiến đấu với ung thư ngày hôm nay mà còn cho các thế hệ tương lai có thể phải đối mặt với căn bệnh này 

https://spiritsciencecentral.com/in-a-shocking-drug-trial-cancer-vanishes-in-all-participating-patients/?fbclid=IwY2xjawIWcPVleHRuA2FlbQIxMQABHf9vT2t7UNsVw75rI0jqyuB8JkPUHWQwrPhZiWnBnP9pR0RoQImrv9e2aQ_aem_1Hlfe5UuZi1qnlYRH7snmQ

Theo Fb Chau Doan

 From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

LÒNG NHÂN LÀNH CỦA ĐỨC MẸ FATIMA – Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 Tôi – phụ nữ Đức – kết hôn với một tín hữu Công Giáo Bồ Đào Nha.  Sau khi hiền phu qua đời, bà con bên chồng mời tôi mang đứa con gái nhỏ 5 tuổi, trở về Bồ Đào Nha, để cô bé học biết ngôn ngữ của thân phụ.  Tôi hân hoan chấp nhận lời mời.

Tại quê chồng, tôi được gia đình tử tước De Caleiro tiếp đón nồng hậu trong dinh thự ở Donro.  Bà chị họ chồng tôi có 4 đứa con – tuổi tác suýt soát con gái nhỏ tôi – nên cô bé học tiếng Bồ rất nhanh, nhờ chơi đùa với mấy anh chị em họ.  Nhưng cuộc sống êm đềm tốt đẹp không kéo dài lâu.  Bệnh đậu lào đổ ập trên vùng, gieo chết chóc trong các gia đình.

Dinh thự gia đình chúng tôi xem ra an toàn cho đến ngày đứa con gái nhỏ của tôi mắc chứng bệnh khủng khiếp ấy.  Chúng tôi tức tốc dời cô bé đến căn phòng biệt lập gần nhà nguyện của dinh thự.  Không thể nào tìm ra y tá, vì ai ai cũng sợ lây phải chứng bệnh hiểm nghèo!  Tôi đành một mình săn sóc cho con, túc trực ngày đêm bên giường con.  Nhờ ơn THIÊN CHÚA, tôi không ngã bệnh.  Con bé mỗi ngày một kiệt sức.  Bằng mọi cách, tôi phải cứu sống con.  Tôi cho mời một bác sĩ trẻ tuổi nhưng nổi tiếng người Pháp, từ thủ đô Paris đến.

Bà chị họ nói với tôi là chị cùng mấy đứa con làm tuần chín ngày kính Đức Mẹ Fatima, xin Đức Mẹ MARIA cứu sống con bé.  Chị mời tôi cùng hiệp ý với gia đình chị.  Tôi không tin mà cũng không hề để ý đến Đức Mẹ Fatima, nhưng tôi chấp nhận đề nghị và bằng lòng làm tuần chín ngày nơi nhà nguyện cạnh phòng con tôi.  Trong khi đó thì sức khoẻ của con bé bước vào tình trạng vô cùng tuyệt vọng.  Các ngón tay đã tím xanh.  Con bé không ăn uống gì và nằm im bất động.  Cả hai bác sĩ chữa chạy cho cô bé cũng bó tay và khuyên tôi chuẩn bị đón nhận một thử thách nặng nề.  Trước khi từ biệt, cả hai vị hứa sẽ trở lại sáng hôm sau, nhưng không chắc cô bé có qua khỏi đêm nay không!

Quý vị có thể đoán được tâm tình rối loạn của tôi khi nghe câu tuyên bố này!  Tôi đã mất một người chồng yêu dấu, một người chồng có quả tim vàng!  Giờ đây đứa con gái duy nhất – bảo ảnh, bảo chứng tình yêu của chồng – đang lâm nguy!  Trong cơn tuyệt vọng, tôi liền chạy đến nhà nguyện.  Bấy giờ là mùa đông.  Tôi quỳ sụp xuống và tha thiết kêu xin Đức Mẹ MARIA cứu đứa con gái nhỏ.  Tôi hứa với Đức Mẹ là nếu con bé khỏi bệnh, tôi sẽ dâng hiến con cho Đức Mẹ và sẽ đi hành hương về đồi Cova-da-Ira, nơi Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn chiên làng Fatima.  Tôi ở lại nhà nguyện thật lâu, không biết mấy tiếng đồng hồ, cho đến khi toàn thân rã rời thấm lạnh, tôi mới rời nhà nguyện.

 Tôi trở về phòng của con.  Vừa mở cửa phòng, tôi ngạc nhiên thấy con bé đang nhảy nhót trên giường.  Con bé nói:

– Má đi đâu mà lâu dữ vậy?  Con đói quá, Má cho con cái gì để ăn đi!

Tôi tìm cách đặt con bé nằm xuống, bụng nghĩ thầm:

– Con bé gần chết nên nói sảng đây!

Nhưng con bé tiếp tục nói:

– Con lành bệnh rồi!  “Mẹ THIÊN CHÚA Fatima” bảo con như thế!

Sáng hôm sau, tôi nhờ bà chị họ mời hai bác sĩ đến.  Vừa trông thấy họ, Margarida – tên con gái tôi – vui vẻ chào hai người, đặc biệt, cô bé nói với vị bác sĩ của gia đình:

– Bây giờ Bác nhớ cho cháu con búp bê mà Bác hứa, nếu cháu lành bệnh.  Cháu muốn đi chơi với mấy anh chị em họ của cháu.  Cháu khỏi bệnh rồi.  “Mẹ THIÊN CHÚA Fatima” nói với cháu như thế, khi Má cháu bỏ cháu một mình trong phòng.

Vị bác sĩ già nghiêm khắc nhìn tôi và nói:

– Bà phải nói thật bà đã làm gì cho con bé đêm vừa rồi?  Bà mời một tên phù thủy đến chữa bệnh phải không?

Nghe thế, tôi nổi giận hét lớn:

– Sao bác sĩ lại có tư tưởng lạ kỳ đối với một người Đức như tôi?  Những người Bồ Đào Nha đồng hương của bác sĩ, có bao giờ ngây thơ đến độ đi cầu cứu với các tên phù thủy không?  Hẳn là không, phải không?

Vị bác sĩ lão thành lắc đầu nói:

– Con của bà hấp hối, giờ đây bỗng dưng trở lại bình thường.  Một sự kiện không thể giải thích theo khoa học!

Nghe thế, tôi kể lại tất cả những gì xảy ra trong đêm vừa qua.  Nghe xong, vị bác sĩ già, quỳ sụp xuống, vừa khóc vừa nói:

– Một phép lạ cả thể đã xảy ra.  Chúng ta hãy cùng dâng lên Đức Mẹ Fatima lòng biết ơn sâu xa của chúng ta!

… “Đức Chúa là Vua, là Đấng cứu chuộc Israel, và là Đức Chúa các đạo binh, Người phán thế nầy: Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta.  Ai được như Ta, người ấy cứ lên tiếng, cứ kể ra và trình bày cho Ta xem những gì đã xảy ra từ thời cổ đại, khi Ta tạo dựng loài người.  Và những gì sẽ xảy đến, cứ kể ra đi.  Đừng run, đừng sợ.  Ta đã chẳng cho ngươi nghe từ thưở nào, đã chẳng báo cho ngươi biết đó sao?  Chính các ngươi là nhân chứng của Ta.  Hỏi có thần nào khác, hỏi có núi đá nào khác, ngoại trừ Ta?  Ta biết chắc là không” (Isaia 44,6-8)….

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Editeur, Paris 1992, trang 41-44)

From: Langthangchieutim

 Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

BẢO TỒN TIẾNG VIỆT

   Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

Cách đây mấy ngày thấy có tờ báo đăng tin 2 thanh niên Nhật Bản bị bắt vì tội…dùng đũa cá nhân để gắp gừng trong chiếc lọ đựng gia vị trên bàn ăn của một nhà hàng, rồi quay clip và post lên mạng xã hội. Chủ quán báo cảnh sát, vì hành động “mất vệ sinh” này làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ! Thôi, chắc không cần bình luận nữa về sự nghiêm ngặt của luật pháp xứ ấy.

Tình cờ là cũng hôm trước, tôi có mấy người bạn ghé chơi, trong đó có 2 người mới từ Nhật về nước. Một ông nói, đi 7 năm, về VN 2 tháng rồi nhưng vẫn bị “sốc nhiệt”. Tôi hỏi vì sao bên đó đang làm ăn ngon lành thế mà lại về làm gì.

– Bị đuổi về. Vi phạm pháp luật.

Anh ta kể rằng buôn xe ô tô, mua phải một chiếc xe ăn cắp, bị bắt và giam 15 ngày, sau khi điều tra, kết luận đúng là mua nhầm chứ không phải tự mình ăn cắp, thì được thả nhưng trục xuất luôn.

Lạ là, dù bị bắt tạm giam, nhưng việc đầu tiên là cảnh sát hỏi về thực đơn và thói quen ăn uống của mình, thích ăn những món gì, khẩu vị ra sao…, có nhu cầu gì thay đổi về đồ ăn thì cứ “yêu cầu”, họ phải đáp ứng hết. Bị giam nhưng nhiều lúc quên mất là mình đang phạm tội, vì nào là kêu bật điều hòa, tăng nhiệt độ, giảm nhiệt độ, rồi nói đi mua thứ này, đi lấy thứ kia…, cảnh sát chỉ việc “ngoan ngoãn” làm theo yêu cầu. Không bao giờ có chuyện to tiếng hay tỏ thái độ bất lịch sự với mình, chỉ một lòng cúc cung “phục vụ”.

“Hết 15 ngày sau khi đã có kết luận thì được thả, về Đại sứ quán đang chuẩn bị lên đường hồi hương theo lệnh của chính quyền Nhật thì có người của sở cảnh sát tới, mang theo một chiếc áo. Chiếc áo này tôi bỏ quên ở chỗ giam giữ. Mà thực ra cũng chẳng phải bỏ quên, áo rẻ tiền, lại cũ rồi, vứt đi chứ lấy làm gì. Nhưng họ phái 3 cảnh sát mang tới tận nơi, hỏi có phải áo của anh không, giao lại đường hoàng rồi mới đi”.

Ở Nhật, nếu vì lý do nào đó mà anh “ngủ bờ ngủ bụi” thì sẽ có cảnh sát đứng canh cho ngủ, không để ai làm phiền, khi nào anh tỉnh dậy họ có làm gì mới làm, tuyệt đối không quấy rầy giấc ngủ của anh, chỉ tận tụy đứng đó, giữ đồ và “canh giấc ngủ” cho anh!

Ông bạn này còn kể, có một ông già độc thân, cứ thỉnh thoảng lại ăn trộm ít trái cây trong vườn nhà hàng xóm, để được đi tù! Thế là cứ ra tù là lại liền ăn trộm, vì ở trong tù sướng hơn ở ngoài nhiều. Trong đó, được chăm sóc tận tình và đối xử tử tế. Ở Nhật, cảnh sát và người nhà nước đúng nghĩa là “đầy tớ” luôn. Thử vi phạm giao thông mà xem, cứ ngồi trong xe bật điều hòa mát, họ tới ăn nói lễ phép, chỉ thiếu khúm núm xin được kiểm tra nữa thôi. Không bao giờ có chuyện hách dịch kiểu như ở VN chứ đừng nói chuyện vòi tiền…

Anh ta nói, ở Nhật đúng là có hơi “phát xít” thật, vì quy tắc rất nghiêm, cái gì cũng phải nhất nhất tuân thủ, nhưng quyền con người cao lắm, không ai được nhân danh nhà nước để xúc phạm hay đối xử thô bạo với anh, dù anh có phạm tội gì đi chăng nữa.

Còn một chuyện lạ đời này nữa: ví dụ, người dân trồng vài cây trái trong vườn nhưng chủ yếu để cho đẹp chứ rất ít khi ăn, thường để rụng đầy gốc, rồi ra siêu thị mua về dùng. Lý do là cây trái tự mình trồng thật đấy, nhưng vẫn không “chắc ăn”, cứ ra cửa hàng hay siêu thị mua về, ăn nếu lỡ có vấn đề gì thì có chỗ mà bắt đền. Thực phẩm trên thị trường Nhật gần như tuyệt đối an toàn, và nếu có nơi nào bán đồ mà ăn vào “có vấn đề gì” thì chỗ đó chỉ có điêu đứng. Oái oăm thay, ở ta mà muốn bán được hàng thì phải kèm theo câu “nhà làm”…

Những chuyện lan man không đầu không đuôi như thế nhưng cứ làm hiện dần lên hình ảnh của 2 đất nước, như thuộc về hai cõi khác nhau. Đến bao giờ chúng ta mới có được một xã hội vừa nghiêm khắc nhưng lại cũng rất tự do và nhân văn, không còn coi “Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay”* mà vụ án cô giáo Dung vừa minh họa một cách hùng hồn?

Ông bạn bảo, 200 năm nữa, may ra…

*Lời thơ cô giáo Trần Thị Lam:

“Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kỳ vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỷ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…”

Thái Hạo


 

LÃNG QUÊN HỒNG ÂN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Còn chín người kia đâu?”.

Chuyện kể về một bà mẹ quê, 85 tuổi, hiền hậu mà sâu sắc. Một chiều, con trai bà gọi điện thăm; như bao lần, trước khi gác máy, bà không quên nói, “Cám ơn con!”. Ai ngờ, ba tiếng “Cám ơn con” hôm ấy lại là lời cuối bà dành cho đứa con yêu. Từ ngày mẹ mất, người ấy không bao giờ quên nhẩm tên thánh song thân mỗi khi dâng lễ. Công bằng thôi! Một Linh mục đã được mẹ dạy luôn biết nói “cám ơn”, nghĩa là không để mình lãng quên hồng ân!

Kính thưa Anh Chị em,

‘Lãng quên hồng ân’ – cũng là điều Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Bởi lắm lúc, chúng ta nhìn mọi sự “chúng ta có”, “chúng ta là” như là điều hiển nhiên. Ấy thế, trong cuộc đời, chẳng có gì là hiển nhiên; tất cả là hồng ân!

Người ta thường viết trên cát những ân phúc, còn những xúi quẩy thì khắc vào cẩm thạch! Chúng ta dễ than phiền về những thiếu thốn hơn là tạ ơn vì những gì đã nhận được. Thật xót xa, nhưng đó là thực tế của căn bệnh ‘lãng quên hồng ân’. Đó cũng là căn bệnh của chín người phong cùi trong Tin Mừng. Trước sự vô tình của họ, Chúa Giêsu ngạc nhiên, “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?”. “Chúng ta thường xem là hiển nhiên chính những điều đáng được biết ơn nhất!” – Cynthia Ozick.

Chín người ấy được lành bên ngoài nhưng chưa được chữa lành bên trong. Họ có thể đã trở lại nếp cũ, thói cũ, và thái độ cũ. Họ không rút ra được bài học nào từ những năm tháng đớn đau – và đó mới là căn bệnh thật, bệnh vô ơn! “Ai không học được gì từ đau khổ sẽ bị kết án phải lặp lại nó!” – G. Santayana. Ngược lại, người Samari ngoại giáo, và như tướng Naaman trong bài đọc một, đã quay lại tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Họ không chỉ được lành thể xác, mà còn được cứu độ linh hồn.

“Sự vô ơn là bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và các tạo vật, là đập ngăn chặn suối nguồn với dòng sông” – thánh Bênađô. Và thật vậy, “những lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta”, vì chúng nuôi dưỡng lòng biết ơn. Càng sống tâm tình tạ ơn, chúng ta càng được Chúa tuôn đổ hồng ân. Và xét cho cùng, vô thần cũng chỉ là một hình thức vô ơn – hậu quả của ‘lãng quên hồng ân!’.

Anh Chị em,

“Còn chín người kia đâu?”. Câu hỏi ấy vẫn vang vọng. Nếu hai tiếng “cám ơn” đã trở nên hiếm hoi trên môi miệng chúng ta, thì đó hẳn là một dấu báo động: sự khô cạn tình Chúa, lạnh lùng tình người. Khi ơn nghĩa bị chối bỏ, tình liên đới trở nên mong manh, và niềm tin chỉ còn là lớp sương mờ bên lề cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết ơn trời, biết ơn người, và đừng để mình ‘lãng quên hồng ân!’. Giữa muôn ân phúc, hành động tạ ơn tuyệt vời nhất là tham dự Thánh Lễ – Hy Tế Tạ Ơn – nơi chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì mọi ơn lành, đặc biệt là quà tặng Giêsu, Con Một Ngài, và những gì tuôn chảy từ đó.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, vô ơn là chiếc bóng của vô thần – khép lòng con trước ánh sáng. Xin dạy con luôn biết tạ ơn, và không bao giờ ‘lãng quên hồng ân!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 17,11-19

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng : “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ : “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói : “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” 19 Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”


 

TẠI SAO NHỮNG CA KHÚC TRƯỚC NĂM 1975 VẪN ĐƯỢC ƯA CHUỘNG? – Nguyễn Văn Tuấn

Kimtrong Lam

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nọ, có nghe ông Nguyễn Phú Trọng phàn nàn là Việt Nam không có những bài hát hay. Tôi thì nghĩ khác ông ta, vì Việt Nam có những bài hát hay, có thể ông chưa nghe đó thôi. Chúng ta thử tìm về nhạc thời trước 1975 ở miền Nam xem, có nhiều bài hay lắm chứ, và vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay dù nó bị vùi dập nhiều lần …

Câu hỏi đặt ra là tại sao những bài ca đã được sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà đến nay vẫn còn được giới thưởng ngoạn, từ bình dân đến lịch lãm, đều ưa thích. Tôi nghĩ đến 4 lý do và cũng là đặc điểm của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam: tính nhân văn, tự do tư tưởng, tính phong phú, và giàu chất nghệ thuật.

NHÂN VĂN

Thứ nhất là đậm chất nhân văn. Nếu nhìn lại những bài ca trước 1975 ở miền Nam và so sánh với những sáng tác ở miền Bắc, tôi nghĩ ít ai có thể bác bỏ tính nhân văn trong các sáng tác ở trong Nam. Khi nói “nhân văn”, tôi không chỉ nói đến những sáng tác về thân phận con người, mà còn kể cả những sáng tác thuộc dòng nhạc lãng mạn, trữ tình, nói lên cảm xúc của con người trước thời cuộc.

Người ta thường phân nhóm những sáng tác của Trịnh Công Sơn thành hai nhóm tình yêu và thân phận, nhưng tôi nghĩ cách phân nhóm đó cũng có thể áp dụng cho nhiều nhạc sĩ khác như Từ Công Phụng chẳng hạn. Tình yêu không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn tình yêu quê hương đất nước (“Tôi đi xem để thấy những gì yêu dấu Việt Nam”) và giữa người với người “Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu”).

Thỉnh thoảng cũng có một vài bài có chất “máu” (như câu “nhưng thép súng đang còn say máu thù” trong bài “Lính xa nhà”), nhưng cho dù như thế thì câu kết vẫn có hậu “Hẹn em khi khắp trời nở đầy hoa có tôi về”. Có thể nói rằng cái đặc tính nhân văn và nhân bản của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam là yếu tố mạnh nhất để phân biệt so với các ca khúc cùng thời ngoài Bắc, vốn lúc nào cũng có nhiều mùi máu và súng đạn.

NGHỆ THUẬT

Cái đặc điểm nổi bật thứ hai là tính nghệ thuật trong các ca khúc. Khi nói “nghệ thuật” tôi muốn nói đến những lời ca đẹp, giàu chất thơ, và những giai điệu đẹp. Những bài ca mà ngay cả từ cái tựa đề đã đẹp. Những Dấu tình sầu, Giáng ngọc, Mùa thu cho em, Nghìn trùng xa cách, Tuổi biết buồn, Thà như giọt mưa, Giọt mưa trên lá, Hạ trắng, Diễm xưa, Ướt mi, và biết bao tựa đề có ý thơ và sâu lắng như thế đã đi vào lòng người thưởng ngoạn.

Thử so sánh những tựa đề của các sáng tác cùng thời ngoài Bắc như Bài ca năm tấn, Em đi làm tín dụng, Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng, Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc, v.v… thì chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Lời ca trong những ca khúc trước 1975 ở miền Nam cũng là những lời đẹp. Tôi thán phục những nhạc sĩ như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hoài Linh [không phải anh hề], Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên (và nhiều nữa) đã viết ra những lời ca đi vào lòng người. Không phải chỉ đơn giản nhân văn theo kiểu những ý tưởng trừu tượng trong sáng tác của Trịnh Công Sơn (ví dụ như “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, hay “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”), nhưng có khi đi thẳng vào vấn đề như Phạm Duy (“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”).

Còn nhiều nhiều bài đã đi vào lòng người qua những lời ca đẹp và giản dị: “Hôm xưa tay nắm tay nhau anh hỏi tôi rằng: ‘Những gì trong đời ta ghi sâu vào tâm tư / Không tan theo cùng hư vô, không theo tháng năm phai mờ / Tình nào tha thiết anh ơi?”.

Có những lời ca mà tôi nghĩ giới trẻ ngày nay có thể mỉa mai cười khẩy nói sến, nhưng tuổi trẻ thì thường chưa đủ lớn để cảm những câu như “Phút ban đầu ấy / Thư xanh màu giấy viết nhưng chưa gởi em / Ngõ đi chung một lối / Đôi khi định nói với em một lời.”

Không biết từ thuở nào mà tôi đã mê bài Trộm nhìn nhau và đã từng dự báo rằng bài này có ngày sẽ nổi tiếng. Thời đó, tôi mới về thăm nhà sau 20 năm xa cách, và nhìn người xưa, tôi thấy những câu “Ðôi khi trộm nhìn em / Xem dung nhan đó bây giờ ra sao / Em có còn đôi má đào như ngày nào” sao mà hay quá, hợp cảnh quá. Chỉ trộm nhìn thôi. Lời nhạc rất thơ.

Mà, thật vậy, đa số những lời ca trong các sáng tác trước 1975 được viết ra như vẫn vần thơ hoặc phổ từ thơ. Người phổ thơ thành nhạc hay nhất là Nhạc sĩ Phạm Duy, được xem như là một “phù thủy âm nhạc”. Chính vì thế mà âm nhạc trước 1975 có những lời ca sang trọng. Thời nay, trong môi trường những ca khúc dung tục, rất hiếm thấy những ca khúc có những lời ca đẹp như trước.

Lạ một điều là cũng là nhạc tuyên truyền (ở ngoài Bắc gọi vậy) hay nhạc tâm lý chiến (cách gọi trong Nam), nhưng những sáng tác trong Nam thì lại được người dân nhớ và xưng tụng. Sau cuộc chiến, những bài gọi là “nhạc đỏ”, dù được sự ưu ái của nhà cầm quyền văn hóa, chẳng ai nhớ hay muốn nhớ đến chúng.

Ngược lại, những sáng tác về người lính ở trong Nam thời trước 1975 thì lại còn lưu truyền và nuôi dưỡng trong lòng dân, dù nhà cầm quyền ra sức cấm đoán! Ngay cả những người lính miền Bắc cũng thích những bài hát về lính của các nhạc sĩ trong Nam. Tại sao vậy ? Tôi nghĩ tại vì tính nghệ thuật và nhân bản trong những sáng tác ở miền Nam. Người lính, cho dù là lính cộng sản hay cộng hòa, thì vẫn cảm được những câu “Con biết xuân này mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương” hay “Thư của lính, ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay”. Những lời ca đó không có biên giới chính trị.

TỰ DO

Đặc điểm thứ ba là tự do. Dù có kiểm duyệt, nhưng nói chung các nghệ sĩ trước 1975 ở miền Nam có tự do sáng tác. Không ai cấm họ nói lên nỗi đau và những mất mát của chiến tranh. Không ai “đặt hàng” họ viết những bài ca tụng lãnh đạo như ngoài Bắc. Thật vậy, nhìn lại dòng nhạc thời đó, chẳng có một ca khúc nào ca tụng ông Nguyễn Văn Thiệu cả. Có một bài ca tụng ông Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chẳng ai ca vì nó được dùng trong mấy rạp chiếu bóng là chính. Thay vì ca ngợi “lãnh tụ” dòng nhạc miền Nam ca ngợi con người và dân tộc, nhưng cũng đồng thời nói lên nỗi đau của chiến tranh.

Trịnh Công Sơn viết hẳn một loạt “Ca khúc Da Vàng” (mà hình như cho đến nay vẫn chưa được phép phổ biến). Trong thời chiến mà họ vẫn có thể phổ biến những sáng tác không có lợi cho chính quyền. Những ca khúc như “Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ/ Dù anh trở về bằng chiếc xe lăn” chắc chắn không có cơ may xuất hiện trong âm nhạc miền Bắc thời đó (và ngay cả sau này).

Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất trong thời chiến có lẽ là bài “Kỷ vật cho em” (phổ thơ của Linh Phương) với những lời ca ray rứt, bi thảm: “Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime/ Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã/ Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả/ Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa/ Anh trở về bằng chiếc băng ca/ Trên trực thăng sơn màu tang trắng.” Nghe nói ca khúc này đã làm cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rất khó chịu với nhạc sĩ.

Tiêu biểu cho tinh thần tự do sáng tác có lẽ là tự sự của Phạm Duy: “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình … Thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.”

Cái tính tự do còn thể hiện qua một thực tế là chính quyền thời đó không cấm đoán việc phổ biến các nhạc sĩ còn ở ngoài Bắc. Những sáng tác của Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, v.v…đều được phổ biến thoải mái trong Nam. Ngay cả bài quốc ca mà chính quyền vẫn sử dụng bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước vốn là một người cộng sản. Ngược lại, nhà cầm quyền ngoài Bắc thì lại cấm, không cho phổ biến các sáng tác của các nhạc sĩ trong Nam hay đã vào Nam sinh sống.

ĐA DẠNG

Đặc điểm thứ tư của âm nhạc ngày xưa là tính phong phú về chủ đề. Khác với nhạc ngoài Bắc cùng thời tất cả dồn cho tuyên truyền và kêu gọi chiến tranh, các sáng tác trong Nam không kêu gọi chiến tranh nhưng yêu thương kẻ thù. Nhạc thời đó đáp ứng cho mọi nhu cầu của giới bình dân đến người trí thức, từ người dân đến người lính, từ trẻ em đến người lớn quan tâm đến thời cuộc, từ tình yêu lãng mạn đến triết lýhiện sinh, từ tục ca đến đạo ca, từ nhạc trẻ đến nhạc “tiền chiến”, từ nhạc tâm lý chiến (tuyên truyền) đến nhạc chống chiến tranh, nói chung là đủ cả. Không chỉ sáng tác bằng tiếng Việt mà còn trước tác hay dịch từ các ca khúc nổi tiếng ở nước ngoài để giới thiệu cho công chúng Việt Nam.

Tôi nghĩ bốn đặc điểm đó có thể giải thích tại sao những ca khúc dù đã sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà vẫn còn phổ biến và được yêu chuộng cho đến ngày nay. Mai kia mốt nọ, nếu có người viết lại lịch sử âm nhạc, tôi nghĩ họ sẽ ghi nhận những sáng tác thời trước 1975 ở miền Nam là một kho tàng vàng son của âm nhạc Việt Nam. Như là một quy luật, những bài hát tuyên truyền thô kệch và nhồi sọ, những bài ca sắt máu, những sáng tác kêu gọi giết chóc và hận thù sẽ bị đào thải, và thực tế đã chứng minh điều đó. Ngược lại, chỉ có những sáng tác đậm tính nhân văn, giàu chất nghệ thuật, và phong phú xuất phát từ tinh thần tự do, thì mới tồn tại theo thời gian.

Nguyễn Văn Tuấn.