“Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4:41)- Cha Vuong

Mến chúc bạn ngày Chúa Nhật tràn đầy bình an và ân sủng của Chúa và Mẹ nhé.

Cha Vương

CN: 23/6/2024

TIN MỪNG: Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4:41)

SUY NIỆM: Người này là ai? Ông này là cái thớ gì mà làm được những chuyện như vậy? Đây là câu hạch hỏi về quyền năng của một người nào đó. Thái độ của các tông đồ thật là đáng trách. Các ngài đã từng thấy Chúa Giêsu chữa nhiều bệnh tật, và trừ được quỷ thế mà trong lúc lao đao giữa cơn bão biển, Chúa Giêsu lại ngủ, họ kết luận rằng Chúa Giêsu chẳng lo nghĩ gì đến họ! Họ hạch hỏi Chúa! Sách Cách Ngôn (3:24) dùng giấc ngủ an bình để tả lòng tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu có thể ngủ ngay lúc bão táp của cuộc đời là dấu chỉ vào lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa của Ngài. Chữ “lòng tin” khi dùng trong xã hội Hy Lạp hay Do Thái thời đó có nghĩa là “lòng trung thành”. Chúa Giêsu trách các môn đệ đã để sự nhát gan làm lung lay lòng tin (trung thành) của họ đối với Người. Có bao giờ bạn có thái độ tương tự như vậy chưa qua lời than thở “Lạy Chúa sao Chúa lại để con đau khổ như thế này”?  Những cơn báo tố nào đang đến với bạn trong lúc này là gì? Có thể là một biến cố bên ngoài hay một cuộc chiến trong tâm hồn. Nếu như Chúa Giêsu ở bên cạnh bạn trên con thuyền khi bạn lao đao giữa giông tố ngoài biển khơi, thì bạn sẽ làm gì? Bạn có vẫn ngồi bên Ngài ngay khi nước trào vào thuyền? Bạn có đánh thức Người dậy để xin một phép lạ chăng? Hay bạn bỏ Ngài để đi tìm một quyền năng nào khác để làm lặng xuống những bão táp và sóng gió trong đời? Xin bạn đừng quên rằng quyền năng trên biển và bão tố là dấu hiệu một quyền năng đến từ Thiên Chúa. Chỉ có sự hiện diện của Chúa mới mang bình an thật đến cho tâm hồn bạn thôi. Đi với Chúa Giêsu là đi trong bình an, dù là đi giữa bão tố của cuộc đời. Hãy tin tưởng vào Chúa luôn luôn trong mọi hoàn cảnh nhé.

LẮNG NGHE: CHÚA là sức mạnh của dân CHÚA, là thành trì cứu độ

cho Đấng Người đã xức dầu tấn phong. Lạy CHÚA, xin cứu độ dân Ngài, trên gia nghiệp này, giáng muôn phúc cả dẫn dắt nâng niu đến muôn đời. (Tv 54:6,8)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin ở lại với con khi bóng tối đang vây phủ con, buông tay Chúa ra con biết trông cậy vào ai? Lạy Chúa Giêsu con tin tưởng nơi Chúa. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.

THỰC HÀNH: Mời Chúa vào những khó khăn đau khổ đang đến với bạn trong lúc này.

From: Do Dzung

Ở LẠI VỚI CON – NGUYỄN HỒNG ÂN  

Sử gia Trần Huy Liệu: ông thầy bịa sử-Tác Giả: Phan Thanh Tâm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Phan Thanh Tâm

09/09/2021

Ông Trần Huy Liệu

“Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” là “một sản phẩm được chế ra bởi chính Viện Trưởng Viện Sử Học miền Bắc, Giáo sư Trần Huy Liệu”. Và chuyện “đề cờ” chung quanh câu này đã trở thành một thứ “sự thật lịch sử, “siêu tài liệu”, hay “siêu bằng chứng” là nhờ tài nghệ sáng tác cùng kinh nghiệm làm báo cũng như làm chính trị của “người anh cả” giới sử học Hà Nội. Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên đã xác định như vậy trong cuốn “Phan Thanh Giản và vụ án “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân”. Tác giả đã dành một năm nghiên cứu quá trình nguồn gốc tám chữ được dùng để hạ nhục cụ Phan ”vì mục đích đánh chiếm miền Nam”.

Tác giả sách cho biết câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” xuất hiện lần đầu tiên tháng 8 năm 1955 trên số 9 tập San Văn Sử Địa tiền thân của tờ Nghiên Cứu Lịch Sử trong bài viết có tựa đề “ Việt Nam Thống Nhất Trong Quá Trình Đấu Tranh Cách Mạng” của ông Trần Huy Liệu. Tuy là bài nóí chuyện tại Câu Lạc Bộ Đảng Xã Hội Việt Nam, nhưng được coi như là một bài viết rất công phu với nhiều chú thích; riêng câu có tám chữ về cụ Phan thì ông Liệu không hề cho hay nguồn gốc câu đó ở đâu. Sinh năm 1964 tại Cần Thơ, là một thuyền nhân đến Mỹ năm 1980, Tiến sĩ Luật khoa Phan Đào Nguyên xác định câu này không có mặt trong cả nước trước 1954 và miền Nam từ 1954 cho đến năm 1975.

Khác với giáo sư Phan Huy Lê khi kể lại chuyện cây đuốc sống Lê Văn Tám là một nhân vật không có thật do ông Trần Huy Liệu chế tạo, giáo sư Lê đã không nói rõ, là Giáo sư Trần Huy Liệu đã nhắn nhủ với Giáo sư trong trường hợp nào. Đằng này, khi công bố chuyện sử gia Viện trưởng Viện sử học chế ra câu “Phan Lâm Mãi Quốc Triều Đình Khi Dân” với sự phụ hoạ của giáo sư sử học Trần Văn Giàu, tác giả Tiến Sĩ Luật Khoa Phan Đào Nguyên đã viết cả môt cuốn sách dày gần 400 trang. Sách được phát hành nhân buổi Hội Thảo và Triển Lãm về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản” và trao giải thhưởng Văn Học PhanThanh Giản 2021 tại Houston.  Buổi này do Gia Đình Cựu Học Sinh Trung Học Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần Thơ tại Houston, Texas, tổ chức ngày 15/8/2021.

Trong sách Tiến sĩ Luật khoa Phan Đào Nguyên, Cử nhân khoa Lịch sử bằng danh dự năm 1987 tại UCLA, đã chỉ trích thế hệ giáo sư sử học ở Việt Nam do hai bậc trưởng thượng, ông Trần Huy Liệu và Trần Văn Giàu, đào tạo ra trong đó có “tứ trụ”  Hà Văn Tấn, Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, và Trần Quốc Vượng. Ba ông sau đã tiếp tay phổ biến câu “thần chú vạn năng” này. Cuốn sách là một thách đố cho các sử gia miền Bắc: “Họ đã không làm phận sự giáo sư bộ môn lịch sử – là phải tìm hiểu cặn kẽ về một câu có tầm vóc lịch sử. Giỏi lắm thì họ có đặt chút nghi ngờ về xuất xứ của câu này, nhưng rồi vẫn tiếp tục cho rằng đó là một nguồn dư luận cần phải được ghi nhận”.

phải phục vụ chế độ

Tại sao không nói đến xuất xứ tám chữ nói trên? Vì cứu cánh biện minh cho phương tiện. Đề ra những phương  pháp sử học cơ bản nhưng khi cần đạt được mục đích tối hậu thì sử gia cọng sản không làm nhiệm vụ của một sử gia là đưa ra những suy nghĩ vô tư dựa trên những tài liệu uy tín mà “ta chỉ thấy toàn những lời bịa đặt”. Tác giả Phan Đào Nguyên trang 348 trích dẫn tôn chỉ của sử gia Trần Huy Liệu khi ông chủ trương : chúng ta không phải nghiên cứu để nghiên cứu mà là nghiên cứu để phục vụ cho những công tác trước mắt; gắn chặt việc yêu nước với việc yêu chế độ xã hội chủ nghĩa; chứng minh chế độ ta là một chế độ tốt đẹp hơn chế độ thối nát của Mỹ –  Diệm ở miền Nam.

Trang 32 cuốn sách kể lại chuyện Giáo sư Trần Văn Giàu thổ lộ với nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh rằng “Đó là thằng Liệu, không phải tao” khi nghe nhắc tới chuyện khoảng năm 1960 – 1963 đảng Cộng Sản hạ quyết tâm dùng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam.  Phan Thanh Giản là một nhân vật “chủ hoà” bị mang ra đấu tố. Trong phiên toà ông Phan đã bị kết án xử tử.  Ông Trần Huy Liệu trước khi dàn dựng phiên toà đấu tố trên tờ Nghiên Cứu Lịch Sử năm 1963 do ông làm chủ nhiệm và Tổng Biên Tập, ông đã nghiên cứu cách đấu tố điạ chủ ở miền Bắc 10 năm trước. Điều này được tiết lộ qua con trai ông là Trần Chiến viết trong cuốn “ Cõi Người – Chân Dung Trần Huy Liệu” trang 367.

Phiên tòa đấu tố là “một vụ xử án một chiều rất trắng trợn”. Tác giả Phan Đào Nguyên viết, câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” đã được đem ra để làm bằng chứng duy nhất cho tội “mãi quốc”. Nó chứng minh cho việc Phan Thanh Giản đã đi ngược lại “nguyện vọng của nhân dân”; từ đó bác bỏ việc xin khoan hồng cho tội “mãi quốc”. Quan toà tuyên bố bản án tối hậu cho cụ Phan mà chỉ dựa vào  tám chữ mà tám chữ đó lại do chính giáo sư sử học và là quan toà bịa ra. Phiên toà không có sự đối thoại hay tranh luận nào hết.  Có một độc giả Hải Thu viết bài “góp ý về Phan Thanh Giản” cũng đã miệt thị và buộc tội cụ Phan. Sau này người tai khám phá Hải Thu là bút hiệu của Trần Huy Liệu.

Về tội “mãi quốc”, theo Luật sư Phan Đào Nguyên, đây là động từ cho thấy có sự trao đổi giữa kẻ bán và kẻ mua. Nếu cụ Phan bị tuyên án “mãi quốc” thì  quan toà Trần Huy Liệu ít nhất phải có một bằng chứng cho cuộc mua bán, đổi chác giữa cụ Phan và Pháp và đã là mua bán thì cái giá của sự trao đổi là gì? Có phải là tiền bạc, chức tước, hay đất đai cho chính Phan Thanh Giản hoặc con cháu gia đình ông để đổi lấy mấy tỉnh Nam Kỳ? Những điều kiện phải có cho tội danh “bán nước” đã không  được đếm xỉa tới. Đó là chưa nói tới việc Phan Thanh Giản chẳng làm gì có quyền gì mà bán. Tất cả quyết định tối hậu là ở vua Tự Đức. Hoà ước 1862  ký xong trong vòng một năm phải được  vua Napoleon III và vua Tự Đức chấp thuận.

 Điều 11 Hoà Ước 1862

Theo Luật sư Tiểu Bang California và Liên Bang Mỹ Phan Đào Nguyên các sử gia miền Bắc và sử gia Trần Huy Liệu không đọc hết hoà ước 1862 (Nhâm Tuất). Họ gọi Hoà ước này là “hàng ước” và Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp là những kẻ “đầu hàng” hay “bán nước”. Hoà ước có điều khoản 11, cực kỳ quan trọng. Viện trưởng Viện sử học và đàn em không bao giờ nhắc đến điều 11 vì “nó là một công trạng và thắng lợi về ngoại giao cũng như về chính trị của Phan Thanh Giản mà họ không hề biết, hoặc không muốn cho ai biết”. Theo điều này Pháp sẽ trả lại tỉnh thành Vĩnh Long cho vua An Nam, nếu vua An Nam ra lệnh và giải tán những lực lượng kháng Pháp tại hai tỉnh Gia Định và Định Tường.

Liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh bại Nguyễn Tri Phương tại đồn Chí Hoà năm 1861 và sau đó họ liên tiếp chiếm luôn bốn tỉnh lân cận Gia Đinh, Định Tường, Biên Hoà và Vĩnh Long chỉ trong vòng một năm. Gia Định là thủ phủ của ba tỉnh miền Đông. Vĩnh Long là thủ phủ của ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Do đó, việc mất tỉnh Vĩnh Long vào tay liên quân Pháp – Tây Ban Nha đồng nghĩa với việc sẽ mất trọn  Nam Kỳ. Lúc bấy giờ có những cuộc nổi loạn ở Bắc kỳ. Vua Tự Đức muốn rảnh tay đối phó với tình hình phiá Bắc, đành nhận chịu mất ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Việc Pháp trả tỉnh Vĩnh Long cho Việt Nam là một sự nhương bộ của Pháp- Tây- Ban Nha do tài ngoại giao của cụ Phan.

Để lấy lại được Vĩnh Long, Phan Thanh Giản phải thực thi điều 11 của Hoà Ước.   Ông buộc Pháp phải thực thi việc trả lại tỉnh này và cụ phải chứng minh cho người Pháp thấy là ông đã từng viết thư kêu gọi Trương Định giải giáp và bãi binh theo lệnh của vua. Đó là lý do tại sao khi Trương Định không chịu làm theo lệnh vua thì Phan Thanh Giản tuyên bố với phe Pháp là Trương Định là kẻ phản loạn để triều đình Huế hết chịu trách nhiệm về ông ta nữa. Nhờ sự khéo léo về chính trị của cụ Phan, nhà Nguyễn lấy lại Vĩnh Long trong vòng chưa đầy một năm sau khi ký Hoà ước 1862 mà không mất một mạng người nào. Các sử gia miền Bắc không đọc điều 11 nên tuyên bố cả 12 điều trong Hoà Ước là sự nhục nhã của nhà Nguyễn.

Trang 147 sách in lại Hịch Quản Định bản tiếng Việt của Petrus Trương Vĩnh Ký. Hịch Trương Định thông báo lý do ông đánh Pháp để đền ơn chúa và còn nói rõ ông tiếp nhận chiếu phụng của vua, nhận lãnh ấnTống Binh của triều đình đồng thời thừa lệnh vua kêu gọi mọi người chiến đấu chống Pháp. Ngoài ra, cũng qua bài hịch, tác giả Phan Đào Nguyên viết “ta còn được chính tác giả Trương Định cho biết rằng lá cờ của ông đã đề sẵn bốn chữ “Bình Tây Đại Tướng” chớ không phải “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” như hai sử gia Trần Huy Liệu và Trần Văn Giàu đã kể”.  Vẫn theo tác giả Phan Đào Nguyên, Trương Định biết cụ Phan cũng là “một phần tử của nhà vua đang tìm cách lấy lại đất bằng đường lối khác”.

Tại sao Viện Trưởng Viện Sử Học chọn Phan Thanh Giản làm mục tiêu tấn công và đem cụ làm nhân vật chính trong câu “ Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”?  Theo Luật sư Phan Đào Nguyên năm 1955 khi nhận thấy miền Nam không có tổng tuyển cử và miền Bắc chủ trương dùng chiến tranh để chiếm miền Nam thì Trần Huy Liệu chỉ trích đường lối ngoại giao của Phan Thanh Giản là “ảo tưởng” là “liều thuốc độc” và những người không chọn chủ chiến là thành phần “do dự hoang mang”.  Để tranh thủ người dân miền Nam và cán bộ tập kết phải cùng theo con đường đảng đề ra – ông Trần Huy Liệu răn đe – nếu không họ sẽ mang cái án bán nước, đầu hàng và cấu kết với giặc như Phan Thanh Giản bị kết án qua tám chữ nêu trên.

Cả nước ca ngợi quan Phan

Ngoài ra, vẫn theo Luật sư Phan Đào Nguyên, Phan Thanh Giản là một vị quan đức độ và có uy tín sâu rộng trong nhân dân Nam kỳ. Uy tín này có thể làm cho người dân Nam kỳ tin tưởng rằng đường lối ngoại giao của ông Phan là đúng. Do đó, ông Trần Huy Liệu phải chọn cụ Phan làm đối tượng phải diệt.Tiếp đó, ông ta đưa Phan Thanh Giản vào làm nhân vật chủ chốt hay là kẻ tội phạm đứng đầu sổ trong câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” mà đã do chính ông ta chế tạo ra.  Đây là một việc làm cần thiết cho mục tiêu tối hậu của ông Trần Huy Liệu- là giành lấy chính nghĩa và sự ủng hộ của dân miền Nam cho đường lối chủ chiến của phe ông ta ở miền Bắc trong cuộc chiến tranh đang diễn ra ở miền Nam.

Tiến sĩ Phan Đào Nguyên quả quyết, câu “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều đình Khí Dân” không có trong sách báo bằng chữ quốc ngữ của cả nước từ trước và ở miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Theo ông Nguyễn văn Trấn (1914 – 1998) còn gọi Bảy Trấn, là một nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động cách mạng chống Pháp, Chính ủy Bộ Tư lệnh Khu 9 và giảng viên trường Nguyễn Ái Quốc viết trong cuốn “Chợ Ðệm Quê Tôi” thì câu nói đó là câu nói của đàng ngoài: “Chớ tôi từng đọc sách sử, chưa thấy ở trong Nam này có sĩ phu bốc đồng nào nói ra câu bia miệng đó”.

Luật sư Phan Đào Nguyên cho biết sau khi Phan Thanh Giản (1796–1867) qua đời cụ đã được tất cả các sĩ phu và dân chúng miền Nam cũng như cả nước ngợi khen, như có thể thấy qua thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Phạm Viết Chánh, Phạm Phú Thứ.  Chẳng có văn thơ nào lên án Phan Thanh Giản cả. Có một người duy nhất tạm cho là có giọng điệu phê phán quan Phan là Phan Văn Trị, với câu “ngậm cười hết nói nỗi oan (quan?) ta”. Câu này có thể diễn dịch là một câu trách móc nhẹ nhàng chớ không phải là một lời lên án hay kết tội gì cả. Chữ oan hay quan theo lối nói của người miền Nam thì hơi giống nhau.

Ở  Miền Bắc trước 1954 cũng không hề nghe nói đến câu này. Tác giả Phan Đào Nguyên đã cố tìm trong các báo có uy tín như Nam Phong Tạp Chí của Thương Chi Phạm Quỳnh, và bộ Tri Tân Tạp Chí của Ứng Hòe Ngô Tất Tố cũng không thấy có bài nào chê bai hay lên án Phan Than Giản mà toàn là  những bài viết ca ngợi về sự hy sinh và đức độ cũng như thông cảm cho hoàn cảnh của quan Phan.  Ở trong Nam, những tác giả chuyên nghiên cứu về PhanThanh Giản như Lê Thọ Xuân, Trực Phần, Trường Sơn Chí, Khuông Việt  cũng không thấy nói về tám chữ ở đầu bài. Ông Lê Thọ Xuân đã cùng một người Pháp viết cả một cuốn sách với rất nhiều tài liệu bằng tiếng Pháp về cụ Phan cũng không có chữ nào về Phan Lâm Mãi Quốc .

Sử gia hay sử tặc?

Miền Nam sau năm 1954 cho đến năm 1975 không có sách báo nào viết chê bai cụ Phan. Tạp San Sử Điạ tại Sài Gòn không thấy có bài nào đề cập tới câu này. Có một trường hợp ngoại lệ là bài của sử gia Phạm Văn Sơn viết về câu này Phan Lâm bán nước, triều đình khí dân. Ông cũng đã chú thích ở cuối bài là tham khảo từ Lịch sử 80 năm chống Pháp của T-H-L  trang 32 và Nam kỳ chống Pháp của T-V-G trang 160.  Thời này một trong những con đường lớn nhất ở Sài Gòn là đường Phan Thanh Giản nay là đường Điện Biên Phủ. Cần Thơ và Đà Nẵng có trường Phan Thanh Giản coi như cùng cỡ với trường Quốc Học ở Huế hay trường Petrus Ký ở Sài Gòn.  Ngoài ra, ở miền Tây cũng còn có một bệnh viện lớn mang tên Phan Thanh Giản.

Nhà văn Sơn Nam kể lại, hồi xưa khi đi ngang qua miếu Văn Thánh học trò phải cúi đầu chào ông Phan. Nhà văn nói:”Tôi lại vào bên hông miếu Văn Thánh để cúi đầu trước bức ảnh cụ Phan, chớ nào ai vào chánh điện để chào ông Khổng, ông Tăng Sâm, Tử Lộ”. Nhà văn đề nghị, “trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ tình đủ lý”.  Cố học giả Vương Hồng Sển, trong cuốn Nửa Ðời Còn Lại, chương “Trở lại, thử tìm hiểu cảnh ngộ quan Phan khi đi sứ sang Pháp”, ông viết, “bấy lâu nay (1990), tôi nghe đầy tai lời trách quan Phan làm cho mất nước và vua Tự Ðức đứng đầu tội ấy. Thấp cổ bé miệng, tôi có dại gì cãi họ duy trong thâm tâm riêng tưởng họ chưa tới mắt cá quan Phan”.

“Làm thầy thuốc mà sai lầm thì chỉ giết một người; làm chính trị mà sai lầm thì tàn hại cả đất nước; làm văn hoá mà sai lầm thì gây tai họa cho muôn đời.” Con làm sử gia ma xuyên tạc thì sao đây? Người viết bài này khẩn thiết mong giới sử gia Băc Hà nên lên tiếng về cuốn sách và ý kiến về  “người anh cả” của mình. Cùng với chiến thắng trong việc đổi tên thành phố Sai gon, những ngụy tạo của ông Trần Huy Liệu đã được đưa vào dạy ở trong Nam sau 1975. Cây đuốc sống Lê Văn Tám và câu “Phan Lâm mãi qốc, triều đình khí dân”đã thành một “siêu bằng chứng” mà mọi người Viết Nam đều nghe nói

Sử gia Trần Huy Liệu (1901-1969Đ thực hiện vụ án này có chỉ đạoVì sự công bình của lịch sử và là hậu duệ của cụ Phan, người viết bài này đòi hỏi Viện Sử Học Việt Nam phải có lời xin lỗi và đền bồi danh dự cho gia đình họ Phan chúng tôi về những cáo giác khi lên án cụ Phan Thanh Giản. Qua bút hièu Hải Thu Ỏng đã đã hạ thấp cụ xuống hàng súc vật, đòi nhốt cụ trong “chuồng”. Lừa cả nước khi tạo ra  Lê Văn Tám, Ông còn phịa ra vụ án “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khi dân”. Hơn 60 năm sau mới bị khui ra bởi Tiến sĩ Phan Đào Nguyên, Ông Trần Huy Liệu nên còn gọi ông là sử gia hay nên gọi là sử tặc?

Phan Than Tâm

California, tháng 8/2021.

————————-

THÔNG BÁO

THÂN TẶNG BẢN ĐIỆN TỬ (PDF) CỦA CUỐN SÁCH

“PHAN THANH GIẢN VÀ VỤ ÁN PHAN LÂM MÃI QUỐC TRIỀU ĐÌNH KHÍ DÂN”

Tác giả Winston Phan Đào Nguyên xin thân tặng bản điện tử của cuốn sách “Phan Thanh Giản Và Vụ Án Phan Lâm Mãi Quốc Triều Đình Khí Dân” cho tất cả mọi người.

Tác giả chỉ có một yêu cầu nhỏ là nhờ bạn thông báo về cuốn sách này và đường link download dưới đây cho tất cả bạn bè bà con muốn đọc:

https://app.box.com/s/bnfhc25c9folo172xozkv6f7oss9drjb

Nếu bạn ở nước ngoài và muốn sách giấy thì có thể order từ Amazon theo link này:

https://www.amazon.com/-/es/Winston-Phan/dp/1990434177/ref=sr_1_1?dchild=1&qid=1629348969&refinements=p_27%3AWinston+Phan&s=books&sr=1-1&text=Winston+Phan (paperback)

hay

https://www.amazon.com/-/es/Winston-Phan/dp/1990434231/ref=sr_1_2?dchild=1&qid=1629349031&refinements=p_27%3AWinston+Phan&s=books&sr=1-2&text=Winston+Phan (hardcover)

Còn người ở VN muốn mua sách giấy (giá 10 USD) thì xin liên lạc Nhà Xuất Bản Nhân Ảnh tại han.le3359@gmail.com.

Mời đọc online sách “Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”, tác giả LS Winston Phan Đào Nguyên:

https://app.box.com/s/bnfhc25c9folo172xozkv6f7oss9drjb

Mời đọc online sách “Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”, tác giả LS Winston Phan Đào Nguyênhttps://app.box.com/s/bnfhc25c9folo172xozkv6f7oss9drjb

 


 

 Rò rỉ bản tường trình của các sư cô tố Thích Chân Quang lạm dụng tình dục

Ba’o Nguoi-Viet

June 22, 2024

BÀ RỊA-VŨNG TÀU, Việt Nam (NV) – Vài ngày sau khi bị Giáo Hội Phật Giáo CSVN cấm thuyết giảng dưới mọi hình thức trong hai năm, Thượng Tọa Thích Chân Quang tiếp tục bị một số sư cô tố giác ông ta lạm dụng tình dục.

Sư Chân Quang, trụ trì Thiền Tôn Phật Quang ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, lâu nay gây tranh cãi với việc hù dọa Phật tử về thuyết nhân quả để họ cúng dường thật nhiều cho chùa của ông.

Thượng Tọa Thích Chân Quang đang bị áp lệnh cấm thuyết giảng hai năm. (Hình: Giác Ngộ)

Trong văn bản rò rỉ hôm 22 Tháng Sáu, một nhóm sáu sư cô tự nhận có thời gian tu tập tại Thiền Tôn Phật Quang, quyết định công khai danh tính và tố giác ông Chân Quang “có hành vi dâm dục trong suốt thời gian dài mà không bị phát giác.”

Theo mô tả của các nạn nhân, ông Chân Quang hỏi thăm các sư cô về “sinh lý,” “ngực lớn”…

Bản tường trình của các sư cô cho rằng bên cạnh những lời nói dụ dỗ, ông Chân Quang còn có các hành vi như sờ soạng ngực, cưỡng hôn, cầm tay sư cô đặt vào bộ phận sinh dục của ông, thậm chí xâm hại tình dục một sư cô rồi sau đó đưa nạn nhân 10 triệu đồng ($392) để đi phá thai tại bệnh viện Từ Dũ ở Sài Gòn…

Các sư cô trong vụ này cũng lý giải chuyện nhiều nữ đệ tử của ông Chân Quang lần lượt bị ông này xâm hại ngay tại Thiền Tôn Phật Quang “vì quá sợ thầy [Chân Quang] mà phải nghe lời và sau đó phải giữ im lặng.”

“…Nếu như một người dám nói ra sẽ lập tức bị đuổi khỏi chùa và cũng không một ai tin tưởng, vì các đệ tử vốn rất kính trọng và tin thầy,” bản tường trình viết.

Ngoài ra, các sư cô cho biết thêm sau mỗi vụ xâm hại tình dục, ông Chân Quang đều “năn nỉ,” yêu cầu nạn nhân “giữ gìn uy tín cho thầy và cho Phật pháp.”

Trước cáo buộc nêu trên, hôm 19 Tháng Sáu, theo báo Thanh Niên, lệnh cấm thuyết giảng còn bao gồm việc ông Chân Quang không được tổ chức các sự kiện tập trung đông người tại Thiền Tôn Phật Quang cũng như ở các địa điểm khác.

Chỉ thị của Giáo Hội Phật Giáo CSVN cũng yêu cầu Thiền Tôn Phật Quang và sư Chân Quang phải “thu hồi tất cả các phái quy y tam bảo có nội dung tự sửa một trong năm giới không đúng với giới luật ngũ giới của Đức Phật.” Ngoài ra, sư Chân Quang còn bị buộc gỡ bỏ tất cả các bài thuyết giảng “gây hoang mang trong xã hội” trên mạng xã hội.

Một phần trong bản tường trình cáo buộc sư Thích Chân Quang lạm dụng tình dục một số sư cô tại tại thiền tôn Phật Quang ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu mà ông này làm trụ trì. (Hình: Chụp qua màn hình)

Lệnh cấm nêu trên được coi là đòn giáng mạnh vào “thu nhập” của sư Chân Quang.

Thời điểm đó, mạng xã hội xuất hiện đơn tố cáo sư Thích Chân Quang của ông Thái Phương, chúng trưởng của Đạo Tràng Phật Đắc tỉnh Đắk Lắk.

Trong lá đơn, ông Thái Phương cáo buộc sư Chân Quang “có âm mưu gây hại đến an ninh quốc gia,” “huấn luyện Đạo Tràng thành robot không có trái tim con người, bất chấp tất cả để làm theo mệnh lệnh của ông…”

Ông Chân Quang còn bị cho là biến Đạo Tràng thành “đội quân khủng bố chuyên nghiệp” để “đánh đập, bắt cóc, hăm dọa…” đối với những ai chống lại Thích Chân Quang. (N.H.K) [qd] 


 

 Dân khinh bỉ vụ ‘đốt lò’ của đảng

Ba’o Dat Viet

June 23, 2024

Đinh Tiến Dũng được cho “hạ cánh an toàn” dù tham nhũng

Nếu thực sự chống tham nhũng, không vùng cấm, có giỏi hãy lôi đám “có đơn xin thôi chức vụ, tự nguyện xin nghỉ việc” như Phúc, Thưởng, Huệ, Mai, Trần Tuấn Anh, Đinh Tiến Dũng ra đối diện pháp luật, xét xử một cách công bằng.

Hôm 21 – 22/6, báo chí mậu dịch đồng loạt đưa tin Bộ Chính trị, Ban Bí thư, và trung ương (dĩ nhiên đều của đảng) đồng ý để ông Đinh Tiến Dũng trong nhóm 20 được “thôi” các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội cùng nhiều chức vụ lằng nhằng dây điện khác. Đây là chuyện riêng của đảng, nhẽ ra dân không cần quan tâm. Tất nhiên, quốc hội sẽ theo chỉ thị, chỉ đạo của đảng bãi “chức” đại biểu quốc hội của ông Dũng nay mai, cũng kiểu cho “thôi”. Quốc hội chả là gì, khi đảng đã sức lệnh xuống, thì cứ thế mà làm.

Về sự việc này, có nhiều nhố nhăng. Nhẽ ra từ quan chí dân, ai làm sai làm bậy, cứ chiểu theo pháp luật mà xử lý, không phân biệt quan hay dân. Đâu có cái thói quan làm sai thì chỉ xin lỗi, còn dân sai thì chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tay Mai Tiến Dũng cả đời không biết có làm được điều gì để lại tiếng thơm hay không, nhưng phát ngôn được câu ấy quả thật lưu xú danh với đời.

Cả một bộ máy, từ ông cao nhất tới đứa cán bộ quèn, cả hệ thống chính trị với vô vàn tổ chức đoàn thể, cả hệ thống tuyên truyền truyên giáo dày đặc… lúc nào cũng mở loa ca ngợi cuộc chống tham nhũng, nào lò đượm củi gộc, củi khô củi tươi, kiên quyết đến cùng, không có vùng cấm, nhưng khi cần đốt thì lại than rơm ướt rạ ẩm, bật diêm không cháy, lách kiểu này, né kiểu khác. Rõ nhất là việc tạo điều kiện cho đương sự “tự nguyện” làm đơn xin nghỉ việc, xin thôi chức, xin nghỉ theo nguyện vọng cá nhân. Cứ như trò đùa, coi thiên hạ không ra gì.

Xưa nay, đám quan lại quyền cao chức trọng, đám chóp bu cả trung ương lẫn địa phương chả có đứa nào lúc đương chức, đang hét ra lửa, ngựa ngựa xe xe, vênh vênh váo váo, nói ra một lời làm muôn người kinh sợ, chỉ muốn kéo bè kéo cánh, cha truyền con nối… lại tự nguyện tự giác bỏ chức bỏ ghế, bỏ quyền lực cả. Họa có điên. Đốt đuốc giữa ban ngày chẳng tìm ra. Nó có phạm tội, nhúng chàm, nó cũng giấu biệt.

Khi đã biết mười mươi nó phạm tội, hại dân hại nước, chỉ vơ vét cho bản thân và gia đình, dòng họ, thì cứ việc lôi ra mà trảm, từ long đầu trảm tới cẩu đầu trảm. Như Bao Công thời xưa, đã đốt lò thì Bàng thái sư cũng không tha. Nhưng Bao Công biết tôn trọng luật pháp, thời nay thì không thế.

Ông hàng xóm nhà tôi bảo kỷ luật mà đếch dám nói thẳng là kỷ luật thì còn làm được trò gì.

Cứ tuyên truyền huyễn hoặc về lò chống tham nhũng, vùng cấm vùng kiếc, thực tế lại khác hẳn, chỉ toàn lừa mị. Công khai lừa mị những người cả tin, ngây thơ. Thật buồn, đám cả tin ấy lại khá đông, hoặc do không biết gì, hoặc vì chút lợi cá nhân mình.

Nếu thực sự chống tham nhũng, không vùng cấm, có giỏi hãy lôi đám “có đơn xin thôi chức vụ, tự nguyện xin nghỉ việc” như Phúc, Thưởng, Huệ, Mai, Trần Tuấn Anh, Đinh Tiến Dũng ra đối diện pháp luật, xét xử một cách công bằng.

Kẻ ngôi cao việc trọng cũng như đứa ăn trộm vịt, đều phải bình đẳng trước pháp luật. Đốt lò, cách mạng nửa vời, nói thật, giống như cuộc hí trường.

Cách mạng màu, nhưng là màu… đỏ. Còn không, thì nên dẹp lò.

Dân biết cả, chỉ bởi họ không thể làm gì, nhưng họ cười khinh bỉ.

Nguyễn Thông


 

 Một chuyến đi tìm hoài niệm-Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

June 22, 2024

Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn/SGN

Một trong những thú vui của tôi khi về thăm Việt Nam là được lang thang một mình. Hoàn toàn tự do không bị gò bó với thời gian, nơi chốn hay phải theo một chương trình đã được xếp đặt trước cho cả nhóm.

Với tôi, rất đơn giản chỉ khoác lên vai cái ba lô nho nhỏ đựng hai bộ quần áo, vài vật dụng cá nhân, thế là đủ cho một cuộc du hành thích thú, hợp với bản tính lang bạt cố hữu của mình.

Mấy chục năm sống và làm việc ở hải ngoại, phải chạy đua với thời gian, công việc đầy nhàm chán của đời sống kỹ nghệ, tôi không muốn về Việt Nam để lập lại những gò bó khó chịu đó nữa. Tôi cũng không thích, thật ra cũng có chút dè xẻn, kiết chi mà không muốn cư trú ở một khách sạn sang trọng nhiều sao. Với tôi khi về Việt Nam, những cái hoa lệ đó thật nhàm chán, vô vị. Tôi muốn về để tìm lại những cái rất đơn sơ, mộc mạc mà ngày xưa tôi đã lầm lẫn coi thường mà không nhìn được giá trị của nó. Chẳng có gì thích thú hơn.

Ban đêm nằm trên chiếc chõng tre, trong một chiếc màn chống muỗi, nghe tiếng côn trùng ca vang, rúc rỉa như ru ngủ trong căn nhà mái lá, vách rơm trộn đất ở miền quê. Ban ngày len lỏi giữa những rạch nước đục phù sa trong những cồn đất giữa dòng sông bằng chiếc thuyền nho nhỏ. Khi mệt mỏi, đói bụng tạt vào quán ăn bên sông hay trên con đường mòn đồng quê, thưởng thức những món ăn dân dã, đặc sản của địa phương… Tất cả là những nét đẹp tuyệt vời của thiên nhiên mà tôi chưa một lần nào lãng phí, bỏ qua  mỗi khi có dịp về thăm quê.

Với cách du lịch đó, Tháng Tư năm 1995, tôi làm một chuyến đi xuống miền Tây Nam Bộ, nơi mà tôi đã có rất nhiều kỷ niệm trong vài năm cuối đại học và bốn năm bước vào đời công chức, khởi đầu con đường quan lộ của mình.

***

Vĩnh Long, thành phố đầu tiên tôi dừng chân, vào buổi xế trưa, dưới cái nóng như đổ lửa của một ngày nắng gắt. Công việc đầu tiên là tìm một khách sạn nho nhỏ gần trung tâm thành phố nghỉ ngơi bù lại nỗi khổ cực sau gần 3 tiếng đồng hồ bị nén trong chiếc xe đò chật chội.

Chính nơi đây tôi đã có một mối tình đúng nghĩa với Vân, một cô giáo trong thị xã.

Như phần lớn những cuộc tình, ban đầu chúng tôi cũng gặp những khó khăn, thách đố của hoàn cảnh. Đôi lần chúng tôi đã có cảm giác buông xuôi, để mặc cho cuộc tình đi vào đổ vỡ. Nhưng với sự lớn khôn và cứng mạnh của tình yêu đã giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn. Chúng tôi dự tính sẽ thành hôn sau khi tôi hoàn tất công tác dài hạn ở hải ngoại trở về. Nhưng thời gian xa cách kèm theo những đổi dời của thời thế, cuối cùng mối tình của tôi và Vân chỉ là một giấc mơ không bao giờ thành sự thật. Ngày tôi từ giã Vân ra đi cũng là ngày buồn bã khởi đầu một lỡ làng dẫn đến vĩnh biệt xa nhau. Chuyến đi này, đến Vĩnh Long tôi muốn tìm lại những nơi mà ngày xưa chúng tôi đã sống, đã đi qua để mong được sống lại với những dấu tích kỷ niệm của một thời hạnh phúc nhất trong đời tôi.

Sau giấc ngủ trưa khá dài, mệt nhọc đã được lấy ra khỏi cơ thể, tôi làm một cuộc đi dạo để khởi động ký ức của mình về thành phố Vĩnh Long nhiều kỷ niệm này, nhìn lại những con đường ngày xưa, nơi đó vẫn còn mang đầy dấu vết của những năm tháng chúng tôi bên nhau. Bầu trời đã chớm hoàng hôn, nhưng hình như cái nóng gay gắt Tháng Tư chẳng có dấu hiệu gì thuyên giảm. Một góc phố, bến đậu xe lam trong thị xã hay vài quán cà phê nào đó ở trung tâm… Dù ngày nay thay đổi khá nhiều nhưng vẫn còn mập mờ trong trí nhớ, kéo tôi về với cảm giác hoài niệm của một thời đẹp đẽ, hoa mộng trong đời tôi.

Gần mấy tiếng đồng hồ lang thang, mệt mỏi đã thúc giục tôi phải tìm một chỗ nghỉ chân, uống nước. Hoàng hôn thật sự đã biến mất, cái nóng rát buổi chiều gần như đã được đuổi đi bằng làn gió dễ chịu, thoáng mát của trời đêm. Hàng cột đèn đường đã bật sáng, ánh điện cũng chỉ đủ tạo ra vẻ mù mờ của không gian. Hàng quán lưu động trên những chiếc xe thô kệch với những bộ bàn ghế thô sơ, thấp lè tè được bầy la liệt trên lề đường, dọc theo bờ sông. Những chiếc đèn dầu của những “chiếc xe hàng ăn” chiếu ra những ánh lửa bập bùng khi gió thổi. Trong cái bóng tối mông lung nhập nhèm đó, tiếng cười đùa, cụng ly, mời nhau uống rượu từ những nhóm khách ăn nhậu làm cho không gian trở nên náo nhiệt. Hoạt cảnh đó là bức tranh độc đáo rất giống nhau ở hầu hết các thành phố miền nam sông nước Cửu Long, nơi mà thực phẩm chẳng bao giờ thiếu thốn.

Tìm được chiếc bàn gần bờ sông, đưa mắt dõi theo những đám bèo lục bình bập bồng di chuyển theo dòng nước. Cảm giác cô đơn đã kéo trí nhớ tôi về quá khứ của hơn 30 năm, trước khi tôi rời xa Việt Nam. Ngày đó, chính tại nơi đây, tôi và Vân ngồi với nhau lần cuối để rồi tôi từ giã Vĩnh Long, từ giã Vân-người tình mà tôi đã xây rất nhiều mộng ước tương lai để ra đi theo tiếng gọi của phong hầu. Tôi còn nhớ rất kỹ ngày đó chúng tôi ngồi đối diện nhau bên một chiếc bàn nhựa. Cũng dưới ánh sáng đèn đường mù mờ, Vân đưa chiếc ly thủy tinh trống không lên ngang tầm mắt. Hướng về tôi, nàng xoay chuyển chiếc ly nhè nhẹ. Rồi với giọng buồn bã nói với tôi:

-Nhìn xuyên qua đáy chiếc ly, dưới ánh sáng mù mờ, hình bóng của anh như bị lòe đi. Mỗi khi em xoay đổi chiều hướng của nguồn sáng thì bóng hình của anh mờ dần rồi biến mất…

Bỏ chiếc ly xuống bàn, chuyển ánh mắt ra giòng sông, với giọng buồn bã, Vân nói tiếp:

-Anh ra đi, là chuyện chẳng thế nào đổi khác được. Nhưng em có linh cảm đây không phải là tạm biệt mà là lần chúng ta mãi mãi xa nhau.

Nghe Vân nói, tôi chợt nhìn thấy rõ áng mây buồn trong ánh mắt của Vân, tôi nắm nhẹ bàn tay của Vân, vuốt nhè nhẹ như muốn xác nhận  thêm lần nữa lời hứa hẹn, tôi sẽ trở về để cho mối tình của tôi và Vân toàn vẹn. Vân không nói gì, mắt vẫn mông lung, buồn bã nhìn theo vài đám lục bình trôi trên sông. Trong không gian tĩnh lặng, buồn bã đó, tôi đọc khẽ bên tai của Vân một bài thơ tôi làm vội vã, dùng tiết tấu tạo âm điệu diễn tả xúc cảm của tôi với Vân:

Hỡi người anh yêu, cho anh xin thêm một lần ước muốn

Em đừng vẽ cuộc đời anh bằng những con đường rất thẳng

Cũng đừng giam giữ anh trong một lâu đài hoa lệ,

Để những buổi hoàng hôn, qua lỗ châu mai

Anh chỉ biết ngồi nhìn đàn chim bay về tổ.

Như một tên tử tù, nhìn trời xanh qua khung cửa nhà giam,

Mà lòng tràn đầy những ước muốn của một người khao khát tự do.

Như em đã biết,

Trời sinh ra anh, không là người diễn viên trên sân khấu

Chỉ biết la hét, cười vui trong vai một kẻ sống trong nhung lụa

Mà lòng mình luôn luôn buồn rười rượi!

Anh sẽ về với em. Chắc chắn, anh sẽ về với em

Để tiếp nối cuộc tình bằng những ước mơ của chúng ta thành sự thật.

Anh sẽ dẫn em đi trên những đường kỷ niệm xa xưa đầy hoa bướm

Những con đường mà chúng mình đã cho nhau nụ hôn đầu tiên,

Anh sẽ làm thơ, đọc cho em nghe những vần thơ tình ái

Anh sẽ viết truyện ngắn, truyện dài lãng mạn,

Kể lể về những cuộc tình của những kẻ yêu nhau

Anh sẽ về với em

Như nước trên nguồn chảy xuống sông,

Sông lại về với biển cả .

Hỡi em yêu,

Hãy tạm biệt anh bằng nụ cười, dù đôi mắt có phải thấm ướt lúc xa nhau.

Hãy vẫy tay buồn làm gió lốc, thổi mây đen ảm đạm .

Hãy viết cho anh những lá thư thật dài,

Kể cho anh nghe toàn những chuyện yêu đương đẹp đẽ .

Để cho anh dù phải xa em mà quên được những tháng ngày tẻ nhạt.

Anh sẽ về với em,

Chắc chắn anh sẽ về với  em

Để chúng mình mãi mãi bên nhau.

Đúng như vậy tôi đã xa Vân để ra đi, mong thỏa mộng công hầu. Nhưng rồi hoàn cảnh đổi thay và mối tình của chúng tôi dang dở. Những giấc mơ, lời hứa hẹn của tôi và Vân chỉ còn là ảo mộng, vu vơ.

Chuyến đi này, chỉ một mình tôi trở lại Vĩnh Long mong tìm lại được phần nào những gì mà ngày xưa của chúng tôi còn lưu lại trong hiện thực hay trong ảo giác. Vĩnh Long ngày nay với tôi là một thành phố thật buồn, thành phố của dĩ vãng, thành  phố của đầy rẫy dấu tích kỷ niệm và dư âm rất buồn vì nó mang màu sắc và âm vang của chia ly.

Ở Vĩnh Long được 2 ngày,  tôi cảm thấy tất cả những gì của thành phố hiện ra đều khơi dậy nỗi buồn đau trong lòng tôi. Thời gian qua đã quá lâu, Vân cũng chẳng còn trên thế gian này nữa, câu tạm biệt ngày ấy đã biến thành vĩnh biệt. Nghĩ như vậy, tôi cảm thấy chẳng có lý do gì để ở lại thành phố quá buồn, nhiều hoài niệm này nữa. Tôi phải rời xa để trốn tránh một nỗi buồn không bao giờ biến mất trong lòng tôi.

***

Rời xa Vĩnh Long, tôi xuống Cần thơ, điểm đến kế tiếp của chuyến đi tìm hoài niệm của mình. Tôi sinh ra ở một làng quê miền Bắc, nhưng phần lớn tuổi ấu thơ được trôi qua ở Hà Nội cho đến khi vào miền Nam ở tuổi lên 9. Với gần 15 năm học hành, lớn khôn ở Sài Gòn, dù thế nào, ít hay nhiều tôi cũng phải có những kỷ niệm với cái thành phố xô bồ, bận rộn này. Nhưng Cần Thơ mới là nơi tôi yêu thích. Tôi đã tưởng rằng sẽ định cư mãi mãi nơi đây, nhận nó là quê hương của đời mình. Rồi những thế hệ tiếp theo của tôi sẽ sinh ra, lớn lên và sẽ đúng nghĩa là người bản địa.

Tôi không quên, ngày đầu tiên từ Sài Gòn xuống đây làm việc, khởi đầu con đường lập nghiệp của mình, Cần Thơ đã chờ đón tôi với vòng tay nồng nàn nhiều ưu ái. Rồi mấy năm sau, ngày tôi đi tu nghiệp hải ngoại, Cần Thơ vẫy tay chào tạm biệt, mong tôi thành tài để được đón chờ tôi ngày trở về. Nhưng thực tế tất cả đã đổi khác, những tính toán, ước mơ của tôi và của Cần Thơ chỉ còn là ảo tưởng. Tôi đã đi, đã tăng tiến tài năng nhưng ngày về lại là một tấu khúc có quá nhiều âm vang lỗi điệu. Mấy mươi năm  qua, sống trong nhung lụa, chu du gần khắp trái đất, nhưng  tôi vẫn không quên được nơi đã dành cho mình những ân tình nhiều gắn bó. Những lần về thăm đất nước, tôi vẫn tìm dịp để về thăm lại, nhìn lại Cần Thơ nhưng tôi vẫn thấy lòng mình vẫn có cái gì buồn buồn, khó nói!

Suốt hai ngày tại Cần Thơ, tôi đi thăm lại gần như hầu hết những nơi mà ngày xưa ít hay nhiều tôi đã  có dịp đi qua. Tạt vào thăm khu kỹ nghệ đồ sộ mới thành lập ở Ô Môn, Thốt Nốt. Với chiếc thuyền gỗ nhỏ, tôi đến chợ nổi Cái Răng, Phong Điền thăm bè nuôi cá, những cồn đất trù phú đủ loại trái cây, rải rác dọc theo giòng sông Hậu. Chiều tối, khi cái nóng đã giảm bớt tôi đi dạo ở khu trung tâm thành phố, nhìn sinh hoạt phố xá về đêm. Khi mỏi chân, hưởng thụ cái thú ngồi xe lôi chạy chầm chậm qua những nơi mà ngày xưa tôi đã làm việc để nhớ hay tìm những gì còn lại trong ký ức…

(Hình: Steve Douglas/Unsplash)

Dù vẫn còn một số bạn bè, quen biết ngày xưa đang sống ở thị xã nhưng tôi không đến thăm họ.Tôi muốn dành riêng cảm xúc của mình trong chuyến đi này cho Cần Thơ. Tôi muốn tìm lại những dấu vết xa xưa của chính tôi ở Cần Thơ dù biết rằng lòng mình vẫn có những âm thanh buồn bã khi nhớ về kỷ niệm thời quá khứ.

Buổi tối, tìm được một chiếc bàn trống ngay bên cạnh bờ sông, trên bến Ninh Kiều. Ngồi nghỉ chân uống nước, tôi dự tính nhìn lại một lần nữa nếp sinh hoạt của một nơi mà bất cứ ai đến Cần thơ đều biết. Chính nơi đây, lúc tôi còn làm việc ở Cần Thơ, đã bao nhiêu lần ngồi ăn nhậu với bạn bè, thân nhân, quen biết từ xa đến thăm tôi. Cũng nơi đây, tôi và Vân đã bao lần ngồi bên nhau nhìn dòng sông nước chảy mà nói chuyện ước mơ.

Ánh sáng từ mặt trăng tròn trịa treo giữa bầu trời ngàn sao lấp lánh hoà lẫn với đèn đường, rọi xuống mặt nước sông nhấp nhô sóng nhẹ. Tạo ra những giải sáng lung linh trên mặt nước sông, thật đẹp. Những cái đó hòa trộn với xúc cảm của kẻ giang hồ khi trở về nhìn lại Cần thơ, làm tôi chợt nhớ đến bài thơ tiền chiến“ Nhà Tôi“  của Yên Thao. Bài thơ nói đến ngày về của một người chiến binh, trên bước đường chinh chiến, anh ta nhìn lại quê nhà trong tâm trạng hào hùng của một kẻ nam nhi . Đây là bài thơ tôi thường ngâm cho Vân nghe, mỗi khi chúng tôi ngồi bên nhau bên dòng sông tâm sự:

Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh

Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa

Ống quần nâu đã vá mụn giang hồ

Chắc tay súng tôi về mơ Nguyễn Huệ

Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ

Tuổi đôi mươi cưới buổi dâng cờ

Má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín

Ai bước đi mà không từng bịn rịn

Rồi yêu thương nào có mấy ai vui

Em lặng hồn, nhìn với lúc chia phôi

Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ!

Tôi là anh lính chiến

Theo quân về giải phóng quê hương

Mái đầu xanh đầy bụi viễn phương

Này anh đồng đội

Người bạn pháo binh

Đã đến giờ chưa nhỉ?

Mà tôi nghe như trại giặc đã tan tành!

Tuyệt vời thay một bài thơ cao ngạo, kiêu hùng mang quá đầy ý nghĩa! Thời gian xa nhau được diễn tả bằng những vết vá trên ống quần nâu bạc màu chinh chiến. Lòng nhớ thương, bịn rịn dành cho người vợ trẻ đẹp như mơ mới cưới ngày ra đi, hiển hiện trong cái đau xót lúc chia ly. Nhưng ngạo nghễ bao nhiêu khi người chinh phụ vẫn mạnh bước rời xa dù trong lòng mình ướt lệ! Rồi ngày về, nhìn quê nhà mà tưởng đến quân thù đang giãy chết. Đúng như vậy, bài thơ quá hay! Không còn gì để mô tả hơn được cái tuyệt vời, đầy hùng tráng của giấc mơ Nguyễn Huệ trong những vần thơ “ Nhà tôi “ của Yên Thao nữa.

Thả hồn vào âm vang của những vần thơ quá hay, quá kiêu hùng đó, tôi chợt nhìn về chính mình, về hiện trạng của tôi lúc này. Cũng trong cái tâm trạng của kẻ tìm về nơi mình thương nhớ. Cũng có dòng sông trước mặt dưới ánh trăng sao lấp lánh. Cũng nơi đây đã ghi nhớ bao lần hò hẹn với tình nhân… Nhưng tôi về đây trong tâm trạng của một khách lãng du đi tìm lại hoài niệm của đời mình. Chẳng một tí gì mang ý nghĩa của hào hùng, ngạo nghễ, dù tâm hồn tôi vẫn có đôi chút lãng mạn nhưng cái lãng mạn đó nhuốm đầy vẻ ủy mị của một kẻ quá tầm thường:

Tôi sẽ về thăm em chiều nay hay chiều mốt

Cho dòng sông không ngái ngủ buổi bình minh

Và cả những con đường em đã đi qua dạo ấy

Vẫn mờ mờ bóng điện sáng ban đêm.

Tôi sẽ về với em dù trời mưa hay trời nắng

Thoáng vẽ trong hồn tôi con đường xưa thật nhỏ

Bước chân em nhẹ nhàng như chân chim se sẻ

Ngẩn ngơ nhìn, tôi tìm em trong giấc mộng hôm nay.

Tôi về đây, bập bềnh tóc trắng gió bay bay

Xin hãy mở giùm tôi cánh cửa thời dĩ vãng

Để tôi mơ, dù phải cúi đầu lệ ướt thấm vành môi

Cho ngày về, thoáng nụ cười, buồn dang dở?

Đúng như vậy, tôi đã dùng những câu thơ viết vội khi trở lại Cần Thơ với tâm trạng của kẻ làm thơ ủy mị đi tìm hoài niệm. Không có một tí gì kiêu hùng như của người lính chiến trong những vần thơ Yên Thao.

(Hình: Nhan Nguyen/Unsplash)

Hôm sau, khi mặt trời chớm ngả về chiều. Tôi vừa từ chiếc xe lôi bước xuống bến xe Cần Thơ, dự định lấy xe về lại Sài Gòn, chấm dứt chuyến lang thang. Từ phía con đường bên ngoài bến xe, một ông lão quần áo khá tề chỉnh, tay dắt một đứa bé trai, khoảng 12, 13 tuổi,  chạy vội đến chỗ tôi. Ông lão cầm lấy cánh tay tôi lắc lia lịa ra vẻ mừng vui tột cùng:

-Thầy Hai, trời ơi sao lại gặp được thầy ở đây? Thầy về nước bao giờ vậy?…

Ông ta hỏi tôi dồn dập, tôi chẳng biết trả lời ra sao vì chưa biết ông là ai. Trong khi tôi ngẩn ngơ giương mắt nhìn ông già rồi lại nhìn sang đứa cháu của ông ta. Tôi nhíu lông mày, cố kéo trí nhớ về để xác định một người quen biết nào đó mà mình đã vô tình lãng quên. Nhưng hoàn toàn vô ích. Một lúc sau, ông lão hình như nhìn thấy vẻ thắc mắc của tôi. Ông ta lay nhẹ cánh tôi mạnh hơn kèm theo lời nói:

-Thầy Hai, quên tôi rồi sao? Tôi là Châu, nhân viên nông trại ngày xưa mà có lần thầy cho tôi, ông ba Mỹ và chị Điệp cùng về Sài Gòn công tác, nhận hàng viện trợ của Nhật cho đại học đó. Chúng tôi ở nhà thầy mấy ngày, ông bà Hai, ba má thầy đã quá tốt, giết gà vịt đãi chúng tôi đó, thầy nhớ ra chưa?

Câu nói của ông lão đã khơi động trí nhớ giúp tôi nhận ra người quen biết của mình ngày xưa. Ngày đó, mỗi lần được cử về Sài Gòn công tác, tôi thường xin cho vài nhân viên về theo, lấy lý do cần họ để giúp đỡ, khuân đồ đạc. Nhưng thật ra tôi chỉ muốn giúp họ có tí tiền công tác và nhất là để họ có dịp thăm viếng con cháu hay thân nhân của sống trên Sàigòn. Hồi đó, nhà tôi ở bìa thành phố, khá rộng rãi lại có cơ sở chăn nuôi nho nhỏ vì vậy vấn đề cư trú của họ rất thoải mái. Bố mẹ tôi lại thuộc giới lao động, ít học, chẳng có tí gì ngăn cách kẻ trên, người dưới khi họ đến tạm trú. Đã vậy gia đình có sẵn gà vịt, vấn đề ăn uống dành cho họ luôn luôn thịnh soạn.

Từ đó, họ tự phân chia với nhau đi theo tôi khi có dịp về Sài Gòn công tác. Với bất cứ ai được tôi dẫn về nhà, bố mẹ  tôi đều đối xử rất chân tình. Chính vì vậy mỗi khi tôi về Sàigòn, họ đều mang gạo, rau, trái cây gửi biếu cho bố mẹ tôi. Hôm nay tình cờ gặp lại họ. Cuốn phim dĩ vãng giữa những người nhân viên cũ và gia đình tôi lần lượt hiện ra trong trí nhớ. Tôi vui mừng ôm chặt lấy đôi vai của ông lão, nhân viên cũ cùng làm việc của mình, cảm động tôi nói với ông ta:

-Ông Châu! Tôi đã nhận ra ông rồi. Mấy chục năm rồi chứ ít sao?

Nói xong, đưa tay lên nhìn đồng hồ thấy vẫn còn sớm, dư đủ thời gian để đón xe về Sài Gòn trong ngày, tôi muốn hỏi thăm về đời sống của những người quen biết ngày xưa rồi tôi mời hai ông cháu vào một quán nước gần bến xe.

Qua lời kể của ông Châu, gần như hầu hết những nhân viên lao động cũng như các chị thư ký nơi tôi làm việc ngày xưa đã về hưu, nhưng vẫn còn sống ở Cần Thơ. Cuộc sống của họ cũng như hàng triệu người Việt khác luôn luôn tùy thuộc vào sự thăng trầm của đất nước. Tôi cũng chẳng giấu giếm ông Châu, tôi kể cho ông ta biết về những nỗi cực nhọc, đắng cay, buồn vui mà tôi đã phải trải qua trong mấy chục năm sống ở hải ngoại.

Tôi rất xúc động nhìn thấy sự buồn bã trên khuôn mặt người nhân viên cũ của mình khi biết mẹ tôi đã mất trong giai đoạn thiếu thốn cực nhọc nhất của đất nước. Ông Châu cho biết, ông cũng như nhiều người nhân viên khác đã có dịp lên Sài Gòn, cư trú tại nhà tôi. Họ không quên lòng tốt của bố mẹ tôi dành cho họ. Từ những bữa cơm thịnh soạn đến việc lo lắng giường chiếu khi họ ngủ đều được bố mẹ tôi chu toàn tươm tất. Ngay cả những người khi có việc quan trọng phải dẫn theo thân nhân, họ dẫn đến nhà tôi tạm trú vẫn được gia đình tôi giúp đỡ tận tình.

Ngồi tâm sự khá lâu, có lẽ đã đến lúc chia tay để kịp về Sài Gòn vào buổi tối, tôi nắm bàn tay nhăn nhúm của ông lão với vẻ buồn bã tôi nói:

-Đã đến lúc tôi phải lên xe rồi ông Châu ạ. Nhờ ông nhắn lời hỏi thăm của tôi đến những người khác. Ông nhớ nói với mọi người tôi không quên những tình cảm mà họ đã dành cho tôi ngày xưa, thời tôi còn làm việc. Tôi chúc ông và mọi người mãi mãi khỏe mạnh, hy vọng chúng ta lại có dịp gặp nhau lại.

Nói xong tôi cầm lấy chiếc ba lô của mình, định bước ra khỏi chỗ ngồi. Ông Châu nhìn tôi có vẻ ngập ngừng tí chút, rồi ông chậm chạp nói với tôi:

-Thấy Hai, nếu thầy không có việc gì gấp, mời thầy đến  nhà tôi ăn cơm tối, ngủ lại rồi sáng mai thầy hãy về….

Tôi chưa kịp trả lời thì ông ta nói tiếp:

-Tôi sẽ báo tin cho những người khác biết. Chắc chắn họ rất vui mừng đến gặp gỡ, chào hỏi thầy.

Nhìn tôi đưa tay lên vò trán, như hiểu được sự lưỡng lự của tôi, ông Châu nói tiếp:

-Thật ra, ở quê chẳng có gì đặc biệt để mời thầy, nhưng đây là dịp để gia đình tôi đền đáp lại phần nào lòng tốt của ông bà thân sinh của thầy. Tôi mong thầy đừng từ chối.

Nghe ông Châu nói, tôi biết không còn đường nào để chối từ lời mời của ông ta được. Với hơn 3 năm làm việc, tiếp xúc bạn bè ở miền Nam, tôi đã hiểu khá rõ con người nơi đây. Họ đơn giản, họ nghèo ngôn ngữ để diễn đạt tâm hồn, cảm xúc nhưng họ rất chân tình, không biết màu mè, môi mép, đưa đẩy kiểu ngoại giao. Khi họ đã nhận ai là người thân thiết, thì chẳng bao giờ tính toán thiệt hơn. Họ dám cho những cái họ đang cần, đang thiếu mà không một chút nhăn mặt ngại ngần.

Bước xuống chiếc xe lôi, tôi theo ông cháu ông Châu đi qua chiếc cầu bằng bê tông bắc ngang qua rạch nước chạy dọc theo đường lộ liên tỉnh. Chúng tôi đi vào con đường đất khô ráo, khá rộng, khoảng vài chục mét. Quẹo vào con đường rẽ riêng biệt dẫn đến một căn nhà ngói bề thế đứng giữa một khu vườn trồng cây ăn trái rộng lớn. Vách và mái nhà vẫn còn màu đỏ nâu nguyên thủy, chứng tỏ căn nhà xây cất không lâu. Hình như thấu hiểu được sự ngạc nhiên của tôi khi nhìn thấy cơ ngơi hoành tráng của mình. Ông Châu không dấu được sự sung sướng, tự hào, quay sang tôi ông nói:

-Cũng nhờ mấy năm được mùa, nhất là nhờ mấy ổng cởi mở, thêm vào mấy đứa con lớn khôn, chịu làm ăn gom góp lại tôi mới xây được căn nhà  này đó, thầy Hai.

Nói xong ông Châu dẫn tôi đi một vòng thăm cơ ngơi của mình, trước khi vào nhà giới thiệu với vợ con.  Khu vườn bao quanh nhà với những  mương dẫn nước chạy ngang dọc như bàn cờ. Trên bờ mương những hàng cây ăn trái đang có giá trên thị trường như nhãn,  đu đủ, bưởi năm roi… trồng xen kẽ nhau. Những cành cây xum xuê trái nặng trĩu phải dùng cột chống đỡ để khỏi bị gãy. Tất cả nói nên sự màu mỡ của khu vườn và sự khá giả của chủ nhân. Ông Châu chỉ những thửa ruộng xanh tươi bao quanh khu vườn với những bông lúa mới chớm vàng rũ xuống vì nặng hạt, nói với tôi:

-Tất cả 7 công ruộng này tôi trồng lúa nàng thơm giống mới, hàng năm trừ chi phí cũng kiếm được xấp xỉ 50 triệu đó thầy Hai.

Đi bên cạnh ông Châu, tôi có cảm tưởng, niềm hạnh phúc dạt dào trong lời nói, dáng điệu, tiếng cười của ông đã êm nhẹ thấm cả vào thân thể tôi. Cho tôi cái cảm giác vui mừng, có chút tự hào về sự thành công của người nhân viên cũ. Đưa mắt kín đáo nhìn mái tóc trắng gần hết, khuôn mặt nhăn nheo sạm nắng của ông Châu, tôi muốn chia sẻ sự sung sướng  đang có nơi ông. Tôi nghĩ hiện tại, ở cái tuổi về già ông rất xứng đáng được đền bù sau gần một đời người lao lực.

Chúng tôi vào nhà được một lúc, khi ráng chiều đã thấp thoáng trên ngọn cây. Sáu người nhân viên khác lần lượt đến, trong đó có  chị thư ký trực tiếp của tôi ngày xưa. Họ ôm lấy tôi, hỏi thăm, kể lể cho tôi nghe những khó khăn cũng như những thành công vui vẻ trong mấy chục năm vừa qua.  Điều làm tôi cảm động rớm nước mắt đó là họ luôn luôn nhắc đến bố mẹ tôi với những câu nói quá chân tình. Họ chia xẻ sự xót đau, thương tiếc với tôi khi biết mẹ tôi đã mất từ lâu, lúc tôi còn đang khốn khổ ở hải ngoại không có điều kiện về đưa đám.

Họ nhắc lại  những lần lên Sài Gòn tạm trú ở nhà bố mẹ tôi, những bữa ăn thịnh soạn mà gia đình tôi đã tiếp đãi họ… Tôi cảm thấy gần họ, yêu cái chân chất, mộc mạc từ con người họ, những con người của đồng ruộng miền Nam.  Nhưng tôi cũng không giấu được cảm giác thoáng buồn khi nhìn về thực tế, hoàn cảnh của mình.  Họ vẫn là họ. Họ mãi mãi sống và chết nơi đây, quê hương, đất nước, dân tộc của họ và cũng là của tôi.  Còn tôi thì đã khác, quê hương vẫn trong lòng, nhưng cuộc đời tôi đã xa vời vợi. Ngay cả tình thân ái giữa tôi và họ hôm nay, có lẽ chỉ là một cuộc tao phùng thoáng qua trong đời tôi, đời họ mà thôi. Gặp nhau thoáng qua hôm nay nhưng rồi cũng sẽ đi vào quá khứ khi từ giã, xa nhau. Rất khó khăn nếu không muốn nói là không còn có dịp để tái ngộ, nếu có chỉ là những hoài niệm mỗi khi chợt nhớ đến nhau mà thôi.

Buổi tối, một bữa nhậu dĩ nhiên là phải có ở cái vùng miền Nam sông nước phong phú thực phẩm và đầy ắp tình người này. Những ly rượu vẫn còn thơm mùi nếp mới được chuyền cho nhau, hâm nóng bầu không khí của buổi gặp mặt sau hàng chục năm xa cách . Nhưng cũng để mở cửa tâm hồn cho những lời tâm sự thân thương, không gò bó, đuổi đi những cái vớ vẩn kẻ trên người dưới của ngày xưa lúc còn làm việc với nhau.  Những nụ cười giòn giã  khi nhắc đến kỷ niệm vui buồn hàng chục năm về trước, hoà nhập cùng với vị ngọt của những ly rượu… Hình như nó xóa nhòa đi hết những vết thời gian trên những mái tóc, khuôn mặt chúng tôi.

Nhưng cuộc vui thế nào thì cũng đến hồi kết thúc. Những cái bắt tay nồng nàn, ôm xiết nhau rất chặt nhưng thật buồn khi từ giã nhau. Tôi và họ có linh cảm cuộc chia tay  này chắc khó có bao giờ được gặp lại nhau nữa. Thời gian, tuổi tác và không gian  cũng như hoàn cảnh… là những dữ kiện mà chúng tôi đã mường tượng ra những rào cản cho lần tái ngộ tương lai.

Nhìn sáu người nhân viên ra khỏi căn nhà của ông Châu lòng tôi trĩu nặng, buồn rười rượi. Tôi đưa mắt nhìn họ, cố gắng ghi nhận thật rõ dáng điệu, hình dạng của từng người vào trí nhớ mà tự nói với mình, đó là những người bạn sẽ không bao giờ tôi quên nhưng buồn ơi ! Tôi cũng chẳng còn dịp để gặp lại được nữa. Xin Trời Phật hãy phù hộ cho họ, cho gia đình họ mãi mãi có những niềm vui trong một đất nước VN thanh bình, thịnh vượng.

Sáng hôm sau, khi bữa điểm tâm vừa xong, tôi đang sửa soạn để về Sài Gòn, ông Châu im lặng nhét vào cái ba lô của tôi một bịch giấy khá nặng, đưa thêm cho tôi một gói khác đựng nhãn và mấy trái bưởi Năm roi. Ông nói với tôi:

-Thấy Hai, tôi nhờ thầy mang biếu ông Hai, ba của thầy 5 ký gạo thơm. Còn nhãn và mấy trái bưởi này nhờ thầy làm đồ cúng bà Hai, mẹ của thầy hộ tôi. Món quà nho nhỏ trả ơn nghĩa của tôi đến bà.

Cá tính của tôi từ xưa rất ngại việc xách mang luộm thuộm khi đi xa, nhưng với lời lẽ của người nhân viên cũ đã làm tôi khó nghĩ. Nhìn gói quà ra vẻ ngần ngừ tôi nói với ông:

-Thay mặt bố mẹ tôi, xin cám ơn ông, nhưng tôi chỉ xin ông mỗi thứ chút ít mà thôi. Tình cảm của ông và tôi thì ông đã biết rồi, không phải là nhiều hay ít, mà chúng ta thông hiểu nhau mới là điều quan trọng .

Ông Châu nằng nặc không chịu, cuối cùng tôi đành phải nhận tất cả. Khoác chiếc ba lô có thêm 5 ký gạo, tay cầm bịch trái cây tôi nói lời từ giã gia đình họ. Lúc đưa tôi lên xe lôi, ông Châu ôm lấy vai tôi, cảm động ông nói:

-Thầy đi mạnh giỏi, mong có dịp được gặp lại thầy nữa. Thầy cho tôi hỏi thăm ông Hai nhe .

Trước khi chiếc xe lôi lăn bánh, ông Châu nói với theo:

-Tối hôm qua lúc chia tay anh ba Mỹ cho biết sáng nay họ sẽ ra bến xe tiễn đưa thầy, tôi nghĩ họ đang ở đó chờ thầy đó.

Đúng như vậy, khi vừa bước xuống khỏi chiếc xe lôi, tôi thấy từ quán nước gần cổng bến xe, ông ba Mỹ và mấy người khác chạy ra đón. Mỗi người xách theo một bịch, nào rau cải, nào trái cây đủ loại, Nhìn họ tôi biết chẳng phải là cuộc đưa tiễn đơn giản, tay không. Chắc chắn có những món quà luộm thuộm đồng quê, nặng tình thân thiết mà tôi khó chối từ.

Vẫn những câu nói tình cảm, làm quà trả nghĩa bố mẹ tôi ngày xưa. Vẫn những lời thoái thác vô ích của tôi. Tôi phải nhận!  Chỉ vì tôi không thể chối từ được tấm lòng chân chất,  thân tình của họ dành cho tôi được. Cuối cùng những bó rau xanh tươi, những trái đu đủ, ổi xá lỵ, mít trà nóc, bưởi năm roi… vẫn còn thơm mùi ruộng vườn được nhét chung với nhau, rất gọn gàng trong hai cái sọt bằng tre đan. Hình như nhìn thấy ánh mắt ngại ngần của tôi với số lượng quá lớn, kềnh càng đựng quà, ông ba Mỹ nói:

-Đằng nào tới Sài Gòn thầy cũng phải thuê xe về nhà, nặng nhẹ gì đâu mà thầy lo. Chút quà cho ông Hai vui mà thầy Hai.

Rồi cũng nhờ sự xếp đặt của họ với xe đò, hai sọt quà được xếp gọn gàng dưới chỗ ngồi của tôi, bên cạnh tài xế. Khi xe vào địa phận tỉnh Tiền Giang, gần đến ngã ba Trung Lương, tôi chợt muốn tạt vào thăm thành phố Mỹ Tho, một thành phố nhỏ bé, dễ thương nằm bên giòng sông Tiền Giang. Tôi biết sơ sài về Mỹ Tho từ thời còn là học sinh trung học, nhưng từ khi xuống Cần Thơ làm việc rồi quen và yêu Vân. Chúng tôi thường tìm đến thành phố hiền hoà này rong chơi mỗi khi trên đường về Sài Gòn.

Lúc xách ba lô xuống xe ở ngã ba Trung Lương, người lơ xe kéo từ dưới ghế ra 2 cái sọt quà, để xuống mặt đường lộ cạnh bên chân tôi. Lúc đó tôi mới nhớ ra ngoài cái ba lô trên vai, tôi còn thêm những món quà cồng kềnh mà tôi đã quên mất từ khi lên xe. Món quà này đúng là vật cản đôi chân và bản chất giang hồ của tôi.  Làm sao với nó đây? Không dễ dàng cho tôi lang thang như mong muốn được.

Cùng xuống xe với tôi có khoảng 4,5 người, trong đó có một bà già có lẽ trên 70 tuổi, người miền quê Nam bộ đúng nghĩa, đầu đội chiếc khăn quàng ca rô màu xanh lá mạ, miệng lép nhép nhai trầu, tay xách cái túi bằng cói lép xẹp. Bà già nhìn hai sọt quà của tôi, hướng về phía tôi, bà nói bâng quơ:

-Chà, mấy trái xoài tượng ngon ghê, chú mua ở đâu dzậy?

Tôi thật thà trả lời:

-Người quen dưới Cần Thơ cho con đó dì.

Bà già nói tiếp:

-Đúng dzậy! Ở chợ đâu dễ mua được thứ ngon và to như dzậy!

Nhìn vẻ chất phác, vui vẻ dễ bắt chuyện của bà già, tự nhiên tôi cảm mến. Hình ảnh những bà mẹ quê Nam bộ mà tôi đã từng quen biết ngày xưa. Trong những dịp về quê thăm viếng gia đình bạn bè vào dịp giỗ Tết hiện ra trong trí nhớ tôi với nhiều ấn tượng đẹp. Họ có thể là bà nội, bà ngoại, là mẹ, là cô, là dì hay là chị của bạn tôi, nhưng họ đều có một điểm chung là rất thân thiện, cởi mở. Gặp họ dù dưới một dạng quen biết rất sơ sài nhưng vẫn được họ đãi ăn uống no say không một tí ngăn cách. Với sự cảm mến trong tiềm thức đó, tôi buột miệng nói với bà già:

-Dì muốn không, con biếu dì đó.

Bà già hơi chau mày, giương mắt nhìn tôi, có lẽ bà nghĩ tôi nói đùa. Bình thản bà trả lời:

-Cám ơn chú Hai, chú dzỡn với tui hoài…

Nghiêm nghị tôi nói chắc:

-Con không dzỡn với dì đâu, nếu dì thích con cho dì hết đó!

Lúc này bà già không còn nghĩ mình nghe lầm nữa, nhưng trên khuôn mặt, ánh mắt của bà vẫn còn vẻ ngạc nhiên, có vẻ vẫn chưa  tin lời nói của tôi là thật. Đứng gần đó, một thiếu phụ cỡ tuổi trung niên, cùng xuống xe với tôi và bà già. Có lẽ chị ta đã theo dõi trọn vẹn cuộc đối thọai của chúng tôi. Chị ta nói xen vào:

-Chú ấy nói thật đó, dì cứ nhận đi rồi chia cho chúng tôi mỗi người một chút không tốt sao?

Nghe vậy, bà già sung sướng ra mặt, bước đến cầm lấy 2 sọt qùa xoay qua, xoay lại nhìn rõ những vật phẩm trong sọt, ngước cặp mắt lem nhem trong vui mừng, nói với tôi vài lời cám ơn. Tiếp theo là một sự phân chia rất hoà thuận giữa bà và mấy người cùng chuyến xe. Vài người quay lại nói vài lời cám ơn tôi trước khi vội vàng bước lên chiếc xe đò nhỏ khác vừa táp vào đón họ. Tôi cũng không hiểu sao bà lại không lên xe theo những người kia. Hình như bà ta cố ý nán lại chờ đợi tôi hay muốn nói với tôi điều gì thì phải? Nghĩ như vậy, tôi nhìn bà, hỏi:

-Ủa, sao dì không lên xe?

Bà nhìn tôi rất thân thiện, trả lời:

-Chú Hai đi đâu dzậy? Tôi về quận Chợ Gạo, cũng gần đây nếu chú Hai rảnh ghé tôi chơi.

-Cám ơn dì, con  định tạt vào Mỹ Tho chút xíu rồi mới về lại Sài Gòn.

Bà đưa mắt nhìn tôi, trong ánh mắt bà ta có vẻ suy tư, thoáng buồn buồn. Tôi định nói với bà ta vài câu từ giã, nhưng chưa kịp, bà ta đã nói với tôi:

-Chú giống thằng Sáu Út, con của tôi quá. Nó chết đã hơn 10 năm nay rồi, tội nghiệp quá!

Nghe bà lão nói, tôi cũng hơi ngạc nhiên, buột miệng tôi hỏi:

-Chú Sáu Út vì sao mà chết vậy dì?

-Nó chết vì tai nạn lao động, lúc mới 22 tuổi chưa có vợ con gì cả. Nếu còn sống chắc cỡ tuổi chú Hai.

Nghe bà lão xét đoán quá thấp tuổi tác của mình, tôi im lặng đưa mắt nhìn khuôn mặt già nua, thoáng gợn nỗi buồn của bà ta.  Ngẫu nhiên tôi nhìn vào chiếc giỏ cói của bà ta, một trái bưởi năm roi, một chùm nhãn và mấy trái xoài tượng, tôi buột miệng hỏi:

-Sao dì chỉ lấy ít vậy?

-Không ít đâu chú Hai, tôi lấy dzậy là nhiều hơn mấy người khác rồi đó.

Tôi mỉm cười, chẳng hiểu bà lão nói để tôi vui hay đúng thật . Nhưng khi nhắc cái ba lô của mình lên, tôi chợt nhớ là trong đó còn 5 ký gạo thơm. Chẳng có tí ngại ngần, tôi mở ra cầm gói gạo đưa tận tay bà:

-May quá, con còn sót lại 5 ký gạo, biếu dì luôn nè.

Bà lão đưa tay đẩy bịch gạo,nhất định không nhận. Sau mấy lần đẩy qua, đẩy lại cùng với nhiệt lòng của tôi cuối cùng bà lão để cho tôi nhét bịch gạo vào giỏ của bà. Đúng lúc đó, tôi thấy bà thừ người ra, im lặng. Từ khoé mắt bà lão tôi thấy hai dòng lệ chảy xuống khuôn mặt rám nắng, nhăn nheo cuộn dính với vài sợi tóc trắng lòa xòa. Tôi chẳng hiểu vì sao bà lão khóc? Có thể vì cảm động với lòng tốt nhỏ bé của tôi, người mà bà chưa hề quen biết. Hay bà khóc vì qua tôi bà đã  trở về với hình ảnh đứa con trai út bất hạnh của bà ngày xưa? Bà lão đưa bàn tay vuốt nhẹ khuôn mặt tôi, ánh mắt mơ hồ, buồn bã nhìn tôi. Bà nói rất nhỏ:

-Tội nghiệp thằng Sáu Út của tôi quá, nó là đứa con có nghĩa với tôi lắm chú Hai.

Ngẩn ngơ nghe bà lão nói. Tôi nghĩ rằng dù là thằng Hai, thằng Ba, con Năm, con Bẩy… bất cứ một đứa con nào chết đi với bà ta, cũng như với bất cứ bà mẹ, ông cha nào trên thế gian này đều là đứa con tuyệt vời, đáng thương và tiếc nhớ nhất. Chủ quan hay khách quan?  Sai lầm hay chính xác? Chẳng còn là điều quan trọng mà cái đáng ghi nhận, đáng tôn thờ đó là lòng mẹ thương con mà ai ai cũng có. Tôi ôm lấy đôi vai bà lão, muốn gửi đến bà sự cảm thông, an ủi của tôi vì nỗi đau buồn mất mát của bà.

Rồi tôi chợt nhớ đến hai sọt quà, 5 ký gạo thơm của những người nhân viên cũ đã nhờ tôi mang biếu bố mẹ tôi đã không còn nữa, đã được tôi phân phát cho những người không quen biết, trong đó có bà lão dễ mến, đáng thương. Trong lòng tôi thoáng gợn một chút áy náy vì tôi đã không làm theo lời dặn của họ. Tôi cũng biết chắc chắn họ đã phải lựa chọn cái tốt nhất, ngon nhất trong khu vườn, thửa ruộng của gia đình họ để tặng tôi. Nhưng tôi hy vọng họ hiểu rõ con người tôi.

Tôi đã lớn lên, đi làm việc ở miền Nam, đã bao nhiêu lần có được những ân hưởng từ những tấm lòng chân thật, không tính toán của người miền Nam, ít hay nhiều tôi cũng bị ảnh hưởng cái tính phóng khoáng, chân chất của người miền Nam mà họ là tiêu biểu. Vậy có gì lạ đâu, tôi cũng như họ mà thôi. Làm sao tôi có thể chi ly khi mình đã sống và nhận được bao nhiêu sư rộng rãi của những người dân nơi đây ?! Ông Châu, ông Sáu, ông Mỹ, chị Điệp và tất cả hãy hiểu và cảm thông cho tôi.

Tôi lại nhớ đến bố mẹ tôi, chắc chắn qua hàng chục năm nuôi dưỡng, giáo dục tôi, bố mẹ tôi đã quá hiểu rõ thằng con trai, tính tình ngỗ nghịch nhưng cũng là đứa con có chút thiện tâm. Cái thiện tâm đó đã được di truyền từ chính bố mẹ tôi mang đến. Với suy nghĩ như vậy tôi chắc chắn bố mẹ tôi chẳng có gì để tiếc rẻ món quà  nhỏ nhặt của mình mà tôi đã đem tặng cho một bà lão không hề quen biết. Một bà mẹ già đáng thương, đã nhìn qua tôi mà chảy nước mắt khi nhớ đến thằng con trai út bất hạnh của bà ta, nó đã mất vào lúc còn non trẻ.

Lại một lần nữa tôi đưa mắt nhìn bà, vẫn những nếp nhăn nheo của da mặt, vẫn màu sắc sạm nắng gió mưa, vẫn vài lọn tóc trắng lòa xòa trên khuôn mặt… Tất cả là biểu tượng của sự già nua, cực nhọc in hằn trên cuộc đời bà lão. Trong lòng tôi tự nhiên hiện lên một ước mơ rất đẹp để cho thế hệ sau này sinh ra, lớn lên nơi đây không gặp phải những nghịch cảnh như tôi. Ra đi biền biệt nhưng vẫn không quên được quê nhà, người đồng hương và kỷ niệm để rồi lại tìm về mong được sống với những hoài niệm trong đời mình khi mà mái tóc đã bạc màu vì gió mưa!

(Hình minh họa: Minh Pham/Unsplash) 


 

  Khác biệt về thu nhập làm ‘Giấc Mơ Mỹ’ gần như tan biến

  Ba’o Nguoi-Viet

June 22, 2024

Thiện Lê/Người Việt

SAN FRANCISCO, California (NV) – Với tình trạng thu nhập ngày càng không đồng đều ở Hoa Kỳ, suy nghĩ “Giấc Mơ Mỹ” gần như không còn đạt được đối với rất nhiều gia đình.

Phụ nữ thường có thu nhập thấp hơn nam giới tuy cùng khả năng. (Hình minh họa: Mario Tama/Getty Images)

Những người trong nhóm 10% có thu nhập cao nhất Hoa Kỳ kiếm được $150,000/năm và có tài sản trị giá hàng triệu đô la. Trong khi đó, nhiều gia đình có thu nhập thấp đến $31,000/năm và có tài sản không đáng kể.

Giới tính và chủng tộc là hai yếu tố thường xuất hiện khi nói về tình trạng thu nhập không đồng đều. Những người làm việc trong ngành kinh tế hợp đồng, đa số là người nhập cư, chỉ kiếm được nhiều khi thấp đến $7/giờ.

Sự thăng tiến trong xã hội sau nhiều thế hệ giảm rất nhiều trong bốn thập niên vừa qua. Không chỉ vậy, nhiều người còn lo sợ công nghệ sẽ làm khoảng cách trong thu nhập ngày càng lớn hơn.

Với những lý do đó, “Giấc Mơ Mỹ” gần như trở thành một chuyện không thể đạt được với người nhập cư, không còn theo suy nghĩ chịu khó làm việc thì sẽ thành công nữa.

Đây cũng là chủ đề của hội thảo hôm Thứ Sáu, 21 Tháng Sáu, do Dịch Vụ Truyền Thông Thiểu Số (EMS) tổ chức.

Diễn giả đầu tiên là Tiến Sĩ Michelle Holder, phó giáo sư kinh tế của đại học University of New York, nói về yếu tố chủng tộc và giới tính.

Bà cho biết sự không đồng đều trong thu nhập được thể hiện qua ba cách. Cách đầu tiên là mức lương không bằng nhau trong khi khả năng như nhau, thứ hai là tỷ lệ thất nghiệp giữa các sắc dân khác nhau rất nhiều, và thứ ba là sự chia cách trong ngành nghề, có quá nhiều người làm nghề thu nhập thấp.

Về thu nhập không đồng đều liên quan đến giới tính, bà Holder cho biết Cơ Quan Thống Kê Lao Động cho biết trong năm 2023, mức lương trung vị của đàn ông là $62,000/năm, trong khi phụ nữ chỉ có $52,000.

Phụ nữ thường làm những công việc được trả lương thấp hơn đàn ông, trong đó có làm văn phòng và làm thư ký. Khi làm những công việc giống nam giới và có cùng khả năng, nhưng phụ nữ vẫn bị kỳ thị và có lương thấp hơn.

Nhiều người nhập cư có thu nhập thấp và không có tài sản như người da trắng. (Hình minh họa: Frederic J. Brown/AFP via Getty Images)

Về chủng tộc, sự khác biệt lớn nhất là giữa người da trắng và người gốc Phi Châu, với mức lương trung vị của người da trắng là $95,000/năm, trong khi đó người da đen chỉ có $48,000/năm. Khoảng cách này còn lớn hơn cả khoảng cách theo giới tính.

Theo bà Holder, phụ nữ gốc Phi Châu là một trong những nhóm người có thu nhập thấp nhất Hoa Kỳ. Nếu một người đàn ông da trắng kiếm được $1 thì phụ nữ gốc Phi Châu chỉ kiếm được 73 cent.

Sự khác biệt về thu nhập còn có ảnh hưởng từ giáo dục, những người học cao hơn thường có lương cao hơn, và cộng đồng Latino với gốc Phi Châu thường không học đại học. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là thu nhập khác biệt nhiều đến như vậy.

Vì vậy, bà nói chính phủ phải có những chính sách để yêu cầu nhiều công ty minh bạch về lương bổng, và kêu gọi phụ nữ nghiên cứu kỹ về công việc mình đang nộp đơn, liên lạc với công ty đó về lương bổng công bằng và đề nghị họ tăng thêm 5% hoặc 10%.

Tiếp theo là Tiến Sĩ Michael Reich, giáo sư kinh tế của UC Berkeley, nói về mức lương tối thiểu, tập trung vào những người làm việc theo hợp đồng như người lái xe Uber, Lyft hay những người giao thức ăn.

Ông cho hay đối với nhiều người, đó là công việc chính của họ chứ không phải nghề tay trái để kiếm thêm. California có đến 1.3 triệu tài xế xe đưa đón và người giao thức ăn, trong khi Hoa Kỳ có khoảng 10 triệu.

Tài xế xe đưa đón có thu nhập thấp vì làm việc theo hợp đồng. (Hình minh họa: Frederic J. Brown/AFP via Getty Images)

Những tài xế đó đa số là đàn ông nhập cư, có học vấn không cao, được trả lương thấp vì không phải là nhân viên chính thức mà chỉ là người làm theo hợp đồng, không có các phúc lợi đàng hoàng như bảo hiểm y tế và tiền bồi thường tai nạn nghề nghiệp.

Các tài xế còn phải bỏ nhiều tiền để tự mua xe, sau đó phải sửa xe hoặc thay xe mới sau mấy năm làm việc. Trong khi đó, họ không được trả tiền theo giờ, chỉ được trả theo từng chuyến và 30% của giờ làm việc là đợi có khách mới hay có nhà hàng cần giao thức ăn.

Vì vậy, ông cho rằng họ nên được trả tiền trong lúc đợi, còn nên được nhận tiền để mua thức ăn, sửa xe và nhiều chi phí khác. Nhưng vì nhiều tài xế là người nhập cư, không đủ khả năng và không quen biết để tìm việc làm khác, họ phải chịu đựng mức lương thấp và còn phải giành khách của người khác.

Diễn giả thứ ba là Tiến Sĩ Heidi Shierholz, chủ tịch Học Viện Chính Sách Kinh Tế, nói về ảnh hưởng của công nghệ đối với thu nhập, đặc biệt là công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI).

Theo bà, một suy nghĩ thường gặp là AI đang làm nhiều người mất việc làm, nhưng công nghệ lúc nào cũng giúp đỡ con người làm việc hiệu quả hơn, chứ không phải là kẻ thù.

Công nghệ làm tăng hiệu suất, giúp con người làm được nhiều việc hơn trong cùng một khoảng thời gian, tạo ra được nhiều sản phẩm hơn, và điều đó làm tăng thu nhập. Tuy nhiên, các công ty chưa phát triển đúng với khả năng được phần lớn là vì các chính sách chứ không phải vì công nghệ.

Tiến Sĩ Shierholz cho biết những lo lắng về AI đang đánh lạc hướng nhiều người khỏi suy nghĩ về các chính sách và quyết định của các công ty.

Phụ nữ kêu gọi công bằng trong lương bổng. (Hình: Spencer Platt/Getty Images)

Cuối cùng là Tiến Sĩ Austin Clemens, nghiên cứu viên của Trung Tâm Phát Triển Công Bằng Washington, nói về sự thăng tiến trong xã hội sau nhiều thế hệ.

Sự thăng tiến sau nhiều thế hệ có nghĩa là con cái thường kiếm được nhiều tiền hơn cha mẹ vào độ tuổi 30, và “Giấc Mơ Mỹ” có nghĩa là con cái có cuộc sống tốt hơn cha mẹ, có việc làm và địa vị tốt hơn.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ không còn sự thăng tiến sau thế hệ nhiều như trước nữa. Trong thập niên 1940 và 1950, con cái có đến 90% cơ hội kiếm nhiều tiền hơn cha mẹ, sau đó giảm xuống còn 50% trong thập niên 1980, rồi gần như biến mất trong những thập niên gần đây.

Với nhiều lý do làm người nhập cư không đạt được “Giấc Mơ Mỹ” nữa, các diễn giả cho hay thay đổi chính sách rất quan trọng, và cần có những chính sách tạo ra công việc đàng hoàng với thu nhập công bằng cho người dân. [qd]

—–
Liên lạc tác giả: le.thien@nguoi-viet.com


 

Mạng Lưới Điện Nước của Mỹ sẽ bị Tàu tấn công nếu cuộc chiến ở Đài Loan nổ ra

Tổng Hợp Báo Chí Hoa Kỳ

Các quan chức Mỹ lo ngại rằng trong một cuộc xung đột ở Đài Loan, nếu nó xảy ra thì Trung Quốc có thể sử dụng các truy cập đang gài sẵn, tiềm ẩn của mình để tiến hành các cuộc tấn công mạng gây thiệt hại nhằm vào các cơ sở hạ tầng quan trọng ở Mỹ hoặc các nước đồng minh, từ nguồn cung cấp nước và mạng lưới điện đến dịch vụ vận tải, giao thông nhằm làm gián đoạn cuộc sống và có khả năng gây thương tổn cho người dân cũng như làm ảnh hưởng đến các quần thể dân sự. 

Năm ngoái người ta tiết lộ rằng một chiến dịch  thâm nhập và tấn công mạng, được đặt danh xưng là “cuồng phong Volt”  do nhà nước Trung Quốc tài trợ đã nhắm vào một loạt mạng lưới ở Guam. ẢNH: ANTHONY HENRI OFTANA CHO TẠP CHÍ PHỐ WALL

Người đứng đầu cơ quan gián điệp điện tử chính của quốc gia, nhiệm vụ của Tướng Timothy Haugh là phải lo liệu về những nỗ lực bí mật của Trung Quốc nhằm đánh cắp dữ liệu nhạy cảm và bí quyết vũ khí của Mỹ cũng như tấn công các mạng lưới tiện ích công cộng nhằm gieo rắc sự hỗn loạn trong hậu phương của Mỹ.

“Chúng tôi thấy nó rất độc đáo và khác biệt—và cũng đáng lo ngại,” Haugh nói trong một cuộc phỏng vấn với The Wall Street Journal bên lề một hội nghị an ninh ở Singapore. “Và mối quan tâm là cả những gì đang được (Trung Quốc) nhắm mục tiêu và sau đó là nó được tiến hành như thế nào.”  

 
Trung Quốc cũng đang sử dụng các căn cứ ở Cuba để theo dõi thông tin liên lạc và thu thập thông tin tình báo trên khắp miền đông nam Hoa Kỳ, một hoạt động được gọi là tình báo tín hiệu. Đây là công nghệ liên quan và những gì Hoa Kỳ đang làm để tự vệ. Minh họa: Adam Adada

Hãng bảo vệ mạng Microsoft tiết lộ vào năm ngoái  rằng chiến dịch do nhà nước Trung Quốc bảo trợ đã nhắm vào một loạt mạng ở Guam và các nơi khác ở Mỹ, bao gồm truyền thông, vận tải, hàng hải và các lĩnh vực khác. Công ty cho biết các tin tặc có khả năng đang phát triển các khả năng có thể phá vỡ cơ sở hạ tầng liên lạc quan trọng giữa Mỹ và châu Á trong các cuộc khủng hoảng trong tương lai.  

Tướng an ninh mạng của Mỹ, Haugh nói “Nhìn rộng hơn, các cuộc tấn công mạng của Trung Quốc nhằm vào Mỹ đang gia tăng đều đặn về số lượng và mức độ phức tạp, …” Ông chỉ ra hoạt động của một công ty tư nhân Trung Quốc có tên là I-Soon,  như một điển hình cho thấy phạm vi và quy mô của các hoạt động được nhà nước hậu thuẫn cho các nhóm tin tặc.

 

Các quan chức Hoa Kỳ đã công khai chi tiết về chiến dịch nhằm cho phép các quốc gia khác và các nhà khai thác cơ sở hạ tầng quan trọng ở Mỹ hiểu mối đe dọa này trông như thế nào và cách chống lại nó. Tướng Haugh nói, tin tặc khai thác các lỗ hổng để giành quyền truy cập vào thông tin xác thực của người sử dụng, vì vậy “điều chúng tôi thực sự muốn là có thể tiếp tục tăng cường phòng thủ (chắc chắn hơn)” để gây khó khăn hơn cho chúng.

Công ty tư nhân Trung Quốc I-Soon tuyên bố đã tấn công vào hàng chục mục tiêu. ẢNH: DAKE KANG/ASSOCIATED PRESS

I-Soon tuyên bố đã tấn công vào hàng chục mục tiêu của các chính phủ, bao gồm các bộ ở Malaysia, Thái Lan và Mông Cổ, đồng thời tuyên bố đã xâm nhập vào các trường đại học ở Hồng Kông, Đài Loan và Pháp. Các tài liệu cho thấy một số khách hàng lớn nhất của họ là các văn phòng cấp địa phương và cấp tỉnh của Bộ An ninh Nhà nước Trung Quốc, Bộ Công an và Quân đội Giải phóng Nhân dân.

BÃO HOÀNH HÀNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”.

“Đôi khi Chúa làm dịu cơn bão; đôi khi Ngài để bão hoành hành và xoa dịu con cái mình!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thật hiện sinh khi chúng ta đang ở vào thời kỳ ‘bão hoành hành’ mà thế giới và Giáo Hội đang trải qua, khiến đức tin chúng ta bị thử thách. Đôi khi, như các môn đệ, chúng ta hấp tấp hỏi Chúa Giêsu, “Thầy ơi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Nếu Thiên Chúa thực sự hiện hữu, nếu Ngài là Cha, tại sao những sự việc này xảy ra?

Đối mặt với ký ức khủng khiếp của các trại tập trung trong thế chiến thứ hai, Đức Bênêđíctô 16 tự hỏi: “Thiên Chúa ở đâu trong những ngày đó? Tại sao Ngài im lặng? Làm sao Ngài có thể cho phép sự tàn sát không ngừng này xảy ra?”. Thiên Chúa sẽ không trả lời những câu hỏi này. Bạn có thể cầu xin Ngài mọi điều ‘ngoại trừ lý do’ của sự việc; bạn không có quyền bắt Ngài chịu trách nhiệm! Thực ra, Thiên Chúa đang hiện diện, đang nói. Chính chúng ta là những người ‘không hiện diện’ và do đó, không nghe Ngài. “Chúng ta không thể nhìn thấu kế hoạch huyền nhiệm của Thiên Chúa – chúng ta chỉ thấy từng phần – và sẽ rất sai lầm nếu tự coi mình là thẩm phán của Thiên Chúa và lịch sử. Khi đó, chúng ta sẽ không bảo vệ con người mà chỉ góp phần vào sự sụp đổ của nó!” – Bênêđíctô 16.

Thực ra, vấn đề không phải là Thiên Chúa không hiện hữu, mà là con người chúng ta sống ‘như thể’ Thiên Chúa không hiện hữu! Đây là câu trả lời của Ngài, “Sao nhát thế? Các con vẫn chưa có lòng tin sao?”. Đừng chất vấn Ngài; thay vào đó, hãy cầu nguyện và tôn trọng ý muốn của Ngài! Bấy giờ bi kịch sẽ ít hơn… và thật đáng kinh ngạc, chúng ta sẽ thốt lên, “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Có Chúa Giêsu trên thuyền không có nghĩa là mọi chuyện sẽ suôn sẻ. Chúng ta cần khám phá rằng, Ngài đang hoạt động cả khi ‘bão hoành hành’. Cần hỏi Ngài đang dạy chúng ta điều gì. Nếu thử thách ‘kéo’ chúng ta đến gần Ngài hơn, thì có thể đó là một ân sủng thực sự đang hoạt động. Chúng ta chưa học được rằng, “Mọi sự đều có ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa!”.

Anh Chị em,

“Thầy chẳng lo gì sao?”. Những cơn gió nào đang đập vào cuộc đời tôi? Những làn sóng nào đang cản trở định hướng của tôi khiến đời sống tinh thần, đời sống gia đình, thậm chí cả đời sống tâm lý của tôi nguy kịch? Hãy nói tất cả với Chúa Giêsu; kể cho Ngài mọi chuyện. Ngài muốn điều này! Ngài muốn chúng ta ôm lấy Ngài để tìm nơi trú ẩn trước những sóng gió bất ngờ trong cuộc đời. Hãy đến gần Chúa Giêsu, đánh thức Ngài, nói với Ngài. Đây là khởi đầu đức tin: nhận ra rằng, chỉ mình chúng ta không thể nổi; rằng chúng ta cần Chúa như thuỷ thủ cần hải đăng, cần những vì sao để tìm hướng đi. Đức tin bắt đầu từ việc tin rằng tôi không đủ cho chính mình, tôi cần Chúa. Khi vượt qua cám dỗ khép kín, vượt qua lòng đạo đức sai lầm không muốn làm phiền Thiên Chúa, để bắt đầu kêu cầu Ngài, thì Ngài có thể thực hiện những điều kỳ diệu. Chính sức mạnh nhẹ nhàng và phi thường của lời cầu nguyện mới làm nên những điều kỳ diệu ngay khi ‘bão hoành hành’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con chăm nhìn sóng, dạy con nhìn Chúa! Đừng để con bỏ Chúa một góc dưới đáy thuyền đời mình, dạy con đánh thức Chúa – người vốn hay ngủ – dậy!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

******************

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN, NĂM B

Bài trích sách Gióp.

1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:

8Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, 9khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?

10Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài ; 11rồi Ta phán : “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành !”

Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

14 Thưa anh em, tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng : nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết. 15 Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình.

16 Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. 17 Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

35 Khi ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ : “Chúng ta sang bờ bên kia đi !” 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi ! Câm đi !” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” 41 Các ông sợ hãi kinh hoàng và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” 


 

Đến một lúc…

Gieo Mầm Ơn Gọi

  1. Đến một lúc, chúng ta bỗng thông hiểu tất cả mọi quy luật của đất trời: không có gì là trường tồn bất biến, ngược lại, chính nhờ biến đổi mà chúng ta có được những điều mới mẻ tinh khôi. Chúng ta cảm thấy mọi lý luận, ngôn từ đều thừa thãi, thay vào đó chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt hoặc một tình thương nồng ấm, dẫu chỉ là của khách qua đường, cũng đủ làm cho ta ấm lòng và hạnh phúc hơn trong cuộc sống. (tri thiên mệnh)
  2. Đến một lúc, chúng ta cảm thấy ngập tràn hạnh phúc không phải vì vớt lên được cái gì đó từ dòng nước, mà chính là quăng xuống bớt để dòng nước cuốn trôi. (từ bi)
  3. Đến một lúc, chúng ta hiểu được niềm vui đích thật không phải là ở đỉnh vinh quang hay ngọn núi ngập hoa vàng, mà chính là được bước đi thảnh thơi và ngắm hoa đồng cỏ nội trên đường. (thanh thản)
  4. Đến một lúc, chúng ta cần phải dọn đất trồng hoa trên mảnh vườn của mình, hơn là mỏi mòn chờ đợi ai đó mang hương sắc đến dâng cho mình. (an nhiên)
  5. Đến một lúc, chúng ta cảm thấy rằng những việc làm thường nhật phải đem lại niềm vui cho cuộc sống hàng ngày, chứ không phải là những ép buộc hay là tập quán khô khan máy móc trong đời. (hiện sinh)
  6. Đến một lúc, chúng ta hiểu ra rằng ích kỷ thường khiến mình nhìn thấy lỗi lầm và cái xấu nơi người khác hơn là nơi bản thân (bản ngã)
  7. Đến một lúc, chúng ta cảm thấy sự tha thứ bao dung là món quà vô giá cần thiết mà con người có thể trao tặng cho nhau không bao giờ vơi. (hỉ xả)
  8. Khi chúng ta cảm nhận được rằng những khoảnh khắc tĩnh lặng nhỏ bé trong tâm hồn còn quý giá hơn cả những tài sản được cất giữ chung quanh là lúc chúng ta định được giá trị đích thật của một kiếp người. (khói trời mênh mông)

ST


 

Kính 2 thánh Gioan Fisher và Thánh Tôma More

Cuối tuần an lành. Hôm nay Giáo Hội mừng kính 2 thánh Gioan Fisher và Thánh Tôma More. Mừng bổn mạng đến những ai chọn cách ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

  1. THÁNH GIOAN FISHER, Giám Mục (1469 – 1535)

Gioan Fisher, chào đời năm 1469 tại Yorkshire, Anh quốc. Gioan tốt nghiệp Đại Học Cambridge, thụ phong linh mục vào năm 1491, và lấy bằng Tiến Sĩ Thần Học năm 1501. Sau đó, cha Gioan dạy học tai Cambridge, đồng thời cũng là cha giải tội trong hoàng cung và làm linh hướng cho nữ hoàng Margaret, mẹ của vua Henry VIII. Là một nhà giáo ưu tú, và cũng là một thần học gia, ngài thân quen với giới trí thức và chính trị thời bấy giờ, nổi bật là Erasmus và Thomas More.

Nhờ tài đức song toàn, năm 1504 cha Gioan được đặt làm hiệu trưởng trường Đại Học Cambridge, và được chọn làm Giám mục giáo phận Rochester, một giáo phận nhỏ và nghèo nhất nước Anh thời đó. Hai ngày sau, ngài được chỉ định làm thành viên trong hội đồng của hoàng đế nước Anh.

Trong suốt 30 năm coi sóc giáo phận, Giám mục Gioan đã dùng tất cả tài lực phục vụ đoàn chiên, giảng dạy lời Chúa, và đặc biệt lưu tâm đến đời sống tâm linh của các linh mục.

Là người cương trực, thẳng thắn ngài cùng với thánh Thomas More phản đối việc làm sai trái của vua Henry VIII, khi vua ly dị vợ, ly khai với Tòa thánh, lập giáo hội Anh quốc, tự xưng là thủ lãnh nên bị giam ngục mà không xét xử trong 14 tháng.

Vào năm 1535, Đức giáo hoàng Phaolô III tấn phong ngài làm hồng y, điều này khiến vua Henry VIII càng thêm tức giận và đã tìm cách vu oan ngài về tội phản quốc. Cuối cùng, vị giám mục bị kết tội và bị hành quyết vào ngày 22/ 6/1535. Ngày hành quyết, ông đòi mặc bộ y phục đẹp nhất vì “Đây là ‘ngày cưới’ của tôi!”. Mang theo cuốn Phúc Âm, ông đến bục hành hình; tại đó, ông cầu nguyện, “Lạy Chúa, xin ban cho con một lời ủi an để con có thể tôn vinh Chúa trong giờ cuối cùng của đời mình”. Và mở Tin Mừng, ông đọc, “Sự sống đời đời, là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất, chân thật; và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, Đức Giêsu Kitô”. Ông nói, “Đúng thế”; “Đây là lời đủ cho tôi sống đến giờ này”. Trong vài phút, ông đã chết. Đó là Thánh Giám mục Gioan Fisher và đó cũng là nguồn gốc lịch sử lý do ly khai của anh em Anh giáo.

  1. THÁNH THOMAS MORE (1477-1535)

Thomas More sinh tại Luân Đôn năm 1477, là một luật sư, một nhà văn, và một học giả danh tiếng. Thân phụ Thomas More cũng từng là một luật gia và là một quan tòa. Đến tuổi trưởng thành, Thomas More kết hôn, có bốn người con, và dành nhiều thời giờ cho việc giáo dục con cái.

Là người học cao hiểu rộng, Thomas More phát triển sự nghiệp mau chóng, và được chọn vào Nghị Viện khi mới 22 tuổi. Là một luật sư nổi tiếng, Thomas More gây được sự chú ý của vua Henry VIII và được chọn làm Quan Chưởng Ấn kế vị Đức Hồng Y Wolsey.

Trong thời gian vua Henry VIII nhất định duy trì lập trường của ông về vấn đề hôn nhân khi kết hôn lần thứ hai và từ chối quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng, đồng thời tuyên bố ly khai khỏi Tòa thánh, thành lập Anh giáo, Thomas More đã từ chức và kiên quyết chống lại hành động sai trái của nhà vua. Sau đó, cũng giống như Giám mục Gioan Fisher, Thomas More bị tống giam và bị kết án là phản quốc vì không công nhận Henry VIII là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh. Khoảng 15 tháng sau, ngài bị đem ra xét xử. Trước toà, Thomas More khẳng đinh rõ là ngài không thể hành động trái với lương tâm. Không muốn bị khuất phục trước sự khẳng khái và cương trực của Thomas More, toà đã kết án tử hình thánh nhân. Trên đoạn đầu đài, Thomas More tuyên bố với đám đông rằng ngài chết như “một tôi trung của nhà vua – nhưng trước hết là tôi trung của Thiên Chúa”. Ngài bị hành quyết ngày 06/ 7/ 1535.

Năm 1935, Đức Piô XI tôn phong Đức giám mục Gioan Fisher và Thomas More lên bậc hiển thánh. Vào năm 2000, Đức Gioan Phaolô II đặt Thánh Thomas More là Bổn mạng của các luật sư và chính trị gia công giáo.

Mừng lễ hai thánh Gioan Fisher và Thomas More, xin cho chúng ta luôn trung thành sống và bảo vệ đức tin. Đồng thời sẵn sàng tận dụng thời gian và khả năng Chúa ban để học biết về Chúa cũng như làm chứng cho chân lý của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. (Nt. Maria Thu Hằng, OP tóm lược)

From; Do Dzung

PHÓ THÁC – Nhạc Thánh Ca | Bảo Thy Officical

ĐẤT NƯỚC THẾ NÀO MÀ BỐ PHẢI RA ĐI – Truyen rat ngan

LƯƠNG VĂN CAN K 76.

Kimtrong Lam  

THƯƠNG… Ít ngày qua, đoạn clip ghi lại cảnh một bé gái khóc nấc, ôm giữ chân bố ngoài sân bay đã khiến cho nhiều người quan tâm và xúc động trước câu chuyện đằng sau nó.

Theo đó, nhân vật người bố trong đoạn clip là anh Cường (30 tuổi, Bắc Giang) đang làm thủ tục để chuẩn bị lên máy bay sang Nhật làm việc. Hơn 2 năm qua, anh là bố đơn thân, một mình làm đủ nghề để nuôi con nhỏ. Tuy nhiên, làm các công việc vất vả mà chỉ kiếm được ba cọc ba đồng nên anh quyết định đăng ký sang Nhật làm việc theo diện thực tập sinh. Còn cô con gái nhỏ 7 tuổi anh để lại quê nhà, nhờ bố mẹ chăm nuôi giúp.

“Thấy con như vậy, tôi cũng xót lắm. Đi thì tội con, nhưng ở lại thì không có t.iền lo cho tương lai của cháu. Là một người bố, tôi cũng không dễ dàng quyết định được việc đánh đổi được thời gian bên con để đổi lấy điều kiện tốt hơn cho cháu”, anh Cường nói.

Kể lại khoảnh khắc thấy con gái òa khóc, ôm chặt chân bố, anh Cường bộc bạch, bản thân đã không kiềm được cảm xúc và khi sang Nhật anh cũng phải đấu tranh tâm lý hàng đêm vì nỗi nhớ con quá lớn.

Theo báo: Dân Trí