GÓC SUY GẪM…

 
 
Van Pham

Nếu Thực Sự Có Thượng Đế, Sao Còn Nhiều Người Khổ Cực Đến Vậy?… Tuệ Tâm…

Nếu trên thế giới thật sự có Thượng đế, thì sao vẫn còn rất nhiều người phải khổ cực đến vậy? Thượng đế vì sao không cứu giúp họ? Câu chuyện dưới đây, sẽ khiến nhiều người phải suy ngẫm về vấn đề này…

Nếu như Thượng đế thực sự tồn tại, vậy làm sao mới có thể gặp được Ngài? Cuộc đối thoại giữa một bệnh nhân nhí và vị nha sĩ sẽ cho chúng ta biết được phương pháp tìm kiếm Thượng đế.

Đợt trị liệu cuối cùng đã kết thúc, vị nha sĩ nói:
– “Tốt rồi, chúng ta đã trị liệu xong”.
Bệnh nhân là một cô bé, nói:
– “Vâng, xin cảm tạ Thượng đế”.
Nha sĩ mang ánh mắt nghi ngại nhìn cô bé và nói:
– “Thượng đế sao?”.
Cô bé hỏi:
– “Ông thấy có vấn đề gì ạ?”
Bác sĩ:
– “Cô bé, thời buổi này còn ai tin tưởng vào Thượng đế nữa chứ?”.
Cô bé đáp:
– “Cháu tin. Vì sao ông lại nghi ngờ điều đó?”
Bác sĩ:
– “Rất hiển nhiên, cháu không để ý thấy hết thảy chiến tranh, nghèo đói và bất hạnh trên cuộc đời này vẫn đang diễn ra hằng ngày sao? Vậy Thượng đế đang ở đâu?”.
Cô bé nói:
– “Nếu nói như vậy, cháu cũng không tin trên thế giới này có nha sĩ. Nếu trên thế giới thực sự có nhiều nha sĩ như vậy, thì tại sao vẫn có nhiều người đau răng, sâu răng, thậm chí rụng răng chứ?”.
Nha sĩ nói:
– “Những người đó không tới tìm ta trị liệu, thì ta đâu thể giúp được!”.
Cô bé nói:
– “Không sai! Thượng đế cũng là như thế. Chúng ta có thể nào hy vọng xa vời vào việc Thượng đế đi cứu giúp những người mà không cầu Ngài giúp đỡ, ngược lại kiên trì làm theo ý mình hay không?”.
Nha sĩ:
– “Vậy ta phải làm như thế nào làm mới có thể đi đến chỗ Thượng đế?”.

Cô bé đáp:
– “Hãy nói chuyện với Thượng đế, Ngài ấy vẫn luôn đang lắng nghe”.
************

Người có lòng tin vào Đấng tối cao và Thần Phật thường là người lương thiện, trong tâm họ luôn chứa đựng những lời dạy bảo và ý chỉ của trời cao. Họ luôn luôn vui vẻ, bao dung và biết ơn. Họ tin rằng thiện ác hữu báo nên họ không làm điều ác, tôn sùng điều thiện và hòa ái, chân thành.

Còn người không tin vào sự tồn tại của Thượng đế, không tin vào thiện ác hữu báo, thì họ dám làm bất kỳ điều gì để đạt được danh lợi cho mình, không có đạo đức để ước thúc tâm mình.

Shakespeare đã từng nói rằng:

“Đừng phỉ báng những điều bạn không biết sự thật, nếu không, tính mạng của bạn sẽ gặp trùng trùng điệp điệp những nguy hiểm”.

Hãy nhìn xung quanh chúng ta, nếu một thế giới không có đức tin đúng đắn, người ta sẽ không còn phân biệt được thiện – ác, đúng – sai. Chân thành, lương thiện, nhẫn nhịn, người có những đức tính này là những người tốt nhất. Còn người bị tiền bạc thay thế thiện niệm, bái lạy Thần chỉ vì danh lợi, họ đã bị mất đi phương hướng, tìm không thấy ý nghĩa đích thực của cuộc sống này.

Bản tính con người là thiện – ác đồng thời tồn tại. Vậy nên, hạt giống lương thiện ở trong tâm hồn mỗi chúng ta, hãy tưới lên nó đức tin đúng đắn, nếu như vậy bạn sẽ tuyệt đối không mất gì mà còn có được một cuộc sống hạnh phúc tròn đầy!

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor

Bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm ‘mất’ hay ‘làm gì có’?

Cat Bui and Trung Minh Le shared a link.
VOATIENGVIET.COM
 
Trong khi lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh thông báo bản đồ quy hoạch khu đô thị Thủ Thiêm cách đây hơn 20 năm bị thất lạc và đang được truy tìm thì một quan chức của Thanh tra Chính phủ cho rằng bản đồ này “làm gì có mà tìm”   

Giá trị bài viết chính là chỗ đó, chỗ ngài chữa bệnh.

 
Hoa Kim Ngo shared a post.

Kết thúc bài dài lê thê của mình, ngài đã viết:

“Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững niềm tin son sắt vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cao đẹp và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã lựa chọn, chúng ta quyết tâm đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, năng động và sáng tạo, nỗ lực phấn đấu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”

Có lẽ ngài đã chấp bút trên giường bệnh sau nhiều đêm dài suy tư. Kết luận của ngài sẽ giá trị biết bao nếu nơi ngài tịnh dưỡng bệnh là Việt Nam hoặc Cuba, hai thành trì vững mạnh của chủ nghĩa xã hội, tương lai của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới ngày nay, thay vì Nhật Bản, một xứ sở lâu đời của chủ nghĩa tư bản giãy chết của phần nhân loại đáng thương!

Giá trị bài viết chính là chỗ đó, chỗ ngài chữa bệnh.

KHU ĐẤT DÒNG MẾN THÁNH GIÁ THỦ THIÊM SẮP BỊ BÁN ĐẤU GIÁ!

 
 

BÁO ĐỘNG ĐỎ…….

Người Công giáo VN sẵn sàng đứng lên làm chứng Đức Tin hay cũng đành câm lặng để chúng cướp trắng trợn?!!!
************

KHU ĐẤT DÒNG MẾN THÁNH GIÁ THỦ THIÊM SẮP BỊ BÁN ĐẤU GIÁ!

Đằng sau vụ đấu giá 9 lô đất vàng ở Thủ Thiêm

VOA – Nhà thờ Thủ Thiêm, Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và một trường học của nhà dòng nằm trong số 9 lô “đất vàng” sắp được mang ra bán đấu giá lần đầu tiên tại TP.HCM.

Thông tin này được chính quyền thành phố đưa ra trong một cuộc họp báo ngày 2/5, sau khi xuất hiện loạt bài “đấu tố” một nhóm tôn giáo có tên “Hội Thánh Đức Chúa Trời” (hay “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ”) trên truyền thông nhà nước. Một linh mục Công giáo hoạt động về truyền thông nhận định với VOA rằng đây có thể là bước “chuẩn bị dư luận” cho việc giải tỏa các cơ sở tôn giáo sắp tới.

Từ áp lực nhiều phía…

Đại diện của Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm, nữ tu Đặng Thị Mỹ Hạnh, tối 2/5 cho VOA biết nhà dòng chưa hề nhận được bất cứ thông báo gì về việc bán đấu giá khu nhà hiện đang là nơi ở của hàng trăm nữ tu.

“Không có một văn thư nào. Chỉ nghe người này người kia nói nên vô trang báo Tuổi Trẻ đọc thông tin thì thấy hơi lạ”, nữ tu Mỹ Hạnh nói.

Khu vực Nhà thờ và nhà dòng Thủ Thiêm được xem là một di sản văn hóa giữa lòng đô thị phồn thịnh nhất Việt Nam. Các nữ tu của nhà dòng đã có mặt tại vùng đất này từ khi nơi đây vẫn còn là một khu rừng hoang.

Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm được thành lập vào năm 1840 với tài sản ban đầu là căn chòi lá dựng cạnh một gốc me hiện vẫn tồn tại như một chứng tích lịch sử.

Sau đó, nhà dòng dần dần phát triển và xây dựng thêm 3 khu trường học để phục vụ nhu cầu giáo dục của người dân trong khu vực.

“Năm 1975, vì nhu cầu của đất nước và theo yêu cầu của Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình yêu cầu nhà dòng giao trường cho nhà nước để họ dạy học. Lúc đó, nhà dòng đồng ý giao trường với mục đích giáo dục. Đến năm 2011 là hết học trò, họ lại đưa UBND, trụ sở Công an và các văn phòng của họ vào ở, nên các soeur viết văn thư yêu cầu họ trả trường lại, vì chúng tôi hiến cho mục đích giáo dục, nếu không giáo dục nữa thì phải trả cho chúng tôi. Nhưng từ năm 2011 đến nay, họ không giải quyết cho mình. Họ nói rằng cái đó đã giao cho nhà nước rồi thì thuộc về nhà nước”, Soeur Mỹ Hạnh cho biết.

Một trong 3 khu nhà của Trường Tiểu học Thủ Thiêm đã bị chính quyền phá dỡ vào năm 2015 để làm đường cho dự án xây dựng đô thị mới.

Tuy nhiên, những nỗ lực sau đó của chính quyền nhằm “san phẳng” khu vực này đã vấp phải sự phản kháng ôn hòa của các nữ tu và giáo dân.

“Nhà dòng vẫn giữ quan điểm là ở lại, không đi đâu hết, vì mình đã ở đây trên 178 năm rồi. Tên nhà dòng là Thủ Thiêm. Mình đã ở đây, gắn bó bao nhiêu năm rồi. Tên của nhà dòng là ở đây, chẳng lẽ đi đâu rồi đổi tên khác”, Soeur Mỹ Hạnh nói.

Nữ tu đại diện cho Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm nói nhà dòng vẫn đang chịu rất nhiều sức ép để buộc phải di dời, từ việc đại diện chính quyền đến mời các nữ tu đi xem những khu đất mới, hay nêu ra những “khó khăn” về cơ sở hạ tầng khi người dân xung quanh đã bị buộc phải di dời hết, đến những can thiệp trực tiếp như chặn đường vào nhà dòng, cắt điện, nước… viện lý do dành ưu tiên cho các công trình xây dựng.

… đến tấm bản đồ mất tích bí ẩn…

Linh mục Lê Ngọc Thanh, người phụ trách về lĩnh vực truyền thông của Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, nói với VOA rằng quyết định quy hoạch, giải tỏa nhà thờ và tu viện ở Thủ Thiêm có quá nhiều vấn đề khuất tất và cần phải được bàn thảo.

“Thứ nhất, trong quy hoạch ban đầu mà Thủ tướng duyệt, không có quy hoạch nhà thờ và đất của tu viện. Nhà thờ và tu viện hoàn toàn nằm ngoài quy hoạch”, LM. Thanh nói.

Tại buổi họp báo ngày 2/5, khi báo chí truy vấn về tung tích của tấm bản đồ năm 1996 của Chính phủ về quy hoạch xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc TP. HCM, Nguyễn Thanh Nhã, nói “đã ‘truy tìm’ bản đồ này từ nhiều năm nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra”, theo Zing.

Lý do ông Nhã đưa ra là do cơ quan di chuyển nên không lưu trữ bản đồ.

Trong khi đó, Chánh Văn phòng UBND TPHCM Võ Văn Hoan lại nói “không phải là không có [bản đồ gốc] mà chưa tìm ra, cơ quan chức năng vẫn đang tìm”, theo Tiền Phong.

Và như vậy, tung tích tấm bản đồ quy hoạch gốc vẫn còn là một ẩn số.

Điều “không thỏa đáng” tiếp theo, theo LM. Thanh, là việc giải tỏa không hội đủ cơ sở để giải thích cho lý do buộc các cơ sở tôn giáo phải di dời, vì dự án xây dựng khu đô thị mới chỉ đơn thuần phục vụ cho mục đích kinh tế, không liên quan gì đến an ninh, quốc phòng.

Ngoài ra, “Khi khu dân cư được xây dựng xong, thì người dân cũng có nhu cầu phải có một nơi thờ tự. Vậy tại sao trên quy hoạch lại không ưu tiên cho đời sống tâm linh của người dân?”, LM. Thanh đặt thêm câu hỏi.

… và ‘chuẩn bị dư luận’?

Thông tin về vụ đấu giá “đất vàng” Thủ Thiêm được đưa ra sau khi truyền thông nhà nước rầm rộ đăng loạt bài “đấu tố” Hội Thánh Đức Chúa Trời với những lời lẽ nặng nề, cho rằng nhóm tôn giáo này là một “tà đạo” dựa trên luận điệu phản khoa học, “khiến cho các tín đồ mê muội, bỏ bê công ăn việc làm, gây ly tán gia đình chẳng khác gì tổ chức khủng bố IS”.

Loạt bài này đã khiến không ít người dân hoang mang, thậm chí “gây căng thẳng” trong nội bộ các tôn giáo, và giữa người theo tôn giáo và không có tôn giáo, theo lời LM. Lê Ngọc Thanh. Ông cho rằng đây có thể là một bước “dọn đường dư luận” để tiến tới việc giải tỏa các cơ sở tôn giáo ở Thủ Thiêm sắp tới.

LM Thanh phân tích:

“Sau khi đã chuẩn bị, họ mới công bố việc đấu giá này. Tức là họ dùng dư luận kia để làm cho dân chúng cảm thấy rằng có tôn giáo là sai lầm, bậy bạ, không đứng đắn, và bây giờ nếu có giải tỏa một cơ sở tôn giáo thì cũng là hợp lý, bình thường thôi”.

Quyết định giải tỏa các cơ sở tôn giáo ở khu vực “đất vàng” Thủ Thiêm đã bị chỉ trích ở cả trong nước lẫn quốc tế. Nhiều trí thức Việt Nam cho rằng chính quyền “quá tham lam” và “thiếu tầm nhìn” khi đánh đổi những di sản văn hóa, tôn giáo để đạt được lợi ích kinh tế bằng mọi giá.

Dịp Tết Nguyên Đán năm ngoái, Tổng lãnh sự quán Canada tại TPHCM đặt câu hỏi trên Facebook rằng: “Bạn nghĩ có nên phá hủy một di sản còn lâu đời hơn cả Canada? Theo kế hoạch phát triển khu đô thị mới Thủ Thiêm tại Quận 2, chính quyền Sài Gòn dự định phá dỡ Tu Viện Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và nhà thờ Thủ Thiêm để nhường chỗ cho khu đô thị mới. Tu viện được thành lập tại Thủ Thiêm vào năm 1840, nghĩa là đã ở đó được 177 năm (trong khi Canada vừa bước sang tuổi 150 năm nay). Bạn nghĩ thế nào nếu chúng ta hòa nhập những công trình mang tính lịch sử như thế này vào các khu đô thị mới thay vì phá dỡ chúng?”.

Tại cuộc họp báo ngày 2/5, lãnh đạo TPHCM yêu cầu các cơ quan chức năng phải có phương án di dời các cơ sở tôn giáo trong khu vực và thu hồi đất của Trường tiểu học Thủ Thiêm để bàn giao cho nhà đầu tư thi công.

9 lô đất, với tổng diện tích 78.000 m2, sẽ được quy hoạch thành khu trung tâm thương mại dịch vụ đa chức năng của đô thị mới Thủ Thiêm. Dự tính tổng mức đầu tư khởi điểm lên đến 27.000 tỷ đồng.

Image may contain: sky and outdoor
Image may contain: house, tree, sky and outdoor
Image may contain: sky and outdoor
No automatic alt text available.
Image may contain: one or more people, people standing and outdoor

BÀN VỀ SỰ “HÒA NHẬP” CỦA CÁO GIÀ CS

Đỗ Ngà

Phải nói chủ nghĩa Marx Lenin từ đầu nó đã xem lối trá là phần cốt lõi của sinh mạng chế độ. Đã là loài trâu bò thì ăn cỏ, mà hổ báo thì ăn thịt không thể khác, vì trong bộ máy sinh học mỗi loài nó định thế. Đã là dân chủ thì phải minh bạch và trung thực, còn CS thì phải dối trá và che đậy.

Nhìn vào cấu tạo bộ máy chính quyền và bộ máy Đảng thì ắt biết. Trong chính phủ có bộ TT-TT và trong bộ máy Đảng có Ban Tuyên Giáo. 2 cơ quan này chuyên làm dối trá với nhân dân để bảo vệ sự sống cho chế độ. Trong nước, chính quyền CS cho phối hợp 2 cơ quan dối trá kia với Bộ công an để thực hiện công cuộc tàn phá trí lực dân tộc. Ban Tuyên giáo và Bộ TT-TT vừa cấm sự thật vừa cấy dối trá, nếu kẻ nào lọt sổ vì cứng đầu không chịu tin lời nói dối, thì đến lượt Bộ Công an ra tay trấn át những kẻ đó bằng bạo lực. 2 tầng như thế thì trí lực dân tộc không nát thì cũng nhừ.

Với cấu tạo đặc thù như thế, giống như trâu bò gặm cỏ, nếu không còn cỏ nó sẽ chết đói. Cho nên không có dối trá CS sẽ vong.Vì vậy mà để làm CS suy yếu và sụp đổ thì không thể thiếu vải trò của việc truyền bá sự thật. Khi nào người dân còn từ chối sự thật khi đó CS còn đất sống.

Ngày nay có một nghịch lý mà ai cũng thấy. Đó là sự thật về một đất nước tan nát vì đạo đức xuống cấp, sự nghèo khó của nhân dân, sự hèn yếu của chính quyền vv… thì ai cũng biết, nhưng nhắt tới những sự thật quá khứ thì rất nhiều người không thể dung nạp được. Đến nay ai nói động tới sự thật về Hồ Chí Minh thì lập tức vô số kể phản ứng mãnh liệt, trong đó có cả những người được cho là có nhận thức tiến bộ.

Nếu bạn phân tích con người Hồ Chí Minh dựa vào những bài báo bịa đặt của ông ta dưới bút danh C.B thì chắc chắn bạn sẽ nhận vô số gạch đá. Nhưng nếu viết bài phân tích về sự dối trá của VTC về sự bịa đặt câu chuyện “giọt sữa cuối cùng” thì sẽ có nhiều sự đồng tình hơn. Nhìn thế chúng ta mới thấy, rất nhiều con người Việt Nam dù không hài lòng chế độ nhưng họ vẫn còn nhiễm dối trá rât nặng. Đấy là đất sống cho chính quyền CS.

Như đã nói từ đầu, dối trá là nguồn sống của CS. Bộ máy chính quyền nó được lập ra là để cấy sự dối trá, và tất nhiên dối trá là thứ thần dược của ĐCS. Trên thế giới còn 4 chính quyền sống bằng dối trá như thế và bọn chúng không thể nào lập thành khối chơi chung được. Trong 1 đám 4 thằng, CSVN chơi được 2 trong 3 thằng CS còn lại, một thằng là chủ nó và một thằng là bạn nó. Sân chơi CS trên toàn cầu xem như đã khai tử.

Có người nói đùa rằng “qua 32 năm người ta cho ngồi chung mâm cỗ với giới thượng lưu, nhưng anh CS Hà Nội vẫn chưa rửa sạch được phèn nơi gót chân”. Trong ao nhà Việt Nam, CS là vua, hắn giữa độc quyền cai trị. Hắn vẫy vùng với mớ nước phèn dối trá bịp bợm, gian xảo, lợi dụng vv… mà chẳng gặp trở lực gì. CS Hà Nội chỉ có thế, hành trang của hắn chả có gì khác nên hắn mang những hắn có ra chơi với thế giới văn minh.

Sân chơi toàn cầu bây giờ là sự minh bạch và trung thực của thế giới tự do. Nó có luật chơi chung hẳn hoi, một trong qui tắc đó là anh phải tôn trọng luật pháp chủ nhà khi anh đến đất nước người ta. Thói vừa côn đồ vừa gian xảo cần phải vứt bỏ. Ai cũng chơi theo luật đàng hoàng, chỉ mình anh làm trò khỉ phá rối sự quy củ của một tổ chức văn minh thì ai dung nạp được anh?

Thế nên sự tùy tiện bắt người, và dùng sự dối trá che đậy là một thói quen của chính quyền CS. Cách hành xử với dân như vậy được không có nghĩa là làm thế với EU được. Đức đang tiến từng bước chậm mà chắc để xử lí vụ bắt cóc người ngay trên nước họ, một quốc gia luật pháp hả hoi bị người của quốc gia khác bắt người ngay trên lãnh thổ họ. Hiện nay Slovakia tự dưng lại bị dính rắc rối với Đức vụ này, vì sự hiếu khách Slovakia đã phải chuốc lấy phiền phức. Lòng hiếu khách của một quốc gia đã bị lợi dụng. Chắc Slovakia họ sẽ tởn tới già với thằng láu cá VC.

Không biết vụ này sẽ ra sao, nhưng chắc chắn 1 điều, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị EU trừng phạt vì bản năng hoang dã của CS. CS sẽ mãi mãi không thể hòa nhập vì bản chất của nó khác hoàn toàn với số số còn lại trong sân chơi. Vì dối trá, lật lọng, côn đồ, lợi dụng là bản chất sống còn của nó, nó chỉ đứng ké mà chưa bao giờ hành xử như những thành viên biết chơi theo luật. Mãi mãi nó là kẻ lạc lõng.

Tòa nhà lịch sử 130 tuổi ở Sài Gòn có nguy cơ bị phá bỏ

 Tòa nhà lịch sử 130 tuổi ở Sài Gòn có nguy cơ bị phá bỏ

Mặt chính của tòa nhà Dinh Thượng Thơ hiện là trụ sở của Sở Thông Tin Truyền Thông và Công Thương Sài Gòn. (Hình: VNExpress)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nha Giám Đốc Nội Vụ, còn gọi là Dinh Thượng Thơ, đường Gia Long, quận 1, nay đang là trụ sở của Sở Thông Tin-Truyền Thông và Sở Công Thương, có nguy cơ bị phá bỏ để “nâng cấp tòa nhà ủy ban Sài Gòn.”

Báo VNExpress cho hay, theo phương án thiết kế, nâng cấp trụ sở hội đồng và ủy ban thành phố Sài Gòn “đang được lấy ý kiến người dân và chuyên gia,” các tòa nhà phía sau đang là trụ sở Sở Giao Thông-Vận Tải, Tài Nguyên-Môi Trường, Thông Tin-Truyền Thông… quay mặt ra đường Gia Long, nay là Lý Tự Trọng, quận 1, sẽ được xây mới cao hơn, kết nối với tòa nhà ủy ban hiện hữu để trở thành trung tâm hành chính mới.

Tin cho biết, tính từ lúc được nâng cấp lần cuối năm 1890 đến nay đã gần 130 năm, nhưng nếu tính về lịch sử khi mới được xây dựng lần đầu thì công trình này đã gần 160 tuổi. Song, bên trong tòa nhà hình chữ U này vẫn còn nguyên bốn cầu thang gỗ nằm gần cổng ra vào và hai góc của tòa nhà dẫn lên tầng trên, cùng hai chiếc cổng sắt được thiết kế tinh xảo và lối vào lát đá xanh khá nguyên vẹn.

Trước việc Sở Quy Hoạch Kiến Trúc Sài Gòn cho rằng, tòa nhà trên không thuộc “công trình bảo tồn” nên phương án thiết kế không giữ lại nhiều phần, giới kiến trúc sư không đồng tình.

Bởi giá trị bảo tồn công trình cổ nằm ở chỗ giữ nguyên vẹn cả kiến trúc lẫn không gian đô thị xung quanh. Trong vòng bán kính 500-1,000 mét tính từ vị trí xây khu hành chính mới được xem là vùng lõi, đang có nhiều công trình kiến trúc đều trên 100 năm, trở thành biểu tượng của Sài Gòn như: Nhà Thờ Đức Bà, Dinh Thống Nhất, Nhà Hát Thành Phố, Bưu Điện Thành Phố, chợ Bến Thành…

Tòa nhà hồi đầu thế kỷ 20. (Hình: VNExpress)

“Phương án tốt nhất là không phá bỏ các công trình cũ, nhất là Dinh Thượng Thơ và cả trụ sở Sở Giao Thông-Vận Tải, vốn là trụ sở Bộ Quốc Phòng thời VNCH. Những công trình này đã tạo ra một điểm vàng về kiến trúc tương đối ổn định,” ông Võ Kim Cương, nguyên phó kiến trúc sư trưởng Sài Gòn nói.

Còn ông Ngô Viết Nam Sơn, tiến sĩ, kiến trúc sư cũng cho rằng, nếu thành phố phá bỏ Dinh Thượng thơ sẽ là điều “vô cùng đáng tiếc.”

“Thành phố phải làm gương trong việc bảo tồn di sản, nếu không đừng mong nhà đầu tư sẽ bảo tồn. Giá trị của tòa nhà này thì không cần phải bàn cãi nữa, bởi nó là công trình lịch sử lâu đời của thành phố, hoàn toàn có thể bảo tồn và bố trí chức năng phù hợp,” ông Sơn nói.

Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Hậu, tiến sĩ khảo cổ học, phản bác các ý kiến đánh giá công trình này không có gì đặc sắc để bảo tồn, hoặc quan niệm “công trình cổ phải nhường chỗ cho phát triển.” Theo bà Hậu, những quan điểm trên là sự báo trước một ngày không xa thành phố sẽ không còn dấu vết lịch sử, văn hóa của Sài Gòn mấy trăm năm.

Không chỉ các chuyên gia mong muốn bảo tồn tòa nhà di sản của Sài Gòn, hồi Tháng Mười, 2015, khi đó ông Lê Thái Hỷ, giám đốc Sở Thông Tin-Truyền Thông cũng từng có văn bản gửi ủy ban thành phố khẳng định “công năng sử dụng của tòa nhà vẫn còn tốt, kiến nghị bảo tồn nguyên trạng kiến trúc và vị trí tòa nhà.”

Ông Hỷ đề xuất sau khi bảo tồn có thể bố trí sử dụng làm trụ sở tiếp khách quốc tế hoặc tiếp dân ở Sài Gòn. Ông Hỷ cũng lo ngại nếu dời cả tòa nhà đi vị trí khác thì giá trị bảo tồn sẽ không bảo đảm. (Tr.N)

Vụ lật xe lửa ở Bàu Cá năm 1982: Nghĩa trang của sự quên lãng

 
 
 
Image may contain: people standing and outdoor
Image may contain: one or more people, tree, plant, outdoor and nature
Image may contain: one or more people, outdoor and nature
Image may contain: plant, grass, tree, outdoor and nature
Image may contain: one or more people and people standing
+2

Van Pham

*************

Vụ lật xe lửa ở Bàu Cá năm 1982: Nghĩa trang của sự quên lãng. (tiếp theo và hết…)

Người Việt Online– Những ngày vừa qua, không chỉ nhật báo Người Việt, mà báo chí trong nước cũng bắt đầu khơi lại một vụ tai nạn xe lửa được xem là thảm khốc nhất trong lịch sử ngành đường sắt Việt Nam xảy ra tại ga Bàu Cá, tỉnh Đồng Nai, vào ngày 17 Tháng Ba năm 1982 khiến hơn 200 người thiệt mạng.

Lý do sự kiện này được khơi lại bắt nguồn từ năm 2014, khi chị Trần Thị Cẩm, 59 tuổi, hiện sống ở Phú Nhuận, Sài Gòn, quyết tâm đi tìm tung tích anh trai và chị dâu mình, người mà chị cho rằng đã thiệt mạng trong tai nạn xảy ra từ 36 năm trước, nhưng vì hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn nên chị và gia đình đã không thực hiện được tìm kiếm sớm hơn.

Trong quá trình tìm kiếm này, nhiều sự thật, nhiều câu chuyện đã lần lần được mở ra. Trong đó, chuyện về một nghĩa trang hiện còn hơn 100 ngôi mộ của những người qua đời trong tai nạn đó bị lãng quên khiến nhiều người kinh ngạc, cũng như chuyện làm sao tìm cho ra bản sơ đồ chôn cất những nạn nhân “vô danh” ngày ấy để thân nhân biết mà đến đưa hài cốt về là chuyện được quan tâm nhiều nhất.

Đào 200 lỗ huyệt, chôn hơn 100 hòm trong đêm

Trong kỳ 1 của loạt phóng sự này, chúng tôi có nhắc đến giấc mơ kỳ lạ của chị Trần Thị Cẩm về hình ảnh của một nghĩa trang chìm khuất trong cỏ dại hoang vu mà người anh trai chị “báo mộng” cho biết “Cẩm ơi, anh nằm chết ở đây!”
Ông Nguyễn Kim Hoạt, một trong những người đào huyệt chôn nạn nhân lật tàu ở ga Bàu Cá ngày 17 Tháng 3, 1982, và vẫn đang tiếp tục chăm sóc nghĩa trang này (Hình: Trần Cẩm cung cấp)

Theo lời chị Cẩm, “Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nghĩa trang là một cảnh tượng rất đau lòng, cây cỏ bụi bờ hoang vu, có nghĩa là mấy mươi năm rồi hình như không ai đặt chân tới.”

Và cũng trong lần đầu tiên tìm đến nơi này, chị Cẩm đã gặp một ông cụ ngoài 80 tuổi ngồi lặt điều trong vườn điều cách nghĩa trang không xa. Đó chính là ông Nguyễn Kim Hoạt, một trong số những người đã đào huyệt chôn cất nạn nhân thiệt mạng trong chuyến tàu định mệnh mang số hiệu 183 từ mấy mươi năm trước.

Nói chuyện với phóng viên Người Việt qua điện thoại, ông Hoạt kể, “Tôi nhớ trưa hôm đó nghe báo có tai nạn lật tàu, tôi cùng với nhiều người dân trong ấp ra giúp chính quyền đào mộ. Họ nhờ chúng tôi đào 200 lỗ huyệt. Đào đến tối thì xong, lúc đó có xe tải chở hòm vô và chúng tôi chôn họ trong đêm.”

Theo lời ông Hoạt, “Bên trong hòm là đàn ông hay đàn bà, là xác nguyên vẹn hay bị gì chúng tôi không biết, chỉ biết là một người có trách nhiệm chỉ hòm nào đưa xuống huyệt nào thì chúng tôi cứ theo vậy mà mang hòm bỏ xuống và lấp đất lại thành mộ đất đàng hoàng. Còn việc họ có đánh dấu mộ đó là của ai không thì tôi không hề biết.”

Cũng theo ông Hoạt, “Lúc đầu chính quyền nhờ đào 200 huyệt, nhưng chôn không hết, chỉ có 117 hòm, nên những huyệt dư được lấp lại.”

“Ngay lúc đó thì không có mộ nào có bia hết. Tuy nhiên, sau đó có một vài mộ có bia bằng xi-măng, nhưng mà ít lâu sau thì những ngôi mộ đó cũng đều đã được bốc đi. Tôi nghĩ có lẽ đó là mộ của những người có giấy tờ, thân nhân biết tìm đến. Còn lại tất cả đều không có bia,” ông Hoạt nói thêm.

Tìm thân nhân trong nghĩa trang nhờ có sơ đồ, hình ảnh

Trong bài viết trước chúng tôi có nhắc đến trường hợp của anh Lý Thoại Phương, hiện ở Gò Vấp, Sài Gòn, là người không đi trong chuyến tàu định mệnh mang số hiệu 183, nhưng lại “may mắn” nhận được xác mẹ mình ngay tại hiện trường tai nạn, dù khi đó xác bà đã được gói vào bao nilong chuẩn bị đưa đi chôn.

Tuy nhiên, số người biết tin để chạy đến tìm người thân như anh Phương khi đó không nhiều. Thế nên những người hay tin sau đó phải đi nhận thân nhân mình trong một nghĩa trang cách nơi xảy ra tai nạn khoảng 3-4 cây số.

Trong số này có ông Tâm Trần, hiện đang ở Garden Grove, California, người có vợ và hai người con gái thiệt mạng trong tai nạn thảm khốc nói trên.

Ông Tâm kể, “Lúc đó tôi ở Nha Trang, mới ra tù cải tạo, còn bị giữ ở địa phương vì không có giấy tờ gì hết. Tai nạn xảy ra, có người biết tin báo về cho hay. Người nhà tôi mới lên đồn công an trình bày và bảo lãnh tôi ra để đi tìm vợ con.”

“Tôi đón xe đò đi vào đến nơi thì cũng đã hai ngày sau tai nạn. Hình ảnh tôi nhìn thấy rất hãi hùng. Các toa tàu bị lật, nát ra, đổ vỡ, rồi hàng hóa, hàng lý của khách đi tàu văng tung tóe, nhìn thấy sợ lắm. Nhưng xác người thì đã đưa đi hết rồi,” ông Tâm nhớ lại.

Ông nói tiếp, “Thực ra lúc đó mình cũng đâu biết là vợ con sống chết thế nào, chỉ biết là có đi trên chuyến tàu đó. Tôi đến cơ quan chính quyền địa phương hỏi thăm. Ai chết thì họ có danh sách, có hình ảnh để mình nhận dạng. Còn mình không tìm thấy tên, thấy hình ở đó tức là không chết ở đó mà đã đưa đi bệnh viện.”

Ông Tâm cho rằng do vợ ông có mang giấy tờ, các con ông cũng có nên khi “mình nói tên thì họ xem trong danh sách rồi chỉ mình ra nghĩa trang tìm.”

“Khi tôi đến thấy cũng có nhiều người đến đi tìm thân nhân. Vợ và hai con tôi không phải chôn cạnh nhau mà chôn lung tung hết, mình phải đi tìm một hồi mới ra,” ông Tâm kể.

Ông nói, “Do lúc đó xác mới chôn, lại thêm điều kiện quá khó khăn, tôi lại vừa mới ra tù nên tôi không bốc xác mang về liền mà để lại đó đến hơn một năm sau mới quay trở lại hốt cốt đem về.”

Ông Tâm cũng cho biết ông có được nhận số tiền 3 ngàn đồng gọi là tiền “bồi thường” hay “bảo hiểm” cho cái chết của vợ và hai con ông.

Cũng như anh Lý Thoạt Phương, ông Tâm cũng xác nhận một điều, rằng: khi đó có một sơ đồ đánh dấu vị trí chôn các nạn nhân. Nạn nhân có giấy tờ thì họ ghi lại tên tuổi vào quyển sổ. Nạn nhân không có giấy tờ thì họ chụp hình lại, hình đen trắng và ghi vị trí ngôi mộ phía sau mỗi tấm hình.
Ngôi mộ đôi trong Nghĩa Trang Đ.S 17-03-1982 (Hình: Trần Cẩm cung cấp)

Điều này cũng trùng khớp với sự xác nhận của gia đình bà Phan Thị Tư hiện ở Nha Trang, người có mẹ mất trong vụ lật tàu 183.

Chị Cẩm kể, “Sau khi nghĩa trang được phát quang, thì ngoài một vài tấm bia có tên nạn nhân còn sót lại nhưng hài cốt đã được bốc đi, thì nơi đây chỉ có một ngôi mộ đôi được xây cất cẩn thận, và trên tấm bia có một ghi chú khá đặc biệt cùng với số điện thoại liên lạc.”

Theo số điện thoại đó, chị Cẩm gọi thì được biết đó là ngôi mộ của mẹ bà Phan Thị Tư. Ngày ấy, khi thấy người mẹ đi lâu không về, gia đình bà Tư đã đi nhiều nơi tìm kiếm và có đến cơ quan đường sắt ở đường Hàm Nghi, Sài Gòn để hỏi. Tại đây, gia đình bà Tư được đưa cho một số hình ảnh và sơ đồ nghĩa trang để xác minh người thân. Nhờ hình ảnh và sơ đồ đó mà bà Tư xác định ngôi mộ mang số B17 là mộ của mẹ mình.

“Bà Tư cùng người nhà tìm đến nghĩa trang, tìm đúng vị trí ngôi mộ và lấy đá sỏi viền xung quanh phần mộ đó như một kiểu làm dấu trong khi họ chưa có điều kiện làm bia hay bốc cốt mang về,” chị Cẩm kể lại những gì nghe được từ bà Tư.

Nhiều năm sau, gia đình bà Tư quay trở lại để xây mộ đá cho mẹ chứ không bốc cốt về quê do “vấn đề tâm linh,” thì lại phát hiện ra là có tới hai phần mộ viền đá sỏi và họ không thể nào xác định được cái nào là mộ của mẹ mình.

Chính vì vậy mà gia đình bà Tư quyết định xây chung một mộ đá cho cả hai phần mộ đó, và trên tấm bia ghi rõ dòng chữ “Trong hai ngôi mộ này có phần mộ mẹ chúng tôi. Phần mộ còn lại nếu có thân nhân xin liên hệ cùng chúng tôi để tìm hiểu. Liên lạc số điện thoại…”

Tuy nhiên, chị Cẩm nói, “Bao năm rồi vẫn không có một ai liên lạc với họ.”

Nhọc nhằn một cái tên, gian nan một bản sơ đồ

Ngày nay, sau 4 năm chị Cẩm thực hiện hành trình tìm kiếm tung tích anh trai và chị dâu mình, thì nhiều người nghe nhắc đến “Nghĩa trang Đ.S 17-03-1892.” Tuy nhiên, để có được tấm bảng tên cho nghĩa trang này cũng là một câu chuyện khá lạ lùng.

Chị Cẩm cho biết, “Từ năm 1982 sau khi chôn cất nạn nhân xong, người ta có xây tường rào cao 70cm xung quanh và nghĩa trang cũng có cái cổng nhưng không ghi dòng chữ nào.”

Ông Hoạt kể, “Ngày trước, thỉnh thoảng cũng có người tìm đến nghĩa trang này, nhưng sau đó thì không ai chăm sóc nên cỏ dại mọc um tùm, che kín hết. Cho đến năm 2014, khi bà Cẩm tìm đến đây, bà ấy nhiệt tình quá, cứ lên thắp hương hoài, nên tôi mới nói với bà con trong ấp là người ta đã đến tìm như vậy thì thôi mình phát quang nghĩa trang cho sạch sẽ.”

“Đây là một nghĩa cử mà tôi không bao giờ quên. Sau đó thấy cổng đã xỉn màu đen như than, bà con lại bàn nhau sơn màu trắng cho bớt âm u, lại còn góp tiền định khắc hàng chữ nổi ‘Nghĩa Trang Tai Nạn Đường Sắt 17/3/1982’ để đánh dấu sự kiện tai nạn, đồng thời cho mọi người biết đó là nơi chôn người, vì thực tế khi phát quang rồi thì nhìn vào chỉ thấy đó bãi đất trống với trên 10 cái lỗ huyệt bốc rồi, không còn dấu tích gì của những ngôi mộ đất ngày trước. Ba mươi mấy năm, tất cả đều bị san bằng là điều tất nhiên thôi,” chị Cẩm cho hay.

Cũng theo lời kể của chị, “Khi đắp chữ lên cổng, bà con nhận thấy là nếu ghi đầy đủ như dự tính lúc đầu thì chữ quá nhỏ nên bà con ghi tắt là ‘Nghĩa Trang ĐS 17-03-1982.’”

“Không dừng lại ở đó, người dân địa phương còn đóng góp tiền thuê đúc 100 bia ghi ‘Mộ VD’ (vô danh) cắm tạm 4 hàng theo dấu mấy mộ đã bốc. Việc khắc tên cổng và cắm bia nhằm mục đích bảo vệ sự tồn tại của nghĩa trang này,” chị Cẩm nói thêm.

Tuy nhiên, nói với phóng viên Người Việt, ông Hoạt cho biết thực tế chỉ có 80 bảng “Mộ VD” được cắm lên.

Giải thích lý do vì sao chỉ có 80 bảng, ông Hoạt nói, “Tôi đoán là trên 100 nhưng có một số lỗ họ đào rồi thì tôi nhắm còn lại chừng đó thì tôi làm 80 cái chứ thực ra các ngôi mộ không còn chia rõ ràng nữa.”

Kể từ sau ngày tìm được nghĩa trang này cũng như liên lạc được với thân nhân có người lâm nạn năm xưa, chị Cẩm đã liên tục đi nhiều nơi để kêu gọi sự giúp đỡ làm sao có được sơ đồ chôn cất năm xưa để những người như chị còn có thể biết đâu chính là nơi thân nhân mình đang yên nghỉ.

Chị nói, “Tôi đi đến ga Sài Gòn ở đường Hàm Nghi, rồi đến công an tỉnh Đồng Nai, là nơi xảy ra tai nạn, qua đến nơi lưu trữ hồ sơ có liên quan đến tai nạn đường sắt của tỉnh Đồng Nai, đến cả phòng kỹ thuật hình sự của tỉnh để hỏi, nhưng câu trả lời chung là: những người đang làm việc hiện tại đều là người mới, họ không biết gì đến tai nạn ngày đó, mà thậm chí có người biết loáng thoáng thì cũng không còn giữ lại bất kỳ hồ sơ gì liên quan đến những người thiệt mạng.”

Dù vậy, trước hành trình kiên trì của người phụ nữ này, cuối năm 2015, cơ quan đường sắt đã cho chỉnh trang lại tường rào và cổng vào nghĩa trang cho khang trang hơn. Nhưng họ lại gỡ bỏ hai chữ “Đ.S.”

“Người dân ‘bức xúc,’ tự cho sơn lại màu đỏ trên dấu chữ cũ cho đến hôm nay,” chị Cẩm kể. Đó là lý do hiện nay ai nhìn vào cũng sẽ thấy chữ “Đ.S” không phải là chữ nổi như những chữ còn lại.

Chị Cẩm cho biết, hiện mỗi năm 4 lần, vào các ngày 20 Tháng 11 (ngày đạo Công giáo tổ chức Lễ các linh hồn), Mùng 2 Tết, ngày 17 Tháng Ba (ngày xảy ra tai nạn) và Rằm Tháng Bảy (ngày xá tội vong nhân của đạo Phật), ông Hoạt cùng những người dân địa phương đến nhổ cỏ, dọn nghĩa trang và thắp hương những người đã khuất.

“Sở dĩ chọn 4 ngày này là để người theo đạo Phật và Công giáo đều dự được,” ông Hoạt giải thích thêm.

Ước nguyện của người ở lại

Chị Cẩm nói, “Vào Tháng Mười, 2015, sau khi một vài tờ báo trong nước lên tiếng, ông Trần Ngọc Thành, nguyên là Chủ Tịch Hội đồng quản trị Đường Sắt Việt Nam đã ‘âm thầm về thăm nghĩa trang.’ Được tin này, tôi cùng bác Hoạt chạy đến và đề đạt bốn nguyện vọng.”

Các nguyện vọng đó là:

– Xin chỉnh trang lại hàng rào đã sụp đổ để bảo vệ dấu vết nghĩa trang.

– Xin cho tìm lại hình ảnh nạn nhân tử nạn và sơ đồ chôn cất 113 nạn nhân giúp thân nhân có căn cứ xác định mộ người thân.

– Khu đất chôn mộ đắp đất năm xưa giờ đây không còn dấu vết. Xin cho khai quật để xác định rõ số người nằm dưới (cho giám định lưu trữ mẫu ADN nếu có thể).

– Xây cho mỗi người một ngôi mộ nhỏ hoặc chỉ ô vuông gạch để không dẫm đạp lên.

Tuy nhiên, kết quả mà chị Cẩm đạt được đến giờ chỉ là hàng rào đã được chỉnh trang.

Còn những đề nghị khác rơi vào im lặng.

Anh Liêm Thanh Đoàn, hiện sống ở Orange County, một trong những người “nhảy tàu” liên tục từ năm 1978 đến năm 1990, cũng là người chứng kiến tai nạn lật tàu 183, nói với phóng viên Người Việt, “Tôi là người đi tàu suốt từ Nam ra Bắc, chứng kiến không biết bao nhiêu tai nạn xe lửa, nhưng tai nạn tàu 183 ngày đó là tai nạn để lại ấn tượng kinh hoàng nhất trong đời tôi.”

“Kể từ ngày đó, mỗi lần tàu qua đoạn đường này, dù xuôi hay ngược, họ đều kéo một hồi còi tàu dài, rất dài. Riêng với những người từng buôn chuyến mà biết chuyện, thì mỗi lần qua đây, họ đều lặng lẽ lấy chuối bày lên và thắp nhang,” người đàn ông gần 60 trầm giọng kể, cố đè lại tiếng khóc…

Đến bao giờ, những danh tánh, hình ảnh của người còn nằm lại nơi “Nghĩa trang Đ.S 17-03-1982” mới được công bố ra cho mọi người cùng biết, để, nói như anh Liêm, “là câu trả lời cho nhiều người biết lý do vì sao ngày đó có những người con, người mẹ, người chị, người anh, người bà của mình đã ra đi và mãi mãi không về…”
***************

HÌNH:

– Nghĩa trang Đ.S 17-03-1982, nơi yên nghỉ của nhiều thân phận bị lãng quên sau tai nạn lật tàu 183 tại Bàu Cá cách nay 36 năm (Hình: Trần Cẩm cung cấp)
– Chị Trần Thị Cẩm, người đầu tiên “lật lại” hồ sơ tai nạn lật tàu khiến hơn 200 người chết vào ngày 17 Tháng 3, 1982 tại ga Bàu Cá (Hình: Trần Cẩm cung cấp)
– Người dân tự sơn lại chữ “Đ.S” sau khi chính quyền đục bỏ tại Nghĩa Trang Đ.S 17-03-1982 (Hình: Trần Cẩm cung cấp)
– Cổng nghĩa trang chôn cất nạn nhân vụ lật tàu ngày 17 Tháng 3 năm 1982 lúc ban sơ (Hình: Trần Cẩm cung cấp)    

Tà đạo

Image may contain: one or more people
Tinh Hoa

Tà đạo:

🍀Những năm thập kỷ 60, không hiểu ở Trung Quốc có cái đạo gì mà xúi dục dân chúng cả nước ra sức đập phá không biết bao nhiêu là chùa triền, phá hủy biết bao nhiêu là tượng Phật, các công trình tâm linh, văn hóa, truyền thống đều bị đập phá, đốt phá không thương tiếc. Những thành tựu văn minh phải mất hàng nghìn năm mới hình thành được mà chỉ qua vài năm ngắn ngủi đã bị cái đạo đó xúi người ta phá hủy tan tàn, phá từ vật chất tới tinh thần, từ thể xác tới linh hồn.

🍀Nghe đâu còn lôi cả họ hàng thân thích ra đấu tố, con đấu tố cha mẹ, anh em đấu tố lẫn nhau, hàng xóm láng giếng đấu tố nhau, trò đấu tố thầy, mọi quan hệ, luân thường đạo lý đều bị xúi dục để tạo thành mâu thuẫn, cả xã hội lao vào cuộc đấu, đập, phá, giết. Biết bao nhiêu người bị đem ra xử tử, tạo nên nỗi kinh khiếp cho những kẻ còn sống xót.

🍀Nếu chính đạo dạy con người sống lương thiện, từ bi, chân thật, xả bỏ tham sân si hỷ nộ ái ố thì tà vạy đạo sẽ dạy những thứ ngược lại. Than ôi, thời đại biến đối ngày nay, người ta cho Thiện là Ác, cho tốt là xấu, coi Tà là chính, coi giả dối là chân thực nên chẳng còn biết đâu là chuẩn mực để đo lường tốt xấu, chỉ hùa theo đám đông khi nhìn nhận vấn đề và hành xử cũng theo đám đông bày đàn.

BÔNG HỒNG MÙA XUÂN 

 BÔNG HỒNG MÙA XUÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“Bán cho tôi một bông hồng đi, cô bé! 
Đoá nào tươi còn búp nụ mịn màng.” 
Tôi ngước lên: “Xin ông chờ tôi lựa. 
Một bông hồng vừa ý nghĩa, vừa sang!” 

Khách mỉm cười: “Cô thật tài quảng cáo! 
Thế…. hoa hồng mang ý nghĩa sao, cô?” 
Tôi bối rối: “Hình như người ta bảo 
Nó tượng trưng tình nồng thắm vô bờ.” 

“Cám ơn cô! Giá bao nhiêu đấy nhỉ?” 
Tôi lắc đầu: “Thôi, xin biếu không ông, 
Một đoá hoa không đáng bao nhiêu cả
Rất mong ông làm người đẹp vừa lòng.” 

Khách bỗng nhìn tôi, mắt như xoáy lốc. 
“Cô bé lầm! Tôi không tặng người yêu. 
Thằng bạn thân chiều qua vào nghĩa địa 
Một bông hồng cho nó bớt quạnh hiu. 

Nhưng cô bé phải nhận tiền tôi chứ! 
Hoa cho không, rồi mẹ mắng làm sao?” 
Tôi cúi mặt: “Xin gửi người xấu số, 
Chuyện của ông làm tôi bỗng nghẹn ngào!” 

Khách quay đi, áo hoa rừng đã bạc, 
Dáng cao gầy khuất hẳn bóng chiều nghiêng. 
Tôi bất chợt đưa tay làm dấu thánh 
Mẹ giữ gìn cho người ấy bình yên! 

Trời đầu xuân còn vương vương sắc lạnh, 
Nắng vàng mơ, má con gái thêm hồng. 
Tôi bâng khuâng nhớ đến người khách lạ. 
Mình nhớ Người, Người có nhớ mình không?

Chiều hai chín phố phường sao tấp nập 
Người ta vui từng cặp đẹp bên nhau. 
Mắt tôi lạc… rồi bỗng dưng bừng sáng
“Phải anh không? Người khách của hôm nào?” 

Tim đập mạnh sau áo hàng lụa mỏng, 
Anh đến gần, lời nói cũng reo vui: 
“…Sao cô bé… hàng hôm nay đắt chứ? 
Còn nhớ tôi… hay cô đã quên rồi! 

Hành quân xong, tôi vừa về hậu cứ, 
Ghé ngang đây xin cô một bông hồng 
Và mong cô cho tôi xin lời chúc: 
“Rất mong ông làm người đẹp vừa lòng.” 

Tôi bỗng nghe như tim mình thắt lại, 
Gượng tìm hoa, rồi trao tặng tay Người. 
Khách nhìn tôi, mắt bỗng dưng dịu xuống, 
Đầy đăm chiêu và nghiêm lại nụ cười: 

“- Xin lỗi cô, nếu lời tôi đường đột, 
Nhưng thật tình tôi không thể nào quên 
Người con gái trong một lần gặp gỡ, 
Nhớ thật nhiều… dù chưa được biết tên 

Một bông hồng – như hôm nào cô nói: 
Là tượng trưng tình nồng thắm vô bờ.” 
Tôi run tay, nhận hoa hồng Người tặng 
Sự thật rồi…. mà cứ ngỡ đang mơ.

Lý Thuỵ Ý
Đăng trong Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong Saigon 1968

From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen

Thống Nhất và nỗi đau ly tán của dân tộc

Thống Nhất và nỗi đau ly tán của dân tộc

TẠP GHI HUY PHƯƠNG

  

 

 

 

 

 

 

 

… Các mảnh vỡ từ hai bên cố ráp vào vẫn rời ra, xộc lệch không tài nào ăn khớp.
(Trăm Năm Ly Hợp- Lê Khắc Hoan)

Cảnh sum họp của những người con có Cha tập kết ra Bắc trở về Nam sau ngày 30 tháng 4-1975, tưởng chừng vui tươi cảm động đầy nước mắt trong một màn tái ngộ, đã trở thành một cảnh ngỡ ngàng xót xa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lưu Quý Kỳ, Vụ Trưởng Báo Chí Ban Tuyên Huấn Trung Ương và TTK Hội Nhà Báo Bắc Việt, năm 1954, đã cùng vợ ra đi tập kết, để lại miền Nam hai đứa con, một trai mới lên một tuổi và một gái mới lên ba, cho bà Ngoại nuôi. Người con trai bị bỏ lại miền Nam khi mới một tuổi nay là Thiếu uý Lưu Đình Triều thuộc Sư Đoàn 7BB, chờ đợi cái ngày hội ngộ với Cha Mẹ sau thời gian ly tán 30 năm, đã thấy rõ ràng mình vẫn là kẻ thù của cha mẹ và những đứa em sinh ra ở miền Bắc, khi chúng đã hát trước mặt anh câu “xô lên xác thù hung bạo!” Kẻ thù đó là đứa con bị bỏ lại 30 năm về trước, đang bị kết án là dắt lính hành quân đi bắt heo, bắt gà của dân!

Lưu Quý Kỳ, hay thân phụ nhà văn Phan Nhật Nam, cũng như biết bao nhiêu người Cha đi tập kết trở về, rút cuộc chỉ có một câu động viên con đang ở trong nhà tù tập trung không có bản án: “Ráng học tập, lao động tốt cho mau về với gia đình!” (theo Bên Thắng Cuộc. T.1)

Trong thời gian chúng tôi đi tù ở huyệnTân Kỳ thì nhà ông anh rể tôi ở huyện Đức Thọ cùng trong một tỉnh, thư không có, mà thăm cũng không. Nghe gia đình ở Huế kể lại ông anh rể tôi viết thư lên án gia đình bên vợ là “đã gây nhiều tội ác” trong khi  nhà chỉ có mình tôi bị động viên vào lính, còn lại là bốn người làm nghề dạy học.

Lê khắc Nghi, Chú họ người viết bài này có vợ là một hoa khôi làng Văn Xá, “cưới nhau xong là đi!” Ở miền Nam đứa con trai duy nhất lớn lên, “được” VC xã dụ dỗ tham gia du kích vì có Cha đi tập kết, trong một cuộc hành quân bị nghĩa quân miền Nam bắn chết. Ba mươi năm sau, ông Chú trở về theo một bà vợ răng đen do đảng “cơ cấu” và mấy đứa con rặt Bắc, “cháu bác Hồ.” Ngày trùng phùng hoá ra là ngày khởi đầu cho một giai đoạn ngỡ ngàng cay đắng. Sum họp như thế thà chia lìa còn hơn! Họ không còn giống nhau từ sự hiểu biết, giọng nói, lối sống và tư tưởng. Vợ chồng mà đó, anh em ruột thịt mà đó, cha con mà đó, nhưng xa cách nghìn trùng, càng dùng ngôn ngữ để tiến lại gần nhau, càng thấy xa nhau.

Trong Đèn Cù, Trần Đĩnh kể chuyện một ông cụ thổi kèn Tây trong ban nhạc của triều đình Huế thời Bảo Đại, tập kết ra Bắc, sau ngày “chiến thắng” chỉ còn độc một đôi dép râu, không có cả…bít tất. Ông cụ nói như lời trăng trối: “- Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?”

   Trần Đĩnh cũng như triệu triệu người miền Bắc ngây ngô, mơ màng thằng dân trong này bị bóc lột tận xương tuỷ, không có nổi cái chén mà ăn cơm, trong hành lý vào Nam của Trần Đĩnh có năm bảy thứ cứu đói được mang vào, trong đó có cả một cái thùng nhựa đựng nước kẻo sợ trong Nam không có được cái miểng sành chăng?  Người ngoài Bắc nô nức đi Nam xem chúng nó bị bóc lột đến cỡ nào, không ngờ “trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hoá ra đá!” hay “buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét!”

Dân miền Nam quả là không đợi không chờ ai  vào giải phóng. Câu chuyện của Minh Trường, nguyên phóng viên nhiếp ảnh TTX Bắc Việt, kể lại cái hí hửng của kẻ “giải phóng” khi vào Sài Gòn đã bị một thau nước lạnh dội vào mặt. Bà mẹ  ra mở cửa, thấy mặt anh thì vội vàng chấp tay lạy:

– “Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên!”

Lê Khắc Hoan, một ký giả, nhà văn cũng là nhà giáo “bên thắng cuộc,” đã viết cuốn “Trăm Năm Ly Hợp” nói về chuyện đoàn tụ và ly cách của dòng họ Lê Khắc từ một ngôi làng nhỏ của miền Trung sỏi đá: Văn Xá, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Sau 30 năm tập kết, cán bộ Bắc Việt Lê Khắc Hoan trở về, hí hửng tưởng bà con dòng họ này ai cũng chờ đợi, hân hoan đón tiếp.. Nhưng sự thật hoàn toàn khác những điều ông đã suy nghĩ! Ông về, vẫn mang theo loại chữ nghĩa nghịch với lỗ tai người miền Nam, có đoạn ca tụng “bác Hồ”, dùng chữ “ngụy quyền Saigon,” kêu gọi bà con “về đầu tư, xây dựng đất nước”, ca tụng làng Văn Xá Anh Hùng chống Mỹ (!), thiết nghĩ không có sức thuyết phục để anh em trong dòng tộc ngồi lại với nhau, mà chỉ gây thêm chia rẽ.

Nhưng khi tác giả trở về Nam, một số thân tộc đã bỏ nước ra đi, một số phải chịu cảnh tù đày, một số khác thất vọng, cay đắng, trừ những người ít bị thương tổn, không ai muốn liên lạc hay hợp tác, nhận họ với phía “giải phóng”. Ông tác giả này đã thú nhận gặp phải những sự lạnh lùng, ngỡ ngàng cay đắng, đã gửi đi hằng trăm e-mail, lời nhắn cho bà con, nhưng không hề được hồi âm, và ngay đối với người viết bài này, đứa em họ ở miền Nam, cũng ngần ngại không muốn cho tác giả biết địa chỉ, dù là địa chỉ e-mail. Ðiều này chứng tỏ, “miền Bắc nhận hàng” đã xong, nhưng miền Nam vẫn còn miễn cưỡng, chưa muốn “nhận họ”.

Cuối cùng, trong một sự thật cay đắng, người đi tập kết trở về đã phải thốt lên: “ … Các mảnh vỡ từ hai bên cố ráp vào vẫn rời ra, xộc lệch không tài nào ăn khớp!”

Sau 30 năm, khi con tàu xuyên Việt có thể nhả khói, kéo những hồi còi, chạy suốt, nối Hà Nội-Huế với Sài Gòn, nhân gian, bao nhiêu dòng họ tưởng là đoàn tụ, nhưng đây là lúc chia cách lớn nhất, không còn là vì khoảng cách của sông núi, mà bởi lòng người ly tán, tưởng chừng, rồi đây cả trăm năm sau, cũng chưa thể hàn gắn được

Để kết luận bài này tôi xin mượn lời của Lê Khắc Hoan, một nhà văn tập kết trở về sau ngày “thống nhất:” Hai phần ba thế kỷ trong vòng xoáy đối đầu tàn khốc, rốt cuộc, không một người nào ở phía nào được hạnh phúc vẹn tròn. Cho dù công danh hiển đạt. Cho dù vợ đẹp con khôn. Cho dù tiếng tăm lừng lẫy, chính trực nhân từ, tài ba uyên bác cũng nổi chìm quăng quật trong cuộc chiến đa diện, đa phương…”

Chúng tôi nghĩ khác, hạnh phúc sẽ được vẹn toàn, nếu từ nửa thế kỷ trước, nếu đất nước này không bất hạnh có nhân vật Hồ Chí Minh, mang chủ nghĩa Cộng Sản từ Liên Xô về để đày đọa dân tộc Việt Nam trong bao nhiêu năm. Chắc chắn chúng ta sẽ có “hạnh phúc vẹn toàn,” đó là ngày chế độ Cộng Sản tàn lụi trên quê hương Việt Nam.

(4- 2018)

Maria Mẹ Tháng Hoa

Maria Mẹ Tháng Hoa

Tuyết Mai

 Tháng 5 về chúng con trên khắp cùng thế giới hớn hở mừng vui vì từ nhà cho đến nhà thờ nơi đâu cũng chưng hoa thơm ngát và đủ sắc mầu hoa. Ngay cả chị em ngoài chợ là những người lương giáo cũng biết tìm hoa mua để bán. Tự dưng tháng 5, tháng hoa dâng Đức Mẹ mà ở khắp mọi nơi đều có chung một niềm vui như ngày hội vậy. Vui nhất và đẹp nhất phải kể là ở tất cả các giáo xứ luôn luôn đông đảo người từ trẻ tới già ai ai cũng có việc để làm. Tiếng cười tiếng nói rộn rịp trong không khí tươi vui vì trẻ nít thì chúng được tập múa dâng hoa. Người lớn thì đến phụ làm đẹp cho các bé, người thì cắm hoa. Các ông thì lăng xăng lo kiệu rước Mẹ, v.v… Nên chúng con cũng muốn đóng góp chút khả năng nhỏ bé, khiêm nhường mà dâng lên Mẹ bài hát tuy đơn sơ nhưng chứa đựng tấm chân tình của con cái yêu mến Mẹ của mình.

**********************

Maria Mẹ Tháng Hoa

Tuyết Mai (13) 5-10-2003

Mẹ ơi! Đây tháng hoa về Dâng Kính Mẹ.

Muôn mầu hoa cùng nhau khoe sắc thắm tươi.

Hương ngát thơm bay tận Tòa Mẹ Thiên Chúa.

Cùng các Triều Thần Ca Tụng Mẹ Trinh Vương.

Ma-ri-a! Nữ Vương Trinh Khiết Diễm Kiều.

Đòan con xin kết Hoa Thiêng Dâng Mẹ,

Là yêu mến Mẹ qua chuỗi ngày Mân Côi.

 

Mẹ ơi! Đây tháng hoa về Yêu Kính Mẹ.

Bao ngày qua Mẹ hằng an ủi chở che.

Bao khó khăn cuộc đời Mẹ luôn sát cánh.

Cả lúc đêm về nghe lòng buồn miên man.

Ma-ri-a! Nữ Vương Thiên Quốc vẹn tòan.

Đòan con xin kết Hoa Thiêng Dâng Mẹ,

Là yêu mến Mẹ bao tháng ngày Mân Côi.

ĐK:

Ma-ri-a! xin Mẹ cầu cùng Thiên Chúa.

Giúp sức chúng con qua mọi cơn cám dỗ.

Để mãi trọn lành trong Tình Yêu Chúa Cha.

Ma-ri-a! xin Mẹ nguyện cầu cùng Chúa.

Thế giới ấm no qua mọi cơn nguy biến.

Dân Chúa an bình luôn phụng thờ Cha Chí Tôn.

Mẹ ơi! Đây tháng hoa về Cung Kính Mẹ.

Nơi trần gian Mẹ thường khuyên nhủ đàn con.

Bao khó nguy con tìm Tràng Hạt Mân Côi.

Tìm đến với Mẹ sẽ được niềm yên vui.

Ma-ri-a! chúng con tha thiết nguyện cầu.

Cùng Mẹ Dấu Ái siêng năng kinh nguyện.

Cầu con cái Mẹ nơi thế trần Khang An.

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi đem đến những phương trời xa để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

https://www.youtube.com/watch?v=9W3NK9Sbfoc&t=16s

Hãy tính xem bạn có thể sống bao lâu?

Hãy tính xem bạn có thể sống bao lâu?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Diana S Woodruff – Pak tiết lộ ‘Công thức vàng’ để tính tuổi thọ

Làm thế nào để biết chúng ta có thể sống được bao lâu? Theo nghiên cứu của tiến sĩ Mỹ, có 6 yếu tố quyết định phần lớn tuổi thọ của bạn. Hãy thử xem công thức để biết tuổi của bạn.

Theo chuyên gia Tâm lý, tiến sĩ Diana S Woodruff – Pak, khoa Thần kinh, Đại học Temple ở Philadelphia, sau hàng chục năm nghiên cứu về người già và tuổi thọ đã tổng hợp ra công thức tính tuổi thọ của mỗi người dựa trên những thói quen và đặc điểm của họ.

Bài trắc nghiệm này giống như một chiếc máy tính có công thức, bạn muốn thử tính tuổi thọ của mình thì nên dùng giấy bút ghi chép cẩn thận theo hướng dẫn chi tiết sau đây.

Xin lưu ý rằng khi mỗi câu hỏi được trả lời, số điểm sẽ được cộng hoặc trừ đi cho phù hợp và kết quả cuối cùng chính là câu trả lời. Đừng quên sử dụng số tuổi ban đầu của bạn để tính, nếu mục nào không liên quan, thì bỏ qua.

Hãy bắt đầu với bước thứ nhất:

Hãy bỏ ra 5 giây để tìm ra “tuổi thọ cơ bản” của bạn (tuổi thọ này là cơ bản, chưa bao gồm các yếu tố thói quen sinh hoạt cũng như chất lượng chăm sóc sức khỏe cao hay thấp của bạn).

 

 

 

 

 

Bước thứ hai:

Sau khi bạn xem bảng tính tuổi thọ trung bình cơ bản ở trên, lấy ra con số tuổi thọ của mình làm chuẩn. Ví dụ bạn là nam giới, bạn đang trong độ tuổi 30-39, thì số tuổi chuẩn của bạn là 74.

Tiếp theo, bạn bắt đầu tính tuổi của mình dựa trên thói quen và đặc điểm riêng của cá nhân theo các câu hỏi ở 6 hạng mục dưới đây, bao gồm: Thói quen sinh hoạt, trạng thái tâm lý tinh thần, tình trạng hôn nhân, tình hình công việc, điều kiện môi trường sống và yếu tố di truyền.

Hãy tính thật chuẩn dựa trên việc trả lời câu hỏi một cách thành thật.

  1. Thói quen sinh hoạt

Tập thể dục 3 lần một tuần: Cộng 3 tuổi

Thích ăn trái cây và rau của quả thường xuyên: Cộng 2 tuổi

Nuôi thú cưng, con vật trong nhà: Cộng 1 tuổi

Hút thuốc nhiều hơn 2 gói/ngày: Trừ 12 tuổi

Hút thuốc 1 ~ 2 gói/ngày: Trừ 7 tuổi

Hút thuốc 20 điếu hoặc ít hơn mỗi ngày: Trừ 2 tuổi

Ngủ quá 10 tiếng hoặc ít hơn 5 tiếng/ngày: Trừ 2 tuổi

Béo phì: Trừ 2 tuổi

Tư thế đứng/ngồi sai cách: Trừ 2 tuổi

Đã có bệnh mãn tính hoặc thường xuyên mắc các bệnh nhẹ: Trừ 5 tuổi.

Tập thể dục 3 lần một tuần: Cộng 3 tuổi

  1. Trạng thái tinh thần, tâm lý

Hầu hết thời gian đều cảm thấy hạnh phúc và hài lòng: Cộng 2 tuổi

Lạc quan: Cộng 1 đến 3 tuổi

Có những người bạn để chia sẻ khó khăn, vui buồn: Cộng 1 tuổi

Theo đuổi tín ngưỡng một cách kiên định: Cộng 7 tuổi

Tự ti: Trừ 4 tuổi

Cố chấp: Trừ 2 tuổi

Ưa mạo hiểm (chẳng hạn như đi xe phân khối lớn): Trừ 2 tuổi

Trầm cảm: Trừ 1-3 tuổi

Hầu hết thời gian đều cảm thấy hạnh phúc và hài lòng: Cộng 2 tuổi (Ảnh minh họa)

  1. Tình trạng hôn nhân

 

 

 

 

 

Đã kết hôn: Cộng 1 tuổi

Nam giới đã ly hôn và sống một mình: Trừ 9 tuổi

Phụ nữ đã ly hôn và sống một mình: Trừ 5 tuổi

Phụ nữ không sinh con hoặc không có con sau tuổi 40: Trừ 0,5 tuổi.

  1. Tình trạng nghề nghiệp

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhà nghiên cứu chuyên nghiệp: Cộng 1,5 tuổi

60 tuổi vẫn đang làm việc: Cộng 2 tuổi

65 tuổi vẫn đang làm việc: Cộng 3 tuổi

Làm việc ở thành phố lớn (hoặc dành phần lớn thời gian sống của cuộc đời sống ở thành phố lớn): Trừ 1 tuổi

Làm việc ở các thị trấn ngoại thành, nông thôn (hoặc dành phần lớn thời gian sống ở đây): Cộng 1 tuổi

  1. Môi trường, điều kiện sống

Sống ở khu vực thoáng đãng, có tầm nhìn rộng mở, không khí trong lành: Cộng 2 tuổi

Sống ở nơi ồn ào trong thời gian dài: Trừ 1 tuổi

  1. Yếu tố di truyền

Mẹ đẻ sống thọ 80 tuổi trở lên: Cộng 4 tuổi

Cha đẻ sống thọ 80 tuổi trở lên: Cộng 2 tuổi

Ông bà nội ngoại sống thọ 80 tuổi trở lên: Cộng 1 tuổi

Có thành viên trong gia đình chết vì bệnh tim trước 50 tuổi: Trừ 3 tuổi

Có thành viên trong gia đình chết vì bệnh ung thư dạ dày: Trừ 2 tuổi

Có thành viên trong gia đình chết vì bệnh ung thư vú: Trừ 2 tuổi

Có thành viên trong gia đình chết trước 60 tuổi vì tự tử hoặc có bệnh bất kỳ: Trừ 1 tuổi

Đã xong, bạn đã tính được sơ bộ tuổi thọ của mình hay chưa?

 

 

 

 

 

 

Mặc dù công thức này không thể sử dụng làm cơ sở duy nhất để tính chính xác tuổi thọ của từng cá nhân, nhưng nó vẫn rất có giá trị. Hãy tham khảo những thông tin trong câu hỏi, câu nào được cộng điểm, bạn nên áp dụng, câu nào bị trừ điểm, bạn nên loại bỏ hoặc hạn chế hay phòng tránh.

Đó là những gợi ý tuyệt vời để bạn biết cách chăm sóc sức khỏe của mình một cách cụ thể hơn.

Hãy bắt đầu quan tâm đến sức khỏe của bạn ngay bây giờ.

From chị  Xuân Nguyễn gởi