Hình ảnh Tổng bí thư chúc Tết đồng bào cả nước

Hoa Kim Ngo shared LS Dũng Võ Văn‘s post.  
 
 

Lẽ ra Thư chúc tết đồng bào cả nước phải do Chủ tịch nước đọc, năm nay có một sự thay đổi không hề nhẹ chăng ??? sao lại để bác tổng BT Trọng đọc nhỉ ??? 😇

Vì chỉ có Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới là người đứng đầu Nhà nước VN, thay mặt nước CHXHCNVN về mặt đối nội và đối ngoại, do đó Thư chúc tết không ai khác ngoài Chủ tịch nước là người đọc thư này mới hợp lý các bạn nhé !

Tổng bí thư chúc Tết các lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc cùng toàn thể đồng chí, đồng bào, chiến sỹ cả nước, kiều bào ở nước ngoài.
 
VIETNAMNET.VN
 

Thánh Claude de la Combière

15 Tháng Hai

    Thánh Claude de la Combière
(1641- 1682)

    Thánh Claude sinh năm 1641 gần Lyons, nước Pháp, trong một gia đình đạo đức, giầu có. Ngài theo học trường của các cha dòng Tên về âm thanh và nghệ thuật.

    Sau đó Claude vào trường đệ tử dòng Tên ở Avignon, là nơi ngài học xong triết học và bắt đầu dạy về nhân văn. Trong thời gian ngài dạy học ở Avignon là khi đạo quân của Louis XIV chiếm đóng, dù đó là nơi đức giáo hoàng cư ngụ. Khi hòa bình trở lại, thành phố Avignon cử mừng lễ Thánh Phanxicô Sales; mặc dù chưa được thụ phong linh mục, Claude là một trong những người được yêu cầu giảng thuyết. Ðể hoàn tất chương trình thần học ngài được gửi sang Balê là trung tâm văn hóa của nước Pháp, ở đó ngài được chọn làm thầy giáo tư cho các con của một bộ trưởng Pháp, là ông Colbert. Nhưng trong một bài viết, ông Colbert có những lời châm biếm tôn giáo mà Cha Claude không tán thành với ông bộ trưởng, do đó ngài bị gửi trả về Avignon và được bổ nhiệm việc thuyết giảng ở một nhà thờ thuộc trường đại học.

    Trong các bài giảng, ngài thường tố cáo những sai lầm của lạc thuyết Jansen (1) mà ngài thấy đầy dẫy ở Balê. Cha Claude bài trừ tà thuyết bằng cách giảng dạy về việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong một cuộc tĩnh tâm ngài thề tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.

    Hai tháng sau khi thề hứa, ngài được bổ nhiệm làm bề trên cho một trụ sở nhỏ của dòng Tên ở Paray. Chính ở đây mà ngài gặp Sơ Margaret Mary Alacoque (2), và là cha giải tội cho sơ và nhấn mạnh đến việc sùng kính Thánh Tâm Chúa.

    Sau đó Cha Claude được sai đến nước Anh với công việc giải tội cho Nữ Công Tước của York. Ngài rao giảng không những bằng lời nói mà còn bằng hành động, và đã đưa nhiều người Tin Lành trở lại đạo. Trong thời gian ở đây, những chống đối người Công Giáo ngày càng gia tăng. Có tiếng đồn cho rằng người Công Giáo âm mưu giết vua để tái lập đạo Công Giáo tại Anh. Cha Claude bị bắt và bị cầm tù về tội tham dự vào âm mưu này trước khi thành công trong việc hoán cải nhà vua. Chính nhờ vua Louis XIV can thiệp mà Cha Claude không bị xử tử.

    Cha Claude bị trục xuất, nhưng thời gian tù đầy đã ảnh hưởng tệ hại đến sức khỏe của ngài. Theo lời khuyên của Sơ Margaret Mary, ngài trở về Paray và từ trần tại đây năm 1682. Một ngày sau khi ngài chết, Sơ Margaret Mary được thị kiến siêu nhiên, đảm bảo rằng Cha Claude La Colombiere không cần được cầu nguyện, vì ngài đã ở trên thiên đàng.

    Cha Claude được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 31 tháng Năm 1992.

    (1) Cornelius Jansen – Giám Mục của Yprés – chủ trương rằng bản tính loài người quá hư hỏng vì tội nguyên tổ nên không có khả năng chống lại sự cám dỗ, không xứng đáng được rước lễ thường xuyên và Jansen chống lại sự thờ kính nhân tính của Chúa Giêsu được thể hiện qua việc sùng kính Thánh Tâm.

    (2) Thánh Margaret Mary Alacoque là người đã được Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần và sứ điệp đặc biệt là sùng kính Thánh Tâm Chúa. Thánh nữ được Chúa Giêsu gọi là “Người môn đệ yêu dấu của Thánh Tâm Ta.”

================
    Thánh Joan ở Valois
(1464 – 1505)

    Thánh Joan là cô con gái thứ hai của Vua Louis XI nước Pháp. Khi mới sinh được hai tháng thì ngài đã được hứa gả cho Công Tước Louis ở Orleans, và hôn nhân của họ xảy ra vào năm 1476 khi ngài mới 12 tuổi. Dĩ nhiên đó là một hôn nhân không có giá trị, và Công Tước Louis lấy ngài cũng chỉ vì lo sợ cho tương lai không biết sẽ ra sao nếu không tuân lệnh của nhà vua.

    Joan là một thiếu nữ tật nguyền, ngài bị gù lưng, đi khập khiễng và bị rỗ. Mặc dù ngài phải đau khổ vì tàn tật, nhưng ngài đã kiên nhẫn chấp nhận sự bất lực ấy và dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và suy niệm.

    Khi chồng của ngài lên ngôi vua, Louis XII, hành động đầu tiên của ông là xin đức giáo hoàng tuyên bố hôn nhân ấy vô hiệu và chưa thành. Do đó, Joan không được làm hoàng hậu của nước Pháp; ngài được ban cho tước hiệu Nữ Công Tước của Berry. Ðối với Joan đó là sự khuây khỏa khôn cùng và ngài đã đến Bouges. Ở đây ngài sống cuộc đời ẩn dật để cầu nguyện, và vào năm 1501, theo lời khuyên của vị linh hướng là Cha Gilbert Nicolas dòng Phanxicô, ngài sáng lập dòng nữ tu chiêm niệm – Nữ Tu Dòng Truyền Tin mà quy luật chính yếu là bắt chước các nhân đức của Ðức Maria như được kể trong Phúc Âm.

    Thánh Joan từ trần ngày 4 tháng Hai năm 1505 khi 41 tuổi. Ngài được phong thánh vào năm 1950.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

Anh chị Thụ & Mai gởi

Các nhà hoạt động ‘bất ngờ’ tưởng niệm cuộc chiến Việt-Trung

Các nhà hoạt động ‘bất ngờ’ tưởng niệm cuộc chiến Việt-Trung

Một nhóm 6 nhà hoạt động bất ngờ tiến hành tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt-Trung vào sáng 30 Tết, tức ngày 15/2, ở tượng đài Lý Thái Tổ, trung tâm Hà Nội.

Lễ tưởng niệm diễn ra sớm 2 ngày so với mốc chính xác của cuộc chiến nổ ra cách đây gần 40 năm, khi Trung Quốc tung quân tràn vào nhiều tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam vào ngày 17/2/1979.

Chúng tôi cũng ra thắp hương, xong chúng tôi căng mấy băng-rôn chủ đề vào ngày 17/2. Gồm 3 nội dung: 17/2/79 chúng tôi không quên, thứ hai là Đả đảo Trung Quốc xâm lược, thứ ba nữa là Trung Quốc là kẻ thù số 1 của Việt Nam.

Truyền thông Việt Nam thời những năm 1980 mô tả chi tiết rằng Trung Quốc đã gây ra nhiều “tội ác tàn bạo” ở các tỉnh này trước khi rút quân về nước do bị Việt Nam “chống trả” và “phản công”. Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1990, cuộc chiến hiếm khi được đề cập trên truyền thông chính thống của nhà nước.

Ông Trương Văn Dũng nói với VOA rằng ông và 5 nhà hoạt động khác phải tưởng niệm một cách “thầm lặng” hôm 15/2 là để tránh bị chính quyền “ngăn cản, đàn áp”. Ông cho biết thêm:

“Hôm nay gồm có tôi, chị Trần Thị Thảo, anh Lễ, anh Lê Anh Hùng và anh Phùng Thế Dũng. Chúng tôi cũng ra thắp hương, xong chúng tôi căng mấy băng-rôn chủ đề vào ngày 17/2. Gồm 3 nội dung: 17/2/79 chúng tôi không quên, thứ hai là Đả đảo Trung Quốc xâm lược, thứ ba nữa là Trung Quốc là kẻ thù số 1 của Việt Nam. Chúng tôi cũng lựa chọn cách là ngày hôm nay đến trước một ngày để họ không biết, họ không ngăn chặn chúng tôi”.

Ông Dũng, thành viên hội Bầu bí Tương thân, chuyên điều phối các hoạt động trợ giúp dành cho các tù nhân lương tâm, nhắc lại rằng hoạt động tưởng niệm cuộc chiến tháng 2/1979 hồi năm ngoái và các năm trước đều bị chính quyền cản trở ít nhiều.

Nhà hoạt động này thậm chí dùng từ “đàn áp”, “bắt bớ” để nói về việc nhà chức trách thủ đô ngăn cản các cuộc tưởng niệm trước đây.

Trong những năm trước đây, có những hình ảnh trên mạng xã hội cho thấy một số người, được tin là làm việc cho chính quyền, đã giật vòng hoa, hoặc khiêu vũ, hoặc cắt đá gây bụi mù mịt để ngăn cản các cuộc tưởng niệm tương tự ở tượng đài Lý Thái Tổ.

Họ không thể nào nương tay, bất kể ngày nào, nhất là vấn đề này thì nhạy cảm. Và mối quan hệ của họ, của Hà Nội với Bắc Kinh, nên họ cũng không muốn làm mất lòng Bắc Kinh, nên họ sẽ bằng mọi cách ngăn cản.

Bất chấp những hành động đó, ông Dũng, người tích cực hoạt động vì chủ quyền đất nước cũng như thúc đẩy dân chủ, bảo vệ dân oan, nói rằng những người như ông không bao giờ quên “những người lính hy sinh bảo vệ tổ quốc” và luôn quyết tâm tìm mọi cách để tưởng nhớ.

Ngày 17/2 năm nay trùng với mùng 2 Tết. Khi được hỏi liệu ông có cho rằng không khí vui vẻ ngày Tết có làm chính quyền “nhẹ tay” với hoạt động tưởng niệm cuộc chiến giữa Việt Nam với Trung Quốc, nếu người dân thực hiện ở khu vực trung tâm Hà Nội, nhà hoạt động Trương Văn Dũng nhận định:

“Họ không thể nào nương tay, bất kể ngày nào, nhất là vấn đề này thì nhạy cảm. Và mối quan hệ của họ, của Hà Nội với Bắc Kinh, nên họ cũng không muốn làm mất lòng Bắc Kinh, nên họ sẽ bằng mọi cách ngăn cản”.

Theo nhà hoạt động này, nếu các nhóm xã hội dân sự và người dân ra tuyên bố và kêu gọi công khai trên mạng để tụ tập và tưởng niệm, gần như có thể đoán chắc chắn rằng phía chính quyền sẽ “ngăn chặn”, “bắt bớ” trước khi việc tưởng niệm có thể diễn ra.

Sau nhiều cuộc biểu tình rầm rộ ở Hà Nội phản đối các hoạt động của Trung Quốc bị cho là xâm phạm chủ quyền Việt Nam, nhà chức trách thủ đô hồi tháng 8/2011 đã ban hành một thông báo “yêu cầu chấm dứt mọi hoạt động tụ tập, biểu tình, tuần hành tự phát trên địa bàn thành phố”.

Báo chí trong tay chính quyền nói có những “thế lực chống đối Nhà nước Việt Nam” trong và ngoài nước đã “lợi dụng” tình cảm yêu nước của nhân dân để “kêu gọi, kích động, hướng dẫn quần chúng” gây mất an ninh trật tự ở Hà Nội.

Kể từ thông báo này, chính quyền đã có những động thái mạnh tay, tuy nhiên các cuộc biểu tình và tưởng niệm vẫn diễn ra nhưng phần lớn có quy mô nhỏ và diễn ra bất ngờ.

Một nhóm 6 nhà hoạt động bất ngờ tiến hành tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt-Trung vào sáng 30 Tết, tức ngày 15/2, ở tượng đài Lý Thái Tổ, trung tâm Hà Nội.
VOATIENGVIET.COM

34 người chết vì tai nạn giao thông ngày mùng 1 Tết Mậu Tuất

 16/02/2018

(NLĐO)- Ngay trong ngày mùng 1 Tết Mậu Tuất 2018 đã có tới 34 người thiệt mạng, 35 người bị thương vì tai nạn giao thông, là ngày có số người chết và bị thương vì tai nạn giao thông cao nhất trong 3 ngày nghỉ Tết đã qua.

 

34 người chết vì tai nạn giao thông ngày mùng 1 Tết Mậu Tuất - Ảnh 1.

Vụ tai nạn giao thông khiến 2 người tử vong và 4 người bị thương tại tỉnh Quảng Bình hôm 14-2 – Ảnh: M. Tuấn

Ông Nguyễn Trọng Thái, Chánh Văn phòng Uỷ ban An toàn giao thông (ATGT) Quốc gia, cho biết theo báo cáo của Văn phòng Bộ Công an, trong ngày mùng 1 Tết Mậu Tuất 2018 (ngày 16-2), toàn quốc xảy ra 46 vụ tai nạn giao thông (TNGT), trong đó có 35 vụ tai nạn, 11 vụ va chạm giao thông đường bộ, làm 34 người chết, 35 người bị thương.

33 người chết vì tai nạn giao thông trong ngày 30 Tết

Ông Nguyễn Trọng Thái, Chánh văn phòng Ủy ban An toàn giao thông (ATGT) Quốc gia, cho biết theo báo cáo của Văn phòng Bộ Công an, trong ngày 15-2 (30 Tết), cả nước xảy ra 33 vụ tai nạn giao thông (TNGT), 11 vụ va chạm giao thông đường bộ và 2 vụ TNGT đường sắt, làm 33 người chết, 21 người bị thương.

15/02/2018

(NLĐO)- Theo Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia, trong 2 ngày cuối của năm Đinh Dậu đã có 53 người chết vì tai nạn giao thông, 49 người bị thương, trong đó riêng ngày 30 Tết có tới 33 người chết.

53 người chết vì tai nạn giao thông trong 2 ngày cuối năm - Ảnh 1.

Hiện trường vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra trên Quốc lộ 1 đoạn qua Quảng Bình – Ảnh: Minh Tuấn

‘Giữ nước từ xa’, ‘từ khi chưa lâm nguy’ mà như thế này ư?

 

 ‘Giữ nước từ xa’, ‘từ khi chưa lâm nguy’ mà như thế này ư?

Bùi Tín

16-2-2018

TBT Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: Reuters

Ngày giáp Tết Mậu Tuất – 2018, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có buổi họp cấp cao đọc một bài dài chúc Tết toàn đảng toàn quân và toàn dân.

Vẫn là một kiểu tuyên truyền, nói lấy được, tự khen đảng và Nhà nước, kiểu « thành tích lịch sử », « lòng dân phấn chấn », lặp lại những khái niệm mơ hồ không ai hiểu rõ như « hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa », một khái niệm giáo điều mốc meo không tồn tại ở đâu trên thế giới này.

Ông Tổng còn nói đến thế trận « quốc phòng toàn dân », « an ninh nhân dân » và cao hứng nhấn mạnh « quốc phòng toàn dân theo tinh thần ‘giữ nước từ xa’ và ‘giữ nước từ khi nước chưa nguy!’ ».

Ông Tổng Trọng nói có thật lòng không?

Vì sự thật không ai có tinh thần cảnh giác cao độ với Trung quốc bành trướng xâm lược Trung Cộng, sớm báo động từ xa bằng cô Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức Mẹ Nấm, cô Bùi Minh Hằng, cô Đoan Trang… và hằng trăm nam nữ công dân khác mang tinh thần « quốc phòng toàn dân » đã lên tiếng ngay sau cuộc mật đàm bán nước Thành Đô mà các tổng bí thư tiền nhiệm của ông Trọng là Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã thực hiện với Giang Trạch Dân và Lý Bằng.

Theo ông tổng Trọng, hiện nay nguy cơ mất nước của nước ta vẫn còn ở xa ư?

Và cũng theo dòng suy nghĩ của ông, hiện nay nền độc lập của ta chưa lâm nguy ư!

Xin lỗi ông giáo sư về Xây dựng đảng, ông lầm to rồi đó!

Chả trách cách đây 7 năm, khi Trung Cộng cho tàu khoan dầu lớn nhập sâu vào vùng biển nước ta, ông đã nhân danh chủ tịch Quốc hội trấn an quốc hội và toàn dân rằng « tình hình biển Đông không có gì mới ».

Với dòng suy nghĩ như thế, tội của ông đối với nhân dân, với quân đội, với Nhà nước, với cái đảng của ông là to lắm, nặng lắm đấy.

Mong ông Trọng giở bản đồ đất nước để xem người Trung Quốc đã hiện diện hàng vạn, hàng chục vạn trên đất nước ta, Từ Bắc chí Nam, thuộc đủ mọi ngành: trồng rừng, khai thác đủ thứ mỏ quặng, đặc biệt là bôxit, nhận thầu các công trình thủy điện, nhiệt điện, phân bón, hóa chất, giao thông vận tải, hàng hóa Tàu – hàng giả, hàng lậu, hàng độc hại… tràn qua biên giới gần như được mở toang, lan ra khắp cả nước, với những thị trấn Tàu, cửa hàng Tàu, quảng cáo Tàu tràn ngập nước ta.

Mới đây, ông còn ký Tuyên bố chung với Tập Cận Bình về 2 bên hợp tác giúp nhau đào tạo cán bộ cấp cao ngành quốc phòng và đối ngọai, các tỉnh biên giới Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh hợp tác về mọi mặt với khu tự trị Choang / tỉnh Quảng Tây, nhất là về đào tạo cán bộ, một kiểu sáp nhập vào nhau như trong một nước thống nhất. Ông Trọng đã kéo nguy cơ mất nước đến gần hơn rất nhiều.

Ông kêu gọi phải giữ nước từ xa, nhưng chính ông lại mở cửa đón mời, rước Trung quốc vào sâu khắp nơi, về mọi mặt, tràn ngập trong nước này.

Vậy mà ông cho rằng đất nước chưa lâm nguy ư? Để chờ đến bao giờ mới là nguy cơ mất nước, mất độc lập, thưa ngài Giáo sư chính trị ?

Rất mong trong những ngày Tết Mậu Tuất này, bà con ta hãy đem bài nói chúc Tết của ông tổng bí thư được đăng trên mọi tờ báo lề phải, bàn tán về lời chúc về « tinh thần giữ nước từ xa » và « giữ nước từ khi nước chưa nguy » để đánh giá xem ông thật lòng ra sao, ông chân thành và sáng suốt ra sao.

Nếu như ông thật lòng với chính mình thì ông hãy cùng Bộ Chính Trị giải oan cho hơn 100 chiến sĩ dân chủ đang nằm trong tù, vì chính họ là những chiến sĩ sáng suốt dũng cảm thật sự có « tinh thần giữ nước từ xa, và giữ nước từ khi nước chưa lâm nguy », theo đúng lời chúc Tết của ông!

Nhân Tết Mậu Tuất, thả ngay hôm nay mọi chiến sĩ dân chủ, đó là nét liêm sĩ và lương thiện nhân văn cả xã hội đang trông.

Đoan Trang – Người con gái Việt Nam da vàng

Đoan Trang – Người con gái Việt Nam da vàng

Nguyễn Ngọc Già (Danlambao) – Bài viết dưới đây, được viết vào ngày 08/2/2010, trên Dân Luận. Lúc bấy giờ, khi nhà báo Đoan Trang vừa chia tay với Vietnamnet. Cô tâm sự: Ngoài công việc viết báo, cô không biết làm nghề gì khác. Đoan Trang ngày đó cũng bộc bạch rằng: cô không thích và không có khả năng làm chính trị. Tám năm! Nhphanh quá Đoan Trang nhỉ! Giờ đây, em “buộc phải” làm chính trị – “Chính Trị Bình Dân”. Anh Nguyễn Ngọc Già xin Dân Làm Báo dành một chỗ cho bài viết “xưa nhưng không cũ”, khi hay tin em đoạt giải Homo Homini do tổ chức People In Need trao tặng. Chúc sức khỏe và bình an đến Đoan Trang – Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.

*

Em đã khóc khi phải chia tay với Vietnamnet. Em không thích và không có khả năng làm chính trị, tôi cũng biết và hoàn toàn tin điều này, mặc dù có một số người họ phải tốn khá nhiều thời gian để tin điều này, bởi niềm tin vào điều tốt đẹp có vẻ xa lạ quá đối với họ. 

Em hãy khóc cho những điều có thật mà lại lạc lõng trong xã hội ngày nay. 

Của hiếm bao giờ cũng là của quý. Hãy tin tôi, Đoan Trang ạ!

Hãy cho phép tôi được gọi em là EM nhé, Đoan Trang!

Mặc dù em và tôi làm việc ở hai lĩnh vực công việc khác nhau, nhưng tôi cũng đã từng phải chia tay với một nơi mà tôi đã sống, làm việc bằng những gì trong sáng và nhiệt huyết nhất, do đó, tôi tin chắc những giọt nước mắt của em nóng hổi, trong vắt, đau đáu về một nỗi đau – nỗi đau không hề mơ hồ chút nào.

Những bài báo em viết mang hơi thở của thanh niên Việt Nam thời đại, những bài báo mang nặng suy tư, thao thức về thế sự, tôi cảm nhận được tâm hồn thanh khiết của em đã dành cho những bài báo chính luận – mà có thể chúng là một trong những nguyên cớ khiến em buộc phải chia tay cái nghề mà em bảo rằng em yêu nó và nếu rời nó ra em chẳng biết làm nghề gì! Sự thật đó quá đau! 

Tôi biết em rất đau như tôi đã từng đau. 

Trong tác phẩm Anna Karenina, văn hào Nga Leon Tolstoy đã viết: “Những kẻ có hạnh phúc thường giống nhau, nhưng đau khổ thì mỗi người mỗi khác”, tôi đã từng thấy điều này đúng, nhưng bây giờ có lẽ tôi phải suy nghĩ lại.

Không biết nữa, tôi chỉ nhận rõ một điều: tôi đủ hiểu, đồng cảm và đau với nỗi đau của em. Em hãy khóc đi! Khóc thật nhiều vì em là con gái. Sau khi khóc xong, em hãy lau khô nước mắt và hãy cười thật tươi!

Người đời thường ví von một nhạc phẩm, một kịch bản, một bộ phim, môt bài báo v.v… là đứa con tinh thần mà một tác giả nào đó, đã sinh ra nó. Vậy thì cớ gì em không cười thật tươi vui, khi em đã sinh ra những đứa bé thật kháu khỉnh, khỏe mạnh, thông minh và bao người ngưỡng mộ và xuýt xoa: “Ôi trời! nhìn kìa, những đứa bé trông như những thiên thần!” mà em đã mang lại cho người đời, cho bạn đọc. 

Em hãy cười và sung sướng vì những đứa con của em. Em hãy kể với mọi người bằng ánh mắt lấp lánh tự hào về những đứa bé đáng yêu đó. Em hãy vui và hãy háo hức, cũng như em phải có nhiệm vụ nuôi dưỡng những đứa trẻ đó ngày càng lớn lên thành những thanh niên, thiếu nữ với tâm hồn trong sáng. Em hãy đào luyện những đứa trẻ của em thành những anh hùng, anh thư và đưa chúng vào đời, Đoan Trang ạ! 

Người ta có thể buộc em ra khỏi nơi em yêu quý nhưng người ta không thể buộc em không sản sinh ra những đứa con tinh thần trong sáng và đầy ắp yêu thương mà tôi tin em vẫn luôn hứng khởi như “bài báo khó nhất năm 2009”. 

Em buồn vì cái bị mất là cái mà em yêu quý và em nên vui vì cái em được là cái mà mọi người yêu quý em. Em được cả hai. Em là người hạnh phúc hơn nhiều người rồi. Vui lên, Đoan Trang nhé!

Tôi xin mượn vài lời trong nhạc phẩm “Người con gái Việt Nam da vàng” mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết, để tặng em:

Người con gái Việt Nam da vàng

Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín

Người con gái Việt Nam da vàng

Yêu quê hương nước mắt lưng dòng

Người con gái Việt Nam da vàng

Yêu quê hương nên yêu người yếu kém

Người con gái ngồi mơ thanh bình

Yêu quê hương như đã yêu mình

Hãy cho tôi gọi em là – Đoan Trang – Người Con Gái Việt Nam Da Vàng -bình dị như tâm hồn và tấm lòng của em dành cho những bài báo mà em đã viết từ những sự kiện khách quan bằng lối phân tích sâu sắc, thông minh hòa lẫn cảm xúc nhưng tỉnh táo của một nhà báo có nghề (xin lỗi em tôi không thích dùng chữ “Tâm” và “Tầm” vì có lẽ em không cần nhận những điều cao sang bởi vốn dĩ em chỉ là cô nhà báo bình dị).

Mong gặp lại em – Người Con Gái Việt Nam Da Vàng – của tôi – qua những bài viết mới.

Nguyễn Ngọc Già

danlambaovn.blogspot.com

Tù nhân lương tâm Việt Nam và Tết

Hòa Ái, phóng viên RFA
2018-02-15
 

Hai bé Nấm-Gấu, con Blogger Mẹ Nấm-Nguyễn Ngọc Như Quỳnh trong những ngày Tết Mậu Tuất.

Hai bé Nấm-Gấu, con Blogger Mẹ Nấm-Nguyễn Ngọc Như Quỳnh trong những ngày Tết Mậu Tuất.

 Courtesy: Facebook Tuyet Lan Nguyen

Các tổ chức nhân quyền thế giới lên tiếng cho rằng nhà cầm quyền Hà Nội trong năm 2017 đã mạnh tay đàn áp và bắt bớ giam cầm hơn 50 người dân, là những người hoạt động vì môi trường, xã hội và tự do dân chủ cho Việt Nam. Các tù nhân lương tâm chia sẻ tâm tình đón Tết  của họ nhân dịp Tết Mậu Tuất.

Nhớ Tết tù

Thanh niên Nguyễn Mai Trung Tuấn, một cựu tù nhân lương tâm ở Thạnh Hóa-Long An chia sẻ với RFA về cái Tết Nguyên đán đầu tiên của gia đình sau những năm cả nhà bị ly tán, ở tù vì đã chống lại cuộc cưỡng chế đất đai nhà cửa do chính quyền địa phương gây ra:

“Tâm trạng của con chỉ có một nửa là vui thôi. Vui vì gia đình mình đàon tụ. Vui vì cha mẹ con đã về, gia đình được hạnh phúc hơn lúc bị giam cầm trong ngục tù. Con thấy nghẹn ngào là con được thả ra thì nhà cầm quyền Cộng sản lại bắt những người đấu tranh khác vào tù thì họ cũng đón Tết giống như tâm trạng con đã từng trải qua thôi. Đồng thời, con luôn suy nghĩ Tết là đầm ấm, vui tươi, hạnh phúc; nhưng lại có điều không hạnh phúc là những người đi đấu tranh và đất nước của mình không được tự do.”

Nguyễn Mai Trung Tuấn bị đi tù khi em còn là một thanh thiếu niên. 14 tuổi đời phải đón những cái Tết trong nhà giam, xa gia đình, người thân, bạn bè với trải nghiệm mà em nghĩ rằng sẽ không bao giờ xóa nhòa trong ký ức. Nguyễn Mai Trung Tuấn nói với chúng tôi là suốt quãng đời còn lại, em sẽ đón Tết với một niềm vui không trọn vẹn, vì bởi còn đó rất nhiều những hoàn cảnh buộc phải đón Tết tù giống như gia đình của em.

Tết rồi thì làm cho Bình nhớ đến giai đoạn tạm giam là cái Tết đầu tiên, nhà gửi cái bánh chưng vô. Ngày Tết cổ truyền là nét văn hóa của người dân Việt Nam. Bình là Bắc di cư, nên bánh chưng là điều gì đó thiêng liêng, hồn tổ tiên của mình ở trong đó. Bình nhìn cái bánh chưng Bình khóc
-Nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình

Cựu tù nhân lương tâm, nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình, ở cái tuổi trung niên, anh còn nhiều dự định để thực hiện những hoài bão của đời mình. Và thông thường, dịp Tết là lúc để vạch ra kế hoạch cụ thể cho những việc cần làm trong một năm mới. Thế nhưng, người nhạc sĩ cựu tù nhân lương tâm này lại nhốt mình trong căn phòng riêng bé nhỏ những ngày đầu năm, đón Tết lặng lẽ với cảm xúc đong đầy nhớ về các lần đón Tết trong tù. Nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình kể với RFA về cái Tết thứ nhì trong trại giam:

“Năm đầu tiên ra trại lớn với anh em tù nhân với nhau, Bình và anh Huỳnh Anh Tú đang đi tưới nước thì tự nhiên hơi lạnh mùa xuân ào tới nên Bình bất chợt nói lên ‘Ồ! Tết rồi à?’ Tết rồi thì làm cho Bình nhớ đến giai đoạn tạm giam là cái Tết đầu tiên, nhà gửi cái bánh chưng vô. Ngày Tết cổ truyền là nét văn hóa của người dân Việt Nam. Bình là Bắc di cư, nên bánh chưng là điều gì đó thiêng liêng, hồn tổ tiên của mình ở trong đó. Bình nhìn cái bánh chưng Bình khóc.”

Cựu tù nhân lương tâm Trần Vũ Anh Bình chia sẻ, anh cứ luôn nghĩ rằng sau khi ra tù sẽ cố gắng đi thăm hỏi những người bạn tù mà anh rất quý mến vào những ngày Tết đầu năm để “ôn cố tri tân” những khoảnh khắc của đời người, mà có lẽ chỉ những tù nhân lương tâm mới thực sự cảm thông cùng nhau. Mặc dù muốn thăm, muốn gặp rất nhiều người nhưng không phải cứ muốn là được, nên nhạc sĩ của “ngục tù ca” thăm bạn tù bằng ký ức của riêng mình.

“Bình nhớ cái Tết năm 2014 chỉ có đứng sau song sắt cửa rồi í a í ới chúc Tết lẫn nhau. Kỷ niệm năm đó, thầy Đinh Đặng Định biết được rằng nhà cầm quyền sẽ thả thầy như Đại sứ quán Mỹ cho gia đình thầy biết là sẽ thả thầy ra trước Tết. Nhưng đến trưa 30 Tết thì thầy được xe của nhà trại chở về khu trại giam. Lúc đó thầy bệnh rất nặng. Mùng 1 Tết năm đó biết là thầy bị quặn đau ở trong ruột và không được về nhà, Bình phải nói là cố gắng hết sức có thể mượn cây đàn của nhà trại, Bình đánh bài ‘Dòng máu Việt’, Bình cố tình hát lớn lên để san sẻ với thầy một chút gì đó trong tầm tay Bình có thể.”

Tù nhân lương tâm Vương Văn Thả cũng được nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình nhắc tên. Anh nhớ đến một cái Tết ở trại giam Xuyên Mộc, ông Vương Văn Thả xin nhà trại cho anh em tù chính trị được ngồi cùng nhau, ăn vài miếng bánh mà gia đình của ông mang tận từ Ang Giang gửi vào cho kịp Tết. Nhưng rồi, chỉ một mình ông Thả ngồi nhìn mâm bánh Tết mà chẳng buồn ăn miếng nào. Trong dịp Tết Mậu Tuất này, cựu tù nhân lương tâm Trần Vũ Anh Bình chưa kịp thăm người bạn tù hiền lành, chất phát miền Tây Nam Bộ Vương Văn Thả, thì người bạn tù này cùng 2 người con bị nhà cầm quyền tiếp tục đưa vào tù. Và, nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình tự hỏi không biết Tết này anh Vương Văn Thả có được nhận quà Tết của gia đình?

Bao giờ có Tết đoàn viên?

Trong khi đó, không ít gia đình của các tù nhân lương tâm đùm núm chút quà Tết đến trại giam gửi người thân, nhưng không được. Bà Nguyễn Thị Tuyết Lan, thân mẫu của Blogger Mẹ Nấm-Nguyễn Ngọc Như Quỳnh cho biết vào sáng 27 Tết gửi đồ cho con gái và được trại giam thông báo là đã chuyển Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ra trại giam ở Yên Định, Thanh Hóa.

Cô giáo Huỳnh Thị Út, mẹ của tù nhân lương tâm Trần Hoàng Phúc nói trong nước mắt với Đài Á Châu Tự Do là cái Tết đầu tiên trong nhà giam của Phúc, gia đình không được gửi đồ vào, mà chỉ được gửi đồ mua từ căn tin trại giam. Cô Huỳnh Thị Út chia sẻ kể từ nay, cô phải đón những cái Tết dài trong đau khổ vì bản án tù oan sai của đứa con trai thân yêu duy nhất này.

Theo phong tục cổ truyền từ ngàn xưa để lại, ngày Tết của người dân Việt Nam là ngày sum họp, hội tụ những người thân yêu, bố mẹ, con cái, gia đình quây quần, làm mâm cơm cúng tổ tiên. Nhưng mà ở trong tù thì xa hết người thân rất là buồn. Trong buồng giam chỉ có mấy người thôi nên thật sự nỗi buồn rất se sắt, rất khổ sở khi đón năm mới ở trong tù
-Bà Cấn Thị Thêu

“Theo lời của ông ngoại trước khi mất, thì ông ngoại nói với mình là ‘Con ráng nuôi Phúc ăn học thành tài để sau này giúp ích cho xã hôi, giúp ích cho dân tộc’. Cháu Phúc cũng cố gắng học rất tốt. Cháu luôn nghĩ đến một điều là đem công sức của mình để phục vụ cho nhân dân, cho dân tộc Việt Nam. Nhưng mà ước mơ của cháu không thể thực hiện được bởi vì cháu đang bị tù, mà cháu không có tội. Cháu Phúc không hề có tội. Cháu Phúc không hề vi phạm một điều gì cả.”

Thay lời của những tù nhân lương tâm đang đón Tết trong nhà giam, cựu tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu, người phụ nữ vừa mãn án tù lần thứ hai chia sẻ tâm trạng đón Tết mà bà trải nghiệm như mới vừa hôm qua:

“Theo phong tục cổ truyền từ ngàn xưa để lại, ngày Tết của người dân Việt Nam là ngày sum họp, hội tụ những người thân yêu, bố mẹ, con cái, gia đình quây quần, làm mâm cơm cúng tổ tiên. Nhưng mà ở trong tù thì xa hết người thân rất là buồn. Trong buồng giam chỉ có mấy người thôi nên thật sự nỗi buồn rất se sắt, rất khổ sở khi đón năm mới ở trong tù.”

Vừa rồi chỉ là chia sẻ tâm tình đón Tết Nguyên đán của một vài tù nhân lương tâm trong số hơn cả trăm người bị nhà cầm quyền Hà Nội bỏ tù vì những hoạt động của họ cho đất nước được tự do, văn mình và dân chủ. Đài Á Châu Tự Do không thể chuyển tải hết tâm tư, tình cảm của các tù nhân lương tâm tại Việt Nam trong dịp Tết Mậu Tuất. Nhưng tựu chung, tất cả họ đều khẳng định luôn theo đuổi lý tưởng dấn thân, chấp nhận đón Tết tù, bao nhiêu cái Tết trong nhà giam đi chăng nữa với hy vọng những người Việt được hưởng Tết cổ truyền đoàn viên, mà không phải u uất, đau buồn như hình ảnh của hai đứa bé Nấm-Gấu, con của tù nhân lương tâm Blogger Mẹ Nấm-Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bơ vơ, lạc lõng trên phố trong Tết kêu cầu “Mẹ ơi, mẹ bị chuyển trại xa. Con không thể được gặp mẹ nữa”.

Thảm sát Huế Tết Mậu Thân!!!

Van Pham added 5 new photos.

Bút ký “The Vietcong Massacre at Hue” của nữ bác sĩ Elje Vannema, người gốc Hòa Lan, có mặt tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, một nguồn chứng cớ quan trọng vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế. Bài viết được Vintage Press, New York công bố năm 1976, sau đó được báo chí Việt ngữ tại Mỹ trích dịch đăng lại dưới tựa đề : Thảm sát Huế Tết Mậu Thân.

*************

Thảm sát Huế Tết Mậu Thân!!!

Xin phép tác giả và dịch giả được đăng lại, vì sự cần thiết “cung cấp” bằng chứng cho giới “trí thức Việt Nam”, những người tin vào sự “vô tội” Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hy vọng những người này sẽ đọc tài liệu này, để thấy rằng thảm sát Mậu Thân 1968 là chuyện “có thật”. Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân là hai “đồ tể xứ Huế” là chuyện có thật. Thảm sát Mậu Thân 1968 đã diễn ra tại Huế ra sao, ai chịu trách nhiệm?

50 năm sau lịch sử bị bóp méo, chôn vùi bởi tuyên giáo CS. Họ rùm beng ăn mừng chiến thắng Mậu Thân. Nhưng sự thật vẫn còn đó. Những trang bút ký này của bác sĩ Elje Vannema là sự thật, cần thiết cho những người có thiện chí muốn tìm “sự thật”.
************

Sớm tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi…

Ngày hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết…

Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Đắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc.

Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Đọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm.

Ngày thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng nhiều người bỏ trốn, nhưng ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông sang làng Đập Đá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.

Những người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Đám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án. Địa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài. Danh sách bất tận.

Dân chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Đàn ông và thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng này mới được xổ tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ có, già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa.

Bên trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Đàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Đàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Đàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Đông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó “Ta đi mô đây”. Có tiếng phụ họa “Lên núi hay tới chỗ chết?”.

Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. “Bắt gió cho ông ta ” tiếng ai đó vang lên… Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới.

Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. “Xin để tui đi, để tui ở lại đây”, ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. “Tui không đi xa hơn được nữa”.

“Đứng dậy “.

Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.

Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối thúc. Rồi có tiếng hô “Dừng lại “. Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Đám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác… Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Đồng Khánh.

Sau một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra.

Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây? Đa số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi khác.

Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Đám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Đông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mải tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra…

Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9.69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Đá Mài, con suối chảy ra khe Đại đổ vào sông Hương… Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này…

Mồ Tập Thể

Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.

Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26.02.1968.

Trong số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi – Người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em gái (sister) cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với chị/em dâu cô. Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22.02, đưa vào trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26.02. Người thứ ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn luyện ngày 14.02. Xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16.03, chung hố với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.

Người thứ tư là Trần Đình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17.02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia Hội. Tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08.02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26.02, ở khuôn viên trường. Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống. Những xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận.

Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự.

Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12.02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác.

Một người khác tìm thấy ở Chùa là ông Đặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại gia ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Một người khác nữa là ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08.02, xác dập chung với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khỉ bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ.

Lần đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08.68, tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những điểm trên.

Tiết lộ về “mồ chôn tập thể” đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28.02.68, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm “ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng”. Cũng theo phát ngôn viên, “các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn”. Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Đông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.

Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ: ông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM; và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09.02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Đà Nẵng.

Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân nhân người Úc khám phá ngày 10.03.68. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Đông, được khám phá ngày 14.03.68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhô ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá.

Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Đức và Đồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy. Đây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19.03.68, nhưng mãi cho tới tháng 6.69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Đặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6.69.

Cũng trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21.02. Lúc đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa cũng chung số phận.

Cha Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đống gạch vụn Tu viện ngày 25.02, Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc. Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về hướng Nam. Đa số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua. Tới tháng 6.69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng Tự Đức có Đoan Xuan Tong, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06.02.68. Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19.03.68, chôn chung với năm người khác cùng làng. Tại lăng Đồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23.03.68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp. Vì thế nguyên tắc của đối phương là phải dấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai.

Ngoài thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một hầm riêng ngày 27.03.68 gần lăng Đồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.

Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám phá ngày 01.03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó.

Xác ông Tran Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm với ông Trieu. Ông bị bắt ngày 20.02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào.

Vùng chôn thứ chín ở cửa Đông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Đây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Ton That Quyen, 42 tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08.02.68. Gia đình tìm được xác ông ngày 05.05.68.

Địa điểm thứ mười là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Tran Trieu Tuc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05.02.68. Xác tìm được ngày 17.03.68 ở trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại: một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát.

Địa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Le Van Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06.02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10.03.68 gần trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một sinh viên.

Địa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác. Trong đó có ông Nguyen Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02.02.68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01.03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ con.

Địa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam và cách Đàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìm thấy dưới các đám cây và bụi rậm, gồm học sinh, sinhviên, nhân viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25.03.68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây, tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.

Địa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Đức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02.04.68.

Địa điểm mười lăm ở Đông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01.04.68. 101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới,trong đó có15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện được.

Tới tháng 05.68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính… Đầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá.

Điểm chôn thứ mười sáu: Đầu tiên ở làng Vinh Thái. Địa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Địa điểm thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08.69. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mải tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này…

Ba làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Đông và Đông Nam, cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương trên 800 xác được tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục… Trong số nạn nhân người ta nhận diện được 16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú Lương 22; và làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Đa số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02.68. Trong số 357 xác có cha Bửu Đồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8.11.69).
Các con cái yêu dấu:

Đây là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp… (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ.. (hai chữ đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý chúa.

Hãy mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Đức Mẹ.

Hẹn ngày tái ngộ trên nước Trời.
Chúc lành cho chúng con.
(Chữ ký Cha Đồng)

Điểm chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm thấy giữa các lùm cây trong tháng 07.69. Chỉ có ba xác nhận diện được là người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu chỉ của sự hành quyết.

Điểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04.69, và ở làng Vinh Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07.69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ lâu… Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.

Điểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng 09.69 ở Khe Đá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe Đại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có chỗ xương nằm riêng, sọ nằm riêng; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vứt xuống suối, chứng cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10.

Có lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phú Cam bị mất tích?

Nghiên cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của máy bay B 52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần tháng 04.68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang người bị chết vì bom B 52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này quả không vững. Đường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.

Trong thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế qua Bến Ngự, cầu Nam Giao tới gần và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đường rút lui lên núi, hướng trái với Đá Mài. Khe Đá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Địa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia (xác của những người mang từ Huế ra) bị phát hiện, mà nếu có phát hiện thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán, tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình… Sau khi Đá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.

Bên cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông cùng với bốn đứa con…

Image may contain: 16 people
Image may contain: one or more people, people sitting and text
Image may contain: one or more people, people walking and outdoor
Image may contain: text
Image may contain: one or more people
 

Tròn 8 năm ngày Trần Huỳnh Duy Thức ra tòa cùng Ls Lê Công Định, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung

 
 
Image may contain: 7 people, people standing and text

Trần Huỳnh Duy Thức

 

Tròn 8 năm ngày Trần Huỳnh Duy Thức ra tòa cùng Ls Lê Công Định, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung trong vụ án cáo buộc 4 người theo điều 79 Lật Đổ Chính Quyền.

Câu đầu tiên Trần Huỳnh Duy Thức nói để nổ phát súng phản cung cho các đồng sự sau clip phát sóng trên TV là : “Đây là phiên toà phi lí, chúng tôi bị buộc tội lật đổ chính quyền bầu ra từ ĐCSVN. Vậy mà thẩm phán – người xét xử chúng tôi lại là những Đảng Viên Cs. Tôi đề nghị dẹp bỏ phiên toà vì chúng tôi đã chịu bức cung nhục hình trong quá trình điều tra”

Đọc thêm về THDT và vụ án tại: https://www.luatkhoa.org/2017/08/tran-huynh-duy-thuc/

Úc phá ổ cần sa của người Việt trị giá gần 3 triệu đôla

Van Pham and Cat Bui shared a link.
Cảnh sát Úc ngày 14/2 bắt giữ 5 người Việt Nam với hơn 1.400 cây cần sa, tổng trị giá khoảng 2,8 triệu đôla Úc, khi đột nhập vào 6 căn nhà tại thung lũng Hunter
VOATIENGVIET.COM  
  • Đường dây ma túy quốc tế của đảng cướp mafia HCM, chi nhánh Australia bị phá vỡ vào những ngày cuối năm!!!
    *************

    Úc phá ổ cần sa của người Việt trị giá gần 3 triệu đôla

    Cảnh sát bang New South Wales của Úc vừa đột nhập vào 6 căn nhà tại thung lũng Hunter ngày 14/2 và bắt giữ 5 người Việt Nam với hơn 1.400 cây cần sa, tổng trị giá khoảng 2,8 triệu đôla Úc.

    Cảnh sát cho biết 5 người Việt bị bắt có độ tuổi từ 23 – 48, trong đó có một nam sinh viên và 1 phụ nữ. Hai trong số này là di dân bất hợp pháp.

    Cuộc bố ráp được thực hiện sau 3 tháng điều tra.

    Cảnh sát Úc nói 6 ngôi nhà trong cuộc là do cùng một đường dây điều hành. Các ngôi nhà được tân trang bằng tường giả và cơi nới thêm phòng để dành riêng cho việc trồng cần sa.

    Một trong số 6 ngôi nhà còn có xe tập đi của trẻ em để trong nhà xe và trang trí đèn Giáng sinh bên ngoài nhằm che đậy hoạt động bên trong.

    “Người nào đứng đằng sau ổ cây trồng cần sa trong nhà này đúng là liều lĩnh khi nghĩ rằng sẽ không bị phát hiện, họ đã nhầm”, Giám đốc cảnh sát điều tra Craig Jackson nói trong một tuyên bố.

    Video của cảnh sát cho thấy bên trong nhà được trang bị hệ thống đèn chiếu và tưới tiêu quy mô.

    Được biết mỗi ngôi nhà có khoảng 250 cây cần sa lớn bé.

    Cảnh sát đã phá hủy khoảng 1.400 cây cần sa, trị giá khoảng 2,8 triệu đôla Úc, với mục tiêu “không chỉ tước đi tài sản của các tội phạm, mà còn làm gián đoạn hoạt động của đường dây trong tương lai”, theo lời ông Jackson.

    Cả 5 người Việt đều bị bác đơn bảo lãnh tại ngoại, và sẽ phải ra tòa ở Maitland vào ngày 15/2

     
     
     

Dân Oan Các Tỉnh đến chúc tết từng nhà riêng của TỨ TRỤ TRIỀU ĐÌNH

Trần Bang shared Đoàn Giang Thanh‘s post.

Dân Oan Các Tỉnh đến chúc tết từng nhà riêng của TỨ TRỤ TRIỀU ĐÌNH và 4 cơ quan chính của TỨ TRỤ TRIỀU ĐÌNH!

12g 30″ mùng 1 tết Mậu Tuất(16-2-2018).Dân Oan Các Tỉnh Đồng Nai, Kiên Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Bình Định, Tây Ninh, Tuyên Quang, Quảng Ninh. Bị Quan tham nhũng chính quyền địa phương cướp “Sạch Sành Sanh” đất đai và đập phá TANH BÀNH nhà cửa. Không đất, không nhà đang chúc tết từng nhà riêng của TỨ TRỤ TRIỀU ĐÌNH: 

1/ phó thủ tướng – Trương Hòa Bình. 
2/ thủ tướng CP Nguyễn Xuân Phúc . số 11 phố Chùa Một Cột, Ba Đình, Hà Nội.
3/ tổng bí thư ĐCSVN – Nguyễn Phú Trọng.
Và đến 4 Trụ sở chính: Phủ Chủ tịch Nước, Trụ sở TWĐ-CSVN, Phủ Thů Tướng CP và Toà nhà Quốc Hội.

Hà nội, 14g 20″ mùng 1 tết Mậu Tuất (16-2-2018).