KHỞI ĐẦU MỚI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cha của anh em… không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất!”.

“Xác thịt – một hỏng hóc cố hữu – mang một nội lực hấp dẫn ‘thừa hưởng’ từ sự sa ngã; tự nó, luôn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Nó không thể được cải tạo hay cải thiện. Hy vọng duy nhất là thực hành và thay thế toàn bộ cuộc sống bằng một khởi đầu mới trong Đức Kitô!” – M. Bubeck.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay soi rọi ý tưởng của Bubeck – rằng, mỗi cá nhân và cả cộng đoàn dân Chúa – Giáo Hội – không thể tiến xa nếu không bước vào một ‘khởi đầu mới’ trong Chúa Kitô.

“Sách An Ủi” mở đầu với những lời thật trầm ấm, Thiên Chúa phán, “Hãy an ủi, an ủi dân Ta!”, vì thời nô lệ kết thúc, Israel hồi hương. Nhưng hồi hương không chỉ là trở về mảnh đất cũ, nhưng còn là một ‘khởi đầu mới’ – đoạn tuyệt bóng tối lưu đày – vượt mọi chướng ngại, “Thung lũng phải lấp đầy, núi đồi phải bạt xuống”. Thiên Chúa dẫn dắt dân như mục tử “ấp ủ chiên con vào lòng”. Toàn dân được quy tụ, không ai bị bỏ lại. Thánh Vịnh đáp ca reo vui, “Kìa Thiên Chúa chúng ta quang lâm hùng dũng!”.

Điều xảy ra trong Cựu Ước được hoàn tất nơi Chúa Kitô. Ngài là Mục Tử tìm kiếm từng con chiên; Ngài bước vào một nhân loại tội luỵ để phục hồi phẩm tính con cái Chúa cho mọi người không trừ ai. Giáng Sinh là khởi điểm của một ‘nhân loại mới’ được Chúa Kitô vác trên vai – mang về, chữa lành, hội nhập lại vào đàn chiên. Con chiên lạc không chỉ là ‘từng cá nhân’, nhưng còn là hình ảnh của một ‘cộng đoàn tan tác’ mà Mục Tử Kitô muốn quy tụ nên một. “Cộng đoàn là nơi khiêm hạ và vinh quang chạm nhau!” – Henri Nouwen.

Đức Phanxicô giải thích, “Trong viễn kiến của Chúa Giêsu, không con chiên nào bị ‘lạc mất hoàn toàn’, mà chỉ có những con chiên ‘phải được tìm lại!’. Không khoảng cách nào ngăn được người mục tử; cũng không đàn chiên nào có thể từ bỏ một người anh em. Tìm thấy người lạc là niềm vui của mục tử, và của toàn thể đàn chiên!”. Đó chính là chiều kích cộng đoàn của ‘khởi đầu mới’ trong Chúa Kitô: chúng ta không chỉ được Chúa tìm thấy, nhưng còn được thúc giục ‘tìm nhau!’. Không ai bước vào ‘khởi đầu mới’ một mình; chúng ta được kêu gọi nâng nhau, đỡ nhau, kéo nhau về lại “đàn” của Chúa.

Anh Chị em,

Mùa Vọng, mùa biết rằng, Thiên Chúa luôn đi tìm tôi; nhưng mọi sự chỉ bắt đầu khi tôi biết đi tìm Ngài – và trong hai chuyển động ấy, chúng ta học cách tìm người khác. “Ai là người có ý nghĩa nhất đời tôi, đó là những ai đã chọn ở lại với nỗi đau của tôi, chạm vào vết thương của tôi bằng một bàn tay ấm áp dịu dàng!” – Henri Nouwen. Hành trình mới không phải là quay về điểm cũ, nhưng là để Chúa chạm vào những vùng tối cài then của cá nhân tôi, của cộng đoàn tôi; hầu chúng ta có thể bước vào những khoảng đời giấu kín của nhau bằng lời cầu nguyện, bằng việc tha thứ, cảm thông, thương xót và chữa lành.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con nhận ra rằng, mùa Vọng, mùa Chúa đi tìm con; cũng là mùa con đi tìm Chúa – và cùng Chúa – con lên đường tìm những anh chị em lạc lối!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*****************************

 Lời Chúa Thứ Ba Tuần II Mùa Vọng

Thiên Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư vong.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 18,12-14

12 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em nghĩ sao ? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? 13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. 14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”


 

Giữ lại phẩm giá cho người khác bằng cách nào?-TG Văn Chương

TG Văn Chương

” Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ “

————————

Tôi nói dối ông chủ tôi mỗi ngày.

Tôi năm nay 72 tuổi. Tôi là một chức sắc trong nhà thờ, đóng thuế đàng hoàng, chưa bao giờ bị phạt nguội lần nào. Nhưng suốt chín năm nay, tôi đang thực hiện một kiểu “lừa đảo” ngay dưới mũi của ban quản lý tiệm đồ cũ “Cơ Hội Thứ Hai” này.

Nếu họ biết được, họ sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức, chẳng kịp cho tôi cởi cái tạp dề ra. Nhưng tôi kệ. Bởi vì trong một xã hội cứ thích tước đoạt đi lòng tự trọng của người khác, tôi đã tìm ra cách để trả lại nó cho họ.

Công việc của tôi đơn giản lắm: phân loại đồ quyên góp. Tôi dán nhãn giá cho quần jeans, mấy cái áo khoác mùa đông nặng trịch, mấy đôi giày bảo hộ còn dùng tốt. Hầu hết khách hàng chẳng thèm nhìn tôi. Đối với họ, tôi chỉ là một phần của cảnh vật: một ông già lụ khụ, mắt đeo kính, tay bị đau khớp, cứ cắm cúi định giá mấy món đồ có mùi băng phiến và mùi ký ức của người lạ.

Nhưng cái việc vô hình này lại có cái lợi của nó. Nó cho phép tôi nhìn thấy hết mọi thứ.

Tôi thấy mấy bà mẹ đơn thân cứ so đi so lại giá đôi giày đi học của con với tiền mua thức ăn. Tôi thấy mấy chú cựu chiến binh cứ nhìn chằm chằm vào bộ vest họ cần để đi phỏng vấn, nhìn vào cái ví tiền rồi lặng lẽ quay lưng đi.

Và tôi nhớ nhất là thằng bé đó.

Lúc đó là giữa tháng Mười Một, ở cái thị trấn rỉ sét, lạnh lẽo của chúng tôi. Gió lùa qua phố sắc như dao cắt. Thằng bé bước vào với cái áo nỉ mỏng dính, đến nỗi nhìn rõ cái áo thun bên trong. Nó chắc chưa tới mười bốn tuổi. Gầy gò, run cầm cập, với cái nhìn vô hồn mà những đứa trẻ hay mang khi chúng bị xã hội bỏ rơi quá nhiều lần.

Nó đi thẳng đến khu áo khoác. Nó tìm thấy một chiếc áo parka xanh hải quân, rất ấm, hàng hiệu, gần như mới. Giá là 25 đô la. Nghe thì bèo, nhưng đối với nó là cả một gia tài.

Tôi lén nhìn. Nó chạm vào ống tay áo, như muốn cảm nhận hơi ấm mà chiếc áo hứa hẹn. Nó nhìn cái nhãn giá. Vai nó xụ xuống khoảng chục phân. Nó không rên rỉ, không than thở. Nó chỉ cẩn thận treo chiếc áo lên lại và đi thẳng ra cửa.

Tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể đơn giản là cho không nó. Tôi học được rằng, việc bố thí có thể mang lại vị đắng cho những người đang cố gắng sống sót. Nếu bạn đưa tiền bố thí, họ cảm thấy mình nhỏ bé. Họ cảm thấy mình như một trường hợp cần giúp đỡ xã hội.

Thế là tôi cầm chiếc áo, đi ra quầy tính tiền để chặn nó lại.

“Ê, nhóc,” tôi gọi.

Nó đứng khựng lại, sẵn sàng chạy trốn. “Con không có ăn cắp gì hết!”

“Tao biết,” tôi càu nhàu, đóng vai ông già khó tính. “Nhưng tao đang có rắc rối. Cái áo này hả? Nó bị lỗi. Cái khóa kéo dưới cùng nó bị kẹt. Mà theo quy định của cửa hàng, đồ bị lỗi thì không thể bán quá ba đô la. Mày có ba đô la không?”

Nó nhìn tôi, bối rối. “Nhãn ghi hai mươi lăm mà.”

“Nhãn ghi sai đấy,” tôi nói dối, giật phắt cái nhãn đi. “Tao là người quản lý kho. Tao nói nó ba đô la. Mày lấy không hay để tao quăng nó đi?”

Nó do dự, dò xét gương mặt tôi xem có bẫy gì không. Rồi nó lục túi, lôi ra ba tờ tiền nhăn nhúm.

“Dạ, có,” nó thì thầm. “Con lấy.”

Nó mặc chiếc áo vào ngay lập tức. Kéo khóa lên tận cổ — khóa vẫn hoạt động trơn tru, dĩ nhiên rồi — và nó thẳng lưng lên. Nó không còn trông như một thằng bé co ro vì lạnh nữa. Nó trông như một thanh niên vừa mới làm một phi vụ hời. Nó trông có vẻ được che chở.

“Cảm ơn ông,” nó nói.

“Quy định cửa hàng thôi,” tôi lầm bầm, quay lưng đi để nó không thấy mắt tôi hơi ướt.

Mọi chuyện bắt đầu từ đó.

Nhiều năm qua, cái “quy định cửa hàng” đó đã trở thành vũ khí bí mật của tôi.

Khi bà Miller, một góa phụ sống bằng đồng lương hưu ít ỏi, cần một cái máy nướng bánh mì mới nhưng chỉ có 5 đô la trong túi, thì cái máy 20 đô la bỗng nhiên bị dán nhãn là “dây điện bị hở”.

Khi một ông bố trẻ cần đôi giày bảo hộ để bắt đầu công việc xây dựng đầu tiên, tôi tự động “giảm giá đặc biệt sáng thứ Ba”.

Tôi tự nhớ trong đầu. Tôi tự bỏ tiền túi bù vào nếu tiền mặt bị hụt, hoặc tôi khai báo những món đồ đó là “không bán được/đã tiêu hủy” trong hệ thống. Tôi sợ bị bắt lắm chứ.

Thế rồi một buổi chiều, một người phụ nữ đeo khăn choàng cashmere đã bắt quả tang tôi. Cô ta thấy tôi bán một chiếc xe đẩy em bé gần như mới cho một cô gái trẻ đang sợ hãi với giá 10 đô la.

Khi cô gái đi khỏi, người phụ nữ đó bước đến. Tôi chuẩn bị tinh thần bị mắng té tát hoặc bị dọa gọi quản lý.

Thế nhưng, cô ta lại đặt một tờ 100 đô la gấp gọn lên quầy

“Cho mấy cái… sai sót kiểm kê của ông,” cô ta nháy mắt.

Và chuyện này bắt đầu lan ra. Một cách kín đáo. Những khách quen bắt đầu hiểu. Họ không bao giờ nói một lời. Họ mua một món đồ lặt vặt giá 5 đô la, đưa tôi tờ hai mươi, rồi nói: “Giữ lại tiền thối cho lần sau… hệ thống gặp trục trặc nhé.”

Chúng tôi đã xây dựng nên một nền kinh tế bí mật chỉ dựa trên phẩm giá. Chúng tôi không bố thí; chúng tôi đang cân bằng lại cơ hội.

Thứ Ba tuần trước, tiếng chuông trên cửa kêu leng keng.

Một người đàn ông bước vào. Cao lớn, vai rộng, mặc bộ đồng phục nhân viên cấp cứu chỉnh tề. Anh ta đi đứng tự tin, nhưng không phải để mua sắm.

Anh đi thẳng đến quầy của tôi.

“Ông là Arthur,” anh ta khẳng định.

Tôi chỉnh lại kính. “Đúng là tôi.”

Anh ta cười, và đột nhiên, tôi thấy lại hình ảnh cậu bé mười bốn tuổi gầy gò trong chiếc áo nỉ xám mỏng manh ngày nào.

“Ông bán cho tôi cái áo parka xanh hải quân cách đây mười năm,” anh ta nói. “Ông bảo cái khóa kéo nó bị hỏng.”

Tôi cảm thấy má mình nóng ran. “Tôi xử lý nhiều áo khoác lắm, cậu bé.”

“Khóa kéo không hề hỏng đâu, Arthur.” Anh ta cúi xuống, giọng nghẹn lại vì xúc động. “Tôi biết ông nói dối. Ngay cả lúc đó tôi cũng biết. Nhưng ông đã không bắt tôi phải đi xin xỏ. Ông để tôi được mua nó. Ông để tôi là một khách hàng, chứ không phải một kẻ ăn xin. Tôi bước ra khỏi đây với cảm giác như một người đàn ông.”

Anh ta rút ra một phong bì từ túi áo.

“Giờ tôi là nhân viên cấp cứu. Tôi cứu người. Nhưng tôi không nghĩ tôi đã sống sót qua mùa đông năm đó nếu không có chiếc áo khoác đó. Hoặc nếu không biết rằng có người thực sự quan tâm đến mình.”

Anh ta đặt phong bì lên quầy.

“Trong đây có 500 đô la,” anh ta nói. “Ông dùng nó đi. Tôi biết cái ‘quy định cửa hàng’ của ông tốn kém lắm.”

Tôi run rẩy cố gắng trả lại. “Tôi không thể…”

“Cái này không phải cho ông,” anh ta nói dứt khoát. “Nó dành cho đứa trẻ run rẩy tiếp theo bước vào đây. Hãy đảm bảo rằng khóa kéo của nó cũng bị hỏng, nhé.”

Rồi anh ta quay lưng bước đi, đầu ngẩng cao, hòa vào ánh nắng mùa thu.

Tôi đã 72 tuổi. Lưng tôi đau, chân tôi sưng vù sau một ngày dài. Nhưng tôi có công việc tuyệt vời nhất trên đời.

Chúng ta đang sống trong một đất nước nói rằng giá trị của bạn phụ thuộc vào số tiền trong tài khoản. Người ta bảo nhau phải tự lực cánh sinh, ngay cả khi họ không có gì.

Nhưng tôi đã học được một điều trong cái cửa hàng bụi bặm cũ kỹ này: Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Đôi khi, giúp đỡ một người không chỉ là cho họ thứ họ cần. Mà là cách bạn trao nó cho họ.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ — nếu bạn có thể giúp họ mà không làm họ cảm thấy nhỏ bé — bạn không chỉ nuôi dưỡng thân thể họ, bạn còn đang cứu rỗi cả tâm hồn họ nữa.

Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục nói dối. Tôi sẽ tiếp tục lách luật. Tôi sẽ tiếp tục bịa ra những quy định không hề tồn tại.

Bởi vì cái mác giá chẳng có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là người mặc nó.

TG Văn Chương


 

Bánh Mì Nửa Ổ – Đoàn Xuân Thu – Truyen ngan HAY

LƯƠNG VĂN CAN K 76. – Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu

Tản văn của một người cha kể lại ký ức tuổi thơ đầy nước mắt và lòng biết ơn người bạn nhỏ.

Năm tôi 13 tuổi, tôi mang trong lòng một nỗi xấu hổ mà chẳng biết nói cùng ai. Gia đình tôi nghèo đến mức nhiều ngày tôi đến trường mà trong cặp không có lấy một mẩu thức ăn. Giờ ra chơi, trong khi bạn bè vui vẻ mở hộp cơm trưa – nào là táo đỏ, bánh quy, ổ bánh mì kẹp thịt – tôi chỉ biết ngồi lặng thinh. Tôi giấu ánh mắt mình sau trang sách, giả vờ như đang mê mải đọc, để không ai thấy chiếc bụng trống rỗng đang sôi lên vì đói. Nhưng cơn đói không chỉ ở dạ dày – nó lan ra cả trong tim, nơi nỗi xấu hổ âm ỉ từng ngày.

Thế rồi, một ngày nọ, có một cô bé cùng lớp đã để ý thấy. Không ồn ào, không làm ai chú ý, cô nhẹ nhàng chìa ra trước mặt tôi một nửa phần ăn trưa của mình. Một nửa ổ bánh mì. Tôi ngượng chín mặt, nhưng cũng chẳng thể từ chối. Tôi nhận lấy.

Ngày hôm sau, cô lại đưa. Rồi hôm sau nữa. Khi thì là một cuộn bánh ngọt, khi thì một quả táo đã được cắt sẵn, khi thì miếng bánh bông lan thơm mùi bơ mà mẹ cô đã làm.

Với tôi lúc ấy, mỗi phần ăn ấy giống như phép màu nhỏ bé. Lần đầu tiên sau nhiều tháng dài, tôi cảm thấy mình được nhìn thấy – được một ai đó để tâm tới.

Rồi đột ngột, cô bé ấy biến mất. Gia đình cô chuyển nhà, cô không trở lại trường nữa. Mỗi ngày giờ ra chơi, tôi lại len lén nhìn ra cửa lớp, mong thấy bóng dáng cô bước vào với nụ cười quen thuộc và nửa ổ bánh mì trong tay. Nhưng cô chẳng quay lại lần nào.

Tôi đã lớn lên cùng với ký ức ấy. Cùng với món quà nhỏ bé nhưng mang sức nặng của cả một tấm lòng. Cô bé ấy không còn bên tôi, nhưng lòng tốt của cô thì ở lại – như một hạt giống cắm rễ trong tim, âm thầm lớn lên cùng năm tháng.

Nhiều năm trôi qua. Tôi đã là một người cha. Công việc, gia đình, cuộc sống cứ cuốn đi như dòng sông không ngừng chảy. Nhưng trong những khoảnh khắc yên lặng, hình ảnh cô bé năm xưa vẫn trở về. Không rõ mặt, nhưng rõ lòng.

Cho đến hôm qua – một buổi chiều bình thường – tôi trở về nhà và thấy con gái nhỏ của tôi, với đôi mắt nghiêm túc như người lớn, bước lại và hỏi:

– “Ba ơi, ngày mai ba chuẩn bị cho con hai phần ăn đem theo được không?”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– “Hai phần? Bình thường một phần con còn không ăn hết mà?”

Con gái tôi nhìn tôi, ánh mắt trong veo, nhưng giọng nói lại đằm sâu như một cơn gió cũ:

“Tại có một bạn trai trong lớp con hôm nay không có gì để ăn. Con chia một nửa phần của con cho bạn ấy. Nhưng mai, con muốn có phần riêng để cho bạn.”

Tôi đứng lặng. Trong khoảnh khắc đó, tôi không còn thấy con gái nhỏ trước mặt mình nữa. Tôi thấy lại cô bé năm xưa – người đã chia cho tôi nửa ổ bánh mì trong lặng lẽ. Tôi thấy lại chính mình – thằng bé nghèo khổ ngồi bên góc lớp, giấu đi nỗi đói và sự xấu hổ. Và tôi thấy – một điều kỳ diệu đang xảy ra.

Tấm lòng của cô bé ấy – người mà có lẽ giờ đây đã quên mất tôi – đã không hề mất đi. Nó sống mãi, truyền từ tay này sang tay khác, như một đốm lửa nhỏ cháy mãi không tắt. Hôm ấy, cô đã trao lửa cho tôi. Giờ đây, tôi lại thấy ngọn lửa ấy trong tay con gái mình.

Tôi bước ra ban công. Trời chiều. Gió thổi nhẹ qua, mang theo hương cỏ non và tiếng trẻ con chơi đùa xa xa. Tôi ngước nhìn bầu trời, nước mắt rưng rưng. Trong khoảnh khắc ấy, tất cả mọi cảm xúc dồn về – đói khát, xấu hổ, biết ơn và hạnh phúc – như sóng cuộn vào nhau trong lòng tôi.

Cô bé ấy, có lẽ chẳng còn nhớ tôi. Có thể cô đang sống một cuộc đời khác, ở một nơi nào đó, làm vợ, làm mẹ, hoặc vẫn đang tiếp tục những điều tử tế mà cô từng làm. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên cô. Vì cô đã dạy tôi một bài học quan trọng nhất đời mình: rằng một hành động nhỏ thôi – một nửa ổ bánh mì – cũng có thể thay đổi cả một cuộc đời.

Và giờ đây, khi thấy con gái mình chia sẻ phần ăn với bạn, tôi hiểu: lòng tốt, nếu được trao đi bằng sự chân thành, sẽ không bao giờ mất. Nó sẽ sống tiếp – qua từng đứa trẻ, từng ánh mắt, từng miếng bánh được chia.

Lời kết: Giữa cuộc sống bộn bề, giữa những ngày tháng con người ngày càng quay cuồng với danh lợi, tiền bạc, đôi khi chúng ta quên mất rằng có những điều giản dị, nhỏ bé – nhưng lại là thứ làm nên chất người: lòng nhân ái, sự cảm thông, tấm lòng chia sẻ.

Chúng ta không cần làm điều gì vĩ đại. Chỉ cần một nửa ổ bánh mì, một cái nắm tay, một lời hỏi han đúng lúc… cũng đủ để sưởi ấm trái tim một con người đang lạnh giá.

Và rồi, như người cha trong câu chuyện, bạn sẽ thấy – một ngày nào đó, điều tử tế bạn từng làm, sẽ quay trở lại với bạn. Có thể trong ánh mắt của một đứa trẻ. Có thể trong lòng biết ơn của ai đó bạn chẳng còn nhớ. Nhưng chắc chắn, nó sẽ không bao giờ mất đi.

Đoàn Xuân Thu.


 

“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5, 44)

Lời Kinh Đêm

 Lạy Chúa của con!

Trong cuộc sống không tránh khỏi việc có những người hợp với mình, yêu thương mình, nhưng cũng có những người ganh ghét mình, hoặc không đủ quý mến để có thể cảm thông cho mình. Và ngược lại, có những người con rất dễ làm việc chung, có thể ở cạnh 24/24 mà vẫn vui vẻ, vì có thể hiểu và chia sẻ với nhau. Nhưng cũng có nhiều người, thật khó để hòa hợp, thật khó để vị tha, thật khó để yêu thương họ!

Mặc dù hôm nay con chọn câu lời Chúa này, nhưng con lại cầu nguyện cho chính con. Yêu người yêu mình thì rất dễ rồi, nhưng yêu người ghét mình, và cầu nguyện cho những người ngược đãi mình quả là rất khó khăn với con.

Xin Chúa là Cha yêu thương ban sức cho con, để con có thể học từ Chúa cách yêu thương người khác như tình yêu vô điều kiện của Người đối với con người chúng con. Xin Chúa ban ơn cho con, để con có thể yêu thương bao dung người con không thích, mỗi ngày dù chỉ là mỗi chút.

Amen.

*T.A

#lờikinhđêm #loikinhdem #lkd – loikinhdem.org 


 

YÊU KẺ THÙ… KHÓ QUÁ KHÔNG? – Pio Ngô Phúc Hậu

Linh Mục Mi Trầm

Pio Ngô Phúc Hậu

Câu chuyện về Lm Piô Ngô Phúc Hậu

Một linh mục cao niên vùng truyền giáo, được mời đi xức dầu bệnh nhân. Khi về, ngài lẳng lặng đi vào phòng riêng, đóng cửa và gục đầu xuống trên bàn viết. Buồn quá! Buồn tê tái! Buồn đến chết được! Cả đời mới có một lần buồn như thế!…

Nhiều năm sau cha già mới kể lại chuyện buồn hôm ấy…

– Nguyễn – Trần là hai dòng họ nổi tiếng của giáo xứ P.H., đông nhân danh nhất, giàu nhất, có nhiều người làm công chức nhất, công chức bên đạo cũng như bên đời, có nhiều người đi tu nhất, dâng cúng tiền bạc nhiều nhất cho nhà thờ và các cơ sở tôn giáo.

– Hai dòng họ ganh đua nhau từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Họ Trần dâng cúng cho nhà thờ một trăm triệu đồng, thì họ Nguyễn sẽ dâng cúng một trăm mốt. Họ Nguyễn có mười người học đại học, thì họ Trần phải cố gắng có mười một. Bên họ Trần có mười người đi tu thì bên họ Nguyễn sẽ có mười một người…

– Một lần kia có cuộc tranh chấp về đất đai. Không bên nào chịu thua. Ban đầu thì cãi nhau to tiếng. Sau đó là chửi nhau thô tục. Cuối cùng là đánh nhau dữ dội. Cả hai bên đều có người u đầu, phù mỏ. Ông trưởng tộc họ Nguyễn bị trọng thương năm thở thoi thóp, rên hư hư…

Cha xứ được mời đi xức dầu bệnh nhân. Cha xứ và nạn nhân nhìn nhau bằng ánh mắt thương cảm. Trước khi xá giải và xức dầu, cha xứ mở lời :

– Xin ông giục lòng ăn năn tội, xin Chúa tha thứ mọi tội, nhất là tội đánh nhau. Vậy ông có sẵn sang tha thứ cho người đánh ông không?

– Thưa cha không. Đây là mối thù truyền kiếp con không thể tha được.

Cha xứ moi trong túi kẻ liệt ra một cây Thánh giá giơ cao lên và rỉ rả khuyên lơn.

– Ông xem Chúa bị đóng đinh đau đớn vô cùng, oan khiên vô cùng. Vậy mà Chúa vẫn cứ một niềm: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

– Chúa khác, con khác. Chúa tha thứ kệ Chúa. Còn con thì chết cũng không tha.

Khuyên nhủ không được, nói ngọt không được, cha xứ đổi giọng, giọng cứng cỏi, giọng chua chát:

– Nếu ông không tha thứ cho người ta thì Chúa cũng không tha thứ cho ông đâu. Ông phải xuống Hỏa Ngục đấy.

– Xuống thì xuống. Còn tha thứ thì không bao giờ.

Hù dọa không xong, cha xứ chuyển sang chiến thuật năn nỉ:

– Xin ông nhìn xem Chúa bị đóng đinh và xin Chúa ban cho ông ơn quảng đại, bao dung, tha thứ…

– Thôi, thôi, đã nói là thôi…!

Ông trưởng tộc họ Nguyễn không thèm nhìn ảnh Chúa thọ nạn. Ông quay mặt nhìn vào bức tường. Cha xứ thất vọng ôm mặt khóc thầm. Bỗng có tiếng gào lên: “Bố đi mất rồi…”.

Cha xứ lủi thủi ra về. Không Bí tích Hòa Giải, không Bí tích Xức Dầu, không trao Mình Chúa. Sau lưng cha xứ chỉ còn tiếng khóc hậm hực, tiếng khóc oán thù. Chập trùng. Chập trùng.

Một kỷ niệm buồn, buồn tê tái, buồn chưa từng có trong đời mục vụ của một linh mục.

Nghe cha già kể chuyện, mình thấy xót xa trong tim, mình thấy tê tái trên làn da. Buồn quá!

Buồn vô cùng! Buồn lâu lắm rồi mới hồi tỉnh để đặt vấn đề.

– Tại sao một Kitô hữu, một người đạo dòng, một người đang đứng bên bờ vực thẳm của sự chết, mà lại chống đối luật bác ái của Chúa một cách quyết liệt và cực đoan đến như thế?

– Phải chăng “yêu kẻ thù và chúc lành cho kẻ thù” là điều không thể thực hiện được đối với thân phận con người?

– Phải chăng luật bác ái Kitô giáo thay vì nâng con người lên hàng thần thánh, thì lại ném nó xuống làm thân phận con thú?

Hình ảnh ông trưởng tộc họ Nguyễn tắt thở ngay sau khi từ chối nhìn Đức Giêsu thứ tha làm lương tâm mình bứt rứt khôn nguôi. Mình liên tưởng đến những kỷ niệm chồng chất trên đường truyền giáo.

۩ Mình mở một lớp Giáo lý dự tòng. Học viên ngồi đầy phòng lớp. Mình thấy phấn khởi quá chừng. Hôm ấy mình nói về bác ái Kitô giáo. Mình nhắc lại nguyên văn giáo huấn của Đức Giêsu: “Nếu không cầu nguyện và chúc lành cho kẻ thù, thì không xứng đáng làm con của Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho cả người lành lẫn người dữ…”. Mình đang cao hứng khai triển bài Tin Mừng, thì bỗng cụt hứng.

Một người đàn bà đứng lên dõng dạc phát biểu: “Đạo này khó quá à, tôi theo không được đâu. Tôi có một đứa con dâu, nó hỗn lắm, tôi không thể tha thứ được. Tôi đã ghi băng đàng hoàng dặn con cháu tôi không được coi nó như con cái trong gia đình”. Vừa dứt lời, bà ngoe ngoảy ra về và… không bao giờ trở lại lớp học nữa. Buồn ơi là buồn!

۩ Hôm ấy mình đang rảo bước trên đường phố, thì bỗng phải dừng lại để chứng kiến một chuyện buồn. Một thằng cu tí bên hàng xóm chạy về. Khóc hu hu. Khóc hậm hực. Mẹ nó đằng đằng sát khí.

– Tại sao mày khóc?

– Thằng Tèo nó đánh con.

– Nó đánh mày thì mày đánh nó. Tại sao mày ngu mà khóc?

Người đàn bà đằng đằng sát khí ấy là một Kitô hữu trong họ đạo của mình. Bà dạy con mình trả thù, ngược lại với giáo huấn của Đức Giêsu. Buồn ơi là buồn!

Chuyện buồn này gọi nhớ về một chuyện xa xưa.

۩ Thằng cu tí đang chập chững tập đi. Nó vấp phải cái ghế, lăn đùng ra, khóc òa lên. Mẹ nó lấy roi mây quất lên cái ghế vô tri, vừa quất vừa dạy đời: “cái ghế này làm cho con tao ngã. Tao đánh mày. Tao đánh mày. Chừa nhá”. Được mẹ trả thù giùm, thằng cu tí thôi khóc, sung sướng quá chừng. Người mẹ cũng sung sướng, vừa sung sướng vừa hãnh diện về tài dỗ trẻ em của mình. Bà không ngờ rằng chính bà đang đào tạo đứa con để nó không thể tha thứ như Chúa muốn. Từ bà mẹ này mình nhớ đến một bà mẹ khác.

۩ Bà đang bồng con, thì ông nội đến chơi. Ông nội đón cháu từ tay bà mẹ. Ông cưng cháu, nựng cháu. Nựng theo kiểu đấng nam nhi đội đá vá trời xanh. Ông hôn cháu như bão táp. Ông chà cái cằm râu lởm chởm của mình lên mặt mũi nõn nà của thằng cháu mới lên hai tuổi. Thằng cháu khóc òa lên. Ông nội cười khằng khặc. Bà mẹ lấy tay đánh nhẹ lên vai ông nội, vừa đánh vừa la : “Mẹ đánh ông nội này!… Nín đi con”. Thằng bé được mẹ trả thù giùm, nín ngay. Bà mẹ cười hả hê.

Bà mẹ ấy ơi, bà đã vô tình gieo hạt giống hận thù vào tâm não của em bé. Hạt giống ấy nảy nở và lớn lên bao trùm hết cuộc đời của nó. Thế là nó không thể tha thứ theo yêu cầu của Đức Giêsu. Đáng tiếc vô cùng!

Sau khi ôn lại những kỷ niệm buồn rải rắc đó đây, mình ngẫm nghĩ và ngộ ra rằng “yêu kẻ thù, cầu nguyện cho kẻ thù, chúc lành cho kẻ thù, để xứng đáng làm con của Cha trên trời” là một giáo lý cao siêu nhưng không vượt tầm với của con người. Loài người có thực hiện được giáo huấn ấy hay không là do những nguyên nhân rất cụ thể.

– Nếu bà mẹ nào cũng lấy roi trừng phạt cái ghế vì nó làm cho con của bà vấp ngã ; nếu bà mẹ nào cũng giả vờ đánh ông nội, để cho con mình nín khóc…, luật “yêu kẻ thù” sẽ mãi mãi ở ngoài tầm với của loài người.

– Nếu có những bà mẹ khuyến khích, năn nỉ con cái tha thứ và cầu nguyện cho những người ghét mình, nói xấu mình… thì giáo huấn “yêu kẻ thù” bắt đầu thăng hoa. Nếu tối nào cha mẹ cũng dạy con xin lỗi nhau trước khi đi ngủ, thì giáo huấn “yêu kẻ thù” đang là hiện thực.

– Thánh Phaolô yêu cầu tín hữu: “Giận ai thì giận nhưng khi mặt trời lặn xuống thì hãy quên hết đi”. Đó là tập luyện tha thứ, y như võ sĩ: tập luyện cơ bắp. Thời gian yêu kẻ thù như một tập quán sẽ chẳng còn xa bao nhiêu nữa.

– Trong thực tế, đã có biết bao nhiêu người sẵn sàng yêu kẻ thù, thứ tha cho người làm khổ mình một cách bất công. Cụ thể là Thánh Stêphanô. Kẻ thù ném đá vào ngài như mưa. Vậy mà ngài vẫn một niềm tha thứ, yêu thương như Đức Giêsu trên khổ giá: “Lạy Chúa, xin Chúa tha cho họ”. Tuyệt vời! Trên tuyệt vời!

“Yêu kẻ thù” là đỉnh điểm chót vót của bác ái Kitô giáo. Khó lắm, nhưng không khó quá. Để vươn tới đỉnh điểm ấy, thì giáo dục và luyện tập là phương tiện cần thiết. Nhưng có bao nhiêu người đang tập luyện yêu thương và tha thứ ?

Pio Ngô Phúc Hậu


 

Phạm Đoan Trang – Ngọn lửa không bao giờ tắt

Tri Nguyen Ông Tám 

Trong lịch sử Việt Nam đương đại, hiếm có ai khiến người ta vừa kính nể vừa đau đớn như nhà báo Phạm Đoan Trang. Cô không cầm súng, không đứng trên chiến trường, nhưng lại chọn một mặt trận còn khắc nghiệt hơn: mặt trận của sự thật giữa một xã hội bị bịt miệng. Với cô, ngòi bút không chỉ là công cụ, mà là vũ khí; tự do không chỉ là khái niệm, mà là hơi thở mà cô sẵn sàng đánh đổi cả cuộc đời để bảo vệ.

Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, Đoan Trang từng là một cô gái bình thường với ước mơ làm báo tử tế. Cô tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, từng làm việc ở các tờ báo lớn, từng được đồng nghiệp yêu mến vì tài năng và sự sắc sảo. Nhưng càng đi sâu vào nghề, cô càng nhận ra rằng ở nơi cô sống, nói thật là một tội lỗi. Năm 2009, khi viết về vụ Formosa và những bất công môi trường, cô bắt đầu bị công an theo dõi, bị đe dọa, bị đánh đập. Nhiều người chọn im lặng. Cô thì không. Cô chọn viết tiếp, viết mạnh hơn, viết rõ hơn.

Những cuốn sách của Đoan Trang – “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” – không phải là những tác phẩm học thuật khô khan. Chúng là những lời thì thầm gan dạ giữa bóng tối, là ánh sáng lọt qua khe cửa nhà tù. Cô viết bằng thứ ngôn ngữ mà bất kỳ người dân nào cũng hiểu, để họ biết rằng mình có quyền, rằng mình không đơn độc. Cô dịch tài liệu về nhân quyền, về bầu cử tự do, về kháng cự bất bạo động, rồi phát miễn phí, bất chấp biết chắc sẽ bị bắt. Cô từng nói: “Tôi không muốn làm anh hùng, tôi chỉ muốn sống đúng với lương tâm mình”. Nhưng chính câu nói ấy đã biến cô thành biểu tượng.

Ngày 6 tháng 10 năm 2020, công an ập vào khách sạn ở Sài Gòn, bắt cô khi cô đang chuẩn bị ra mắt cuốn sách mới. Họ đánh gãy chân cô, kéo lê cô trên sàn như một tội phạm nguy hiểm. Bản án 9 năm tù dành cho “tội tuyên truyền chống nhà nước” đã khiến cả thế giới sửng sốt. Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, Ân xá Quốc tế, Liên minh Châu Âu, Quốc hội Mỹ… đều lên tiếng. Nhưng ở trong nước, rất nhiều người chỉ biết khóc thầm.

Trong tù, Đoan Trang vẫn cười. Người thân kể rằng mỗi lần thăm gặp, cô đều hỏi thăm mọi người trước khi nói về mình. Cô từ chối nhận đồ tiếp tế nếu biết đó là từ những người đang gặp khó khăn. Cô tuyệt thực nhiều lần để phản đối việc bị đối xử tệ bạc với tù nhân lương tâm khác. Cô bị biệt giam, bị cắt hết quyền thăm gặp, bị bệnh tật hành hạ vì đôi chân từng bị đánh gãy không được chữa trị tử tế. Nhưng cô vẫn viết. Bằng cách nào đó, những dòng chữ của cô vẫn lọt ra ngoài: “Tôi không hối hận. Nếu được làm lại, tôi vẫn sẽ làm như vậy”.

Có người hỏi: vì sao một người phụ nữ nhỏ bé, không chồng con, không tài sản, lại sẵn sàng trả giá đắt đến thế? Câu trả lời nằm trong chính cuộc đời cô. Đoan Trang yêu đất nước này theo cách sâu sắc nhất: không phải bằng những lời hô hào trên tivi, mà bằng việc dám chỉ ra những ung nhọt để đất nước được chữa lành. Cô tin rằng một dân tộc chỉ thực sự tự do khi không ai phải sợ hãi vì nói lên sự thật.

Hôm nay, khi cô vẫn đang bị giam giữ ở một nơi mà ngay cả người thân cũng không được biết chính xác, vẫn có hàng ngàn người âm thầm đọc sách của cô, chia sẻ bài viết của cô, và lặng lẽ tiếp nối tinh thần của cô. Mỗi cuốn sách bị cấm là một ngọn lửa được thắp lên. Mỗi năm tù của cô là một năm thêm hàng vạn người Việt Nam biết đến khái niệm “quyền con người”.

Phạm Đoan Trang không phải là thánh nữ. Cô cũng sợ đau, cũng cô đơn, cũng từng khóc. Nhưng cô đã chọn cách sống sao cho khi rời khỏi thế giới này, cô không phải xấu hổ với chính mình. Và chính điều đó khiến cô trở thành người phụ nữ Việt Nam đẹp đẽ nhất mà thời đại này có may mắn chứng kiến.

Cô từng viết: “Tự do không phải là thứ chúng ta có, mà là thứ chúng ta làm”. Hôm nay, ngọn lửa Đoan Trang vẫn cháy. Trong song sắt, trong đau đớn, trong im lặng bị áp đặt, cô vẫn đang làm tự do – từng ngày, từng hơi thở.

Và chỉ cần chúng ta còn đọc cô, còn nhắc đến tên cô, còn dám sống thật với lương tâm mình, thì ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ tắt.

Cảm ơn chị, Phạm Đoan Trang.

Vì chị, chúng ta học được rằng sống đáng sống là sống như thế nào.

Và vì chị, chúng ta tin rằng một ngày nào đó, Việt Nam sẽ tự do – như cách chị đã mơ, đã trả giá, và vẫn đang sống.


 

Nga`y 06/12/2023, kỷ niệm 188 năm ngày sanh Pétrus Trương Vĩnh Ký.

Le Thanh Hoang Dan

 Hôm nay 06/12/2023, kỷ niệm 188 năm ngày sanh Pétrus Trương Vĩnh Ký. Ông là một trong 18 nhà bác học hàng đầu của thế kỷ 19, và có tên trong Bách Khoa Từ Điển Larousse. Cộng Sản ghét ông lắm.

Ở Sài Gòn có trường Pétrus Ký. Năm 1975 khi Cộng Sản chiếm Sài Gòn  (họ gọi là giải phóng ?), họ lấy tên lãnh tụ Cộng Sản đặt cho thành phố, tên của Tổng Bí Thư Đảng Lê Duẩn đổi tên cho đại lộ Thống Nhất, và tên của một lãnh tụ Cộng Sản khác là Lê Hồng Phong đặt tên cho trường Pétrus Ký.

Pétrus Ký là niềm hãnh diện của nhiều người trong Nam. Nhiều người nổi tiếng trong Nam là cựu học sinh trường mang tên Ông.

Tinh thần độc lập và yêu nước trường này được bộc lộ rõ ràng nhất khi một học trò Pétrus Ký là Trần Văn Ơn bị chánh quyền Pháp nổ súng bắn chết. Trò Ơn đã cùng sinh viên và học sinh Sài Gòn biểu tình chống Pháp đầu năm 1950.

Ông sanh ở tỉnh Vĩnh Long ngày 6 tháng 12 năm 1837, và qua đời ngày 1 tháng 9 năm 1898. Ông đã để lại hơn 100 công trình viết lách và dịch thuật giúp phát triển sự hiểu biết giữa nước Việt Nam và Âu Châu.

Chính nhờ ông mà chữ Quốc Ngữ ngày nay trở thành chữ viết chánh thức của nước Việt Nam, thay vì chữ Nôm và chữ Hán. Sự đóng góp lớn lao này không được Cộng Sản đề cao.

Ông được coi là ông tổ nghề báo ở Việt Nam, vì ông đã sáng lập và làm Tổng Biên Tập cho tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam tên Gia Định Báo.

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo

NGUYỄN TƯỜNG THỤY: MỘT ĐỜI NGƯỜI CHỌN LÀM BÁO VIẾT SỰ THẬT

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Có những con người, dù đã đi qua hơn nửa đời người, vẫn không thể làm ngơ trước những điều sai trái đang diễn ra quanh mình. Nguyễn Tường Thụy, sinh năm 1950, là một trong số ấy. Ở tuổi mà nhiều người đã chọn sống an nhàn bên gia đình, ông lại chọn bước đi trên con đường đầy bất trắc: con đường của sự thật, của quyền tự do báo chí, của trách nhiệm công dân.

Ít ai biết rằng trước khi trở thành một trong những gương mặt nổi bật của báo chí công dân Việt Nam, ông Thụy từng là quân nhân trong Quân đội nhân dân. Hình ảnh người lính, người từng đi qua chiến tranh và hiểu giá trị của hòa bình, dường như đã góp phần tạo nên một Nguyễn Tường Thụy kiên trì, điềm tĩnh và luôn nghĩ về tương lai đất nước.

Từ giữa những năm 2000, ông Thụy xuất hiện ở nhiều nơi mà lẽ ra một người ở tuổi ông không cần phải đi: các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, các buổi xuống đường bảo vệ cây xanh Hà Nội, các phiên tòa xử dân oan khiếu kiện đất đai.

Ông không phải người hô hào. Ông quan sát. Ông lắng nghe. Ông viết lại.

Qua ngòi bút của ông, người đọc thấy được nỗi đau của từng người dân, sự khốn khổ của những mảnh đời bơ vơ trước guồng máy quyền lực, và cả hy vọng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt về một xã hội công bằng hơn.

Ông tham gia Hội Bầu bí tương thân, góp phần sáng lập Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, viết bài cho Đài Á Châu Tự Do, và điều hành một blog cá nhân với lượng độc giả lớn. Ở tuổi 60–70, ông vẫn miệt mài đi lại, ghi chép, trò chuyện với từng gia đình nạn nhân môi trường, từng người dân oan trong các vụ cưỡng chế đất.

Ngày 23/5/2020, công an bắt giữ ông tại Hà Nội theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. Phiên tòa ngày 5/1/2021 tuyên ông 11 năm tù giam và 3 năm quản chế.

Một người đã gần 70 tuổi phải đối mặt với bản án hơn một thập kỷ, điều đó vượt quá sức tưởng tượng của nhiều người.

Giờ đây, ông đang bị giam ở Trại giam An Phước (Bình Dương), xa gia đình, xa người thân, xa những câu chuyện mà ông vẫn muốn được kể.

Nguyễn Tường Thụy không phải người hùng theo nghĩa hào nhoáng. Ông chỉ là một người bình thường, lớn lên trong một đất nước nơi tiếng nói trung thực đôi khi phải trả giá đắt. Nhưng chính vì thế, câu chuyện của ông mới đáng trân trọng.

Những gì ông trải qua, nhắc ta rằng:

Làm người tử tế, ngay cả khi điều đó nguy hiểm, vẫn là một lựa chọn đáng sống.

Vân Phong


 

CẢNH NGƯỜI DÂN BỊ NGẬP LỤT TẠI HÀM THẮNG, LÂM ĐỒNG (BÌNH THUẬN cũ)

Truyền Thông Thái Hà 

Sáng 5/12/2025, hàng trăm nhà dân tại phường Hàm Thắng (Lâm Đồng) đã chìm trong biển nước do sự kết hợp của mưa lớn, triều cường và việc hồ thủy lợi Sông Quao xả lũ. Khu vực này đã bị ngập nặng trong hai ngày liên tiếp.

Mặc dù trời đã hửng nắng, nước lũ vẫn rút rất chậm, khiến nhiều nhà ven sông Cái và nhà ở phường Hàm Thắng vẫn bị ngập gần lút mái và cửa nhà bị xô đổ. Do có kinh nghiệm từ trận lũ trước, người dân đã di dời từ sớm, nhưng nhiều người vẫn ở lại khu trọ để bảo vệ tài sản. Người dân phải dùng xuồng máy để di chuyển và nhiều gia đình ở khu dân cư Bến Lội phải nhận cơm trưa từ thiện do không thể nấu ăn.

Thiệt hại trên toàn tỉnh Lâm Đồng rất nghiêm trọng, ghi nhận một người tử vong. Toàn tỉnh có gần 3.300 nhà bị ngập; hơn 3.300 ha nông nghiệp và hơn 4.000 gia súc, gia cầm bị mất. Lũ lụt cũng gây ra hơn 16 điểm sạt lở và hư hỏng 4 cầu cống. Giao thông bị chia cắt nặng nề khi hơn 300 m Quốc lộ 1 qua cầu Bến Lội ngập gần một mét, và nhiều tuyến đèo quan trọng như Mimosa, Prenn, D’ran, Gia Bắc đều bị ngập lụt.

https://vnexpress.net/khu-dan-cu-o-lam-dong-chim-trong…

https://vnexpress.net/nguoi-dan-phan-thiet-chua-bao-gio…

Sáng 5/12, mặc dù trời nắng song nước rút chậm, hàng trăm căn nhà của phường Hàm Thắng vẫn chìm trong biển nước. Ảnh: Phước Tuấn

Hàng trăm ha rừng bị cày nát như thế…

Lê Vi

 Để hàng chục, hàng trăm ha rừng bị cày nát như thế không thể là chuyện không ai hay biết. Muốn phá rừng quy mô lớn phải có đường mở, máy móc vào, gỗ vận chuyển… tất cả đều diễn ra trong thời gian dài. Vậy mà khi hậu quả phơi bày, trách nhiệm lại thu hẹp vào hai nhân viên kiểm lâm?

Thực ra gốc rễ vấn đề chưa bao giờ được xử lý đến nơi đến chốn. Rừng không tự nhiên mất, mà mất vì con người ta chọn cách làm ngơ. Ai cũng hiểu phía sau mỗi cánh rừng bị xóa sổ là cả một chuỗi mắt xích cấu kết: từ người phá rừng, kẻ bao che, đến những người đáng lẽ phải bảo vệ nhưng lại quay đi vì lợi ích.

Chừng nào những mắt xích này còn được dung túng, chừng nào trách nhiệm vẫn chỉ được xử lý trên giấy, thì phá rừng sẽ còn tiếp diễn. Và cái giá phải trả luôn là người dân, là môi trường, là tương lai của chính chúng ta.

KHÔNG THAM NHŨNG THÌ KHÔNG LÀM VIỆC” – LỜI THÚ TỘI VÔ TÌNH CỦA BỘ MÁY QUYỀN LỰC?

Xuan Ly is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Phát ngôn mới của Thủ tướng Phạm Minh Chính chẳng khác gì một cú vô tình vạch áo cho người xem lưng, phơi trần bí mật mà dân ta thuộc lòng từ nửa thế kỷ: bộ máy quan chức Việt cộng muốn vận hành thì phải được… bôi trơn. Không tham nhũng, không thể làm gì. Tham nhũng chính là dầu máy để cả hệ thống chạy.

  1. Bộ máy hai tầng: làm là ăn – không ăn thì đừng làm

Ông Chính nói “làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm không sai”. Nhưng phần bị giấu đi mới là cái lõi:

Trong cơ chế này, “làm việc” đồng nghĩa “ăn được bao nhiêu”, và “không làm” chính là cách tự cứu mạng khi phe cánh đang thanh trừng lẫn nhau.

Từ các cục, vụ, sở cho đến tỉnh, bộ – tất cả cùng tuân theo logic bất thành văn:

– Muốn tồn tại,  phải biết chia phần.

– Muốn an toàn, phải biết dừng đúng lúc.

  1. “Trách nhiệm người đứng đầu” – khẩu hiệu hóa vũ khí thanh trừng

Ông Chính cứ nhắc “trách nhiệm người đứng đầu”, nhưng dân ai cũng biết đây chỉ là mặt nạ pháp lý cho các đợt thanh lọc phe phái.

Một cái nháy mắt từ trung ương đủ để loại cả một mạng lưới lợi ích. Từ Vương Đình Huệ tới Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng – ai rơi vào tầm ngắm đều bị “phát hiện sai phạm”.

  1. “Đốt lò” , kịch bản tái lập quyền lực chứ không phải làm sạch

Kể từ khi Nguyễn Phú Trọng nắm Ban Chỉ đạo, chống tham nhũng trở thành nghi lễ tế thần của Đảng.

Củi nhỏ, củi lớn, củi tươi, củi khô đều chất lên để giữ một thông điệp:

“Quyền lực nằm trong tay ai thì người đó định nghĩa thế nào là tham nhũng.”

Tham nhũng không hề giảm; nó chỉ được sắp xếp lại. Một nhóm mất phần – nhóm khác được chia.

  1. Vấn đề không nằm ở quan chức – mà nằm ở cái lò

Khi:

– Không có báo chí tự do,

– Không có bầu cử thật sự,

– Không ai giám sát người cầm quyền,

– Lợi ích nhóm ngồi trên luật pháp,

thì tham nhũng không phải “sai phạm”. Nó là cơ chế, nhiên liệu, móng nền của bộ máy.

Kết luận

Cái lò được dựng lên từ gỗ mục của chính chế độ.

Càng đốt, càng bốc mùi.

Và người dân chỉ là khán giả bất đắc dĩ của một vở kịch kéo dài nhiều thập kỷ:

chống tham nhũng để củng cố tham nhũng – thanh trừng để duy trì quyền lực.

Le Anh

 Xấu hổ và vô cùng xấu hổ

Việt Nam Thời Báo

 

Cầu Long Biên khánh thành năm 1902 sau khi khởi công xây dựng 1898, mất 4 năm. Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn khởi công 1877 và khánh thành năm 1880, mất 3 năm. Tuổi đời của Cầu Long Biên là 120 năm. Tuổi đời của Nhà Thờ Đức bà là 142 năm.

Hai công trình điển hình này do Thực dân Pháp “cướp nước” ta để lại như là dấu tích của một thời thực dân. Giờ đã đến lúc phải sửa chữa cho những thứ tồn tại hàng thế kỷ như vậy.

Nhưng… Cầu Long Biên muốn sửa chữa nhưng trình độ Công nghệ của ta, tạm gọi vậy cho có vẻ khoa học, rất kém. Nên đang muốn nhờ chính phủ Pháp cho tiền để sửa chữa và… cử người Pháp sang làm cho gọn.

Nhà thờ Đức Bà cũng chẳng khác gì. Sửa chữa từ 2017 khi Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn là người Quản trị Công trình này cam kết với Ủy Ban Nhân dân TP.HCM là họ sẽ hoàn thành năm 2019 vì đã có tiền để làm. Đến cuối 2018 thì họ xin thêm đến 2023 vì “nó phức tạp quá”.

Đang mừng khấp khởi là đến 2023 sẽ gỡ hàng rào bao quanh. Không!

Chiều ngày 04/08/2022 giới chức có thẩm quyền công bố là họ mới xin đến 2027, tức là 5 năm nữa mới hoàn thành sửa chữa và vẫn còn thòng thêm câu là “trong tình hình diễn biến thuận lợi, nếu có những phát sinh mới sẽ được bổ sung để xin gia hạn tiếp giấy phép sửa chữa”. Tức là chưa chắc 2027 là thời hạn cuối cùng mà sẽ là dài dài. Việc còn đến 5 năm nữa mà vẫn không hoạch định được việc mình làm cho thấy gì.

Điều đáng nói là tất cả các chuyên gia phục hồi sửa chữa này đều là từ Pháp và Ý sang từ 2017, tức là người Việt vẫn không thể làm được cái việc mà người Pháp 142 năm trước đã làm.

Từ cầu Long Biên đến Nhà Thờ Đức Bà đều chung một kết quả thấy được: người nước ta không biết và không làm chủ được những thứ tri thức và kỹ năng đã có từ hàng thế kỷ trước.

Vậy chúng ta bước vào kỷ nguyên 4.0 bằng cái gì? Bằng việc không học Số học và nhảy luôn vào Đại số hay sao. Bằng việc không học Tiểu học mà thi thẳng lên Tiến sĩ hay sao.

Đất nước có 26.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ, tức là 10 Sư đoàn thạc sĩ mà đến lúc sửa cầu Thăng Long do Liên Xô làm từ 1985 vẫn không làm nổi.

Công nghệ của Pháp hơn 140 năm trước vẫn không hiểu gì chưa nói tới chuyện để làm. Vậy đất nước ta, dân tộc ta đứng ở đâu trong kho tàng tri thức của Nhân loại.

Rất xấu hổ!

Vô cùng xấu hổ!

Và bất lực!

Hung Phan